Bàn tay, bàn tay
đêm trên thành phố lạ
vùng trời bình yên
hiền từ biết mấy
đám mây bay
trên một rừng sao trăng
cơ man ánh đèn đêm đô thị
còn vùng trời quê hương tôi
gió nín thinh
tiếng xé không gian
B52
suốt ngày đêm đe dọa
lúa không dám chín
mạ không dám xanh
rừng loang lổ đầy mình
những đám cháy đen
và núi cây từng mảng đau bom đạn
những con sông hiền từ
run rẩy
những phiên chợ chiều
tắt ngấm
đòn gánh buồn trĩu nặng
tiếng trực thăng
nhưng hãy còn
uy hùng Cửu Long giang
hò reo hải triều âm sáng mai này bừng dậy
hãy cho tôi
bàn tay em gang thép
quê hương
đêm nay
đợi chúng ta
đưa thoát lửa bạo tàn.
Từ 1970 đến 1972, đi diễn thuyết các nơi về đau thương của chiến tranh, tôi thường có dịp ngâm bài này bằng giọng Nam. Đây là một trong những bài thơ chống chiến tranh mà tôi rất ưa; tôi đã từng chứng kiến tận mắt những vùng núi rừng bị cày lên từng mảng đau bom đạn. Tại những miền đồng ruộng thuộc các tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, quả thật là lúa không dám chín và mạ cũng không dám xanh, vì không ngày nào vắng bóng phi cơ oanh tạc. Không hiểu sao tôi lại có đức tin mãnh liệt là hễ mình đi làm việc cứu trợ thì bom đạn phải né tránh mình. V ì thế mà lần nào ra dạy học ở miền Trung tôi cũng tổ chức đi cứu trợ: nhiều lần ghe chúng tôi bị kẹt giữa những cuộc đụng độ mà trong chúng tôi, chưa hề có người nào bị thương…