Thuỷ chung vẫn một niềm thương

Kính thưa Đại chúng!

Ni chúng chùa Từ Nghiêm, xóm Mới thương tiếc báo tin đến Tứ chúng Đạo tràng Mai Thôn: Sư cô Chân Trăng Rừng Tùng đã qua đời lúc 17h chiều ngày 01 tháng 7 năm 2025. Trụ thế 43 năm, 7 năm tu học với 4 hạ lạp.

Sư cô Trăng Rừng Tùng với pháp danh Tâm An Phúc, thế danh Trịnh Thanh Bình sinh ngày 14 tháng 11 năm 1982 tại Thanh Hoá, Việt Nam. Sư cô xuất gia, thọ giới Sa Di Ni vào năm 2018 tại tu viện Vườn Ươm, Làng Mai Thái Lan trong gia đình cây Ngọc Lan và thọ giới lớn vào ngày 3 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ. Sư cô Trăng Rừng Tùng là đệ tử thứ 1053 của Thầy Làng Mai, thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

 

 

Sự ra đi của sư cô đã để lại nhiều niềm cảm thương, tiếc nuối cho cả hai dòng gia đình huyết thống và gia đình tâm linh, cho rất nhiều bạn bè và những ai đã từng có cơ duyên gặp gỡ bởi sự sống, sự biểu hiện rất đẹp trong cuộc đời mà sư cô đã hiến dâng. Nhớ về sư cô, mỗi người đều có một cảm nhận rất riêng, đầy trân quý nhưng có lẽ hình ảnh một dáng hình với những bước chân thảnh thơi, an nhiên; một đôi mắt sáng ngời chứa đầy tình thương, bao dung và đôi khi là cả sự tinh nghịch tinh tế như nhắn nhủ, khích lệ điều gì; tinh thần ham học hỏi, ham tu, luôn tinh cần thực tập và sẵn sàng với tinh thần phụng sự, giúp đỡ mọi người trong mọi hoàn cảnh không điều kiện là điều mà chúng ta không thể nào quên.

Khi có cơ hội nhìn lại những bức hình kỷ niệm, ta sẽ thấy rõ ràng một điều rằng sư cô đã sống một cuộc đời rất đáng sống: Trọn vẹn nghĩa tình; Tiếp nối và tận hưởng những pháp lạc trong đời sống tu sĩ;  Tinh chuyên trong sự thực tập hàng ngày để chuyển hoá những tập khí, những khổ đau của tự thân cũng như biết chế tác những niềm vui, hạnh phúc và bình an từ những điều nhỏ nhất trở nên thân thương;  Luôn có mặt, đơn giản chỉ là có mặt thôi cũng đã nuôi dưỡng và xây dựng tình huynh đệ; Biết thưởng thức những mầu nhiệm của thiên nhiên, của vũ trụ; Trân trọng những điều kiện hạnh phúc quanh mình và sống trọn vẹn từng phút giây sự sống cũng như chia sẻ sự bình an, yêu thương đó đến cho nhiều người. Sư cô đã luôn biểu hiện trong lòng đại chúng, và cuối cùng cũng ẩn tàng trong vòng tay của Tăng thân yêu quý, gia đình tâm linh mà sư cô đã chọn. Dường như những việc cần làm sư cô đã làm tạm xong với tất cả tình thương, làm một người tu có hạnh phúc nên hoá đổi một kiếp người cũng thanh thản ra đi. 

Ra đi nhưng thật sự là một cuộc trở về. Sư cô đã trở về với Thầy Tổ, trở về với bản môn thong dong rong chơi khắp mọi nẻo trời phương ngoại. Còn chúng ta? Mỗi chúng ta cũng đang trở về, trở về với ý thức đong đầy về thực tại vô thường, để trân quý hơn những gì mình đang có. Cầu nguyện cho tất cả bình an!

 

 

Cảm niệm về sư cô Trăng Rừng Tùng

Gửi sư bạn thương,

Sáng nay khi mở sách một cuốn sách của Sư Ông, tôi tình cờ đọc được một đoạn Sư Ông nói về ngọn lửa trong hộp diêm:

“Ngọn lửa không phải từ không mà trở thành có đâu, ngọn lửa biểu hiện khi các điều kiện hội tụ, nhân duyên đầy đủ. Nhân và duyên đầy đủ thì nó biểu hiện, nhân duyên thiếu thì nó ẩn tàng. Bây giờ mình hỏi ngọn lửa: “Ngọn lửa ơi, em từ đâu tới và em đã đi về đâu rồi?”. Nếu mình lắng nghe với con mắt thiền, mình sẽ nghe tiếng trả lời của ngọn lửa: “Quý vị ơi, em đâu có từ đâu tới! Em không phải từ phương Nam, phương Bắc, cũng không phải từ phương Tây, phương Đông tới, hễ khi nào những điều kiện nó hội đủ thì em biểu hiện thôi!”. Đó là sự thật, một sự thật rất khoa học. “Hồi nãy tôi mới thấy em đó, em đã đi đâu rồi ngọn lửa ơi?”. Ngọn lửa trả lời: “Em đâu có đi đâu đâu. Em cũng không đi về miền Bắc, miền Nam, miền Tây, miền Đông. Khi nào điều kiện không hội đủ thì em không có biểu hiện nữa thôi, em không có đi đâu hết!”. Đó là sự thực không tới cũng không đi, vô khứ vô lai, bất sinh bất diệt.”

Đọc đến đó, trái tim tôi ấm lại. Tôi không rõ đây là một sự tình cờ hay là thông điệp mà sư bạn đang âm thầm gửi đến tôi. Nhưng điều chắc chắn là tôi đã thấy mình mỉm cười —và tôi biết sư bạn cũng đang mỉm cười.

