Khoá tu mùa hè tại Làng Mai Pháp từ 10/07/2025-02/08/2025

Mỗi mùa hè đến, nhiều gia đình ở tây phương vẫn chọn đến Làng Mai như là một món quà cho các thành viên trong gia đình. Ở Làng họ thực sự tận hưởng một kì nghỉ vì bố mẹ có cơ hội trở về, học cách buông thư và chăm sóc thân tâm, sử dụng ái ngữ và lắng nghe để hiểu nhau và có mặt cho nhau trong những bữa cơm gia đình. 

Trẻ em và các bạn thanh thiếu niên cũng được tham gia vào những chương trình riêng. Các em được học thở, học nghe chuông, đi thiền hành… để tập thương yêu bản thân và ôm ấp cảm xúc mạnh. Bên cạnh đó, các em còn được chia sẻ và nhận được sự lắng nghe sâu từ bố mẹ qua pháp môn làm mới. Nhờ vậy mà dòng suối yêu thương được khơi nguồn và truyền thông được tái lập. Không gian thiên nhiên và thênh thang của Làng giúp các em được thả mình để tiếp xúc với những mầu nhiệm của đất trời, được chơi những trò chơi lành mạnh, vận động thân thể và có tính tương tác với các bạn cùng nhóm.

Cuối mỗi khoá tu, nhiều bố mẹ và các em thanh thiếu niên đã phát nguyện thọ trì Năm giới, còn các em thiếu nhi  tiếp nhận Hai lời hứa. Ai cũng mang trong mình trái tim nguyện thực tập để vun trồng hiểu biết và thương yêu, nguyện xây dựng một gia đình hạnh phúc làm nền tảng cho một xã hội bình an và bền vững.

Khoá tu mùa hè là một khoá tu lớn của Làng, kéo dài từ ngày 10/07/2025-02/08/2025. Dù mùa hè nóng bức, số lượng thiền sinh mỗi tuần gần 1000 người nhưng nhìn thấy những nụ cười hồn nhiên của các em thiếu nhi, gương mặt rạng ngời tràn đầy niềm vui và hạnh phúc của bố mẹ, cõi lòng chúng con mát dịu hẳn đi như vừa được uống một thứ nước cam lồ.

Kính mời đại chúng ghé thăm và cảm nhận năng lượng của khoá tu mùa hè qua những hình ảnh bên dưới.

Giấc mơ Việt Nam

(Trích từ sách Tuổi Trẻ, Tình Yêu, Lý Tưởng của thiền sư Thích Nhất Hạnh)

 

Này người bạn trẻ, tôi muốn mời anh, tôi muốn mời chị tham dự vào một giấc mơ, tôi tạm gọi giấc mơ ấy là giấc mơ Việt Nam…

Giấc mơ chung của chúng ta

Giấc mơ Việt Nam là có một nước Việt Nam thật đẹp, thật hiền, chơi chung với các nước Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Myanmar, với Hàn Quốc và Nhật Bản, và sau đó, với cả Trung Quốc, một cách thân ái trong tình huynh đệ, dân chúng các nước qua lại không cần chiếu khán, và tất cả sử dụng một đồng bạc chung.

Giấc mơ Việt Nam là dân tộc Việt Nam biết để thì giờ ra để đi chơi, ngồi chơi, leo núi, đi biển, sống với cảnh đẹp thiên nhiên, hàng ngày có nhiều cơ hội dựng xây tình huynh đệ mà không để hết thì giờ chạy theo sắc dục, tiền bạc, quyền hành và danh vọng.

Giấc mơ Việt Nam là trẻ em và người lớn đều ý thức được rằng đất hứa, thiên đường hay cõi tịnh độ là cái đang có mặt đích thực trong giờ phút hiện tại, và ta phải biết và phải có khả năng thích ý rong chơi.

Giấc mơ Việt Nam là người Việt có khả năng sống đơn giản mà hạnh phúc, có thì giờ và tình thương để làm việc giúp cho người trong nước và ngoài nước vượt thắng nghèo khổ, bệnh tật, thất học, hòa giải được với người thân và tìm được nguồn vui sống.

Giấc mơ Việt Nam là sông, núi, rừng, biển và ruộng vườn của chúng ta được bảo vệ an lành để chúng ta và con cháu chúng ta cũng như thế giới cũng được bảo vệ an lành và để cho mọi người được tiếp tục thừa hưởng tất cả những gì hùng vĩ, cẩm tú và giàu sang của đất nước này.

Giấc mơ Việt Nam là những người Việt sống trong một nước có quyền tin theo bất cứ một tôn giáo, một chủ thuyết nào, nhưng tất cả đều thấy được rằng không có tôn giáo và chủ thuyết nào cao hơn tình huynh đệ, cao hơn lòng cởi mở và lượng bao dung, và bất cứ ai cũng học được và thừa hưởng được những châu báu của các truyền thống và quan điểm khác để làm giàu cho tuệ giác và hạnh phúc của mình.

Giấc mơ Việt Nam là các quốc gia lân cận, kể cả Trung Quốc, biết thương mến và thưởng thức cái đẹp và cái dễ thương của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam mà không còn có ý muốn xâm chiếm và giành giật nhau, tại vì người Việt đã học được cách bảo vệ sông núi, văn hóa và con người của mình bằng nếp chung sống hòa bình, bằng tình huynh đệ, bằng tài ngoại giao, bằng nếp sống tương trợ với các nước chung quanh mà không tin rằng chỉ có vũ khí và quân sự mới làm được chuyện ấy.

Ô hay, bạn sẽ nói, thầy Nhất Hạnh lâu nay khuyên mình sống trong giây phút hiện tại mà bây giờ lại tìm cách trao cho mình một giấc mơ, gọi là giấc mơ Việt Nam! Thầy Nhất Hạnh có còn là thầy Nhất Hạnh nữa không, khi thầy muốn dìu mình đi vào một giấc mơ, dù là một giấc mơ thật đẹp?

Người bạn trẻ ơi, sở dĩ tôi nói tới giấc mơ, tại vì giấc mơ này có thể trở thành sự thật, và đang bắt đầu trở thành sự thật. Một giấc mơ không bao giờ có thể trở thành sự thật một trăm phần trăm, nhưng nó có thể dần dần trở thành sự thật mỗi ngày, và ta có thể sống với sự thật ấy trong giây phút hiện tại.

Lý tưởng lớn, hoài bão rộng là gì, nếu không phải là một giấc mơ? Trong đạo Bụt người ta dùng danh từ Tâm Bồ Đề. Tâm bồ đề đâu có phải chỉ là giấc mơ? Tâm bồ đề là một sự thật, một năng lượng mà ta đang sống và đang cho ta nhiều niềm tin và hạnh phúc. Giấc mơ có thể trở thành sự thật từ từ trong từng giây phút của cuộc sống. Mấy mươi năm nay, không lúc nào mà tôi không đang chứng kiến giấc mơ trở thành sự thật, trong đời sống hàng ngày của tôi.

 

Xây dựng tình huynh đệ

Đây cũng là một sự thật khác mà tôi đang được sống trong đời sống hàng ngày, là một chứng tích của giấc mơ đã trở thành hiện thực. Tôi đang được sống với một đoàn thể mấy trăm người tới từ nhiều đất nước khác nhau nhưng trong ấy ai cũng có khả năng chấp nhận, tha thứ cho nhau và đùm bọc lấy nhau, ai cũng có khả năng đóng góp phần mình vào hạnh phúc chung, không ai đi tìm một hạnh phúc riêng vì biết rằng cái ấy không thể nào có được. Chúng tôi học hỏi và thực tập sống đời sống hàng ngày như thế nào để có thể xây dựng tình huynh đệ, giúp nhau chuyển hóa sầu đau và tìm được niềm vui sống trong cuộc sống hàng ngày.

Chúng tôi đang sống ở một miền quê trong khung cảnh thiên nhiên, có rừng, có hồ, có suối, có trăng, có sao. Ngày nào chúng tôi cũng được tiếp xúc với thiên nhiên, được thiên nhiên nuôi dưỡng, được bước những bước chân thảnh thơi và vững chãi, và tập sống sâu sắc giây phút hiện tại. Không ai trong chúng tôi muốn nắm quyền làm chủ để kiểm soát hay ra lệnh cho kẻ khác. Chúng tôi sống như một bầy Ong, cùng làm việc cho hạnh phúc chung. Chúng tôi mở cửa đón chào các bạn bè từ nhiều quốc gia tới, và giúp họ tập sống trong giây phút hiện tại, hòa giải được với chính mình, hòa giải được với những người thân.

Hiến tặng cho nhau những gì tốt đẹp nhất

Chúng tôi không nghĩ rằng nếp sống văn hóa Việt Nam là nếp sống đẹp nhất, hay nhất mà các dân tộc khác đều phải bắt chước theo. Không! Chúng tôi biết là chúng tôi có thể học được rất nhiều cái hay cái đẹp từ các truyền thống văn hóa khác, và chúng tôi tin rằng cộng đồng nhân loại phải duy trì được tính đa dạng của nền văn hóa thế. Tuy nhiên chúng tôi cũng muốn đem những cái hay cái đẹp của nền văn hóa Việt Nam ra để chia sẻ và cống hiến cho các bạn khắp nơi.

Tại Làng Mai, nơi chúng tôi sống chung với nhau, chúng tôi chia sẻ sự thực tập sống hạnh phúc thảnh thơi trong giây phút hiện tại với mọi người, chúng tôi giúp mọi người thấy được tính tương quan tương duyên của mọi hiện tượng và chúng tôi cũng giúp mọi người thấy được là ai trong chúng ta cũng có tổ tiên tâm linh và huyết thống, và tổ tiên chúng ta luôn luôn đang có mặt một cách hiện thực trong từng tế bào cơ thể của chúng ta, dù đó là tổ tiên huyết thống hay tổ tiên tâm linh. Con người một khi không tiếp xúc được với gốc rễ của mình thì không còn có thể sống có hạnh phúc. Vì vậy, nếp sống thờ phụng tổ tiên, ý thức rằng mình là sự tiếp nối của tổ tiên, rằng con cháu ở đâu thì tổ tiên ở đó là một nếp sống truyền thống rất đẹp rất lành của văn hóa Việt Nam mà chúng tôi đã chia sẻ với rất nhiều người bạn tới từ những phương trời văn hóa khác nhau.

