Đừng biến mảnh vườn xanh xưa thành mồi ngon lửa dữ
khói lửa dậy mười phương
hoảng hốt cuồng phong
thương đau ngập tràn về sông núi
khóc các anh
thương các em
tôi còn đây, hồn và xác bồn chồn như đứng trên đống lửa
mẹ thương đau, chiều rám hồng
lòng như sa mạc, mắt khô không tìm ra lệ khóc
chiều nay em về đâu?
bên hông tôi súng nổ
lửa tên làm mẹ ruột gan bời bời héo hắt
mái tóc điểm sương bao nhiêu lần ẩn nhục,
bao đêm chong đèn cầu cho mưa tạnh gió êm?
tôi biết chiều nay chính em sẽ bắn tôi
để lại vết thương cho mẹ ôm ấp ngàn đời nhức nhối
ôi tàn ác những ngọn cuồng phong từ phương nao thổi tới
làm cho nhà tan cửa nát,
ra đi, ruộng vườn khô cháy
ngoảnh nhìn lui, ruột thắt gan khô
ngực tôi đây, em bắn đi.
mạch máu của mẹ truyền cho đây, em cắt đi.
để mà xây dựng nên lâu đài em mơ ước
anh nhân danh ai
em nhân danh ai
ôi hãy trở về nghe lời ru của mẹ
thương yêu ngọt bát canh tần.
những đêm bên ướt mẹ nằm
bên ráo con lăn,
từng miếng cơm nhai
từng bầu sữa cạn
bao nhiêu ngày
bao nhiêu tháng
bao nhiêu năm
lo lắng cho con nên hình nên vóc
sáng nay một viên đạn đồng làm anh ngã gục
một viên đạn đồng ghim vào giữa tim, thân em lăn lóc
mẹ sống làm sao được nữa, con ơi?
chị sống làm sao được nữa, em ơi?
thương đau chừng nào vơi, bên cạnh đĩa dầu hao xóm cũ?
anh nhân danh ai
em nhân danh ai
ôi hãy trở về quỳ sám hối dưới đôi chân mẹ
đừng biến mảnh vườn xanh xưa thành mồi ngon lửa dữ
gió cuồng tàn bạo tha phương
ngực tôi đây, anh bắn đi.
mạch máu của mẹ truyền cho đây, anh cắt đi.
để mà xây dựng nên lâu đài anh mơ ước
Mẹ là tình thương
Mẹ không là chủ nghĩa
tình thương, mái tranh nghèo có cả anh em ta
và chủ nghĩa, bức trường thành máu lửa.
Mẹ không có phe, đừng tự nhận anh về phía mẹ
Mẹ không có phe, đừng tự nhận em về phía mẹ
Mẹ không có phe
ôi tôi thấy dáng điệu cầu xin xót thương rơi máu,
Mẹ đang chắp tay cầu khẩn anh em ta
trưa nay tôi gục đầu trên miếng tre xanh lịch sử
tình thương nơi ta, anh ơi, hình như sắp chết
tình thương nơi ta, em ơi, hình như đã chết
và như vậy, người mẹ hiền thân yêu sẽ chết
công trường máu lửa ta xây, sẽ là của ai đây?
Bài này được in lần đầu ở báo Hải Triều Âm số 18 ra ngày 26 tháng 8 năm 1964. Những bài thơ chống chiến tranh như bài này được đăng tải lần đầu tiên trên tuần báo Hải Triều Âm do Thầy làm chủ bút. Tờ báo này hồi đó bán chạy lắm, in mỗi tuần tới 50.000 số. Thầy Châu Toàn lúc ấy làm thư ký tòa soạn. Trong số những thi sĩ cộng tác với Hải Triều Âm hồi đó còn có Vũ Hoàng Chương, Trụ Vũ (anh Trụ Vũ có ký tên là Trần Đông Phương), Vi Khuê và Tuệ Mai. Thầy Châu Toàn rất thân cận với các thi sĩ Vũ Hoàng Chương và Trụ Vũ. Trong một bữa cơm chay tại chùa Trúc Lâm và tháng 8 năm 1964, anh Vũ Hoàng Chương nói với thầy Châu Toàn rằng trong khi nhóm Sáng tạo đề cao thơ tự do thì người thành công về thơ tự do lại là thầy Nhất Hạnh chứ không phải là những thi sĩ của nhóm Sáng tạo. Tôi không biết nói sao cho phải bởi vì tôi chưa được đọc thơ của những người như anh Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Lúc này, tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện còn chưa được xuất bản và Vũ Hoàng Chương chỉ mới đọc được những bài đăng trên Hải Triều Âm của Thầy như bài Xóm mới, Aster, Lửa đốt em tôi, Bướm bay vườn cải hoa vàng, Trường ca Avril, Đừng biến mảnh vườn xanh xưa thành mồi ngon lửa dữ và Ruột đau chín khúc… mà thôi. Tôi nghĩ là Vũ Hoàng Chương chưa từng đọc thơ của thầy Nhất Hạnh trên các tạp chí Phật giáo từ 1949 đến 1963.
Bản Anh văn của bài thơ này cùng với bản Anh văn của bài thơ Thông điệp và bài Hòa bình là do chính Thầy dịch để trao cho tờ The New York Review of Books – một tờ tuần báo rất nổi tiếng tại Hoa Kỳ, theo lời yêu cầu của ông I. F. Stone. Đây là lần đầu thơ Thầy được một tờ báo lớn như vậy mua nên Thầy thích và có nhắc cho chúng tôi nghe.