Chúng ta cùng quê. Bạn xuất gia sau tôi, nhưng tôi luôn cảm nhận bạn như một người chị, một người bạn tinh thần thật sâu sắc. Bạn đã trải qua nhiều khó khăn để có thể thực hiện ước mơ trở thành một vị tu sĩ, và bạn đã đi đến cùng bằng tất cả trái tim mình.

Chúng ta đã sống những tháng ngày thật đẹp bên nhau — những buổi tập hô canh, thỉnh mõ, cùng nhau học kinh, học giới, cùng đi thiền hành, tập võ bên hồ Sao Mai, hay những buổi ngồi nơi góc của thiền đường Hương Cau cùng ngắm trăng. Tôi vẫn nhớ những ngày Tết — sau lễ giao thừa, mấy chị em rủ nhau đi cúng ông Táo, rồi ngồi quây quần bên nhau đốt nến, ăn bánh, uống trà. Và còn biết bao nhiêu kỷ niệm khác nữa. Giản dị vậy thôi mà giờ nhớ lại lòng bỗng nghẹn ngào.

Tôi nhớ dáng đi thong thả, từ tốn của bạn, nụ cười nhẹ và ánh mắt hiền. Sư bạn là một người tu rất đẹp – đẹp từ cách đi đứng, nói năng, đến cái tâm ham học, luôn lắng nghe và đầy cảm thông. Có lẽ ai sống gần bạn đều cảm được sự dịu dàng, khiêm tốn ấy.

Tôi vẫn nhớ hồi mới vào tập sự, bạn hay đi rất nhanh. Vậy mà chỉ vài tháng sau khi xuất gia, không ai còn thấy được cái vẻ vội vã ngày xưa nữa – thay vào đó là những bước chân khoan thai, chậm rãi, đầy chất thiền. Bạn đã thực sự chuyển hóa, và trở thành một phần thân thương trong lòng tăng thân.

Bạn đã sống hết lòng trong tăng thân, và cũng nhẹ nhàng trở về trong vòng tay của đại chúng. Với tôi đó đã là một sự thành công của một người tu rồi.

Cảm ơn sư bạn đã có mặt.

Cảm ơn vì sự hiện diện nhẹ nhàng và thầm lặng của bạn đã là một ngọn lửa ấm giữa đại chúng.

Tôi tin rằng bạn không đi đâu cả. Cũng như ngọn lửa trong hộp diêm, khi các điều kiện đầy đủ thì bạn biểu hiện, khi các điều kiện không còn thì bạn lại trở về trạng thái ẩn tàng — nhưng chưa bao giờ mất đi.

Tôi nhớ có một lần bạn hỏi một sư anh lớn: “Thưa Thầy, sau khi mất Sư Ông đi về đâu?”. Vị thầy đó trả lời: “Sư Ông đâu có đi đâu đâu. Sư Ông đang ở trong Rừng Tùng đó”. Ngày hôm nay, nếu có ai hỏi: “Sau khi mất, Rừng Tùng sẽ đi đâu?” thì sư bạn sẽ nói sao nè?

Bạn vẫn đang có mặt nơi đây — trong tôi và trong tất cả những người thân thương của bạn.

Tôi sẽ tiếp tục đi những bước chân bạn từng đi, giữ gìn nụ cười mà bạn từng để lại, và nuôi lớn ước mơ tu học mà bạn đã sống trọn.

Thương gửi bạn – không phải để nói lời chia tay, mà là để nói lời tiếp nhận. Tiếp nhận sự có mặt sâu sắc của bạn trong tôi, trong tăng thân này, và trong cả những bước chân sắp tới.

Nguyện cho sư bạn luôn được nâng đỡ bởi tình thương của tăng thân, ở bất cứ cảnh giới nào bạn đang có mặt.

Sẽ luôn là bạn đồng hành trên con đường hiểu và thương nhé, bạn của tôi.

Thương kính.

 Sư cô Chân Trăng Học Chiếu

 

 

Thương hướng về sư em Chân Trăng Rừng Tùng

     Mặt trời vừa xuống núi

     Khép lại một cuộc chơi

     Mây trở về cố quận

     Vẫn mang theo nụ cười 

 

     Em đi trong mùa hạ

     Sen nở cánh tinh khôi

     Công phu người ở lại

     Hát ru em giữa đời.

 Đại Ẩn Sơn 01/07/2025

Sư cô Chân Tuyết Nghiêm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhân duyên đủ biểu hiện, nhân duyên khuyết ẩn tàng

( Trích sách Không diệt, không sinh, đừng sợ hãi của Thiền sư Thích Nhất Hạnh )

Nhiều người được hỏi: “Bạn sinh ngày nào?” Nhưng bạn có thể trả lời bằng một câu hỏi hay hơn: “Trước ngày gọi là sinh nhật của tôi thì tôi ở đâu?”

Nếu bạn hỏi một đám mây: “Mây sinh ngày nào, trước khi sinh ra, mây ở đâu?” Nếu bạn hỏi nó: “Mây lên mấy tuổi rồi? Mây sinh ngày nào vậy?” rồi bạn lắng nghe, bạn có thể nghe được câu trả lời.

Bạn có thể tưởng tượng mây sinh ra đời cách nào. Trước khi sinh ra, nó là nước trên mặt đại dương, hay trên mặt sông, rồi nước bốc thành hơi. Mây cũng là mặt trời vì chính mặt trời làm cho nước bốc thành hơi. Gió cũng có trong mây, vì gió làm cho hơi nước tụ lại thành đám mây. Mây không tới từ hư không, mây chỉ là sự chuyển hóa hình thức. Không có chuyện một vật sinh ra từ hư không.