Chiều hướng toàn cầu hóa sẽ có thể làm cho mất đi tính đa dạng của các nền văn hóa thế giới, vì vậy trong giấc mơ Việt Nam, chúng tôi quyết tâm gìn giữ bảo hộ những nền văn hóa địa phương. Có những người trong chúng tôi có cảm tưởng rằng toàn cầu hóa nghĩa là Mỹ hóa, và điều này thật là một sự đe dọa cho nền văn hóa đa dạng của nhân loại.

Khả năng chuyển hóa và biến dưỡng

Văn hóa Việt có những điểm đặc sắc giúp cho người Việt tiếp thu được những tinh hoa của các nền văn hóa khác mà vẫn không đánh mất bản sắc riêng của mình. Chúng ta từ một ngàn năm trước tây lịch đã được tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ, sau đó được tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, và trong những thế kỷ gần đây lại được tiếp xúc với nền văn hóa Tây phương. Vì chúng ta đã có bản sắc riêng cho nên chúng ta đã không bị đồng hóa bởi một nền văn hóa nào, trái lại chúng ta đã làm giàu được cho nền văn hóa chúng ta bằng cách chuyển hóa (bio-transform) và biến dưỡng (metabolize) được những cái hay cái đẹp của các nền văn hóa đó. Biến dưỡng mà không phải là đồng hóa. Có được những bản sắc riêng, văn hóa ta có thể hành xử như một cơ thể (organism) và như vậy mới có khả năng biến dưỡng như thế.

Ai cũng thấy rằng mình là sự tiếp nối của tổ tiên, tổ tiên có mặt trong mình, mình có mặt trong tổ tiên và mình có mặt trong những thành phần khác trong cộng đồng cũng như mọi thành phần khác của cộng đồng đều có mặt trong mình. Vì vậy cho nên không thể có việc nồi da xáo thịt, củi đậu nấu đậu, mà chỉ có chuyện chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách, và giấy rách phải giữ lấy lề. Chính tuệ giác ấy và tinh thần ấy giúp ta tiếp thu và biến dưỡng được những yếu tố văn hóa khác trên thế giới. Chính tuệ giác ấy và nếp sống ấy đã tạo thành bản sắc của nền văn hóa Việt, chính những cái ấy giữ cho chúng ta còn là chúng ta, và chính những cái ấy là những gì mà ta có thể chia sẻ cho những người anh em thuộc các nền văn hóa khác.

 

 

Tương tức và liên lập

Giấc mơ Việt Nam là nếu trong gia tộc và trong cộng đồng ta biết đi tìm hạnh phúc chung mà không nghĩ rằng hạnh phúc là một cái gì riêng tư của một người, thì trên bình diện quốc tế ta cũng nghĩ và cũng làm được như vậy. Sự giàu thịnh của một quốc gia không thể nào được xây dựng trên sự nghèo khổ của những quốc gia khác. Giấc mơ Việt Nam của chúng ta không phải là một giấc mơ của riêng người Việt, mà là một giấc mơ cho cả hành tinh, tại vì ta biết rằng hạnh phúc và an ninh của ta và của người liên hệ mật thiết với nhau, tương lai là tương lai chung, hạnh phúc là hạnh phúc chung và an ninh cũng là an ninh chung, nên mọi người trong chúng ta đều tập nhìn bằng cái nhìn đại đồng mà không chỉ biết lo cho cái ngã của bản thân mình, của quốc gia mình, theo cái kiểu ‘ai chết mặc ai, tiền thầy bỏ túi.’

Chúng ta tập thương yêu theo tinh thần không kỳ thị, ta yêu ta mà ta cũng yêu được người, ta yêu nước ta mà cũng yêu được nước người, ta không còn kỳ thị và mặc cảm, tự cho mình là hơn người, thua người hay bằng người, tại vì ta đã thấy được rằng ta và người là bất nhị. Có cái nhìn vô phân biệt ấy rồi thì tình nhân loại, tình huynh đệ mới thật sự có mặt. Và câu người bốn biển là anh em (tứ hải giai huynh đệ) không còn là một ước mơ nữa. Vì vậy ta không đi theo hướng tranh đua để dành quyền lợi, giàu sang và thế lực cho chỉ một mình ta mà ta muốn cùng các quốc gia khác nắm tay đi lên trong tình huynh đệ, để có thể nhận thấy rằng hòa bình, an ninh và thịnh vượng của các nước khác cũng là hòa bình, an ninh và thịnh vượng của chính nước ta, và như vậy là ta nhắm tới hướng liên đới (trong đạo Bụt gọi là tương tức hay tương quan tương duyên) mà đi.

Cởi mở bao dung, buông bỏ thái độ giáo điều

Giấc mơ Việt Nam là người Việt dù theo một truyền thống tâm linh hay tôn giáo nào, dù có tín mộ cách mấy vào truyền thống ấy, cũng không có thái độ coi thường và chê bai những truyền thống khác, cũng không bao giờ tự cho mình là đã nắm được chân lý còn những kẻ khác là những kẻ đang đi lạc đường. Cũng như khi ta rất thích ăn một loại trái cây như trái xoài, ta không nghĩ rằng chỉ có xoài là ngon, là đáng ăn, còn những trái cây khác không có giá trị, cần phải vứt bỏ… Cũng như khi ta cho cơm Việt là ngon, ta không chê cơm Tàu, cơm Tây, cơm Ý là dở. Mỗi truyền thống có những đặc sắc của họ, và trong khi ta theo một truyền thống ta vẫn có thể học hỏi và thừa hưởng được những cái hay cái đẹp của các truyền thống khác. Thay vì có một gốc rễ tâm linh, ta có tới hai gốc rễ, và hai cái ấy không cần phải đối kháng nhau. Bụt Thích Ca là một vị đạo sư, chúa Ki Tô cũng là một vị đạo sư. Ta có thể học được rất nhiều từ cả hai vị. Ta chỉ tiếp nhận và học hỏi được những gì mà ta có thể tiếp nhận và học hỏi, và ta có thể bỏ ra ngoài những gì ta cho là đã được thêm thắt vào sau, không thực sự thiết yếu trong sự hành trì.

Việt Nam trên đường tương lai

Này người bạn trẻ, Việt Nam có khả năng đóng một vai trò then chốt trong việc xây dựng và bồi đắp cho cộng đồng Đông Á, cũng như nước Pháp đã đóng vai trò then chốt, cùng với nước Đức, trong việc tạo dựng và bồi đắp cho Liên Hiệp Châu Âu. Nước ta từ những buổi đầu đã tiếp thu được văn hóa Ấn Độ, sau đó văn hóa Trung Quốc rồi đến văn hóa Âu Châu. Chúng ta đã có khả năng tiếp thu và chuyển hóa được những yếu tố văn hóa ấy để một mặt làm giàu cho gia tài văn hóa ta và một mặt giữ được bản sắc văn hóa ta. Vị trí địa dư, chủng tộc và văn hóa của ta sẽ giúp ta làm được việc ấy. Đó là giấc mơ của bạn, đó là giấc mơ của tôi.

Trước hết Cộng đồng Đông Á phải quy tụ các nước trong vùng, cùng với Nhật Bản và Hàn Quốc. Với Nhật Bản và Hàn Quốc, chúng ta sẽ đủ mạnh để mời ông láng giềng khổng lồ của ta là Trung Quốc tham dự. Ông láng giềng này trong quá khứ đã từng xâm chiếm, đô hộ, lấn áp và đồng hóa các nước nhỏ bên cạnh. Nhưng với sự liên kết của tất cả các nước Đông Á khác trong đó có Nhật Bản và Hàn Quốc, ta sẽ đủ sức ngăn không để cho ông láng giềng khổng lồ kia làm như thế nữa. Ông sẽ cần đến chúng ta, vì ông không thể nào sống cô lập một mình trong vùng. Chừng nào ông lộ ra cái ý muốn chèn ép và đè nén thì ta chỉ cần đồng loạt tuyên bố ‘nghỉ chơi’ với ông ấy, tức khắc ông ấy sẽ bỏ ý định kia. Với lại trong chiều sâu, ông ấy cũng có nhu yếu sống hài hòa không có vấn đề với các nước lân cận, và thỉnh thoảng ta có thể nhắc chừng ông ấy.

Tự do và liên lập

Giấc mơ Cộng Đồng Đông Á sẽ không là giấc mơ suông. Với quyết tâm của bạn, nó sẽ thành ra sự thật. Nó đang thành ra sự thật. Có nhiều người Đông Á đang nghĩ và đang cùng nhau đặt kế hoạch cho sự thực hiện giấc mơ này. Nếu các nước Liên Hiệp Châu Âu có những yếu tố triết học, thần học và văn hóa chung làm nền tảng cho sự thực hiện cộng đồng, thì các nước Đông Á chúng ta cũng có những yếu tố như thế để làm mẫu số chung. Đó là đạo Bụt, đạo Khổng, đạo Lão, tinh thần tam giáo đồng nguyên, lý tưởng đại đồng, quan điểm tam tài (thiên, địa, nhân), ý hướng yêu chuộng và hòa hợp với thiên nhiên (chứ không phải chinh phục nó), và nhất là sự yêu chuộng thảnh thơi nhàn hạ.

