Đừng bỏ gốc rễ

Thầy Làng Mai:

“Kính thưa các bạn, tôi đã từng có dịp đọc Phúc Âm với con mắt của một thiền sư. Chúng tôi đã từng có giao lưu với các linh mục và các vị mục sư. Chúng tôi đã từng sinh hoạt chung, những sinh hoạt này không phải chỉ là trao đổi ý kiến và kinh nghiệm mà còn là sống chung và tu tập chung. Chúng tôi xin phát biểu trên cơ bản đó. Chúng tôi cũng đã tham dự nhiều buổi họp, nhiều hội nghị đối thoại giữa đạo Phật, đạo Ki Tô và những đạo khác.

Tôi nhớ ngày xưa có một thiền sư Việt Nam đã đọc kinh Dịch và đã trình bày kinh Dịch theo cái nhìn của một thiền sư. Ngày xưa tôi đã hứa với một số các bạn trẻ là sẽ trình bày Phúc Âm qua cái nhìn của thiền quán và may mắn là tôi đã làm được việc đó. Trong thời gian 40 năm ở nước ngoài, chúng tôi đã từng ngồi thiền với các vị linh mục và các vị mục sư. Chúng tôi đã cùng hoạt động cho hòa bình, và trong khi hoạt động cho hòa bình chúng tôi có cơ hội chia sẻ với nhau những tuệ giác của chúng tôi về truyền thống mình.

Trong quá trình giao lưu, tôi có viết được những tác phẩm có tính cách đối thoại giữa những người theo Phật giáo và những người theo Ki Tô giáo. Cuốn sách đầu tiên mà chúng tôi xuất bản về đề tài này là “Living Buddha, Living Christ”. Bản Hoa Ngữ mang tên là “Sinh Sinh Ki Tô, Thế Thế Phật” dịch ra tiếng Việt là: “Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời”, nghĩa là “Bụt Bất Tử, Chúa Bất Tử.” Cuốn sách đó là kết quả của một khóa tu mà chúng tôi tổ chức tại Đức, trong đó có 50% là Phật tử và 50% là tín hữu Ki Tô giáo.

Chúng tôi đã gom lại những bài thuyết giảng và làm thành cuốn sách Living Buddha, Living Christ. Cuốn sách này đã đi rất xa, đã đi vào các tu viện kín và chúng tôi cũng đã nhận được rất nhiều thư của các Cha và các Sơ từ các tu viện kín. Cuốn sách đó giúp cho người Phật Tử hiểu thêm đạo Ki Tô và giúp người Ki Tô hiểu thêm về đạo Phật. Công đức của sách này rất lớn. Ban đầu người ta đọc chỉ vì tò mò thôi, nhưng nhờ sự tò mò đó mà có cơ hội hiểu được một nền đạo đức mà lâu nay mình chỉ có một ý niệm mơ hồ. Sau cuốn Living Buddha, Living Christ thì chúng tôi có cuốn Going Home, Buddha and Jesus as Brother. (Chúng ta hãy về nhà đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em). Sách này cũng được đón nhận một cách rất nồng nhiệt ở trong giới độc giả Tây Phương, Phật Tử cũng như Cơ Đốc giáo.

2007 04 30 thăm nhà thờ Pháp Diệm - tăng thân Làng MaiỞ Mai Thôn Đạo Tràng tại Pháp, mỗi năm đến ngày giáng sinh, chúng tôi luôn luôn tổ chức lễ Giáng Sinh rất long trọng, tại vì đa số các thiền sinh đều có nguồn gốc Ki Tô giáo. Ngày giáng sinh rất nhiều thiền sinh Tây phương về Đạo Tràng Mai Thôn như con cháu về nhà tổ phụ. Vì vậy vào đêm Giáng Sinh tôi luôn luôn giảng một bài về Phật và về Chúa.

Tôi nhớ có một linh mục tên là Thomas Kwan người Hồng Kông đã được nghe một bài như vậy và vị linh mục này thấy rất tiếc, vì hôm đó chỉ có 600 người được nghe. Linh mục nói: “Tất cả các tín hữu Cơ Đốc giáo trên thế giới phải được nghe bài này. Để có thể thấy rõ Chúa và con đường của mình hơn”. Tôi đã sưu tập được 10 bài giảng Giáng Sinh như thế, làm được cuốn sách thứ hai gọi là “Chúng ta hãy về nhà đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em”. Rất tiếc là hai cuốn nói trên chưa được dịch ra tiếng Việt.

Những người đến với chúng tôi trong các khóa tu tại Mỹ Châu và Âu Châu, đại đa số là những người tín đồ Công giáo, Tin Lành và Do Thái giáo. Chúng tôi khuyên họ không nên bỏ đạo gốc của mình. Chúng tôi biết do kinh nghiệm khi một con người mất gốc thì người đó không bao giờ có hạnh phúc thật sự được. Vì vậy khi họ tới thực tập theo pháp môn của đạo Phật chúng tôi yêu cầu họ đừng bỏ gốc rễ của họ và khuyên họ sau khi tu tập thành công rồi, khi đã chuyển hóa được những bức xúc, khó khăn và giận hờn rồi thì hãy về với truyền thống của mình và hãy giúp truyền thống mình làm mới lại.

Thanh niên bây giờ thấy được là giáo đường, nhà thờ chưa cung cấp được những giáo lý và những thực tập có thể đáp ứng được những khổ đau, những bức xúc của họ. Vì vậy không chỉ đạo Phật phải làm mới mà đạo Ki Tô cũng phải làm mới thì mới đáp ứng được những nhu yếu của người trẻ hôm nay. Giới trẻ hôm nay bỏ nhà thờ mà đi rất đông.

Điều tôi nói cũng rất trung thực với giáo lý của Phật tại vì Phật giáo luôn luôn có thái độ rất cởi mở, phá chấp. Mình không nên bám víu một giáo điều cho đó là chân lý tuyệt đối và để rồi xem các giáo lý khác là tà đạo. Vì vậy thái độ của người Phật Tử là giang tay ra ôm lấy tất cả mọi người. Tình yêu trong đạo Phật là “Từ, Bi, Hỷ, Xả.” Xả có nghĩa là inclusiveness, không loại trừ bất cứ người nào ra khỏi tình thương của mình, dù người đó không phải là đồng bào của mình, không phải theo tôn giáo của mình. Tiếng pháp dịch là équanimité.

Tôi quyết hành động theo tinh thần này tại vì hồi xưa các giáo sĩ tới Việt Nam truyền đạo đã bắt người Việt mình phải bỏ đi tôn giáo gốc của mình và điều đó đã gây đau khổ kkhông ít. Những người có gốc gác Cơ Đốc giáo tới tu tập với chúng tôi rất hạnh phúc vì họ có cảm tưởng là họ được công nhận 100%, họ không cần phải từ bỏ niềm tin của họ, gốc gác văn hóa của họ. Sau một thời gian thực tập, họ có thể thấy, khám phá ra được những châu báu trong truyền thống của họ mà trước đây họ chưa thấy. Nhờ tiếp xúc với đạo Phật mà họ trở về và khám phá ra những châu báu trong các gia sản tâm linh ở Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo. Điều đó làm chúng tôi rất vui mừng.

Chúng tôi thường hay nói với các bạn Cơ Đốc giáo là cõi Tịnh Độ hay cõi Niết Bàn có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta có trái tim tinh khiết, trái tim có năng lượng của niệm, định và tuệ, nếu chúng ta có mặt đích thực trong giây phút hiện tại thì chúng ta có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của thế giới Cực Lạc, của Tịnh Độ có mặt ngay trong giây phút hiện tại.

Chúng ta không cần phải chết đi mới sinh về Tịnh Độ, mà có thể đi vào trong Tịnh Độ bằng mỗi bước chân, ngay bây giờ và ở đây. Giáo lý ấy được thực tập tại Mai Thôn Đạo Tràng, và chúng tôi cũng đã chia sẻ cho các bạn Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo. Chúng tôi nói rằng các bạn không cần phải chết đi mới đi về nước Chúa. Nếu các bạn có tình thương, có ý thức sáng tỏ, có tâm rộng mở thì mỗi hơi thở và mỗi bước chân có thể đưa các bạn vào nước Chúa trong giây phút hiện tại. Thiên Quốc có mặt trong giây phút hiện tại.

Trong đạo Phật các vị tổ có nói rằng Tịnh độ và Phật nằm trong trái tim của mình. Phúc Âm cũng nói như thế, Thiên Quốc nằm trong trái tim của mình và vì vậy mình đi tìm thiên quốc hay tịnh độ nơi khác và thời khác thì có thể sai. Khoa học lượng tử bây giờ bắt đầu dùng danh từ phi cục bộ, tiếng Anh là “non-local”. Cái thực tại lượng tử là phi cục bộ, chúng ta không thể nào xác định vị trí của một lượng tử trong thời gian hoặc không gian. Bản chất của lượng tử là phi cục bộ. Chúng tôi nghĩ rằng ngôn ngữ ấy chúng ta có thể áp dụng cho Phật Độ và cho Thiên Quốc.

Thượng Đế hay Thiên Quốc là những thực tại phi cục bộ, chúng ta không thể xác định vị trí của nó trong không gian và thời gian, tại vì nó nằm trong trái tim của mình. Khi trái tim của mình đã sẵn sàng rồi thì là mình đang ở trong Thiên Quốc, đang ở với Thượng Đế, không cần phải trông chờ điều đó trong tương lai. Chúng ta tu như thế nào, thực tập như thế nào để Thiên Quốc có mặt trong giây phút hiện tại. Chúng ta tu như thế nào, thực tập thế nào để tịnh độ có mặt trong giây phút hiện tại. Và hạnh phúc không cần chờ đến tương lai. Hiện pháp lạc trú là một giáo lý Phật giáo.

Nhà văn André Gide có nói một câu làm tôi rất thích. Ông nói Thượng Đế tức là hạnh phúc (Dieu est bonheur). Và ông nói thêm một câu nữa: “Thượng Đế có mặt cho chúng ta 24 giờ một ngày …”. Những câu nói đó rất phù hợp với giáo lý đạo Phật. Nếu chúng ta đi sâu vào Phúc Âm, chúng ta cũng thấy chân lý đó, nghĩa là nếu chúng ta đem tâm trở về với thân mà nhận diện được tất cả những cái mầu nhiệm đang có mặt trong ta và xung quanh ta thì lúc đó ta đang ở trong Thiên Quốc và ta đang tiếp xúc sâu sắc với Thượng Đế. Nếu nhà thờ và nhà chùa có thể cung cấp được những giáo lý đó và đưa ra những phương pháp thực tập để con người có thể sống an lạc và hạnh phúc trong giây phút hiện tại thì người ta sẽ không cần đi tìm hạnh phúc ở sắc dục, tiền tài và danh vọng.

Trong Phúc Âm có câu chuyện một bác nông phu khám phá ra được một kho tàng chôn giấu ở trong một đám ruộng và sau đó đi về và bán đi những khu ruộng khác để chỉ mua một đám ruộng đó. Khi chúng ta đã tu và tiếp xúc được với nước Chúa và Chúa rồi thì chúng ta đâu cần những cái khác nữa, chúng ta đâu cần danh, không cần lợi, không cần sắc dục, không cần quyền lực, vì chúng ta đã hạnh phúc chán. Vì vậy cái giáo lý nào và sự thực tập nào giúp cho ta tiếp xúc được với Thiên Chúa trong giây phút hiện tại thì đó là kho tàng châu báu của chúng ta. Hạnh phúc ấy chúng ta có thể đạt được trong giây phút hiện tại, không cần phải chết đi mới có.

Nói chuyện với các bạn Do Thái giáo và Ki Tô giáo chúng tôi cũng chia sẻ cách thực tập, mỗi hơi thở mỗi bước chân của mình có thể đưa mình vào Thiên Quốc mà đừng trông chờ Thiên Quốc ở tương lai. Tôi nhớ có một lần thăm viếng Đại Hàn tôi được tham dự vào một buổi giao lưu giữa người Ki Tô giáo và người Phật tử: đó là lần đầu tiên mà người Phật tử và người Cơ Đốc giáo tới với nhau.

Tôi có đưa ra vấn đề có những thanh niên thiếu nữ khác tôn giáo yêu nhau. Bên này bắt bên kia phải bỏ đạo, phải chọn lựa. Đó là một vấn đề còn tồn tại ở nhiều nước và ngay trong nước Việt Nam chúng ta. Và biết bao nhiêu cặp thanh niên thiếu nữ đã đau khổ tại vì thế. Tôi nghĩ rằng một người có thể rất hạnh phúc khi có hai gốc rễ, một gốc rễ Cơ Đốc giáo và một gốc rễ Phật giáo. Hai cái đó không nhất thiết phải loại trừ nhau. Tại vì mình hẹp hòi cho nên mình mới thấy hai cái khác nhau chống đối nhau. Nhưng nếu mình vượt lên, thấy được hai truyền thống có thể bổ túc cho nhau thì mình sẽ có một thái độ cởi mở hơn.

Trong số các đệ tử của tôi có rất nhiều các thầy các sư cô có gốc Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo, nhưng họ hạnh phúc vô cùng khi được tu tập và ôm ấp luôn cả hai truyền thống. Ngay trong phái đoàn của chúng tôi có mặt hôm nay có một vị đại đức ngày xưa đã từng làm linh mục. Vị linh mục đó tới với đạo Phật và khám phá ra những phương pháp thực tập rất thiết thực có thể thực hiện được lý tưởng của Cơ Đốc giáo.

Chúng ta thấy có hai gốc rễ đôi khi lại hay hơn có một gốc rễ và vì vậy ngay trong đại hội đó tôi đã đề nghị khi hai thanh niên yêu nhau, một người thuộc về Cơ Đốc giáo, một người thuộc về Phật giáo thì cả hai gia đình nên cho họ cưới nhau với điều kiện hai bên công nhận truyền thống của người bên kia và nếu người con trai là Cơ Đốc giáo và người con gái là Phật giáo thì người con gái phải học thêm Cơ Đốc giáo và người con trai phải học thêm Phật giáo. Và đến ngày chủ nhật thì hai người cùng đi nhà thờ, đến ngày mồng một và ngày rằm thì hai người cùng đi Chùa. Và điều đó là điều chúng tôi đã thực hiện được ở Tây phương. Tại sao chúng ta phải để cho các bạn trẻ tiếp tục đau khổ năm này qua năm khác? Và đó là tinh thần cởi mở mà chúng tôi đã thấy được rõ ràng khi đọc kinh Phật và kinh Thánh. Hôm nay tôi xin nói ra vài cái thấy của tôi cũng như một món quà hiến tặng quý vị có mặt ở đây”.

Sư cô Chân Không hỏi:

Như Thầy Làng Mai đề nghị tức là khi một người Công giáo và một người Phật giáo thương yêu nhau thì người Phật tử nên học hỏi những gì tinh ba nơi Công giáo và gia đình phải đi nhà thờ vào những ngày chủ nhật và đi chùa vào mồng một và ngày rằm. Con xin hỏi là quý vị linh mục có chấp nhận được như vậy không? Hay là người Phật tử chỉ phải theo đạo của người chồng, phải làm lễ rửa tội và phải từ bỏ đạo Phật? Con xin hướng câu hỏi này về cho các vị tôn đức bên phía Công giáo.

Cha Phạm Ngọc Khuê trả lời:

“Đây là một câu hỏi có thể nói là thật sự rất tế nhị và rất thời sự. Trước hết tôi xin được nêu lên nguyên tắc về giáo luật và kinh thánh. Thiên chúa không bao giờ ngăn cản con người tự nguyện, nhất là trong việc hôn nhân gia đình thì không có bao giờ ngăn cản hai người thương yêu nhau. Giáo hội không bao giờ chặn ngăn hai người nam nữ yêu thương và tiến tới hôn nhân với nhau, điều đó là chắc chắn thuộc về giáo luật, không ai có quyền ngăn cản tình yêu của họ, vì đó là tuyệt đối. Nhưng tại sao lại giữa nam nữ tín đồ các tôn giáo khác nhau lại xảy ra những vấn đề mà người ta chưa đi đến chỗ kết hôn với nhau thì do đâu?

Trong thực hành việc phục phụ hôn phối, đối với anh em trong Công giáo chúng tôi, đối với danh Chúa, đối với người tín đồ Công giáo cũng như giáo hội thì chúng tôi không bao giờ đặt vấn đề là phải trở thành người Công giáo thì mới có thể cưới (nhau) về phía Công giáo của mình (trở thành vợ chồng). Không bao giờ có vấn đề đó, chúng tôi luôn luôn tôn trọng tình yêu của họ. Và tôi nói với người nam hoặc người nữ là tình yêu của các anh chị là tình yêu tuyệt đối và chúng tôi tôn trọng. Tuy nhiên khi hai người quyết định yêu thương nhau thì đức tin của người tín đồ Ki Tô giáo cũng như Phật giáo phải được tôn trọng bởi sự tự do của họ.

Cũng như Thầy Thích Nhất Hạnh đã nói là họ phải sống cội rễ của họ thì họ mới thấy hạnh phúc. Và cái việc họ được chịu phép rửa tội là hoàn toàn tự do. Cho nên giáo hội chỉ nói một điều này. Khi tiến tới hôn nhân thì hai người phải hứa là tôn trọng quyền lợi của nhau và niềm tin của mỗi người, và không được vi phạm. Vì vậy về phía tín đồ tôn giáo khác phải cam đoan, có thể nói là tuyên thệ tôn trọng niềm tin vì đó là lãnh vực thiêng liêng và tự do tôn giáo, không ai được can thiệp. Tôn trọng niềm tin của tín đồ thiên chúa giáo, không được ngăn cản. Nếu họ giữ được như thế thì cuộc hôn phối đó được tốt đẹp và thành sự trước mặt Chúa và trước luật pháp.

Luật thì như vậy, nhưng trong thực tế thì không luôn luôn được xảy ra như vậy. Hoàn cảnh của Việt Nam thì khác nữa, nghĩa là trong hoàn cảnh rơi rớt của chế độ phong kiến vẫn còn nhiều cho nên quý vị biết rõ là ở Việt Nam người nam có quyền hơn người phụ nữ. Mặc dù họ hứa như vậy, nhưng khi về nhà mà hai vợ chồng không hòa thuận với nhau, cơm không lành, canh không ngọt khi họ sống chung với nhau và nếu như có chiến tranh trong gia đình thì họ đổ lỗi trên đầu tín đồ của mình, hoặc người Ki Tô giáo hoặc người Phật giáo, tôi không nói là về phía này hay phía kia.

Nếu người chồng có quyền thì sẽ buộc người vợ không theo tín đồ của mình, theo tôn giáo của mình nữa, và có thể gây khó khăn trong gia đình. Chính vì vậy mà Giáo Hội đặt ra điều kiện là nếu một người tín đồ tôn giáo khác lấy một người Công giáo, rồi sau đó người tín đồ tôn giáo khác đó không giữ lời tuyên thệ trung thành thì người tín hữu Công giáo có thể trình lên thẩm quyền nguồn Thánh, có thể tháo cái hôn phối mà người ta đã cam kết chỉ vì nếu nó đe dọa đến niềm tin tự do của tín đồ thì giáo hội phải bảo vệ con cái của mình. Quý vị phải hiểu đây không phải là bắt buộc phải làm.

Các gia đình đó là do truyền thống của gia đình, hoàn cảnh của gia đình muốn con cái của mình giòng sớ, cũng như quý cô, quý ông bà cũng như quý vị muốn cho gia đình mình cùng một chiều cho dễ, để việc đó cho dễ hơn. Về phía giáo hội thì không đứng ra ngăn cản việc hôn nhân của họ. Xin quý vị hiểu rõ là về luật giáo không ép buộc người ta bỏ tôn giáo của mình mà ngược lại là buộc một trong hai người phải tôn trọng tôn giáo của nhau. Phải dành ưu tiên nhất cho người bạn đời theo tôn giáo đó để thực hành niềm tin tôn giáo mà không ngăn cản họ giữ đức tin riêng của họ.

_______________

Ngày 30 tháng 04 năm 2007 nhân dịp Thầy và phái đoàn Làng Mai viếng thăm nhà thờ Phát Diệm ở Ninh Bình, Thầy Làng Mai đã có lời phát biểu sau đây về vấn đề gốc rễ, và sau đó là lời đáp của Linh Mục Phạm Ngọc Khuê.

Đối tượng cầu nguyện

Trong Cơ-đốc giáo cũng như trong đạo Bụt, chúng ta biết rằng đối tượng mà chúng ta cầu nguyện đang nằm ở trong ta chứ không phải ở ngoài ta. Bụt nằm ngay trong trái tim của ta, mà Thượng đế cũng nằm trong trái tim của ta. Nghĩ rằng Bụt và Thượng đế ở ngoài ta là một sự sai lầm, không phải chỉ sai với giáo lý đạo Bụt, mà còn sai với Kinh Thánh của đạo Cơ-đốc nữa.

Làm sao ta chạm tới được Thượng đế? Làm thế nào để ta gởi được cái năng lượng của ta về Thượng đế, để xúc tác được với năng lượng của Thượng đế, và để cho cái năng lượng vô cùng vô biên đó chuyển động cái tình trạng của ta? Người thương của chúng ta đang bị đau khổ, đang bị hiểm nguy, chúng ta cần bao bọc người thương của chúng ta bằng những năng lượng lành để người đó được che chở và có sức vượt qua được cơn hiểm nguy. Chúng ta cần có những giúp đỡ đó cho nên chúng ta mới cầu nguyện.

Khi cầu nguyện, muốn chạm tới được Thượng đế, chúng ta có thể dùng một trong ba cái chìa khóa đó tên là Vô thường, Vô ngã và Niết bàn.

Ai mà không chấp nhận sự thật vô thường? Người đạo Bụt chấp nhận vô thường, mà người đạo Chúa cũng chấp nhận vô thường. Nhờ vô thường mà mọi thứ đều trở nên có thể!

Vô ngã là một mặt khác của vô thường. Sự vật là vô thường, biến chuyển và không có một thực thể riêng biệt, một cái ta độc lập. Chúng ta đã học rằng người cầu nguyện và người được cầu nguyện đều không có một cái ta riêng biệt. Thượng đế có đó vì ta có đây. Nếu không có ta ở đây thì làm sao ta biết rằng Thượng đế có đó? Cho nên cái nguyên tắc vô ngã này là một chìa khóa rất mầu nhiệm, nó mở ra cho chúng ta những cánh cửa rất lớn.

Chìa khóa thứ ba là Niết bàn. Niết bàn là gì? Niết bàn có phải là một thực thể tách biệt ra khỏi thế giới sanh tử mà chúng ta đang sống đây hay không? Niết bàn và sanh tử có phải là hai cái biệt lập hay không? Theo cái chìa khóa thứ hai thì Niết bàn và sanh tử, tuy gọi là hai nhưng kỳ thực là một. Cũng như sóng và nước. Sóng khác với nước. Nhưng ngoài sóng không có nước, ngoài nước không có sóng. Vì vậy cho nên đứng về phương diện hiện tượng thì chúng ta gọi nó là thế giới sinh tử, nhưng đứng về phương diện bản chất thì chúng ta gọi nó là Niết bàn.

Chúng ta hãy nhìn sâu hơn để biết làm thế nào mà tiếp xúc được với Thượng đế. Nhiều nhà thần học Ki-tô giáo nói rằng Thượng đế là nền tảng của hiện hữu. God is the ground of beings. Một trong những người đó là Paul Tillich thần học gia người Đức. Theo định nghĩa đó, nếu Thượng đế là bản chất của hiện hữu, là nền tảng của hiện hữu, thì hiện hữu là gì? Hiện hữu là những sáng tạo phẩm của Thượng đế. Như vậy thì làm thế nào để tiếp xúc với Thượng đế nếu ta không tiếp xúc được với tạo vật?

Chúng ta có hai chữ Creator là tạo hóa và Creature là tạo vật. Chúng ta chỉ có thể tiếp xúc được với Thượng đế qua tạo vật mà thôi. Cũng như chúng ta chỉ tiếp xúc được với nước qua sóng mà thôi. Vì vậy cho nên trong khi cầu nguyện, chúng ta có thể tiếp xúc với thế giới hiện tượng. Hiện tượng nào cũng mang theo bản chất ở trong nó.

Nếu chúng ta biết tiếp xúc sâu sắc và nhận diện cái tính cách vững chãi thảnh thơi và mầu nhiệm của những hiện tượng đó, thì qua thế giới hiện tượng, chúng ta có thể tiếp xúc được với thế giới của bản thể, thế giới của niết bàn của Thượng đế.

Trong chúng ta, có những người cầu nguyện không được thành công lắm, là tại phẩm chất của sự cầu nguyện của họ còn yếu kém. Mình không nói phẩm chất của lời cầu nguyện mà mình nói phẩm chất của sự cầu nguyện. Tại vì cầu nguyện theo đúng phương pháp là phải thân, khẩu, ý hợp nhất. Cho nên đây không phải chỉ là lời cầu nguyện mà là tâm cầu nguyện.

Cho nên đừng đi tìm một Thượng đế trừu tượng, đừng cầu nguyện Thượng đế như một ý niệm trừu tượng. Đó là một điều rất quan trọng. Phải đến với Thượng đế qua những gì rất cụ thể, đó là những biểu tượng của Thượng đế trong thế giới hiện tượng. Con người cũng có chất thánh của Thượng đế và cũng cùng chia sẻ cái bản chất thánh thiện đó của Thượng đế.

Cầu nguyện bao giờ cũng có kết quả, nhưng cái mức thành công của sự cầu nguyện khác nhau.

Khi câu trả lời là “không” thì chưa chắc đã là không có hiệu quả! Đã có hiệu quả rồi, nhưng mình không thấy được, cho nên mình cho là không đấy thôi. Tại vì mình đâu biết được cái nhu yếu đích thực của mình? Trong khi đó thì cái Tâm thức cộng đồng, cái Nhất tâm hay là Thượng đế, biết rõ hơn mình, biết cái gì tốt cho mình hơn.