Sớm hay muộn, mây cũng sẽ biến thành mưa hay tuyết, hay nước đá. Nếu bạn nhìn sâu vào mưa, bạn sẽ nhìn thấy mây. Mây không mất đi, nó biến hóa thành ra mưa và mưa biến thành ra cỏ, cỏ vào trong con bò để rồi biến ra sữa và cà-rem bạn ăn đó. Hôm nay khi ăn một ly cà-rem, bạn hãy để thì giờ nhìn nó và nói: “Chào đám mây, ta nhận ra ngươi rồi.” Làm như vậy, bạn đã giác ngộ được bản chất thật của cà-rem và của mây. Bạn cũng có thể nhìn thấy biển, sông, thấy hơi nóng mặt trời, thấy cỏ và con bò trong ly cà-rem.

Nhìn cho sâu, bạn sẽ không thấy được ngày sinh thực và ngày chết thực của đám mây. Chỉ có chuyện đám mây chuyển hóa thành ra mưa hay tuyết. Không có gì thực sự chết đi vì luôn luôn có sự nối tiếp. Mây là tiếp nối của biển, của sông, của sức nóng mặt trời và mưa là tiếp nối của mây.

Trước khi sinh ra, đám mây đã có đó rồi. Hôm nay, khi bạn uống một ly sữa hay một tách trà, ăn một cái cà-rem, xin hãy theo dõi hơi thở. Hãy nhìn vào ly sữa hay ly trà và gửi lời chào đám mây.

Bụt dùng nhiều thời gian để nhìn thật sâu, chúng ta cũng vậy. Bụt không phải là Thượng đế, Ngài là một con người giống như chúng ta. Ngài đau khổ nên Ngài tu tập, vì vậy Ngài vượt thoát được khổ đau. Ngài có trí tuệ lớn, có hiểu biết, trí tuệ và từ bi. Vì thế nên chúng ta nói Ngài là bậc thầy, là huynh trưởng của ta.

Nếu chúng ta sợ chết là bởi vì chúng ta không hiểu rằng không có gì thực sự mất đi. Người ta nói Bụt đã chết, nhưng không phải thế. Bụt còn đang sống. Khi nhìn chung quanh, ta sẽ thấy Bụt dưới nhiều hình thái. Bụt đang ở trong bạn vì bạn có thể nhìn sâu và thấy được mọi sự đều không thực sự được sinh ra hay mất đi. Chúng tôi có thể nói bạn là một hình thức mới của Bụt, một tiếp nối của Bụt. Đừng coi thường chính mình. Hãy nhìn ra chung quanh, bạn sẽ thấy Bụt được tiếp nối ở khắp nơi.

 

Nhìn sâu vào một hộp diêm quẹt. Bạn có thấy lửa trong đó không? Nếu thấy, tức là bạn đã có hiểu biết. Khi nhìn sâu vào một hộp diêm, chúng ta thấy có lửa trong đó. Nó chỉ cần người nào cử động vài ngón tay là lửa hiện ra. Chúng ta nói: “Lửa ơi, ta biết mi đang ở đó. Bây giờ ta sẽ giúp lửa biểu hiện ra.”

Lửa luôn có trong diêm và trong không khí. Nếu không có dưỡng khí, ngọn lửa cũng không hiện ra được. Nếu bạn thắp một ngọn nến rồi phủ kín nó bằng một vật gì đó, ngọn lửa sẽ tắt vì thiếu Oxygen. Ngọn lửa chỉ sống được nhờ có dưỡng khí. Ngọn lửa có mặt khắp nơi, trong không gian, trong thời gian và trong tâm thức chúng ta. Ngọn lửa có khắp nơi, chờ biểu hiện ra, và chúng ta là một trong các điều kiện để nó xuất hiện. Khi ta thổi vào ngọn lửa, hơi thở đó là một nhân duyên làm cho nó ngừng biểu hiện dưới hình thức ngọn lửa.

Chúng ta có thể dùng diêm thắp hai ngọn nến rồi thổi ngọn lửa trên que diêm. Bạn có nghĩ lửa trên que diêm đó đã chết không? Lửa không có  tính chất sinh-diệt. Câu hỏi là: “Ngọn lửa trên hai cây nến kia là một hay là hai thứ lửa?”

– Nó không là một mà cũng không khác nhau.

Câu hỏi khác là: “Ngọn lửa của diêm chết hay không chết?”

– Nó chết và cũng không chết. Bản chất của nó là không chết đi và cũng không sinh ra. Nếu chúng ta để cho cây nến cháy trong một giờ đồng hồ, thì ngọn lửa đó vẫn thế hay đã biến thành lửa khác? Tim nến (bấc), chất sáp và dưỡng khí đều đã thay đổi. Do đó, ngọn lửa cũng đã thay đổi. Vậy thì ngọn lửa không giống và cũng không khác ngọn lửa trước kia.

Giải đáp nằm bên trong

Lửa từ đâu tới? Nguồn gốc nó là gì? Chúng ta nên nhìn sâu vào câu hỏi này. Chúng ta có cần ngồi thế hoa sen để trả lời câu hỏi này chăng? Tôi chắc chắn rằng bạn đã có sẵn câu trả lời trong bạn. Chỉ cần chờ thêm một điều kiện nữa là nó hiện ra thôi. Bụt dạy ai cũng có Phật tính. Phật tính là khả năng giúp chúng ta hiểu và tiếp xúc được với bản chất của mình. Câu trả lời đã có sẵn trong bạn. Thầy cũng không thể giúp bạn trả lời. Thầy chỉ giúp bạn tiếp xúc được với Chánh niệm, khả năng tỉnh thức lớn (trí tuệ) và từ bi trong bạn. Bụt mời bạn đi vào trí tuệ mà bạn đã có sẵn.