Năm 2003, tại Hán Thành, Hàn Quốc, đã có một hội nghị giữa các vị bộ trưởng các nước Đông Á, trong đó có nhiều giới lãnh đạo thương mãi, trí thức, khoa học trong toàn vùng tham dự. Hội Nghị đã đàm luận tới những phương thức hay nhất để thành lập một Liên Hiệp Đông Á tương đương với Liên Hiệp Châu Âu. Đứng ra tổ chức hội nghị này là hội East Asian Common Space. Chính tổ chức này đã đưa ra đề nghị về một quốc hội chung cho các nước Đông Á và một chính quyền chung cho các nước Đông Á. Học giả Richard Nisbett trong tác phẩm The Geography of Thought của ông đã nói rằng: “Các dân tộc Châu Á rất có khả năng và năng khiếu tạo dựng một ý thức đại đồng, và khả năng này của các dân tộc Đông Á còn có thể vượt cả khả năng của người Châu Âu nữa”.

Tư tưởng và tuệ giác duyên sinh, tương tức, đại đồng, tứ hải giai huynh đệ đã có sẵn tự ngàn xưa trong dòng máu người Châu Á. Đây là lúc ta có thể giúp cho tuệ giác và lý tưởng này biểu hiện. Ai cũng thấy rõ rằng trong thời đại này không ai còn có thể bế quan tỏa cảng, không ai còn có thể một mình như một hải đảo nữa. Ta không thể nào độc lập trong cô lập. Ta chỉ có thể đứng trong thế liên lập mà thôi. Từ độc lập (independence) phải được hiểu là liên lập (interdependence). Ta là ta, ta là người Việt, nhưng ta phải học làm người Đông Á, làm công dân của trái đất, phải biết cùng mang một giấc mơ, phải không người bạn trẻ?

 

Cánh đồng hoa hướng dương mùa hạ

Em là ai? Em từ đâu đến?

Mà rực rỡ hướng về phương Đông

Em là đoá hoa hay là mặt trời

Mà rạng ngời thắp sáng niềm tin yêu.

(Thầy Pháp Thiên)

Hoà bình bắt đầu từ chính bạn

(Trích sách Giận-Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Khi năng lượng sân hận bừng dậy ta thường có xu hướng bộc lộ cơn giận ra ngoài để trừng phạt người đã làm cho ta khổ. Đây là một tập khí có sẵn trong ta. Khi khổ ta thường trách rằng người kia đã làm cho ta khổ. Ta không bao giờ nghĩ rằng cơn giận trước hết là chuyện của riêng ta. Ta chịu trách nhiệm trước nhất về cơn giận của ta mà lại ngây thơ nghĩ rằng nếu nói được một câu gì hay làm một điều gì để trừng phạt người kia thì ta sẽ bớt khổ. Phải loại bỏ ý nghĩ này ra khỏi đầu óc mới được. Bởi vì khi giận thì bất cứ hành động nào, lời nói nào cũng chỉ tạo nên đổ vỡ mà thôi. Trái lại phải tránh làm bất cứ điều gì hay nói bất cứ lời gì trong khi đang giận.

Khi nói một câu hung dữ hay hành động để trả thù thì cơn giận càng tăng thêm. Ta sẽ làm người kia khổ và người ấy sẽ tìm cách trả đũa để cho bớt giận. Xung đột vì thế sẽ leo thang. Điều này đã từng xẩy ra không biết bao lần. Chúng ta đã chứng kiến quá nhiều vụ leo thang xung đột, hờn giận. Thế mà ta chẳng học được bài học. Phải nhớ rằng tìm cách trừng phạt người kia chỉ làm cho tình trạng trở nên tồi tệ mà thôi.

Muốn thay đổi sâu sắc cuộc sống trước nhất ta phải xét lại cách ăn uống, tiêu thụ. Phải ngưng tiêu thụ những gì có thể đầu độc ta. Khi đó ta mới có được sức mạnh để nuôi lớn những gì tốt đẹp trong ta và không còn là nạn nhân của sân hận, phiền não.

 Khi cánh cửa của truyền thông đã mở rộng thì không có gì mà không làm được. Vì vậy bạn phải nỗ lực khai mở và tái lập truyền thông. Phải nói rõ ước muốn và quyết tâm hòa giải của bạn với người kia. Hãy yêu cầu người kia giúp. Hãy nói với người kia rằng “Sự truyền thông giữa chúng ta là quan trọng bậc nhất cho tôi. Sự liên hệ giữa chúng ta là điều vô cùng quý giá và không có gì quan trọng hơn.’ Hãy nói cho rõ điều ấy và yêu cầu người kia giúp vào một tay. Phải bắt đầu bàn thảo về một kế hoạch. Không cứ người kia có thể làm được gì, bạn phải làm tất cả những gì mà bạn có thể làm được. Bạn phải đóng góp một trăm phần trăm. Tất cả những gì mà bạn có thể làm cho bạn là bạn làm cho người kia. Đừng chờ đợi. Đừng đặt điều kiện. “Nếu anh không cố gắng hòa giải thì em cũng sẽ không cố gắng làm gì.” Như thế thì sẽ không đi tới đâu cả. Hòa bình, hòa giải và hạnh phúc bắt đầu từ chính bạn.Nghĩ rằng nếu người kia không thay đổi hay không khá hơn thì không cải thiện được gì là sai lầm. Luôn luôn có cách để tạo ra niềm vui, an lạc, hòa điệu, và chúng ở trong tầm tay bạn. Cách bạn đi đứng, thở cười, phản ứng, tất cả đều rất quan trọng. Bạn phải bắt đầu bằng những cái đó.

Có nhiều cách để truyền thông, và cách hay nhất là tỏ ra rằng bạn không còn hờn giận hay trách móc. Phải chứng tỏ là bạn đã thông cảm và chấp nhận người kia. Thông điệp truyền thông của bạn không phải chỉ ở lời nói mà ở nơi dáng dấp của bạn, với đôi mắt từ bi, với cử chỉ dịu dàng. Nếu bạn tươi mát, thân mật thì bạn cũng đã thay đổi được nhiều lắm rồi. Bạn sẽ là một bóng cây mát, một dòng suối ngọt. Người cũng như vật đều muốn đến gần vì bạn tươi mát, vui vẻ. Bắt đầu từ chính bản thân bạn, bạn sẽ có thể tái lập truyền thông và những người khác sẽ tự nhiên mà thay đổi. Hãy nói với người ta thương như thế này: “Trong quá khứ chúng ta đã gây khổ cho nhau quá nhiều, bởi vì cả hai ta đều không biết xử lý cơn giận. Bây giờ chúng ta phải tìm cho ra một kế hoạch để xử lý, chăm sóc cơn giận của chúng ta.”Giáo lý Đạo Bụt có thể giúp dập tắt ngọn lửa sân hận, đau khổ. Tuệ giác Đạo Bụt đem lại cho ta an lạc ngay bây giờ và ở đây. Kế hoạch hòa bình và hòa giải của chúng ta phải được căn cứ trên tuệ giác đó.

 Pháp môn thực tập của chúng ta phải là bất bạo động. Bất bạo động chỉ có thể phát sinh từ tuệ giác bất nhị, tuệ giác tương tức. Theo tuệ giác này tất cả mọi sự mọi vật đều có liên hệ với nhau, và không có gì mà có thể tự nó có mặt một mình. Vậy thì bạo hành người khác tức là bạo hành chính mình. Chừng nào mà ta không có được tuệ giác bất nhị thì chừng đó ta sẽ còn bạo động, còn muốn trừng phạt, muốn đàn áp, muốn phá bỏ. Nhưng khi mà đã thấu triệt lẽ thật bất nhị và tương tức thì ta sẽ có thể mỉm cười với cả hoa và rác trong ta, ta có thể ôm ấp cả hai. Cho nên, tuệ giác tương tức là nền tảng của bất bạo động.

Khi mà bạn có được tuệ giác bất nhị và tương tức thì bạn sẽ đối xử với thân tâm bạn một cách thật sự bất bạo động. Bạn chăm lo các tâm hành của bạn, kể cả tâm hành sân hận, một cách bất bạo động. Bạn sẽ đối xử với cha mẹ, anh em, bạn bè, cộng đồng, xã hội của bạn với tất cả hiền dịu. Như vậy thì không thể nào có bạo động. Dưới cái nhìn của tuệ giác tương tức không có ai là kẻ thù.

Buông bỏ để bay cao

Sư cô Chân Hội Nghiêm

(Bài viết dưới đây được biên tập từ bài chia sẻ của sư cô Hội Nghiêm trong khóa tu xuất sĩ tháng 9 năm 2024 tại xóm Thượng, Làng Mai Pháp)

“Tình huynh đệ bao la mà lòng mình chật hẹp,

Thiên nhiên rất đẹp sao tâm cứ hững hờ

Tình thương của Bụt không bến bờ

Sao mình cập bến không muốn ra khơi

Bước tới thảnh thơi sao mình không bước?

Ai bảo từ khước rồi ngồi đó thở than!

Đất trời thênh thang mà mình cứ vướng vào những điều vụn vặt

Con đường thẳng tắp mà mình cứ luẩn quẩn quanh co

Thầy bảo đừng lo mà mình quan tâm đến mệt mỏi

Đường đi đá sỏi mà cứ muốn trơn tru

Ai bảo không tu nên mới hoài lận đận

Thôi! Bận chi thì bận cũng nhớ thở nhớ cười

Tu học đừng lười mới đến nơi đến chốn

Những lúc nguy khốn hãy để Bụt lo

Tĩnh tại, tự do mới xứng danh con Bụt”.

 

 

Trong khóa tu xuất sĩ có Thầy tham dự, diễn ra ở xóm Thượng vào năm 2012, có treo một câu thư pháp “Tình huynh đệ bao la” ở thiền đường Nước Tĩnh. Nhìn câu thư pháp đó con rất chấn động mặc dù lúc đó con chưa thật sự cảm nhận được tình huynh đệ bao la là như thế nào. Có thể do con thích cái gì bao la, rộng lớn, nên khi thấy chữ “tình huynh đệ bao la” là con thích ngay. Mỗi lần bước vào thiền đường con đều ngắm nhìn nó và nghĩ rằng sau khóa tu con sẽ xin thỉnh bức thư pháp ấy về treo. Thế là, vừa kết thúc khoá tu con đã lân la tới gặp thầy Pháp Nguyện – thị giả của Thầy năm ấy – để xin. May mắn là thầy Pháp Nguyện hoan hỷ. Con đem câu thư pháp về treo ở phòng sinh hoạt của xóm Hạ, để mỗi ngày con được ngắm nhìn, được ngân nga “tình huynh đệ bao la”. Thầy cũng từng nói “Không có sự giải thoát nào không đi ngang qua tình huynh đệ”, cho nên câu thư pháp ấy vừa đánh động con mà cũng vừa là một công án cho con thực tập. 