(Trích trong sách “Hiệu Lực Cầu Nguyện” của Sư Ông Làng Mai)

Bụt và Chúa sống mãi

Cuộc đời Ngài là Giáo Lý

Có một khoa học gọi là Phật học, đó là học về cuộc đời của Bụt. Bụt là một nhân vật có thật trong lịch sử. Bụt sinh ra ở thành Kapilavatsu (Ca Tì La Vệ), gần biên giới Ấn Ðộ và Nepal. Ngài thành hôn, có một con, xuất gia, giác ngộ, và chia sẻ giáo pháp của Ngài cho đến năm tám mươi tuổi Ngài tịch. Nhưng cũng có một vị Bụt ở trong mỗi người chúng ta, không tùy thuộc vào thời gian và không gian. Ðó là Ðức Bụt Sống, vị Bụt của sự thật sau cùng, vượt trên các ý nghĩ và khái niệm, và lúc nào chúng ta cũng gặp được. Vị Bụt Sống đó không sinh ra ở Kapilavatsu và cũng không tạ thế ở Kushinagar.

Ki Tô Học là môn học về cuộc đời Chúa Ki Tô. Khi nói Chúa Ki Tô, chúng ta cũng cần biết đang nói về Chúa Giêsu trong lịch sử hay Ðức Ki Tô Hằng Sống. Chúa Ki Tô trong lịch sử sinh tại Bê Lem, con của một người thợ mộc. Ngài rời quê hương xa, trở thành một đạo sư, và bị đóng đinh trên thập tự vào năm ba mươi ba tuổi. Ðức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng Ðế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống. Trong Ki Tô Giáo, bạn phải tin vào sự Phục Sinh, nếu không thì bạn không phải tín đồ. Tôi e rằng điều kiện nầy làm nhiều người e ngại, không chịu nhìn sâu vào cuộc đời Chúa Giêsu. Thật đáng tiếc, vì chúng ta có thể học hỏi cả nơi Chúa Giêsu trong lịch sử lẫn Chúa Giêsu như một cánh cửa tuyệt đối.

Khi chúng ta theo dõi và tiếp xúc một cách sâu sắc với cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu, chúng ta có thể thâm nhập vào sự thật của Thượng Ðế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao dung, là những biểu hiện của cuộc đời Chúa Giêsu. Thượng Ðế xuất hiện với chúng ta qua Giêsu Ki Tô. Với Thánh Linh và Nước Chúa ở trong Ngài, Giêsu đã tiếp xúc với mọi người sống cùng thời của Ngài. Ngài đã nói chuyện với những cô gái điếm, những người thâu thuế, Ngài có can đảm làm bất cứ việc gì cần thiết để chữa các căn bệnh của thời đại Ngài. Như là đứa con của mẹ Maria và thánh Giuse, Giêsu là Con của Người, Người Nam và Người Nữ. Như một người sống với Thánh Linh, Ngài là Con của Thượng Ðế. Nói rằng Chúa Giêsu vừa là Con của Người, vừa là Con của Thượng Ðế, các Phật tử có thể chấp nhận không khó gì. Chúng ta có thể thấy Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con là một, bất nhị, vì nếu không có Ðức Chúa Cha ở trong Ngài thì không có Ðức Chúa Con. Tuy nhiên, trong Ki Tô Giáo, Giêsu thường được gọi là Con Một của Thượng Ðế. Tôi thấy chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài. Tôi nghĩ cuộc đời Chúa Giêsu là bài học căn bản nhất của Ngài, quan trọng hơn cả sự phục sinh và tính vĩnh cữu.

Sống tỉnh thức là Bụt

Bụt là người giác ngộ, nghĩa là không còn bị ràng buộc vào thế tục. Nhưng khi nhiều người nói rằng họ tin Bụt, họ đang nói về niềm tin vào vị Bụt thần thông, huyền diệu, không phải niềm tin vào giáo lý hay cuộc đời của vị Bụt lịch sử. Họ tin vào sự mầu nhiệm của Bụt, và thấy như vậy là đủ. Nhưng các thí dụ trong cuộc đời thật của Bụt và Chúa Giêsu quan trọng hơn, vì khi các Ngài sống như những con người thật, chúng ta có thể bắt chước, sống theo mẫu đời sống của các Ngài.

Khi chúng ta đọc, “Cửa trời mở rộng và Thánh Linh giáng xuống Ngài như một con chim bồ câu,” chúng ta có thể thấy hình ảnh Chúa Giêsu đã giác ngộ. Ngài đã tiếp xúc được với sự thật của đời sống, nguồn suối của tỉnh thức, của minh triết và trí tuệ ở trong Ngài. Ðó là điều phân biệt Ngài với người phàm tục. Khi Ngài sinh ra trong một gia đình người thợ mộc, Ngài là Con của Người. Khi Ngài mở rộng trái tim, cánh cửa thiên đường đã mở ra cho Ngài. Thánh Linh đã ngự xuống Ngài như một con chim bồ câu, và Ngài biểu hiện như là Con của Thượng Ðế – rất thiêng liêng, sâu sắc, và vĩ đại.

Nhưng Thánh Linh không phải chỉ ngự xuống Giêsu không thôi, mà cho tất cả chúng ta. Trong nhãn quan Phật Giáo, ai không phải là con của Thượng Ðế? Ngồi dưới gốc cây bồ đề, những hạt giống thiêng liêng và huyền diệu ở trong Bụt bừng nở. Ngài là một người, nhưng đồng thời Ngài cũng thị hiện tâm linh nhân loại đến mức cao nhất. Khi chúng ta tiếp xúc được với tâm linh tối thượng trong chúng ta, chúng ta là Bụt. Chúng ta mang ơn Thánh Linh, và chúng ta trở nên rất bao dung, rất cởi mở, sâu xa, và thông cảm.

Những cánh cửa mở ra cho các thế hệ sau

Kinh Thánh Mathiơ tả Nước Chúa giống như một hạt cải nhỏ xíu. Ðiều đó có nghĩa là hạt giống của Nước Chúa ở sẵn trong chúng ta. Nếu chúng ta biết vun trồng hạt giống đó trong mảnh đất mầu của cuộc sống hằng ngày, nó sẽ lớn lên và thành một cây cao cho chim chóc đến trú ẩn. Chúng ta không cần phải chết đi mới tới được cửa thiên đàng. Thật ra chúng ta cần phải sống đích thực. Việc tu tập là tiếp xúc sâu xa với sự sống để Nước Chúa trở thành sự thật. Ðây không phải là chuyện sùng tín. Ðây là chuyện thực tập. Có thể vào Nước Chúa bây giờ và ở đây. Nhiều đoạn trong Phúc Âm cũng có cách nhìn nầy. Chúng ta đọc Kinh Lạy Cha, rằng chúng ta không đi tới Nước Chúa, nhưng Nước Chúa sẽ đến với chúng ta: “Nước Ngài sẽ tới …” Giêsu nói, “Ta là cánh cửa vào.” Ngài tự mô tả là cánh cửa của Nước Chúa. Vì Ðức Chúa Con được tạo nên bằng Ðức Thánh Linh, Ngài là cánh cửa để chúng ta vào Nước Chúa.

Bụt cũng được mô tả như là một cánh cửa, là vị đạo sư chỉ đường cho ta sống trong đời. Phật tử tu học con đường đó một cách sâu xa để giúp ta sống trong chánh niệm, từ bi, và an lạc. Kinh sách nói có 84 ngàn pháp môn, cánh cửa của sự tu học. Nếu bạn may mắn tìm thấy một cánh cửa, và cho rằng cánh cửa của bạn là cánh cửa duy nhất, thì đó không phải là tinh thần đạo Bụt. Thật ra, chúng ta phải mở ra thêm nhiều cánh cửa mới cho các thế hệ tương lai. Chúng ta đừng sợ có quá nhiều cánh cửa – đúng ra, ta nên lo ngại không có thêm những cánh cửa mới. Thật tội nghiệp cho con cháu chúng ta, và con cháu của họ, nếu chúng ta hài lòng với 84 ngàn cánh cửa hiện có. Mỗi người chúng ta, với sự tu tập và tâm từ bi, có thể mở ra những Cánh Cửa Pháp mới.

Xã hội đang biến đổi, con người thay đổi, đời sống chính trị và kinh tế ngày nay không còn giống như thời Bụt và Chúa nữa. Bụt trông cậy nơi chúng ta để Giáo Pháp tiếp tục phát triển như một thực thể sống động – không phải một giáo pháp cứng đọng, mà là một Pháp Thân (Dharmakaya), một thực thể giáo lý thiêng liêng.

Bà mẹ sinh ra các vị Bụt

Bụt dạy Pháp thân của Ngài quan trọng hơn nhục thân. Ngài muốn dạy chúng ta phải thực hành Giáo Pháp để đạt tới Niết Bàn ở đây và bây giờ. Giáo Pháp sinh động không phải là những thư viện chứa kinh điển hay các băng thâu những bài giảng hay. Pháp sinh động là sống tỉnh thức trong chánh niệm, biểu hiện trong cuộc sống hằng ngày của Bụt cũng như của quý vị. Khi tôi nhìn thấy quý vị bước đi với chánh niệm, tôi tiếp xúc được với sự an lạc, với sự hiện diện của quý vị một cách sâu xa. Khi quý vị săn sóc các anh chị em của mình, tôi nhìn thấy Giáo Pháp sống động trong quý vị. Nếu có chánh niệm, quý vị có thể tiếp xúc với Pháp thân của Bụt.

Bụt mô tả những hạt giống của tỉnh thức trong mỗi chúng ta là “Như Lai Mẫu” (tathagatagarbha). Chúng ta đều là “mẹ của Như Lai” vì trong lòng chúng ta đều mang sẵn hạt giống của tỉnh thức. Nếu chúng ta đều săn sóc vị Bụt sơ sinh trong mình bằng sự thực tập tỉnh thức mỗi ngày, một ngày nào đó Ðấng Giác Ngộ sẽ đến với chúng ta. Các Phật tử nhìn Bụt như một vị thầy và một người anh, không phải là một thần linh. Chúng ta đều là Pháp huynh Pháp đệ của Bụt. Chúng ta cũng nói Trí Tuệ Bát Nhã (Prajnaparamita) là mẹ của tất cả các vị Bụt. Trong lịch sử, các giáo phái Tin Lành giảm bớt hình ảnh Mẹ trong Thượng Ðế và đề cao vai trò Cha của Ngài, nhưng trong Giáo hội Công Giáo có sự sùng kính Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời.

Thật ra Mẹ và Cha là hai phương diện của cùng một thực thể. Hình ảnh người cha hiện rõ hơn trong Trí Tuệ và Hiểu Biết, người Mẹ trong Tình Thương và Từ Bi. Trong đạo Bụt, hiểu biết (prajna) là căn bản của thương yêu (maitri). Nếu không có hiểu biết thì không có tình thương đích thực, và không có tình thương thì không có hiểu biết đích thực.

Người con gái của Thượng Ðế

Người ta gọi Bụt bằng mười danh hiệu, mỗi danh hiệu biểu lộ một phẩm chất. Danh hiệu thứ nhất, Như Lai (Tagatatha), tức là “vị đến với chúng ta trên đường chánh”, “vị đến từ sự thật mầu nhiệm của sự sống và sẽ trở về sự thật mầu nhiệm đó”, hay “vị đến từ cõi như vậy, ở trong cõi như vậy, và quay về cõi như vậy”. Như là danh từ Phật giáo nói đến Chân Như, bản chất của sự vật, hay sự thật tối hậu. Ðó là bản thể hay nền tảng của sự hiện hữu, ví như nước là bản thể của sự sống. Cũng như Bụt, chúng ta cũng tới từ Chân Như, ở tại Chân Như, và sẽ quay về Chân Như. Chúng ta từ cõi Không mà đến và sẽ trở về cõi Không.

Trong một bài kinh, Phật nói rằng hình sắc chúng ta thấy là do các nhân duyên tạo thành, khi không đủ nhân duyên thì chúng ta không thấy. Khi có đủ nhân duyên thì chúng ta nhận ra một hiện tượng, chúng ta thấy hiện tượng là có thật. Nhưng khi một trong các nhân duyên vắng mặt, chúng ta không nhận ra hiện tượng đó nữa. Ta không thấy nên nói là nó không hiện hữu. Nhưng điều đó không đúng. Vào mỗi tháng Tư ở Làng Hồng, chúng ta không nhìn thấy hoa Hướng Dương nở, chúng ta có thể nói hoa Hướng Dương không hiện hữu. Nhưng các nông dân ở ngôi làng tại miền Nam nước Pháp này đã gieo hàng ngàn hạt giống xuống đất. Khi nhìn ngọn đồi trơ trọi, họ có thể thấy các hoa Hướng Dương rồi. Hoa Hướng Dương đã có mặt ở đó. Chúng chỉ còn thiếu các nhân duyên của mặt trời, sức nóng, mưa, và thời gian. Không phải vì ta không thấy mà hoa Hướng Dương không hiện hữu.

Cũng theo cách đó, chúng ta nói Ðức Như Lai không từ đâu tới mà cũng không đi về đâu cả. Ngài tới từ cõi Chân Như và trở về Chân Như, không phụ thuộc vào thời gian và không gian. Nếu quý vị đi qua thửa ruộng bên Làng Hồng vào tháng Tư, và xin cánh đồng cho quý vị thấy Chân Như, thấy Nước Chúa, các thửa ruộng bỗng nhiên sẽ phủ đầy hoa Hướng Dương vàng chói rực rỡ. Khi Thánh Phan Xi Cô (St Francis) nhìn quán chiếu sâu xa một cây hạnh nhân vào giữa mùa đông và bảo cây hãy nói cho ngài nghe về Thượng Ðế, cây bỗng bừng nở đầy hoa.

Danh hiệu thứ hai của Bụt là A La Hán, vị xứng đáng được tôn kính. Danh hiệu thứ ba là Thiện Thệ, vị hoàn toàn tỉnh thức. Thứ tư là Minh Hạnh Túc, vị có trí tuệ và đức hạnh đầy đủ. Thứ năm là Vô Thượng Sĩ, vị dẫn đường không ai hơn. Thứ sáu là Thế Gian Giải, người biết rõ thế giới nầy. Thứ bảy là Ðiều Ngự Trượng Phu, người đi trên con đường tự tại. Thứ tám là Thiên Nhân Sư, thầy của thần linh và người. Danh hiệu thứ chín của Ngài là Bụt (Buddha, Phật Ðà), bậc giác ngộ. Danh hiệu thứ mười là Ðức Thế Tôn, bậc đầy phúc báu.

Mỗi khi chúng ta quy y, quay về nương tựa Bụt, chúng ta tìm nương tựa vào một vị có đủ mười đức tính trên, đó cũng là hạt nhân có sẵn trong mỗi người. Thái tử Tất Ðạt Ða (Siddharta) không phải là vị Bụt duy nhất. Mọi vật trong thế giới cây cỏ, muông thú và khoáng chất đều là các vị Bụt tương lai. Tất cả chúng ta đều chứa sẵn mười đức tính của Bụt trong thâm căn của mình. Nếu chúng ta thể hiện được mười đức tính đó thì sẽ được tôn kính.

Tôi thấy trong Phép Rửa Tội là sự công nhận của mỗi người, khi mở lòng ra đón Thánh Linh, đều có khả năng thể hiện mười đức tính trên, đó cũng là những đức tính để trở thành các người con của Chúa. Trong đạo Bụt, chúng ta không nói đến Tội Tổ Tông, nhưng nói đến các Chủng Tử Bất Thiện, là những hạt giống có sẵn trong mỗi người – hạt giống của tham lam, hận thù, giận dữ, ngu si, cố chấp, v.v… – và chúng ta nói đến các hạt giống trên có thể được chuyển hóa khi chúng ta tiếp xúc với các đức tính của Bụt. Các đức tính đó cũng có sẵn hạt giống trong chúng ta. Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa khi một người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng Ðế và con của Người. Chúng ta cũng là con của Thượng Ðế và của song thân chúng ta. Nghĩa là chúng ta thuộc về cùng một thực tại như Giêsu. Ðiều này có thể coi như là tà thuyết đối với một số người Ki Tô Giáo. Nhưng tôi tin những nhà thần học đã nói là không cần phải nghĩ như vậy. Giêsu không phải chỉ là Chúa của chúng ta. Ngài còn là Cha, là Thầy, là Anh, và là Chính chúng ta. Nơi duy nhất chúng ta có thể tiếp xúc với Giêsu và Nước Chúa là ở trong nột tâm mình.

Chúng ta tiếp tục ra đời

Khi chúng ta làm lễ Chúa Giáng Sinh hay lễ Phật Ðản, chúng ta mừng sự ra đời của những hài nhi đặc biệt. Sự giáng sinh của Chúa và đản sinh của Bụt là các biến cố quan trọng trong lịch sử loài người. Mấy ngày sau khi Bụt ra đời, nhiều người ở Kapilavatsu đến kính thăm, trong đó có một đạo sĩ già tên là Asita. Sau khi nhìn ngắm Bụt sơ sinh, Asita bật khóc. Vua cha kinh ngạc hỏi: “Thưa đạo sĩ, tại sao ông lại khóc? Con tôi sẽ có số phận không may chăng?” Ðạo sĩ trả lời: “Thưa Ðức Vua, không phải vậy. Việc ra đời của Thái tử Tất Ðạt Ða thật là mầu nhiệm. Con trai hoàng thượng sẽ thành một vị thầy quan trọng của thế giới. Nhưng tôi bây giờ đã già quá rồi, chắc không sống được đến ngày đó nữa. Ðó là lý do tại sao tôi khóc.”

Trong Kinh Thánh cũng có một câu chuyện tương tự. Tám ngày sau khi sinh ra, Chúa Hài Ðồng được đưa đến đền thờ để làm lễ cắt bì. Khi một người tên Simeon nhìn thấy Chúa, Ông ta thấy là Ngài sẽ thay đổi cuộc sống nhân loại một cách lớn lao.

“Khi đến ngày làm lễ thánh tẩy theo luật của Mai Sen (Moses), người ta bế Ngài đến Giê Ru Sa Lem để trình Ngài lên Thượng Ðế… và người ta theo luật của Thượng Ðế làm lễ hiến sinh hai bồ câu nhỏ. Lúc đó có một người ở Giê Ru Sa Lem tên là Simeon. Người đó là một người công chính và sùng tín, đi tìm đường cứu rỗi dân Israel, đưa Thánh Linh ở cùng người đó. Ðức Thánh Linh đã báo cho Simeon biết rằng ông ta sẽ được nhìn thấy Messiah (Ðấng Cứu Thế) trước khi chết. Theo hướng dẫn của Thánh Linh, Simeon đi tới đền thờ, và khi cha mẹ Chúa Hài Ðồng bế Chúa tới trao cho ông theo luật thánh, Simeon bế Chúa trong hai tay, và ca ngợi Thiên Chúa rằng: ‘Lạy Chúa, nay Ngài có thể cho tôi tớ Ngài được yên nghỉ theo lời Ngài đã phán, vì nay tôi đã thấy được sự cứu rỗi mà Ngài đã chuẩn bị trước sự chứng kiến của mọi người, ánh sáng mạc khải cho dân ngoại và vinh quang cho dân Chúa, dân tộc Israel.’ Cha và mẹ của hài nhi kinh ngạc khi nghe Simeon nói thế.”

Mỗi khi tôi đọc chuyệm Asita và Simeon, tôi lại ước chi khi mỗi người chúng ta sinh ra lại có một vị hiền giả đến thăm viếng. Mỗi trẻ sơ sinh ra đời đều quan trọng, không kém gì việc đản sinh của Bụt. Chúng ta cũng là Bụt, một vị Bụt tương lai, và chúng ta tiếp tục ra đời trong mỗi giây phút. Chúng ta cũng đều là Con của Thiên Chúa và là con của cha mẹ ta. Chúng ta phải chăm sóc mỗi đứa trẻ mới ra đời.

Tiếp xúc với tổ tiên

Tôi không biết tôi là chính tôi hay tôi cũng là anh ruột tôi. Trước khi tôi ra đời, một em bé trai khác đã định sinh ra, nhưng mẹ tôi bị xẩy thai. Nếu người con trai đó còn sống, chắc tôi đã có một người anh. Hay tôi đã là anh tôi. Từ nhỏ tôi vẫn nghĩ ngợi về điều này.

Những bậc cha mẹ sắp có con nên cẩn trọng vì họ đang mang một hài nhi có thể trở thành một Ðức Bụt hay một Chúa Giêsu. Họ phải tỉnh táo biết những thứ gì họ đang ăn, uống, điều họ nghĩ, việc họ làm. Cách thức họ chăm sóc thân thể và cảm thọ của họ ảnh hưởng đến sự an lạc của đứa trẻ trong bụng mẹ. Cha mẹ chúng ta cho chúng ta được ra đời và hiện giờ vẫn tiếp tục ban sự sống cho chúng ta. Mỗi khi gặp khó khăn, tôi đều khấn cha mẹ tôi và lúc nào tôi cũng được phù hộ.

Các tổ tiên về tâm linh của chúng ta cũng ban cho chúng ta sự sống và cũng vẫn còn tiếp tục mãi. Ở nước tôi, chúng tôi thường nói một vị thầy đích thật có thể cho môn đệ sự sống. Nếu quý vị có đủ bản lãnh, quý vị sẽ tạo nên sự sống của những đứa con tinh thần, và qua sự tu tập và cuộc sống, quý vị sẽ tiếp tục ban sự sống cho nhiều người, cả sau khi đã qua đời. Chúng ta có thể nói các người con từ miệng Bụt ra đời vì Bụt đã ban cho họ các lời dạy, tức là Pháp. Có nhiều cách để mang Pháp tới cho cuộc sống tinh thần của một đứa trẻ sắp ra đời. Cách thông thường nhất là dùng lời nói. Mỗi ngày tôi vẫn tu tập để tiếp xúc với các tổ tiên huyết thống và các tổ tiên tâm linh của tôi. Mỗi khi tôi thấy mình yếu đuối, tôi lại kêu gọi quý vị phù trợ, và bao giờ các ngài cũng tới giúp.

Khổ và con đường dứt khổ

Ngay từ khi còn nhỏ, Tất Ðạt Ða và Guêsu đều nhận thấy đời nhiều nỗi khổ. Bụt đã thấy rất sớm nỗi khổ của mọi loài. Chúa Giêsu cũng phải nhìn thấy như vậy, vì các Ngài đều tìm đường giúp nhân loại dứt khổ đau. Chúng ta cũng phải tìm một lối sống giúp cho đời vơi khổ. Sự thật về khổ lúc nào cũng có mặt, ở chung quanh và ở trong ta, và chúng ta phải tìm đường giảm bớt nỗi khổ, biến khổ đau thành an lạc, hòa bình.

Chư tăng ni tu tập theo truyền thống của họ, đã tụng kinh, ngồi thiền, đi thiền hành, thọ trai trong yên lặng, và tu tập nhiều phương pháp khác để diệt khổ. Sống cuộc đời của một vị tăng hay ni, có thể ngồi im lặng quán chiếu về sự khổ và đường diệt khổ, là một điều quý báu hiếm có. Quý vị có thể ngồi quán chiếu sâu xa về thân và tâm của mình, như gà mẹ đang ấp trứng. Một ngày nào đó, trứng sẽ nở ra một gà con. Nếu quý vị không tôn quý những giờ thực tập, thì dù là tăng ni, quý vị cũng không cống hiến gì được cuộc đời.

Năm hai mươi chín tuổi Bụt xuất gia, tuổi tương đối còn trẻ, đến năm ba mươi lăm Ngài thành đạo. Chúc Giêsu cũng sống nhiều ngày một mình trong sa mạc. Chúng ta đều cần những giờ phút suy ngẫm và làm mới lại mình. Những người không phải tăng ni sẽ thấy khó kiếm được thì giờ thiền quán hay cầu nguyện, nhưng đó là một việc quan trọng phải làm. Trong những khóa tu, chúng ta tập sống ý thức về mỗi việc mình làm, rồi tiếp tục áp dụng điều đó trong cuộc sống hằng ngày. Thực hành như thế, chúng ta có thể quán chiếu sâu xa về bản chất của khổ và tìm ra đường thoát khổ. Ðó là bài giảng thứ nhất của Bụt tại Vườn Nai ở Sanarth: “Hãy quán chiếu sâu xa bản chất của khổ để tìm nguyên nhân gây ra khổ và con đường diệt khổ.” Người đi tu hay người tại gia đều có thể thực tập điều đó.

Ta là con đường

Ðạo Bụt trong truyền thống Theravada (Nam Tông) nhấn mạnh vào các bài giảng của vị Bụt lịch sử, vị Bụt đã sống và đã qua đời. Sau nầy ý niệm về Bụt sinh động phát triển trong truyền thống Mahayana (Bắc Tông). Khi Bụt sắp nhập diệt, nhiều vị đệ tử buồn rầu vì sắp phải xa Ngài. Ngài đã trấn an họ rằng: “Nhục thân của ta sẽ không còn nữa, nhưng Pháp thân của ta vẫn luôn luôn ở bên các con. Hãy quy y Pháp để làm hòn đảo cho các con nương tựa.” Lời Bụt dạy rất rõ ràng. Giáo Pháp của Ngài là hải đảo cho chúng ta nương tựa, là bó đuốc soi đường cho chúng ta. Khi Giáo Pháp còn tồn tại, thì chúng ta không cần phải lo buồn. Một vị sa môn lúc đó đang bệnh, ngỏ ý tiếc không thể đến gặp Bụt, Bụt nhắn với thầy đó rằng: “Nhục thân của Ta không quan trọng. Nếu thầy có Pháp thân với thầy, nếu thầy tin Pháp, thực tập Giáo Pháp, thì ta luôn luôn ở bên thầy.” Chúa Giêsu cũng từng nói: “Khi có hai, hay ba người họp nhau trong tên ta, ta ở đó cùng họ.”