Nhiều người trong chúng ta hỏi: “Chúng ta đi về đâu sau khi chết? Chuyện gì sẽ xảy ra khi đó?” Chúng tôi có những thân hữu mất người thân, đã hỏi rằng: “Bây giờ họ ở đâu? Họ đi tới đâu rồi?” Các triết gia hỏi: “Con người từ đâu tới, vũ trụ và thế giới này từ đâu sinh ra?”

Khi chúng ta nhìn cho sâu, ta thấy rằng nếu đầy đủ nhân duyên, thì sự vật sẽ biểu hiện. Sự biểu hiện đó không tới từ đâu cả. Và khi nó ngừng biểu hiện thì nó cũng không đi đâu hết.

Nhân duyên

Khi chúng ta nhìn vào một vật gì như căn nhà hay cái bàn chẳng hạn, chúng ta thường nghĩ căn nhà hay cái bàn đó là do một hay nhiều người đã làm ra. Ta có khuynh hướng muốn tìm ra nguyên nhân đã tạo ra căn nhà hay cái bàn. Ta đi tới kết luận là căn nhà do thợ xây nhà làm nên, cái bàn do người thợ mộc. Ai tạo ra cái bàn? Người thợ mộc? Ai tạo ra bông hoa? Đất hay người làm vườn, người nông phu?

Chúng ta thường suy nghĩ một cách giản dị về nguyên nhân của sự vật. Ta thường cho rằng chỉ cần một nhân duyên là đủ đưa tới sự vật kia. Khi thực tập nhìn sâu, ta thấy ngay là một nguyên nhân không bao giờ có thể tạo ra kết quả được. Người thợ mộc không thể là nhân duyên duy nhất tạo ra cái bàn. Nếu ông ta không có những dụng cụ như đinh, cưa, gỗ, thời gian, không gian, thức ăn, không có cha mẹ sinh ra ông và bao nhân duyên khác, thì làm sao ông có thể tạo ra cái bàn được? Con số các nguyên nhân đó nhiều vô kể.

Khi nhìn vào bông hoa chúng ta cũng thấy như vậy. Người làm vườn chỉ là một nguyên nhân. Phải có đất, có mặt trời, đám mây, có phân bón, hạt giống và nhiều, nhiều thứ khác. Khi nhìn sâu, bạn sẽ thấy rằng cả vụ trụ đã cùng giúp cho bông hoa biểu hiện. Khi nhìn cho kỹ một miếng cà-rốt bạn ăn bữa trưa, bạn cũng thấy tất cả vũ trụ đã giúp cho miếng cà-rốt có mặt.

Nếu chúng ta tiếp tục nhìn thật sâu, ta sẽ thấy nguyên nhân của sự vật này đồng thời cũng là một kết quả của nhiều thứ khác. Người làm vườn là một nhân duyên để có bông hoa, nhưng chính ông cũng là một hệ quả của nhiều yếu tố. Ông biểu hiện ra được là nhờ nhiều nguyên nhân như tổ tiên, cha mẹ, thầy giáo, công việc, cộng đồng, thực phẩm, thuốc men và ngôi nhà ông cư trú. Giống như người thợ mộc, ông không chỉ là nguyên nhân mà còn là một hệ quả.

Nhìn sâu, chúng ta thấy không thể có thứ gì chỉ thuần là nguyên nhân. Thực tập nhìn sâu, chúng ta có thể khám phá được nhiều điều và nếu ta không bị vướng vào một chủ thuyết hay ý niệm chúng ta sẽ có tự do để khám phá.

Không có một nguyên nhân thuần túy

Khi Bụt được hỏi “Cái gì là nguyên nhân của mọi sự vật?” Ngài đã trả lời một cách đơn giản. Ngài nói:

“Cái này có vì cái kia có.” Câu này có nghĩa là sự vật nào cũng nhờ tất cả các thứ khác mới biểu hiện ra được. Một bông hoa phải nhờ các yếu tố không phải là hoa để hiện ra. Khi nhìn sâu vào bông hoa, bạn có thể thấy được những yếu tố không-hoa. Nhìn vào hoa, bạn thấy ánh sáng mặt trời, đó là một yếu tố không-hoa. Không có ánh sáng, hoa không thể biểu hiện. Nhìn hoa bạn cũng thấy đám mây, đó là một yếu tố không-hoa. Không có mây (và mưa) hoa không biểu hiện được. Các yếu tố căn bản khác như muối khoáng, đất, người nông phu v.v… rất nhiều các yếu tố không-hoa đã giúp cho bông hoa biểu hiện.

Đó là lý do vì sao tôi ưa dùng từ biểu hiện thay vì sáng tạo. Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể dùng từ ngữ sáng tạo, nhưng ta nên hiểu rằng sáng tạo không có nghĩa là từ không có nguyên nhân nào mà làm thành một sự vật được. Tạo vật không phải là thứ gì bị hủy hoại hoàn toàn và có thể không còn lại gì hết. Tôi thích từ ngữ “Wonderful becoming” (sự hình thành mầu nhiệm) – nó gần với chân nghĩa của từ sáng tạo hơn.