Tình huynh đệ thì bao la nhưng nhìn lại, con thấy lòng mình chật hẹp, cứ trách móc, giận hờn người này đến trách móc giận hờn người khác. Cứ đổ lỗi cho cái này, cái nọ, cái kia. 

  Tình huynh đệ bao la mà lòng mình chật hẹp

Và vì tâm chật hẹp trong những so đo, tính toán, trách móc, giận hờn, cho nên con cứ trồi lên sụt xuống, ngụp lặn trong những nỗi khổ đau của mình. Con hờ hững với thiên nhiên, không thấy được những mầu nhiệm của sự sống đang dàn trải xung quanh mình.

   Thiên nhiên rất đẹp sao tâm cứ hững hờ?

Lúc nào cũng đi ngược lại với thiên nhiên, ngược với những lời Thầy dạy. 

   Tình thương của Bụt không bến bờ

   Sao mình cập bến không muốn ra khơi

Con không muốn đi ra để có mặt hay giúp đỡ mọi người. Giống như con sò cuộn mình trong nỗi khổ đau, chỉ biết than thở và đổ lỗi. 

   Bước tới thảnh thơi sao mình không bước,

   Ai bảo từ khước rồi ngồi đó thở than.

  Đất trời thênh thang mà mình cứ vướng vào những điều vụn vặt

Con nhớ lúc còn nhỏ, con và anh trai thường chơi thả diều ở một cánh đồng trống. Ở đó, cánh diều bay lên rất cao, khiến con vô cùng thích thú. Nếu con không thả diều ở cánh đồng trống thì diều có thể vướng vào những cành cây và mắc kẹt ở đó. 

Quán chiếu về sự tu học con thấy mình cũng giống như vậy. Nếu buông được, mình sẽ giống như con diều trong một không gian bao la, có thể bay lên rất cao. Còn không buông được sẽ giống như diều bị mắc kẹt vào cây. Chính hình ảnh con diều ấy giúp con thực tập buông bỏ và con thấy chỉ có buông bỏ mới tự do, giải thoát được. 

Sự nghiệp của người tu là sự nghiệp giải thoát giác ngộ, mà giải thoát nằm ở đâu nếu không phải ở sự buông bỏ? Phiền não là một chướng ngại cần buông bỏ, mà kiến thức cũng có thể là một chướng ngại khác cần buông bỏ. Giây phút mình nhắm mắt, trút hơi thở cuối cùng cũng là giây phút buông bỏ. Ta có thể sống một đời sống rất lý tưởng, có ý nghĩa, đầy tình thương yêu nhưng rồi ta cũng phải buông bỏ để được bay cao. Và khi mình có khả năng bay cao thì mình sẽ đưa tăng thân bay cao.

Khi học giới, con rất thích hình ảnh của tăng đoàn nguyên thủy. Mỗi lần có ai đó phạm giới thì việc ấy đều được trình lên Bụt. Bụt gọi vị ấy lại, hỏi  “Con có làm điều đó không?”. Nếu có phạm thì người được hỏi đều thành thật trả lời “có”. Những vị ấy không chối cãi, không quanh co. Còn con thì cứ đi lòng vòng quanh co. Chúng ta không có can đảm để đối diện với bản thân, không nhận diện tâm ý mình, nên làm mất thời giờ của mình và của người khác. Và vì cứ đi vòng quanh nên không bao giờ giải thoát được. Con đường thẳng tắp mà cứ lẩn quẩn quanh co. Trong khi đó con đường giải thoát là con đường thẳng. Nhận ra điều đó, con tập chia sẻ những gì trong lòng, rồi tùy thuận theo nhân duyên, cái gì đến thì mình đón nhận, cái gì chưa đến thì ghi nhận mà không cần phải vòng vo. 

Giá trị của mình nằm ở sự chân thật của nội tâm. Con thường hay quán chiếu về một trái cam. Nếu trái cam ấy ngon ngọt thì dù người ta có nói trái cam ấy chua, trái cam ấy vẫn ngon ngọt; còn nếu trái cam ấy chua thì dù người ta có khen ngon ngọt, trái cam ấy vẫn là một trái cam chua. Mình là mình, không phải vì người khác khen mà ta trở nên giỏi hơn, cũng không phải vì người khác chê mà ta trở nên tệ hơn. Con thực tập nhìn lại mình, xem thử trái cam của mình chua hay ngọt. Nếu là chua thì vì sao nó chua? Có thể nó đang thiếu nước? Thiếu phân bón? Rồi con bổ sung, bồi đắp thêm cho gốc rễ của mình để mùa sang năm, trái cam của mình sẽ ngon ngọt hơn. 

Đương nhiên, khi nhận lời khen từ một ai đó, con cũng hạnh phúc. Con chắp tay cảm ơn vị ấy. Điều này con học được từ một sư em. Mỗi lần con khen sư em, sư em luôn nói: “Cảm ơn sư chị!” rất dễ thương. Trước đây, mỗi khi nghe người khác khen giỏi, con thường hay nói: “Có gì đâu mà giỏi, con có làm gì đâu”. Tuy nói vậy nhưng đôi khi cũng mang theo niềm tự hào thầm kín. Còn bây giờ con nói “cảm ơn” là con mang trong lòng một niềm biết ơn. Những gì con làm được không phải là thành quả của riêng cá nhân con mà là nhờ nhiều nhân duyên, nhờ sự yểm trợ của tất cả mọi người. 

  Thầy bảo đừng lo mà mình quan tâm mệt mỏi.

Thầy bảo “đừng lo” mà con cứ quan tâm chuyện này đến chuyện nọ, hết người này đến người khác, rồi sinh ra mỏi mệt, vì không lường được sức của mình. Con quan tâm rồi đòi hỏi người khác phải quan tâm con như con mong muốn. Con không biết rằng đôi khi sự quan tâm của mình lại làm cho người kia cũng mệt mỏi, khiến họ mất tự do và mất thì giờ. 

     Đường đi đá sỏi mà cứ muốn trơn tru 

Con đường trong tâm là một con đường thẳng, nhưng con đường bên ngoài là con đường gồ ghề sỏi đá. Nhìn lại quãng đường mình đã đi qua, ngay cả khi còn có sự hiện diện của Thầy, trong tăng thân cũng có chuyện này chuyện nọ xảy ra. Nhưng đó là điều may mắn cho mình, vì mình học được cách Thầy xử lý vấn đề. Điều này cũng tương tự như trong trường hợp của các sư anh, sư chị lớn. Không phải khi các sư anh, sư chị lớn ở nhà là mọi thứ yên ổn tốt đẹp hết cả. Tuy nhiên nhờ có những chuyện này chuyện nọ xảy ra mà ta học được cách các sư anh, sư chị lớn giải quyết vấn đề. Và rồi sau đó, khi Thầy hay các sư anh, sư chị lớn đi vắng, ta có thể tự giải quyết vấn đề mà không phải lúc nào cũng mong đợi các sư anh sư chị ở nhà để mọi chuyện được yên ổn. 

Quan trọng là khi tâm ta bình an, ta sẽ biết cách xử lý vấn đề, còn nếu tâm ta bất an thì không những ta không xử lý được mà đôi khi còn làm cho tình trạng rối rắm thêm. Vì vậy, ta phải biết trở về với tự thân, làm an tâm của mình. Nếu không tu thì mình cứ lận đận hoài.

   Ai bảo không tu nên mới hoài lận đận.

   Vì vậy mà mình phải thực tập thôi. 

  Thôi bận chi thì bận nhưng cũng nhớ thở nhớ cười 

 

 

Ở Làng, đại chúng có ít nhất là hai đợt làm biếng trong năm. Thầy dạy ta phải sử dụng những ngày làm biếng của mình như thế nào để nuôi dưỡng thân tâm mình và nuôi dưỡng tăng thân. Hơi thở, bước chân, nụ cười là những điều mà ta không nên xem thường. Khi mới thực tập, con cũng trở về với bước chân, hơi thở, nụ cười; đến khi thực tập được năm năm, mười năm hay hai mươi năm, con cũng trở về với bước chân, hơi thở và nụ cười. Khi thực tập chưa sâu, ta cứ tưởng rằng pháp môn không đủ sâu nên đôi khi ta thấy chán, thấy lờn và muốn đi tìm kiếm một môi trường nào đó có pháp môn tu học thâm sâu hơn. Con cũng từng nghĩ: “Trời ơi, pháp môn chỉ có chừng này thôi à, không có gì cao hơn, sâu hơn nữa sao?”. Nhưng càng tu, con càng thấy pháp môn của mình rất sâu sắc và để hiểu được những giáo lý, kinh điển thâm sâu thì phải thực tập chánh niệm trong đời sống hằng ngày, phải làm chủ thân tâm, nắm vững bước chân, hơi thở và nụ cười. Cho nên, kinh Quán niệm hơi thở và kinh Bốn lĩnh vực quán niệm là hai kinh mà ta phải nắm cho chắc và thực tập cho vững vàng. Đó là kim chỉ nam của chúng ta. 

Kinh điển bao la rộng lớn quá, học ít thì thấy thiếu, học nhiều thì đôi khi thấy mông lung, không biết nương vào đâu. Có lần viết thư cho Thầy, con thưa: “Thầy ơi, nhiều khi con thấy con đường đi của mình rất sáng đẹp nhưng đôi khi con lại thấy mơ hồ và mông lung quá như một buổi sáng mù sương, không biết đi đâu về đâu”. Sau đó trong bài kệ truyền đăng Thầy trao cho con có hai câu “Trời đêm mở hội ngàn sao, vầng trăng có lối đi vào uy nghiêm” đã thức tỉnh con. Bầu trời mênh mông vậy đó mà vẫn có lối đi huống gì là giáo pháp. Hơi thở và bước chân sẽ giúp ta thấy được đường đi của mình ngày một sáng hơn. 