Ta luôn luôn ở đó cùng người

Sau khi Bụt nhập diệt, người ta yêu và sùng kính Ngài quá nên ý niệm Pháp thân vốn bắt đầu là các giáo lý đã biến thành một vị Bụt huy hoàng, bất diệt, lúc nào cũng giảng Giáo Pháp. Trong truyền thống Bắc Tông, Bụt lúc nào cũng còn sống, vẫn tiếp tục giảng Giáo Pháp. Nếu quý vị chú ý lắng nghe, quý vị có thể nghe tiếng nói của Pháp từ một hòn sỏi, một lá cây, một đám mây bay. Ðức Bụt thường tồn đã trở thành Bụt sống, vị Bụt của niềm tin. Cũng giống như Chúa Ki Tô của đức tin, Chúa Ki Tô sống. Nhà thần học Paul Tillich mô tả Thiên Chúa như là nền tảng của hiện hữu. Người ta cũng có khi mô tả Bụt như vậy.

Thấy Ðạo là thấy ta

Gặp một vị minh sư cũng có giá trị như học ngài hàng thế kỷ, vì trong ngài chúng ta thấy tấm gương sống của sự giác ngộ. Làm sao chúng ta được gặp Bụt hay Chúa? Ðiều đó tùy thuộc chính ta. Nhiều người nhìn vào mắt Bụt hay Chúa mà không thấy. Có một thầy kia hối hả đi tìm gặp Bụt, vội quá đến nỗi dọc đường nhìn mà không thấy một người đàn bà đang đau khổ cần giúp đỡ. Khi vị đó tới tu viện gặp Bụt, ông ta cũng không nhìn thấy Bụt. Quý vị thấy Bụt hay không là do quý vị đang sống trong trạng thái nào.

Ta là trí tuệ, là từ bi

Bụt tỏa ra hào quang cũng như các nhân vật siêu phàm khác. Khi chúng ta gặp các nhân vật đó chúng ta cảm thấy bình yên, tình thương, thấy sức mạnh nơi họ và trong chúng ta. Có câu ngạn ngữ Trung Hoa rằng: “Thánh hiền ở đâu thì nước suối ở đó trong hơn, cây cối ở đó cũng xanh hơn.” Câu đó mô tả không khí bao quanh bậc thánh nhân. Khi quý vị đến bên một hiền giả, quý vị cảm thấy bình an và sáng láng. Khi quý vị đến gần Chúa Giêsu và nhìn thẳng vào mắt Ngài – dù quý vị có thấy hay không – quý vị có nhiều hy vọng được cứu rỗi hơn là chỉ đọc lời nói của Ngài. Nhưng khi quý vị không thể đích thân gặp Chúa, thì còn những bài học của Chúa, đặc biệt là những bài học về cuộc đời của Ngài.

Thoát khỏi những khái niệm

Mỗi khi tôi đọc kinh điển, dù là kinh đạo Chúa hay đạo Bụt, tôi luôn luôn ghi nhớ rằng những điều các Ngài nói là nói cho một người hay một thính chúng nào đó, trong một hoàn cảnh nào đó. Tôi cố suy ngẫm sâu xa về khung cảnh của lời dạy để hiểu cho đúng hơn. Ðiều các Ngài nói có khi không quan trọng bằng cách nói. Khi chúng ta biết như vậy, chúng ta gần Chúa và Bụt hơn. Còn nếu như chúng ta phân tích kỹ lưỡng lời dạy của các Ngài mà không hiểu tương quan giữa người nói và người nghe thì có thể chúng ta đã hiểu lầm. Nhiều nhà thần học cũng có khi mắc lỗi nầy.

Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy sự can đảm vô cùng của Chúa Giêsu khi Ngài cố thay đổi xã hội chung quanh. Khi đọc kinh Phật, chúng ta cũng thấy Bụt có một nhân cách rất mạnh. Xã hội Ấn Ðộ thời Bụt không nhiều bạo lực bằng xã hội trong đó Chúa Giêsu sinh ra, cho nên chúng ta có cảm tưởng các phản ứng của Bụt không quyết liệt bằng, nhưng điều đó là vì trong xã hội của Bụt khả dĩ có thể tìm ra phương cách khác. Hãy xem phản ứng của Bụt đối với sự sa đọa của các tu sĩ theo phái Vệ Ðà chẳng hạn, cũng rất quyết liệt. Thí dụ khái niệm về Tự Ngã (Atman), một trọng điểm của giáo lý Vệ Ðà, là một nguyên nhân của tình trạng bất công xã hội thời đó – như hệ thống đẳng cấp, cách đối xử bất nhẫn với những người vô đẳng cấp, và sự độc quyền về giáo điều của những người không chắc có giá trị tinh thần nhưng lại hưởng những cuộc sống sung túc nhất. Phản ứng lại, Bụt đã nhấn mạnh đến giáo lý Vô Ngã. Ngài nói: “Mọi sự vật không có tự tánh riêng biệt, độc lập. Nhìn vào tự tánh của một bông hoa, quý vị thấy đó là sự trống rỗng.” Ðến khi các đồ đệ bắt đầu sùng bái giáo lý Vô Ngã, Ngài lại nói: “Thà rằng tin ở tự ngã của một bông hoa còn hơn là vướng mắc vào tính vô ngã của bông hoa.”

Bụt không trình bày một học thuyết có tính cách tuyệt đối. Ngài dạy về vô ngã để đối trị với vấn đề của thời đại đó. Ðó là một đề tài thiền quán. Nhưng nhiều Phật tử về sau bị vướng mắc vào ý niệm vô ngã. Họ lầm phương tiện với cứu cánh, lầm cái bè qua sông với bờ sông bên kia, lầm ngón tay chỉ mặt trăng với mặt trăng. Có điều quan trọng hơn cả thuyết vô ngã. Ðó là sự giải thoát khỏi khái niệm về Ngã và về Vô Ngã. Một người theo đạo Bụt mà để bị vướng mắc vào một lý thuyết, dù là lý thuyết Phật giáo, là làm ngược lời Bụt dạy. Lời nói và khái niệm không quan trọng. Ðiều quan trọng là sự khai ngộ của chính chúng ta về bản chất của sự vật và cách thức chúngta đối trị với sự thật đó. Nếu Bụt sinh ra ở xã hội mà chúa Giêsu đã sinh ra, tôi nghĩ chắc Ngài cũng bị đóng đinh trên thập tự.

Thấy Ðạo, lên đường

Khi Chúa Giêsu nói: “Ta là con đường” Ngài muốn bảo nếu muốn gần Thiên Chúa chúng ta phải tu tập con đường của Ngài. Trong Tân Ước, ta thấy các người theo Thiên Chúa Giáo đầu tiên, như tả trong sách Tông Ðồ Mục Vụ, thường nói đến đức tin của họ như là “Con Ðường – Ðạo.” Tôi nghe câu nói “Ta là Con Ðường” hay hơn câu “Ta biết Con Ðường.” Ðây không phải là một con đường trải nhựa. Nhưng chúng ta phải phân biệt chữ “Ta” trong lời Chúa và chữ “Ta” mà người nghe vẫn nghĩ. Chúa nói “Ta” là nói về Ðời Sống, đời sống của Ngài, đó là Ðạo. Nếu quý vị không nhìn vào đời sống của Ngài, quý vị không thấy Ðạo của Ngài. Nếu quý vị chỉ ca ngợi một danh hiệu, dù là danh hiệu Chúa, đó chưa phải là tu học theo cuộc đời của Chúa. Nếu muốn sáng danh Chúa Giêsu chúng ta phải tập sống sâu xa, thương yêu và hành động bác ái. Ðạo, Con Ðường, chính là Chúa chứ không phải là một vài ý Chúa nói ra. Giáo lý đích thực có tính động. Ðó không phải là lời nói mà thôi nhưng là đời sống thật. Nhiều người không có đạo lẫn đời sống mà vẫn bắt ép mọi người theo cái mà họ tưởng là đạo. Nhưng đó chỉ là lời nói mà không dính dấp gì đến đời sống thật hay con đường thật.

Khi chúng ta hiểu và thực hành sâu xa cuộc đời và giáo pháp của Bụt, cuộc đời và tín lý của Chúa Giêsu, chúng ta bước được vào trong cánh cửa của căn nhà Bụt sống và Chúa sống, và đời sống hằng cửu sẽ đến với ta.

Thân ta là mình Chúa

Khi một vị mục sư nói tôi là người không biết ơn (vì không tạ ơn Chúa khi ăn cơm), ông đang nói một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ người theo đạo Bụt. Ông nghĩ tình thương yêu chỉ có thể biểu tượng vào một người. Vì vậy, sự Phục Sinh là một tín lý rất quan trọng trong Ki Tô Giáo. Nếu Giêsu chết đi rồi không phục sinh, ai sẽ mang tình yêu thương vĩnh cữu của Ngài tới cho chúng ta? Nhưng Thượng Ðế có cần phải biểu hiện thành một người không? Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo luôn luôn dùng hình ảnh của một người.

Trong đạo Bụt, chúng ta cũng hay diễn tả các điều thệ nguyện của mình bằng hình ảnh của một người, như sự tỉnh thức (Bụt Thích Ca), trí tuệ (Bồ tát Văn Thù Sư Lợi), và tình yêu (Bụt Di Lặc), nhưng ngay cả khi không có Thích Ca Mâu Ni, Văn Thù Sư Lợi, Di Lặc, chúng ta vẫn tiếp xúc được với tỉnh thức, trí tuệ và yêu thương. Ðệ tử Bụt là sự tiếp nối của Bụt. Chúng ta có thể biểu hiện tỉnh thức, trí tuệ và thương yêu qua các nhân vật thời đại của mình, ngay cả qua chính mình. Chúng ta không cần tin Bụt hay Bồ tát sẽ sống lại bằng sự thực hành tỉnh thức, trí tuệ và thương yêu trong chúng ta.

Chúa Ki Tô sống là Ðức Ki Tô của Tình Yêu, mỗi lúc đều tạo dựng nên tình yêu. Khi giáo hội biểu hiện sự hiểu biết, bao dung, và từ bi, Chúa Giêsu đang ở đó. Những tín đồ Thiên Chúa Giáo cần giúp thể hiện Chúa Giêsu trong đời sống của họ, cho những người chung quanh thấy rằng ta có thể đạt tới tình thương, sự hiểu biết và bao dung. Ðiều đó không thể làm đầy đủ qua sách vở và bài giảng. Phải thể hiện trong đời sống. Trong đạo Bụt cũng vậy, đức Bụt sống Ngài dạy chúng ta từ bi chỉ có thể thể hiện bằng cách chúng ta sống.

Nhờ công phu hành trì của nhiều thế hệ người theo đạo Bụt và đạo Chúa, sức mạnh từ Bụt và từ Chúa đã được truyền tới đời chúng ta. Nhờ thế chúng ta có thể tiếp xúc với Bụt sống và Chúa sống. Chúng ta biết ta là biến thân của thân Bụt và một phần của thân huyền nhiệm của Chúa. Chúng ta có cơ hội tuyệt vời làm cho Bụt và Chúa tiếp tục sống mãi. Nhờ thân thể và đời sống của chúng ta mà ta có thể tu tập. Nếu quý vị ghét thân thể của quý vị, nghĩ rằng đó là nguồn gốc của buồn phiền, nó chỉ chứa đựng các hạt giống của giận dữ, thù hận và tham lam, quý vị không hiểu rằng thân thể của quý vị cũng là thân Bụt, thân thể quý vị cũng là một phần thân Chúa.

Hãy vui hưởng sự sống

Thở và biết rằng mình sống thật là điều tuyệt vời. Vì ta còn sống, nên ta còn bao nhiêu chuyện có thể làm. Tăng thân, cộng đồng của những người tu tập có thể tiếp tục. Giáo hội có thể tiếp tục. Xin đừng phí một giây phút nào. Mỗi giây phút đều là dịp để thở sự sống vào Bụt, Pháp, và Tăng. Mỗi giây phút đều cho ta cơ hội để thể hiện Cha, Con, và Thánh Thần.

“Có một người sinh ra trên trái đất để mang lại bình an hạnh phúc cho muôn loài. Vị đó là ai vậy?” kinh Anguttara Nikaya hỏi câu đó. Ðối với người Phật tử, vị đó là Bụt. Ðối với tín hữu Thiên Chúa Giáo, vị đó là Chúa Giêsu. Bằng chính đời sống hằng ngày của quý vị, quý vị có thể giúp các Ngài tiếp tục sống. Quý vị chỉ cần đi trong tỉnh thức, bước từng bước an hòa và hạnh phúc trên hành tinh của chúng ta. Hãy thở thật sâu và vui hưởng hơi thở của quý vị. Hãy ý thức về bầu trời xanh và tiếng chim hót ngọt ngào. Hãy vui hưởng sự sống, quý vị sẽ giúp Ðức Chúa Ki Tô Sống và Ðức Bụt Sống tiếp tục lâu dài, mãi mãi.

Thích Nhất Hạnh (1995)

 

___________________

Chân Văn dịch từ Chương Bốn trong quyển “Living Buddha, Living Christ”, của Thích Nhất Hạnh, Riverheads Book xuất bản, 1995. Quyển sách gồm nhiều bài giảng bằng Anh ngữ của Thầy, được ghi âm, chép lại và nhuận sắc. Ðây là một quyển sách đã bán được rất nhiều trong loại sách về tôn giáo và tâm linh ở California, Hoa Kỳ. Theo lối quen dùng trong các sách Việt ngữ của Thầy, từ “Buddha” được dịch là “Bụt”, một từ trong tiếng Việt cổ dùng để phiên âm “Buddha” khi đạo Phật được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Về sau, từ khi người Việt dùng kinh sách chữ Hán, từ “Phật” hay “Phật Ðà” (tiếng Hán Việt) được dùng thay từ “Bụt”. Bài dịch nầy đã được đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, California, Hoa Kỳ, tháng 11-1995.

 

Bát Nhã là một công án thiền

Đừng đi tìm cái anh muốn thấy. Việc làm đó vô ích.
Không đi tìm, nhưng cho phép cái thấy tự đến, cái thấy ấy sẽ
giải phóng được cho anh.
– Nhất Hạnh-

Bát Nhã đây là Tu Viện Bát Nhã ở Bảo Lộc, là Tăng thân Bát Nhã đang gặp khó khăn và đang là một mối băn khoăn cho chính quyền, là Pháp nạn của Phật giáo Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ thứ hăm mốt. Công án là một vấn nạn cần phải giải quyết bằng niệm, định và tuệ chứ không thể chỉ bằng trí năng của ta. Nếu chưa giải quyết được thì mình chưa có hướng đi, chưa có an lạc và hạnh phúc. Công án này có thể được tham cứu chung, nhưng cũng có thể được tham cứu riêng. Công án là một mũi tên cắm vào thân thể ta, chưa rút được mũi tên ra thì chưa có an lạc. Mũi tên này không phải từ bên ngoài bay tới. Nó không phải là một tai nạn mà là một cơ hội để ta quán chiếu và vượt thoát được những băn khoăn trăn trở của ta lâu nay về ý nghĩa cuộc đời, về tương lai đất nước, về hạnh phúc chân thật của ta.

Vua Trần Thái Tông ngày xưa đã từng tu Thiền, đã từng tham khảo công án và vua cũng đã đưa ra bốn mươi công án Thiền với các bài Niêm, Tụng và Kệ để mời các bạn tu cùng tham khảo tại chùa Chân Giáo. Những công án này còn được ghi lại trong sách Khóa Hư Lục do vua sáng tác. Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung, anh ruột của tướng Trần Hưng Đạo, cũng đã từng tham khảo công án, và cũng đã đề ra mười ba công án, những công án này cũng còn được ghi lại trong sách Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục.

Sách Bích Nham Lục do thiền sư Viên Ngộ biên soạn vào thế kỷ mười hai có cả thảy 100 công án thiền với những lời Thùy thị, Bình xướng và Trước ngữ, là một tác phẩm cổ điển được sử dụng trong nhiều trăm năm ở chốn thiền môn.

Trong số các công án phổ thông nhất có các công án “Cây tùng trước sân”, “Cái tất cả đi về cái một, cái một đi về đâu?”, “Con chó có Phật tính không?” và “Ai đang niệm Phật?”. Công án hào hùng nhất mà Tuệ Trung Thượng Sĩ đưa ra là “ Tất cả đều vô thường, đều là pháp sinh diệt. Cái gì sinh diệt?”

Công án không thể được giải quyết bằng lý luận, bằng biện chứng pháp, dù là biện chứng pháp duy tâm hay duy vật, mà phải được giải quyết bằng niệm lực và định lực, nghĩa là bằng năng lượng của chánh niệm và chánh định. Giải được công án thì ta thấy khỏe, không còn lo sợ thắc mắc gì nữa, là thấy được con đường đi, là đạt được sự an tâm.

Nếu nghĩ rằng con chó có Phật tính hay không là một vấn đề của riêng con chó, hoặc nghĩ đó là một vấn đề triết học cần phải giải quyết, thì đó chưa phải là một công án. Nếu nghĩ rằng cái một đi về đâu là một vấn đề chỉ liên hệ tới sự vận hành của thế giới khách quan bên ngoài thì đó cũng không phải là một công án. Nếu nghĩ rằng Bát Nhã là vấn đề của 400 tu sinh đang gặp khó khăn, đang cần một giải pháp “hợp tình hợp lý” thì đó cũng không phải là một công án. Chỉ khi nào thấy rằng Bát Nhã là vấn đề chính của bản thân ta, nó có liên hệ trực tiếp đến hạnh phúc, đau khổ của ta, của tương lai ta và tương lai đất nước dân tộc ta, và chừng nào chưa giải quyết được công án Bát Nhã thì ta còn ngủ không yên, ăn không yên, làm việc không yên, thì lúc ấy Bát Nhã mới thực sự là một công án. Niệm có nghĩa là nhớ tưởng, là canh cánh bên lòng, là nâng công án lên từng giây từng phút trong đời sống hàng ngày của mình để quán chiếu, không phút giây nào xao lãng. Niệm phải liên tục không được gián đoạn. Khi ăn cơm, khi mặc áo, khi tiểu tiện hoặc đại tiện, khi uống trà, khi tắm gội, hành giả phải đưa công án lên để mà quán chiếu. Công án có khi còn gọi là thoại đầu. Phật là ai mà ta phải niệm, và người đang niệm Phật, người ấy là ai? Ta là ai? Phải tìm cho ra. Chưa tìm ra là chưa vỡ vạc, chưa chứng ngộ, chưa thông suốt.

***

Những vị xuất gia trong Tăng thân Bát Nhã chắc hẳn là những người có cơ hội nâng  công án Bát Nhã lên cứu xét nhiều nhất trong đời sống hàng ngày. Ngày nào họ cũng ngồi thiền nhiều lần, đi thiền hành nhiều lần, và trong khi nấu cơm, giặt áo, lặt rau, quét tước, v.v., lúc nào họ cũng có cơ hội tham cứu về công án Bát Nhã. Họ có niệm và họ có định dễ dàng hơn, vì đó là vấn đề sống chết, vấn đề lý tưởng, vấn đề tương lai của họ.  Và có người đã quán chiếu thành công, vì vậy ở trong một tình trạng bị đàn áp và khủng bố thường xuyên như thế mà có những người trong số họ vẫn cười dòn được, vẫn tươi như hoa, vẫn chế tác được bình an và tình thương, vẫn không bị lo lắng sợ hãi và hận thù lôi kéo; trong khi đó thì những vị khác còn mang nặng chấn thương và những thống khổ gây nên trong những ngày Bát Nhã và Phước Huệ bị đánh phá. Một sư cô đã làm được bài kiến giải để trình lên thầy của mình. Cô viết: “Bát Nhã ngày xưa, nay đã thành mưa, rơi xuống mặt đất, nẩy hạt Bồ đề.”  Sư cô này chỉ khoảng 18 tuổi, và mới tu chưa đầy hai năm, nhưng đã quán chiếu thành công.

Tại sao mình chỉ muốn tu thôi mà người ta không cho mình tu? Tại sao các bậc tôn túc muốn che chở bảo lãnh cho mình tu mà nhà nước lại không cho bảo lãnh? Mình có biết chính trị là cái gì đâu và chẳng tha thiết gì tới chuyện chính trị, tại sao người ta cứ nói là mình làm chính trị và tại sao cứ nói Bát Nhã là một mối đe dọa cho an ninh quốc gia? Tại sao phải giải tán cho được Bát Nhã dù phải áp dụng những biện pháp như thuê côn đồ, vu khống, lừa gạt, đánh đập, đe dọa? Tại sao họ là những người đáng bậc cha chú mình mà họ nỡ làm như thế đối với mình? Nếu nhà nước không cho mình tu chung như một Tăng thân nữa mà bắt mình phải mỗi người đi một ngả thì làm sao trong tương lai mình có thể có lại một Tăng thân? Tại sao ở các nước khác người ta có tự do để thực tập pháp môn, còn ở đây thì không? Những câu hỏi như thế dồn dập đi tới. Ngồi thiền, đi thiền hành, nghe pháp thoại, thực tập chánh niệm trong khi nấu cơm, làm vườn, chấp tác, người hành giả nuôi niệm lực và định lực. Niệm và định lực ấy như sức nóng của lửa làm tan rã tất cả những dấu hỏi, những vấn nạn. Bát Nhã ngày xưa là hạnh phúc. Mình đã được sống rất thật với chính mình, với cách sống mà mình muốn sống. Mình có thể nói ra những cảm nghĩ của mình cho các anh chị em đồng tu mà không e ngại sợ sệt. Mình đã tìm ra được tình huynh đệ. Mình có cơ hội đem tuổi trẻ của mình để giúp đời. Đó là hạnh phúc lớn nhất. Bát Nhã trong những ngày qua cũng đã từng là một cơn ác mộng, nhưng ta đã có cơ duyên tìm thấy ta rồi, ta đã tìm được con đường rồi, thì dù có Bát Nhã hay không có Bát Nhã ta vẫn không cần lo sợ. Bát Nhã đã trở thành một cơn mưa, đã mưa xuống làm cho hạt giống kim cương nẩy mầm trong ta. Ngày mai dù không có Bát Nhã, dù bị đuổi ra khỏi Phước Huệ, nhưng hạt giống Bồ đề trong ta vẫn không bao giờ mất. Thầy đã dạy mỗi đứa con thầy phải trở thành một Bát Nhã, một Phương Bối. Mình là sự tiếp nối của thầy, chắc chắn mình sẽ tạo dựng được trong tương lai những Bát Nhã mới, những Phương Bối mới. Đã có hạt giống rồi, đã có đường đi rồi, mình không còn lo sợ cho tương lai, tương lai của mình và của đất nước. Những người cấm cản mình tu học hôm nay, ngày mai mình sẽ có cơ hội độ cho họ. Họ chưa có cái thấy bây giờ, nhưng sau này họ sẽ có cái thấy ấy. Một số trong những người đã từng đàn áp, đã từng làm khổ mình, bây giờ cũng đã hé thấy được sự thật rồi. Thành kiến và tri giác sai lầm như bức tường Bá Linh đang rã ra từ từ và sẽ sụp đổ. Mình không lo ngại, không tuyệt vọng. Mình có thể cười vang như nắng sớm.

***

Mình là một vị đại úy công an. Ban đầu mình tin rằng nếu cấp trên đã có chính sách giải tán Bát Nhã thì chắc chắn là chủ trương này phù hợp với nhu cầu an ninh của đất nước. Mình có niềm tin nơi lãnh đạo. Nhưng trong quá trình thực hiện chính sách, mình đã khám phá ra nhiều việc đau lòng. Bát Nhã đã trở thành công án của đời mình. Mình mất ăn, mất ngủ. Giữa đêm mình thức dậy. Mình tự hỏi nhóm người này đã làm gì để mình phải nhìn họ như là những phần tử phản động, có hại cho an ninh. Họ có vẻ rất bình an;  chính mình mới không có đủ bình an trong lòng. Không có bình an trong lòng, mình làm sao giữ gìn và thiết lập được sự bình an trong xã hội? Trên phương diện luật pháp, họ không có tội tình gì cả. Sự thực là mình đã đứng về phía những người muốn chiếm hữu tài sản của họ, buộc họ phải rời nơi mà họ đã cư trú trong nhiều năm, nơi mà cơ sở đã do chính họ góp phần tạo dựng. Mình đã làm đủ mọi cách để cho họ đi, nhưng họ đã nhất định không chịu đi. Họ có vẻ thương yêu nhau, đoàn kết với nhau. Họ sống một đời sống lành mạnh. Tuy họ trẻ tuổi, nhưng không ai rơi vào vòng ma túy, hút xách, đĩ điếm. Họ sống đơn giản, ăn chay, ngồi thiền, nghe kinh, pháp đàm, hoàn toàn bất bạo động. Họ không có vẻ gì là nguy hiểm. Họ không hề có một lời nói hoặc hành động nào chống báng nhà nước. Mình không thể nói là họ phản động, là họ làm chính trị được. Vậy mà cuối cùng mình phải nói họ là phản động, là làm chính trị. Mình đã tìm mọi cách để cho họ bỏ đi: dụ dỗ, dọa nạt, cúp điện nước, kiểm soát hộ khẩu mỗi ngày, và trong suốt nhiều tháng lúc nào cũng tới chùa vào ban đêm để sách nhiễu họ, để họ nản lòng. Họ đã không trách móc, họ lại còn mời mình ngồi lại, hát cho mình nghe và đòi chụp ảnh với mình nữa. Cuối cùng mình phải thuê côn đồ tới để phá phách, để đánh đập, để buộc họ ra đi. Và mình cũng phải mặc thường phục đến để chỉ huy, để chỉ cho người mình thuê biết ai là những người dẫn đầu để mà thanh toán. Họ không chống trả. Vũ khí của họ chỉ là niệm Phật, ngồi thiền, và nắm lấy tay nhau, để mình không thể gỡ họ ra từng người mà tống lên xe được. Có cả một vị thiếu tướng từ trung ương vào để chỉ huy trận đánh. Tại sao phải huy động một lực lượng hùng hậu như thế, từ trung ương đến địa phương, để đánh dẹp một nhóm người tay không hiền lành như thế? Tại sao hơn một năm trời mà không dẹp được họ? Họ có gì để phải bám víu vào cái chùa này? Chỉ có ngày hai bữa cơm chay, chỉ có ngày ba buổi ngồi thiền, một buổi pháp thoại, một buổi thiền hành? Tại sao đông như thế, trẻ như thế mà họ sống chung với nhau an lành được như thế? Trong bọn họ có những đứa tốt nghiệp đại học, con của cán bộ cấp cao, có việc làm, có lương cao, nhưng đã bỏ tất cả để đến sống đời đạm bạc tu hành. Phải có một cái gì hay ho lắm mới hấp dẫn được họ như thế chứ? Đâu có thể nói là chỉ vì họ nghe lời đường mật của một người nào đó sống ở nước ngoài, để chống lại nhà nước ta? Bởi vì lệnh trên đã đưa ra, mình phải thừa hành thôi, nhưng mình rất hổ thẹn với lương tâm mình. Trước kia, mình đã nghĩ là những thủ đoạn ấy chỉ để sử dụng tạm thời vì nước vì dân, vì sự nghiệp đại đoàn kết. Nhưng bây giờ mình đã thấy những thủ đoạn ấy là gian trá, là thấp hèn, là trái với lương tâm con người. Mình bắt buộc phải giữ những cảm nghĩ này cho riêng mình. Mình không dám nói cảm nghĩ ấy ra dù với những người trong cùng đơn vị, huống hồ là nói với cấp trên. Mình đi tới cũng không được, mà tìm cách thoát khỏi guồng máy cũng không xong. Phải làm thế nào đây để mình có thể sống thật được với chính mình?