 

Tuần lễ thực tập “Về nhà” dành cho người Việt từ ngày 13-20/06/2025 tại Xóm Hạ

 

“Cứ mỗi lần về Làng là con cảm thấy được về nhà.” Chắc hẳn những ai đã từng tới Làng, đã sống ở Làng đều có những cảm nhận quen thuộc như vậy. Quý thầy, quý sư cô hẳn ấm lòng lắm khi nghe được những câu nói như thế của các bạn thiền sinh khi về Làng. Sư Ông thường dạy chúng ta rằng một người hạnh phúc phải là người biết kết nối với gốc rễ tâm linh và huyết thống của mình. Bất cứ ai trong chúng ta đến với con đường tâm linh đều xem đây là chiếc cầu nối để trở về kết nối, hoà giải và khai thông suối nguồn huyết thống ở trong mình. Thế nên năm nay ở Xóm Hạ đã diễn ra khoá tu “Về nhà” từ ngày 13-20/6/2025. Đây là cơ hội cho những gia đình và người trẻ Việt Nam thao thức gọi tên và chạm đến quê hương  của chính mình. Giây phút chạm được quê hương đích thực của mình là giây phút hạnh phúc vô cùng như trong bài hát “Tâm an” tác giả đã thấy được rằng  : 

       “Quê hương đi về trên mỗi bàn chân

         Bao nhiêu con đường mở ra độ lượng

        Tâm không mong cầu bình an là vậy 

        An vui nơi này an khắp mọi nơi….

    Kính mời đại chúng cùng thưởng thức những khoảnh khắc vui nhộn và đáng nhớ của khoá tu qua những hình ảnh bên dưới:

Về đi, tiếp nhận gia tài!

(Trích sách Cho Đất Nước Đi Lên của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, NXB Lá Bối 2007)

Tưới tẩm hạt giống thương yêu

Chúng ta đã tiếp nhận những gia tài di truyền của cả hai gia đình tâm linh và huyết thống. Trong đạo Phật chúng ta nghe nói đến những chủng tử, những hạt giống ở trong A lại da thức. Trong đạo Phật, người ta nói đến tâm thức. Tâm thức có nhiều tầng lớp khác nhau, nhưng nói đơn giản thì trong tâm thức có hai phần: phần trên gọi là Ý thức và phần dưới, phần căn bản gọi là Tàng thức 1* hoặc A lại da thức 2* (cất chứa tất cả những hạt giống mà chúng ta tiếp thu được từ các thế hệ trước). Hạt giống, tiếng phạn gọi là Bija 4*, chúng ta có thể nói, tương đương với những cái gen 3* mà chúng ta được tiếp nhận từ các thế hệ trước. Nếu những hạt giống đó có hoàn cảnh thuận tiện thì có cơ hội được phát hiện. Ví dụ như chúng ta có hạt giống của tài năng, như tài năng của một thi sĩ nhưng nếu chúng ta bị đặt vào một hoàn cảnh không thuận lợi thì hạt giống thi sĩ trong ta không có cơ duyên phát hiện được. Trái lại nếu chúng ta được đặt trong hoàn cảnh thuận lợi thì hạt giống của nghệ thuật, của thi ca sẽ được phát hiện và ta có thể trở thành một thi sĩ lớn. Cái đầu gọi là tiên thiên, cái thứ hai gọi là hậu thiên. Tây phương bây giờ họ dùng chữ nature là thiên nhiên, nurture 5* là hoàn cảnh.

Chúng ta có những hạt giống tốt được tổ tiên trao truyền. Chúng ta cũng có những hạt giống xấu cũng của tổ tiên trao truyền lại. Chúng ta có hạt giống của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo nhưng mà chúng ta cũng có hạt giống của Trần Ích Tắc. Nếu chúng ta ở vào trong môi trường xấu thì hạt giống của Trần Ích Tắc sẽ được tưới tẩm và chúng ta sẽ trở thành người bất trung. Nếu chúng ta được đặt vào trong một hoàn cảnh thuận tiện thì hạt giống của Trần Hưng Đạo sẽ được tưới tẩm và chúng ta sẽ trở thành một bậc trung thần, một vị tướng giỏi. Cho nên hoàn cảnh rất quan trọng. Theo tuệ giác này, nếu chúng ta muốn những hạt giống đẹp đẽ nhất, quý giá nhất của tổ tiên mà chúng ta có trong từng tế bào, có cơ duyên để phát hiện thì chúng ta phải cho chúng ta một hoàn cảnh tốt, chúng ta phải cho các con chúng ta một hoàn cảnh tốt. Một kết luận rất khoa học. Nếu con chúng ta đi theo băng đảng, đi vào mê hồn trận của ma túy, sắc dục là tại vì hoàn cảnh đã tưới tẩm những hạt giống tiêu cực trong tế bào cơ thể của chúng nó. Vì vậy vấn đề hoàn cảnh, vấn đề môi trường sinh hoạt rất quan trọng.

Trong một gia đình, nếu cha biết lắng nghe mẹ, mẹ biết làm hạnh phúc cho cha, cha biết chăm sóc mẹ thì em bé lớn lên sẽ học được rất nhiều và những hạt giống của thương yêu sẽ được tưới tẩm. Cha mẹ không nói mình là giáo sư dạy về thương yêu nhưng đích thực là giáo sư dạy về thương yêu. Nhưng nếu trong gia đình, cha làm khổ mẹ, mẹ làm khổ cha và cha mẹ làm khổ con thì những đứa trẻ lớn lên không có niềm tin vào hạnh phúc gia đình và không tin vào tổ tiên. Vì vậy làm thế nào thiết lập lại truyền thông giữa cha với mẹ, làm thế nào để cha mẹ có thể có hạnh phúc với nhau là một công tác căn bản để xây dựng xã hội. Chúng tôi đã từng nói chuyện với người trẻ và họ đồng ý với nhau rằng: Gia tài quý giá nhất mà cha mẹ có thể để lại cho con cháu chính là hạnh phúc của cha và của mẹ. Cha mẹ biết thương nhau, biết làm hạnh phúc cho nhau đó là gia tài lớn nhất mà mình có thể tiếp thu được và tiếng nói đó chúng ta nghe rất rõ từ người trẻ.

