Bướm lạc quê hương
lá tía tô
hương mùa thu mới chín
chim hót lá xanh
trời mây bình lặng
một buổi sáng hiền, chim câu xòe đôi cánh
hòa bình
trẻ thơ vươn tay ôm lấy
nụ cây mừng giọt nắng
hoe vàng sân cỏ rộng
mười năm
bướm lạc quê hương.
Ở Phương Vân am, tác giả trồng đủ các thứ rau thơm: húng, tía tô, kinh giới, ngò, quế, persil (mùi tây), céleri (cần tây), ciboulette (hành, hẹ)… cộng với các thứ rau tần ô, cải cay, cải ngọt, bí ngô… Vườn rau của Phương Vân am giống hệt một vườn rau của quê hương, nhất là khi hoa cải nở vàng và bươm bướm bay đầy vườn. Mỗi khi đi đâu xa hơi lâu là Thầy nhớ khu vườn. Ở xa, trời nóng, nâng cốc nước lọc trên tay giải khát Thầy cũng nhớ đến những luống rau thơm:
cốc nước lọc trên tay
nắng đã mấy hôm
ngoài trăm dặm
mấy luống rau thơm
đợi tôi về
tưới mát
Có một chú bé mười hai tuổi tên là Long và hai cô bé sáu tuổi và bảy tuổi là Minh Tâm và Thanh Thủy thường đến chơi và ở lại. Buổi sáng bốn ông cháu hay ra vườn. Thủy và Tâm chạy chơi trong nắng, còn Long thì giúp Sư ông nhổ cỏ, vun bón và tưới tẩm khu vườn. Thầy thường đặt bài hát mới cho chúng hát. Bài hát nào cũng có mặt của khu vườn: cây mướp, cây cà, con ốc, con sâu, trái bí, bông hồng.
Trong một bài hát Thầy viết riêng cho lũ “người lớn” của chúng tôi hát, có một bài mà trong đó có mặt nhiều thứ rau thơm:
đất mẹ cho em hương quế, tần ô,
tía tô, cây húng, cây ngò huyền diệu
mai đây xanh tươi núi đồi quê hương
mai đây lộc đời lên nhanh
ngọt lời ca dao, toàn dân ca hát
ngọt lời ca dao, màu xanh đưa bước chân người…