***

Mình thuộc hàng giáo phẩm của Giáo Hội. Bát Nhã đã trở thành một trăn trở lớn. Những người tu trẻ ấy,  mình biết là họ có tu thật. Ai đã từng thăm viếng và tiếp xúc với họ đều thấy như thế. Nhưng tại sao mình bất lực không che chở được cho họ? Tại sao mình phải sống và hành xử như một nhân viên của chính quyền? Tách rời chính trị khỏi tôn giáo, giấc mơ này đến bao giờ mới thực hiện được? Trong thời Thực dân, trong thời ông Diệm và ông Thiệu, tuy hành đạo có khó khăn thật đấy, nhưng người tu cũng không bị kiểm soát gắt gao quá đáng như trong hiện tại. Người ta chỉ muốn có một đạo Phật của tín mộ, của thờ cúng, người ta không muốn có một đạo Phật có khả năng lãnh đạo tinh thần và văn hóa đạo đức cho quốc dân. Một đạo Phật thật sự có uy quyền lãnh đạo tinh thần, người ta rất sợ. Người ta chỉ chấp nhận được một tổ chức Giáo Hội mà người ta có thể kiểm soát được, sai sử được. Ngày xưa đức Thế Tôn cũng đã không chịu khuất phục trước bạo quyền, kể cả bạo quyền của vua A Xà Thế. Trong thời Pháp thuộc, trong thời ông Diệm, ông Kỳ và ông Thiệu, các bậc cha anh của mình cũng đã tranh đấu. Tại sao bây giờ mình không tiếp nối được công hạnh ấy, tại sao mình phải chấp nhận vai trò làm công cụ cho một đường lối chính trị không muốn cho phép mình vươn dậy trên con đường lý tưởng, thực hiện hoài bão cao cả của bồ đề tâm?

Ban đầu mình nghĩ rằng bó thân theo nhà nước thì còn có cơ hội làm được một ít “Phật sự”, còn nếu chống nhà nước thì hoàn toàn là sẽ không làm được gì, do đó mình đã phải ẩn nhẫn chịu đựng mọi chê trách của các bạn đồng liêu để đi vào guồng máy. Nhưng sau đó mình lại thấy rất rõ ràng rằng chính nhờ các vị ở ngoài Giáo Hội có can đảm nói lên tiếng nói phản kháng cho nên người ta mới để cho mình làm được một ít công việc Phật sự. Mình sẽ trả lời như thế nào với lịch sử? Ý nguyện của mình là vực dậy một nền Phật giáo sinh động có công năng phục vụ dân tộc và đất nước, không phải là chiếm giữ một chức vụ trong guồng máy kiểm soát Phật tử.

Vị thượng tọa kia bị áp lực không cho phép được tiếp tục bảo lãnh cho các tăng sinh tiếp tục tu học tại chùa, không đủ sức kháng cự, phải buộc lòng phản thầy, phản bạn, đi ngược lại lời nguyền và sự cam kết long trọng của mình cách đây chỉ có mấy năm. Tội nghiệp cho vị ấy. Nhưng vị ấy là ai? Vị ấy có mặt ngoài mình hay có mặt ngay trong tự thân mình ? Mình cũng đang bị áp lực, không dám nói và làm những gì mình nghĩ để có thể bảo hộ cho con em của chính mình. Có phải hoài bão sâu sắc của mình là “Tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”? Vậy mà vì cớ gì mình đành phải bất lực nhìn các học tăng, học ni con em của mình bị đàn áp, nhục mạ và chà đạp? Mình sẽ nhìn con cháu mình bằng mặt mũi nào? Chân diện mục của mình là gì? Mình là ai?

Mình là huynh đệ với nhau, cùng là đệ tử của đức Thế Tôn, nhưng có phải vì công phu thực tập xây dựng tình huynh đệ của mình chưa đủ vững chắc, cho nên mình mới bị người ta chia rẽ và kết quả là mình đã giận hờn nhau, trách móc nhau? Theo nguyên lý thị hiện của Phật dạy thì đáng lý dù theo Giáo Hội này hay Giáo Hội kia, mình cũng vẫn là anh em của nhau, bên nào làm việc bên ấy mà không cần phải chống đối nhau và xem nhau như thù nghịch. Đó phải chăng là vì sự thực tập của mình còn yếu kém? Đó phải chăng là vì đạo lực của mình chưa đủ cao cường? Nhưng mình đã học được bài học: nếu ngay tự bây giờ mình biết nhìn nhận nhau, hòa giải với nhau thì mình vẫn có thể vực dậy tình huynh đệ ngày xưa, gây niềm tin cho quốc dân và làm gương cho bốn chúng. Dù có trễ nhưng vẫn còn kịp thời. Chỉ cần một giây phút giác ngộ là tình trạng đạo pháp sẽ thay đổi. Hình như Bát Nhã ngày nay đã học được bài học ấy: những vị xuất gia tu học ở đây, số lượng có cả đến 400 vị, nhưng khi bị đánh đuổi họ đã không bao giờ tỏ vẻ thù hận vị thượng tọa đã từng cưu mang họ trong bao nhiêu năm. Họ biết rằng vị thượng tọa ấy vì chịu áp lực rất nặng nên đã bị bắt buộc phải mời họ ra khỏi chùa. Mình bị dồn vào phía phải phản bội huynh đệ mình, đó là vì pháp lực của mình chưa tới mức cao cường. Mình phải quyết tâm hạ thủ công phu thế nào để đạt cho được mức đạo lực ấy? Có hiểu mới có thương. Mà đã thương thì sẽ không còn xem nhau như là thù nghịch. Xem nhau như là thù nghịch tức là còn làm nạn nhân cho những âm mưu chia rẽ.

Người Phật tử Việt Nam, từ hai ngàn năm nay, thời nào cũng thuần kính tôn ngưỡng Tam Bảo, một lòng quy ngưỡng Phật, Pháp và Tăng. Vậy mà bây giờ có những nhóm người được thuê mướn, mang guốc dép đi vào Phật điện giăng biểu ngữ, chửi bới, ném phân thối vào chư vị tôn túc, đập phá chùa, hành hung, đánh đuổi các thầy và các sư cô ra khỏi chùa. Các viên chức chính quyền đã thuê mướn họ, nói họ là Phật tử. Đó là một hành động vu cáo Phật giáo, bôi bẩn lịch sử. Hành động này làm cho mình muốn nôn mửa, nhưng tại sao mình không dám nói lên ? Giáo hội Phật giáo có khả năng minh oan cho người Phật tử khi người Phật tử bị bôi xấu và bị vu oan giá họa không ?

Bát Nhã không phải là một vấn đề mà ban Thường Trực Giáo Hội phải giải quyết cho xong. Bát Nhã là một công án, một vấn nạn của đời mình. Mình sẽ phải giải quyết như thế nào để đừng hổ thẹn với chư vị tổ sư, với những bậc tiền bối? Tại sao mình không nói được cảm nghĩ chân thành của mình với các vị đồng liêu trong guồng máy Giáo Hội? Tại sao mình không được phép thực tập phép Kiến hòa đồng giải, mà phải che dấu tư tưởng và cảm nghĩ của mình?

***

Mình là một thành phần của Ban Tuyên Giáo Trung Ương, một ủy viên Bộ Chính Trị hay một ủy viên Trung Ương Đảng. Bát Nhã là cơ hội để mình quán chiếu sự thật và tìm ra được bình an trong tâm mình. Không có bình an thì làm sao có hạnh phúc. Mà làm sao để có bình an khi mình chưa thực sự tin vào con đường mà mình đang đi, và nhất là không có niềm tin nơi những người được xem như là bạn đồng hành? Có phải là mình đang cùng ngủ chung trên một chiếc giường, nhưng mỗi người đều có riêng một giấc mộng? Tại sao mình không chia sẻ những cái ưu tư và cái cảm nghĩ của mình với những người mà mình gọi là đồng chí, có phải vì mình sợ bị lên án là đánh mất lập trường? Tại sao tất cả mọi người đều cùng nói như nhau về cái ấy, trong khi không một ai thật sự tin vào cái ấy, cũng giống như trong một câu chuyện cổ tích của Hans Christian Andersen, tất cả các quan trong triều đều khen là vua đang mặc một cái áo rất đẹp, trong khi đó thật sự vua đang ở trần?

Giấc mộng đẹp nhất là hạnh phúc của mình được hòa làm một với hạnh phúc của quê hương. Cây có cội, nước có nguồn, quê hương có cội nguồn tuệ giác và tâm linh của nó. Đời Lý là một đời thuần từ nhất trong lịch sử đất nước. Đời Trần dân tộc hùng mạnh, đoàn kết, dư sức đẩy lùi những cuộc xâm chiếm của phương Bắc. Đó là nhờ công trình giáo hóa của đạo Phật, một con đường tâm linh có đặc tính khoan dung, có thể chấp nhận và đi song hành với các tư trào tâm linh và đạo đức khác như Lão học và Khổng học để cùng xây dựng đất nước mà không có nhu yếu phải loại trừ ai.

Mình có duyên học hỏi, mình biết rằng đạo Phật không phải là một tôn giáo thần quyền, mà là một chủ nghĩa nhân bản rất là vững chãi. Đạo Phật có tinh thần cởi mở và phá chấp, nghĩa là tinh thần khoa học, và trong thế kỷ mới, đạo Phật có thể đi song hành thoải mái với khoa học. Khoa học đây là tinh thần khoa học, thái độ sẵn sàng buông bỏ cái thấy cũ để có cơ hội đạt tới cái thấy mới. Khoa học mới đã vượt xa khoa học cũ, nhất là trong lĩnh vực vật lý vi mô. Cái mà ta cho là khoa học ngày xưa bây giờ có còn là khoa học nữa không? Tâm và vật chỉ là hai mặt biểu hiện của cùng một thực tại: cái này ôm lấy cái kia, cái này dựa trên cái kia mà biểu hiện. Khoa học hiện đại đang nỗ lực vượt thoát lối tư duy nhị nguyên như tâm và vật, trong và ngoài, chủ thể và đối tượng, thời gian và không gian, vật thể và tốc độ, v.v.. Khi còn vướng bận những phiền não như giận hờn, lo lắng, đam mê và kỳ thị thì tâm chưa thể nào có đủ niệm và định để phát kiến được sự thực dù ta đang có những dụng cụ máy móc tinh vi nhất. Bởi vì đằng sau máy móc còn có tâm quan sát.

Hình như ta đã biết sở dĩ toàn dân kiên trì yểm trợ cho cách mạng đó là vì lòng yêu nước chứ không phải là vì một chủ nghĩa. Nếu không dựa vào lòng yêu nước của nhân dân mà chỉ biết thờ phụng một chủ nghĩa thì chắc chắn ta đã thất bại. Đọc lại lịch sử, ta đã thấy rằng vì thái độ vồ vập và cuồng tín vào chủ nghĩa, nên đã có những thanh toán lẫn nhau trong đoàn ngũ kháng chiến ; những vết thương ấy của dân tộc mãi cho đến bây giờ vẫn chưa được chữa lành.

Ta thử hỏi : đứng về phương diện đấu tranh giai cấp mà nói, thì hiện thời giai cấp nào đang thực sự nắm quyền cai trị ? Giai cấp vô sản hay giai cấp tư bản ? Ta có đang tin rằng, tư bản nhân dân là một chuyện có thật, hay đó chỉ là một diễm từ ?

Ta biết nếu muốn thành công, ý Đảng phải đi theo với lòng Dân. Lòng dân là muốn cho người tu được phép tu tập và giúp đời theo cách họ muốn, trong khuôn khổ của pháp luật. Lòng dân là muốn cho mọi người công dân ai cũng có cơ hội được nói lên cái thấy cái nghĩ của mình mà không sợ bị trừng phạt, đe dọa và tù tội. Lòng dân là muốn tách rời tôn giáo ra khỏi chính trị và chính trị ra khỏi tôn giáo. Lòng dân mà được thỏa thì tự nhiên có sự đoàn kết và Đảng sẽ được ủng hộ. Đảng không cần phải hô hào đoàn kết và kêu gọi sự yểm trợ nữa, một khi Đảng đã có được lòng dân. Lòng Dân như thế, ý Đảng thế nào?

Ta biết tinh thần khoan dung của đạo Phật đời Lý và đời Trần đã đem lại sự đoàn kết đích thực của toàn dân, vì theo tinh thần ấy tất cả mọi người yêu nước đều có cơ hội góp phần vào công trình xây dựng và bảo vệ đất nước mà không ai bị loại bỏ ra ngoài. Tinh thần dung hợp không kỳ thị ấy trong đạo Phật gọi là xả, một trong bốn đứcVô Lượng Tâm là từ, bi, hỷ và xả. Đó là một di sản tinh thần quý báu trong kho tàng văn hóa dân tộc. Ta biết được rằng trong các đời Lý và đời Trần, những người làm chính trị đều tu tập theo đạo Phật cùng với dân chúng, vua cũng giữ giới, ăn chay, làm việc thiện, vì vậy đã được dân chúng trong nước tin cậy.

Làm sao bài trừ được những tệ nạn xã hội như ma túy, đĩ điếm, cờ bạc, bạo hành, tham nhũng, lạm quyền, v.v. khi chính những viên chức nhà nước có phận sự bài trừ tệ nạn cũng đang bị vướng vào những tệ nạn ấy? Quốc sách thôn ấp văn hóa, khu phố văn hóa làm sao thành công được chỉ với sự kiểm soát và trừng phạt suông? Ai là người cần được kiểm soát và trừng phạt trước hết?

Ta biết rằng gia đình nào có tu tập có giữ giới là gia đình ấy có an vui và có hạnh phúc. Đạo Phật trong hai ngàn năm qua đã giáo hóa dân chúng giữ gìn phong hóa bằng cách thực tập ăn chay giữ giới. Ăn chay tượng trưng cho sự tiết dục, nghĩa là giảm bớt dục vọng. Người Phật tử tự nguyện ăn chay, giữ giới và làm việc nhân đức chứ không bị ai bắt ép làm việc ấy, cũng như không ai bị trừng phạt vì không làm việc ấy. Bây giờ đây những người tu trẻ đang có chí hướng vực dậy nếp sống phong hóa ấy và họ đang có triển vọng thành công, thế thì tại sao ta lại đánh dẹp họ? Ta sợ họ có quần chúng thì ta mất quần chúng hay sao? Tại sao ta không phát tâm tu học như họ, đồng nhất với họ, để có được sự hưởng ứng và yểm trợ của họ? Tại sao ta không làm được như các vua đời Lý và đời Trần? Hay tại vì ta là người Mác-xít, ta không có quyền quy y, ăn chay và giữ giới?

Ta biết trong Đảng và trong chính quyền hiện giờ nhiều người đã nói rằng họ đang có một cái nhìn thông thoáng hơn về các vấn đề tôn giáo và tâm linh. Sự thực là các ông lớn bây giờ ai cũng có tin vào phong thủy, vào vận mạng, vào ngoại cảm, vào đổi mạng. Điều này chứng tỏ từ một thái cực này người ta đã đi sang thái cực khác. Trong khi đó người ta vẫn cố gắng giữ để cho bề ngoài mình không có vẻ mê tín dị đoan.

Các vua Lý và vua Trần đã thực sự tin tưởng ở con đường đạo đức tâm linh, do đó nhiều vị đã sống được nếp sống đạo đức gương mẫu, và có thể vì vậy cho nên dân mới làm theo. Một ông vua giữ giới, ăn chay, gửi chăn chiếu vào các nhà tù để cho tù nhân bớt khổ vì cái lạnh, đi vi hành để thấy được nếp sống thực sự và nguyện vọng của người dân, một ông vua biết ngồi thiền, tham cứu công án, thực tập sám hối một ngày sáu thời, dịch kinh, biết nương vào đức độ và lời khuyên dạy của một vị thiền sư mà mình tôn quý như một vị quốc sư, một ông vua nhường ngôi cho con để xuất gia tu hành khổ hạnh trên núi Yên Tử, một ông vua như thế có thể làm gương đạo đức cho cả nước. Ngày nay, ta hô hào vận động cán bộ và quần chúng “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhưng có được mấy ai trong tổ chức ta đang sống được như một người gương mẫu cho các đồng chí của mình? Đạo Phật Đại Thừa dạy: “Anh phải là con người ấy. Anh phải làm gương mẫu. Anh phải sống như thế thì anh mới gây cảm hứng cho người khác sống như thế.” Ta biết tham nhũng và lạm quyền đã trở thành một quốc nạn. Ta biết ta đã hô hào bao nhiêu năm nhưng chẳng có kết quả gì và tình trạng càng ngày càng trở nên trầm trọng. Tại sao? Có phải tại vì ta chỉ biết dựa vào hào quang của tiền nhân để tự hào, để khoe khoang là ta có một quá khứ vẻ vang, nhưng trong hiện tại, ta không làm được những gì mà cha ông ta đã làm được trong quá khứ? Rồi ngày nay nếu có những người trẻ tuổi đang tìm cách làm việc ấy cho ta thì ta lại ngăn cản và đàn áp họ?

Vụ Bát Nhã có thể đã bắt đầu bằng chuyện làm ăn của một công ty du lịch do những người công an chủ trương, liên hệ tới khách sạn và thị thực nhập cảnh, rồi sau đó thêm vào sự lạm quyền và thù oán để cuối cùng trở thành một chủ trương mà nhà nước phải đi theo. Có thể ta không có thì giờ xem xét mà chỉ tin vội vào những báo cáo đặt điều. Rồi ta để cho nhân viên dưới quyền sử dụng những biện pháp lừa dối, gạt gẫm, đàn áp những người dân hiền lành chưa từng gây ra một rối loạn nào cho xã hội. Và cuối cùng ta bị đặt vào cái thế phải xem là kẻ thù những gì theo nguyên tắc ta đã từng muốn tôn quý. Kẻ thù của ta có đích thực là những “thế lực thù nghịch” bên ngoài hay không? Kẻ thù ta nằm ngay nội bộ: những con ong mà ta nuôi trong tay áo của ta. Liệu ta có đủ can đảm và thông minh để đối trị với những yếu kém của chính ta không, đó là câu tham vấn căn bản.

Pháp môn Làng Mai có thể là cơ hội hiếm có để hiện đại hóa đạo Phật ở Việt Nam, và bốn năm hành trì ở Việt Nam hình như đã chứng tỏ được khả năng của pháp môn ấy. Vậy thì tại sao ta lại chịu áp lực của Trung Quốc để đàn áp và tiêu hủy ngay một nguồn sinh lực quý báu của ta ? Ta nhận được cái gì quý giá của người khác trong khi ta bị tước đoạt cái quý giá mà ta đang có?

Cách thức ăn mừng Một Ngàn Năm Thăng Long hay nhất có thể là cùng nhau nỗ lực tu tập, làm được và sống được như Lý Công Uẩn, như Trần Thái Tông, như Trần Thánh Tông, như Trúc Lâm Đại Sĩ, như Tuệ Trung Thượng Sĩ. Các vị ấy là những nhà chính trị nhưng đồng thời cũng là những người sống thật sự nếp sống tâm linh mà họ tin tưởng. Ta có cái gì để tự hào, ngoài cái quá khứ hào hùng của cha ông? Ta đã đánh mất lý tưởng cách mạng, đã làm tàn rụi ngọn lửa thiêng cách mạng, và những người đồng chí của ta không thật sự còn là những người đồng chí, bởi vì trong họ ngọn lửa thiêng cách mạng đã tắt. Lý do họ có mặt trong hàng ngũ là quyền lợi, danh vọng và chỗ đứng của họ. Pháp môn thực tập Làng Mai là một phần trong di sản văn hóa đất nước, hiện thời đang có khả năng đóng góp đáng kể cho một nền văn minh đạo đức toàn cầu, không phải chỉ trên mặt lý luận mà quan yếu nhất là trên mặt thực tế. Biết bao nhiêu người trên thế giới đã biết đến và đã thừa hưởng được sự giáo hóa này. Ta đã biết hãnh diện về nó, tại sao ta lại để cho xảy ra chuyện đánh phá và triệt tiêu nó ngay trong mảnh đất sinh thành ra nó? Đó là những câu hỏi mà nếu ta để cho chúng tác động trong phần sâu thẳm của tâm thức ta thì chúng sẽ có thể làm bật lên cái tuệ giác mà ta cần có để thấy được con đường và cách hành xử mà ta đang trông đợi.

***

Mình là một vị nguyên thủ quốc gia hoặc một vị bộ trưởng, nước mình có hay không có chân trong Hội Đồng Bảo An hay Ủy Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc. Mình biết các vụ như Bát Nhã, Tam Tòa, cũng như những vụ Thiên An Môn, Tây Tạng v.v.. đều là những vụ vi phạm trầm trọng về nhân quyền; nhưng vì quyền lợi quốc gia, vì muốn bán vũ khí, máy bay, xe lửa cao tốc, nhà máy điện lực nguyên tử, và những kỹ thuật mới khác, vì muốn hợp tác thương mại đầu tư, muốn có thị trường tiêu thụ các hàng hóa khác mà mình sản xuất, cho nên  mình đã không dám mạnh dạn lên tiếng và đi tới những quyết định có thể gây sức ép trên quốc gia liên hệ để họ sớm chấm dứt việc vi phạm nhân quyền trong nước họ. Mình cảm thấy hổ thẹn, lương tâm mình không an ổn. Nhưng vì muốn đảng và chính quyền mình thành công nên mình đành cam chịu nói rằng những vi phạm nhân quyền của các nước ấy cũng chưa đến nỗi nào. Mình cũng đang ở trong một guồng máy, mình chưa thật sự được là mình, vì mình đang không nói được cảm nghĩ và cái thấy chân thật của mình về tình trạng. Mình làm sao để có sự an tâm và không hổ thẹn với chính mình? Bát Nhã là một vấn đề nhân quyền ở Việt Nam nhưng cũng là một công án cho một nhà lãnh đạo chính trị cao cấp như mình. Làm sao để mình không bị lương tâm cắn rứt và thực sự có hạnh phúc ?

***

Công án Bát Nhã là của mọi người, là của mỗi cá nhân và cũng là của từng tập thể. Công án ấy có thể được tham cứu bởi một vị tu sinh Bát Nhã, một học tăng đang theo học tại một trường Trung Cấp Phật Học trong nước, một vị Thượng Tọa trong Giáo Hội, một chú Công an, một ông Bộ trưởng, một vị Linh mục Công giáo, một vị Mục sư Tin lành, một ủy viên Bộ Chính Trị, một vị chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân Thành Phố, một bí thư Tỉnh Ủy, một ủy viên Trung Ương Đảng, một nguyên thủ quốc gia, một chủ bút nhật báo hay tạp chí, một nhà trí thức, một nhà nghệ sĩ, một nhà doanh thương, một giáo chức, một ký giả, một vị trú trì, một vị đại sứ. Bát Nhã là một cơ hội, vì Bát Nhã có thể giúp ta thấy được rõ ràng những gì mà lâu nay ta chưa thấy hoặc chưa muốn thấy.