 

                                       

 

Mình là sự tiếp nối của cha mẹ

Quý vị có nhớ hồi chúng ta còn bé, ba tuổi, năm tuổi, thỉnh thoảng chúng ta bị sốt, chúng ta thấy khô cổ, chúng ta thấy khó chịu nhưng khi mẹ đi vào trong phòng và để bàn tay của bà lên trán ta thì chúng ta cảm thấy rất là êm dịu như bàn tay của một bà tiên. Khi lớn lên, mẹ mất rồi, chúng ta có thể có những cơn sốt rất nặng và chúng ta ước ao có được bàn tay của mẹ để lên trán như ngày xưa thì hạnh phúc biết bao nhiêu mà kể. Trong tuệ giác của đạo Phật thì bàn tay của mẹ vẫn còn, tại vì bàn tay của chúng ta là sự tiếp nối của bàn tay mẹ. Trong bàn tay ta, tất cả các tế bào đều chứa đựng mẹ và cố nhiên bàn tay này tuy gọi là bàn tay của ta mà cũng là sự tiếp nối của bàn tay mẹ, cũng là bàn tay mẹ. Nếu có tuệ giác đó thì khi đưa bàn tay lên, chúng ta có ý thức rằng bàn tay này cũng là bàn tay mẹ. Chúng ta đặt bàn tay lên trán và chúng ta thấy rõ ràng là bàn tay mẹ vẫn còn. Mẹ không bao giờ mất là tại vì chúng ta còn đó.

Khi giận cha, giận mẹ, tức là mình không thấy được sự thật mình là sự tiếp nối của cha, của mẹ, mình chính là cha, mình chính là mẹ. Nếu quán chiếu cho thật sâu sắc thì mình thấy rằng sở dĩ cha làm như vậy, mẹ làm như vậy, tại vì cha và mẹ đã không có cơ hội gặp được thầy, gặp được bạn để có thể tiếp thu được những giáo lý, những phương pháp, để có thể chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau của mình và do đó đã làm vung vãi những nỗi khổ niềm đau đó xung quanh và trong đó có mình. Thấy được như vậy rồi thì tự nhiên người con sẽ tha thứ được cho bố, tha thứ được cho mẹ và hết lòng thực tập để có thể chuyển hoá được những nỗi khổ niềm đau ở trong lòng, sau đó sẽ trở về giúp cho bố, giúp cho mẹ.

Thực tập lắng nghe và ái ngữ.

Trong đạo Phật có hai pháp môn rất là mầu nhiệm là pháp môn Lắng Nghe và pháp môn Ái Ngữ. Khi người con muốn tập đến với người cha bằng phương pháp lắng nghe, người con sẽ nói như thế này: Bố ơi! Con biết là trong những năm qua, bố đã có rất nhiều khó khăn, bố có nhiều bức xúc, có nhiều khổ đau, con đã không giúp được bố mà con lại làm cho tình trạng trở nên tệ hơn. Con xin bố thương con mà đừng buồn. Bây giờ con rất mong được bố nói cho con nghe tất cả những khó khăn, những bức xúc, những tuyệt vọng của bố để con có thể hiểu. Một khi con hiểu rồi, con sẽ không dại dột nói và làm những điều gây đau khổ cho bố. Bố ơi! Bố giúp con đi, con đâu muốn làn cho bố khổ, nhưng tại vì con dại dột, con không biết được những nỗi khổ niềm đau và những khó khăn của bố, vì thế con đã làm cho tình trạng đó tệ hại hơn. Bố giúp con đi! Nói được như vậy gọi là nói bằng lời ái ngữ và khi mình mở được trái tim của người bố thì bố mới bắt đầu chịu nói cho mình nghe những khó khăn, những khổ đau, bức xúc của bố. Trong khi bố nói, mình phải thực tập phương pháp thứ hai là Đế Thính, tức là lắng nghe. Đó là hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Bồ Tát Quán Thế Âm là một người biết lắng nghe. Khi người kia sử dụng ngôn từ có tính cách lên án buộc tội, chua chát và đầy những tri giác sai lầm mà mình vẫn có khả năng lắng nghe thì mình mới là một vị Bồ Tát. Mình lắng nghe với một mục đích duy nhất là cho người kia một cơ hội, để người kia có thể nói ra được tất cả những nỗi khổ niềm đau của họ và đó chính là sự thực tập của Bồ Tát Quán Thế Âm. Dù người kia nói bằng giọng trách móc, chua chát, đầy dẫy những lời buộc tội mà mình vẫn lắng nghe, mình lắng nghe bằng tâm từ bi. Lắng nghe với một mục đích duy nhất là để cho người kia có một cơ hội nói ra tất cả cho nhẹ bớt những niềm đau, nỗi khổ. Đó gọi là Bi Thính, nghe bằng lòng từ bi, nghe để giúp cho người bớt khổ. Hai phương pháp Lắng Nghe và Ái Ngữ là hai phương pháp rất quan trọng. Ái ngữ là khi nói, mình sử dụng ngôn từ như thế nào để mình có thể nói hết được những điều trong trái tim mình, nói mà người kia có thể nghe được, có thể chấp nhận được. Lắng nghe là nghe với tâm từ bi.

Trước hết là luyện tập để chế tác năng lượng của niệm và của định để có thể nhận diện, ôm ấp những nỗi khổ niềm đau của mình. Nhìn sâu vào để thấy những gốc rễ xa gần của những nỗi khổ niềm đau đó. Với tuệ giác không sinh, không diệt, không một không khác thì mình có thể chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau đó. Mình có thể trở về giúp người kia, người kia có thể là chồng mình, vợ mình, cha mình hay là con của mình.