Con thấy mình rất may mắn khi được Thầy dạy cho cách thưởng thức sự sống. Nhờ Thầy mà khi trở về Việt Nam sau mấy năm tu học con thấy đất nước mình đẹp hơn và con cũng yêu thiên nhiên hơn. Tuy nhiên đôi khi con thưởng thức hơi bị nhiều, cứ thích ngồi yên để tận hưởng mà quên đi những thực tập khác. Vì vậy con thường hay nhắc nhở mình là phải tinh tấn lên. Tu học đừng lười mới đến nơi đến chốn. 

Trong các giáo lý như Ngũ lực, Bát chánh đạo hay Bảy yếu tố giác ngộ, v.v… Bụt đều dạy về tinh tấn. Và lời dạy cuối cùng của Bụt trước khi nhập diệt cũng là: “Vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt, các vị hãy tinh tấn lên để đạt tới giải thoát”. 

Muốn thành tựu bất cứ điều gì, chúng ta cần phải nỗ lực kiên trì. Người tu nếu không siêng năng tinh tấn, thì sẽ không thể thành tựu được. Mà siêng năng tinh tấn ở đây là siêng năng rèn luyện tâm ý của mình. Phải vượt qua những khó khăn trong nội tâm. 

Chúng ta may mắn có các sư mẹ, sư cha, sư anh và sư chị đi trước để giúp mình. Nhưng đôi khi có những khó khăn mình cần phải tự rèn luyện. Giống như con nhộng trước khi thành bướm, ở trong chiếc kén, nó phải đêm ngày nỗ lực để tìm cách chui ra khỏi chiếc kén ấy. Khi đã chui ra khỏi chiếc kén rồi, đôi cánh của nó sẽ từ từ trở nên cứng cáp, và nó có thể bay cao. Nếu không biết điều này, khi thấy con nhộng cứ cựa quậy trong cái kén, ta đến rạch chiếc kén cho nó chui ra được dễ dàng hơn, thì đôi cánh của nó sẽ không đủ khoẻ và đủ cứng cáp nên chú bướm non ấy sẽ không bay lên được. Tương tự như thế, chúng ta cũng cần rèn luyện đêm ngày để cho đôi cánh của mình cứng cáp, để có thể bay cao lên vòm trời cao rộng.

    Những lúc nguy khốn cứ để Bụt lo. 

Có lần con leo một ngọn núi cao, nhưng đến lưng chừng núi thì không có gì để cho con bám vào mà leo tiếp. Lên tiếp không được mà tụt xuống lại còn khó hơn. Rất nguy hiểm. Không biết làm sao. Một thoáng lo âu sợ hãi đi lên.

Khoảnh khắc ấy con liền nghĩ đến Bụt: “Bụt ơi, cứu con”. Và con “để Bụt thở, để Bụt lo”. Con thấy tâm mình an hơn. Giữ lòng bình an, con níu vào những cây cỏ để nâng người mình lên và nhích từng chút một. Cuối cùng con cũng leo lên được đến đỉnh núi. Chính bản thân con cũng rất ngạc nhiên về điều này, không hiểu vì sao mà những cây cỏ đó có thể nâng người con lên được, vì đó không phải là loại cỏ có rễ bám sâu vào lòng đất, chỉ cần nhổ nhẹ một tí là lên rồi. Con thấy mầu nhiệm và biết ơn vô cùng. 

Những gì đã xảy ra trong chuyến đi núi đã cho con một niềm tin rất lớn là mỗi lần có chuyện gì xảy, dù là nội tại hay ngoại tại cứ “để Bụt thở, để Bụt lo” thì mọi chuyện sẽ êm đẹp. 

Là con của Bụt, ta phải có sự tĩnh tại và tự do. “Tĩnh tại” là  một từ rất hay: vừa tĩnh lặng và vừa tự tại. Người tu cần phải có yếu tố tĩnh lặng. Tĩnh lặng giúp ta có thêm không gian để nuôi dưỡng và trị liệu. Cho nên vui thì cứ vui nhưng phải biết trở về chăm sóc và nuôi dưỡng yếu tố tĩnh lặng bên trong mình.

    Tĩnh tại tự do mới xứng danh con Bụt. 

 

 



Có mặt cho người thương là một món quà vô giá

(Trích pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 30.11.2011 tại DC. Virginia, Mỹ)

Có những người làm việc với máy tính 15 giờ mỗi ngày, thậm chí có thể nhiều hơn. Tâm của họ hoàn toàn bị cuốn hút vào công việc, vào thế giới ảo của máy tính. Họ quên rằng mình có một hình hài. Mà chúng ta biết rằng, khi tâm không ở với thân thì chúng ta không thực sự đang sống – thân tâm bị phân cách.

Vì vậy, bài tập này là để đem tâm trở về với thân, để mình thấy được rằng mình đang có một hình hài. Khi tâm trở về với thân, mình mới thực sự có mặt. Quý vị chắc cũng đã từng có kinh nghiệm – người thân của mình, dù đang có mặt trong nhà, nhưng tâm của họ lại không có mặt.

Ba của mình, mẹ của mình hay con của mình – tuy ngồi đó rõ ràng – nhưng tâm không ở đó. Đó không phải là sự có mặt thật sự. Có cái nhà đó, nhưng chủ nhà lại không có mặt. Lúc ấy, nếu muốn giúp người kia đem tâm trở về với thân, mình có thể đến, vỗ nhẹ vào vai và hỏi: “Có ai ở nhà không?” – như vậy là giúp người kia giật mình và đem tâm trở về với thân.

Có một ông rất giàu, là một thương gia lớn. Hôm đó, ông nói với đứa con trai 11 tuổi:
– “Ngày mai là sinh nhật của con phải không? Con muốn gì, bố sẽ mua cho.”
Cậu bé biết rằng bố mình có rất nhiều tiền, mua cái gì cũng được. Nhưng cậu không cần gì cả. Cậu bé rất đau khổ – vì bố quá bận rộn, không có thời gian cho mẹ và cho mình. Tất cả thời gian, tất cả năng lượng của ông đều bị cuốn hút vào công việc. Giàu thì giàu thật, nhưng ông không có thời gian để chăm sóc bản thân, cũng không có thời gian chăm sóc gia đình.

Chú bé rất cô đơn. Mình có ba mà giống như không có ba – vì ba bận rộn quá. Thỉnh thoảng ba có ở nhà, nhưng như một cái xác không hồn – vì tâm vẫn còn ở chỗ công việc.

 

 

Khi mình thương ai, mình có xu hướng muốn hiến tặng cho người đó một điều gì quý giá để họ hạnh phúc. Đó là điều rất tự nhiên. Nhưng món quà quý nhất mà mình có thể tặng cho người thương là gì? Đó là câu hỏi lớn.

Cái đó, liệu mình có thể mua ở siêu thị không? Trong trường hợp của cậu bé 11 tuổi, cậu biết rất rõ rằng bố mình có thể mua bất cứ thứ gì. Nhưng điều duy nhất cậu cần lại không có: sự có mặt của người cha. Mình có cha mà giống như không có cha – vì chính cha còn không có mặt cho chính cha thì làm sao có mặt cho mẹ và con?

Sau một hồi suy nghĩ, cậu bé tìm ra câu trả lời. Cậu nhìn cha và nói:
– “Bố ơi, điều con muốn… là bố đó.”

Một lời trách nhẹ, nhưng đầy sâu sắc – rằng bố không có thời gian cho con. Nếu người cha biết tu tập, thì điều đó rất dễ làm. Ông chỉ cần thỉnh một tiếng chuông và trở về với hơi thở.

Thở vào, tôi biết mình đang có một hình hài.
Thở ra, tôi mỉm cười với hình hài này.

 

Chỉ trong 5–6 giây, tâm sẽ trở về với thân, và người đó có mặt thực sự trong giây phút hiện tại. Tu và chứng rất nhanh – chỉ cần 5–7 giây là đã có thể thành công.

Lúc đó, người bố có thể nhìn vào mắt con và nói:
– “Con ơi, bố đang thật sự có mặt cho con đây.”
Đó là món quà quý giá nhất mà ta có thể trao cho người thương. Làm sao thương mà không có mặt cho nhau được? Đó chính là một công án.

Nếu quý vị muốn trở thành một người thương đích thực thì phải thực tập điều này. Phải thực tập hơi thở chánh niệm để có mặt. Có mặt cho ai? Trước hết là cho chính mình, rồi sau đó là cho người mình thương.

Vì vậy ở Làng Mai có một số linh chú rất dễ thực tập:

  • “Mẹ ơi, con đang có mặt cho mẹ đây.”
  • “Anh ơi, em đang có mặt cho anh đây.”
  • “Con ơi, ba đang có mặt cho con đây.”

Đó là hiến tặng cho người thương sự có mặt của mình – thứ quý giá nhất nếu mình biết thương. Bài tập thứ ba mà chúng ta học trong kinh giúp chúng ta đem tâm trở về với thân, để chúng ta thật sự có mặt. Có mặt cho bản thân trước, rồi ngay sau đó là có mặt cho người thương.

 

 

Chúng ta có thể mỉm cười, nhìn vào mắt người thương và nói:
– “Anh ơi, anh biết gì không? Em đang có mặt cho anh đây.”
Và hạnh phúc sẽ tới ngay lập tức.

Một điều mầu nhiệm là mình cũng có thể thực tập điều đó qua điện thoại. Mình cầm điện thoại lên, nhưng đừng vội bấm số. Hãy dừng lại, có chánh niệm, có định. 


Thở vào, tôi biết tôi đang có một hình hài.
Thở ra, tôi mỉm cười với hình hài của tôi.

 

Rồi mình mới bấm số. Khi đầu dây bên kia vừa nói “A lô”, mình nói:
– “Anh ơi, anh biết gì không? Em đang có mặt cho anh đây.”
Và hạnh phúc đến ngay lập tức – cho mình và cho người thương.