Trong truyền thống Thiền, có những khóa tu bảy ngày, hăm mốt ngày, bốn chín ngày, v.v.. trong đó vị thiền giả để hết tâm ý vào công án. Giờ phút nào trong đời sống hàng ngày cũng là giây phút tham cứu : khi ngồi (thiền tọa), khi đi (thiền hành), khi thở, khi ăn, khi chải răng, khi giặt áo, v.v.. lúc nào tâm ý cũng tập trung vào công án, nghĩa là vào đối tượng tham cứu.  Khóa thiền phổ thông nhất là khóa bảy ngày, gọi là thiền thất. Thất đây có nghĩa là bảy. Mỗi ngày, tất cả các hành giả đều được tiếp xúc với vị thiền sư trong giờ khai thị. Vị thiền sư có thể đưa ra những chỉ dẫn giúp cho thiền giả tập trung tâm ý vào đúng chỗ. Khai nghĩa là mở ra, thị có nghĩa là chỉ cho thấy. Mở vấn đề ra, chỉ cho ta thấy rõ vấn đề hơn. Khai thị không có nghĩa là trao truyền sự thật. Sự thật, hành giả phải tự chứng nghiệm. Vị thiền sư có thể nói những lời khai thị trong vòng mười phút, rồi các thiền giả trở về chỗ ngồi của mình để tham cứu. Có khi hàng trăm vị thiền giả cùng ngồi tham cứu ở thiền đường, ngồi xoay mặt vào vách. Sau một thời ngồi thiền, lại có một thời đi thiền. Các hành giả đi chậm, mỗi bước chân đưa mình về với công án. Đến giờ ăn, có thể được ăn ngay trên chỗ ngồi thiền của mình, vừa ăn vừa quán chiếu. Đi đại tiện, tiểu tiện cũng là cơ hội quán chiếu. Im lặng hùng tráng rất cần thiết cho sự tham cứu thiền, cho nên ở bên ngoài thiền đường luôn luôn có bảng treo ‘chỉ tịnh’.

Ngày xưa, vua Trần Thái Tông ngộ đạo nhờ tham cứu công án “bốn núi” và công án “con người thật không có vị trí (vô vị chân nhân) ”. Thiền sư Liễu Quán ở Phú Yên ngộ đạo nhờ tham cứu công án “tất cả đi về một, một đi về đâu? ” và đã đệ trình kiến giải tại chùa Ấn Tôn (Từ Đàm), Huế.

Muốn thành công trong sự tham cứu công án, phải có khả năng buông bỏ mọi kiến thức, mọi ý niệm và mọi lập trường mình đang có. Vướng vào một tư kiến, một lập trường hay một ý thức hệ thì mình không còn có đủ tự do để cho công án có thể bung ra trong tâm thức của mình. Phải buông bỏ tất cả những cái gọi là sở tri, nghĩa là những cái mình đã tiếp nhận trước kia, những cái mà mình từng xem là sự thật. Nếu mình tin là mình đang nắm trong tay sự thật rồi thì cánh cửa của mình đã đóng lại, và dù bây giờ sự thật có tới gõ cửa, mình cũng không chịu mở cửa. Vì vậy cho nên sở tri là một chướng ngại, gọi là sở tri chướng. Đạo Phật đòi hỏi tự do. Tự do tư tưởng là nền tảng căn bản của tiến bộ. Đó đích thực là tinh thần khoa học. Chính trong không gian thênh thang ấy mà đóa hoa tuệ giác có một cơ hội nở ra.

Trong truyền thống thiền, tăng thân là một yếu tố rất tích cực. Khi cả mấy trăm hành giả cùng yên lặng tham cứu với nhau, thì năng lượng tập thể của niệm (ý thức) và của định (tập trung) rất hùng hậu. Năng lượng tập trung của mình nhờ vậy được nuôi dưỡng trong từng giây phút và công án có rất nhiều cơ hội để bung ra. Môi trường này rất khác môi trường của một hội nghị, một tọa đàm hay một buổi họp. Vì kỷ luật của thiền môn rất nghiêm túc và vì khung cảnh của thiền môn rất thuận lợi cho sự tập trung, thêm vào đó có sự hướng dẫn của vị thiền sư và sự yểm trợ yên lặng của các bạn thiền giả, nên ta có nhiều cơ hội để thành công.

Những điều đề nghị ở phần trước có thể được xem là những lời khai thị có công năng giúp một phần nào cho công trình tham cứu. Phải xem đó là dụng cụ, đừng cho đó là chân lý. Đó là chiếc bè qua sông để tới bờ bên kia, mà không phải là bờ bên kia. Qua tới bờ bên kia thì phải vứt bỏ chiếc bè. Nếu quý vị quán chiếu thành công, có tự do, thấy được con đường rồi thì quý vị có thể đem đốt những lời khai thị ấy, hoặc liệng nó vào sọt rác.

Xin chúc tất cả liệt vị thành công trong việc tham cứu công án Bát Nhã.

Nhất Hạnh

Bài học đầu tiên về thực tập chánh niệm

(Trích trong sách “Quyền Lực Đích Thực” của Sư Ông Làng Mai)

Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm. Một hôm Thầy sai tôi đi làm một việc. Tôi hăng hái, hấp tấp, đi nhanh ra và khép cửa vội vàng. Thầy kêu tôi lại: “Này con, con lại đây.” Tôi trở lại, đứng vòng tay chờ. Thầy tôi nói: “Con đi ra lại và khép cửa cho đàng hoàng coi.” Đó là bài học đầu tiên của tôi về thực tập chánh niệm. Khi đó tôi đi ra trong chánh niệm, ý thức từng bước đi, nắm lấy cánh cửa trong chánh niệm, và mở cửa trong chánh niệm. Kể từ đó Thầy tôi không còn phải dạy tôi cách đóng cửa lần thứ hai.

Khi nắm tay một em bé, ta hãy để tâm một trăm phần trăm vào bàn tay em. Khi ôm người thương trong vòng tay cũng thế. Hãy thực sự có mặt, thực sự tỉnh thức. Điều này trái ngược hẳn với cách sống và làm việc của ta trước đây. Chúng ta từng có thói quen làm nhiều việc cùng một lúc. Vừa trả lời e-mail vừa nói điện thoại. Trong khi đang họp về một dự án này, ta viết xuống những ghi chú cho một dự án khác. Kỹ thuật hiện đại hứa hẹn sẽ giúp ta làm được nhiều việc cùng một lúc. Bây giờ, chỉ với một máy nhỏ chúng ta có thể gửi e-mail, nghe nhạc, điện thoại, và chụp hình. Năng lượng bị phân tán như thế thì còn gì là năng lượng?

Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập. Ta rất thông minh và hiểu ngay như vậy, nhưng như thế không có nghĩa là ta có thể làm được ngay. Ta phải thực tập và tự rèn luyện mỗi ngày.

Trước hết, phải thực tập chánh niệm để thấy được bản thân, sau đó ta chú ý tới gia đình của mình vì gia đình là tổ ấm. Không thể chỉ quan tâm đến nghề nghiệp mà sao lãng gia đình được. Có thể gia đình ta đang có đau khổ, sợ hãi hay lo lắng. Chánh niệm giúp nhận diện niềm đau nỗi khổ và chuyển hóa chúng. Bạn có thể nói với chồng mình rằng: “Em biết rằng anh đang đau khổ. Em đang có mặt cho anh đây. Chúng ta hãy cùng nhau ôm ấp niềm đau nỗi khổ đó và chuyển hóa chúng.” Bạn cũng nói như vậy với vợ của bạn: “Anh biết rằng em đang đau khổ. Anh đang có mặt cho em đây. Chúng ta hãy cùng nhau ôm ấp niềm đau nỗi khổ đó và chuyển hóa chúng.” Chánh niệm là khả năng có mặt một trăm phần trăm. Khi thương, món quà quý nhất mà ta hiến tặng người ta thương là sự có mặt đích thực của ta. Ta không thể mua khả năng hiến tặng niềm vui và chuyển hóa khổ đau.

Sau đó chánh niệm sẽ giúp ta hiểu rõ tình hình tại nơi làm việc. Dù ở địa vị nào, một giám đốc có hàng trăm nhân viên hay một công nhân làm việc một mình, với chánh niệm, ta đều có thể quán chiếu và nhận biết ưu điểm hay khó khăn cũng như đau khổ trong công ty. Ta sẽ nhận diện được những niềm đau nỗi khổ, những lo sợ của đồng nghiệp hay nhân viên và nói: “Tôi đang có mặt cho anh, cho chị đây. Tôi biết rằng anh, chị đang đau khổ. Chúng ta sẽ cùng nhau ôm ấp và chuyển hóa niềm đau nỗi khổ đó. Chúng ta sẽ tìm mọi cách để giải quyết khổ đau của chúng ta.” Sự thực tập này chẳng khác gì thực tập cho bản thân hay cho gia đình mình. Năng lượng của chánh niệm và khả năng nhìn sâu sẽ giúp ta tìm ra tuệ giác để chuyển hóa tình trạng và chữa lành.

Chánh niệm là khả năng có mặt một trăm phần trăm. Năng lượng của chánh niệm giúp ta nhận biết những gì đang có mặt chung quanh ta. “Những gì” đó có thể là chính ta, có thể là người thương của ta. Nếu không có khả năng trở về với giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, thì không thể nào nhận diện được chính mình, nhận diện được hạnh phúc cũng như khổ đau của mình. Không có khả năng có mặt đích thực thì không thể nhìn rõ những người khác và sẽ khiến họ có cảm giác bị bỏ quên, bị hiểu lầm hay ghét bỏ. Rồi họ sẽ đau khổ và từ đó làm bạn đau khổ. Nếu không có chánh niệm thì không thể giúp mình hay giúp người, không thể thành công trong công việc. Nếu không có chánh niệm thì bất cứ quyền lực nào trong tay cũng chỉ là tạm bợ và không đem lại thỏa mãn rốt ráo.

Chánh niệm rất cụ thể. Khi chú ý tới hơi thở là ta đã có chánh niệm rồi. Thở vào, ta chú ý tới hơi thở vào từ đầu cho tới cuối và nhủ thầm “vào”. Thở ra, ta chú ý tới hơi thở ra từ đầu cho tới cuối và nhủ thầm “ra”. Với hành động đơn giản ấy, thân tâm ta hợp nhất và ta sẽ thực sự có mặt. Chánh niệm cũng có thể có mặt trong một bước chân. Những lúc bạn bước đi, hãy đầu tư một trăm phần trăm vào mỗi bước chân và nhớ kết hợp bước chân với hơi thở một cách tự nhiên. Để ý xem ta bước mấy bước trong mỗi hơi thở vào, mấy bước trong mỗi hơi thở ra. Để giúp thêm, ta có thể nói thầm “vào”, “ra” khi bước. Ví dụ như khi thở vào bước ba bước, thì nói thầm “vào, vào, vào”. Khi thở ra bước bốn bước thì nói thầm “ra, ra, ra, ra”. Nếu thực tập trong nhà thì có thể đi chậm lại, cứ mỗi hơi thở vào bước một bước, mỗi hơi thở ra bước một bước. Còn thực tập ở ngoài trời thì tùy theo hơi thở của bạn dài hay ngắn, trong mỗi hơi thở bạn có thể bước hai, ba, hay bốn bước. Không nên cố ép hay thay đổi nhịp thở vì làm như vậy bạn sẽ thấy mệt. Chỉ hoàn toàn chú tâm vào bước chân và hơi thở. Thực tập này rất đơn giản nhưng hiệu quả vô cùng. Nhờ bước chân chánh niệm, hơi thở chánh niệm mà ta có thể trở về với tự thân, thực sự có mặt và tỉnh thức.
 

 
Phải hiểu chánh niệm trên bình diện vật lý. Thực tập trở về với cơ thể, trước hết, ta phải chế tác chánh niệm bằng hơi thở ý thức và bước chân ý thức, rồi sau đó nhận diện rằng cơ thể ta đang có đây và ta dịu dàng ôm ấp lấy cơ thể mình bằng chánh niệm. “Cơ thể ta ơi, ta biết ngươi có đó và ta sẽ săn sóc cho ngươi.” Cơ thể ta trở thành đối tượng thương yêu của ta.

Nếu không biết cách chăm sóc, không biết cách buông thư cơ thể, không để cho cơ thể có cơ hội nghỉ ngơi tức là ta đã không thương yêu cơ thể mình. Ta biết rằng cơ thể ta có khả năng tự chữa lành vết thương. Khi đứt tay ta biết rằng chỉ cần làm sạch vết thương và cơ thể ta sẽ tự lo liệu. Ta có thể hoảng sợ nếu quên đi rằng cơ thể ta có khả năng tự điều trị. Chỉ cần có cơ hội nghỉ ngơi là cơ thể có thể tự chữa lành mà chẳng cần thuốc men gì nhiều.

Khi một con vật bị thương nặng, nó biết phải làm gì. Nó tìm một chỗ vắng, nằm thật yên, nghỉ ngơi hoàn toàn trong vài ngày, không ăn uống gì hết. Nó rất khôn ngoan. Chỉ khi nào vết thương lành hẳn nó mới ra săn mồi. Có lúc, ta cũng có tuệ giác đó, nhưng chúng ta đã đánh mất khả năng biết nghỉ ngơi. Mới bắt đầu cảm thấy khó chịu ta đã hoảng hốt chạy đến bác sĩ xin đủ mọi thứ thuốc, chỉ vì ta không biết rằng, để cho cơ thể nghỉ ngơi là phương pháp điều trị hay nhất.

Có nhiều người than phiền rằng họ không có thì giờ đi nghỉ hè. Số khác có thể sắp xếp được để đi nghỉ hè, tuy nhiên lại không biết cách nghỉ ngơi. Chương trình nghỉ hè đầy ắp và sau kỳ nghỉ họ lại càng mệt mỏi hơn.

Chúng ta phải học cách buông thư toàn thân. Trong tư thế nằm, ta chú ý và buông thư từng phần của cơ thể, bắt đầu từ trên đầu và đi dần xuống dưới lòng bàn chân. “Thở vào, tôi ý thức toàn thân tôi. Thở ra, tôi buông thư toàn thân tôi. Thở vào tôi ý thức hai mắt tôi. Thở ra tôi mỉm cười với hai mắt tôi.” Cứ tiếp tục như thế với từng phần của cơ thể. Thay vì tia X-quang, ta “soi” cơ thể ta bằng tia Chánh Niệm. Soi đến một phần nào hay bộ phận nào của cơ thể đang bị đau yếu thì ta dừng lại lâu hơn, sử dụng năng lượng của chánh niệm để ôm ấp và mỉm cười với phần cơ thể hay bộ phận đó, làm như thế cơ thể sẽ bình phục mau hơn. Ta tự thực tập như thế mỗi ngày hay với những người trong gia đình, khi đã quen thuộc rồi, ta có thể hướng dẫn một buổi thực tập thiền buông thư cho bạn bè hay cả gia đình. Ta cũng có thể khuyến khích những người khác trong gia đình hướng dẫn buông thư toàn thân như vậy cho mọi người. Trẻ em rất có khả năng hướng dẫn người khác trong phép thực tập này.

Khi đã có khả năng ôm ấp cơ thể và giải tỏa căng thẳng, giúp cơ thể phục hồi, ta có thể trở về với tự thân, với những cảm thọ và những tâm hành. Mỗi chúng ta đều có kinh nghiệm về những cảm thọ dễ chịu hay cảm thọ khó chịu. Một trong những công năng của thực tập chánh niệm là chăm sóc cảm thọ khổ đau. Thường thường ta không muốn đối diện khổ đau bởi vì ta không biết cách chăm sóc khổ đau. Ta cũng thường nghĩ rằng nếu tâm đủ mạnh thì ta sẽ không còn cảm thấy đau khổ, rồi ta tìm cách che lấp khổ đau. Thay vì “thay chốt” và mời lên những hạt giống tích cực từ vùng tàng thức, ta lại trốn chạy những cảm thọ khó chịu bằng những hành động tiêu thụ thiếu chánh niệm. Ta bật ti vi lên, hoặc mở một cuốn sách, hay nhấc điện thoại, hay làm một việc gì đó để che lấp niềm đau nỗi khổ, sợ hãi, tuyệt vọng đang trấn ngự. Nhưng khi tiêu thụ những sản phẩm để tạm thời che lấp khổ đau thì ta cũng đồng thời đưa vào thân và tâm những yếu tố độc hại như tham dục, sợ hãi, lo lắng và làm cho tình thế càng thêm tồi tệ.

Cách hay nhất là ta phải trở về với tự thân. Hãy sử dụng năng lượng của chánh niệm để nhận diện và ôm ấp niềm đau nỗi khổ trong ta, như một bà mẹ ôm ấp đứa con mình. Chánh niệm là mẹ, đau khổ, buồn phiền, tuyệt vọng là con. Giữa mẹ và con không có tranh chấp. Năng lượng của chánh niệm sẽ nhận diện, ôm ấp và thoa dịu niềm đau. Khi nghe con khóc, người mẹ lập tức buông tất cả công việc xuống, chạy đến ôm em bé vào lòng. Mẹ có thể không biết lý do đã làm cho bé khóc, nhưng chỉ cần ẵm bé trong vòng tay với tất cả sự dịu dàng, thương yêu cũng đủ làm cho bé nín khóc. Cũng thế, ta có thể không biết rõ lý do đã làm cho ta đau khổ, buồn phiền, tuyệt vọng, nhưng nếu ta biết ôm ấp những khổ đau đó bằng năng lượng chánh niệm thì tức khắc ta cảm thấy tâm mình lắng yên, êm dịu lại vì năng lượng của chánh niệm đã hòa nhập vào năng lượng của khổ đau.

Hãy tưởng tượng một đóa hoa trong nắng sớm. Hoa chưa nở nhưng tia nắng đang ôm ấp hoa, năng lượng mặt trời đang thấm dần vào hoa. Mặt trời không chỉ chiếu quanh đóa hoa. Tia nắng mặt trời thấm vào hoa một cách tự nhiên và một giờ sau hoa sẽ bừng nở. Chánh niệm là mặt trời ôm ấp đóa hoa cảm thọ.

Nếu cứ để mặc, không chăm sóc nỗi sợ hãi, hờn giận, và tuyệt vọng thì những cảm xúc tiêu cực đó sẽ biến thành sức mạnh tàn phá. Nếu biết chế tác chánh niệm thì chánh niệm sẽ nhận diện và ôm ấp những cảm thọ khổ đau ấy. Thực tập hơi thở và bước chân chánh niệm không những nuôi dưỡng, tưới mát thân tâm mà còn giúp nhận diện và ôm ấp khổ đau. Thay vì sử dụng năng lượng để đè nén khổ đau, ta hãy sử dụng năng lượng đó để bảo toàn cơ thể. Ôm ấp khổ đau sẽ nuôi lớn chúng ta.

Nếu được cùng người thương ngồi trong chánh niệm (ngồi thiền), đi trong chánh niệm (đi thiền) thì sức mạnh của chánh niệm càng tăng gấp bội nhờ sự đóng góp của năng lượng thực tập từ người thương. “Mời anh/mời em đến đây cùng ngồi thiền với tôi, thiền hành với tôi. Tôi cần có anh/có em bên cạnh.” Nghe vậy, người thương sẽ đến, sẽ cùng ngồi, cùng đi với ta. Phối hợp năng lượng, ta sẽ dư sức ôm ấp khổ đau.
 

 
Càng có đông bạn hữu thực tập chung, năng lượng càng thêm mạnh. Năng lượng chánh niệm tập thể giúp cho sự thực tập ôm ấp niềm đau nỗi khổ dễ dàng hơn nhiều. Cho nên trong một cộng đồng mà mọi người cùng thực tập với nhau thì càng vui, hiệu quả lớn gấp bội, và năng lượng ngày càng thêm thâm hậu. Được năng lượng tập thể ấy bao bọc ta sẽ khỏe khoắn thêm ra, được nuôi dưỡng được trị liệu.

Chánh niệm là nền tảng cho những hành động phản ảnh quyền lực đích thực

Chánh niệm là sự đầu tư căn bản, là chìa khóa giúp ta nhìn vào đời sống nghề nghiệp.
Chánh niệm là năng lượng của sự tập trung tâm ý (định lực),
là khả năng có mặt một trăm phần trăm cho những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta,
là phép lạ giúp ta thực sự sống trọn vẹn từng giây phút và cũng là yếu tố căn bản để chữa lành, chuyển hóa và tạo an hòa trong gia đình, nơi làm việc và trong xã hội.
Hoa trái của sự tu tập chánh niệm là nhận biết rằng an lạc có sẵn trong ta và chung quanh ta, ngay bây giờ và ở đây.
Chánh niệm là một trong năm nguồn năng lượng tâm linh, đồng thời cũng là nền tảng cho những hành động phản ảnh quyền lực đích thực.
Nếu không biết tạo nên một môi trường chánh niệm trong gia đình hay ở nơi làm việc, ta sẽ chỉ đầu độc thêm cho cuộc sống của mình và gia đình mình mà thôi. Nhiều nhà doanh nghiệp đã nhận ra sự thật đó.
Không có chánh niệm, ta khó cảm thấy thỏa mãn hoàn toàn với quyền lực kinh tế hay chính trị.
Chánh niệm giúp ta trở về tự thân và nhìn sâu vào hoàn cảnh của mình.
Chúng ta làm việc, nhưng chúng ta cũng đem tới chỗ làm những khó khăn, những niềm đau nỗi khổ riêng tư. Chánh niệm giúp ta ôm ấp và hiểu rõ đau khổ. Chánh niệm là căn bản chuyển hóa và chữa trị.

 

Vậy thì làm sao để có chánh niệm? Đây là một thực tập rất đơn giản nhưng cũng đầy thử thách. Thực tập chánh niệm đòi hỏi khi làm bất cứ việc gì cũng làm hết lòng, đầu tư một trăm phần trăm tâm ý vào cả những việc đơn giản nhất như nhặt một cây bút, mở một cuốn sách hay thắp một nén hương. Khi còn là một chú tiểu, tôi phải thắp hương trong chính điện nhiều lần trong ngày. Tôi đã được dạy là phải cầm cây hương lên bằng hai tay, tay trái đặt lên tay phải. Cây hương rất nhẹ, tại sao lại phải dùng cả hai tay? Lý do là tôi phải chú tâm một trăm phần trăm vào sự việc đơn giản là cầm nén hương trong tay. Khi quẹt một cây diêm và châm cây hương vào ngọn lửa, tôi cũng phải để tâm một trăm phần trăm. Đó là thực tập chánh niệm.

Khi uống trà, hành động rót trà vào chén cũng là một hành động thiền tập nếu ta rót trà trong chánh niệm. Đừng nghĩ tới quá khứ. Đừng nghĩ tới tương lai. Đừng lo phải làm gì ngày mai. Hãy chỉ chú tâm vào việc rót trà. Hãy đầu tư một trăm phần trăm vào giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Ai cũng biết rót trà, ai cũng biết uống trà, nhưng mấy ai biết rót trà trong chánh niệm và uống trà trong chánh niệm? Lý do là vì chúng ta luôn có xu hướng quên lãng hiện tại, vì chúng ta bị tập khí lôi cuốn. Tập khí là một thói quen, năng lượng của nó rất mạnh mà chúng ta phải thực tập để chuyển hóa. Càng chế ngự được tập khí thì chúng ta càng có khả năng sống trọn vẹn mỗi ngày.

Trong công việc, ta có thể cảm thấy có trách nhiệm với những ai đó, hay chỉ với riêng mình. Ý thức trách nhiệm là tốt. Ta cũng muốn thành công trong công việc, nhưng vì thiếu chánh niệm cho nên ta để cho ước muốn thành công cuốn hút. Ước muốn ấy sẽ trở thành một tập khí, thúc đẩy ta, làm ta không còn khả năng uống trà trong giây phút hiện tại, ngay cả khi nước trà đã vào miệng mà ta cũng không ý thức. Ta đang uống những dự án, những lo âu, những khó khăn của mình.

Theo lời Bụt dạy, sự sống chỉ có mặt trong hiện tại, ngay bây giờ và ở đây. Bụt nói: “Quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa đến. Ta chỉ thực sự sống trong giây phút hiện tại.” Nếu đánh mất hiện tại thì sẽ đánh mất sự sống. Quá rõ ràng. Chánh niệm là một nguồn năng lượng và thực tập chánh niệm sẽ giúp ta trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với sự sống. Phép thực tập này đòi hỏi thời gian và sự nâng đỡ. Thiếu thời gian thực tập và không có môi trường thuận lợi thì khó mà thành công. Có khi đồng nghiệp của ta cũng muốn cùng ta thực tập nếu họ được truyền cảm hứng.

Bạn có thể có một ngôi nhà rất đẹp và một khu vườn đầy hoa. Bạn biết là trong vườn của mình có hoa, nhưng bạn lại không có thì giờ để thưởng thức. Bởi vì tâm trí bạn đang bị ám ảnh bởi những thắc mắc cần giải đáp, những vấn đề cần giải quyết. Bạn muốn bạn là “số một.” Thỉnh thoảng chắc bạn cũng đã thoáng giác ngộ rằng bạn có một vườn hoa rất đẹp và phải dành chút thì giờ để thưởng thức. Đó là do thiện chí. Rồi bạn ra vườn đi dạo, ngắm những nụ hoa đẹp, nhìn thảm cỏ xanh. Nhưng chỉ sau vài bước bạn đã bỏ cuộc, vì bạn đang có quá nhiều bận tâm về công việc. Như một nhà độc tài, mối bận tâm đó không cho bạn cơ hội tiếp xúc và thưởng thức những mầu nhiệm của sự sống bây giờ và ở đây.

Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm. Một hôm Thầy sai tôi đi làm một việc. Tôi hăng hái, hấp tấp, đi nhanh ra và khép cửa vội vàng. Thầy kêu tôi lại: “Này con, con lại đây.” Tôi trở lại, đứng vòng tay chờ. Thầy tôi nói: “Con đi ra lại và khép cửa cho đàng hoàng coi.” Đó là bài học đầu tiên của tôi về thực tập chánh niệm. Khi đó tôi đi ra trong chánh niệm, ý thức từng bước đi, nắm lấy cánh cửa trong chánh niệm, và mở cửa trong chánh niệm. Kể từ đó Thầy tôi không còn phải dạy tôi cách đóng cửa lần thứ hai.