Với phương pháp thực tập ái ngữ và lắng nghe mình thiết lập lại được truyền thông. Sự truyền thông được thiết lập thì cái hiểu và cái thương có thể thiết lập lại được. Chúng tôi mong rằng, nền giáo dục trong tương lai con em chúng ta có được những phương pháp thực tập cụ thể đó. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, thiết lập lại được truyền thông, đem lại hạnh phúc cho gia đình là những chuyện chúng ta có thể làm được. Nó không thuộc về phạm vi của tín ngưỡng, cầu nguyện mà thuộc về phạm vi của tuệ giác, của sự thực tập.

 

 

Chú thích:

 

1* Thiền sư Nhất Hạnh giải thích ở chỗ khác: Tàng thức: Tâm lý học đạo Bụt rất phong phú. Duy Thức Tông của đạo Bụt nói tới tám thức: năm thức cảm giác, ý thức, mạt na thức và tàng thức. Mạt na là năng lượng bám víu vào ý tưởng có một cái ta riêng biệt độc lập và thường tại, đối lập với những cái không ta. Tàng thức (Alaya) là phần sâu thẳm nhất của tâm thức, chứa đựng tất cả những hạt giống (chủng tử, Phạn: Bija) của tất cả các tâm hành như buồn, vui, giận ghét, v.v.. Những hạt giống này khi được tưới tẩm hoặc tiếp xúc thì phát hiện lên ý thức thành những vùng năng lượng. Tàng thức giống như một mảnh vườn chứa đủ các loại hạt giống, còn ý thức thì giống như người làm vườn. Trong công phu thiền tập, ý thức làm việc nhưng tàng thức cũng làm việc âm thầm ngày đêm. Vô thức của tâm lý học Tây phương chỉ là một phần của tàng thức. Nhận diện và chuyển hóa những kiết sử nằm sâu trong tàng thức đưa tới sự giải thoát và trị liệu. Đó gọi là chuyển y (asrayaparavritti) nghĩa là sự chuyển hóa được thực hiện ngay ở cơ sở hạ tầng của tâm thức. (Thiền, chất liệu nuôi dưỡng, trị liệu và chuyển hóa – Làng Mai).
2* A lại da thức (Alaya) = Tàng thức.
3* Bija từ Bija Mantra (Sanskrit): chủng tử.
4* A gen là đơn vị của sinh học di truyền, trong gene có chromosome với DNA, DNA chứa đựng các tín hiệu di truyền, từ thế hệ trước xuống thế hệ sau, đóng vai trò quyết định về thể chất lẫn tính tình ở thế hệ sau.
5* Nature / Nurture : thiên bẩm do tự nhiên mà có / tập thành do hoàn cảnh, môi trường sống (trong đó có văn hóa) mà có.

 

 

Ouvrons une Rivière d’Amour

Avec gratitude, nous nous inclinons devant vous, Avalokita.

Pour le bien de tous les êtres, 

Vous avez fait le grand vœu d’être toujours là,

De toujours regarder le monde profondément 

Avec des yeux compatissants

Et d’écouter attentivement 

Pour aider et apaiser la souffrance.

Une seule goutte d’eau de la compassion

De votre branche de saule 

Suffit à neutraliser toutes les impuretés dans notre cœur.

Corps et esprit parfaitement unifiés,

Nous nous tournons vers vous, 

Prenons refuge en vous

Et vous offrons tous nos vœux les plus sincères :

Namo Valokiteshvaraya.

Nous faisons le vœu de regarder profondément dans nos cinq agrégats.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous faisons le vœu de réaliser la nature propre de la VACUITÉ. 

Namo Valokiteshvaraya.

Nous faisons le vœu d’atteindre rapidement la rive de la libération.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous faisons le vœu de surmonter tous les dangers.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous faisons le vœu de prendre place sur le bateau de la Prajña.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous faisons le vœu d’être présents avec tous nos trois corps.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous faisons le vœu de réaliser le fruit de la libération.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous faisons le vœu de nourrir la grande compassion.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous faisons le vœu de pénétrer dans le Trésor du Tathâgata.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous faisons le vœu de purifier notre esprit.

Namo Valokiteshvaraya.

Aidez-nous à sortir du fossé des désirs sensuels.

Namo Valokiteshvaraya.

Aidez-nous à briser tout bloc de profanation dans notre cœur.

Namo Valokiteshvaraya.

Aidez-nous à trouver assez de moyens habiles.

Namo Valokiteshvaraya.

Aidez-nous à bâtir une belle Sangha.

Namo Valokiteshvaraya.

Aidez-nous à transformer la colère et la haine.

Namo Valokiteshvaraya.

Aidez-nous à déraciner notre ignorance.

Namo Valokiteshvaraya.

Aidez-nous à élever la torche de la foi juste.

Namo Valokiteshvaraya.

Aidez-nous à acquérir l’œil  de la sagesse.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à tenir un lotus doré dans la main.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à ce que nos yeux voient le corps du Dharma.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à cultiver la fraternité.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à bâtir une famille spirituelle.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à pratiquer la parole aimante.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à regarder avec des yeux compatissants.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à pratiquer l’écoute profonde.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à vivre chaque moment en pleine conscience.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à bâtir rapidement la fondation de la concentration.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à participer à la marche héroïque jour et nuit.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à nous installer sur la Terre de la Réalité.

Namo Valokiteshvaraya.

Nous aspirons à réaliser les cinq yeux et les six pouvoirs.

Namo Valokiteshvaraya.