– “Bố ơi, bố biết gì không? Con đang có mặt cho bố đây nè.”
Tu tập là như vậy đó. Mình cũng có thể gửi email để nói điều đó nữa.

Khi mình thực sự có mặt rồi, mình có thể đi xa hơn: công nhận sự có mặt của người kia. Vì thương theo định nghĩa của phép tu này – trước hết là phải có mặt. Muốn có mặt, thì phải có phương pháp thực tập như nghe chuông, thở chánh niệm, hoặc đi thiền hành. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở trong chánh niệm đều có khả năng đưa tâm về với thân, giúp ta có mặt.

Chỉ cần ba hay bốn giây thực tập là mình có mặt cho mình, rồi có mặt cho người kia. Và đó là hiệu quả đầu tiên của phép tu. Hiệu quả thứ hai là: khi mình có mặt rồi, mình có thể công nhận sự có mặt của người kia.

Công nhận sự có mặt của người kia – đó là tình yêu đích thực. Nếu mình thực sự thương người đó, thì mình phải công nhận rằng sự có mặt của người ấy là rất quý giá. Vì có thể mai mốt người đó sẽ không còn nữa. Hôm nay, nhờ có chánh niệm, có hơi thở, nên mình thấy được điều đó và trân quý sự có mặt ấy. Để sau này, khi người ấy không còn nữa, mình không phải tiếc nuối.

 

 

Đoản văn “Bông hồng cài áo” được viết từ tuệ giác đó. Mình có một bà mẹ thơm như chuối chín cây, ngọt như đường mía lau. Nếu hôm nay mình không thương, thì mai mốt mẹ không còn nữa, mình sẽ hối tiếc. Cho nên hôm nay, mình phải tới với mẹ, nhìn vào mắt mẹ mà nói:
– “Mẹ ơi, con biết mẹ đang có mặt cho con, con hạnh phúc lắm. Mẹ đang còn sống đây.”

Thương, trước hết là có mặt. Tiếp theo là công nhận sự có mặt của người kia như là một điều gì rất quý báu.

Con mình cũng vậy. Lớn lên, nó sẽ đi nơi khác, có gia đình riêng. Mình sẽ không còn được ở gần nó nữa. Bây giờ, mình có cơ hội sống chung một mái nhà, mình phải trân quý thời gian đó. Mẹ mình, cha mình cũng vậy. Sau này mình lập gia đình, mỗi năm chỉ về thăm được vài lần. Vậy nên, khi còn ở gần nhau, hãy trân quý từng giây phút.

Cho nên, định nghĩa thứ nhất của thương yêu là: có mặt cho người mình thương.
Định nghĩa thứ hai là: công nhận sự có mặt của người ấy như một điều quý giá.

Linh chú thứ hai:

  • “Mẹ ơi, con biết mẹ đang có mặt, và con quá hạnh phúc.”
  • “Em ơi, anh biết em đang có mặt đó, và anh rất hạnh phúc.”

Chúng ta cũng có thể thực tập linh chú này bằng điện thoại. Thời đại này ai cũng có điện thoại. Quý vị có thể dùng nó để thực tập:
– “Anh ơi, em biết là anh đang có mặt đó. Em rất hạnh phúc.”

Chỉ cần vài phút thôi là có thể tạo ra hạnh phúc cho mình và cho người kia – rất dễ. Đó là phép lạ của chánh niệm: có mặt trong giờ phút hiện tại, bằng hơi thở hoặc bằng bước chân.

Vị doanh nhân kia, nếu biết thực tập và nghe con mình nói như vậy, thì ngay lập tức có thể trở về với hơi thở.


Thở vào, biết rằng mình đang có một hình hài.
Thở ra, mỉm cười với hình hài ấy.


Và ông sẽ có mặt thật sự trong giây phút hiện tại. Lúc đó, ông nhìn vào mắt con, mỉm cười và nói:
– “Con ơi, ba đang có mặt cho con đây.”
Và như vậy, đứa bé sẽ vô cùng hạnh phúc.

Cánh cửa xót thương

(Thầy Chân Minh Hy)

“Hãy nhớ gọi đúng tên tôi
cho tôi giật mình tỉnh thức
và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ
cánh cửa xót thương.”
Hãy gọi đúng tên tôi,
-Sư Ông Làng Mai-

Cánh cửa xót thương là cánh cửa của lòng mình. Chúng ta có quyền đóng hay mở cánh cửa đó với bất cứ ai. Mình có quyền thương và mình có quyền được giận, được buồn. Giận hay buồn cũng cho mình cái không gian riêng nhưng có lúc cũng cảm thấy chật chội, tù túng. Đôi khi chúng ta muốn chạy, chạy đi thật xa, muốn thoát ra khỏi sự tù túng ấy. Chúng ta muốn cười một trận cười cho đã cái sự chật chội ấy, cho rỗng cõi lòng.

Cái nóng của miền Trung, nếu không quen sẽ rất khó chịu. Phải ở đó đủ lâu, phải biết ăn cay, ăn mặn thì mình mới có thể quen được cái nóng oi bức ấy. Có khi trời nóng quá, ngồi đâu cũng thấy nóng. Trong nhà hay ngoài vườn cũng thấy nóng, ban ngày đã nóng mà ban đêm cũng nóng. Ban đêm ta mở toang hết các cửa và mong rằng có một cơn gió mát thổi vào nhà để xua đi cái nóng. Thỉnh thoảng có một cơn gió nhẹ đi vào và ta thưởng thức trọn vẹn sự mát mẻ ấy. Đó là một giây phút hạnh phúc.

Cánh cửa xót thương là “cánh cửa đó” mà cánh cửa giận cũng là “cánh cửa đó”, đóng hay mở là tùy vào mình. Nếu muốn học thương yêu thì mình phải để cho cánh cửa lòng bỏ ngỏ. Dù trong lòng mình, nhà mình còn nóng bức, bực bội nhưng nếu cửa lòng mình để ngỏ thì thế nào cũng có một vài ngọn gió mát đi vào, làm mình dễ chịu. Ngọn gió ấy là những cái hay, cái đẹp nho nhỏ của người đó, cứ để nó tự nhiên đi vào lòng mình. Ta chấp nhận và tận hưởng những cái đẹp ấy.

 

 

Thường thì chúng ta chỉ muốn đón vào nhà những ngọn gió mát mà thôi, những ngọn gió khó chịu thì mình không ưa, mình muốn đẩy những ngọn gió ấy đi. Nó sẽ đi đâu? Nó sẽ không đi đâu cả, nó vẫn ở đó. Chúng ta có cảm tưởng là nếu ghét nó, giận nó thì những cái khó chịu ấy sẽ ra khỏi ngôi nhà của mình nhưng kỳ thực nó không đi đâu cả. Chúng ta có thể ghét một cơn gió khô khan nhưng ta không thể xua đuổi nó đi được, chỉ có một cơn gió mát mới có thể xua đi cái khô khan ấy mà thôi.

Sự khó chịu ấy có thể không đến từ người ấy. Nó có thể đã đến từ nhiều cái không vừa lòng trong nhiều ngày, nhiều năm. Hãy tính xem, ngày hôm nay có bao nhiêu cái làm mình không vừa lòng? Có bao nhiêu cái đến từ người ấy và bao nhiêu cái đến từ những cái khác? Thức dậy đã có cái không vừa lòng, cho đến khi nằm trên giường ngủ mình cũng thấy chưa vừa lòng, cũng có cái làm mình trằn trọc, băn khoăn. Cái không vừa lòng ấy biết bao giờ mình mới vừa lòng!

Cùng một ngọn gió ấy, nếu có người đến từ một vùng đất khô cằn hơn, nóng bức hơn họ sẽ không thấy khó chịu chi mấy. Vì vậy, bằng lòng hay không bằng lòng đó không phải là vấn đề, nó nằm ở cách tiếp nhận. Nếu biết tiếp nhận vấn đề bằng sự xót thương thì mọi chuyện sẽ trở nên dễ chịu.

(để đọc mỗi khi buồn)

Thuỷ chung vẫn một niềm thương

Kính thưa Đại chúng!

Ni chúng chùa Từ Nghiêm, xóm Mới thương tiếc báo tin đến Tứ chúng Đạo tràng Mai Thôn: Sư cô Chân Trăng Rừng Tùng đã qua đời lúc 17h chiều ngày 01 tháng 7 năm 2025. Trụ thế 43 năm, 7 năm tu học với 4 hạ lạp.

Sư cô Trăng Rừng Tùng với pháp danh Tâm An Phúc, thế danh Trịnh Thanh Bình sinh ngày 14 tháng 11 năm 1982 tại Thanh Hoá, Việt Nam. Sư cô xuất gia, thọ giới Sa Di Ni vào năm 2018 tại tu viện Vườn Ươm, Làng Mai Thái Lan trong gia đình cây Ngọc Lan và thọ giới lớn vào ngày 3 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ. Sư cô Trăng Rừng Tùng là đệ tử thứ 1053 của Thầy Làng Mai, thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

 

 

Sự ra đi của sư cô đã để lại nhiều niềm cảm thương, tiếc nuối cho cả hai dòng gia đình huyết thống và gia đình tâm linh, cho rất nhiều bạn bè và những ai đã từng có cơ duyên gặp gỡ bởi sự sống, sự biểu hiện rất đẹp trong cuộc đời mà sư cô đã hiến dâng. Nhớ về sư cô, mỗi người đều có một cảm nhận rất riêng, đầy trân quý nhưng có lẽ hình ảnh một dáng hình với những bước chân thảnh thơi, an nhiên; một đôi mắt sáng ngời chứa đầy tình thương, bao dung và đôi khi là cả sự tinh nghịch tinh tế như nhắn nhủ, khích lệ điều gì; tinh thần ham học hỏi, ham tu, luôn tinh cần thực tập và sẵn sàng với tinh thần phụng sự, giúp đỡ mọi người trong mọi hoàn cảnh không điều kiện là điều mà chúng ta không thể nào quên.

Khi có cơ hội nhìn lại những bức hình kỷ niệm, ta sẽ thấy rõ ràng một điều rằng sư cô đã sống một cuộc đời rất đáng sống: Trọn vẹn nghĩa tình; Tiếp nối và tận hưởng những pháp lạc trong đời sống tu sĩ;  Tinh chuyên trong sự thực tập hàng ngày để chuyển hoá những tập khí, những khổ đau của tự thân cũng như biết chế tác những niềm vui, hạnh phúc và bình an từ những điều nhỏ nhất trở nên thân thương;  Luôn có mặt, đơn giản chỉ là có mặt thôi cũng đã nuôi dưỡng và xây dựng tình huynh đệ; Biết thưởng thức những mầu nhiệm của thiên nhiên, của vũ trụ; Trân trọng những điều kiện hạnh phúc quanh mình và sống trọn vẹn từng phút giây sự sống cũng như chia sẻ sự bình an, yêu thương đó đến cho nhiều người. Sư cô đã luôn biểu hiện trong lòng đại chúng, và cuối cùng cũng ẩn tàng trong vòng tay của Tăng thân yêu quý, gia đình tâm linh mà sư cô đã chọn. Dường như những việc cần làm sư cô đã làm tạm xong với tất cả tình thương, làm một người tu có hạnh phúc nên hoá đổi một kiếp người cũng thanh thản ra đi. 

Ra đi nhưng thật sự là một cuộc trở về. Sư cô đã trở về với Thầy Tổ, trở về với bản môn thong dong rong chơi khắp mọi nẻo trời phương ngoại. Còn chúng ta? Mỗi chúng ta cũng đang trở về, trở về với ý thức đong đầy về thực tại vô thường, để trân quý hơn những gì mình đang có. Cầu nguyện cho tất cả bình an!

 

 

Cảm niệm về sư cô Trăng Rừng Tùng

Gửi sư bạn thương,

Sáng nay khi mở sách một cuốn sách của Sư Ông, tôi tình cờ đọc được một đoạn Sư Ông nói về ngọn lửa trong hộp diêm:

“Ngọn lửa không phải từ không mà trở thành có đâu, ngọn lửa biểu hiện khi các điều kiện hội tụ, nhân duyên đầy đủ. Nhân và duyên đầy đủ thì nó biểu hiện, nhân duyên thiếu thì nó ẩn tàng. Bây giờ mình hỏi ngọn lửa: “Ngọn lửa ơi, em từ đâu tới và em đã đi về đâu rồi?”. Nếu mình lắng nghe với con mắt thiền, mình sẽ nghe tiếng trả lời của ngọn lửa: “Quý vị ơi, em đâu có từ đâu tới! Em không phải từ phương Nam, phương Bắc, cũng không phải từ phương Tây, phương Đông tới, hễ khi nào những điều kiện nó hội đủ thì em biểu hiện thôi!”. Đó là sự thật, một sự thật rất khoa học. “Hồi nãy tôi mới thấy em đó, em đã đi đâu rồi ngọn lửa ơi?”. Ngọn lửa trả lời: “Em đâu có đi đâu đâu. Em cũng không đi về miền Bắc, miền Nam, miền Tây, miền Đông. Khi nào điều kiện không hội đủ thì em không có biểu hiện nữa thôi, em không có đi đâu hết!”. Đó là sự thực không tới cũng không đi, vô khứ vô lai, bất sinh bất diệt.”

Đọc đến đó, trái tim tôi ấm lại. Tôi không rõ đây là một sự tình cờ hay là thông điệp mà sư bạn đang âm thầm gửi đến tôi. Nhưng điều chắc chắn là tôi đã thấy mình mỉm cười —và tôi biết sư bạn cũng đang mỉm cười.

Chúng ta cùng quê. Bạn xuất gia sau tôi, nhưng tôi luôn cảm nhận bạn như một người chị, một người bạn tinh thần thật sâu sắc. Bạn đã trải qua nhiều khó khăn để có thể thực hiện ước mơ trở thành một vị tu sĩ, và bạn đã đi đến cùng bằng tất cả trái tim mình.

Chúng ta đã sống những tháng ngày thật đẹp bên nhau — những buổi tập hô canh, thỉnh mõ, cùng nhau học kinh, học giới, cùng đi thiền hành, tập võ bên hồ Sao Mai, hay những buổi ngồi nơi góc của thiền đường Hương Cau cùng ngắm trăng. Tôi vẫn nhớ những ngày Tết — sau lễ giao thừa, mấy chị em rủ nhau đi cúng ông Táo, rồi ngồi quây quần bên nhau đốt nến, ăn bánh, uống trà. Và còn biết bao nhiêu kỷ niệm khác nữa. Giản dị vậy thôi mà giờ nhớ lại lòng bỗng nghẹn ngào.

Tôi nhớ dáng đi thong thả, từ tốn của bạn, nụ cười nhẹ và ánh mắt hiền. Sư bạn là một người tu rất đẹp – đẹp từ cách đi đứng, nói năng, đến cái tâm ham học, luôn lắng nghe và đầy cảm thông. Có lẽ ai sống gần bạn đều cảm được sự dịu dàng, khiêm tốn ấy.

Tôi vẫn nhớ hồi mới vào tập sự, bạn hay đi rất nhanh. Vậy mà chỉ vài tháng sau khi xuất gia, không ai còn thấy được cái vẻ vội vã ngày xưa nữa – thay vào đó là những bước chân khoan thai, chậm rãi, đầy chất thiền. Bạn đã thực sự chuyển hóa, và trở thành một phần thân thương trong lòng tăng thân.

Bạn đã sống hết lòng trong tăng thân, và cũng nhẹ nhàng trở về trong vòng tay của đại chúng. Với tôi đó đã là một sự thành công của một người tu rồi.

Cảm ơn sư bạn đã có mặt.

Cảm ơn vì sự hiện diện nhẹ nhàng và thầm lặng của bạn đã là một ngọn lửa ấm giữa đại chúng.

Tôi tin rằng bạn không đi đâu cả. Cũng như ngọn lửa trong hộp diêm, khi các điều kiện đầy đủ thì bạn biểu hiện, khi các điều kiện không còn thì bạn lại trở về trạng thái ẩn tàng — nhưng chưa bao giờ mất đi.

Tôi nhớ có một lần bạn hỏi một sư anh lớn: “Thưa Thầy, sau khi mất Sư Ông đi về đâu?”. Vị thầy đó trả lời: “Sư Ông đâu có đi đâu đâu. Sư Ông đang ở trong Rừng Tùng đó”. Ngày hôm nay, nếu có ai hỏi: “Sau khi mất, Rừng Tùng sẽ đi đâu?” thì sư bạn sẽ nói sao nè?

Bạn vẫn đang có mặt nơi đây — trong tôi và trong tất cả những người thân thương của bạn.

Tôi sẽ tiếp tục đi những bước chân bạn từng đi, giữ gìn nụ cười mà bạn từng để lại, và nuôi lớn ước mơ tu học mà bạn đã sống trọn.

Thương gửi bạn – không phải để nói lời chia tay, mà là để nói lời tiếp nhận. Tiếp nhận sự có mặt sâu sắc của bạn trong tôi, trong tăng thân này, và trong cả những bước chân sắp tới.

Nguyện cho sư bạn luôn được nâng đỡ bởi tình thương của tăng thân, ở bất cứ cảnh giới nào bạn đang có mặt.

Sẽ luôn là bạn đồng hành trên con đường hiểu và thương nhé, bạn của tôi.

Thương kính.

 Sư cô Chân Trăng Học Chiếu

 

 

Thương hướng về sư em Chân Trăng Rừng Tùng

     Mặt trời vừa xuống núi

     Khép lại một cuộc chơi

     Mây trở về cố quận

     Vẫn mang theo nụ cười 

 

     Em đi trong mùa hạ

     Sen nở cánh tinh khôi

     Công phu người ở lại

     Hát ru em giữa đời.

 Đại Ẩn Sơn 01/07/2025

Sư cô Chân Tuyết Nghiêm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhân duyên đủ biểu hiện, nhân duyên khuyết ẩn tàng

( Trích sách Không diệt, không sinh, đừng sợ hãi của Thiền sư Thích Nhất Hạnh )

Nhiều người được hỏi: “Bạn sinh ngày nào?” Nhưng bạn có thể trả lời bằng một câu hỏi hay hơn: “Trước ngày gọi là sinh nhật của tôi thì tôi ở đâu?”

Nếu bạn hỏi một đám mây: “Mây sinh ngày nào, trước khi sinh ra, mây ở đâu?” Nếu bạn hỏi nó: “Mây lên mấy tuổi rồi? Mây sinh ngày nào vậy?” rồi bạn lắng nghe, bạn có thể nghe được câu trả lời.

Bạn có thể tưởng tượng mây sinh ra đời cách nào. Trước khi sinh ra, nó là nước trên mặt đại dương, hay trên mặt sông, rồi nước bốc thành hơi. Mây cũng là mặt trời vì chính mặt trời làm cho nước bốc thành hơi. Gió cũng có trong mây, vì gió làm cho hơi nước tụ lại thành đám mây. Mây không tới từ hư không, mây chỉ là sự chuyển hóa hình thức. Không có chuyện một vật sinh ra từ hư không.

Sớm hay muộn, mây cũng sẽ biến thành mưa hay tuyết, hay nước đá. Nếu bạn nhìn sâu vào mưa, bạn sẽ nhìn thấy mây. Mây không mất đi, nó biến hóa thành ra mưa và mưa biến thành ra cỏ, cỏ vào trong con bò để rồi biến ra sữa và cà-rem bạn ăn đó. Hôm nay khi ăn một ly cà-rem, bạn hãy để thì giờ nhìn nó và nói: “Chào đám mây, ta nhận ra ngươi rồi.” Làm như vậy, bạn đã giác ngộ được bản chất thật của cà-rem và của mây. Bạn cũng có thể nhìn thấy biển, sông, thấy hơi nóng mặt trời, thấy cỏ và con bò trong ly cà-rem.

Nhìn cho sâu, bạn sẽ không thấy được ngày sinh thực và ngày chết thực của đám mây. Chỉ có chuyện đám mây chuyển hóa thành ra mưa hay tuyết. Không có gì thực sự chết đi vì luôn luôn có sự nối tiếp. Mây là tiếp nối của biển, của sông, của sức nóng mặt trời và mưa là tiếp nối của mây.

Trước khi sinh ra, đám mây đã có đó rồi. Hôm nay, khi bạn uống một ly sữa hay một tách trà, ăn một cái cà-rem, xin hãy theo dõi hơi thở. Hãy nhìn vào ly sữa hay ly trà và gửi lời chào đám mây.

Bụt dùng nhiều thời gian để nhìn thật sâu, chúng ta cũng vậy. Bụt không phải là Thượng đế, Ngài là một con người giống như chúng ta. Ngài đau khổ nên Ngài tu tập, vì vậy Ngài vượt thoát được khổ đau. Ngài có trí tuệ lớn, có hiểu biết, trí tuệ và từ bi. Vì thế nên chúng ta nói Ngài là bậc thầy, là huynh trưởng của ta.

Nếu chúng ta sợ chết là bởi vì chúng ta không hiểu rằng không có gì thực sự mất đi. Người ta nói Bụt đã chết, nhưng không phải thế. Bụt còn đang sống. Khi nhìn chung quanh, ta sẽ thấy Bụt dưới nhiều hình thái. Bụt đang ở trong bạn vì bạn có thể nhìn sâu và thấy được mọi sự đều không thực sự được sinh ra hay mất đi. Chúng tôi có thể nói bạn là một hình thức mới của Bụt, một tiếp nối của Bụt. Đừng coi thường chính mình. Hãy nhìn ra chung quanh, bạn sẽ thấy Bụt được tiếp nối ở khắp nơi.

 

Nhìn sâu vào một hộp diêm quẹt. Bạn có thấy lửa trong đó không? Nếu thấy, tức là bạn đã có hiểu biết. Khi nhìn sâu vào một hộp diêm, chúng ta thấy có lửa trong đó. Nó chỉ cần người nào cử động vài ngón tay là lửa hiện ra. Chúng ta nói: “Lửa ơi, ta biết mi đang ở đó. Bây giờ ta sẽ giúp lửa biểu hiện ra.”

Lửa luôn có trong diêm và trong không khí. Nếu không có dưỡng khí, ngọn lửa cũng không hiện ra được. Nếu bạn thắp một ngọn nến rồi phủ kín nó bằng một vật gì đó, ngọn lửa sẽ tắt vì thiếu Oxygen. Ngọn lửa chỉ sống được nhờ có dưỡng khí. Ngọn lửa có mặt khắp nơi, trong không gian, trong thời gian và trong tâm thức chúng ta. Ngọn lửa có khắp nơi, chờ biểu hiện ra, và chúng ta là một trong các điều kiện để nó xuất hiện. Khi ta thổi vào ngọn lửa, hơi thở đó là một nhân duyên làm cho nó ngừng biểu hiện dưới hình thức ngọn lửa.

Chúng ta có thể dùng diêm thắp hai ngọn nến rồi thổi ngọn lửa trên que diêm. Bạn có nghĩ lửa trên que diêm đó đã chết không? Lửa không có  tính chất sinh-diệt. Câu hỏi là: “Ngọn lửa trên hai cây nến kia là một hay là hai thứ lửa?”

– Nó không là một mà cũng không khác nhau.

Câu hỏi khác là: “Ngọn lửa của diêm chết hay không chết?”

– Nó chết và cũng không chết. Bản chất của nó là không chết đi và cũng không sinh ra. Nếu chúng ta để cho cây nến cháy trong một giờ đồng hồ, thì ngọn lửa đó vẫn thế hay đã biến thành lửa khác? Tim nến (bấc), chất sáp và dưỡng khí đều đã thay đổi. Do đó, ngọn lửa cũng đã thay đổi. Vậy thì ngọn lửa không giống và cũng không khác ngọn lửa trước kia.

Giải đáp nằm bên trong

Lửa từ đâu tới? Nguồn gốc nó là gì? Chúng ta nên nhìn sâu vào câu hỏi này. Chúng ta có cần ngồi thế hoa sen để trả lời câu hỏi này chăng? Tôi chắc chắn rằng bạn đã có sẵn câu trả lời trong bạn. Chỉ cần chờ thêm một điều kiện nữa là nó hiện ra thôi. Bụt dạy ai cũng có Phật tính. Phật tính là khả năng giúp chúng ta hiểu và tiếp xúc được với bản chất của mình. Câu trả lời đã có sẵn trong bạn. Thầy cũng không thể giúp bạn trả lời. Thầy chỉ giúp bạn tiếp xúc được với Chánh niệm, khả năng tỉnh thức lớn (trí tuệ) và từ bi trong bạn. Bụt mời bạn đi vào trí tuệ mà bạn đã có sẵn.

Nhiều người trong chúng ta hỏi: “Chúng ta đi về đâu sau khi chết? Chuyện gì sẽ xảy ra khi đó?” Chúng tôi có những thân hữu mất người thân, đã hỏi rằng: “Bây giờ họ ở đâu? Họ đi tới đâu rồi?” Các triết gia hỏi: “Con người từ đâu tới, vũ trụ và thế giới này từ đâu sinh ra?”

Khi chúng ta nhìn cho sâu, ta thấy rằng nếu đầy đủ nhân duyên, thì sự vật sẽ biểu hiện. Sự biểu hiện đó không tới từ đâu cả. Và khi nó ngừng biểu hiện thì nó cũng không đi đâu hết.

Nhân duyên

Khi chúng ta nhìn vào một vật gì như căn nhà hay cái bàn chẳng hạn, chúng ta thường nghĩ căn nhà hay cái bàn đó là do một hay nhiều người đã làm ra. Ta có khuynh hướng muốn tìm ra nguyên nhân đã tạo ra căn nhà hay cái bàn. Ta đi tới kết luận là căn nhà do thợ xây nhà làm nên, cái bàn do người thợ mộc. Ai tạo ra cái bàn? Người thợ mộc? Ai tạo ra bông hoa? Đất hay người làm vườn, người nông phu?

Chúng ta thường suy nghĩ một cách giản dị về nguyên nhân của sự vật. Ta thường cho rằng chỉ cần một nhân duyên là đủ đưa tới sự vật kia. Khi thực tập nhìn sâu, ta thấy ngay là một nguyên nhân không bao giờ có thể tạo ra kết quả được. Người thợ mộc không thể là nhân duyên duy nhất tạo ra cái bàn. Nếu ông ta không có những dụng cụ như đinh, cưa, gỗ, thời gian, không gian, thức ăn, không có cha mẹ sinh ra ông và bao nhân duyên khác, thì làm sao ông có thể tạo ra cái bàn được? Con số các nguyên nhân đó nhiều vô kể.

Khi nhìn vào bông hoa chúng ta cũng thấy như vậy. Người làm vườn chỉ là một nguyên nhân. Phải có đất, có mặt trời, đám mây, có phân bón, hạt giống và nhiều, nhiều thứ khác. Khi nhìn sâu, bạn sẽ thấy rằng cả vụ trụ đã cùng giúp cho bông hoa biểu hiện. Khi nhìn cho kỹ một miếng cà-rốt bạn ăn bữa trưa, bạn cũng thấy tất cả vũ trụ đã giúp cho miếng cà-rốt có mặt.

Nếu chúng ta tiếp tục nhìn thật sâu, ta sẽ thấy nguyên nhân của sự vật này đồng thời cũng là một kết quả của nhiều thứ khác. Người làm vườn là một nhân duyên để có bông hoa, nhưng chính ông cũng là một hệ quả của nhiều yếu tố. Ông biểu hiện ra được là nhờ nhiều nguyên nhân như tổ tiên, cha mẹ, thầy giáo, công việc, cộng đồng, thực phẩm, thuốc men và ngôi nhà ông cư trú. Giống như người thợ mộc, ông không chỉ là nguyên nhân mà còn là một hệ quả.

Nhìn sâu, chúng ta thấy không thể có thứ gì chỉ thuần là nguyên nhân. Thực tập nhìn sâu, chúng ta có thể khám phá được nhiều điều và nếu ta không bị vướng vào một chủ thuyết hay ý niệm chúng ta sẽ có tự do để khám phá.

Không có một nguyên nhân thuần túy

Khi Bụt được hỏi “Cái gì là nguyên nhân của mọi sự vật?” Ngài đã trả lời một cách đơn giản. Ngài nói:

“Cái này có vì cái kia có.” Câu này có nghĩa là sự vật nào cũng nhờ tất cả các thứ khác mới biểu hiện ra được. Một bông hoa phải nhờ các yếu tố không phải là hoa để hiện ra. Khi nhìn sâu vào bông hoa, bạn có thể thấy được những yếu tố không-hoa. Nhìn vào hoa, bạn thấy ánh sáng mặt trời, đó là một yếu tố không-hoa. Không có ánh sáng, hoa không thể biểu hiện. Nhìn hoa bạn cũng thấy đám mây, đó là một yếu tố không-hoa. Không có mây (và mưa) hoa không biểu hiện được. Các yếu tố căn bản khác như muối khoáng, đất, người nông phu v.v… rất nhiều các yếu tố không-hoa đã giúp cho bông hoa biểu hiện.

Đó là lý do vì sao tôi ưa dùng từ biểu hiện thay vì sáng tạo. Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể dùng từ ngữ sáng tạo, nhưng ta nên hiểu rằng sáng tạo không có nghĩa là từ không có nguyên nhân nào mà làm thành một sự vật được. Tạo vật không phải là thứ gì bị hủy hoại hoàn toàn và có thể không còn lại gì hết. Tôi thích từ ngữ “Wonderful becoming” (sự hình thành mầu nhiệm) – nó gần với chân nghĩa của từ sáng tạo hơn.