Khi nắm tay một em bé, ta hãy để tâm một trăm phần trăm vào bàn tay em. Khi ôm người thương trong vòng tay cũng thế. Hãy quên hết tất cả. Hãy thực sự có mặt, thực sự tỉnh thức trong khi nắm tay, trong khi ôm. Điều này trái ngược hẳn với cách sống và làm việc của ta trước đây. Chúng ta từng có thói quen làm nhiều việc cùng một lúc. Vừa trả lời e-mail vừa nói điện thoại. Trong khi đang họp về một dự án này, ta viết xuống những ghi chú cho một dự án khác. Kỹ thuật hiện đại hứa hẹn sẽ giúp ta làm được nhiều việc cùng một lúc. Bây giờ, chỉ với một máy nhỏ chúng ta có thể gửi e-mail, nghe nhạc, điện thoại, và chụp hình. Năng lượng bị phân tán như thế thì còn gì là năng lượng?

Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập. Ta rất thông minh và hiểu ngay như vậy, nhưng như thế không có nghĩa là ta có thể làm được ngay. Ta phải thực tập và tự rèn luyện mỗi ngày.

Trước hết, phải thực tập chánh niệm để thấy được bản thân, sau đó ta chú ý tới gia đình của mình vì gia đình là tổ ấm. Không thể chỉ quan tâm đến nghề nghiệp mà sao lãng gia đình được. Có thể gia đình ta đang có đau khổ, sợ hãi hay lo lắng. Chánh niệm giúp nhận diện niềm đau nỗi khổ và chuyển hóa chúng. Bạn có thể nói với chồng mình rằng: “Em biết rằng anh đang đau khổ. Em đang có mặt cho anh đây. Chúng ta hãy cùng nhau ôm ấp niềm đau nỗi khổ đó và chuyển hóa chúng.” Bạn cũng nói như vậy với vợ của bạn: “Anh biết rằng em đang đau khổ. Anh đang có mặt cho em đây. Chúng ta hãy cùng nhau ôm ấp niềm đau nỗi khổ đó và chuyển hóa chúng.” Chánh niệm là khả năng có mặt một trăm phần trăm. Khi thương, món quà quý nhất mà ta hiến tặng người ta thương là sự có mặt đích thực của ta. Ta không thể mua khả năng hiến tặng niềm vui và chuyển hóa khổ đau.

Sau đó chánh niệm sẽ giúp ta hiểu rõ tình hình tại nơi làm việc. Dù ở địa vị nào, một giám đốc có hàng trăm nhân viên hay một công nhân làm việc một mình, với chánh niệm, ta đều có thể quán chiếu và nhận biết ưu điểm hay khó khăn cũng như đau khổ trong công ty. Ta sẽ nhận diện được những niềm đau nỗi khổ, những lo sợ của đồng nghiệp hay nhân viên và nói: “Tôi đang có mặt cho anh, cho chị đây. Tôi biết rằng anh, chị đang đau khổ. Chúng ta sẽ cùng nhau ôm ấp và chuyển hóa niềm đau nỗi khổ đó. Chúng ta sẽ tìm mọi cách để giải quyết khổ đau của chúng ta.” Sự thực tập này chẳng khác gì thực tập cho bản thân hay cho gia đình mình. Năng lượng của chánh niệm và khả năng nhìn sâu sẽ giúp ta tìm ra tuệ giác để chuyển hóa tình trạng và chữa lành.

Chánh niệm là khả năng có mặt một trăm phần trăm. Năng lượng của chánh niệm giúp ta nhận biết những gì đang có mặt chung quanh ta. “Những gì” đó có thể là chính ta, có thể là người thương của ta. Nếu không có khả năng trở về với giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, thì không thể nào nhận diện được chính mình, nhận diện được hạnh phúc cũng như khổ đau của mình. Không có khả năng có mặt đích thực thì không thể nhìn rõ những người khác và sẽ khiến họ có cảm giác bị bỏ quên, bị hiểu lầm hay ghét bỏ. Rồi họ sẽ đau khổ và từ đó làm bạn đau khổ. Nếu không có chánh niệm thì không thể giúp mình hay giúp người, không thể thành công trong công việc. Nếu không có chánh niệm thì bất cứ quyền lực nào trong tay cũng chỉ là tạm bợ và không đem lại thỏa mãn rốt ráo.

Chánh niệm rất cụ thể. Khi chú ý tới hơi thở là ta đã có chánh niệm rồi. Thở vào, ta chú ý tới hơi thở vào từ đầu cho tới cuối và nhủ thầm “vào”. Thở ra, ta chú ý tới hơi thở ra từ đầu cho tới cuối và nhủ thầm “ra”. Với hành động đơn giản ấy, thân tâm ta hợp nhất và ta sẽ thực sự có mặt. Chánh niệm cũng có thể có mặt trong một bước chân. Những lúc bạn bước đi, hãy đầu tư một trăm phần trăm vào mỗi bước chân và nhớ kết hợp bước chân với hơi thở một cách tự nhiên. Để ý xem ta bước mấy bước trong mỗi hơi thở vào, mấy bước trong mỗi hơi thở ra. Để giúp thêm, ta có thể nói thầm “vào”, “ra” khi bước. Ví dụ như khi thở vào bước ba bước, thì nói thầm “vào, vào, vào”. Khi thở ra bước bốn bước thì nói thầm “ra, ra, ra, ra”. Nếu thực tập trong nhà thì có thể đi chậm lại, cứ mỗi hơi thở vào bước một bước, mỗi hơi thở ra bước một bước. Còn thực tập ở ngoài trời thì tùy theo hơi thở của bạn dài hay ngắn, trong mỗi hơi thở bạn có thể bước hai, ba, hay bốn bước. Không nên cố ép hay thay đổi nhịp thở vì làm như vậy bạn sẽ thấy mệt. Chỉ hoàn toàn chú tâm vào bước chân và hơi thở. Thực tập này rất đơn giản nhưng hiệu quả vô cùng. Nhờ bước chân chánh niệm, hơi thở chánh niệm mà ta có thể trở về với tự thân, thực sự có mặt và tỉnh thức.

Phải hiểu chánh niệm trên bình diện vật lý. Thực tập trở về với cơ thể, trước hết, ta phải chế tác chánh niệm bằng hơi thở ý thức và bước chân ý thức, rồi sau đó nhận diện rằng cơ thể ta đang có đây và ta dịu dàng ôm ấp lấy cơ thể mình bằng chánh niệm. “Cơ thể ta ơi, ta biết ngươi có đó và ta sẽ săn sóc cho ngươi.” Cơ thể ta trở thành đối tượng thương yêu của ta.

Nếu không biết cách chăm sóc, không biết cách buông thư cơ thể, không để cho cơ thể có cơ hội nghỉ ngơi tức là ta đã không thương yêu cơ thể mình. Ta biết rằng cơ thể ta có khả năng tự chữa lành vết thương. Khi đứt tay ta biết rằng chỉ cần làm sạch vết thương và cơ thể ta sẽ tự lo liệu. Ta có thể hoảng sợ nếu quên đi rằng cơ thể ta có khả năng tự điều trị. Chỉ cần có cơ hội nghỉ ngơi là cơ thể có thể tự chữa lành mà chẳng cần thuốc men gì nhiều.

Khi một con vật bị thương nặng, nó biết phải làm gì. Nó tìm một chỗ vắng, nằm thật yên, nghỉ ngơi hoàn toàn trong vài ngày, không ăn uống gì hết. Nó rất khôn ngoan. Chỉ khi nào vết thương lành hẳn nó mới ra săn mồi. Có lúc, ta cũng có tuệ giác đó, nhưng chúng ta đã đánh mất khả năng biết nghỉ ngơi. Mới bắt đầu cảm thấy khó chịu ta đã hoảng hốt chạy đến bác sĩ xin đủ mọi thứ thuốc, chỉ vì ta không biết rằng, để cho cơ thể nghỉ ngơi là phương pháp điều trị hay nhất.

Có nhiều người than phiền rằng họ không có thì giờ đi nghỉ hè. Số khác có thể sắp xếp được để đi nghỉ hè, tuy nhiên lại không biết cách nghỉ ngơi. Chương trình nghỉ hè đầy ắp và sau kỳ nghỉ họ lại càng mệt mỏi hơn.

Chúng ta phải học cách buông thư toàn thân. Trong tư thế nằm, ta chú ý và buông thư từng phần của cơ thể, bắt đầu từ trên đầu và đi dần xuống dưới lòng bàn chân. “Thở vào, tôi ý thức toàn thân tôi. Thở ra, tôi buông thư toàn thân tôi. Thở vào tôi ý thức hai mắt tôi. Thở ra tôi mỉm cười với hai mắt tôi.” Cứ tiếp tục như thế với từng phần của cơ thể. Thay vì tia X-quang, ta “soi” cơ thể ta bằng tia Chánh Niệm. Soi đến một phần nào hay bộ phận nào của cơ thể đang bị đau yếu thì ta dừng lại lâu hơn, sử dụng năng lượng của chánh niệm để ôm ấp và mỉm cười với phần cơ thể hay bộ phận đó, làm như thế cơ thể sẽ bình phục mau hơn. Ta tự thực tập như thế mỗi ngày hay với những người trong gia đình, khi đã quen thuộc rồi, ta có thể hướng dẫn một buổi thực tập thiền buông thư cho bạn bè hay cả gia đình. Ta cũng có thể khuyến khích những người khác trong gia đình hướng dẫn buông thư toàn thân như vậy cho mọi người. Trẻ em rất có khả năng hướng dẫn người khác trong phép thực tập này.

Khi đã có khả năng ôm ấp cơ thể và giải tỏa căng thẳng, giúp cơ thể phục hồi, ta có thể trở về với tự thân, với những cảm thọ và những tâm hành của ta (chi tiết của phép thực tập này được trình bày tại Phụ lục A). Mỗi chúng ta đều có kinh nghiệm về những cảm thọ dễ chịu hay cảm thọ khó chịu. Một trong những công năng của thực tập chánh niệm là chăm sóc cảm thọ khổ đau. Thường thường ta không muốn đối diện khổ đau bởi vì ta không biết cách chăm sóc khổ đau. Ta cũng thường nghĩ rằng nếu tâm đủ mạnh thì ta sẽ không còn cảm thấy đau khổ, rồi ta tìm cách che lấp khổ đau. Thay vì “thay chốt” và mời lên những hạt giống tích cực từ vùng tàng thức, ta lại trốn chạy những cảm thọ khó chịu bằng những hành động tiêu thụ thiếu chánh niệm. Ta bật ti vi lên, hoặc mở một cuốn sách, hay nhấc điện thoại, hay làm một việc gì đó để che lấp niềm đau nỗi khổ, sợ hãi, tuyệt vọng đang trấn ngự. Nhưng khi tiêu thụ những sản phẩm để tạm thời che lấp khổ đau thì ta cũng đồng thời đưa vào thân và tâm những yếu tố độc hại như tham dục, sợ hãi, lo lắng và làm cho tình thế càng thêm tồi tệ.

Cách hay nhất là ta phải trở về với tự thân. Hãy sử dụng năng lượng của chánh niệm để nhận diện và ôm ấp niềm đau nỗi khổ trong ta, như một bà mẹ ôm ấp đứa con mình. Chánh niệm là mẹ, đau khổ, buồn phiền, tuyệt vọng là con. Giữa mẹ và con không có tranh chấp. Năng lượng của chánh niệm sẽ nhận diện, ôm ấp và thoa dịu niềm đau. Khi nghe con khóc, người mẹ lập tức buông tất cả công việc xuống, chạy đến ôm em bé vào lòng. Mẹ có thể không biết lý do đã làm cho bé khóc, nhưng chỉ cần ẵm bé trong vòng tay với tất cả sự dịu dàng, thương yêu cũng đủ làm cho bé nín khóc. Cũng thế, ta có thể không biết rõ lý do đã làm cho ta đau khổ, buồn phiền, tuyệt vọng, nhưng nếu ta biết ôm ấp những khổ đau đó bằng năng lượng chánh niệm thì tức khắc ta cảm thấy tâm mình lắng yên, êm dịu lại vì năng lượng của chánh niệm đã hòa nhập vào năng lượng của khổ đau.

Hãy tưởng tượng một đóa hoa trong nắng sớm. Hoa chưa nở nhưng tia nắng đang ôm ấp hoa, năng lượng mặt trời đang thấm dần vào hoa. Mặt trời không chỉ chiếu quanh đóa hoa. Tia nắng mặt trời thấm vào hoa một cách tự nhiên và một giờ sau hoa sẽ bừng nở. Chánh niệm là mặt trời ôm ấp đóa hoa cảm thọ.

Nếu cứ để mặc, không chăm sóc nỗi sợ hãi, hờn giận, và tuyệt vọng thì những cảm xúc tiêu cực đó sẽ biến thành sức mạnh tàn phá. Nếu biết chế tác chánh niệm thì chánh niệm sẽ nhận diện và ôm ấp những cảm thọ khổ đau ấy. Thực tập hơi thở và bước chân chánh niệm không những nuôi dưỡng, tưới mát thân tâm mà còn giúp nhận diện và ôm ấp khổ đau. Thay vì sử dụng năng lượng để đè nén khổ đau, ta hãy sử dụng năng lượng đó để bảo toàn cơ thể. Ôm ấp khổ đau sẽ nuôi lớn chúng ta.

Nếu được cùng người thương ngồi trong chánh niệm (ngồi thiền), đi trong chánh niệm (đi thiền) thì sức mạnh của chánh niệm càng tăng gấp bội nhờ sự đóng góp của năng lượng thực tập từ người thương. “Mời anh/mời em đến đây cùng ngồi thiền với tôi, thiền hành với tôi. Tôi cần có anh/có em bên cạnh.” Nghe vậy, người thương sẽ đến, sẽ cùng ngồi, cùng đi với ta. Phối hợp năng lượng, ta sẽ dư sức ôm ấp khổ đau.

Càng có đông bạn hữu thực tập chung, năng lượng càng thêm mạnh. Năng lượng tập thể giúp cho sự thực tập ôm ấp niềm đau nỗi khổ dễ dàng hơn nhiều. Cho nên trong một cộng đồng mà mọi người cùng thực tập với nhau thì càng vui, hiệu quả lớn gấp bội, và năng lượng ngày càng thêm thâm hậu. Được năng lượng tập thể ấy bao bọc, ta sẽ thấy khỏe khoắn thêm ra và hiệu quả chữa trị đến rất nhanh.

Năng lượng chánh niệm giúp ta ý thức những gì đang xảy ra. Thở vào và biết rằng đang thở vào, đó là chánh niệm về hơi thở. Uống trà và biết rằng đang uống trà, đó là chánh niệm khi uống trà. Khi đi và biết rằng đang đi, thưởng thức từng bước chân, đó là chánh niệm khi đi. Những thực tập ấy chế tác năng lượng chánh niệm, giúp cho ta thật sự tỉnh thức, thật sự có mặt để tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống, để được nuôi dưỡng và chữa lành.

(trích Quyền Lực Đích Thực – Thích Nhất Hạnh)

Quyền lực tâm linh – tự do, an ninh và hạnh phúc

(Trích trong sách “Quyền Lực Đích Thực” của Sư Ông Làng Mai)

Đối với chúng ta quyền lực có ý nghĩa gì? Tại sao ai cũng tìm mọi cách để đạt cho được quyền lực? Cho dù có thể không để ý, nhưng phần đông chúng ta luôn luôn cố đạt cho được một địa vị có quyền lực bởi vì ta tin rằng quyền lực giúp ta làm chủ được đời sống, đem lại cho chúng ta tự do và hạnh phúc – những gì ta mong muốn nhất.

Xã hội chúng ta được xây dựng trên một khái niệm rất hạn hẹp về quyền lực, đó là giàu có, sung túc, thành công nghề nghiệp, danh tiếng, sức khỏe, sức mạnh quân sự và quyền năng chính trị. Tôi xin đề nghị với bạn một thứ quyền lực khác, một thứ quyền lực vượt bậc: quyền lực giúp ta thoát khỏi sự ám ảnh của mê đắm, sợ hãi, tuyệt vọng, sự trấn ngự của kỳ thị, sân hận, ngu dốt; quyền lực giúp ta đạt được hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Đây là một thứ quyền lực mà bất cứ ai sinh ra cũng đều có quyền hưởng, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, mạnh yếu. Xin mời bạn cùng tôi tìm hiểu thứ quyền lực đặc biệt này.

Tất cả chúng ta ai cũng muốn có quyền lực và thành công. Nhưng nếu vì cố sức tranh đấu để có được quyền lực, rồi lại cố sức tranh đấu bảo vệ quyền lực mà bị hao mòn, mệt mỏi, bị chia cách tình nghĩa thì đâu còn có thể vui hưởng quyền lực và thành công? Quyền lực và thành công như vậy thật chẳng có ý nghĩa gì. Sống một cuộc sống sâu sắc và hạnh phúc, có thì giờ chăm sóc người thương là một thành công khác, một quyền lực khác, một thứ thành công và quyền lực quan trọng hơn nhiều. Chỉ có một thành công đáng kể đó là thành công khi chuyển hóa tự thân, vượt thắng phiền não, sợ hãi và sân hận. Đây là thứ thành công, thứ quyền lực đem lợi lạc cho chính ta và cho những người khác mà không gây ra một tác hại nào.

 

 

Muốn có quyền lực, muốn được danh tiếng hay giàu sang không phải là điều xấu. Nhưng phải nhớ rằng chúng ta theo đuổi quyền lực, danh tiếng hay tiền tài là để được hạnh phúc. Nếu giàu có và quyền thế mà không hạnh phúc thì giàu có và quyền thế để làm gì?

Ước vọng vun trồng hiểu biết, thương yêu, ước vọng giúp đời là một năng lượng mầu nhiệm khiến cho cuộc sống có mục tiêu chân thực. Nhiều bậc thầy vĩ đại trước chúng ta – Jesus, Bụt, Mohamed và Moses – đã từng có ước vọng như thế. Ngày nay chúng ta cũng có ước vọng sâu sắc như các vị: thực hiện hòa bình, vượt thắng khổ đau và giúp đỡ người khác. Chúng ta đã chứng kiến những người chỉ một mình mà có thể giải thoát, chữa lành cho hàng ngàn, có khi hàng triệu người. Mỗi chúng ta – chính trị gia, thương gia, công nhân, nhân viên nhà hàng, hay nghệ sĩ… – đều cùng chung ước vọng như thế. Nhưng cần phải nhớ rằng, muốn thực hiện ước vọng đó, trước hết ta phải chăm sóc ta. Muốn đem lại hạnh phúc cho người khác thì chính ta phải tỏa chiếu hạnh phúc. Và đây là lý do vì sao phải thực tập để chăm sóc thân tâm của ta trước. Chỉ khi thân tâm vững chãi ta mới đủ khả năng chăm sóc người ta thương.

Sống thiếu tỉnh thức, thiếu khả năng nhìn rõ thực trạng chung quanh thì chẳng khác gì một chuyến xe lửa tốc hành không người lái. Điều này lại càng đúng hơn trong đời sống nghề nghiệp, nếu quá chú tâm đến nghề nghiệp thì cứ mãi quay cuồng. Đau khổ trong đời tư ảnh hưởng tới nghề nghiệp và ngược lại, đau khổ trong nghề nghiệp ảnh hưởng tới đời tư. Ôm đồm quá nhiều việc, hoạch định thiếu thực tiễn, môi trường làm việc không thoải mái, luôn bị căng thẳng, luôn lo sợ bị sa thải – đó là những nguyên nhân gây đau khổ trong nghề nghiệp. Những đau khổ đó sẽ ảnh hưởng tới cả đời sống. Và hình như chẳng có ai giúp ta được. Nhưng mà đâu đến nỗi phải như vậy. Nếu biết tu tập vun trồng quyền lực đích thực, một thứ quyền lực chứa đựng tính chất tâm linh, nếu biết chánh niệm trong mọi liên hệ hằng ngày thì chúng ta có thể thay đổi hoàn toàn phẩm chất công việc cũng như phẩm chất cuộc sống của chúng ta.

Chánh niệm là thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, là tiếp xúc với những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Sử dụng những cách thực tập đơn giản trong tập sách này để rèn luyện tâm trí và tập trung tâm ý, không những chúng ta sẽ làm việc có năng suất và hữu hiệu hơn, mà còn thoải mái và hăng say hơn. Chúng ta có đủ thì giờ để chăm sóc những người thương và những việc quan trọng nhất của chúng ta. Chúng ta có thể sống trọn vẹn từng giây phút, ý thức rằng đây là giây phút tuyệt vời, giây phút duy nhất mà ta thực sự có được.

Khi chú trọng vào quyền lực tâm linh, lòng từ bi cũng sẽ trở thành mục đích của ta bên cạnh mục đích tối hậu là cầu lợi. Chúng ta không cần khước từ tài lợi, nhưng lòng từ bi sẽ giúp chúng ta thành công hơn về kinh tế hay chính trị. Tôi tin rằng nếu bổ sung ý thức về ảnh hưởng tích cực của chúng ta tới người khác và trên thế giới vào những mục đích chính của doanh thương thì chỉ tốt cho doanh thương mà thôi. Một doanh nghiệp biết phối hợp thông minh mục đích thu lợi với đức tính thanh liêm và ý thức quan tâm tới thế giới thì nhân viên dưới quyền luôn được vui vẻ, khách hàng luôn được vừa ý, đồng thời sẽ thu lợi gấp bội. Hằng năm tạp chí Fortune có đăng danh sách một trăm công ty lý tưởng để xin vào làm. Những công ty đó luôn luôn thành công trên mọi mặt. Hàng năm, những công ty đó đều nêu rõ chính sách chú trọng bảo hiểm sức khỏe, chăm sóc thiếu nhi, chế độ ngày nghỉ, ý thức bảo vệ môi trường và chia sẻ lợi tức. Những công ty rất đáng khâm phục đó biết rõ rằng đầu tư tiền bạc, thì giờ và năng lực vào việc chăm sóc sức khỏe và an lạc của nhân viên, của cộng đồng là việc làm thiết yếu cho sự phát triển vững mạnh của công ty mình.

Hầu hết các nhà chính trị và doanh thương – từ kỹ nghệ dược phẩm cho đến kỹ thuật truyền thông  luôn luôn bắt đầu bằng một ý hướng giúp giảm bớt khổ đau. Ý hướng đó cần phải được nuôi dưỡng, vì khi tâm cầu lợi lấn át ý hướng cao đẹp ấy thì chúng ta sẽ tự hủy diệt. Bài học của bao nhiêu doanh nghiệp như Enron, Tyco, Worldcom sụp đổ vì gian lận nhắc nhở ta điều đó. Vì vậy kinh doanh với tâm từ bi, lân mẫn là điều rất quan trọng. Nếu không có tâm từ bi thì dù cho giàu có cách mấy cũng không hạnh phúc được. Bạn sẽ cô đơn, sẽ bị giam hãm trong thế giới của riêng mình, và không có cơ hội để liên hệ hay hiểu biết ai. Chỉ mưu cầu tài lợi mà bỏ quên tâm từ bi sẽ làm cho bạn đau khổ cũng như làm cho người khác đau khổ.

 

 

Nhìn cho sâu sắc bạn sẽ thấy khổ đau chung quanh bạn và bạn sẽ phát tâm muốn làm vơi đi những khổ đau đó. Bạn cũng sẽ khám phá ra rằng đem niềm vui đến cho người khác là một nguồn vui lớn nhất, là một thành công vượt bậc. Tạo dựng quyền lực chân thực đâu cần phải khước từ một cuộc sống cao sang. Bạn sẽ sống thỏa mãn hơn, sẽ cảm thấy thảnh thơi, hạnh phúc khi đem niềm vui tới cho người và giúp người bớt khổ.

Đoạn đức, Ân đức và Trí đức – Quyền lực của nhà lãnh đạo

Một vị lãnh đạo cần phải có ba Đức. Đó là Đoạn đức, Ân đức và Trí đức.

Đức tính đầu tiên cần có để giúp ta sử dụng quyền lực một cách khôn khéo là Đoạn đức, nghĩa là buông xả. Buông xả những gì? Buông xả sân hận, tham dục, và vô minh. Ta phải từ từ học cách chuyển hóa tham dục, sân hận, sợ hãi, vọng tưởng trong ta. Nếu không làm được những việc ấy cho thật giỏi thì ta sẽ không còn được kính nể nữa, ta sẽ tự gây đau khổ cho chính ta và những người khác. Chỉ cần nhìn những nhà chính trị, lãnh đạo đã “thân bại danh liệt” vì những chuyện bê bối tình dục không đâu cũng đủ để biết rằng buông xả tham dục là rất quan trọng. Cho nên buông xả đưa đến quyền lực. Khi gặp một người biết buông xả, tự do, không còn bị tham, sân, si ràng buộc, chúng ta sinh lòng kính trọng và tin theo. Biết buông xả thì được giải thoát, thân tâm được nhẹ nhàng. Điều đó ngoài siêu thị không bán, phải thực tập mới có được.

Một nhà lãnh đạo giỏi còn phải có Ân đức, nghĩa là tâm từ bi. Đó là khả năng dịu dàng, tha thứ, chấp nhận và ôm ấp người khác với tình thương. Nếu ai đạt được khả năng ấy thì sẽ có hạnh phúc và được mọi người kính nể. La mắng hay trừng phạt không làm cho người dưới khuất phục mà chỉ gây thêm xa cách. Chỉ có sự quan tâm, lo lắng, thương mến mới chuyển đổi được tâm người mà mình muốn giúp. Những người thiếu từ bi và tha thứ thường phải chịu đau khổ. Khi biết tha thứ, chấp nhận, ta sẽ cảm thấy nhẹ nhõm và có thể dễ dàng liên hệ với người khác. Người thiếu từ bi, trong tâm lúc nào cũng bực bội, giận dữ thì chẳng ai muốn đến gần, và như vậy sẽ cô đơn vô cùng. Cho nên, tâm từ bi là nền tảng của hạnh phúc. Nếu các nhà lãnh đạo chính trị thực tập từ bi thì họ sẽ không bao giờ lạm dụng thứ quyền lực dựa trên tiền bạc, danh vọng và địa vị xã hội. Họ sẽ không gây đau khổ cho chính họ và cho những người khác.

Một nhà lãnh đạo giỏi cũng phải có Trí đức, tức là tuệ giác. Kiến thức không phải là tuệ giác. Có người đạt nhiều bằng tiến sĩ, hiểu biết rộng rãi về khoa học, triết học và văn học, có thể nói “thao thao bất tuyệt” nhưng chưa chắc đã có tuệ giác. Tuệ giác là kết quả của khả năng nhìn sâu. Một nhà lãnh đạo đích thực là người có tuệ giác để chỉ cho ta con đường thoát khổ. Ta đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn, hoang mang, không hướng đi thì một nhà lãnh đạo đích thực là người có khả năng vạch đường chỉ lối cho ta. Ta thấy ngay con đường thoát vì ta đã được gặp một nhà lãnh đạo có tuệ giác.

Tuệ giác giúp ta dễ dàng giải quyết những khó khăn, xung đột, mâu thuẫn. Nếu không có tuệ giác, ta sẽ luẩn quẩn loanh quanh trong đau khổ, sợ hãi, lo âu. Vì vậy đức tính thứ ba là khả năng nhìn sâu để đạt tới tuệ giác, để có thể giải quyết khó khăn và giúp đỡ người khác.

Thực tập ba đức tính buông xả, từ bi, và tuệ giác đem lại cho nhà lãnh đạo uy quyền thật sự. Chỉ mang danh là một nhà lãnh đạo không thôi thì không đủ. Chức tước không đem lại uy quyền. Khi thực tập chánh niệm đàng hoàng, ta sẽ tỏa chiếu an lạc, vững chãi, thảnh thơi và đạt được thứ uy quyền sâu sắc hơn. Nói ra một lời quần chúng đều lắng nghe vì ta có sự bình an, tươi mát, và khôn ngoan. Một nhà lãnh đạo giỏi là một người chỉ sử dụng thứ uy quyền ấy. Không cần phải cố giành cho được uy quyền. Không cần phải thi thố uy quyền. Uy quyền đến một cách tự nhiên. Nhà lãnh đạo giỏi truyền cảm hứng cho mọi người bằng nếp sống của chính mình. Người ta nghe mình bởi họ thương kính và tin tưởng mình.

Tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất của uy quyền là nền tảng của cung cách sử dụng uy quyền. Ta cần quán chiếu xem thử cách sử dụng uy quyền của ta có đặt nền tảng trên lòng từ bi hay không, hoặc xem thử uy quyền phát xuất từ tâm linh hay từ tiền tài, địa vị. Dù bạn là người đứng đầu một tôn giáo mà không có một đời sống tâm linh, không có tâm từ bi, thì bạn cũng không có uy quyền đích thực. Bạn ra lệnh nhưng người ta nghe theo bạn không phải vì uy quyền đích thực mà vì sợ.

(trích Quyền Lực Đích Thực – Thích Nhất Hạnh)

Con đường thánh thiện



C
ốt tủy của đạo Bụt trong vài trang giấy

 

Thích Nhất Hạnh

 

Đạo Bụt bắt đầu từ một cái thấy của một con người tên là Siddharta Sakya Gotama. Cái thấy này là một cái thấy trực tiếp không đi ngang tư duy và lý luận, nó là một loại trực giác. Trực giác này có thể đạt được do công phu quán chiếu, nghĩa là nhìn sâu vào lòng thực tại. Năng lượng sử dụng để quán chiếu là niệmđịnh, hai khả năng của tâm. Niệmđể tâm vào, và địnhchuyên chú nhìn sâu. Niệm và định đưa tới tuệ. Tuệ tức là cái thấy ấy. Cái thấy này có khả năng chuyển hóa và giải phóng người thấy ra khỏi những tâm hành như lo lắng, sợ hãi, bạo động, hận thù, tuyệt vọng và đam mê. Niệm, định và tuệ cũng là những tâm hành, nhưng đó là những tâm hành tốt đẹp.

Cái thấy ấy được gọi là cái thấy đúng (chánh kiến). Khi cái thấy đã đúng thì tư tưởng, lời nói và hành động cũng sẽ đúng và sẽ không tạo tác ra khổ đau cho mình và cho hoàn cảnh. Có một lối sống có thể đưa ta đến cái thấy này: lối sống ấy được gọi là một con đường, con đường của tám sinh hoạt đúng gọi là Bát Chánh Đạo. Ngoài chánh niệm, chánh định, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, còn có hai sinh hoạt khác: đó là phương tiện sinh sống chân chánh (chánh mạng) và công phu hành trì chân chánh (chánh tinh tấn). Đạo Bụt chính là con đường ấy. Nó là một lối sống, một cách sống, chứ không phải là một lý thuyết về thực tại.

Nhưng chánh kiến (tuệ) lại là cái thấy về thực tại. Đây là một cái thấy vượt thoát mọi ý niệm như có/không, sinh/diệt, một/nhiều, tới/đi, trước/sau, chủ thể/đối tượng. Cái thấy này có khi được gọi là cái thấy bất nhị hoặc trung đạo. Có những phương pháp vận dụng các năng lượng niệm và định để đạt tới cái thấy ấy. Đó là các phương pháp quán chiếu như quán vô thường, vô ngã, duyên khởi, vô sinh, không, vô tướng và vô tác. Những phương pháp này do những người đã đạt cái thấy truyền lại cho những người chưa đạt được. Sử dụng những phương pháp này cũng như đào giếng để có nước. Niệm và định là công phu đào giếng, tuệ là mạch nước tìm được.

Tuệ giác vô thường không phải chỉ có Bụt mới có. Nhiều người xưa như Heraclite và Khổng Phu Tử cũng đã chứng ngộ được điều ấy. Tuệ giác vô thường được duy trì như một định lực sẽ mang tới tuệ giác duyên sinh và tuệ giác vô ngã. Duyên sinh có nghĩa là nương vào nhau mà phát sinh, mà biểu hiện. Điều này được Bụt diễn tả bằng câu: Cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không. Sự vật hổ tương làm nhân quả cho nhau, không hẳn nhân phải có trước quả, nhân quả có thể đồng thời, và nhân đồng thời cũng là quả. Ví dụ cái trong có vì cái ngoài có, cái không có vì cái có có, cái trái có vì cái phải có, cái sinh có vì cái diệt có. Không có cái trái thì không có cái phải, không có cái có thì không có cái không. Nhìn sâu vào một đám mây hay một ngọn lửa ta thấy cả đám mây và ngọn lửa đều biến chuyển vô thường trong từng khoảnh khắc, đều không có thực thể chắc thật, đều không phải từ không mà trở thành có và từ có sẽ trở thành không. Tất cả mọi hiện tượng đều như thế, kể cả tâm thức con người.

Trong đạo Bụt, ta thấy có hai loại sự thật: sự thật tương đối, gọi là thế tục đế (loka samvrti) và sự thật tuyệt đối, gọi là chân đế (paramartha). Sự thật tương đối là những gì có tính cách ước lệ: có sinh, có diệt, có có, có không, có trước, có sau, có ta, có người… Sự thật tuyệt đối vượt thoát mọi phạm trù ấy của tâm thức. Bụt nói: “Có cái không sinh, không diệt, không tạo tác, không hình thành. Nếu không có cái không sinh, không diệt, không tạo tác, không hình thành ấy thì thế giới của những cái có sinh có diệt, có tạo tác và có hình thành sẽ không có nẻo thoát”. Cái không sinh, không diệt, không tạo tác và không hình thành ấy chính là niết bàn, nền tảng cho những cái có sinh diệt, tạo tác và hình thành. Cái vô vi làm nền tảng cho cái hữu vi.

Thấy được vô thường và duyên sinh thì thấy được vô ngã. Vô ngã là không có một cái gì thường tại, bất biến, không có một cái gì có thể tự mình tồn tại. Tất cả đều nương vào nhau mà tồn tại. Và sự tồn tại này không bền lâu, chỉ xảy ra trong một sát na. Vì vậy duyên sinh cũng là vô thường mà vô ngã cũng là vô thường.

Tuệ giác vô thường, duyên sinh và vô ngã cũng đưa tới tuệ giác không. Không nghĩa là không có một thực thể nào chắc thật, có thể một mình tồn tại riêng biệt. Không cũng có nghĩa là không có bản chất (substance). Không nghĩa là trống rỗng, không có cốt lõi. Thấy được không là thấy được vô sinh. Vô sinh có nghĩa là không thực sự có sinh có diệt, có có có không, có tới có đi, có một có khác. Đây là cái thấy sâu sắc nhất, gọi là cái thấy trung đạo.

Nhìn bề mặt, nghĩa là trên mặt hiện tượng, ta thấy có sinh có diệt có có có không, có tới có đi, có một có khác. Nhưng quán chiếu sâu sắc vào tự tính của mọi hiện tượng, nghĩa là nhìn vào bản thể của chúng, ta thấy tất cả đều có tự tính không sinh, không diệt, không có, không không, không tới, không đi, không một, không khác. Tự tính của thế giới không phải là có cũng không phải là không. Thế giới không có bắt đầu cũng như không có chung cục. Thế giới không phải đã từ không mà trở thành có, và sẽ không từ có mà trở thành không, bởi vì bản chất thế giới là vô sinh bất diệt. Thời gian và không gian cũng chỉ là hai biểu hiện của một thực thể, thời gian và không gian nương nhau mà biểu hiện. Có thì cùng có, không thì cùng không, nghĩa là không phải có cũng không phải không. Tự tính bất sinh bất diệt này, tự tính không có không không này được Bụt gọi là niết bàn. Niết bàn là sự vắng lặng của mọi ý niệm. Cái thấy này đem lại trạng thái mát mẻ. Niết bàn có nghĩa là thanh lương, là mát mẻ, là sự vắng mặt của mọi ý niệm, của mọi lo lắng, sợ hãi, phiền muộn và thèm khát do những ý niệm ấy gây ra. Niết bàn là sự chấm dứt của cái đốt cháy. Cái gì đốt cháy? Những ý niệm có không, còn mất, sinh diệt…tạo nên đam mê, lo lắng, tuyệt vọng, sợ hãi và khổ đau. Đó là những ngọn lửa phiền não đốt cháy. Đạt được chánh kiến, vượt thoát được mọi ý niệm thì lửa tắt và có sự mát mẻ.

Cái thấy vô sinh này là nền tảng của một nếp sống đạo đức được cụ thể hóa bằng con đường Bát Chánh Đạo và Năm phép hành trì chánh niệm. Bát Chánh Đạo và Ngũ Giới là sự thể hiện cụ thể của cái thấy bất nhị và trung đạo nói trên. Cái thấy này được gọi là cái thấy tương tức: Cái này là cái kia, cái này có trong cái kia, không có cái này thì không có cái kia.

Ví dụ ta nói về khổ đau và hạnh phúc. Hạnh phúc và khổ đau có liên hệ chặt chẽ với nhau, làm nhân quả cho nhau, không có cái này thì không có cái kia, như sen với bùn: Nếu không có bùn thì không có sen, mà hễ ở đâu có sen thì ta biết nơi đó có bùn. Nơi nào không có bùn thì không có sen. Cũng như thế khổ đau và hạnh phúc nương vào nhau mà phát hiện. Chạy trốn khổ đau để đi tìm hạnh phúc thì cũng như đi tìm hoa sen ở nơi không có bùn. Sen và bùn cũng như trái và phải, hễ cái trái có đó là cái phải có đó cùng một lượt. Nhờ tiếp xúc được với khổ đau, lắng nghe khổ đau thì ta mới làm phát hiện được cái hiểu biết và cái thương yêu. Hiểu biết và thương yêu là chất liệu làm nên hạnh phúc. Hiểu trước hết là hiểu được cái nỗi khổ niềm đau của chính mình rồi của thế gian. Cái hiểu ấy đưa tới lòng thương xót, lòng thương xót chuyển hóa được trách móc, hờn giận và ý muốn trừng phạt. Nếu cha mà không hiểu được những khó khăn, khổ đau và bức xúc của con thì cha không thể thương con và làm cho con có hạnh phúc. Vì vậy cho nên trong bốn sự thật (tứ thánh đế) sự thực đầu tiên là khổ đau. Nhìn sâu vào khổ đau, là thấy được bản chất và gốc rễ của khổ đau, ta thấy được con đường thoát khổ, đó là sự thực thứ tư, đạo đế. Sự thực này là con đường đưa tới sự chuyển hóa khổ đau, tạo dựng hạnh phúc. Chuyển hóa khổ đau, tạo dựng hạnh phúc là sự thực thứ ba, diệt đế. Diệt có nghĩa là chuyển hóa khổ đau. Và sự thực thứ hai là cái thấy trái với sự thực và cách hành xử căn cứ trên cái thấy sai lạc ấy. Cái thấy ấy ngược với chánh kiến. Nó là tà kiến.

Chánh kiến là chất liệu căn bản của con đường đưa tới sự chuyển hóa khổ đau và tạo dựng hạnh phúc. Con đường này gọi là con đường Bát Chánh Đạo nghĩa là con đường của tám sự hành trì chân chánh: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh niệm và chánh định. Niệm và định là sự thực tập đưa tới chánh kiến.

Niệm giúp ta có mặt đích thực trong giờ phút hiện tại để tiếp xúc với những gì có tính cách nuôi dưỡng và trị liệu. Niệm cũng giúp ta có mặt để xử lý những nỗi khổ niềm đau. Năng lượng chánh niệm được chế tác do sự thực tập thở, đi, ngồi và làm việc giúp ta buông bỏ được căng thẳng, làm dịu bớt đau nhức về thân cũng như về tâm. Định giúp ta nhìn sâu và duy trì được những cái thấy có khả năng trị liệu, nuôi dưỡng và chuyển hóa. Có những cái định (tam ma địa, samadhi) như vô thường, vô dục, không, vô tướng, vô tác, tương tức, vô ngã, vô sinh… giúp ta đạt được tuệ giác tức là cái thấy có khả năng tháo gỡ và giải phóng. Giải phóng ra ngoài sự sợ hãi, thèm khát, lo lắng, hận thù và tuyệt vọng.

Chánh kiến là cái thấy bất nhị, cái thấy tương tức, cái thấy vô sinh có khả năng đem lại vô úy và an lạc. Hãy lấy ví dụ cái sợ chết. Không có chánh kiến, ta nghĩ rằng cái chết là cái sẽ xảy ra sau khi cái sống chấm dứt. Nghĩ như vậy là tà kiến. Cũng như cái phải và cái trái luôn luôn đồng thời biểu hiện (cái trên cái dưới, cái trong cái ngoài, cái đối tượng với cái chủ thể cũng thế) cái sống và cái chết luôn luôn đi với nhau. Không có cái sống thì không có cái chết, không có cái chết thì không có cái sống. Sinh diệt đi đôi với nhau như một cặp bài trùng và xảy ra đồng thời. Trong mỗi giây, có hàng vạn tế bào trong cơ thể ta chết và có hàng vạn tế bào mới được sinh ra. Nếu không có cái chết của các tế bào này thì không có cái sinh ra của các tế bào kia. Cái chết là nền tảng cho cái sống và cái sống là nền tảng cho cái chết. Cả hai cái nương nhau mà xảy ra, mà biểu hiện. Theo chánh kiến thì ta đang sinh diệt trong mỗi giây phút, không giây phút nào mà ta không sống, không giây phút nào mà ta không chết. Ta trải nghiệm cái sống và cái chết trong mỗi sát na. Vậy hỏi rằng: “Cái gì sẽ xảy ra sau khi chết” là không đúng. Ta đang sống và ta đang chết. Và ta có thể sống chết một cách ngoạn mục và đẹp đẽ trong từng giây từng phút. Trong mỗi giây hàng vạn tế bào cơ thể đang chết ta đâu cần làm đám tang để thương xót chúng. Mỗi giây hàng vạn tế bào sinh ra ta đâu có đủ thì giờ để ăn mừng chúng. Sống chết không phải là cái gì ghê gớm lắm đâu. Cái chết không thuộc về tương lai. Cái chết đang xảy ra trong hiện tại, vậy mà ta có đau buồn về nó đâu. Và vào giờ phút mà ta tưởng là ta sẽ chết, cái chết sẽ không có đó để chờ ta. Vì lúc ấy cả hai cái sống và chết đều ngưng biểu hiện để sẽ biểu hiện trong những hình thức sinh diệt khác. Quán chiếu như thế ta đạt được cái thấy sinh diệt tương tức và ta vượt thoát được sự sợ hãi về cái chết.

Ta có thể đi xa hơn với cái định gọi là vô sinh. Vô sinh có nghĩa là không có sự sinh ra cũng như không có sự hoại diệt. Quán chiếu một đám mây hay một tờ giấy, ta thấy được tính vô sinh của chúng. Đám mây không từ không mà trở thành có, đám mây chỉ là một hình thức biểu hiện mới. Trước đó nó đã có mặt trong đại dương, trong hơi nước và trong ánh sáng mặt trời. Không phải từ không trở thành có, đó là vô sinh. Đám mây cũng không thể nào chết được, không thể nào diệt được, bởi vì đám mây chỉ có thể trở thành mưa, thành tuyết, thành hơi nước, thành băng, mà không thể nào từ có trở thành không. Điều này cũng đúng với tờ giấy. Tờ giấy trước khi trở thành tờ giấy đã là cây rừng, là đám mây…Tờ giấy không từ không mà trở thành có, tự tính của tờ giấy là bất sinh, là vô sinh. Đốt tờ giấy đi tờ giấy sẽ tiếp nối bằng sức nóng, bằng khói, bằng tro bụi. Tờ giấy không thể nào từ có trở thành không, tự tính của nó là bất diệt. Tất cả mọi hiện tượng quanh ta và trong ta đều như thế, kể cả hình hài ta. Tự tính của ta là vô sinh bất diệt. Đạt tới cái thấy ấy là vượt thắng được mọi lo lắng, sợ hãi và phiền muộn.

Quán chiếu về có và về không, ta thấy có và không chỉ là hai khái niệm mà không phải là tự tính của thực tại. Nếu một vật là thực sự có thì tự tính của nó phải là có, không thể biến dịch, không thể trở thành không. Nếu nó có biến dịch, nếu nó có thể trở thành không thì nó không thực sự là có. Cái không cũng thế. Nếu một vật là thực sự không có, thì tự tính của nó phải là không, nó không thể biến dịch, nó không thể từ không trở thành có được. Trong Bộ Tạp A Hàm, kinh số 301, Bụt bảo thầy Ca Chiên Diên (Katyàyana) rằng chánh kiến là cái thấy vượt thoát khỏi hai ý niệm có và không. Nếu có và không chỉ là những ý niệm mà không phải là thuộc tính của thực tại thì không cần phải đặt câu hỏi thế giới này có từ bao giờ, và bao giờ thế giới này sẽ trở thành không, ai tạo dựng ra thế giới này, và có một đấng tạo hóa hay không có một đấng tạo hóa. Nếu các nhà khoa học vượt thoát được các ý niệm có và không thì các vị ấy cũng không cần đặt ra vấn đề khởi nguyên của vũ trụ và cũng không cần sáng tạo những lý thuyết như lý thuyết ‘Big Bang’. Vũ trụ đang giản ra thì cũng như vũ trụ đang thở vào, và sau khi thở vào vũ trụ sẽ thở ra, không cần phải có một điểm bắt đầu.

Nếu ta quán chiếu về tương tức (interbeing) ta sẽ thấy nước cũng là sóng, đám mây cũng có mặt trong bông hoa, tôi có trong anh, anh có trong tôi, và nhân quả có trong nhau. Có tuệ giác tương tức thì không còn kỳ thị, hận thù và sợ hãi. Nếu ta quán chiếu về vô dục, ta sẽ thấy đối tượng thèm khát của ta vô thường, chứa đầy hiểm nguy và hoạn nạn như trong chiếc mồi câu có một lưỡi câu, và ta chuyển hóa được sự tham đắm và thèm khát. Tương tức và vô dục cũng là những phép thiền định có công năng chuyển hóa và giải phóng.

Ba phép thiền định căn bản có mặt trong tất cả các truyền thống Phật giáo là không, vô tướngvô tác, cũng gọi là ba cánh cửa giải thoát.

Không có nghĩa là trống rỗng. Không một hiện tượng nào có tự tính chắc thật. Tất cả đều là những tập hợp của nhân duyên, nói là có thì không đúng mà nói là không cũng không đúng. Chữ không ở đây (Sunyata, emptiness) không có nghĩa là cái không đối với cái có mà chỉ có nghĩa là sự trống rỗng, sự vắng mặt của một cái cốt lõi chắc thật, thường hằng. Khoa học khi đi vào thế giới của các lượng tử đã gần như tiếp xúc được với cái trống rỗng ấy. Không cũng có nghĩa là không có một cái ta riêng biệt, không có cái trái thì không có cái phải, không có cái ta thì không có cái người, cha và con không phải là hai thực thể độc lập, cha có trong con và con có trong cha. Cái thấy này đưa tới tự do lớn.

Vô tướng (animitta, signlessness) nghĩa là không bị đánh lừa và không bị kẹt vào những tướng trạng bên ngoài của sự vật. Hơi nước tuy mình không trông thấy được nhưng nó vẫn có mặt, chỉ cần tiếp xúc với cái lạnh là nó hiện ra tướng sương mù hoặc tướng mây. Đám mây tuy không còn thấy trên trời nữa, nhưng nó không phải không còn: nó đang có mặt dưới hình tướng cơn mưa, cơn tuyết, hay tảng băng. Những cái tướng như tướng có, tướng không, tướng ta, tướng người, tướng sinh, tướng diệt… đều có thể đánh lừa ta. Vì vậy nếu quán chiếu để đừng bị kẹt vào tướng thì ta sẽ không còn là nạn nhân của sầu khổ, sợ hãi và tuyệt vọng.

Vô tác (apranihita, aimlessness) nghĩa là chấm dứt sự đeo đuổi tìm cầu. Những điều kiện để có hạnh phúc đang có mặt, nếu ta trở về giây phút hiện tại thì ta có thể nhận diện được chúng, và hạnh phúc có thể có mặt lập tức. Bông hoa cúc là một thực tại mầu nhiệm, bông hoa cúc không cần phải trở thành một bông hoa hồng mới có hạnh phúc. Những gì ta đi tìm kiếm xưa nay như niết bàn, tịnh độ, pháp thân, Phật tánh và giác ngộ đã có sẵn trong tự tánh ta, ngay trong giây phút hiện tại. Những mầu nhiệm của pháp thân của tịnh độ đều có mặt trong thân tâm ta, chỉ cần trở về với niệm, định và tuệ là ta tiếp xúc được. Ngưng lại sự rong ruổi tìm cầu thì tức khắc được thảnh thơi và an lạc. Vô tác cũng là vô đắc. Không có gì để chứng đắc, không có gì cần tìm cầu. Sóng được nhận thức như có bắt đầu, có chung cục, có lên, có xuống, có có, có không. Nhưng sóng đồng thời cũng là nước. Nước không có, không không, không sinh, không diệt, không lên, không xuống. Chỉ cần đợt sóng nhận ra được mình là nước thì nó sẽ thoát khỏi được mọi sự lo lắng, sợ hãi và mong cầu. Đợt sóng chính là nước ngay tại đây và ngay trong giây phút này. Đợt sóng không cần phải đi tìm nước. Thấy được như vậy thì đợt sóng an lạc. Đó là vô tác.

Chánh kiến là cái thấy bất nhị vượt thoát mọi ý niệm như có không, sinh diệt, đồng dị, tới đi… Đó là tuệ giác duyên sinh và tương tức. Chánh kiến là nền tảng của đạo đức học (meta-ethics) của đạo Bụt. Năm giới của đạo Bụt (The Five Mindfulness Trainings) sau đây là con đường của tình thương chân thực và hạnh phúc chân thực biểu trưng được cho tuệ giác ấy. Con đường này có giá trị phổ biến, người Phật tử hay người không Phật tử đều có thể học hỏi và sống theo tuệ giác và đạo đức này để xây dựng an lạc và hòa bình cho thế giới.

_____________

Năm giới tân tu

Hai quyến rũ lớn trong lịch sử tư tưởng Phật giáo

NHỮNG CON ĐƯỜNG ĐƯA VỀ NÚI THỨU
(trăm hoa đua nở trong vườn tâm linh Phật giáo
)
Đọc lại và quán chiếu các định đề giáo lý của các bộ phái Phật giáo được ghi chép trong tác phẩm Dị Bộ Tông Luân Luận (Samayabhedo paracana cakra) của thầy Thế Hữu (Vasumitra).

Xin quý vị độc giả thưởng thức trước đoạn trích dưới đây và đón đọc sách này trong thời gian tới ở Việt Nam.

 

Hai quyến rũ lớn trong lịch sử tư tưởng Phật giáo

Trong lịch sử phát triển tư tưởng của Phật giáo luôn luôn có hai khuynh hướng hay hai quyến rũ (temptation) rất lớn theo nhu cầu của đại đa số quần chúng. Nhu yếu đầu là:

Tôn giáo hóa đạo Bụt

Ban đầu đạo Bụt không hẳn là một tôn giáo mà là một nghệ thuật sống, một công phu thực tập giải thoát bằng trí tuệ. Người ta phải căn cứ rất nhiều vào sức mạnh của cá nhân, của tự lực, cũng như khi đói thì phải tự mình ăn, người khác ăn giùm mình không được. Đó là tinh thần của Phật giáo Nguyên thỉ: Phải sử dụng thân, phải sử dụng hơi thở của mình để tự chuyển hóa và giải thoát.

Nhưng đó là công việc của một thiểu số, còn đa số chỉ muốn có một đức tin, một tha lực. Người ta có nhu yếu muốn biến Phật giáo thành ra một tôn giáo, một sự thực tập tín ngưỡng (practice of devotion) gọi là bhakti. Con đường trí tuệ là một con đường và con đường đức tin là một con đường khác. Đức tin cũng đem lại cho chúng ta an ủi rất lớn. Chúng ta không tự tin nơi mình nhưng tin vào một tha lực, tha lực đó trong trường hợp của Phật giáo là Bụt.

Đại Chúng Bộ (Mahāsanghika) đi tiên phong trên đường này, đã phát triển ra một Phật thân quan (佛 身 觀) làm đối tượng cho sự tín ngưỡng của con người. Phật thân quan tức là quan niệm về thân Bụt. Hầu hết tất cả các phật tử đều có nhu yếu hướng về một vị Bụt như thế, một vị Bụt pháp thân còn mãi, còn hoài, không mong manh, không sinh diệt như hóa thân Bụt.  Người ta không bằng lòng với một vị Bụt sắc thân, một con người sinh ra ở thành Ca tỳ la vệ, tu học, tới năm 35 tuổi thành đạo rồi tịch năm 80 tuổi. Đó là khuynh hướng đi về tôn giáo. Theo Đại Chúng Bộ, 5 uẩn, 12 xứ và 18 giới của Bụt thuộc về xuất thế gian (lokottara), không phải là thế gian (loka). Cái đó sau này được gọi là pháp thân (dharmakāya).

Đó là khuynh hướng cung cấp một đối tượng cho sự thờ phụng, một tín ngưỡng mà chúng ta gọi là The Living Buddha tức Bụt ngàn đời. Đây là công trình của Đại Chúng Bộ. Bên cạnh các từ pháp thânhóa thân, sau này Pháp tướng học thêm vào một thân nữa là báo thân.

Trong kinh nguyên thỉ cũng có nói tới pháp thân nhưng chữ pháp thân trong kinh Nguyên thỉ có nghĩa khác. Khi Bụt tới thăm thầy Vakkali, Ngài hỏi thầy:

–       Thầy Vakkali ơi, thầy có tiếc nuối gì không?

–       Con không tiếc nuối gì cả. Con chỉ tiếc một chuyện là con bệnh quá nên không đi nghe pháp thoại của đức Thế Tôn trên núi Thứu để được chiêm ngưỡng dung nhan của Ngài.

Bụt nói:

–       Hình hài này không quan trọng! Nhục thân của tôi không quan trọng! Thầy đã có pháp thân của tôi rồi thì tại sao thầy lại còn nuối tiếc như vậy? Pháp thân mới là cái quan trọng!

Danh từ pháp thân (dharma teaching) đã có từ thời Phật giáo Nguyên thủy, và có nghĩa là toàn bộ giáo lý của đức Thế Tôn. Sau này chữ pháp thân có ý nghĩa thực chất hơn. Ví dụ bông hoa này cũng là một phần của pháp thân tại vì sự biểu hiện của nó là một bài pháp về vô thường, vô ngã và tương tức. Điều đó rất hay, rất thi ca. Đó là một sản phẩm của Đại thừa.

“Nụ hoa nào, hạt sỏi nào, ngọn lá nào cũng thuyết Pháp Hoa kinh”

(thơ Nhất Hạnh)

Cái hay là, các nhà Đại thừa, trong khi xiển dương và phát triển giáo lý của Đại thừa đã không bóp méo giáo lý của Tiểu thừa. Họ chỉ chê Tiểu thừa là chỉ thấy được một phần của sự thật. Cái thấy của Tiểu thừa đúng nhưng không đủ. Người Đại thừa nhìn bằng con mắt của một vị Bồ tát và thấy giáo lý của Bụt vĩ đại hơn nhiều. Các nhà Đại thừa không cố tình bóp méo tư tưởng của Tiểu thừa. Họ chỉ nói: “Các anh chỉ mới thấy được chừng đó thôi. Đúng nhưng còn thiếu sót vô cùng!” Nếu nhớ câu đó thì chúng ta thấy Đại thừa là sự tiếp nối của Tiểu thừa.

Từ Đại Chúng Bộ trở về sau chúng ta thấy khuynh hướng muốn làm thỏa mãn nhu yếu thờ phụng và kính ngưỡng rất rõ ràng. Thực tập thờ phụng và kính ngưỡng thì mình thấy trong lòng mình khỏe ra, nhẹ ra, tại vì mình có một đối tượng để bám víu vào. Chúng ta không thể nào không bị cuốn theo khuynh hướng đó. Nhưng nếu bị cuốn theo nhiều quá thì chúng ta sẽ bỏ mất sự thực tập. Chúng ta trao hết thân mạng mình, hạnh phúc của mình, sự giải thoát của mình cho một lực lượng linh thiêng. Chúng ta không còn có sự cố gắng cá nhân.

Cơ đốc giáo có giáo lý như thế: Những cố gắng của con người không đi đến đâu. Nếu Thượng đế không ra tay cứu giúp thì đừng hòng (the teaching of justification by faith only). Chỉ có đức tin mới chở mình qua bên kia được còn những cố gắng cá nhân thì cũng không đi đến đâu. Đó hoàn toàn tín ngưỡng, là bhakti (devotion).

Tinh thần của Phật giáo Nguyên thỉ không phải vậy. Có lần Bụt nói:

–      Khi đứng bên này bờ sông thì mình đừng cầu nguyện “bờ bên kia ơi, qua đây cho tôi bước lên”. Mình phải làm bè rồi ngồi lên mà bơi qua sông.

Đức Thế tôn đã nói rõ như vậy. Đó là tinh thần của Phật giáo Nguyên thỉ. Trong khi đó, nhu yếu của quần chúng đẩy các thầy và các vị truyền giáo sáng tạo ra một đối tượng của sự thờ cúng, sự tín ngưỡng. Đó là một quyến rũ lớn nhất trong lịch sử tư tưởng Phật giáo. Nhiều khi chúng ta đã đi quá đà đến nỗi ta hoàn toàn không trông cậy vào tự lực, ta chỉ trông cậy vào tha lực mà thôi. Điều đó không đúng với bản hoài của đức Thế Tôn. Tuy Bụt – Pháp – Tăng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống tu học của mình nhưng Bụt – Pháp – Tăng cũng biểu hiện trong ta và ta phải có tự lực mới được. Chúng ta hãy nhìn lại xem trong nước ta, trong chùa ta, sự thực tập căn cứ trên tự lực có được mấy phần và căn cứ trên tha lực có được bao nhiêu phần? Với cái thấy đó chúng ta có thể cải biến sự thực tập về Tịnh độ. Sự thực tập Tịnh độ cũng có thể là sự thực tập tự lực tại vì niệm Bụt cũng là sự thực tập chánh niệm. Niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới đều là Phật giáo Nguyên thỉ. Niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới để có thể đem tịnh độ, an lạc và hạnh phúc ngay bây giờ. Đó là giáo lý Nguyên thỉ. Niệm Bụt để chán bỏ giây phút hiện tại, để treo hy vọng vào một nơi khác trong tương lai, điều đó không phù hợp với giáo lý Nguyên thỉ. Nếu chúng ta thực tập tịnh độ với nhận thức rằng niệm Bụt để đem lại niệm – định – tuệ, để mở mắt cho chúng ta thấy hạnh phúc, an lạc và tịnh độ đang có mặt trong giây phút hiện tại, thì tịnh độ này vẫn phù hợp với giáo lý Nguyên thỉ. Nếu ta chán ghét cõi đời hiện tại, mong đi qua cõi Tịnh độ trong tương lai thì đó là cầu mong tương lai, là đi ngược lại với bản hoài của đức Thế Tôn.

Trong lịch sử tư tưởng trên 2500 năm của Phật giáo, chúng ta thấy khuynh hướng đi về phía tín ngưỡng rất mạnh, có thể là khó có thể chống lại được tại vì quần chúng ở ngoài đời đòi hỏi như vậy. Nếu buông xuôi hoàn toàn thì chúng ta sẽ mất đi cái gốc rễ quí nhất của đạo Bụt là sự thực tập căn cứ trên những cố gắng của bản thân mình.

Thiết lập một cái ngã thường còn

Chúng ta cũng có nhu yếu thiết lập ra một cái gì đó thường còn mà mình có thể nắm giữ được. Nếu tất cả đều vô thường, đều sinh diệt trong từng giây phút như trong Phật giáo Nguyên thỉ nói thì chúng ta khó mà nắm bắt được. Những người có căn cơ, có thể nắm được giáo lý sát na diệt rất ít. Sự quyến rũ thứ hai rất mạnh: đó là muốn đi tìm một thực thể nào đó nằm ở dưới mọi chuyển biến, nó bảo đảm cho một sự liên tục để mình có thể nắm lấy.

Trước hết, Độc Tử Bộ đưa ra cái gọi là thắng nghĩa Bổ đặc già la. Nếu không có cái ngã thường còn và liên tục thì làm sao giải thích được nhân quả, nghiệp báo, tu chứng? Đó là sự hấp dẫn rất lớn. Cố gắng đầu tiên của Độc Tử Bộ là lập ra thắng nghĩa Bổ đặc già la và muốn cho đừng trái chống với giáo lý của đức Thế Tôn thì chủ trương rằng cái pudgala (person) ở đây không phải là cái ngã trong kinh Vệ đà của Ấn độ giáo. Nó là thắng nghĩa, là bất khả tư nghì, là không thể quan niệm được.

Đại Chúng Bộ sản xuất ra Căn bản thức 根 本 識 (mula-vijñāna), Hữu Bộ có Tế ý thức 細 意 識, Thượng Tọa Bộ sáng tạo ra Hữu phần thức 有 分 識 (bhavānga). Trong Pháp tướng duy thức học nó là A lại da thức (Alaya-vijñāna), trong Tam luận là giáo lý Không 空 (sunyata), là Chân như 眞 如 (suchness), rồi tới Phật tính 佛 姓, Pháp thân 法 身 và Như lai tạng 如 來 藏. Tất cả đều là sự tìm kiếm để thiết lập ra một cái gì thường còn nằm ở chiều sâu bên dưới hiện tượng để người ta bám vào. Dù nói tới pháp thân hay phật tính hay như lai tạng hay chân như v.v.. thì người ta vẫn cho rằng cái ấy thường còn nhưng không xa lìa, không phải là cái gì ở ngoài những phiền não và những sinh diệt biến dị. Họ tìm cách để chứng minh rằng giáo lý đó vẫn trung kiên với giáo lý vô thường và vô ngã của đức Thế Tôn. Nếu chúng ta không khéo thì những quan niệm về như lai tạng, về phật tính, về chân như, về không, v.v… có thể được nhận thức như một cái ngã. Điều kỵ nhất trong Phật giáo Nguyên thỉ là cái ngã.

Kinh luận về Duy thức có nói: Thức A nà đa rất tế nhị, rất sâu sắc. Các chủng tử trong ấy trôi như một dòng nước dốc. Đối với những căn cơ tầm thường tức phàm phu thì tôi (Bụt) không muốn nói cho họ nghe vì sợ những người đó nắm lấy và chấp đó là ngã. Ngay cả Duy thức học cũng thấy nguy hiểm khi đưa ra A lại da thức, sợ người ta nắm lấy nó và chấp đó là một cái ngã.

Khuynh hướng đi tìm và nắm lấy một cái ngã là khuynh hướng rất phổ cập. Trong khi đó giáo lý căn bản của đức Thế Tôn là vô ngã. Người ta có nhu yếu phải thiết lập một cái gì đó để làm nền tảng cho nhân quả, cho nghiệp báo, cho sự chứng ngộ. Nhưng làm công việc này rất nguy hiểm. Nếu không khéo ta sẽ đi ngược lại bản hoài của đức Thế Tôn. Trong suốt lịch sử 2500 năm của Phật giáo đã có sự vật lộn và tranh đấu như thế, và có khi người ta đã đưa đạo Bụt gần tới cái gọi là thần giáo.

Trong Mật tông có quan niệm Đại Nhật Như Lai (Vairochana). Đại Nhật Như Lai trở thành gần như một vị Thượng đế. Thế giới này là sự biểu hiện của Đại Nhật Như Lai. Đó là một hình thức của thần giáo. Nó có thể đánh mất đi những nét đặc thù của Phật giáo. Đạo Phật không phải là một thần giáo.

Tại sao trong thời của đức Thế Tôn, Ngài không cần hai nhu yếu trên mà vẫn tu chứng được? Tại sao sau đó người ta lại cần đến chúng? Đó là những công án lớn mà chúng ta phải tìm cách trả lời. Hồi thời đức Thế Tôn, Ngài không có chủ ý lập ra những chủ thuyết. Ngài giảng dạy và đưa ra những phương pháp thực tập rất đơn giản và rõ ràng. Nhưng sau này càng ngày giáo lý của Ngài càng mang tính hình nhi thượng học. Người ta đã lập ra những thuyết này, thuyết kia để chứng minh cái này, cái nọ, chứng minh nhân quả rồi chứng minh luân hồi, v.v… Đó như là một sự thật tất yếu. Nếu chúng ta không thấy, không nắm được điều này thì chúng ta không mở được đường cho tương lai và sẽ đi vào dấu chân sai lầm của những người đi trước.

Bụt không phải là một vị thần linh. Bụt chỉ là một vị đạo sư và chúng ta có niềm tin nơi Ngài, nơi trí tuệ và khả năng của Ngài. Chúng ta không thờ cúng Ngài như một thần linh. Đức Thế Tôn trước hết là một con người bằng da, bằng thịt, bằng năm uẩn như chúng ta. Vì có tuệ giác cao, có từ bi lớn nên người đã trở thành một vị đạo sư. Chúng ta thương mến, cung kính bậc thầy đó của chúng ta.

Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, vì người ta không còn một đối tượng cụ thể để cung kính cho nên mới sinh ra khuynh hướng thần thánh hóa con người của Thích Ca Mâu Ni. Đạo Phật trở thành ra một tôn giáo và yếu tố tôn giáo đã đi vào đạo Phật rất nhiều. Chúng ta phải công nhận cái sự thật là đạo Phật đã trở thành một tôn giáo.

Tôn kính và thờ phụng một đấng giáo chủ có quyền năng có thể làm êm dịu những khổ đau của con người. Nó có thể cung cấp cho con người một nơi nương tựa, nhưng nó không phải là điểm quan trọng nhất trong đạo Bụt. Điểm quan trọng nhất trong đạo Bụt là những giáo lý, những pháp môn giúp cho chúng ta chuyển hóa và giải thoát. Trên quá trình hành đạo, chúng ta cũng có thể phát triển khía cạnh đức tin, tôn giáo. Nhưng chúng ta đừng bao giờ quên rằng đó không phải là phần chủ chốt nhất của đạo Bụt. Phần chủ chốt nhất của đạo Bụt là phần tu tập để chuyển hóa, trị liệu thân và tâm của mình.

Đại Chúng Bộ là bộ phái đầu tiên đưa Bụt lên địa vị một vị siêu nhân để kính ngưỡng và thờ phụng. Theo Đại Chúng Bộ, đức Thế Tôn không còn là một con người nữa, đức Thế Tôn là một hiện tượng xuất thế gian. Tất cả những gì thuộc về Ngài đều không nằm trong phạm vi của thế gian (mondain) mà nằm trong phạm vi xuất thế gian (supramondain). Có sự phân biệt giữa thế gian và xuất thế gian. Đức Thế Tôn trở thành ra Bụt ngàn đời (the living Buddha) làm đối tượng kính ngưỡng, nương tựa của biết bao nhiêu thế hệ. Trong những năm sau Niết Bàn, giáo đoàn của Bụt, trong đó có các nghệ sĩ, đã rất cẩn thận, không dám tạc tượng của Ngài. Họ chỉ tạc ra cây bồ đề và chỗ ngồi của Bụt. Mãi cho đến mấy trăm năm sau người ta mới bắt đầu tạc tượng Bụt. Nếu quán chiếu thì chúng ta thấy có nhiều lý do:

–       Dù có tài ba cách mấy thì chúng ta cũng không thể nào diễn tả được cái đẹp của Bụt là đại bi và đại trí.

–      Lý do thứ hai sâu sắc hơn, nếu đi tìm Bụt qua hình sắc, âm thanh thì chúng ta có thể đi lạc. Có một cái nhìn vô tướng về đức Thế Tôn thì mình mới có thể tiếp xúc được thật sự với Ngài.

Ngoài ra còn có những lý do khác nữa. Có những bộ phái khác phát xuất từ Đại Chúng Bộ như Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravāda) đã đưa tư tưởng này đi rất xa. Tới đây chúng ta có một quan niệm về một vị Bụt hoàn toàn xuất thế và điều này có thể tạo ra sự chia cách giữa chúng ta và Bụt. Bụt thuộc về một thế giới khác mà chúng ta, những người trong thế gian, không với tới được. Vì vậy xảy ra hiện tượng là chúng ta càng ngày càng xa Bụt. Có sự kính ngưỡng, có sự nương tựa, nhưng Bụt là Bụt, còn ta là ta. Đọc kỹ cuốn “Đường xưa mây trắng”, quý vị sẽ thấy đây là một cố gắng lấp lại hố ngăn cách để giúp chúng ta thấy được Bụt trước hết là một con người. Trong “Đường xưa mây trắng”, Bụt hiện ra như một con người. Chúng ta cảm thấy gần gũi Bụt hơn, Bụt không còn là một thần linh. Nếu cuốn “Đường xưa mây trắng” có chút công đức nào chính là nhờ điểm đó: Đưa Bụt xuống đất ngồi chung với chúng ta. Chúng ta không còn mặc cảm. Bụt là người, Bụt làm được như vậy thì ta cũng làm được như vậy.

Đại Chúng Bộ cũng như Thuyết Xuất Thế Bộ đóng góp nhiều cho sự thành lập thuyết ba thân sau này. Theo Đại Chúng Bộ, sắc thân của Bụt chỉ là một hóa thân. Hóa thân của Bụt rất nhiều, nhiều hằng hà sa số. Thích Ca Mâu Ni chẳng qua chỉ là một hóa thân thôi, không phải là thân quan trọng nhất. Đối tượng của sự kính ngưỡng của Đại Chúng Bộ được dời tới một nơi khác, đó là pháp thân. Đó là sự đóng góp của Đại Chúng Bộ cho sự phát triển tư tưởng về tam thân. Theo Thượng Tọa Bộ, Thích Ca Mâu Ni là Bụt, là thầy, là đối tượng của sự cung kính. Sau này Pháp Tướng Tông đưa ra giáo lý về tam thân, ngoài hóa thân, pháp thân chúng ta còn có báo thân.

Đại Chúng Bộ chiếm đa số trong tăng đoàn. Trong tăng đoàn Nguyên thủy có sự phân biệt giữa La hán và không La hán, giữa hữu học và vô học. Hữu học là những người còn phải thực tập và học hỏi. Vô học là những người đã thông rồi, không cần phải thực tập và học hỏi nữa. Đại Chúng Bộ chủ trương, không phân biệt hữu học và vô học, không phân biệt giữa La hán và không La hán. Căn cứ trên tiêu chuẩn nào mà ta cho thầy này là La hán còn thầy kia chưa phải là La hán, thầy đó là vô học còn thầy kia còn là hữu học? Đó là chủ trương căn bản của Đại Chúng Bộ. Đôi khi cũng có La hán giả, có vô học giả, vì vậy không phải là Đại Chúng Bộ không có lý của họ.

Trong số những tông phái lưu xuất từ Đại Chúng Bộ có một tông phái gọi là Đa Văn Bộ (Bahuśrutīya). Đa văn có nghĩa là học hỏi rất nhiều. Bộ phái này chủ trương nương tựa vào trí tuệ và lý luận, cho rằng: Luận tạng quan trọng hơn Kinh tạng và Luật tạng. Nếu chúng ta giải thoát được là nhờ vào sự thông minh và lý luận sắc bén của mình hơn là nhờ vào sự giữ giới hay việc đọc tụng kinh nhiều. Vì vậy nên họ có tên là đa văn. Đa Văn Bộ xuất hiện hơi chậm, có khuynh hướng tổng hợp các tư tưởng Tiểu thừa với tư tưởng Đại thừa. Đa Văn Bộ cũng chủ trương như thầy Harivarman trong tác phẩm Thành Thật Luận (Satyasiddhiśāstra). Trong tác phẩm này thầy Ha lê bạt ma chủ trương: Ngã đã không rồi mà pháp cũng là không. Đó là do ảnh hưởng của Đại thừa. Đa Văn Bộ đã mở vòng tay ra ôm lấy chủ trương của Thành Thật Luận. Có thể nói, Đa Văn Bộ là một trong những bộ phái có khuynh hướng tiếp nhận Đại thừa.

Ngày xưa trong Phật học viện, sau khi học xong Câu Xá Luận (Abhidharmakośa-śāstra) thì học tăng phải học Thành Thật Luận. Câu Xá Luận là của Hữu Bộ, chủ trương: Ngã không, pháp hữu. Trong khi đó thầy Harivarman chủ trương: Ngã không, pháp không.

Đứng về phương diện Thượng Tọa Bộ (Sthavira) chúng ta thấy có một bộ phái lưu xuất từ Thượng Tọa Bộ rất sớm là Chánh Lượng Bộ (Sammitīya). Từ Chánh Lượng Bộ phát sinh ra Độc Tử Bộ (Vātsīputrīya).

Độc Tử Bộ chủ trương phải có một cái gì liên tục mới có thể giải thích được nghiệp báo và sự chứng ngộ. Nếu tất cả các pháp sinh diệt không ngừng thì làm gì có một chủ thể để

tiếp tục tu học, để chứng ngộ, để gây ra nghiệp và thọ lãnh nghiệp? Đó là quyến rũ thứ hai trong lịch sử tư tưởng Phật giáo. Nếu không có con người thì ai tu, ai chứng, ai tạo nghiệp và ai thọ ứng nghiệp đó? Đây là yếu tố hấp dẫn thứ hai, đóng một vai trò rất lớn trong sự thúc đẩy chế tác ra những giáo lý, những lý thuyết mới trong đạo Bụt.

Hàng chục thế kỷ sau hai nhu yếu trên vẫn còn và còn cho tới ngày hôm nay. Tiếng súng thần công đầu tiên nổ ra để nêu lên sự đòi hỏi đó là do Chánh Lượng Bộ và Độc Tử Bộ.

Trong khi đó Bụt nói rất rõ: “Không có một chủ thể nào cả! Không có ngã! Bờ bên kia, chúng ta không thể bảo nó đi qua bên này cho mình bước lên mà mình phải tự bơi qua.” Nếu tu học mà để hai quyến rũ này kéo đi hoàn toàn thì chúng ta sẽ đánh mất đạo Bụt Nguyên thỉ, một bảo vật quí giá của đức Thế Tôn. Nếu hành đạo mà quá chiều theo hai nhu yếu đó, nhu yếu tín ngưỡng và nhu yếu có một chủ thể thường còn, thì tuy chúng ta giúp được nhiều người nhưng chúng ta có thể đánh mất cái quí giá nhất của đạo Bụt.

Tới khoảng 200 năm sau Niết Bàn có một sự phân phái thứ hai thành ra Hữu Bộ (Sarvāstivāda) và Thượng Tọa Bộ có một tên mới là Phân Biệt Thuyết Bộ (Vibhajyavāda). Sự phân phái này xảy ra vào thế kỷ thứ ba trước Thiên chúa giáng sinh. Lúc đó vua A Dục (Asoka) đã thống nhất toàn cõi Ấn Độ. Theo truyền thống Nam tông còn tồn tại ở Tích Lan thì vua A Dục có vẻ thích Phân Biệt Thuyết Bộ và nghĩ Hữu Bộ hơi đi lạc ra ngoài. Hữu Bộ vì vậy đã tìm cách di cư lên miền Bắc và đóng đô ở Kashmir. Sau đó có thêm hai trung tâm nữa ở Gandhara và Mathura.

Hữu Bộ trở thành một tông phái nổi tiếng vào bậc nhất nhờ lý thuyết: Tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu. Ảnh hưởng của Hữu Bộ về tới tận trung tâm Patna, tức cái nôi của Phật giáo.

Lúc đầu đạo Bụt chỉ có một vòng đai ở trung Ấn. Chính nhờ vua A Dục mà đạo Bụt đi xuống miền Nam và đi lên miền Bắc. Vua A dục có người con trai đầu tên Mahindra. Mahindra xuất gia và nguyện đem đạo Bụt về đảo Tích Lan. Một nhánh của Phân Biệt Thuyết Bộ đi về Tích Lan và trở thành Đồng Diệp Bộ (Tamrasātiya), Đồng Diệp Bộ là phái Theravāda bây giờ. Các vị khất sĩ của Theravāda mặc áo màu hỏa hoàng tức màu đồng đỏ. Lâu lâu họ cũng tự xưng là phái Phân Biệt Thuyết Bộ.

Phân Biệt Thuyết Bộ là Thượng Tọa Bộ, Hữu Bộ cũng là Thượng Tọa Bộ,

Đồng Diệp Bộ cũng là Thượng Tọa Bộ. Nhưng sau đó Thượng Tọa Bộ có tên khác là Hóa Địa Bộ (Mahīsasāka). Người chủ trương Hóa Địa Bộ là một ông vua bỏ hết giang sơn để xuất gia nhưng còn uy tín rất lớn nên đã đem đạo Bụt làm đẹp cho đất đai. Gọi là Hóa Địa nghĩa là hóa độ được địa phương của mình.

Phân Biệt Thuyết Bộ truyền tới Tích Lan. Tích Lan là một hòn đảo, không bị ảnh hưởng nhiều của các tông phái khác nên còn giữ lại tính cách của Thượng Tọa Bộ nhiều hơn là Hóa Địa Bộ. Hóa Địa Bộ cũng từ Phân Biệt Thuyết Bộ đi xuống nhưng bị ảnh hưởng của Đại thừa và của các tông phái khác. Trong khi đó thì Đồng Diệp Bộ tuy cùng một gốc với Hóa Địa Bộ nhưng còn giữ được tính Nguyên thỉ của Thượng Tọa Bộ ngày xưa.