Venez avec nous dans les zones en guerre,

Pour mettre fin à la tuerie 

Et faire taire les bombes et les balles.

Venez avec nous dans les lieux de souffrance et de maladies,

Pour y apporter des remèdes 

Et le nectar de la compassion.

Venez avec nous dans les royaumes des esprits affamés,

Pour y apporter la nourriture du Dharma, 

De la compréhension et de la compassion.

Venez avec nous dans les enfers,

Pour y apporter le rafraîchissement 

Et mettre fin aux fièvres des afflictions.

Venez avec nous dans les zones de conflits,

Pour éteindre la haine et la colère

Et donner naissance à une rivière d’amour.

Namo Valokiteshvaraya. (3 fois)

Awakening the Source of Love

We bow respectfully to Avalokiteshvara,

to your great vow always to be there for all beings,

your capacity to look deeply at the world with compassionate eyes,

listen deeply to understand and to relieve suffering,

and with your willow branch,

to sprinkle the sacred nectar of immortality,

cleansing my mind from all impurities.

I vow to take refuge in you with all my heart.

Respectfully, I offer you my deepest vow:

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to look deeply into the five skandhas.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to see the true nature of emptiness.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow soon to reach the shore of awakening.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to overcome all obstacles.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to take the boat of Perfect understanding.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to be present in all three bodies.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to realize the fruits of liberation.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to cultivate great compassion.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to penetrate deeply the Tathagata store.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to purify my mind.

Namo ‘valokiteshvaraya,

may I be free from the abyss of craving.

Namo ‘valokiteshvaraya,

may I break through the shell of my worldly mind.

Namo ‘valokiteshvaraya,

may I have sufficient skillful means.

Namo ‘valokiteshvaraya,

may I build Sangha.

Namo ‘valokiteshvaraya,

may I transform my anger.

Namo ‘valokiteshvaraya,

may I uproot my ignorance.

Namo ‘valokiteshvaraya,

may I hold high the torch of right faith.

Namo ‘valokiteshvaraya,

may I have the clear eyes of understanding.

Namo ‘valokiteshvaraya,

may I hold the golden lotus in my hand.

Namo ‘valokiteshvaraya,

may I see the Dharma body.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to build brotherhood and sisterhood.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to show gratitude to my spiritual lineage.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to practice loving speech.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to look with loving eyes.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to succeed in my practice of deep listening.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to live mindfully and with clarity.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow soon to realize meditative concentration.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to walk solidly night and day.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to abide peacefully on the ground of reality.

Namo ‘valokiteshvaraya,

I vow to cultivate the five eyes, and the six miraculous powers.

Namo ‘valokiteshvaraya,

please come with me to the war zones

to stop the killing and bombing.

Please walk with me to the places of sickness and suffering,

bringing medicine and the refreshing nectar of compassion.

Please come with me to the realm of the hungry ghosts,

bringing the Dharma food of understanding and love.

Please come with me to the realm of hell

in order to cool the heat of afflictions.

Please come with me to places of conflict

in order to remove hatred and anger

and help the source of love to flow again.

Homage to the Bodhisattva of Great Compassion

Homage to the Bodhisattva of Great Compassion

Homage to the Bodhisattva of Great Compassion.

Khơi suối yêu thương

Cúi đầu kính lạy Quan Thế Âm
Nguyện lớn vì đời luôn hiện thân
Mắt thương nhìn đời thường quán chiếu
Lắng nghe cứu độ vớt trầm luân
Cành dương rẩy nước thiêng cam lộ
Gột sạch tâm con mọi cấu trần
Con xin một lòng về nương tựa
Nguyền ước ngàn lời xin kính dâng:
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Con nguyền nhìn sâu vào năm uẩn
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Con nguyền thấy được tự tánh Không
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Con nguyền sớm lên bờ giải thoát
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Con nguyền vượt thắng mọi tai ương
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Con nguyền ngồi trên thuyền Bát Nhã
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Con nguyền có mặt đủ ba thân
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Con nguyền thành tựu quả giải thoát
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Con nguyền nuôi dưỡng đại bi tâm
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Con nguyền thâm nhập Như Lai Tạng
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Con nguyền gạn lọc tâm ý trong
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Cho con vượt thoát hầm ái dục
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Cho con đập vỡ khối trần tâm
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Cho con đủ phương tiện quyền xảo
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Cho con xây dựng được tăng thân
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Cho con chuyển hóa được hờn giận
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Cho con nhổ được gốc vô minh
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Cho con đưa cao đuốc chánh tín
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Cho con được mắt tuệ sáng trong
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin trên tay có đóa sen vàng
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin mắt nhìn thấy được Pháp thân
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin nguyền xây dựng tình huynh đệ
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin nguyền bồi đắp nghĩa đồng môn
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin nguyền tập nói lời ái ngữ
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin nguyền học nhìn bằng mắt thương
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin nguyền thành tựu hạnh đế thính
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin nguyền chánh niệm sống phân minh
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin nguyền định căn mau thành tựu
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin nguyền ngày đêm bước kiện hành
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin nguyền an cư trên thật địa
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin nguyền được năm mắt sáu thông
Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm
Xin cùng con đi vào vùng chiến tranh
Chấm dứt đao binh, im hơi bom đạn
Xin cùng con đi vào vùng khổ bệnh
Đem theo linh dược cam lộ thanh lương
Xin cùng con đi vào cõi ma đói
Đem theo pháp thực của hiểu và thương
Xin cùng con đi vào vùng địa ngục
Giải trừ nhiệt não đem lại thanh lương
Xin cùng con đi vào vùng tranh chấp
Giải tỏa hận thù, khơi suối yêu thương.
Nam mô Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm
Nam mô Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm
Nam mô Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm.