Giọt nước trong dòng sông tăng thân

(Sư cô Chân Trăng Tâm Đức)

Niềm vui trong khóa tu xuất sĩ

Đây là dịp mà con được gặp rất nhiều quý thầy, quý sư cô từ các trung tâm ở châu Âu về Làng tề tựu. Chúng con được học, tu, chơi và làm việc trong nhiều nhóm khác nhau. Nào là đội luân phiên, đội trò chơi, đội đá banh, bạn “đồng liêu” và gia đình pháp đàm. Chưa bắt đầu khóa tu mà chúng con đã bắt đầu cảm nhận niềm hạnh phúc của sự sum vầy.

Nhóm luân phiên của con nấu ăn gần ngày cuối, nhưng từ lúc bắt đầu khóa tu là đã lên thực đơn rồi. Nhiều phương án được đưa ra phòng trường hợp các đội trước đã nấu món đội mình dự định. Cuối cùng, chúng con cũng thực hiện được phương án làm pizza cho buổi trưa. Sáng hôm đó, đội con hẹn nhau ở nhà ăn, đốt nến, uống trà rồi mới bắt đầu công việc. Đây là lần đầu tiên con trải nghiệm làm pizza từ lúc nhồi bột, làm đế, làm nhân, dùng lò nướng củi, lấy bánh cho đến khâu rửa cối. Lúc rửa, con thấy thương cái cối này ghê. Nó đủ nhân duyên để được đưa về đây và có mặt trong mỗi miếng bánh mì “made in Xóm Thượng”.

Nhờ khóa tu này mà lần đầu con được ngắm mặt trời mọc từ Cốc Ngồi Yên của Sư Ông. Con được sư chị cùng cây rủ đi uống trà và ngắm sao vào sáng sớm trước thời công phu. Nhìn bầu trời lấp lánh ánh sao, với ly trà thơm nóng trên tay và sư chị ở bên, con mỉm cười trong niềm hạnh phúc, gửi lòng biết ơn sâu sắc đến Sư Ông đã mang chị em con từ nhiều quốc gia đến với nhau. Một sáng nọ, con đi bộ với sư chị xuống thung lũng dưới đồi và ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của “biển mây”. Sương mù dày đặc phủ kín thung lũng. Càng đi xuống thì cảnh trong sương dần hiện ra. Những mạng nhện mỏng manh thế kia nhưng sau một đêm được sương phủ đầy, trở thành những tràng ngọc đẹp lung linh dưới nắng mai. Con nghĩ chắc sẽ không có một kiến trúc sư tài ba nào có thể tạo ra công trình đẹp như thế.

Thời gian trôi qua nhanh quá! Ngồi trên xe về lại xóm Mới, chị em con chia sẻ niềm hạnh phúc sau một tuần có mặt trọn vẹn cho nhau. Suốt cả năm, Làng mở cửa để đón thiền sinh tới tu học, nên khóa tu xuất sĩ là dịp hiếm hoi cho anh chị em chúng con sum họp. Con được nuôi dưỡng nhiều từ những buổi công phu sáng tối với năng lượng trầm hùng. Những bài pháp thoại sách tấn sự tu học, cách nuôi dưỡng và xây dựng tình huynh đệ. Chúng con có cơ hội làm quen với những người mình chưa được quen, cùng chia sẻ cho nhau những niềm vui, những thao thức. Những buổi pháp đàm với sự mở lòng, những cảm xúc từ trái tim đã được vòng tròn ôm ấp. Những tiếng cười giòn tan xua đi cái lạnh của mùa đông trong những lần tham gia trò chơi. Những bữa ăn hết sức ngon lành dưới bàn tay của bao nhiêu là đầu bếp xuất gia tài ba. Con còn được trải nghiệm chuyến đi bộ thăm nhà thờ Monbos trong ngày làm biếng. Tăng thân mình đẹp quá và con ý thức rõ niềm hạnh phúc khi được là một giọt nước trong dòng sông tăng thân.

“Nói chuyện ăn thì nói bao giờ cho hết”

Sau khóa tu xuất sĩ, Làng mở cửa trở lại để chào đón thiền sinh về tham dự các khóa tu trong năm. Có hôm, sau buổi trưa, có một chú gặp con với điệu bộ rất sốt sắng và nói muốn gặp đội nấu ăn hôm nay. Chú đến xóm Mới cùng cô con gái mười bảy tuổi. Hạt giống lo trong con đi lên, không biết hai cha con chú có vấn đề chi với đồ ăn, vì bên này nhiều thiền sinh dị ứng thực phẩm. Con hỏi lý do thì mới hay chú muốn cám ơn quý sư cô vì đồ ăn ngon quá. Đội nấu ăn lúc đó đang bận nên con nói chú viết lên bảng để quý sư cô biết. Chú nói nếu vậy, chú muốn cám ơn không chỉ đội nấu ăn trong ngày hôm nay mà là tất cả các ngày khác nữa vì ngày nào cũng ngon hết.

 

 

Nhiều thiền sinh khác cũng gặp trực tiếp hoặc viết thiệp để cảm ơn các sư cô vì đã hiến tặng không những sự thực tập, niềm vui, nụ cười, sự thảnh thơi mà còn nấu cho họ những món ăn rất ngon và lành. Họ nói đã từng thưởng thức đồ ăn nhiều nơi nhưng không hiểu sao đồ ăn ở Làng luôn ngon hơn. Con nghĩ chính niềm vui, tình thương, sự hòa điệu khi quý sư cô làm việc được gửi vào từ khâu chuẩn bị đến khi thành món nên thiền sinh không những được thưởng thức hương vị món ăn mà còn nhận được năng lượng thương yêu của quý sư cô trong đó.

Khóa tu nấu ăn năm nay rất hạnh phúc khi xóm Mới đón nhiều thiền sinh về. Thiên nhiên cũng ưu đãi khi mỗi khuya đều có mưa nên hôm sau trời rất mát. Có cô thiền sinh khá lớn tuổi biết thông tin khóa tu muộn nên link đăng kí đã đóng. Cô thiết tha đòi gặp ban văn phòng để năn nỉ được ghi danh. Cô nói không cần ngủ trong phòng, cũng không cần cắm lều trong xóm, chỉ cần có một chỗ gần vườn rau để cắm lều là đủ, miễn sao cô được dự khóa tu. Con nghe mà thấy thương ghê. Cuối cùng, có thiền sinh hủy đăng kí vì bận việc đột xuất nên cô đã được ghi danh.

Trước khi bắt đầu khóa tu, quý sư cô đã dày công chuẩn bị, nấu thử các món ăn để sẵn sàng mời đại chúng vào bếp với khẩu hiệu “Happy cooking, happy moment”(Giây phút nấu ăn, giây phút hạnh phúc). Những tương tác giữa đầu bếp và khán giả nhờ tài khéo léo dẫn dắt của MC đã làm cho đại chúng có những tràng cười không ngậm được miệng. Dù món ăn không quá sức cầu kỳ nhưng niềm vui, sự hóm hỉnh, tự nhiên của các sư cô trên sân khấu đã để lại nhiều kỉ niệm khó quên trong lòng thiền sinh. Đại chúng rất hạnh phúc khi không những được hướng dẫn cách nấu, mà ngày hôm sau còn được thưởng thức liền các món ăn đó ngay trên bàn khất thực.

Trong suốt một tuần, bên cạnh những buổi thuyết trình món ăn, đại chúng có dịp được tiếp nhận thức ăn từ những bài pháp thoại, những buổi pháp đàm, thuyết trình Năm giới, Làm mới. Với năng lượng tập thể, con nghĩ mỗi thành phần của tăng thân đều có được những hoa trái của sự thực tập.

Mùa hè sống động

Khóa tu đông vui nhất trong năm chính là khóa tu mùa hè khi mà các gia đình dẫn con cái về Làng tu học. Nhìn lều to, lều nhỏ dựng khắp trong xóm, khiến con nhớ đến những đợt cắm trại trong thời đi học của mình. Có cô thiền sinh chia sẻ, từ lúc biết Làng, cô không còn phải nhọc công suy nghĩ sẽ đi đâu trong kì nghỉ hè vì Làng đã là điểm đến của gia đình trong nhiều năm qua.

Tuần đầu, con ở trong gia đình những người có con tuổi teen. Mới buổi pháp đàm đầu tiên, nhiều vị đã mở lòng và bật khóc khi có quá nhiều vấn đề với con cái trong độ tuổi mới lớn. Họ khổ vì các em sử dụng điện thoại suốt ngày và dường như sống trong thế giới ảo nhiều hơn. Truyền thông giữa ba mẹ và con cái vì vậy mà không có nhiều. Cả gia đình cũng không còn có những bữa ăn cùng nhau. Nghe những chia sẻ, con vừa thấy thương mà vừa thấy mình may mắn quá khi chọn con đường tu này. Đúng là không hề dễ khi cho ra đời một sinh mạng mới. Bao vất vả để nuôi nấng từ hồi bé thơ, đến khi cắp sách đến trường, rồi sang độ tuổi vị thành niên với những thay đổi tâm sinh lý, khiến bao bậc phụ huynh lao đao khốn khổ theo.

 

 

Buổi pháp đàm tiếp theo, một cô chia sẻ rằng mấy năm nay, cô không nói chuyện dễ dàng với cô con gái tuổi mới lớn. Thế mà sáng nay, cô bé gặp rồi ôm mẹ, và nói cám ơn mẹ đã đem em tới Làng. Nhìn giọt nước mắt xúc động lăn trên má cô mà con thấy thương và mừng cho cô.

Tới Làng, các em tuổi teen được quý sư cô giữ điện thoại trong suốt một tuần. Các em đã quá quen với chuyện dùng điện thoại nên ban đầu có cảm giác thiếu thốn. Sau vài hôm, tham gia thời khóa từ sáng đến tối, nhiều em không thấy có nhu cầu dùng nữa. Các em có thời gian để thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, được học cách trở về với chính mình nhiều hơn để nhận diện những cảm xúc mà mình đang có. Một vị phụ huynh chia sẻ rằng Làng là nơi hiếm hoi mà những người trẻ, trong suốt một tuần không dùng điện thoại. Họ biết ơn Làng đã tạo ra một môi trường quá thiện lành cho gia đình họ tới tu học cùng nhau.

Điều nuôi dưỡng con trong suốt ba tuần đó là sự có mặt của các thiên thần nhí. Tối đó ở nhà ăn, thấy một nhóm các em đang ngồi chơi và uống nước nên con mới lại hỏi chuyện.

  • Các em đang uống gì thế?
  • Tụi em uống trà Earl Grey (đứa lớn trong nhóm trả lời)
  • Buổi tối uống trà các em có ngủ được không?
  • Em chỉ để có một chút trà thôi.

Chưa kịp hỏi thêm thì đứa nhóc nhỏ nhất nhóm, chắc sáu tuổi, mới lém lỉnh:

  • Em uống trà nhiều lắm và không cần ngủ, em thức suốt đêm luôn.
  • Thiệt hả, em không cần ngủ hả, thế làm sao em lớn được?
  • Em không ngủ mà em cũng lớn được như này này.

Rồi chàng ta lém lỉnh lấy tay để đo từ đầu đến chân. Thế là anh chàng tí hon bị mấy người anh xúm lại, kêu xạo quá, ngủ say sưa để mẹ phải thức dậy mà bày đặt nói không cần ngủ.

Mấy đứa nhóc sao mà hồn nhiên, tinh nghịch và dễ thương quá. Con có cảm giác năm đứa cháu trai của con bên Huế đang có mặt trong những đứa nhỏ này. Làng đã mang các em đến với nhau, chơi với nhau như anh em trong nhà suốt một tuần. Con hi vọng những kỉ niệm tuổi thơ trong trẻo ở Làng sẽ giúp các em có một hành trang đẹp, để rồi khi lớn lên, mỗi khi nhớ về, các em sẽ mỉm cười và thấy ấm áp trong lòng.

Các sư cô có bị “quá tải” không?

Đây là câu mà nhiều thiền sinh hay hỏi khi thấy Làng mở cửa gần như quanh năm, quý sư cô lo hết khóa tu này đến khóa tu khác, gặp gỡ bao nhiêu con người với đủ các cung bậc cảm xúc. Con hay cười và trả lời với những trải nghiệm của mình rằng các khóa tu đem lại cho con nhiều niềm vui, con học hỏi thêm được nhiều điều mới và có nhiều động lực hơn để tu tập. Con xem các khóa tu như là cơ hội để con vừa được phụng sự mà vừa được tu học. Chính nhờ các bạn thiền sinh tới đây mà con biết hơn về những gì đang xảy ra ngoài kia với quá nhiều những bạo động, sợ hãi, hận thù, tham vọng. Con hiểu được hơn những khổ đau mà họ đang gặp phải trong cuộc sống thường ngày. Để rồi khi nhìn lại, con thấy được sống trong lòng tăng thân là một may mắn lớn.

Với thiền sinh đến dự khóa tu, chỉ cần con có mặt đó trong những buổi pháp đàm, những bữa ăn cùng gia đình, hết lòng lắng nghe và chia sẻ những kinh nghiệm từ sự thực tập hàng ngày của mình là con đã giúp được cho họ rồi. Khổ đau đang tràn ngập trên địa cầu này, có thể con không đưa trực tiếp cánh tay mình ra để làm vơi nhẹ được. Nhưng nếu ở trong tu viện, con học cách sống hòa hợp, có hạnh phúc với các chị em, chế tác niềm vui và bình an trong tự thân thì con đã có thể gửi năng lượng lành đó đến những người đang khổ. Tâm bình, thế giới bình — con lấy câu đó như lời nhắc nhở mỗi ngày để dù có làm chi đi nữa, sau một ngày nhìn lại, con thấy con có đủ sự bình an và niềm vui trong tự thân hay không. Và chỉ khi nào thật sự có được, con mới có thể hiến tặng cho người khác, mà gần gũi nhất là gia đình huyết thống và các chị em xung quanh con.

 

 

Đã bao lần, nhìn hàng trăm, hàng ngàn người tới Làng tu học, con thấy sự vĩ đại trong công trình dựng tăng và phụng sự cuộc đời của Sư Ông. Con nhớ trong một bài pháp thoại, Sư Ông nói rằng nếu mình có một ước mơ, tăng thân sẽ giúp mình biến ước mơ đó thành hiện thực. Với cá nhân nhỏ bé của con, dù có ao ước lớn giúp đời thế nào đi nữa, con cũng không làm được gì nhiều. Nay được sống cùng tăng thân, được tu học, được phụng sự, với con đó là phước đức rất lớn. Mỗi sáng thức dậy, ý thức mình đang là người tu, đang được ôm trong vòng tay tăng thân là niềm biết ơn liền đi lên trong con. Con biết ơn Sư Ông và Tăng thân đã cho con được làm một giọt nước trong dòng sông đa màu sắc, đa văn hóa này để mỗi ngày con đều có cơ hội được thở, được cười, được chế tác niềm vui, bình an cho con và hiến tặng cho những người xung quanh.

Con của Sư Ông và Tăng thân,
Chân Trăng Tâm Đức

 

Những người đóng góp cho bộ sách này

Dưới đây là tên của những vị mà chúng tôi có trích dẫn lời chia sẻ trong bộ sách này. Danh sách cũng bao gồm trách vụ giảng dạy, nơi làm việc, sự liên hệ với Làng Mai và đất nước mà các vị đang sinh sống. Thành viên Tiếp Hiện là những người đã tham gia vào dòng tu Tiếp Hiện do Thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng lập, gồm các vị xuất sĩ và cư sĩ cam kết suốt đời sống chánh niệm theo nền tảng đạo đức chung là Mười Bốn Giới Tiếp Hiện.

Pilar Aguilera, giáo viên và nhà nghiên cứu, Đại học Barcelona, Instituto de Ciencias de la Educación, thành viên Tiếp Hiện, Tây Ban Nha.

Sally-Anne Airey, nguyên sĩ quan trong Hải quân Hoàng gia, cố vấn chuyên nghiệp, Pháp.

Betsy Blake Arizu, nguyên giáo viên hóa học và nhà tư vấn học đường, hiện là nhà tư vấn giáo dục và hướng dẫn chánh niệm, Viện nghiên cứu Chánh niệm, Tampa, Florida, thành viên Tiếp Hiện, Hoa Kỳ.

Norma Ines Barreiro, nhân viên xã hội, chuyên viên y tế, nhà hoạt động vì quyền lợi của trẻ em và thanh thiếu niên, Información y Disenos Educativos para Acciones Saludables AC, thành viên Tiếp Hiện, Mexico.

Mike Bell, nguyên giáo viên khoa học và các môn học tổng quát tại trường trung học bang gần Cambridge, hiện là nhà tư vấn giáo dục và hướng dẫn chánh niệm, thành viên của Mạng lưới các giáo viên theo phương pháp thực chứng (Evidence Based Teachers Network), thành viên Tiếp Hiện, Vương quốc Anh.

Ruth Bentley, nhạc sĩ và giảng dạy về chánh niệm, Pháp.

Julie Berentsen, giáo viên tiểu học, Vương quốc Anh.

Carmelo Blazquez Jimenez, nhà giáo, De Aldeas Infantiles SOS Cataluna, Tây Ban Nha.

Jenna Joya Blondel, giảng viên đại học, Hoa Kỳ.

Gordon “Boz” Bosworth, nhà giáo, cựu nhân viên kiểm lâm, Đại học bang Utah và Rừng quốc gia Uinta-Wasatch- Cache, thành viên Tiếp Hiện, hiện sống tại tu viện Lộc Uyển, Hoa Kỳ.

Lauri Bower, giáo viên dạy chánh niệm, trường tiểu học St. Mary’s Church of England tại Barnsley, thành viên Tiếp Hiện, Vương quốc Anh.

Richard Brady, giáo viên toán đã về hưu, trường trung học Sidwell Friends School, cố vấn giáo dục và là người sáng lập tổ chức Minding Your Life, thành viên Tiếp Hiện, giáo thọ cư sĩ của Làng Mai, Hoa Kỳ.

Michael Bready, nhà đào tạo và cố vấn, giám đốc phụ trách đào tạo của tổ chức Youth Mindfulness, Vương quốc Anh.

Paul Bready, sinh viên bộ môn giáo dục và giáo viên tập sự, Vương quốc Anh, từng làm việc trong chương trình Wake Up Schools tại Làng Mai Pháp.

Alan Brown, trưởng khoa và đồng thời cũng là giáo viên tại một trường trung học tư thục, thành phố New York, Hoa Kỳ.

Valerie Brown, nhà tổ chức các khóa tu quốc tế, nhà tư vấn giáo dục, huấn luyện kỹ năng lãnh đạo, người sáng lập tổ chức Lead Smart Coaching, đồng tác giả của cuốn sách The Mindful School Leader, thành viên Tiếp Hiện, Hoa Kỳ.

Grace Bruneel, tình nguyện viên, Trường Rosaryhill, Hồng Kông.

Barbara Calgaro, giáo viên và nhà tư vấn cho trại hè, Centro Estivo di Sandrigo, Vicenza, Ý.

Carme Calvo Berbel, chuyên gia về lĩnh vực đào tạo và phát triển, thành viên Tiếp Hiện, Tây Ban Nha.

Denys Candy, giám đốc Trung tâm hòa nhập cộng đồng Jandon, Đại học Smith, Massachusetts. Nhà tư vấn, thành viên Tiếp Hiện, Hoa Kỳ, châu Âu và Singapore.

Gloria Castella, giáo viên tiếng Anh, Escuela Can Manent tại Cardedeu, Tây Ban Nha.

Michele Chaban, giáo sư kiêm nhiệm, người sáng lập và cựu giám đốc chương trình Thiền Chánh niệm ứng dụng, Đại học Toronto, Trường công tác xã hội Factor-Inwentash, Trường y tế cộng đồng Dala Lana, Trung tâm Bio- Ethics, Canada.

Sư cô Chân Đức, cựu giáo viên dạy tiếng Latin, tiếng Hy Lạp và tiếng Sanskrit tại trường trung học và đại học của nước Anh và Hy Lạp. Hiện sư cô là một vị giáo thọ phụ trách về sự thực tập (Dean of practice) tại Viện Phật học Ứng dụng châu Âu, Đức.

Thầy Chân Pháp Khâm, giáo thọ, Viện Phật học Ứng dụng châu Á, Hồng Kông.

Maggie Chau, nhà nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu Phật giáo, Đại học Hồng Kông.

Fiona Cheong, tiểu thuyết gia và phó giáo sư về viết sáng tạo, Đại học Pittsburght, Hoa Kỳ, châu Âu và Singapore.

Marianne Claveau, nguyên giáo viên trung học và hiện là giáo viên đại học, chuyên viên xã hội và hướng dẫn chánh niệm trong các chương trình cộng đồng và tại Đại học Clermont-Ferrand, Pháp.

Bobbie Cleave, nhà giáo dục, nguyên viên chức kiểm lâm Hoa Kỳ, làm việc tại Đại học bang Utah và Rừng quốc gia Uinta-Wasatch-Cache, thành viên Tiếp Hiện, hiện sống tại tu viện Lộc Uyển, Hoa Kỳ.

Anita Constantini, chuyên hướng dẫn các khóa tu chánh niệm: Campo di Felicità và Tuscan Wise Mindfulness Hiking Retreats, thành viên Tiếp Hiện, Ý.

Rosa Marina De Vecchi, nhà giáo dục và nhân viên xã hội, làm việc tại Cooperativa sociale l’Albero và các cơ quan địa phương tại Verona, thành viên Tiếp Hiện, Ý.

Murielle Dionnet, giáo viên mẫu giáo, tiểu học và giáo viên chuyên dạy cho các trẻ khuyết tật tại các trường tiểu học công lập, giáo thọ cư sĩ và thành viên Tiếp Hiện, Pháp.

Pascale Dumont, giáo viên tiểu học tại Nanterre, Pháp.

Miles Dunmore, giáo viên dạy văn học Anh tại trường American School, Luân Đôn, Vương quốc Anh. Thành viên của tăng thân The Heart of London và người hướng dẫn khóa tu.

Elia Ferrer Garcia, giáo viên tiểu học, làm việc tại Trung tâm Giáo dục Centre D’educacio Infantil I Primaria Antaviana, Tây Ban Nha.

Didde Flor Rotne, giáo viên dạy thiền tập và hướng dẫn thực tập chánh niệm, làm việc tại tổ chức tư vấn giáo dục Stillness revolution, Đan Mạch. Đồng tác giả của cuốn sách Everybody Present.

Nikolaj Flor Rotne, giáo viên thiền tập, diễn giả, làm việc tại tổ chức tư vấn giáo dục Stillness revolution, Đan Mạch. Đồng tác giả của cuốn sách Everybody Present.

Marcela Giordano, nhạc sĩ và tình nguyện viên trong Chương trình trẻ em tại Làng Mai, Uruguay.

Julian Goetz, nhà giáo dục và quản lý, Winterline Global Education, Hoa Kỳ.

Sư cô Hài Nghiêm, giáo thọ, Thiền đường Hơi thở nhẹ, Pháp.

Bea Harley, giáo viên hội họa đã về hưu, nguyên phó hiệu trưởng của trường Dharma Primary School, Vương quốc Anh, Cara Harzheim, nguyên giáo viên ngôn ngữ và triết học, Ludwig-Meyn- Gymnasium tại Uetersen, thành viên Tiếp Hiện, Đức và Pháp.

Derek Heffernan, giáo viên, trường trung học Sir Guy Carleton, Nepean, Ontario, Canada.

Goyo Hidalgo Ruiz, giáo viên trung học, Instituto de Ensenanza Secundaria San Isidoro tại Seville, thành viên Tiếp Hiện, Tây Ban Nha.

Angelika “Anka” Hoberg, giáo viên tiểu học đã về hưu, Worpswede, Đức.

Tăng thân gồm các giáo chức tại Institut J.M.Zafra: Dunia Aparicio, Karina Grau, Carme Morist, Toni Pujades, Montserrat “Montse” Ramírez Sáez và Rosa Rodrigo, các giáo viên trung học tại Barcelona, Tây Ban Nha.

Olga Julián Segura, chuyên gia về lĩnh vực đào tạo và phát triển, Tây Ban Nha.

Neha Kaul, Giáo sư phụ tá, viện Y Dược, Đại học Y khoa New York, Hoa Kỳ.

Sara J. Kein (hay Sara Unsworth), chuyên gia tâm lý và chủ nhiệm khoa Khoa học hành vi và xã hội, Đại học Diné, Hoa Kỳ.

Elizabeth Kriynovich, giáo viên, trường Delaware Valley Friends tại Paoli, bang Pennsylvania, Hoa Kỳ.

Chau Li Huay, phụ trách lĩnh vực đào tạo tại các trường công lập, Singapore.

Kaira Jewel Lingo, nhà giáo dục về chánh niệm và hướng dẫn các khóa tu, giáo thọ cư sĩ và thành viên Tiếp Hiện, Hoa Kỳ và châu Âu; là người biên soạn cuốn sách Planting Seeds.

Lyndsay Lunan, giảng viên văn chương và tâm lý, Đại học City of Glasgow và tổ chức Youth Mindfulness, Vương quốc Anh.

Annie Mahon, nhà văn, blogger, giáo viên chánh niệm, nhà vật lý trị liệu, đồng sáng lập Cộng đồng chánh niệm Opening Heart, và DC Yoga Week, thành viên Tiếp Hiện, Hoa Kỳ.

Victoria Mausisa, giám đốc kinh doanh đã về hưu, chuyên hướng dẫn các khóa tu, diễn giả, Hoa Kỳ.

Alison Mayo, từng là lãnh đạo trường Dharma Primary School trong những năm đầu, Vương quốc Anh.

Yvonne Mazurek, giáo viên lịch sử nghệ thuật, School Year Abroad và USAC tại Viterbo, Ý; điều phối viên (phụ trách về tình nguyện viên) cho Chương trình Wake Up Schools tại Làng Mai, Pháp.

Sara Messire, giáo viên tiểu học, Pháp.

Constance Chua Mey-Ing, giáo viên, trưởng bộ môn Giáo dục công dân và phát triển nhân cách, trường Maha Bodhi, Singapore.

Coreen Morsink, giáo viên, nhà tư vấn, trường St. Catherine’s British, Athens, Hy Lạp.

Kenley Neufeld, trưởng khoa, Đại học Santa Barbara City, giáo thọ cư sĩ và thành viên Tiếp Hiện, California, Hoa Kỳ.

Nguyễn Như Mai, ca sĩ kiêm sáng tác, đại diện nhóm Wake Up Bắc Mỹ, Hoa Kỳ.

Gail Williams O’Brien, cựu giáo sư, nguyên phó khoa, Đại học North Carolina State, giáo viên yoga, Hoa Kỳ.

Jade Ong, giáo viên trung học tại một ngôi trường được sự bảo trợ của Cao Uỷ Liên Hợp quốc về người tỵ nạn, Mã Lai.

Mack Paul, giáo viên chuyên về lĩnh vực giáo dục đặc biệt, trường trung học Irving, Norman, Oklahoma, Hoa Kỳ.

Christine Petaccia, nhà trị liệu chức năng trong trường học và chuyên gia về liệu pháp KonaJoy, Hoa Kỳ.

Thầy Pháp Dung, giáo thọ, Làng Mai, Pháp.

Thầy Pháp Lai, giáo thọ, Làng Mai, Pháp. Thầy Pháp Lưu, giáo thọ, Làng Mai, Pháp.

Jess Plews, nguyên giáo viên tiểu học, người hướng dẫn chính của dự án Outdoors Project, Vương quốc Anh.

Mary Lee Prescott-Griffin, giáo sư về giáo dục, Đại học Wheaton, Hoa Kỳ.

Morrakot “Chompoo” Raweewan, giáo sư phụ tá về kỹ thuật, Viện công nghệ quốc tế Sirindhorn, Đại học Thammasat, thành viên Tiếp Hiện, Thái Lan.

Joe Reilly, ca sĩ kiêm sáng tác, nhà giáo dục về môi trường, thành viên Tiếp Hiện, Hoa Kỳ.

Susannah Robson, giáo viên tiểu học, Vương quốc Anh.

Adriana Rocco, người hướng dẫn thực tập chánh niệm, giáo thọ cư sĩ, thành viên Tiếp Hiện, Ý.

Betsy Rose, ca sĩ kiêm sáng tác, nhà giáo dục về chánh niệm, đào tạo giáo viên tại các trường học, hội thảo, khóa tu, Hoa Kỳ.

Giorgia Rossato, nhà giáo dục, nhà trị liệu shiatsu, tổ chức các chương trình ngoại khóa, Pháp và Ý.

Michael Schwammberger, giáo thọ cư sĩ, hướng dẫn thực tập chánh niệm, tổ chức khóa tu, thành viên Tiếp Hiện, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh.

Jasna K. Schwind, phó giáo sư điều dưỡng, Đại học Ryerson, Canada.

Sara Martine Serrano, trợ lý về lĩnh vực giáo dục đặc biệt, trường Waldorf và Camphill Community, giáo thọ cư sĩ, thành viên Tiếp Hiện, Thuỵ sĩ.

Shantum Seth, cố vấn cao cấp của Ngân hàng Thế giới, Ahimsa Trust, giáo thọ cư sĩ, thành viên Tiếp Hiện, Ấn Độ.

Ranjani Shankar, giáo viên tiếng Anh tại trường trung học Công giáo, Ấn Độ.

Gloria Shepard, giáo viên chánh niệm, Hoa Kỳ.

Tony Silvestre, giáo sư về các bệnh truyền nhiễm và vi sinh học, giám đốc Trung tâm nghiên cứu chánh niệm và ý thức, Đại học Pittsburgh, giáo thọ cư sĩ, thành viên Tiếp Hiện, Hoa Kỳ.

Niki Smith, trợ giảng, trường Dharma School, Vương quốc Anh.

Matt Spence, giáo viên trung học và huấn luyện viên, trường Providence Day tại Charlotte, North Carolina, Hoa Kỳ.

Tineke Spruytenburg, giáo viên về lĩnh vực giáo dục đặc biệt, hiện là nhà quản trị, đồng sáng lập tổ chức Happy Teachers, thành viên Tiếp Hiện, Hà Lan.

Meena Srinivasan, trước đây là giáo viên, hiện nay là quản lý chương trình Office of Social and Emotional Learning, Oakland Unifed School

District, thành viên Tiếp Hiện, Hoa Kỳ. Tác giả cuốn Teach, Breathe, Learn.

Sư cô Tại Nghiêm, xuất sĩ, Làng Mai, Pháp.

Mariann Taigman, chuyên gia về liệu pháp chức năng, Hoa Kỳ.

Nisanart “Gift ” Tavedikul, trợ lý giám đốc, American School of Bangkok, Thái Lan.

Christiane Terrier, giáo viên bộ môn lý-hoá đã về hưu, Lycée Edmond Michelet, Arpajon, thành viên Tiếp Hiện, người hướng dẫn thực tập chánh niệm, Pháp.

Judith Toy, người có kinh nghiệm hướng dẫn thiền tập, thành viên Tiếp Hiện, nguyên phó tổng biên tập tạp chí Mindfulness Bell, Hoa Kỳ.

Sư chú Trời Minh Tâm, xuất sĩ, tu viện Lộc Uyển, Hoa Kỳ.

Chelsea True, giám đốc điều hành và hướng dẫn thực tập chánh niệm, dự án Joyful Mind, Hoa Kỳ.

Katrina Tsang, giảng viên đại học, Hồng Kông.

Mark Vette, giảng viên, chuyên gia về hành vi động vật, nhà động vật học, người sáng lập Dog Zen, thành viên Tiếp Hiện, New Zealand.

David Viafora, giáo viên chánh niệm và nhà hoạt động xã hội, Hoa Kỳ.

Dzung X. Vo, bác sĩ Nhi khoa và chuyên gia sức khỏe vị thành niên, bệnh viện nhi British Columbia Children’s Hospital và Đại học British Columbia, thành viên Tiếp Hiện, Canada. Tác giả của sách cuốn sách Yêu sự căng thẳng, thương nỗi muộn phiền .

Peggy Rowe Ward, giảng dạy về chánh niệm và hướng dẫn các khóa tu, giáo thọ cư sĩ và thành viên Tiếp Hiện, Lotus Institute, Hoa Kỳ và Thái Lan.

Elli Weisbaum, hướng dẫn thực tập chánh niệm, nghiên cứu sinh, Viện nghiên cứu Y học, Đại học Toronto, thành viên Tiếp Hiện, Canada.

Chris Willard, nhà tâm lý học, giảng viên trường Harvard Medical School, Hoa Kỳ. Đồng tác giả cuốn Teaching Mindfulness to Kids and Teens.

Jennifer Wood, giáo viên trung học và chuyên gia tư vấn, Hoa Kỳ.

Caroline Woods, giáo viên, trường Dharma Primary School, Vương quốc Anh.

Sarah Woolman, giáo viên trung học và tiểu học, trường Waldorf School, Vương quốc Anh.

Ross Young, giáo viên tiểu học, Vương quốc Anh.

Lời cảm ơn

Chúng tôi vô cùng biết ơn sự giúp đỡ và yểm trợ quý báu của rất nhiều người để làm nên cuốn sách này. Chúng tôi không hy vọng là có thể cảm ơn được tất cả những ai đã góp sức để quyển sách này được thành tựu. Rất nhiều người đã đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau cùng một lúc, như việc đóng góp ý kiến, phụ trách liên lạc và đọc bản thảo của quyển sách. Xin thứ lỗi cho chúng tôi nếu chúng tôi có bỏ sót tên của một ai đó. Chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc là không thể trực tiếp cảm ơn tất cả những người đã yểm trợ chương trình Wake Up Schools khắp nơi trên thế giới. Chương trình này chính là nền tảng của quyển sách mà chúng ta đang có trong tay.

Xin cảm ơn thầy Pháp Lưu đã cùng Giáo sư Katherine Weare chấp bút cho cuốn sách này và đóng vai trò điều phối một nhóm biên soạn, gồm cả xuất sĩ và cư sĩ, phụ trách việc biên tập những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng như nội dung các pháp môn căn bản của Làng Mai. Thầy cũng là người xem xét, cân nhắc về nội dung tổng quát của quyển sách và đem những bài tập trong sách vào thử nghiệm. Cảm ơn cô Yvonne Mazurek đã đóng vai trò làm đầu mối văn phòng, giúp soạn các bản câu hỏi khảo sát về tính ứng dụng của các bài tập bằng tiếng Ý, Pháp và Tây Ban Nha. Cô cũng giúp phỏng vấn các thầy cô giáo, phiên tả và phân loại các hồi đáp và các bài pháp thoại cũng như điều hợp các tình nguyện viên.

Cảm ơn Elli Weisbaum đã cho ý kiến từ buổi ban đầu giúp hình thành nên quyển sách, soạn thảo các câu hỏi khảo sát bằng tiếng Anh, liên hệ trao đổi với các thầy cô giáo từ Canada và Hoa Kỳ, đồng thời phiên tả và phân loại các hồi đáp và các bài pháp thoại. Cảm ơn sư cô Hiến Nghiêm đã viết lời mở đầu cho quyển sách. Thầy Pháp Linh đã góp ý kiến từ buổi ban đầu và biên tập hai chương trong quyển sách. Cái nhìn tổng quát của thầy giúp quyển sách được trôi chảy, liền mạch và phản ánh đúng theo đường hướng thực tập của Làng Mai. Thầy Pháp Lai đã đóng góp một bài thực tập “Cội cây trong cơn bão” và đã cho lời khuyên về Phụ lục D. Thầy Pháp Dung là người đã tham gia từ buổi ban đầu để định hình nên quyển sách. Thầy cũng đã hướng dẫn và xác định rõ ràng đường hướng của chương trình Wake Up Schools, bao gồm vấn đề đạo đức trong chánh niệm. Neha Kaul đã giúp đọc và phân loại các bài viết trong tạp chí The Mindfulness Bell (Tiếng chuông chánh niệm). Richard Brady đã không ngừng yểm trợ và đọc các bản thảo một cách kỹ lưỡng, chi tiết. Marianne Claveau đã đóng góp nhiều ý kiến, liên lạc với các thầy cô giáo ở Pháp, Bỉ và Thụy Sĩ và giúp thông dịch.

Cảm ơn Miles Dunmore đã cho lời khuyên, đưa các bài thực tập trong sách vào thử nghiệm ở Binley Farm cũng như giúp đọc các bản thảo. Kaira Jewel Lingo đã cho nhiều ý kiến giúp hình thành quyển sách và giúp đọc các bản thảo. Cảm ơn Valerie Brown, Tineke Spruytenburg, Mark Vette, Orlaith O’Sullivan, Willem Kuyken, và Brooke Dobson Lavelle đã giúp đọc các bản thảo. Cảm ơn Margaret Alexander, Molly Keogh, and Natascha Bruckner đã giúp tìm các bài viết thích hợp trên các số của The Mindfulness Bell và của các tờ báo khác. Karim Manji đã giúp phiên tả, phân loại các bài pháp thoại và làm việc với Joe Holtaway để chuẩn bị các tài liệu tham khảo dưới dạng audio và các trang mạng. Earleen Roumagoux đã giúp phỏng vấn, phiên tả, thông dịch và phân loại các bài pháp thoại.

Cảm ơn Eva Maria Marin Ortiz đã giúp phân loại các bài pháp thoại; Paul Bready, Jadzia Tedeschi, Peter van de Ven và Doran Amos trong việc phiên tả; Pascale Bernège, Eduardo Drot de Gourville, và Marta Fíguls trong công việc thông dịch; Pilar Aguilera, Adriana Rocco, Gitanjali Seth, Shantum Seth, Christiane Terrier, Mario Torneri và sư cô Đào Nghiêm trong việc liên hệ với các thầy cô giáo khắp nơi trên thế giới. Cảm ơn sư cô An Nghiêm đã góp phần hình thành nên bộ sách từ buổi ban đầu và giúp thử nghiệm những bài thực tập chủ yếu nhất.

Cảm ơn sư cô Trì Nghiêm đã cho những lời khuyên từ lúc đầu và góp phần viết lời mở đầu cho quyển sách. Cảm ơn Will Stephens và các bạn thiền sinh trong khóa tu tại Binley Farm, Anh vào năm 2014; ban giảng huấn, nhân viên và học sinh của trường Dharma Primary School, Brighton, Anh; tất cả các tình nguyện viên nói tiếng Anh hướng dẫn chương trình thiếu niên (trong khóa tu mùa hè năm 2015 tại Làng Mai) đã giúp thử nghiệm các bản nháp đầu tiên của một số bài thực tập chủ lực. Cảm ơn Susan Lirakis và Quỹ Donaldson đã cung cấp kinh phí để công việc được bắt đầu khởi động.

Chúng tôi cũng xin cảm ơn rất nhiều người đã giúp hoàn tất công việc khảo sát hoặc đóng góp ý kiến qua email, mà nhờ đó chúng tôi đã có thêm nhiều ý. Rất tiếc là số trang sách có hạn nên chúng tôi không sử dụng hết tất cả những tài liệu ấy. Trong số những người đó có Myriam Évelyne Amasse, Sivakami Ashley, Phe (Khoe) Bach, Lucia Bongiovanni, Lorette Bottineau, Brigitte Brugni, Miquel Cabrera Ortega, Gloria Castella, Guillaume Chave, Nikolai Chapochnikov, Miquel Colón Bofill, Francoise Cornu, Aura Costa, Terry Cortés-Vega, Martha Cullens, Antonia De Vita, Rose Dombrow, Frédéric, Sergio Gandini, Lily Gros, Charles Gross, Estelle Guihard, Jihad Hammami, Vicente Hao

Chin Jr., Anh-Le Ho-Gia, Kiran Jamwal, Samantha Kemp, Bridget E. Kiley, Linda Kriynovich, Erica Plouffe Lazure, Stéphane Lecomte, Johannes Løssl, Barry Lucy, Manon Lusyne, L. M., Lindi MacFarlane, Susie Mackenzie, Elice Maldonado, Marie, Lindi McAlpine, Florence Migné, Zoe Miller-Sowers, Desislava Mineva, Evelyne Moinet, Mary Carmel Moran, Jacopo Mori, Nadia, David Nelson, Christine Ntibarutaye, Silvia Pinali, Ariadna Plans Raubert, Phil Dat Phan, Veronique Pochet, Brandon Rennels, Maria del Pilar Reyes, Sarah E. Robinson-Bertoni, Sol Riou, Jon Kristian Salunga, Baruch Shalev, John Snyder, Christine Szechai, Geoffrey Tan, Jadzia Tedeschi, Iris Thomas, Clara Torres López, Young Whan Choi, Sharon Weisbaum, Lynne Williamson, và Kelly Wye. Rất nhiều nhà giáo dục khác cũng có những đóng góp nhưng không muốn tiết lộ danh tánh, chúng tôi cũng xin được tri ân quý vị.

Ở phiên bản tiếng Anh, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể nhân viên của nhà xuất bản Parallax.

Ở phiên bản tiếng Việt, đã từ rất lâu, quý thầy, quý sư cô Làng Mai mong muốn đem sự thực tập chánh niệm áp dụng vào các trường học ở quê hương Việt Nam, giúp cho các thầy cô giáo và các em sinh viên học sinh nắm được phương pháp điều phục cảm xúc, biết cách buông thư, mỉm được nụ cười với những lo âu, áp lực, căng thẳng của việc dạy và học. Tìm được cho mình cách xử lý công việc và lối sống có hạnh phúc, có bình an trước những thử thách, khó khăn của cuộc đời. Đồng thời tạo được một môi trường học đường có tình gia đình để cho các em có thêm một cơ hội, đặc biệt là đối với những em gia đình bị đổ vỡ. Với tấm lòng tha thiết đó, cuốn sách Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới dịch từ nguyên bản tiếng Anh Happy Teachers change the world đã được hình thành.

Chúng tôi chân thành cảm ơn sự yểm trợ của tăng thân, sự đóng góp hết lòng của quý thầy quý sư cô và các bạn.

Cám ơn quý sư cô Chân Trăng Mai Thôn, Chân Trăng Linh Mẫn, Chị Bùi Thị Kiều Trang, em Khánh Tâm, em Kha Ly đã giúp thêm phần thông dịch.

Cám ơn quý thầy Chân Trung Hải, Chân Nguyên Tịnh, sư cô Chân Duyệt Nghiêm, em Trương Thị Từ Liêm đã hết lòng giúp đọc và sửa bản tiếng Việt.

Cám ơn tất cả anh chị em trong Công ty Cổ phần Sách Thái Hà, đã yểm trợ ước mong tốt lành này của quý thầy quý sư cô và làm việc với rất nhiều niềm vui.

Phụ lục D: Tiếp theo là gì?

Những nguồn tài liệu giúp phát triển sự thực tập cá nhân và việc giảng dạy về chánh niệm

Phần tiếp theo cho chúng ta biết nhiều nguồn tư liệu có thể sử dụng để đào sâu sự thực tập cá nhân, hỗ trợ việc giảng dạy, đồng thời tham dự và kết nối sâu hơn với tăng thân Làng Mai rộng lớn. Tất cả những nguồn thông tin này chỉ liên quan tới truyền thống Làng Mai.

Nguồn trực tuyến

The Wake Up Schools Website: www.wakeupschools.org

Trang này là nguồn thông tin chủ yếu và là trung tâm truyền thông cho phong trào Wake Up Schools – một mạng lưới gồm các nhà giáo dục, thầy cô giáo và những người thực tập nuôi dưỡng chánh niệm và đạo đức ứng dụng trong ngành giáo dục dựa trên những giáo lý và phương pháp thực tập của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai. Trang này cung cấp các đường liên kết với những nguồn tài liệu, bao gồm phim và các nghiên cứu với từng trường hợp cụ thể cũng như danh sách cập nhật những cuốn sách, phim, các bài pháp thoại và sự kiện.

Bạn có thể yểm trợ phong trào Wake Up Schools bằng cách tham gia các công việc tình nguyện hoặc gửi bài viết đến trang nhà hoặc đến tạp chí The Mindfullness Bell – Tiếng chuông chánh niệm (xem bên dưới)

Làng Mai: www.langmai.org (trang tiếng Anh: www.plumvillage.org)

Trang nhà Làng Mai cung cấp những thông tin thiết yếu về những sinh hoạt và giảng dạy của tăng thân Làng Mai, những tài liệu dưới dạng văn bản và video, bao gồm các bài pháp thoại và bài viết của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những vị giáo thọ thâm niên. Trên Trang nhà còn có những mục riêng để trình bày về lịch sử của Làng Mai, những hướng dẫn thực tập hàng ngày và thông tin về nhiều trung tâm của Làng Mai hoặc các cộng đồng tu tập theo truyền thống này trên khắp thế giới.

Trang nhà còn cung cấp thông tin về các khóa tu được tổ chức tại Làng và các chuyến hoằng pháp của tăng thân xuất sĩ ở nhiều nước trên thế giới. Đây cũng là nơi ghi danh cho những vị muốn đến tham dự khóa tu tại Làng Mai, Pháp. Bạn cũng có thể tìm thấy trên Trang nhà một danh sách các ứng dụng (apps) để cài đặt vào các thiết bị điện tử giúp nuôi dưỡng sự thực tập chánh niệm.

Wake Up – Phong trào Thanh niên vì một Xã hội Từ bi và Lành mạnh hơn: www.wkup.org

Wake Up là một cộng đồng quốc tế rất năng động, gồm những người trẻ từ 18 đến 35 tuổi, lấy cảm hứng từ những lời giảng dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Khởi đầu từ năm 2007, cộng đồng những người trẻ này đã đến với nhau cùng thực tập chánh niệm để nuôi dưỡng hạnh phúc và góp phần xây dựng một xã hội từ bi và lành mạnh hơn.

Phong trào Wake Up đã nở rộ trên toàn cầu. Các nhóm thuộc phong trào Wake Up hiện đã có mặt trên mọi lục địa và nhiều quốc gia. Những người trẻ tập họp nhau lại mỗi tuần hay mỗi tháng để cùng thực tập. Họ còn tổ chức các sự kiện, những khóa tu học chánh niệm và cùng nhau thăm viếng các trung tâm thiền tập. Nhiều nhóm còn tổ chức các sự kiện như đêm âm nhạc, thực tập thiền trong những nhóm lớn, đi dã ngoại và leo núi.

Làng Mai trực tuyến

Tăng thân Làng Mai có mạng lưới trực tuyến rất lớn mạnh trên toàn thế giới. Dưới đây là một vài nguồn thông tin chủ yếu.

Facebook: Làng Mai: http://www. facebook.com/langmai.org

Facebook Thích Nhất Hạnh: www. facebook.com/thichnhathanh

Hiện có khoảng 1.5 triệu người theo dõi trang Facebook Thích Nhất Hạnh:

Twitter: Trên 350.000 người theo dõi trên Twitter: @thichnhathanh

YouTube: Trang YouTube của Làng Mai có hàng trăm video và clip, bao gồm những bài pháp thoại và những đoạn phim về các chuyến giảng dạy khắp nơi trên thế giới của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và các vị giáo thọ thâm niên: www.youtube.com/plumvillage

Trang www.tnhaudio.org thường xuyên đăng tải những ghi âm về các bài pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và các vị giáo thọ thâm niên từ khắp thế giới. Những ghi âm này có thể được tải xuống miễn phí.

The Mindfulness Bell – Tiếng chuông chánh niệm: www. mindfulnessbell.org

The Mindfulness Bell là một tạp chí về nghệ thuật sống có chánh niệm, xuất bản 3 lần trong năm. Tờ báo này có sứ mệnh tiếp thêm động lực và là một kênh cung cấp tư liệu giảng dạy cho những ai đang thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày. Mỗi số báo trình bày một bài pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, những mẩu chuyện cùng những bài giảng của các vị giáo thọ và thiền sinh. Tờ báo thường đăng các bài viết về những kinh nghiệm thực tập với thiếu nhi và người trẻ.

International Sangha Directory – Danh bạ Tăng thân quốc tế www. mindfulnessbell.org/directory

Danh bạ Tăng thân quốc tế cung cấp danh sách các tăng thân địa phương thực tập theo truyền thống Làng Mai. Trang mạng này cũng bao gồm một bản đồ có định vị những địa điểm gặp mặt của các nhóm – tăng thân – đã và đang thành lập.

Plumline – www.plumline.org

Plumline là một trung tâm hỗ trợ cho những người có ước muốn xây dựng, thành lập và duy trì một nhóm bạn cùng thực tập chánh niệm trực tuyến. Đây là nơi để các bạn chia sẻ ý kiến và các nguồn tư liệu trong quá trình xây dựng và phát triển các nhóm tăng thân trực tuyến.

The Mindfulness in Education Network – Mạng lưới Chánh niệm trong ngành Giáo dục: www. mindfuled.org

Mạng lưới Chánh niệm trong ngành Giáo dục bắt đầu từ năm 2001 như là một danh sách các địa chỉ e-mail để giúp 78 nhà giáo giữ liên lạc với nhau. Những nhà giáo này đã cùng tham dự hai khóa tu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tổ chức dành cho người Mỹ trong năm đó. Tính đến năm 2016, danh sách mạng lưới toàn cầu này đã có gần 2000 người từ nhiều truyền thống thực tập chánh niệm khác nhau tham gia. Từ năm 2008, tổ chức này đã tiến hành một cuộc hội nghị hàng năm ở Mỹ. Trang này cũng bao gồm phim ảnh về các buổi thuyết trình trong những cuộc hội nghị đã diễn ra. Bạn có thể đăng ký tham gia vào cộng đồng đang ngày càng lớn mạnh này.

Earth Holders Sangha – Tăng thân Trì Địa: www.earthholder.org

Tăng thân Trì Địa là một nhóm trong cộng đồng quốc tế Làng Mai, gồm những người có cảm hứng với đạo Bụt dấn thân do Thiền sư Thích Nhất Hạnh khởi xướng. Được hình thành ở Mỹ vào năm 2015, tăng thân Trì Địa hoạt động dựa trên nền tảng đạo đức của Năm giới và Mười bốn giới.

Mục đích của tăng thân Trì Địa:

Xây dựng một cộng đồng Trì Địa Làng Mai, giúp những thành viên có cùng lý tưởng trong tăng thân có thể đến gần nhau hơn để yểm trợ và truyền động lực cho nhau, đồng thời phát triển sự thực tập bảo hộ đất Mẹ, lấy cảm hứng từ những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Dấn thân vào các hoạt động thực tập chánh niệm ở địa phương, trong nước hay quốc tế.

Yểm trợ sự phát triển bền vững của các cộng đồng, đặc biệt là các tu viện Làng Mai, các trung tâm thực tập của cư sĩ và các tăng thân địa phương.

Tăng thân Trì Địa soạn ra những tài liệu về giáo dục, tổ chức những buổi họp mặt địa phương cũng như tổ chức những sự kiện trực tuyến.

ARISE (Awakening through Race, Intersectionality, and Social Equity – Tỉnh thức trước các vấn đề về chủng tộc, sự tương giao và công bằng xã hội): www. pvracialequity.wordpress.com

Tăng thân ARISE được thành lập với mong muốn thực tập hiểu rõ và tìm cách chuyển hóa các tình trạng kỳ thị chủng tộc, sự phân chia giai cấp ngầm hay những bất công trong xã hội. Trang web này giúp cho các nhóm và cá nhân tìm được sự kết nối trực tuyến và liên hệ trực tiếp xung quanh các chủ đề về công bằng xã hội, việc trị liệu những xung đột do văn hóa và sự thực tập chánh niệm – một gia tài sống động của tình thân hữu bền chặt giữa Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Mục sư Martin Luther King, Jr.

Sách và các nguồn tài liệu khác

Sách hướng dẫn

Planting Seeds: Practicing Mindfulness with Children (Gieo trồng hạt giống: Thực tập chánh niệm với thiếu nhi) của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai, sư cô Chân Châu Nghiêm, nhà xuất bản Parallax, 2011, Berkeley, CA. Gồm những hướng dẫn vừa rõ ràng vừa dễ áp dụng cho các thầy cô giáo tại các trường tiểu học.

Everybody Present: Mindfulness in Education (Mọi người có mặt: Chánh niệm trong ngành giáo dục), của Nikolaj Flor Rotne và Didde Flor Rotne, nhà xuất bản Parallax, 2013, Berkeley, CA. Như lời tác giả mô tả: “Cuốn sách nhằm trang bị cho các nhà giáo dục rất nhiều phương tiện, công cụ để thực tập, giúp họ vượt qua cảm giác là mình không có đủ điều kiện, từ đó họ có thể bắt tay vào một cuộc cách mạng hướng đến sự tĩnh lặng. Cuộc cách mạng tĩnh lặng này giúp mỗi cá nhân ý thức được sự tương tức, thưởng thức sự lắng dịu bên trong và tận hưởng niềm vui. Bộ sách bao gồm những nghiên cứu thực tế trên từng nhóm đối tượng, những mẩu chuyện và những gợi ý hữu ích nhằm yểm trợ cho sự thực tập cá nhân cũng như việc giảng dạy về chánh niệm; tất cả đều được giải thích một cách rõ ràng.”

The Mindful School Leader: Practices to Transform Your Leadership and School (Người lãnh đạo nhà trường có chánh niệm: Những thực tập để chuyển hóa khả năng lãnh đạo và trường học của bạn), tác phẩm của Valerie Brown và Kirsten Olson. Corwin, 2015, Thousand Oaks, CA. Cuốn sách giúp khám phá vai trò của chánh niệm trong việc yểm trợ các nhà lãnh đạo đầy lòng từ bi và đang trên đà lớn mạnh, cũng như xây dựng sự cảm thông, công bằng và bình an trong trường học. Cuốn sách được hình thành dựa trên những phương pháp thực tập chánh niệm thực tiễn cũng như những ví dụ và kinh nghiệm cụ thể.

The Mindful Teen: Powerful Skills To Help You Handle Stress One Moment at a Time[1], của tác giả Dzung X Vo. New Harbinger 2015, Oakland, CA. Cuốn sách này được một bác sĩ chuyên khoa Nhi, cũng là người làm việc với các bạn trong độ tuổi thiếu niên, viết dành riêng cho các độc giả trong độ tuổi này. Tác giả tìm thấy cảm hứng từ sự thực tập chánh niệm theo truyền thống Làng Mai, cũng như từ các liệu pháp MBSR (Mindful Based Stress Reduction – Giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm), MBCT (Mindful Based Cognitive Therapy – Liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm), và những phương pháp trị liệu khác dựa trên chánh niệm. www. mindfulnessforteens.com.

Teach, Breathe, Learn: Mindfulness In and Out of the Classroom (Dạy, Thở, Học: Chánh niệm trong và ngoài lớp học), của tác giả Meena Srinivasan, nhà xuất bản Parallax, 2014, Berkeley, CA.

Được viết bởi một nhà giáo dục quốc tế với nhiều năm kinh nghiệm đứng lớp giảng dạy và đảm nhiệm công tác quản lý trong nhà trường. Dựa trên kinh nghiệm trực tiếp của tác giả trong việc giảng dạy, cuốn sách này bao gồm các bài giáo án và nhiều nguồn tài liệu về việc giáo dục cảm xúc và xã hội, cũng như chia sẻ về sự thực tập chánh niệm theo truyền thống Làng Mai. http:// teachbreathelearn.com.

Teaching Mindfulness Skills to Kids and Teens – Giảng dạy những kỹ năng chánh niệm cho thiếu nhi và thiếu niên, được biên tập bởi Chris Willar và Amy Saltzman, với lời tựa của Susan Kaiser Greenland, nhà xuất bản The Guiford, 2015, New York. Tuyển tập này cũng bao gồm bài viết của Betsy Rose “Chánh niệm hòa cùng nhịp điệu: Sự thực tập đan xen vào với âm điệu của bài hát.”

Tuning In: Mindfulness in Teaching and Learning: A Collection of Essays by Teachers for Teachers (Sự chú tâm: Chánh niệm trong việc dạy và học: Tuyển tập các bài viết của các nhà giáo dành cho các nhà giáo), do Irene E McHenry và Richard Brady biên tập, được xuất bản bởi Philadelphia: Friends Council of Education (Hội những người bạn ngành giáo dục), 2009. “Tôi rất vui mừng khi những người đóng góp cho cuốn sách này đã xuất hiện để chia sẻ về phương pháp làm thế nào mà sự thực tập chánh niệm và định tâm có thể giúp cho việc dạy và học trở thành một niềm vui. Đây là một cuốn sách quan trọng cho các nhà giáo, những nhà quản lý giáo dục, phụ huynh và tất cả những ai quan tâm đến hạnh phúc của các thế hệ tương lai.” – Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Sách dành cho thiếu nhi

CHÁNH NIỆM NÓI CHUNG

A Pebble for Your Pocket (Viên sỏi trong túi áo), của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Plum Blossom Books, 2001, Berkeley, CA. Đây là cuốn sách bỏ túi dễ hiểu dành cho các em thiếu nhi với những mẩu chuyện, những giải thích đơn giản về sự thực tập và những lời dạy căn bản về sự thực tập chánh niệm.

Chalotte and the Quiet Place (Chalotte và nơi yên tĩnh), tác giả Deborah Sosin, Plum Blossom Books, 2011, Berkeley, CA. Cuốn sách dành cho trẻ em với nhiều tranh minh họa bằng màu nước, kể về cô bé Chalotte ở trong một thành phố ồn ào và cái đẹp của hơi thở chánh niệm cùng sự yên lặng.

Each Breath a Smile (Mỗi hơi thở một nụ cười), của sư cô Thục Nghiêm Susan, Plum Blossom Books, 2001, Berkeley, CA. Một cuốn sách sinh động, nhiều màu sắc giới thiệu sự thực tập thiền chánh niệm cho trẻ em, dựa trên những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

CÁC ĐỘNG TÁC CHÁNH NIỆM

Mindful Movements: Ten Exercises for Well-Being (Động tác chánh niệm: Mười bài tập cho sức khỏe thân tâm), Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Wietske Vriezen, nhà xuất bản Parallax, 2008, Berkeley, CA. Những hướng dẫn có minh họa ngắn cho trẻ em về các động tác chánh niệm. Bao gồm DVD.

CẢM XÚC MẠNH

Anh’Anger – Cơn giận của Anh, tác giả Gail Silver, minh họa của Christianne Kromer, Plum Blossom Books, 2009, Berkeley, CA. Một cuốn sách có minh họa dành cho trẻ em, kể về một cậu bé gặp gỡ và học cách ôm ấp cơn giận của mình như thế nào – một nhân vật hung dữ nhưng vui vẻ và thân thiện.

Peace, Bugs and Understanding: An Adventure in Sibling Harmony (Bình an, khó khăn và hiểu biết: hành trình khám phá sự hòa hợp của tình anh chị em), tác giả Gail Silver, minh họa của Youme Nguyen Ly, Plum Blossom Books, 2014, Berkeley, CA. Câu chuyện có minh họa dành cho trẻ em, về sự thực tập lòng từ có thể giải quyết những khó khăn và cảm xúc mạnh như thế nào.

Steps and Stones (Bước chân và hòn đá), tác giả Gail Silver, minh họa của Christianne Kromer, Plum Blossom Books, 2011, Berkeley, CA. Đây là cuốn tiếp theo của cuốn Anh’ Anger (Cơn giận của Anh). Khi Anh bị các bạn ở trường đánh rất đau, Cơn giận xuất hiện trá hình với ý tưởng trả thù, nhưng Anh khám phá ra rằng thiền hành có thể mang lại sự chuyển hóa nhiều biết bao.

THIỀN SỎI

A Handful of Quiet: Happiness in Four Pebbles (Một vốc lặng yên: Hạnh phúc trong bốn viên sỏi), của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Plum Blossom Books, 2012, Berkeley, CA. Hướng dẫn ngắn có minh họa và mô tả về sự thực tập thiền sỏi, bài tập bằng hình vẽ, chỉ dẫn, những tờ hướng dẫn chi tiết về cách thực tập và còn nhiều điều hơn thế nữa.

NHÌN SÂU

The Hermit and the Well (Ông Đạo và giếng nước), của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Plum Blossom Books, 2003, Berkeley, CA. Một câu chuyện có thật về sự khám phá nội tâm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh khi viếng thăm nơi ẩn dật của một đạo sĩ lúc còn là một cậu bé.

Is Nothing Something? Kids’ Questions and Zen Answers – Có cái gì trong cái không có gì? (Những câu hỏi của trẻ em trong buổi vấn đáp với Thiền sư Thích Nhất Hạnh), Plum Blossom Books, 2014, Berkeley, CA. Một bộ sưu tập có minh họa đầy màu sắc với những câu trả lời đơn giản nhưng sâu sắc cho hơn 30 câu hỏi đa dạng từ trẻ em.

The Sun in My Belly (Mặt trời trong bụng), của sư cô Thục Nghiêm Susan, Plum Blossom Books, 2003, Berkeley, CA. Cuốn sách nhiều màu sắc dành cho thiếu nhi nói về sự tương tức và sức mạnh trị liệu đến từ những mối liên hệ và từ thiên nhiên.

ĐẠO ĐỨC HỌC

The Coconut Monk (Ông đạo dừa), của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Plum Blossom Books, 2009, Berkeley, CA. Câu chuyện kể cho trẻ em có minh họa về một ông đạo và những người bạn của ông – một chú mèo và một chú chuột – chúng sống chung bình yên với nhau trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Sách dành cho người trẻ

Basket of Plums Songbook: Music in the Tradition of Thich Nhat Hanh (Tập nhạc gồm những bài thiền ca Làng Mai), được Joseph Emet sưu tầm và biên soạn, nhà xuất bản Parallax 2013, Berkeley, CA. Tuyển tập bao gồm lời bài hát, bản nhạc và hợp âm cho 48 bài thiền ca Làng Mai.

The Dragon Prince: Stories and Legends from Vietnam (Hoàng tử Rồng: những câu chuyện và truyền thuyết của Việt Nam), tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, nhà xuất bản Parallax 2007, Berkeley, CA. Mười lăm câu chuyện truyền thuyết được kể lại cho người trẻ và cả người lớn, qua đó giúp người đọc tìm hiểu về tinh thần đại đồng, tinh thần trách nhiệm và cách giải quyết xung đột.

The Stone Boy and Other Stories (Thạch Lang và những câu chuyện khác), tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, nhà xuất bản Parallax 1996, Berkeley, CA. Mười một câu chuyện và tiểu thuyết ngắn viết cho người trẻ và người lớn.

A Taste of Earth and Other Legends of Vietnam (Hương vị của đất và những truyền thuyết khác của Việt Nam), tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, nhà xuất bản Parallax 1993, Berkeley, CA. Mười hai câu chuyện truyền thuyết được kể lại cho người trẻ và người lớn, qua đó giúp người đọc tìm hiểu về tinh thần đại đồng, tinh thần trách nhiệm và cách giải quyết xung đột.

Under the Rose Apple Tree (Dưới cây hồng táo), tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, nhà xuất bản Parallax 2002, Berkeley, CA. Một cuốn sách bỏ túi cho tuổi thiếu niên về sự thực tập chánh niệm và câu chuyện của Thái tử Tất-đạt-đa lúc còn là một cậu bé.

Các nguồn tài liệu audio: âm nhạc và những bài hát

Wake Up Schools webpage:

www.wakeupschools.org/songs. Tuyển tập các lời bài hát, bản nhạc và bản ghi âm những bài thiền ca phổ biến của Làng Mai.

Betsy Rose Calm Down Boogie: Songs for Peaceful Moments and Lively Spirits (2008) (Điệu nhạc Boogie êm dịu: Những bài hát cho những giây phút bình an và những tâm hồn sống động) www.betsyrosemusic.org.

Betsy Rose, Heart of a Child (2006) – Trái tim trẻ thơ. Những bài hát truyền sức mạnh cho trái tim và tâm hồn của các nhà giáo dục và phụ huynh.

Betsy Rose, In My Two Hands (2011) – Trong hai bàn tay tôi. Những bài hát theo truyền thống Làng Mai, yểm trợ sự thực tập hơi thở, nuôi dưỡng ý thức, chăm sóc cho chính mình và cho trái đất.

Joe Reilly, Children of the Earth (2007) – Những đứa con của đất Mẹ. Joe và những người bạn của anh cảnh báo cho chúng ta về trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ đất Mẹ. www.joereilly.org.

Joe Reilly, Touch the Earth (2009) – Địa Xúc. Những bài hát giúp xây dựng cộng đồng vững mạnh hơn nhờ biết ôm ấp sự khác biệt và thấy được tính tương tức giữa mình với mọi người và với môi trường sống.

Wake Up London and Friends – Wake Up Luân Đôn và những người bạn, Peace Sounds 1 (2012) – Âm thanh Bình an 1, và Peace Sounds 2 (2016) – Âm thanh Bình an 2. Tập hợp các bài hát được tăng thân Wake Up Luân Đôn ghi âm. Đây là cộng đồng của những người trẻ đến với nhau để yểm trợ phong trào Wake Up do Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai khởi xướng. www.peacesounds.org.

Phim và Video

Bài pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho các nhà giáo dục được đăng trên trang mạng của Wake Up Schools: www.wakeupschools.org/video.

Los Educadores Felices Cambiarán el Mundo (2016). Cảnh trong phim được quay từ khóa tu dành cho các nhà giáo dục tại Barcelona năm 2013. Bộ phim này nói lên sức mạnh chuyển hóa của sự thực tập chánh niệm, được thực hiện bằng tiếng Tây Ban Nha với phụ đề nhiều ngôn ngữ khác. www. wakeupshools.org/educadores.

A Lotus for you, a Buddha to Be (2009) – Sen búp xin tặng người, một vị Bụt tương lai. Bộ phim dựa trên khóa tu dành cho các nhà giáo dục do Thiền sư Thích Nhất Hạnh hướng dẫn tại Trường Doon, Ấn Độ. Vài cảnh trong phim lấy từ chuyến hành hương của Thiền sư sau đó. www.wakeupshools. org/lotusforyou.

The Five Powers (2014) – Ngũ Lực. Bộ phim hoạt hình này kể về câu chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sư cô Chân Không, Alfred Hasler và đường lối bất bạo động của họ trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam. Phim được khởi nguồn từ sự cộng tác của họ với Mục sư Martin Luther King.

Happy Teachers Will Change the World (2015) – Thầy giáo cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới. Bộ phim 40 phút ghi lại những kinh nghiệm đầy cảm hứng của khóa tu dành cho các nhà giáo dục ở Canada dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, các thầy các sư cô Làng Mai và các vị giáo thọ cư sĩ. www.wakeupschools. org/happyteachersfilm.

Planting Seeds of Mindfulness (2016) – Gieo trồng hạt giống chánh niệm. Bộ phim hoạt hình này nhắm vào khán giả trẻ tuổi. Phim kể về câu chuyện của những người trẻ đưa sự thực tập Làng Mai vào đời sống của họ sau khi chuyển đến ở một thị trấn mới.

www.plantingseedsofmindfulness-movie.com

A Visit to the Dharma Primary School (2015) – Chuyến viếng thăm trường tiểu học chánh niệm. Một cuốn phim tài liệu dài 30 phút, khám phá những ảnh hưởng từ chuyến viếng thăm của các thầy các sư cô Làng Mai đến một ngôi trường tiểu học theo đạo Bụt ở Anh. www.wakeupschools.org/ dharmaschool.

Vivir Despietos (2016). Một bộ phim về nếp sống chánh niệm. Trong phim này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và các vị xuất sĩ thuộc tăng thân Làng Mai chia sẻ sự thực tập chánh niệm với cộng đồng những người nói tiếng Tây Ban Nha.

www.wakeupschools.orgvivirdespiertos

Wake Up Schools in India (2013) – Wake Up Schools ở Ấn Độ. Một đoạn phim 15 phút trình bày những trích đoạn từ những buổi chia sẻ theo chủ đề của các vị xuất sĩ Làng Mai trong các trường học ở Ấn Độ. www. wakeupschools.org/india.

Walk with Me: On the Road with Thich Nhat Hanh (2017) – Bước Chân An Lạc: đồng hành cùng Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Một cái nhìn gần gũi và thiền vị về cộng đồng các vị xuất sĩ nam và nữ của Làng Mai, những người đang thực tập nghệ thuật sống chánh niệm và thực hành những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. www. walkwithmefilm.com.

Các khóa tu và chương trình tập huấn cho giáo viên

Các trung tâm thực tập

Các trung tâm thực tập chánh niệm theo truyền thống Làng Mai tạo cơ hội cho các cá nhân, các cặp vợ chồng và gia đình đào sâu sự thực tập của họ bên cạnh các vị xuất sĩ và cư sĩ thường trú. Những trung tâm này thu hút mọi người đến từ khắp nơi trên thế giới, những người mong muốn thực tập chánh niệm và quán chiếu trong một cộng đồng có nếp sống đơn giản và một môi trường bình an, tươi mát.

Tất cả các trung tâm này đều có tổ chức các khóa tu, pháp thoại, ngày quán niệm cũng như đem lại cho mọi người không gian và thời gian để nghỉ ngơi. Những khóa tu theo truyền thống Làng Mai không hoàn toàn im lặng mà tạo cơ hội cho thiền sinh trải nghiệm nhiều phương pháp thực tập chánh niệm khác nhau như đã được chia sẻ trong cuốn sách này. Bạn cũng có thể đến viếng thăm trong ngày để thưởng thức khung cảnh thiên nhiên, tham dự các sinh hoạt cùng với các bạn thiền sinh khác, hoặc là ở lại để tham dự những khóa học hay khóa tu dài hơn. Vài trung tâm còn cho bạn cơ hội được tham gia các hoạt động tình nguyện hoặc trải nghiệm đời sống thực tập và làm việc tại đó trong một thời gian dài. www.wakeupschools. org/centers.

Các chuyến hoằng pháp

Tăng thân Làng Mai cũng thực hiện các chuyến hoằng pháp, tổ chức các buổi pháp thoại, hướng dẫn thiền tập trong nhóm và tổ chức khóa tu ở nhiều nơi trên thế giới, kể cả những khóa tu cho các nhà giáo dục. Các bạn có thể tìm thông tin về các chuyến hoằng pháp sắp tới và về những khóa tu liên quan qua các trung tâm thực tập, qua trang nhà Làng Mai và trang Wake Up Schools, www.wakeupschools.org/events.

Năm Giới

Sau khi đã tham dự một khóa tu 5 ngày, bạn có thể chọn để tiếp nhận một hay nhiều hơn trong Năm giới – Năm phép thực tập chánh niệm – để học hỏi và thực tập. Năm giới gồm có Tôn trọng sự sống; Hạnh phúc đích thực; Tình thương đích thực; Ái ngữ và lắng nghe; Nuôi dưỡng và trị liệu. Năm giới là biểu hiện cụ thể của nếp sống chánh niệm trong mỗi phút giây để có thể chuyển hóa khổ đau và chế tác hạnh phúc, cho chúng ta và cho thế giới.

Văn bản Năm giới có sẵn trên trang nhà Làng Mai: https://langmai.org/ phat-duong/tung-gioi/van-ban-5-gioi- tan-tu/

Chương trình huấn luyện giáo viên theo phong trào Wake Up Schools

Nếu bạn muốn cam kết để được huấn luyện như là một giáo viên theo phong trào Wake Up Schools, bạn không cần phải chờ đợi: bạn có thể bắt đầu ngay từ bây giờ. Với cuốn sách này trong tay, bạn đã có những phương pháp thực tập căn bản và những hướng dẫn cụ thể để đem sự thực tập vào trong đời sống của mình và chia sẻ với những người khác.

Có thể bạn cũng muốn được người khác yểm trợ, trong trường hợp này thì những người hướng dẫn trong phong trào Wake Up Schools trên thế giới sẽ tạo cho bạn cơ hội quý giá để học hỏi và thực tập với các vị y chỉ sư. Đây có thể là một cách thức hiệu quả giúp phát triển khía cạnh thực tập chung với cộng đồng, bằng cách kết nối và chia sẻ với các giáo viên có hứng thú trong sự thực tập chánh niệm và đạo đức học ứng dụng. Mạng lưới liên lạc của những người hướng dẫn trong phong trào Wake Up Schools đã lớn mạnh trong vài năm qua. Phần lớn các vị này đã là giáo thọ chính thức trong truyền thống Làng Mai. Về danh sách của những người hướng dẫn trong phong trào Wake Up Schools, có thể tìm những thông tin mới nhất trên trang Wake Up Schools: www. wakeupschools.org/training.

Chương trình các khóa tu, giáo thọ và các nhà tư vấn

Nhiều vị thiền sinh cư sĩ có khả năng tổ chức các khóa tu, hội thảo và những sự kiện khác theo truyền thống Làng Mai. Một số vị có thể đến trường học hay cộng đồng tu tập của bạn với tư cách là người cố vấn và hướng dẫn. Chúng tôi xin liệt kê dưới đây tên của những người sẵn sàng giúp bạn, và nhiều người trong số họ đã đóng góp những chia sẻ, tự thuật của mình cho cuốn sách này. Thành viên Tiếp Hiện là những người đã tham gia vào dòng tu Tiếp Hiện do Thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng lập, gồm các vị xuất sĩ và cư sĩ cam kết suốt đời sống chánh niệm theo nền tảng đạo đức chung là Mười Bốn Giới Tiếp Hiện.

Ghi chú: Danh sách này chủ yếu mang tính minh họa hơn là liệt kê một cách bao quát, toàn diện, vì vậy trong danh sách này không kể đến nhiều chương trình xuất sắc được các tăng thân hay cá nhân thiền sinh tổ chức. Danh sách này chỉ cho biết thông tin mà không phải là một sự đề nghị – hiện tại tăng thân Làng Mai không có một quy trình chứng nhận nào cho những người hướng dẫn và tư vấn, tuy nhiên Làng Mai có cấp giấy chứng nhận cho người tham dự trong một vài khóa tu nhất định. Danh sách này sẽ thay đổi qua thời gian; bạn có thể tìm những thông tin được cập nhật hơn ở trang Wake Up Schools: www.wakeupschools.org/teachers.

Ahimsa Trust (Ấn Độ) – Tổ chức Ahimsa đại diện Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai tại tiểu lục địa Ấn Độ, với mục đích làm lan tỏa ý thức về hòa bình và thương yêu thông qua quan hệ đối tác với các tổ chức có cùng mục tiêu và các chương trình trong những lĩnh vực như chánh niệm trong giáo dục, xây dựng cộng đồng, du lịch có trách nhiệm và phát triển bền vững. Ahimsa tổ chức các cuộc hội thảo và khóa tu cho các nhà giáo với chủ đề Nuôi dưỡng chánh niệm trong lĩnh vực giáo dục, ngày quán niệm hay một buổi tối quán niệm, các buổi giảng và chương trình quyên góp một phần là thông qua các cuộc hành hương “Theo dấu chân Bụt”. Ahimsa đang thành lập một Trung tâm thực tập chánh niệm dưới chân dãy núi Hymalayas. Đứng đầu là hai vị giáo thọ và là thành viên Tiếp Hiện Shantum và Gitanjali Seth: www.ahimsatrust.org.

Escuelas Despiertas (Wake Up Schools) – Tây Ban Nha, hợp tác với Viện nghiên cứu giáo dục (Instituto de Ciencias de la Educación – ICE) thuộc trường đại học Barcelona. Escuelas Despiertas xây dựng một chương trình hoàn toàn áp dụng các phương pháp thực tập chánh niệm theo truyền thống Làng Mai trong giáo dục. Chương trình này do Pilar Aguilera, một thành viên Tiếp Hiện hướng dẫn và cung cấp tín chỉ thông qua Dự án phát triển chuyên môn liên tục (Continuing Professional Development Plan) của Bộ giáo dục Catalonia: www.escuelasdespiertas.org.

Wake Up Schools France (Pháp) là một mạng lưới liên kết khá rộng rãi giữa các thầy cô giáo và thiền sinh nói tiếng Pháp. Những vị này cùng nhau xây dựng tăng thân địa phương, tổ chức các buổi hội thảo và chia sẻ kinh nghiệm tu học: www.wakeupschools. org/fr.

Vivir Despiertos (Ecuador) gặp mặt hàng tuần ở trường đại học San Francisco de Quito. Giáo sư Andrés Proano Serrano giúp tổ chức buổi họp mặt mỗi tuần này. Họ học hỏi và thực tập thiền ngồi, thiền đi và thiền ăn chung với nhau: www.facebookcom/ vivirdespiertosEcuador.

The Center for Mindfulness and Consciousness Studies – Trung tâm nghiên cứu chánh niệm và tâm thức, tại trường đại học Pittsburgh ở Mỹ. Trung tâm này được thành lập với nguồn cảm hứng từ những lời giảng dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và hiện đang dưới sự hướng dẫn của Tony Silvestre, một thành viên Tiếp Hiện và là giáo thọ theo truyền thống Làng Mai. Trung tâm chào đón các bạn thiền sinh đến từ nhiều truyền thống Phật giáo và những vị thực tập theo liệu pháp MBSR (giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm), ngoài ra còn tổ chức sinh hoạt xung quanh các chủ đề như nghiên cứu khoa học về chánh niệm, đem sự thực tập chánh niệm vào trường học, và phụng sự cộng đồng: www.mindfulnesspitt.org.

Minding your life (MYL – Chăm sóc cuộc đời của bạn) (Mỹ) – được thành lập bởi Richard Brady, một giáo thọ cư sĩ theo truyền thống Làng Mai, thành viên Tiếp Hiện và là chuyên gia tư vấn giáo dục. Richard cũng là thầy giáo dạy toán về hưu của trường Sidwell Friends ở Washington, DC. Ông còn hướng dẫn những khóa tu cho các nhà giáo dục. MYL có một trang web bao gồm những bài viết của ông cũng như những tập san về chánh niệm trong giáo dục: www.mindingyourlife.net.

The Mindfulness Institute – Học viện chánh niệm, tổ chức các chương trình dành cho các nhà chuyên môn, bao gồm các giáo viên, người quản lý, cố vấn nhà trường, các nhà tâm lý, các cộng tác viên xã hội trong lĩnh vực học đường và những thành phần khác từ nhà trẻ cho tới lớp 12 và đại học. Những chương trình này được thiết lập để giúp các nhà giáo dục đem sự thực tập chánh niệm vào đời sống của họ và tìm cách giới thiệu cho học trò của mình sự thực tập chánh niệm một cách đơn giản và dựa trên nền tảng nghiên cứu khoa học. Học viện chánh niệm cũng tập trung nghiên cứu về các vấn đề như làm thế nào để làm việc hiệu quả trong môi trường nhiều áp lực, làm sao để xây dựng và làm lớn mạnh mối quan hệ cộng tác trong công việc: www.floridamindfulness.org/MI.

Larry Ward và Peggy Rowe Ward, người Mỹ, là giáo thọ cư sĩ theo truyền thống Làng Mai và cũng là thành viên Tiếp Hiện. Họ đã yểm trợ hệ thống trường học địa phương bằng cách lồng ghép sự thực tập chánh niệm vào chương trình giảng dạy. Họ tổ chức các khóa tu và hội thảo chuyên đề cho sinh viên, phụ huynh và thầy giáo cô giáo. Peggy đang hoàn tất cuốn sách của cô dành cho các thầy cô giáo và các bậc phụ huynh với tựa đề Down to earth (Hãy chạm vào thực tế). Có thể liên lạc với họ tại trang web: www. thelotusinstitute.org.

Kaira Jewel Lingo, người Mỹ, là một giáo thọ cư sĩ, thành viên Tiếp Hiện và là nhà giáo dục về chánh niệm. Cô thường hướng dẫn khóa tu và cống hiến những chương trình thực tập chánh niệm cho nhà giáo, phụ huynh và sinh viên, tất cả đều kết nối với chương trình Wake Up Schools ở Mỹ và châu Âu. Là một vị giáo thọ da màu, cô cũng cống hiến các khóa tu dành cho người da màu, nghệ sĩ và các nhà hoạt động xã hội và chú tâm vào cách ứng xử có chánh niệm trước vấn đề biến đổi khí hậu. Cô sống ở Washington, DC: www.kairajewel.com.

Michael Ciborski và Fern Dorresteyn (người Mỹ). Hai vị đều là thành viên của Tiếp Hiện và cũng là giáo thọ theo truyền thống Làng Mai. Họ thành lập Trung tâm/Cộng đồng thực tập chánh niệm MorningSun ở New Hampshire. Ở đó họ tổ chức các ngày quán niệm và khóa tu. Họ cũng tổ chức những sinh hoạt cho phụ huynh và gia đình trong các trường học địa phương:

www.morningsuncommunity.org.

Michael Schwammberger (người Tây Ban Nha và Anh) là một vị giáo thọ cư sĩ và là thành viên Tiếp Hiện. Ông hướng dẫn và hợp tác hướng dẫn các khóa tu theo truyền thống Làng Mai ở châu Âu, bao gồm khóa tu gia đình và các khóa tu dành cho thầy cô giáo trong chương trình Wake Up Schools. Ông cũng thường đến các trường học để chia sẻ những lời dạy và các phương pháp thực tập của Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho trẻ em: michaelms@tutanota.com.

Valerie Brown là một vị Tiếp Hiện từ năm 2003, người hướng dẫn khóa tu quốc tế, chuyên gia tư vấn giáo dục, huấn luyện viên về nghệ thuật lãnh đạo, tác giả của nhiều cuốn sách về chánh niệm và là người sáng lập của Lead Smart Coaching, giúp các nhà giáo dục áp dụng và đem chánh niệm vào đời sống hàng ngày. Cô cũng là thành viên của Hiệp hội Giáo hữu (còn được gọi là Quakers), là giáo viên được chứng nhận dạy yoga Kundalini và là người có kinh nghiệm thực tập chánh niệm. Cô làm việc một cách toàn diện với ban lãnh đạo nhà trường để giúp đem sự thực tập chánh niệm vào công tác điều hành của nhà trường: www. leadsmartcoaching.com.

Joe Reilly (người Mỹ) là thành viên Tiếp Hiện, ca sĩ, nhạc sĩ kiêm sáng tác, và là nhà giáo dục. Như những gì được đăng trên trang web của ông: ông “sáng tác bài hát từ trái tim của mình”. Những bài ca của Joe luôn khôi hài, thông minh, vui vẻ, gần gũi với cuộc sống và luôn nói lên những điều đầy ý nghĩa. Điều cốt lõi trong thông điệp của ông là hãy chữa lành và hàn gắn mối liên hệ của chúng ta với tự thân, với những người xung quanh và với trái đất”: www.joereilly.org.

Besty Rose (người Mỹ) là ca sĩ, nhạc sĩ, nhà hoạt động cho hòa bình, và cũng là nhà giáo dục chuyên tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề, các chương trình tập huấn trong trường học. Ngoài ra, cô còn thuyết trình và có những bài diễn thuyết chính tại các hội thảo. Cô cũng là nguồn cảm hứng âm nhạc cho các nhóm thực tập tâm linh và tranh đấu cho cho công bằng xã hội. Chương trình âm nhạc dành cho trẻ em và các nhà giáo dục của cô chú trọng tới các chủ đề như bảo hộ trái đất, giải quyết xung đột, sự đa dạng và sự thực tập chánh niệm. Dành cho những ai quan tâm đến đời sống của trẻ em: www.mindfulsongs.org. Chương trình và âm nhạc của Betsy dành cho các nhà hoạt động vì hòa bình, phụ nữ và tất cả những người hoạt động cho một thế giới công bằng và bền vững: www.betsyrosemusic.org.

Terry Cortes-Vega (người Mỹ) là một thành viên Tiếp Hiện và giáo thọ cư sĩ, sáng lập ra Master School, một chương trình trại hè không mang tính chất tôn giáo lấy cảm hứng từ những pháp môn thực tập của Làng Mai, những thực tập này yểm trợ cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Đây là trại hè quản lý theo kiểu gia đình và hiện nay đang là năm thứ 35: www. masterschoolkids.com.

Meena Srinivasan (người Mỹ) là người điều hành chương trình cho văn phòng Học hỏi về các kỹ năng cảm xúc – xã hội (social and emotional learning – SEL) của trường Oakland Unified School District ở California. Là một thành viên Tiếp Hiện, cô áp dụng những pháp môn thực tập Làng Mai vào công việc của mình khi làm việc với các giáo viên và lãnh đạo nhà trường. Meena đã mở một khóa học trực tuyến bốn tuần về sự thực tập chánh niệm và học hỏi về các kỹ năng cảm xúc – xã hội dựa trên cuốn sách của cô Dạy, Thở, Học – Teach, Breathe, Learn: www.meenasrinivasan. com. Meena và chồng của cô, Chihiro Wimbush, cũng đã thành lập một tổ chức phi lợi nhuận – A Lens Inside, thấu kính bên trong – nhằm phát triển các phương tiện truyền thông và phim ảnh có chánh niệm, hỗ trợ xây dựng các chương trình giáo dục về SEL bằng cách khai thác những vấn đề đang xảy ra trong xã hội: www.alensinside.org.

Julie Berentsen (người Anh) tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề và các lớp học liên tục. Cô làm việc với người trẻ (học sinh từ tiểu học đến trung học) lẫn phụ huynh, nhân viên và cộng đồng: www. weareinsideout.com.

Tineke Spruytenberg và Claude Acker (người Hà Lan), cả hai đều là thành viên Tiếp Hiện. Họ đã thành lập một chương trình giáo dục cung cấp các khóa học sáu tuần và không ngừng yểm trợ cho các nhà giáo, đội ngũ nhà trường, hội đồng quản lý nhà trường và những thành phần khác cùng làm việc trong ngành giáo dục: www. HappyTeachers.nu.

Dzung X. Vo (người Canada) là một thành viên Tiếp Hiện. Anh đã phát triển một phương pháp trị liệu không mang tính tôn giáo dựa trên sự thực tập chánh niệm dành cho các em tuổi thiếu niên. Phương pháp này lấy cảm hứng từ Làng Mai cũng như từ các liệu pháp MBSR, MBSR-T, MBCT và những phương pháp trị liệu khác dựa trên chánh niệm. Trang web dưới đây bao gồm những video miễn phí về sự thực tập chánh niệm, các bài thiền tập có hướng dẫn tải xuống được, trang viết cá nhân trực tuyến – blog, và những trích đoạn từ cuốn sách của anh The Mindful Teen, Thiếu niên chánh niệm: www.mindfulnessforteens.com.

Katherine Weare (người Anh) là một giáo sư, một học giả đồng thời là một nhà nghiên cứu và giảng dạy chánh niệm, nhà văn và cũng là nhà diễn thuyết trước công chúng. Cô làm việc khắp nơi trên thế giới trong những lĩnh vực có liên quan đến các phương pháp thực tập chánh niệm áp dụng cho người lớn và người trẻ, bao gồm những pháp môn thực tập Làng Mai, MBSR và chương trình chánh niệm trong trường học – Mindfulness in Schools. Cô là đồng tác giả của cuốn sách này và là tác giả của nhiều tác phẩm khác về sự thực tập chánh niệm, nghiên cứu về cảm xúc và xã hội, sức khỏe tinh thần và về tình trạng lành mạnh của thân tâm. Có thể liên lạc với cô ở skw@ soton.ac.uk.

Marianne Claveau (người Pháp) làm việc với cơ quan tư vấn về phát triển bền vững OR2D và trường đại học Clermont Ferrand chuyên về lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Nghiên cứu của cô tập trung vào đề tài chánh niệm giúp ích như thế nào trong việc phát triển các kỹ năng giáo dục thiết yếu về phát triển bền vững, cũng như làm thế nào để chánh niệm hỗ trợ cho sự sáng tạo và đổi mới trong giảng dạy. Cô tổ chức những buổi hội thảo và các lớp học liên tục cho đội ngũ nhà trường, các nhà nghiên cứu đại học và sinh viên: marianne.claveau@orange.fr.

Elli Weisbaum (người Canada) là một thành viên Tiếp Hiện và người giảng dạy về chánh niệm. Cô là một giáo viên của trường đại học Toronto, dạy về chương trình Thiền chánh niệm ứng dụng có cấp chứng chỉ. Cô tổ chức những buổi hội thảo giới thiệu về phương pháp chánh niệm ngay trong trường, hướng dẫn ngày quán niệm cũng như tham gia các nghiên cứu và diễn thuyết công cộng: www. elliweisbaum.com.

Stillness Revolution, cuộc cách mạng tĩnh lặng (Đan Mạch) – được Nikolaj và Didde Flor Rotne thành lập, cả hai là đồng tác giả của cuốn sách Everybody Present, Mọi người có mặt. Bằng cả hai cách hoặc trực tuyến hoặc gặp mặt trực tiếp, họ hiến tặng các chương trình huấn luyện, tham vấn và hướng dẫn: http://stillnessrevolution.com.

Youth Mindfulness, chánh niệm cho người trẻ (Anh) – được Michael Bready thành lập. Youth Mindfulness cung cấp các kế hoạch huấn luyện cho giáo viên trong chương trình giảng dạy, cho học sinh sơ cấp đến các bậc giáo dục cao hơn và những người trẻ bị tổn thương. Youth Mindfulness lấy cảm hứng từ Làng Mai, liệu pháp tâm lý học tích cực, MBSR và những phương pháp trị liệu khác dựa trên chánh niệm. Youth Mindfulness cũng cung cấp chương trình đào tạo một năm chuyên sâu cho các giáo viên giảng dạy về chánh niệm và một khóa học tám tuần dành cho người lớn: http://youthmindfulness.org.

The Dharma Primary School, trường tiểu học chánh niệm (Anh) đã có quan hệ lâu năm với Làng Mai. Ngôi trường nhỏ này áp dụng thực tập chánh niệm cho toàn trường. Các thầy cô giáo ở đây tổ chức các buổi hội thảo về chánh niệm cho trẻ em và chương trình sinh hoạt chánh niệm có tên ‘buổi sáng mở rộng’ (Open Mornings) ba lần trong năm: www.dharmaschool.co.uk.


[1] Đã được Thái Hà Books xuất bản tại Việt Nam với tên Yêu sự căng thẳng, thương nỗi muộn phiền.

Phụ lục C: Năm lời quán nguyện trước khi ăn

  1. Thức ăn này là tặng phẩm của đất, trời, của muôn loài và công phu lao tác.
  2. Xin nguyện ăn trong chánh niệm và với lòng biết ơn để xứng đáng thọ nhận thức ăn này.
  3. Khi ăn, xin nhớ nhận diện và chuyển hóa những tâm hành xấu, nhất là tật ăn uống không có chừng mực.
  4. Xin nguyện ăn như thế nào để giảm thiểu khổ đau của muôn loài, bảo hộ được trái đất và chấm dứt những nguyên nhân gây biến đổi khí hậu bất thường.
  5. Vì muốn xây dựng tăng thân, nuôi dưỡng tình huynh đệ và chí nguyện độ đời nên chúng con xin thọ nhận thức ăn này.

NĂM LỜI QUÁN NGUYỆN TRƯỚC KHI ĂN (dành cho trẻ em)

  1. Thức ăn này là tặng phẩm của đất, trời, của muôn loài và công phu lao tác.
  2. Chúng con xin gửi lòng biết ơn đến với tất cả những ai đã góp phần làm nên thức ăn này, trong đó có bàn tay của những người nông dân, những người vận chuyển và những người đã nấu cho chúng con bữa cơm hôm nay.
  3. Chúng con xin thực tập chỉ lấy thức ăn vừa đủ và nhai thật chậm rãi để cảm nhận được trọn vẹn hương vị của thức ăn.
  4. Chúng con xin nguyện ăn như thế nào để nuôi dưỡng tình thương, bảo vệ sự sống của mọi loài và giữ gìn hành tinh xinh đẹp của chúng ta.
  5. Vì muốn được khỏe mạnh, hạnh phúc và sống hòa hợp bên nhau nên chúng con xin thọ nhận thức ăn này.

Phụ lục B: Năm giới tân tu

Năm giới tức là năm phép thực tập chánh niệm, biểu hiện được một cách cụ thể giáo lý Tứ diệu đế và Bát chánh đạo, con đường của Bụt, con đường của hiểu biết và thương yêu đích thực có khả năng đưa tới trị liệu, chuyển hóa và hạnh phúc cho bản thân và cho thế giới. Năm giới mang theo tuệ giác Tương tức, tức là Chánh kiến, có khả năng tháo bỏ mọi cuồng tín, cố chấp, kỳ thị, sợ hãi, hận thù và tuyệt vọng. Sống và thực tập theo Năm giới là chúng ta đã đi vào con đường mà các vị Bồ tát đang đi. Năm giới này đại diện cho cái thấy của đạo Bụt về một nền tâm linh và đạo đức toàn cầu. Biết rằng đang được đi trên con đường của Bụt, chúng ta không còn lý do gì để lo lắng cho hiện tại và sợ hãi cho tương lai.

Giới Thứ Nhất: Bảo vệ sự sống

Ý thức được những khổ đau do sự giết hại gây ra, con nguyện thực tập nuôi dưỡng tuệ giác Tương tức và lòng Từ bi, để có thể bảo vệ sự sống của mọi người, mọi loài và môi trường sống. Con nguyện không giết hại, không để kẻ khác giết hại và không tán thành bất cứ một hành động giết hại nào trên thế giới, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hằng ngày của con. Thấy được rằng tất cả những bạo động do sợ hãi, hận thù, tham vọng và cuồng tín gây ra đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị; con nguyện học hỏi thái độ cởi mở, không kỳ thị, không cố chấp vào bất cứ một quan điểm, một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào để có thể chuyển hóa hạt giống cuồng tín, giáo điều và thiếu bao dung trong con và trên thế giới.

Giới Thứ Hai: Hạnh phúc chân thật

Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp, áp bức và bất công xã hội gây ra, con nguyện thực tập chia sẻ thời giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ thiếu thốn, trên cả ba phương diện: tư duy, nói năng và hành động trong đời sống hằng ngày. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện thực tập nhìn sâu để thấy được hạnh phúc và khổ đau của người kia có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc và khổ đau của chính con. Con biết hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có hiểu biết và thương yêu, trong khi đó đi tìm hạnh phúc bằng cách chạy theo quyền lực, danh vọng, giàu sang và sắc dục có thể đem lại nhiều hệ lụy và tuyệt vọng. Con ý thức được hạnh phúc chân thực phát sinh từ cách nhìn của con mà không phải từ bên ngoài đem tới. Thực tập tri túc giúp con sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại để nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà con đang có. Con nguyện thực tập Chánh mạng để có thể làm giảm thiểu khổ đau của mọi người, mọi loài, bảo hộ được trái đất và chấm dứt những nguyên nhân gây biến đổi khí hậu bất thường.

Giới Thứ Ba: Tình thương đích thực

Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con nguyện thực tập theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo hộ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người, mọi gia đình và xã hội. Con biết tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau. Những liên hệ tình dục do sự thèm khát gây nên luôn mang tới những hệ lụy và đổ vỡ cho con và cho người khác. Con nguyện không ăn nằm với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức lâu dài. Con sẽ làm mọi cách để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con, để thấy được sự thật thân tâm nhất như và nguyện nuôi lớn các đức Từ, Bi, Hỷ và Xả, tức là những yếu tố căn bản của một tình yêu thương đích thực, làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con biết thực tập Tứ vô lượng tâm, con sẽ được tiếp tục đẹp đẽ và hạnh phúc trong tương lai.

Giới Thứ Tư: Ái ngữ và lắng nghe

Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm và thiếu khả năng lắng nghe gây ra, con nguyện học hạnh Ái ngữ và Lắng nghe để có thể hiến tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt nỗi khổ đau của người. Con nguyện tìm cách đem lại an bình và hòa giải giữa mọi người, giữa các quốc gia, chủng tộc và tôn giáo. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hay khổ đau cho người, con nguyện học nói những lời có khả năng gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói gì khi cơn giận đang có mặt trong con. Con nguyện tập thở và đi trong chánh niệm để nhìn sâu vào gốc rễ của cơn giận ấy, để nhận diện những tri giác sai lầm trong con và tìm cách hiểu được những khổ đau trong con và trong người mà con đang giận. Con nguyện học nói sự thật và lắng nghe sâu để có thể giúp người kia thay đổi và vượt thoát những khó khăn đang gặp phải. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và trong đoàn thể. Con nguyện thực tập Chánh tinh tấn để nuôi dưỡng khả năng hiểu biết, thương yêu, hạnh phúc và không kỳ thị nơi con, để làm yếu dần những hạt giống bạo động, hận thù và sợ hãi mà con đang có trong chiều sâu tâm thức.

Giới Thứ Năm: Nuôi dưỡng và trị liệu

Ý thức được những khổ đau do sự tiêu thụ thiếu chánh niệm gây nên, con nguyện học hỏi cách chuyển hóa thân tâm, nuôi dưỡng sức khỏe cơ thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực để tránh tiêu thụ những thực phẩm độc hại. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ bất cứ một sản phẩm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới toàn cầu, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, sách báo, bài bạc và chuyện trò. Con nguyện thực tập thường xuyên trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những gì tươi mát, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong con và xung quanh con mà không để cho tiếc nuối và ưu sầu kéo con trở về quá khứ; không để lo lắng và sợ hãi kéo con đi về tương lai. Con nguyện không tiêu thụ chỉ để khỏa lấp khổ đau, cô đơn và lo lắng trong con. Con nguyện nhìn sâu vào tự tính tương quan tương duyên của vạn vật để học tiêu thụ như thế nào mà duy trì được an vui trong thân tâm con, trong xã hội và trong môi trường sống.

Phụ lục A: Tóm tắt những thực tập căn bản

Đây là bản ghi nhớ chỉ dành riêng cho lớp học – không phù hợp cho việc thực tập cá nhân hay tùy tiện áp dụng trong những môi trường khác. Những chỉ dẫn đầy đủ cho những thực tập này nằm trong các chương sách. Bạn nhớ đọc lại kỹ những chi tiết và những chỉ dẫn cho đến khi thuần thục trước khi bắt đầu hướng dẫn cho mọi người.

  1. Tiếp xúc với hơi thở
  2. Thỉnh chuông và nghe chuông
  3. Thiền ngồi
  4. Thiền đi
  5. Ý thức về thân thể và hơi thở
  6. Mười động tác chánh niệm
  7. Thiền buông thư
  8. Thiền ăn (Thiền quýt)
  9. Tiếp xúc với cảm thọ qua hơi thở
  10. Đi qua cơn bão
  11. Thiền sỏi
  12. Chia sẻ vòng tròn
  13. Thực tập làm mới

Thực tập căn bản

Tiếp xúc với hơi thở

Các bước thực hiện  
Chuẩn bị  
– Thư giãn, thoải mái, tư thế ngồi vững chãi như một trái núi.
– Ghế ngồi, gối ngồi (bồ đoàn), nền nhà – miễn là mình ngồi thật thoải mái.
– Chuông (không bắt buộc).
Ý thức mình đang thở
– Nhắm mắt lại hay khép hờ hai mắt.
– Ý thức rõ ràng về hơi thở vào – ra.
– Không cần phải thay đổi bất cứ điều gì.
Theo dõi hơi thở
– Để ý tới thân thể và những cảm nhận về thân thể.
– Theo dõi chiều dài hơi thở vào/ra.
– Cảm được hơi thở đang đi đến mũi, miệng, cổ họng và hai buồng phổi.
– Đem tâm trở về với hơi thở khi thấy có sự xao lãng.
Thở bụng (không bắt buộc)
– Đặt hai tay lên bụng, ý thức sự phồng xẹp của bụng.
– Để ý chiều dài hơi thở, sự chuyển tiếp giữa hơi thở vào và hơi thở ra.
Kết thúc
– Thỉnh một tiếng chuông (không bắt buộc).
– Thở ba hơi thở vào/ra.
– Nếu nhắm mắt thì từ từ mở mắt ra.  
Mục đích  
Thấy được hơi thở như một người bạn, là nơi nương tựa, luôn có mặt cho chúng ta bây giờ và ở đây.
Chế tác sự chú tâm và định tĩnh.  
Làm lắng dịu thân tâm nhằm giúp xử lý những cảm xúc khó chịu.
Buông thư và giảm bớt căng thẳng.  
Hợp nhất thân tâm, tiếp xúc với những màu nhiệm của sự sống.
Có mặt cho những cảm thọ, cho chính ta và những người xung quanh.
Cần chuẩn bị  
Giáo viên thật sự hiểu và làm quen với hơi thở, với tiếng chuông và sự thực tập thiền ngồi.
Một cái chuông và dùi thỉnh chuông (không bắt buộc, nhưng nên có).  
Câu hỏi quán chiếu
– Ngay bây giờ ta cảm thấy như thế nào (thân, tâm và hơi thở)?
– Điều gì đã xảy ra? Ta đã cảm thấy như thế nào? Có gì thay đổi không?
– Để tập trung vào hơi thở thì có khó lắm không? Tâm ta có bị rong ruổi hay không?  
Hướng dẫn dành cho giáo viên  
Không cần thiết phải can thiệp, kiểm soát hay thay đổi bất cứ điều gì, chỉ đơn giản là quan sát và theo dõi hơi thở.  
Một vài thực tập khác
– Thực tập thở ở tư thế nằm hoặc đứng. Cảm thấy sự khác biệt như thế nào?
– Thực tập thở với các ngón tay: dùng ngón trỏ của tay này lướt lên, lướt xuống ngón cái và những ngón khác của tay kia với hơi thở vào ra.
– Đặt ngón tay trỏ dưới mũi và cảm nhận luồng không khí vào ra, những thay đổi về sự nóng và mát của luồng không khí đó…
– Ngay bây giờ, bạn thấy hơi thở đang ở đâu trong cơ thể mình?
– Ý thức về chiều dài hơi thở vào, chiều dài hơi thở ra. Hơi thở được kéo dài ra sao?
– Kết hợp hơi thở và nụ cười.
– Đếm hơi thở từ 1 đến 10 và trở lại. Để ý xem tâm ý có chạy lung tung hay không?
– Việc thực tập có thể sẽ thú vị hơn khi kết hợp với những đồ vật như lông vũ, giấy, nước đá, bong bóng, v.v…
– Đọc theo những lời hướng dẫn quán chiếu về hơi thở (ở phía lề phải của trang này).  
Lời hướng dẫn quán chiếu hơi thở  
Thở vào, tôi biết tôi đang thở vào.
Thở ra, tôi biết tôi đang thở ra.
Thở vào, tôi thấy khỏe.
Thở ra, tôi mỉm cười.  

Thực tập căn bản

Thỉnh và nghe chuông chánh niệm

Các bước thực hiện  
Chuẩn bị trong nhóm
– Ổn định và lắng dịu thân tâm, ngồi thẳng và buông thư.
– Giải thích (một cách tóm tắt) về việc thực tập với tiếng chuông, như gợi ý dưới đây:
Thức chuông – báo hiệu tiếng chuông tròn sắp được thỉnh lên
– Đặt chuông trên lòng bàn tay để ngang tầm mắt, hoặc trên các đầu ngón tay đã khép vào nhau.
– Thở vào, thở ra.
– Chạm dùi chuông lên thành chuông đủ để tạo ra một tiếng thức chuông nhẹ và để yên cho đến khi âm thanh đó tắt dần.
Không bắt buộc: có thể đọc thầm bài kệ nghe chuông (đã nêu ở trang trước/bìa phải (trái) của trang này) trước khi thức chuông.
Thỉnh tiếng chuông tròn
– Thở vào và ra một hơi thật chánh niệm.
– Đọc thầm hoặc đọc lớn bài kệ nghe chuông (không bắt buộc).
Lắng nghe tiếng chuông tròn
– Để hết tâm ý vào hơi thở vào và hơi thở ra, để cho tiếng chuông đi vào một cách sâu lắng.
– Lắng dịu thân tâm qua ba hơi thở vào/ra.
– Kết hợp với hơi thở, lắng nghe hoặc tự đọc thầm theo bài kệ nghe chuông (không bắt buộc).  
Mục đích  
Chế tác và thưởng thức những giây phút chánh niệm.
Dừng lại và ý thức về hơi thở và cảm thọ của mình.
Làm lắng dịu và thư giãn thân tâm.
Cải thiện bầu không khí trong lớp học: mang lại nhiều bình an, hạnh phúc cũng như sự buông thư và tập trung hơn.
Thiết lập truyền thông với tự thân và với mọi người xung quanh.  
Cần chuẩn bị  
Chuông và dùi chuông (tùy theo hoàn cảnh để chọn loại chuông thích hợp).
Giáo viên đã biết cách thực tập thỉnh chuông và nghe chuông.  
Kệ nghe chuông  
Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe (thở vào).
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm (thở ra).
Thỉnh một tiếng chuông thật tròn, trong và thanh  
Câu hỏi quán chiếu
– Ta đang cảm thấy như thế nào ngay bây giờ, về thân, tâm và hơi thở?
– Điều gì đã xảy ra cho ta?
– Ta có tiếp xúc được với sự bình an khi nghe chuông hay không? Hay, ta vẫn lo lắng, bực bội hoặc bị tán tâm?
– Ta có khả năng đem tâm về với tiếng chuông hoặc hơi thở khi những suy nghĩ xuất hiện trong đầu không?
– Duy trì sự tập trung vào tiếng chuông khó hay dễ?  
Hướng dẫn dành cho giáo viên
Thỉnh chuông với một tâm thái nhẹ nhàng, bình an và chú tâm nhưng nhớ buông thư bằng một nụ cười.
Luôn ân cần, cẩn thận mỗi lần tiếp xúc với chuông, đồng thời khuyến khích học sinh, sinh viên cũng làm như vậy.
Tránh không sử dụng chuông như một dụng cụ để kỷ luật.
Giữ cho sự thực tập luôn tươi mới và luôn tạo cảm hứng cho người thực tập, tránh lạm dụng hoạt động này.  
Một vài thực tập khác khi nghe chuông
– Để ý đến những suy nghĩ đang phát sinh và nhẹ nhàng cho nó qua đi.
– Mỉm cười.
– Để tiếng chuông thấm sâu vào các tế bào của cơ thể.
– Cùng tiếng chuông tiếp xúc với chốn bình an với hải đảo tự thân bên trong của mình.
– Nghe chuông và đếm hơi thở.
– Mời học sinh di chuyển quanh phòng học, mỗi khi nghe tiếng chuông thỉnh lên các em dừng lại và theo dõi hơi thở vào/ra.  
Kệ thỉnh chuông  
Ba nghiệp lắng thanh tịnh
Gửi lòng theo tiếng chuông
Nguyện người nghe tỉnh thức
Vượt thoát nẻo đau buồn.  

Thực tập căn bản

Thiền ngồi

Các bước thực hiện  
Chọn tư thế ngồi
– Chọn cho mình một thế ngồi thoải mái để cảm thấy yên lắng và dễ chịu.
– Ngồi thẳng nhưng buông thư – vững chãi như một ngọn núi.
– Đầu thẳng với cột sống, cằm hơi cúi nhẹ xuống.
– Có thể ngồi trên ghế, trên gối ngồi hay trên chiếu, trên sàn nhà miễn là thấy thích hợp với mình.
– Nhắm mắt lại hoặc có thể mở hé nhìn xuống một điểm nào đó trước mặt mình.
– Buông thư khuôn mặt và quai hàm.
Tiếp xúc
– Nếu ngồi trên ghế, cảm nhận sự tiếp xúc giữa bàn chân và sàn nhà.
– Nếu ngồi trên gối ngồi hoặc trên chiếu, giữ ba điểm: bàn tọa và hai đầu gối chạm sát mặt đất. Nếu hai đầu gối chưa chạm sát đất thì dùng gối ngồi để kê thêm ở hai đầu gối.
– Để cho thân thể nghỉ ngơi, cảm nhận sự nâng đỡ bên dưới cơ thể mình.
Ngồi
– Thỉnh một tiếng chuông để bắt đầu thực tập thiền ngồi.
– Ý thức hơi thở vào và hơi thở ra.
– Thở vào, hơi thở sâu hơn; thở ra, hơi thở chậm lại.
– Thở vào, tĩnh lặng; thở ra, nhẹ nhàng.
– Thở vào, mỉm cười; thở ra, buông thư.
– Thở vào, hiện tại; thở ra, tuyệt vời.
Kết thúc
– Với ba hơi thở, đưa ý thức tiếp xúc với nền nhà, với ghế ngồi hay bồ đoàn.
– Thỉnh một tiếng chuông để kết thúc.
– Nhẹ nhàng co duỗi tay chân, mở mắt, mỉm cười và theo dõi hơi thở.  
Mục đích  
Luyện khả năng lắng yên, định tĩnh và buông thư thân tâm.
Đưa tâm trở về với thân.
Thực tập để nuôi dưỡng ý thức là mình đang còn sống.
Phát triển ý thức chánh niệm về thân thể, cảm thọ và tâm ý.
Ý thức hơn về sự liên hệ giữa mình và mọi người, mọi loài xung quanh.  
Cần chuẩn bị  
Giáo viên đã có kinh nghiệm trong việc thực tập ngồi thiền.
Ghế, gối ngồi (bồ đoàn), chiếu ngồi…
Chuông và dùi thỉnh chuông (không bắt buộc nhưng nên có).  
Câu hỏi quán chiếu
– Ta đang cảm thấy như thế nào ngay bây giờ, về thân, tâm và hơi thở?
– Thực tập ngồi thiền cho ta cảm giác như thế nào? Kinh nghiệm của mỗi lần ngồi giống nhau hay khác nhau?
– Tâm ta đang ở đâu hôm nay? Căng thẳng, tĩnh lặng hay tán loạn?
– Thân thể ta ở đâu? Ta có ngồi được trong sự tĩnh lặng và thoải mái hay không? Ta có đổi thế ngồi (khi cần) trong chánh niệm hay không?
– Khi tâm đi lang thang, ta có thể đưa tâm về với giây phút hiện tại hay không?  
Hướng dẫn dành cho giáo viên
Ngồi trong im lặng để yểm trợ cho sự định tâm – trừ khi ngồi thiền có hướng dẫn
Thế ngồi thẳng nhưng buông thư.
Cảm nhận sự tĩnh lặng và sự tiếp xúc với đất Mẹ.
Để ý đến hơi thở vào ra một cách tự nhiên mà không cố gắng làm thay đổi nó.
Nhẹ nhàng giúp học sinh/sinh viên điều chỉnh thế ngồi của mình cho đúng (không bắt buộc).  
Một vài cách thực tập khác
– Có thể ngồi thiền với thời gian lâu hơn.
– Có thể liên tưởng đến những hình ảnh giúp cho thế ngồi được vững chãi: (1) một cội cây trong cơn bão; (2) một tảng đá giữa dòng sông đang chảy xiết.
– Những hình ảnh giúp ta buông bỏ suy nghĩ và cảm thọ: (1) ngồi bên lề đường mặc xe cộ cứ lướt qua – những chuyến xe buýt chở đầy suy nghĩ đến rồi đi; (2) ngồi yên trên bờ quan sát dòng sông đang chảy; (3) những diễn viên liên tục xuất hiện và biến mất trên sân khấu hoặc trong phim.
– Ý thức về âm thanh; chú ý tới cường độ, âm lượng và nhịp điệu…
– Kết thúc thực tập bằng việc quán chiếu những gì đã xảy ra.  
 

Thực tập căn bản

Thiền đi

Các bước thực hiện  
Chuẩn bị và giải thích (ngắn gọn)
– Cùng hát thiền ca để gom năng lượng chung (không bắt buộc).
– Hướng dẫn có minh họa rõ ràng cách đi, ý thức đến hơi thở và bước chân.
– Đưa sự chú tâm về với hơi thở và bước chân khi thấy mình bị lạc vào suy nghĩ (có thể sử dụng những bài thi kệ khi thiền đi).
– Đi chậm rãi, theo vòng tròn hoặc theo sau người hướng dẫn.
– Đừng quên thưởng thức những màu nhiệm của sự sống đang có mặt trong mỗi phút giây.
Đứng chánh niệm
– Chuông: ý thức về hơi thở, thân thể và giây phút hiện tại
– Ý thức về sự tiếp xúc giữa bàn chân và sàn nhà hoặc mặt đất. Ý thức về tư thế đứng thẳng buông thư của mình. Giữ cho thân tâm thật sự thăng bằng và vững chãi trên mặt đất.
Đi chánh niệm
– Bắt đầu, đi thật thoải mái và tự do.
– Ý thức đến sự tiếp xúc giữa lòng bàn chân và mặt đất.
– Bước từng bước một thật chánh niệm.
– Thỉnh thoảng nếu có những suy nghĩ khởi lên, nhẹ nhàng mỉm cười và đưa ý thức trở về với bước chân và hơi thở.
– Kết hợp hơi thở và bước chân (ví dụ: thở vào bước hai bước, thở ra bước ba bước…).
Dừng lại / Kết thúc
– Đứng thẳng trong chánh niệm, ý thức đến hơi thở và thân thể.
– Chuông (không bắt buộc).
– Ý thức về sự vững chãi mình đang có. Ý thức về mong muốn bước tiếp trong mình.  
Mục đích  
Đưa tâm trở về hợp nhất với thân trong giây phút hiện tại.
Thưởng thức sự chậm rãi, không vội vã.
Nuôi dưỡng thêm ý thức về thân thể của mình qua từng chuyển động.
Ý thức hơn về sự liên hệ mật thiết giữa hơi thở, cảm thọ và các sự chuyển động của thân thể.
Phát triển sự chú tâm, định tĩnh, giảm bớt căng thẳng, lo lắng và buông bỏ những suy nghĩ.
Trở về tiếp xúc với tự thân và ý thức hơn những màu nhiệm của sự sống quanh mình.  
Cần chuẩn bị  
Giáo viên đã có kinh nghiệm trong việc thực tập đi thiền.
Chọn một địa điểm thích hợp, lúc đầu có thể chọn đi trong một vòng tròn nhỏ.
Điểm qua những lời chỉ dẫn trước khi bắt đầu thực tập.
Chuông và dùi chuông (không bắt buộc nhưng nên có).  
Câu hỏi quán chiếu
– Ngay bây giờ tâm ta, hơi thở và thân thể ta đang ở đâu?
– Ta đã chú ý những gì: vào bên trong, cảm thọ, thân thể, hơi thở và môi trường xung quanh?
– Có sự khác biệt so với khi ta đi bình thường hay không? Khác biệt như thế nào?
– Sự thực tập này khó hay dễ? Vui, chán, lắng yên hay thử thách?
– Đi trong im lặng, ta cảm thấy như thế nào? Khi đi với người khác thì thấy thế nào?
– Tâm ý có được tập trung không hay lang thang? Có khả năng đem tâm về với hơi thở và bước chân không?  
Hướng dẫn dành cho giáo viên
Đi trong im lặng để tâm ý được tập trung.
Ý thức đến hơi thở và bước chân.
Khi tâm ý rong ruổi, nhẹ nhàng đem tâm trở về với giây phút hiện tại.
Để ý đến sự liên hệ giữa hơi thở và bước chân, nhưng đừng cố ép bước chân và hơi thở phải khớp nhau.
Giữ một nhịp đi tự nhiên và thoải mái.
Đi chung với nhau như một dòng sông.
Buông thư và thưởng thức những âm thanh, quan cảnh, mùi vị khác nhau quanh mình.  
Một vài cách thực tập khác
– Cho các em đi theo từng hàng thẳng và dừng vài giây trước khi chuyển hướng sang phải hay trái.
– Đọc thầm bài kệ về thiền đi, kết hợp mỗi câu thi kệ với một hơi thở.
– Đưa ý thức đến những bộ phận khác nhau trong cơ thể và theo dõi cảm thọ của mình.
– Thay đổi những tốc độ đi khác nhau: nhanh, chậm. Để ý đến sự khác biệt ảnh hưởng lên thân tâm mình.
– Đi với những tâm trạng khác nhau; đi với những tình huống khác nhau (đi trên cát); đi như những con vật khác nhau (đi như một con voi). Để ý những tác động khác nhau lên thân tâm khi có sự thay đổi hình thức đi.
– Có thể đi thiền lâu hơn theo nhóm, với sự hướng dẫn của giáo viên, thỉnh thoảng có thể dừng lại để cảm nhận xung quanh hoặc thưởng thức vài câu thơ.  
Thi kệ khi đi thiền  
Đã về/ đã tới
Bây giờ/ ở đây
Vững chãi/ thảnh thơi
Quay về/ nương tựa  

Thực tập căn bản

Ý thức về thân thể và hơi thở

Các bước thực hiện  
Bắt đầu
– Có thể nằm hoặc ngồi, thật thoải mái.
– Ổn định thân tâm, ngồi thật vững chãi và ý thức đến những chỗ cơ thể mình tiếp xúc với mặt đất/ghế ngồi.
– Chuông.  
Ý thức và theo dõi hơi thở
Đọc lớn và chậm rãi những câu hướng dẫn sau đây, khuyến khích các em thực tập kết hợp mỗi câu hướng dẫn với một hơi thở vào/ hơi thở ra.  
Thở vào, tôi biết là tôi đang thở vào.
Thở ra, tôi biết là tôi đang thở ra.
Thở vào, tôi theo dõi suốt chiều dài hơi thở vào từ đầu cho đến cuối.
Thở ra, tôi theo dõi suốt chiều dài hơi thở ra từ đầu cho đến cuối.
 
Ý thức về thân thể  
Thở vào, tôi ý thức là tôi đang có một thân thể.
Thở ra, tôi biết thân thể tôi đang ở đây.
Thở vào, tôi ý thức toàn thân.
Thở ra, tôi mỉm cười toàn thân.  
Làm lắng dịu và buông bỏ căng thẳng  
Thở vào, tôi ý thức về thân thể tôi.
Thở ra, tôi làm lắng dịu thân thể tôi.
Thở vào, tôi buông thư toàn thân.
Thở ra, tôi buông bỏ những căng thẳng trong thân thể tôi.
 
Kết thúc
Thỉnh một tiếng chuông.  
Mục đích
Nối kết thân tâm thành một mối.
Duy trì sự tập trung và ý thức về hơi thở, thân thể và tâm ý ngay bây giờ và ở đây.
Hơi thở như là chiếc cầu nối giữa thân và tâm.
Học cách xử lý những cảm thọ khó chịu và những cảm xúc mạnh.
Giảm bớt căng thẳng, tăng trưởng sự tĩnh lặng, thư giãn và hạnh phúc.  

Cần chuẩn bị  
Giáo viên có kinh nghiệm trong sự thực tập này.
Giáo viên và học sinh đã biết cách thực tập nghe chuông, biết theo dõi hơi thở và thiền ngồi.
Ghế ngồi hoặc chiếu ngồi.
Chuông và dùi chuông (không bắt buộc nhưng nên có).  
Quán chiếu
– Ta đang cảm thấy như thế nào ngay giây phút này?
– Thực tập này dễ hay khó?
– Tâm ý ta có bị rong ruổi trong khi thực tập không? Nếu có thì ta có biết cách để đưa tâm về với thân hay không?
– Có bộ phận nào trong cơ thể ta đang bị căng thẳng hay đau nhức nhiều hay không?  
Hướng dẫn dành cho giáo viên  
Dừng lại cho phép chúng ta thư giãn và buông thư thân thể.
Đưa sự chú ý đến toàn bộ cơ thể.
Tiếp xúc được với sự sống màu nhiệm trong ta và xung quanh ta.  

Thực tập căn bản

Mười động tác chánh niệm

Các bước thực hiện  
Bắt đầu
– Giải thích: chậm rãi, thong thả, buông thư và không căng thẳng.
– Bảo đảm mọi người có đủ không gian để tập (dang hai tay ra mà không chạm vào nhau).
– Đứng thoải mái với hai chân đặt vững trên mặt đất, điều chỉnh hai chân rộng ngang vai.
– Thả lỏng hai đầu gối, hai vai, đồng thời giữ thân cho thẳng và buông thư.
– Để ý đến hơi thở vào và hơi thở ra (có thể đặt hai tay trên bụng: không bắt buộc).
– Kết hợp hơi thở với mỗi động tác.  
Mười động tác chánh niệm  
1. Đưa tay lên
– Tư thế bắt đầu: đứng thẳng, hai tay để dọc theo thân thể, ý thức hơi thở.
– Thở vào: đưa hai tay lên về phía trước ngang với tầm vai, song song với mặt đất, lòng bàn tay úp xuống.
– Thở ra, đưa hai tay về lại vị trí ban đầu.
– Lặp lại động tác hai đến ba lần.  
2. Duỗi hai tay lên chạm trời
– Tư thế bắt đầu: đứng thẳng, hai tay để dọc theo thân thể, ý thức hơi thở.
– Thở vào: đưa hai cánh tay duỗi thẳng lên trời, hai lòng bàn tay hướng vào nhau, mắt nhìn lên.
– Thở ra, từ từ đưa hai tay về lại vị trí ban đầu.
– Lặp lại động tác hai đến ba lần.  
3. Mở rộng cánh tay (nở hoa)
– Tư thế bắt đầu: lưng thẳng, đưa hai tay lên cho các ngón tay chạm vào vai, giữ thẳng phần cánh tay song song với mặt đất.
– Thở vào: mở rộng hai cánh tay hai bên ngang tầm vai, lòng bàn tay ngửa lên.
– Thở ra: từ từ cong khủy tay trở về tư thế bắt đầu.
– Lặp lại động tác hai hoặc ba lần.  
4. Quay cánh tay
– Tư thế bắt đầu: đưa hai tay thẳng ra phía trước, lòng bàn tay chạm vào nhau.
– Thở vào: từ từ nâng hai cánh tay lên theo hình tròn phía trước rồi vòng lên trên đầu mình.
– Thở ra: tiếp tục đưa tay theo hình tròn vòng ra phía sau, cho đến khi hai tay hạ xuống, đưa về phía trước ở tư thế bắt đầu.
– Lặp lại động tác hai hoặc ba lần. Sau đó làm ngược lại.  
5. Quay nửa người
– Tư thế bắt đầu: đứng thẳng, hai tay đặt lên hông, chân thẳng nhưng không cứng, gập người về phía trước, đầu ngang với thắt lưng.
– Thở vào: từ từ quay phần thân trên sang trái rồi lui sau.
– Thở ra: tiếp tục quay thân trên nửa vòng còn lại từ sau sang phải rồi ra trước. Dừng lại trong tư thế gập người về phía trước, đầu ngang với thắt lưng.
– Tiếp tục quay thêm hai hoặc ba vòng. Sau đó lặp lại động tác theo chiều ngược lại.  
6. Duỗi người
– Tư thế bắt đầu: tiếp tục bằng tư thế kết thúc của bài tập thứ năm, lưng gập xuống. ngang thắt lưng, giữ lưng thẳng, cổ buông thư, hai cánh tay thả lỏng xuống chạm đất.
– Thở vào: từ từ nâng người lên, đưa hai cánh tay qua khỏi đầu và duỗi thẳng lên trời.
– Thở ra: cúi người xuống ở tư thế bắt đầu.
– Tiếp tục động tác này hai hoặc ba lần.  
7. Ngồi xổm (thế con cóc)
– Tư thế bắt đầu: đứng thẳng, hai tay đặt lên hông, chân đứng hình chữ V, hai gót chạm vào nhau.
– Thở vào: nhón gót, đứng thẳng lên bằng đầu các ngón chân, hai gót chân chạm vào nhau.
– Thở ra: vẫn tiếp tục nhón gót, kết hợp gập đầu gối và từ từ hạ người xuống thấp, giữ lưng thẳng.
– Lặp lại động tác hai đến ba lần.  
8. Duỗi chân
– Tư thế bắt đầu: lưng thẳng, hai tay chống hông, đặt trọng lượng lên chân trái.
– Thở vào: nhấc chân phải lên, giữ cong đầu gối, các ngón chân hướng xuống đất.
– Thở ra: duỗi chân phải thẳng ra về phía trước, các ngón chân hướng về phía trước.
– Thở vào: cong đầu gối lại và nâng đùi lên như vị trí bắt đầu, các ngón chân hướng xuống đất.
– Thở ra: đặt bàn chân phải xuống đất.
– Lặp lại hai đến ba lần, sau đó đổi chân.
9. Vẽ vòng tròn bằng chân
– Tư thế bắt đầu: hai tay chống hông, đặt trọng lượng lên chân trái.
– Thở vào: nhấc chân phải lên thẳng về phía trước, dùng chân phải vẽ vòng tròn từ trước qua phải, giữ chân thẳng.
– Thở ra: dùng chân vẽ tiếp vòng tròn ra phía sau, sau đó đưa nhẹ chân về chạm vào phần sau của chân trái.
– Thở vào/ thở ra: duỗi thẳng chân ra phía sau rồi vẽ nửa vòng tròn còn lại sang phải, về phía trước, rồi đặt chân xuống bên chân trái và đứng trên hai chân.
– Lặp lại động tác hai đến ba vòng bằng chân phải, sau đó đổi chân.  
10. Lao tới
– Tư thế bắt đầu: giữ nguyên chân trái và bước chân phải qua hai bước nghiêng thành một góc 90 độ, đặt tay trái lên hông trái, tay phải buông xuống một bên.
– Thở vào: cong gối phải xuống, dồn trọng lượng lên chân phải, đưa tay phải duỗi thẳng lên trời, đầu nhìn theo tay đang đưa lên, tay phải gần như song song với chân trái.
– Thở ra: thẳng gối phải lại và hạ tay phải xuống xuôi dọc theo cơ thể.
– Lặp lại động tác hai đến ba lần, sau đó đổi chân.
Kết thúc
– Đứng vững trên hai chân, hai bàn chân song song với nhau, hai vai mở rộng.
– Thỉnh một tiếng chuông và cùng theo dõi ba hơi thở vào/ra.
– Thật sự buông thư toàn thân (có thể đặt hai tay lên bụng).
– Nở một nụ cười im lặng để cảm ơn sự có mặt của nhau hoặc chắp tay xá chào.    
Mục đích  
Kết nối giữa thân và tâm.
Nâng cao ý thức, sự tập trung và chú ý đến những gì đang xảy ra bây giờ và ở đây qua các động tác.
Làm giảm bớt những căng thẳng và lo lắng.
Làm tăng sự trầm tĩnh, buông thư và hạnh phúc.  

Cần chuẩn bị  
Giáo viên đã có kinh nghiệm thực tập những động tác chánh niệm này.
Một không gian đủ rộng để mọi người dang rộng hai tay mà không chạm vào nhau (nếu không, có thể linh động điều chỉnh cho phù hợp với không gian hiện có).  

Hướng dẫn dành cho giáo viên  
Mục đích là đạt được sự ý thức, quân bình và linh hoạt, mà không phải là tập một cách cực nhọc.
Tùy theo lứa tuổi, tâm trạng, khả năng của nhóm học sinh và không gian cho phép để điều chỉnh cho thích hợp.    
Đối với hai động tác tiếp theo, để giữ thăng bằng ta có thể:
Nhìn vào một điểm trước mặt mình cách vài mét.
Vịn vào tường hoặc thành ghế để được nâng đỡ.  
Câu hỏi quán chiếu
– Bây giờ đây ta đang cảm thấy thế nào?
– Sự thực tập này khó hay dễ? Khó như thế nào? Dễ ra sao?
– Tâm ta có rong ruổi nhiều không? Nếu nhận ra tâm mình đang rong ruổi, ta có khả năng đưa tâm về với thân hay không?
– Ta có để ý xem có bộ phận nào trong cơ thể ta đang bị căng thẳng hay đau nhức nhiều hay không?  
 
Vài thực tập khác
Có thể đem sự thực tập chánh niệm vào những bài tập duỗi tay chân mà mình đã tập (yoga, những bài thể dục khởi động), hoàn toàn ý thức về động tác, thân, tâm và hơi thở.  
 

Thực tập căn bản

Thiền buông thư

Các bước thực hiện  
Ổn định
– Mời các em nằm xuống (nằm ngửa để lưng được thẳng).
– Cho các em đủ thời gian để ổn định, các em có thể nhắm mắt nếu muốn.
– Người hướng dẫn chọn chỗ ngồi nào có thể thấy rõ và quan sát được các em.
– Thỉnh ba tiếng chuông để bắt đầu.  
Thực tập
– Bắt đầu với sự ý thức về hơi thở và buông thư toàn thân.
– Từ từ đưa ý thức đến từng bộ phận của thân thể.
– Có thể đi theo thứ tự: toàn thân, bụng (phồng/xẹp), hai mắt, miệng, hai vai, hai cánh tay, trái tim, hông, hai cẳng chân, hai bàn chân, các ngón chân và toàn thân.
– Các bước buông thư cơ bản bao gồm: thở vào, thở ra với ý thức về lần lượt từng bộ phận của cơ thể; gỡ bỏ căng thẳng; đồng thời gởi đến từng bộ phận năng lượng dịu dàng, ân cần và biết ơn.
– Mỗi khi thấy tâm ý có sự rong ruổi, nhẹ nhàng đem tâm trở về với thân.
– Thỉnh thoảng nhớ đưa ý thức trở về qua hơi thở vào và ra.
– Giữa những câu hướng dẫn, để một khoảng trống ít nhất đủ để thở một hơi thở vào, một hơi thở ra trọn vẹn.  
Nhạc/Hát (không bắt buộc)
– Khi gần kết thúc buổi thực tập, có thể hát vài bài hát nhẹ nhàng, thư giãn.
– Giữa các bài hát, nên có thời gian nghỉ, yên lặng.
Chuẩn bị kết thúc
– Đưa ý thức trở về với hơi thở, để ý đến sự phồng/xẹp của bụng.
– Đưa ý thức đến hai cánh tay và hai chân.
– Nhấp chuông để báo cho mọi người biết là sẽ có một tiếng chuông tròn được thỉnh lên.
– Thỉnh một tiếng chuông để kết thúc.  
Kết thúc buổi thực tập (chậm rãi)
– Mời các em từ từ cử động các ngón tay và các ngón chân, co duỗi tay chân, mở mắt.
– Nghiêng người nhẹ sang hai bên, nhẹ nhàng co duỗi toàn thân rồi chậm rãi ngồi dậy.  
Mục đích  
Giảm căng thẳng, buông thư thân tâm.
Nuôi dưỡng sự kết nối giữa thân và tâm.
Tăng khả năng tỉnh thức, tập trung và chú ý vào những gì đang xảy ra bây giờ và ở đây.
Giảm bớt căng thẳng và lo lắng.  
Làm lớn mạnh thêm sự định tĩnh, lòng biết ơn, sự chấp nhận và hạnh phúc.

Cần chuẩn bị  
Giáo viên đã có kinh nghiệm thực tập thiền buông thư.
Nền nhà sạch, tấm trải và mền mỏng.
Mặc áo quần thoải mái dễ nằm, dễ buông thư (không chật bó sát người).
Một căn phòng ấm.
Chuông và dùi thỉnh.
Vài bài hát thiền ca.
Dán bên ngoài cửa một lời nhắc nhở nhẹ nhàng (ví dụ: “Xin giữ yên tĩnh”) để thực tập được thuận lợi hơn.  
Câu hỏi quán chiếu
– Bây giờ đây ta đang cảm thấy thế nào?
– Sự thực tập này khó hay dễ? Khó như thế nào? Dễ ra sao?
– Tâm ta có rong ruổi nhiều không? Nếu nhận ra tâm mình đang rong ruổi, ta có khả năng đưa tâm về với thân hay không?
– Ta có để ý xem có bộ phận nào trong cơ thể ta đang bị căng thẳng hay đau nhức nhiều hay không?  
Hướng dẫn dành cho giáo viên
Ý thức các bộ phận trên cơ thể, bắt đầu bằng ý thức hơi thở.
Đưa ý thức đến từng bộ phận của cơ thể, buông thư và giảm đi những căng thẳng.
Mỉm cười, gửi tình thương yêu và lòng biết ơn đến các bộ phận của cơ thể.
Để ý xem các em có gặp phải những vấn đề gì về thân thể hay không.
Đối với những em không muốn nằm, có thể mời các em ngồi trên ghế để buông thư.  
Vài thực tập khác
– Đưa ý thức đến những bộ phận khác nhau của thân thể.
– Có thể đi vào chi tiết hơn, ý thức sâu hơn vào từng bộ phận.
– Có thể thay đổi thứ tự của các bộ phận cần buông thư.
– Để ý đến bộ phận đang bị bệnh hoặc đau nhức, gởi tình thương và cho phép bạn ấy được nghỉ ngơi, thư giãn.
– Có thể buông thư ngoài trời giữa thiên nhiên.
– Có thể dùng vài hình ảnh: một đám mây mang mưa đến, một thác nước của ánh sáng, tia laser, tượng trưng cho năng lượng chánh niệm đến để làm thư giãn những bộ phận trong cơ thể.  
 

Thực tập căn bản

Thiền ăn (thiền quýt)

Các bước thực hiện  
Chuẩn bị
– Chuẩn bị quýt (hoặc thực phẩm đã chọn).
– Giới thiệu thực tập
– Cho học sinh biết mọi người sẽ cùng ăn chung với nhau, và đợi cho đến khi tất cả mọi người đều đã sẵn sàng mới bắt đầu.
– Hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động trong yên lặng.
Theo dõi hơi thở
– Thỉnh một tiếng chuông để mời mọi người ngồi yên và trở về với hơi thở.
– Chuyền quýt
– Chuyền quýt cho mọi người – tiếp tục theo dõi hơi thở trong lúc chuyền.
– Mời học sinh đặt quả quýt vào lòng bàn tay.
Quán chiếu
– Đọc hai câu đầu của phép thực tập quán chiếu thức ăn: “Quả quýt này là tặng phẩm của đất, trời, mưa, nắng. Con xin cảm ơn tất cả những người đã làm ra quả quýt này cho con, đặc biệt là bác nông dân và người bán hàng.”
– Quán chiếu về những yếu tố không-phải-quýt: hoa quýt, cây quýt, mặt trời, mưa, đất, phân hữu cơ, và tất cả những điều kiện có mặt để quả quýt trên tay chúng ta được biểu hiện.
Nhìn sâu
– Quan sát quả quýt trên tay mình như thể là mình chưa từng thấy quả quýt này bao giờ.
– Chú ý đến màu sắc, cấu tạo, hình dạng quả quýt…
– Chú ý đến sự khác nhau giữa mặt phía trên và phía dưới của quả quýt
– Nhận biết những phản ứng đang diễn ra trong cơ thể mình: sự trông đợi, tiết nước bọt, không thích quýt…
Ngửi
Ngửi quýt – chú ý cảm nhận ở các nơi: lỗ mũi, vòng họng, cổ họng.
– Bóc quýt
– Bóc vỏ quýt – chú ý khi bóc cảm thấy quả quýt như thế nào, nhìn kỹ vỏ quýt.
– Đặt gần tai mình để nghe âm khi bóc vỏ quýt như thế nào.
– Tách lấy một múi quýt.
Đưa vào miệng và ăn
– Đặt một múi quýt lên lưỡi; cố gắng đừng nhai và nuốt ngay.
– Chú ý phản ứng trong miệng mình như thế nào: tiết nước bọt, muốn nhai ngay múi quýt.
– Cuộn múi quýt quanh trong khoang miệng – chú ý cảm giác xúc chạm vân múi quýt, cắn nhẹ nhàng, chú ý vị quýt, nhai và nuốt; hãy có mặt hoàn toàn trong từng hành động khi ăn quýt.
Sau khi ăn
Ngồi yên và theo dõi hơi thở; trải nghiệm dư vị của múi quýt trong miệng – chú ý sự thôi thúc trong mình muốn ăn múi tiếp theo.  
Kết thúc
– Ăn hết phần quýt còn lại.
– Ngồi yên, trở về với hơi thở, với lòng biết ơn.  
Mục đích  
Có chánh niệm khi ăn uống để biết mình đang ăn gì và ăn như thế nào.
Nuôi dưỡng nhận thức về thói quen ăn uống, tiêu thụ có chừng mực.
Nuôi dưỡng lòng biết ơn thông qua việc nhận thức thức ăn đến từ đâu.  
Cần chuẩn bị  
Mỗi người một quả quýt.
Chuông (khuyến khích nên có).
Khăn giấy, nước rửa tay khô, khăn ướt để vệ sinh tay trước và sau khi ăn.
Hướng dẫn dành cho giáo viên
Chuyền thức ăn cho nhau và chuẩn bị thức ăn trong chánh niệm.
Chú ý để có mặt hoàn toàn cho mọi hoạt động – thân thể, cảm thọ và tâm thức.
Ý thức và lưu tâm đến cả nhóm; sử dụng nụ cười và cách chắp tay xá chào nhau.
Quán chiếu thức ăn một cách sâu sắc: nhìn thấy được các yếu tố mưa, nắng, đất, không khí và tình thương có mặt trong thức ăn.
Nhìn, ngửi, nhai, nếm, và thưởng thức từng mẩu thức ăn một cách ý thức.
Để ý đến những thói quen và cảm xúc có thể liên quan đến việc ăn uống; hãy ý thức và chăm sóc khi những cảm xúc mạnh đi lên.    
Tập ăn chánh niệm một hay nhiều lần trong một bữa ăn nhẹ hoặc bữa ăn thông thường.
Xem phần hướng dẫn đầy đủ cho những thực tập cốt lõi này ở Chương “Thiền ăn”.  
Câu hỏi quán chiếu
– Trải nghiệm của mình như thế nào ở từng hành động khác nhau trong quá trình ăn quýt, trong thân thể và trong tâm thức?
– Nó có khác với khi mình ăn bình thường không? Khác như thế nào?
– Chúng ta cảm thấy như thế nào khi quán chiếu thức ăn đến từ đâu? Cảm thấy biết ơn, có sự kết nối không?
– Chúng ta cảm thấy như thế nào khi ăn trong yên lặng?
– Chúng ta cảm thấy như thế nào khi cùng ăn theo cách này với mọi người xung quanh?  
 
Những cách ăn đơn giản khác
– Thực tập ăn chánh niệm với bất kỳ loại thức ăn nào có kích cỡ nhỏ.
– Ăn miếng đầu bình thường và ăn miếng thứ hai trong chánh niệm; để ý đến sự khác biệt giữa hai miếng.  
 

Thực tập căn bản

Sử dụng hơi thở để tiếp xúc với cảm xúc

Các bước thực hiện  
Chuẩn bị nhóm
– Vị trí: thoải mái, thư giãn, vững vàng (ngồi hoặc nằm xuống)
– Thỉnh chuông và bắt đầu
– Thỉnh một tiếng chuông để bắt đầu.
Chú ý mình đang thở
– Ý thức hơi thở.
– Không cần phải thay đổi, chỉ cần nhận diện hơi thở như nó đang là.
Cảm nhận hơi thở bụng
– Đặt hai tay lên bụng, chú ý đến sự phồng lên, xẹp xuống của bụng.
– Chú ý đến chiều dài của hơi thở; ý thức khoảng nghỉ giữa hai hơi thở vào, ra.
Sử dụng hơi thở để làm lắng dịu thân tâm
– Ý thức về nội tâm, thân thể, tâm trạng, cảm giác, sự căng thẳng.
– Không cần thay đổi bất cứ điều gì, chỉ nhận diện đơn thuần như nó đang là.
– Thở vào, thở ra, nhẹ nhàng buông thư những căng thẳng, khó chịu.
Thở vào, tôi làm lắng dịu tâm hành.  
Thở ra, tôi làm lắng dịu cảm thọ trong tôi.
Nếu muốn,
thỉnh một tiếng chuông để kết thúc ở đây.
Tận hưởng niềm vui và hạnh phúc
– Ý thức hơi thở vào – ra.
– Ý thức những bộ phận khoẻ mạnh trên cơ thể. Thở và tận hưởng.
– Ý thức cảm giác hạnh phúc. Thở và tận hưởng.
Thở vào, tôi thấy vui khi hai mắt còn sáng.
Thở ra, tôi mỉm cười với niềm vui trong tôi.
Thở vào, tôi thấy hạnh phúc được ngồi đây trong bình an.
Thở ra, tôi mỉm cười với niềm hạnh phúc trong tôi.

Nếu muốn, thỉnh một tiếng chuông để kết thúc ở đây.
Ý thức khổ đau đang có mặt
– Ý thức những cảm giác khó chịu trong thân và tâm, như là: sự giận dữ, nỗi buồn, lo lắng.
– Làm lắng dịu niềm đau.
– Thở vào, tôi ý thức niềm đau đang có trong tôi.
– Thở ra, tôi làm lắng dịu niềm đau trong tôi.
– Thở với niềm đau, chào nó, và ôm ấp nó.  
Xin chào, cảm xúc của tôi.
Tên của em là (x).
Tôi biết em đang có đó.
Tôi sẽ chăm sóc tốt cho em.
Chuông và kết thúc
Thỉnh một tiếng chuông để kết thúc bài tập này. Mời mọi người cùng thở trong khi nghe chuông.  
Mục đích
Làm lắng dịu và buông thư thân và tâm.
Tiếp xúc với hơi thở bụng, đem tâm trở về với thân trong giây phút hiện tại.
Nhận diện những cảm giác đang diễn ra trong thân và tâm.
Chế tác bình an, niềm vui và hạnh phúc.
Nhận diện và ôm ấp những nỗi khổ, niềm đau.  

Cần chuẩn bị
Giáo viên và học sinh đã quen với thực tập hơi thở, nghe chuông, ngồi yên, tiếp xúc thân thể.
Chuông và dùi thỉnh.  

Hướng dẫn dành cho giáo viên
Hạnh phúc và khổ đau tương tức nhau, không có bùn thì không có sen.
Chánh niệm sẽ tưới tẩm những hạt giống lành trong tàng thức của chúng ta (hạt giống hạnh phúc, niềm vui, từ bi).
5 bước chăm sóc những cảm xúc mạnh: nhận diện, chấp nhận, ôm ấp, nhìn sâu và thấu hiểu.
Thực tập từ từ, có thể thực tập vài lần nếu cần; bắt đầu từ cảm giác lắng dịu, niềm vui, hạnh phúc đến những nỗi khổ, niềm đau.  
Câu hỏi quán chiếu
– Ta đang cảm thấy như thế nào ngay bây giờ, về thân, tâm và hơi thở?
– Tác động của việc thực tập như thế nào lên thân, tâm và hơi thở?
– Sự thực tập này dễ hay khó?
– Áp dụng thực tập này vào đời sống hàng ngày như thế nào?  
 

Thực tập căn bản

Cội cây trong cơn bão

Các bước thực hiện  
Bắt đầu
– Tìm một tư thế ngồi hoặc nằm thoải mái, thư giãn, vững vàng.
– Thỉnh một tiếng chuông.
– Theo dõi hơi thở
– Ý thức hơi thở vào – hơi thở ra.
– Không cần phải thay đổi, chỉ nhận diện hơi thở đơn thuần.
Thở bụng
Đặt tay lên bụng, ý thức sự phồng lên xẹp xuống của bụng.
– Ý thức chiều dài của từng hơi thở.
– Ý thức về khổ đau
– Nhận diện cảm giác khó chịu trong tâm và thân, như là: những đau nhức trong thân thể, cơn giận, nỗi buồn.
– Thở cùng nó, chào hỏi nó và ôm ấp nó.
Cội cây
– Hãy tưởng tưởng mình là một cội cây – bụng là thân cây, tay là nhánh cây.
– Cảm xúc mạnh giống như một cơn bão làm lay động cành cây.
– Ý thức vùng bụng – trở nên vững chãi và bám rễ vào đất.
– Trở về với hơi thở và giữ ý thức về sự phồng lên xẹp xuống của bụng.
Thở vào, tôi làm lắng dịu cảm xúc mạnh.
Thở ra, tôi mỉm cười với cảm xúc mạnh trong tôi.
– Những cơn bão cảm xúc vẫn đang còn đó, hãy duy trì hơi thở ý thức.
– Cơn bão sẽ sớm đi qua.
Chuông và kết thúc
– Thỉnh một tiếng chuông để kết thúc.
– Thở trong chánh niệm khi nghe tiếng chuông.  
Mục đích
Tận hưởng khoảnh khắc hiện tại thông qua hơi thở.
Nuôi dưỡng năng lượng vững chãi để duy trì sự bình an trong bất kỳ thời điểm nào.
Lắng dịu và thư giãn thân tâm.
Làm tăng trưởng sự vững chãi và an toàn về mặt cảm xúc.  

Cần chuẩn bị
Giáo viên và học sinh đã quen với việc thở bụng và tiếp xúc với các cảm thọ.
Chuẩn bị tấm trải nếu muốn thực tập trong tư thế nằm.
Chuông và dùi thỉnh (không bắt buộc nhưng nên có).  

Hướng dẫn dành cho giáo viên
Áp dụng hình ảnh cội cây: thân cây mạnh mẽ và vững chãi trong khi những cảm xúc đến làm lay động cành cây.
Thích hợp khi hướng dẫn cho trẻ em.
Có thể thực tập vào cả những thời điểm có khó khăn hay bình an.
Sẵn sàng dành không gian cho những cảm xúc mạnh.
Chỉ tập trung vào một cảm xúc ở một thời điểm nhất định.  
Câu hỏi quán chiếu
– Tôi đang cảm thấy như thế nào?
– Sự thực tập có tác động như thế nào lên thân thể, cảm thọ và hơi thở của tôi?
– Thực tập như vậy dễ hay khó?
– Tôi áp dụng sự thực tập này như thế nào và vào dịp nào để giúp chăm sóc những cảm xúc của mình trong đời sống hàng ngày?  
 

Thực tập căn bản

Thiền sỏi

Các bước thực hiện  
Bắt đầu
– Giới thiệu bài thực tập.
– Hướng dẫn mỗi học sinh chọn 4 viên sỏi, tượng trưng cho núi, cho hoa, cho nước và cho không gian.
– Cho học sinh đặt các viên sỏi xuống đất bên tay trái các em.
– Thỉnh một tiếng chuông để bắt đầu.
Viên sỏi thứ nhất: Bông hoa
– Nhặt viên sỏi tượng trưng cho bông hoa và đặt vào lòng bàn tay.
Thở vào, tôi thấy tôi là một bông hoa.
Thở ra, tôi thấy tươi mát.
Bông hoa, tươi mát.
– Thỉnh một tiếng chuông, thở vào, thở ra 3 lần và nói thầm:
Bông hoa (Thở vào).
Tươi mát (Thở ra).
– Đặt viên sỏi xuống đất bên tay phải.
Viên sỏi thứ hai: Núi
– Nhặt viên sỏi tượng trưng cho ngọn núi và đặt vào lòng bàn tay.
Thở vào, tôi thấy tôi là núi.
Thở ra, tôi thấy vững chãi.
Núi, vững chãi.  
– Thỉnh một tiếng chuông, thở vào, thở ra 3 lần và nói thầm:
Núi (Thở vào).
Vững chãi (Thở ra).
– Đặt viên sỏi xuống đất bên tay phải.
Viên sỏi thứ ba: Nước tĩnh
– Nhặt viên sỏi tượng trưng cho nước tĩnh và đặt vào lòng bàn tay.
Thở vào, tôi thấy tôi là nước tĩnh
Thở ra, tôi thấy tôi tĩnh lặng, lặng chiếu sự vật đích thực
Nước tĩnh, lặng chiếu.

– Thỉnh một tiếng chuông, thở vào, thở ra 3 lần và nói thầm:
Nước tĩnh (Thở vào).
Lặng chiếu (Thở ra).

– Đặt viên sỏi xuống đất bên tay phải
Viên sỏi thứ tư: Không gian
– Nhặt viên sỏi tượng trưng cho không gian và đặt vào lòng bàn tay.
Thở vào, tôi thấy tôi là không gian.
Thở ra, tôi thấy tự do thênh thang.
Không gian, thênh thang.

– Thỉnh một tiếng chuông, thở vào, thở ra 3 lần và nói thầm:
Không gian (Thở vào).
Thênh thang (Thở ra).

– Đặt viên sỏi xuống đất bên tay phải.
Chuông và kết thúc
– Thỉnh một tiếng chuông để kết thúc.
– Có thể thâu lại các viên sỏi, hoặc cho các em giữ lấy để tiếp tục thực tập.  
Mục đích
Tiếp xúc với sự tươi mát, tĩnh lặng và tự do nội tại.
Ý thức các điều kiện hạnh phúc sẵn có.
Nuôi dưỡng sự vững chãi làm nền tảng chăm sóc những cảm xúc mạnh.
Lắng dịu và thư giãn thân tâm.  

Cần chuẩn bị
Sắp xếp chỗ ngồi cho lớp thành một vòng tròn (trên ghế hoặc trên bồ đoàn).
Chuẩn bị mỗi người 4 viên sỏi.
Chuông và dùi thỉnh (không bắt buộc nhưng nên có).  

Hướng dẫn dành cho giáo viên
Nuôi dưỡng những phẩm chất của hạnh phúc: hoa – tươi mát, núi – vững vàng, nước tĩnh – lặng chiếu, không gian – thênh thang.
Phù hợp với tất cả độ tuổi, đặc biệt là với trẻ em.
Bạn có thể hát bài thở vào, thở ra như một cách để giới thiệu bài thực tập.
Nên hướng dẫn từ từ, có thể chia thành nhiều buổi.  
Câu hỏi quán chiếu
– Tôi đang cảm thấy như thế nào? Sự thực tập có ảnh hưởng như thế nào lên tâm thức, thân thể, hơi thở của tôi?
– Sự thực tập này dễ hay khó?
– Tôi áp dụng sự thực tập này như thế nào trong đời sống hàng ngày?  
 
Cách thực tập khác về thiền sỏi
– Cho các em tự làm một cái túi đựng các viên sỏi (và trang trí cái túi).
– Mang theo các viên sỏi trong túi để nhắc nhở nuôi dưỡng những phẩm chất này.  
 

Thực tập căn bản

Chia sẻ vòng tròn

Các bước thực hiện  
Giải thích cách chia sẻ cơ bản
– Giải thích phương pháp chia sẻ (xá chào, sử dụng vật biểu tượng …)
– Không cắt ngang khi người khác đang nói.
– Có thể có người chọn không chia sẻ và chỉ lắng nghe.
– Tôn trọng vai trò hướng dẫn của giáo viên.
– Các quy tắc cơ bản: lắng nghe sâu, nói lời ái ngữ (xem ở trên), không đưa ra lời khuyên, bảo mật (không chia sẻ thông tin ra ngoài vòng tròn).
Bắt đầu
– Thỉnh 3 tiếng chuông, khoảng cách giữa các tiếng chuông là 3 hơi thở chánh niệm.
– Giới thiệu chủ đề để mở đầu buổi chia sẻ (trước tiên nên chọn các chủ đề dễ và nhẹ nhàng).
– Mời nhóm chia sẻ.
– Thỉnh thoảng, có thể thỉnh một tiếng chuông để mọi người thở cùng nhau.
– Cho phép một vài khoảng lặng, nhưng nếu quá lâu, nên đặt một câu hỏi hoặc đưa ra thêm vài đề tài để mọi người có cảm hứng chia sẻ.
Kết thúc
– Có thể cùng nhau hát một bài để kết thúc buổi chia sẻ.
– Người hướng dẫn tóm tắt lại những chia sẻ, bày tỏ sự biết ơn.
– Thỉnh 3 tiếng chuông, tận hưởng 3 hơi thở chánh niệm giữa mỗi tiếng chuông.
– Nhắc nhở các em sau khi rời vòng tròn thì nên thực tập sự bảo mật.
– Giáo viên bày tỏ sự sẵn sàng để chia sẻ riêng với các em khi cần.  
Mục đích
Tập chia sẻ suy nghĩ và cảm xúc một cách cởi mở và chân thành.
Nuôi dưỡng khả năng lắng nghe sâu để có được lợi lạc từ kinh nghiệm và hiểu biết của người khác.
Nuôi dưỡng khả năng dùng lời ái ngữ để chia sẻ kinh nghiệm, niềm vui, khó khăn, thắc mắc.
Để giúp ta cảm thấy mình có giá trị, được công nhận, được lắng nghe, được thấu hiểu và thấy gần gũi thân thương với mọi người.
Xây dựng sự kết nối với bản thân và người khác, và nhận ra mình không phải là người duy nhất đang gặp những khó khăn.  

Cần chuẩn bị
Sắp xếp ghế, hoặc bồ đoàn hay nệm thành vòng tròn để mọi người đều nhìn thấy được nhau.
Chuông và dùi thỉnh chuông (không bắt buộc nhưng nên có).    
Câu hỏi quán chiếu
– Sự thực tập này ảnh hưởng lên tâm thức, cơ thể, hơi thở như thế nào?
– Bây giờ ta đang cảm thấy như thế nào?
– Ta cảm thấy như thế nào khi thực tập ái ngữ? Có khác với cách ta thường nói không?
– Thực tập lắng nghe sâu ta cảm thấy thế nào?
– Ta cảm thấy như thế nào khi được mọi người lắng nghe mình?  
Hướng dẫn dành cho giáo viên
Giáo viên quyết định phương pháp chia sẻ: xá chào, dùng “thẻ nói”…
Lắng nghe sâu: có mặt hoàn toàn, không đánh giá và giáo viên có thể làm mẫu trước.
Nói lời ái ngữ: tôn trọng cảm xúc của người khác, chỉ nói về kinh nghiệm của chính mình, không đưa ra lời khuyên, không đổ lỗi, không nhận xét. Chỉ nói về những điều làm mình thoải mái (giáo viên cần chú ý để học sinh không cảm thấy mình bị làm tổn thương).
Bắt đầu một cách nhẹ nhàng, sau đó từ từ tùy tình huống để điều chỉnh đề tài nhẹ nhàng hơn hay sâu hơn (học sinh có thể đóng góp ý kiến).
Linh hoạt, cân bằng giữa việc hướng dẫn và đóng góp chia sẻ một cách nhẹ nhàng, vui vẻ cho cả nhóm.  
Những cách khác về chia sẻ trong vòng tròn
– Dần dần, đưa thêm những đề tài có ý nghĩa sâu sắc hơn, mang tính cá nhân và cảm xúc hơn.
– Một vài đề tài rộng hơn:Sự thực tập của tôi trong 24h qua.
– Điều gì làm nên một người bạn, một người đồng nghiệp tốt?
– Thể hiện sự quan tâm của chúng ta với người khác như thế nào?
– Điều gì khiến tôi khóc, khiến tôi nổi giận, sợ hãi, hay khiến tôi thực sự hạnh phúc?  
 

Thực tập căn bản

Làm mới

Ghi chú về các bước  
Bước 1: Tưới hoa (nói lên sự trân quý)
– Hoa luôn cần nước để giữ sự tươi mát, vậy nên hãy bắt đầu việc chia sẻ bằng cách lắng nghe và nói lên những điểm tích cực của nhau.
– Phương pháp tưới hoa có thể mang lại rất nhiều niềm vui.
– Chia sẻ một điều gì đó cụ thể, rõ ràng mà người kia đã làm mình hạnh phúc
Bước 2: Xin lỗi (nhận trách nhiệm về mình)
Phải đảm bảo là đầu tiên tưới hoa cho người kia.
– Chúng ta xin lỗi, thể hiện sự hối tiếc về những lỗi lầm, yếu kém, vụng về của chính mình.
– Khi chúng ta chân thành xin lỗi về những lỗi lầm của mình gây ra thì nỗi đau trong người kia có thể cũng vơi dịu hoàn toàn.
Bước 3: Nói lên niềm đau, nỗi khổ
– Bước này thường được thực tập riêng với sự có mặt của người kia.
– Chúng ta nói lên niềm đau, nỗi khổ mà mình cảm thấy do người kia gây ra.
– Bắt đầu bằng cách nói “Em cảm thấy khổ đau bởi vì anh đã nói/đã làm điều này/điều kia với em”.
– Chỉ tập trung nói về cảm giác, cảm nhận của chính mình và mình cần được hỗ trợ như thế nào – mà không đổ lỗi.
– Người kia lắng nghe sâu và không cắt ngang – ngay cả khi nghe được những điều mà họ cảm thấy không đúng.
– Nếu có những cảm xúc mạnh đi lên, hãy im lặng thực tập nhận diện, ôm ấp, và làm lắng dịu cảm xúc của mình bằng cách thở với nó.
– Lắng nghe để nuôi dưỡng lòng từ bi trong trái tim mình đối với người kia.
Bước 4: Xin được giúp đỡ
– Chúng ta bày tỏ cách mình muốn người khác giúp mình trong tình huống khó khăn như thế nào.
– Chúng ta có thể xin sự giúp đỡ bất cứ lúc nào trong quá trình làm mới; không cần phải đợi xong 3 bước trên mới làm được.
– Xin được giúp đỡ một cách khéo léo để người tham dự cảm nhận dễ dàng, và tìm cách yểm trợ tích cực hơn.
Các bước thực hiện
– Ngồi vòng tròn, thỉnh 3 tiếng chuông, thở 3 hơi thở chánh niệm giữa các tiếng chuông.
– Nhắc nhở nhóm nhớ thực tập lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ.
– Nói rõ chúng ta có mặt ở đây là để thể hiện sự biết ơn và cùng nhau tháo gỡ những khó khăn.
– Cho mọi người biết chúng ta sẽ thực tập từng bước dưới đây, cũng như thứ tự, ý nghĩa của từng bước (xem phần ghi chú phía trên – bạn có thể chọn không thực hiện đầy đủ hết các bước).
– Thỉnh một tiếng chuông và thở 3 hơi thở chánh niệm.
– Tự mình làm mẫu chia sẻ lần đầu tiên.
– Khi một người ra hiệu muốn chia sẻ; họ sẽ ra giữa vòng tròn nhận lấy bông hoa và đặt trước mặt mình.
– Người chia sẻ bắt đầu bằng cách tưới hoa, và sau đó tùy chọn, tiếp tục các bước tiếp theo.
– Người chia sẻ sau khi kết thúc, chắp tay xá xuống và đặt lại bông hoa vào giữa vòng tròn.
– Những người khác có thể lần lượt chia sẻ.
Chuông và kết thúc
– Người hướng dẫn có thể chia sẻ một cách ngắn gọn cảm nhận từ trái tim mình.
– Thỉnh 3 tiếng chuông, thưởng thức 3 hơi thở chánh niệm sau mỗi tiếng chuông.
– Nếu phù hợp, có thể hát một bài hát vui tươi hay cùng nắm tay nhau và thở khoảng 1 phút.
– Tôi đang cảm thấy như thế nào, lên tâm thức, thân thể và hơi thở?
– Tôi cảm thấy như thế nào khi mình được tưới hoa? Và cảm thấy như thế nào khi mình tưới hoa cho người khác?
– Chúng ta có thể áp dụng phương pháp làm mới này như thế nào trong và ngoài lớp học?  
Mục đích  
Thực tập truyền thông chân thật: lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ.
Xây dựng cảm giác được kết nối với bản thân và với người khác.
Tạo ra một cộng đồng hòa hợp và an toàn: trong lớp học, đồng nghiệp và gia đình.
Học cách thể hiện lòng biết ơn với người khác, cách nói lời xin lỗi, cách bày tỏ niềm đau và cầu xin sự giúp đỡ.
Học những bước cụ thể để giải quyết khó khăn và xung đột.  

Cần chuẩn bị  
Giáo viên có kinh nghiệm thực tập làm mới.
Ghế ngồi hoặc chiếu ngồi xếp thành vòng tròn.
Một chậu / lọ hoa để ở giữa vòng tròn (không bắt buộc nhưng nên có).
Chuông (không bắt buộc nhưng nên có).

Hướng dẫn dành cho giáo viên
Lựa chọn thời điểm khi mọi người cảm thấy thoải mái, lắng dịu và sẵn sàng lắng nghe.
Sự tham gia là tự nguyện.
Mỗi người thực hiện theo thứ tự từng bước khi chia sẻ: bắt đầu bằng bước tưới hoa, tiếp theo là xin lỗi (bày tỏ sự hối tiếc), và nói lên niềm đau nỗi khổ, nhắc nhở mọi người đừng bỏ qua bất cứ bước nào.
Có nhiều cách tưới hoa: nói lên những điều mà mình thực sự thích, trân quý hay đánh giá cao về người kia – không phải là nói nịnh để lấy lòng.
Không cần phải nôn nóng qua bước tiếp theo trong quá trình làm mới. Bạn có thể chọn chỉ thực hiện một hay hai bước trong buổi chia sẻ.
Quyết định cách thức mọi người lần lượt chia sẻ như thế nào trước khi bắt đầu (ví dụ: chắp tay xá, hay chuyền bông hoa)
Tạo không khí dễ chịu và nhẹ nhàng khi bắt đầu.  
Những cách thức khác về sự thực tập làm mới
Chỉ thực hiện bước tưới hoa thôi thường cũng rất hữu ích để xây dựng một mối quan hệ tốt đẹp, hoặc chỉ thực hiện bước tưới hoa và xin lỗi.
Sử dụng tranh ảnh minh họa cho bước tưới hoa (với những em học sinh nhỏ).
Cho học sinh viết ra những điều tích cực về người kia trên những cánh hoa bằng giấy. Sau đó, cho học sinh xếp các cánh hoa lại và dán thành một bông hoa.  
 

Chương 3: Thực tập chánh niệm trong nhà trường phổ thông và đại học

Đã về, đã tới.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Nội dung

  • Bàn về cách chia sẻ với đồng nghiệp, quản lý, cấp trên và phụ huynh thế nào là chánh niệm, cũng như đưa thực tập chánh niệm vào chương trình giáo dục và vào các giá trị đạo đức của nhà trường phổ thông hay đại học;
  • Lắng nghe và cùng suy ngẫm một vài câu chuyện truyền cảm hứng của những thầy cô đã bắt đầu chia sẻ sự thực tập với các đồng nghiệp và phụ huynh, trong đó nhiều trường hợp đã có được sự đồng thuận của lãnh đạo nhà trường đối với sự nghiệp giáo dục chánh niệm.

Cùng nuôi dưỡng tình thân gia đình

Khái niệm tình thân gia đình mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh thường nhắc đến bao hàm trường phổ thông, trường đại học, gia đình và cộng đồng − hay đúng ra là toàn bộ thế giới − với hy vọng mình biết nuôi dưỡng nó. Thầy quan niệm tình thân gia đình mang lại cảm giác ấm áp, được chấp nhận và nuôi dưỡng, là nơi mà các thành viên kết nối sâu sắc với nhau. Trong khóa tu dành cho giáo viên tại Làng Mai năm 2012, Thầy đã chia sẻ:

Chúng ta sẽ được nuôi dưỡng và trị liệu khi làm việc trong môi trường lớp học, bên học sinh và đồng nghiệp của mình. Môi trường đó tạo ra nhiều niềm vui, sự nuôi dưỡng và trị liệu. Đó là cơ hội thứ hai cho học sinh nếu chẳng may em không được yêu thương và hạnh phúc trong gia đình. Có thể bố mẹ em đã cãi nhau, và chịu nhiều đau khổ; họ không có cơ hội được học cách yêu thương và trải nghiệm hạnh phúc trong đời sống gia đình. Vì vậy khi đi dạy, chúng ta có thể đem lại cho các em cơ hội nữa để được yêu thương bằng cách chuyển hóa trường học thành gia đình, nơi thầy cô và học sinh có thể gắn kết với nhau bằng tình thân.[1]

Chúng ta có thể tự nhiên chế tác tình thương ấm áp này trong từng gia đình − nhà trường – cụ thể, như giáo thọ cư sĩ thâm niên người Ấn Độ Shantum Seth, đã nhấn mạnh:

Việc mình cần làm là xây dựng môi trường học đường mang đậm tính gia đình, trong đó lớp học là nhà, và thầy cô, học sinh, phụ huynh là các nhân tố cấu thành tổng thể ấy.

Cắt nghĩa rõ hơn về việc xem nhà trường (bao gồm cả đại học) là một gia đình, thầy Pháp Dung đã chỉ ra mấu chốt phải chế tác được niềm vui và hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, đừng chỉ chăm chăm hướng tới tương lai, thì nhà trường phổ thông cũng như đại học mới trở thành nơi các em thanh thiếu niên cũng như các thầy cô giáo có thể tận hưởng niềm vui trong cuộc sống cũng như trong việc học – ngay trong giờ phút hiện tại.

Điều chúng ta thực sự hướng tới là biến mái trường thành mái ấm thứ hai, nơi thầy cô, học sinh, hay toàn bộ nhà trường và cả phụ huynh cùng chung tay nỗ lực một nỗ lực chung, nhằm xây dựng môi trường không chỉ hướng về tương lai, với những hoạch định nghề nghiệp (mình sẽ làm việc gì, leo đến ngang chức nào, hay lương kiếm được bao nhiêu), mà là một nơi chúng ta thực sự sống cuộc đời hoan hỷ, đam mê học tập với niềm vui khám phá.[2]

Ở chương này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm phương pháp để từng bước nhân rộng việc thực tập chánh niệm, ý tưởng về một gia đình ấm áp và đầy nuôi dưỡng, cũng như ý thức sống hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Chúng ta có thể đi từ trong ra ngoài, từ chính trải nghiệm thực tập của mình và trong lớp mình dạy, rồi tiến dần ra đời sống của các anh chị em đồng nghiệp, gia đình học sinh, và khắp các trường phổ thông, đại học nói chung.

Chia sẻ với đồng nghiệp

Không cần phải vội

Ta hạnh phúc liền giây phút này

Lòng đã quyết dứt hết âu lo

Không đi đâu nữa, có chi để làm

Học buông bỏ, sống không vội vàng.

Ta hạnh phúc liền giây phút này

Lòng đã quyết dứt hết âu lo

Thong dong khi bước, thảnh thơi lúc làm

Lòng thanh thản, sống trong nhẹ nhàng.

Bài hát Hạnh phúc bây giờ và ở đây, trích Thiền ca Làng Mai

Khi đã tự tìm được niềm vui trong thiền tập, mình sẽ bị thôi thúc với ý nghĩ làm sao để chia sẻ niềm vui của sự thực tập với đồng nghiệp của mình, giúp họ giải tỏa căng thẳng, và cùng giúp nhau hướng dẫn học sinh thực tập chánh niệm. Chắc hẳn là có nhiều người cùng chung ý tưởng này, nhưng không việc gì mình phải nóng vội. Đồng nghiệp chưa thật sự quan tâm mà mình cứ ào ào chia sẻ, bảo họ hãy thực tập đi thì có thể sẽ vô tình gây phản tác dụng. Không phải ai cũng muốn thực tập chánh niệm, và nếu muốn chăng nữa thì nó phải đến đúng cách và đúng lúc. Lúc mới bắt đầu, đôi khi mình còn có thể nhận những cái lắc đầu chẳng muốn nghe. Thậm chí có người thấy “dị ứng”, như trường hợp các đồng nghiệp của thầy Goyo ở Tây Ban Nha:

Tôi ước gì có nhiều giáo viên cùng thực tập với tôi hơn. Tôi cảm thấy mình như một chú chim lạc bầy. Đồng nghiệp của tôi rất nhạy cảm về những đề tài như chánh niệm.

Một giáo viên trung học ở Mỹ tên là Matt Spence lại thấy các đồng nghiệp của mình có lẽ quá căng thẳng nên chẳng còn thời gian để xem thử thiền có giúp họ giảm căng thẳng được không.

Có vẻ như nhiều đồng nghiệp của tôi còn hoài nghi về sự thực tập chánh niệm và chống lại việc ngồi yên tĩnh lặng trong vài phút. E rằng họ chưa thấy được chính họ đang làm cho bản thân cũng như các em học sinh căng thẳng.

Đối với những thành công bước đầu đạt được cùng với các em học sinh của chúng ta, có khi đồng nghiệp lại cho rằng đó là những điều “đáng sợ” hơn là đáng khích lệ, như trong câu chuyện của thầy Pascal Dumont ở Pháp:

Năm nay, trường tôi có một cô giáo dạy lớp Một khá đa sầu đa cảm và yếu đuối, hay lo. Lớp cô có ba em học sinh rất ngỗ nghịch, và tôi đã tình nguyện phụ đạo cho 3 đứa trẻ đang tuổi lên 9 lên 10 này vào mỗi buổi chiều, sau giờ nghỉ. Chúng tôi cùng tiến hành các thời khóa đa dạng khác nhau: ngồi thiền có hướng dẫn và ngồi thiền trong im lặng; thiền buông thư; thực tập lắng nghe chăm chú với tinh thần cởi mở; và chia sẻ nhẹ nhàng từ trái tim của mình.

Cô giáo đó đến hỏi tôi, trông cô bực mình thấy rõ: “Thầy đang dạy mấy em làm trò gì thế? Bữa nay Fabien quậy tưng bừng trong lớp. Nó cầm cái ghế chuẩn bị ném giữa lớp thì đột nhiên dừng lại và kêu lên: “Ái chà! Tốt hơn em nên ngồi thiền”. Rồi nó chạy vụt ra phía sau lớp ngồi bắt chéo chân. Nó ngồi kiểu như trong yoga, làm cả lớp phá ra cười. Em ấy nói rằng thầy dặn nó vậy. Thật là chịu không nổi.”

Những phản ứng như vậy đúng là chẳng dễ nghe chút nào, nhưng ta đừng nên phân bua, nản lòng, hay chấp trách thái độ của họ làm gì. Bình tĩnh quán chiếu với tâm rộng mở, có thể quay về nương tựa nơi hải đảo tự thân, thực tập một cách thầm lặng trong đời sống của chính mình; hay nếu được thì hướng dẫn cho học sinh thực tập chánh niệm ngay trong lớp học; và chế tác chất liệu từ bi đối với những đồng nghiệp đang chịu nhiều niềm đau nỗi khổ. Bất kỳ việc gì ta làm, hoặc hy vọng sẽ làm được trong tương lai, đều dựa trên nền tảng cơ bản vững chắc là chánh niệm của tự thân. Thật vui khi biết cô Maggie Chau, một giảng viên đại học ở Hồng Kông, thông qua quá trình tu học của mình đã có thể cải thiện môi trường học đường với tình thân ấm áp và sâu sắc.

Tôi đã có thể hiểu rõ hơn những cảm giác cũng như thiếu sót của đồng nghiệp. Từ đó, tôi đã tìm ra cách phù hợp để làm việc chung với nhau.

Bắt đầu hướng dẫn các đồng nghiệp thực tập chánh niệm

Bao giờ cũng vậy, càng thực tập ta càng thấy tác dụng của việc thực tập rõ ràng hơn, thế rồi một vài đồng nghiệp sẽ bắt đầu tò mò và quan tâm.

Tôi chỉ biết rằng chính cái tâm của tôi trong khi thực tập và khi bày tỏ niềm vui mà sự thực tập đem lại đã khơi dậy sự quan tâm từ mọi người xung quanh.

— Paul Bready, sinh viên sư phạm và cũng là giáo sinh thực tập, Anh

Hồi tôi còn làm phó khoa, trong lúc đang họp về một vấn đề gây xôn xao dư luận, thay vì bị kích động tôi đã thở vào thở ra vài lần một cách có ý thức sau đó mới bình tĩnh giải quyết. Điều này đã khiến một đồng nghiệp của tôi thấy khá ấn tượng.

— Gail Williams O‘brien, giảng viên đại học kiêm huấn luyện viên yoga, Mỹ

Tôi thấy mình biết lắng nghe nhiều hơn và giữ được tâm không phán xét trong các mối quan hệ với đồng nghiệp và lãnh đạo, cũng không phải phí sức lo lắng về những điều từng gây căng thẳng cho tôi như mấy cái hạn chót, họp hành, phân phối chương trình… Tôi thấy mình biết quay về hơi thở và chấp nhận mọi thứ như nó đang là, nên giờ đây mỗi ngày là một ngày vui đối với tôi. Nhiều đồng nghiệp khác cũng nhìn ra được cái tâm an nhiên trong tôi, nên tôi tin rằng sự thực tập của mình đang có tác động tích cực đối với mọi người xung quanh.

— Elizabeth Kriynovich, giáo viên trung học, Mỹ

Một khi đồng nghiệp tỏ ra họ có quan tâm, thì khi đó mới là thời điểm thích hợp để mình bắt đầu chia sẻ. Thầy Goyo, có đồng nghiệp thấy “dị ứng” khi nói đến chánh niệm được nêu ra ở trên, đã đề cập đến chủ đề này một cách khéo léo và tinh tế như sau:

Những lúc thích hợp, thỉnh thoảng tôi mới chia sẻ về trải nghiệm thực tập của bản thân với bạn bè đồng nghiệp, nhưng tôi biết mình không nên nói nhiều kẻo họ lại nghĩ tôi đang tìm cách cải đạo. Tôi chỉ nói những gì cần nói hoặc khi có ai hỏi, còn không thì tôi cứ im lặng. Vài đồng nghiệp bảo tôi dạo này sao lạ thế. Thế là tôi đáp lại rằng đó là nhờ tôi thực tập chánh niệm.

Khi việc áp dụng chánh niệm vào nhà trường ngày càng được quan tâm trong xã hội và trong ngành giáo dục thì có lẽ đồng nghiệp sẽ nhờ mình hướng dẫn họ thực tập. May mắn thì mọi chuyện sẽ ổn, như trong câu chuyện của cô Jasna K. Schwind, phó giáo sư điều dưỡng ở Canada:

Người ta nhờ tôi tổ chức chuỗi thực tập chánh niệm cho đội ngũ giảng viên Kinh tế, và tôi nhận được những phản hồi rất tích cực.

Có người cho biết: “Tôi cảm thấy ít lo lắng hơn trước vì tôi tâm niệm mình chẳng thể nào kiểm soát được mọi chuyện.” “Tôi bớt đi những quyết định cẩu thả cũng như những câu trả lời hấp tấp vội vàng.” “Tôi thấy ăn trong chánh niệm rất lợi lạc, nên tôi ăn hoài ăn mãi như vậy cũng được.” Các thầy cô tham gia ai cũng hoan hỷ với việc duy trì thực tập chánh niệm theo nhóm.

Một khi tia lửa đã được đánh lên thì lửa sẽ lan ra rất nhanh, và rồi bỗng nhiên ta thấy bản thân đang tham gia vào một loạt các thời khóa. Chuyên gia về liệu pháp chức năng Mariann Taigman từng kể rằng:

Tôi đang gom các bạn trẻ ở trường cùng với các đồng nghiệp tại khoa vật lý trị liệu và chia sẻ với họ về chánh niệm cũng như cách hướng dẫn con nít thực tập thiền theo lời Thầy dạy trong sách. Pháp thoại của Thầy giúp tôi nhận diện sâu sắc những mối quan hệ khác nhau trong trường và trong các em sinh viên tôi đang dạy. Tôi tìm cách giúp mọi người nhận diện những điều màu nhiệm nho nhỏ ngay trong đời sống thường nhật (như khi tắm gội, ăn uống, hay rửa chén…) để biết tận hưởng từng giây phút hiện tại, thường cố pha chút hài hước như khi Thầy giảng pháp. Dường như ngày nào tôi cũng giới thiệu sách về chánh niệm cho mọi người đọc.

Việc này thường sẽ mất nhiều thời gian. Một giảng viên sư phạm tại Hồng Kông tên là Grace Bruneel đã phải mất những 2 năm mới giúp các đồng nghiệp chuyển hóa và chấp nhận cái mới.

Lúc đầu ban giám hiệu nhà trường không ủng hộ hoàn toàn việc chúng tôi đang làm, đó là chưa kể chúng tôi phải chịu sự chống đối đến từ phía những giảng viên vốn đã có quá nhiều căng thẳng. Họ biết là cho sinh viên thực tập chánh niệm cũng tốt, nhưng ai rỗi hơi mà làm. Chúng tôi cứ kiên trì nỗ lực mà chẳng hề mong đợi gì cả.

Thế rồi vào đợt tập huấn giảng viên tháng trước, lần đầu tiên chúng tôi thấy được hạt giống nảy mầm. Trong suốt 2 năm vừa qua, từ chỗ nghi ngờ chống đối và cảm thấy miễn cưỡng, giảng viên trường tôi cuối cùng đã nghiệm ra những lợi lạc mà việc thực tập mang lại. Lần lượt từng người chia sẻ cái thấy của họ, và họ rất hạnh phúc khi nhận ra sự tiến bộ của mình. Buổi chia sẻ của chúng tôi kết thúc trong tâm thế hòa hợp, đồng cảm và thấu hiểu lẫn nhau. Thật là màu nhiệm.

Mời nhau thiền tập

Dù ta có tâm huyết và mong muốn chia sẻ về sự thực tập của mình đến đâu chăng nữa thì nhất định cũng phải giữ tinh thần xem thiền tập là một món quà, một lời mời hơn là một điều bắt buộc phải làm. Bằng không có người sẽ bỏ cuộc, thấy nản lòng bởi họ chưa thực sự sẵn sàng, hay thậm chí có khi họ chẳng bao giờ chấp nhận. Cô Tineke Spruytenburg chia sẻ câu chuyện dưới đây khi phát hiện được một số đồng nghiệp tới nghe hóa ra là vì bị bắt buộc:

Tôi cùng một đồng nghiệp đã rút kinh nghiệm chỉ chia sẻ với người nào có quan tâm khi đưa thực tập chánh niệm vào nhà trường. Lần nọ người ta nhờ chúng tôi tổ chức khóa thực tập chánh niệm cho toàn bộ đội ngũ cán bộ của trường. Trong số 25 thầy cô tham gia thì đa số hưởng ứng khóa thực tập. Một vài người khác có tư tưởng chống đối nhưng vẫn bị buộc phải tham gia.

Chúng tôi hướng dẫn các thời khóa căn bản như thiền đi, thiền ngồi, và ăn trong chánh niệm, đồng thời hạn chế sử dụng các thuật ngữ dùng trong đạo Bụt hay nghe có vẻ giáo điều. Khi chúng tôi mời, cũng có kha khá số lượng thiền sinh chia sẻ những cảm nhận từ trái tim trong quá trình thiền tập.

Đến giờ giải lao thì nhóm thiểu số giáo viên bị gượng ép phải tham dự khóa thực tập chánh niệm tỏ lộ sự chống đối. Khoảng 6 hay 7 người đã bỏ ra ngoài cầm theo điện thoại. Qua giờ nghỉ, cả nhóm chờ hơn 15 phút vẫn không thấy họ trở lại nên đành tiếp tục chương trình. Bài học mà chúng tôi rút ra được qua sự việc này là ban giám hiệu nhà trường không nên áp đặt tất cả mọi người phải thực tập chánh niệm. Ta chỉ thực tập chánh niệm được khi cả trái tim và tâm trí đều rộng mở để đón chào những trải nghiệm.

Khi có một thầy cô nào đó gặp chuyện khó khăn thì có lẽ hình thức tham vấn cá nhân sẽ đem lại nhiều lợi lạc hơn là tham vấn theo nhóm. Khi tiếp xúc với các vị lãnh đạo trong các trường học bị căng thẳng, cô Valerie Brown nhận thấy:

Lãnh đạo giỏi là phải biết chú tâm, rõ ràng, sáng tạo, có lòng trắc ẩn và có khả năng kết nối được mọi người lại với nhau – làm hết sức, sống hết mình với tất cả sự có mặt của thân và tâm. Những kĩ năng lãnh đạo ấy sẽ bị lu mờ khi người đó bị căng thẳng, mất tập trung và bận rộn đến loạn não. Cô Sonia có lịch công tác dày đặc đến độ bị mắc chứng hoảng loạn kinh niên, phải cầu cứu đến thuốc men hỗ trợ. Ở trường, cô không tài nào tập trung làm việc nổi, vì cứ chốc chốc cô lại bị “hết việc khẩn này tới việc khẩn khác” réo gọi. Thế là tôi bày cho cô Sonia thực tập chánh niệm. Chúng tôi bắt đầu thật chậm, đơn giản là tạm dừng mọi sự, chỉ chú tâm vào hơi thở và bước chân trong vòng 15 đến 30 giây, mỗi ngày vài lần như vậy. Rồi cô Sonia thực tập lâu hơn, khoảng từ 2 đến 3 phút mỗi ngày khi dạo quanh khuôn viên trường, ngắm mây trời, thở vào thở ra. Những giờ phút tĩnh lặng này dần dần giúp cô Sonia biết thương mình hơn, đồng thời có ý thức chăm sóc thân tâm hơn. Cô bắt đầu chấp nhận được bản thân và dễ tính hơn với các đồng nghiệp ở trường. Khả năng tập trung cũng được cải thiện khi cô biết vạch ra các ranh giới một cách rõ ràng.

Nắm bắt cơ hội

Chúng ta cần tận dụng mọi cơ hội để lan truyền cảm hứng rộng rãi ngay tại trường. Theo Alison Mayo, mời giáo viên ngoài trường hay một thiền sư đến thăm trường và hướng dẫn tu tập đôi khi cũng là cách hay để xác định nỗ lực tự thân của mình đang ở mức độ nào.

Chúng tôi thật may mắn khi được đón tiếp quý thầy, quý sư cô Làng Mai đến thăm trường và tổ chức Ngày Quán niệm cho tập thể giáo viên, phụ huynh và những thành phần khác trong trường. Hiện chúng tôi đã xây dựng được một tăng thân sinh hoạt thường xuyên tại trường.

Một khóa thực tập chánh niệm ngay tại trường còn là chất xúc tác thúc đẩy nhiệt huyết để làm cho các hoạt động này ngày càng lớn mạnh.

Hai thầy cô trong tăng thân chúng tôi đã nảy ra vô vàn ý tưởng khi kết thúc khóa tu ở trường, và tiến hành ngay trong lớp mà họ dạy chung. Họ từ từ hướng dẫn học sinh tập thiền từng chút một. Nhóm học sinh lớp Năm thực tập hoan hỷ đến nỗi các em quyết định biến buổi tổng kết niên học thành một buổi sáng chánh niệm dành cho chính bản thân và gia đình mình. Các em tổ chức thiền ngồi có hướng dẫn, thiền đi, thiền buông thư, đọc sách và ăn bữa lỡ trong chánh niệm. Cả học sinh, phụ huynh, lẫn giáo viên đều cảm thấy rất hạnh phúc khi được tận hưởng những giây phút an lạc trong dịp đặc biệt cuối năm này.

— Rosa Marina De Vecchi, viên chức xã hội, Ý

Chúng tôi đã tổ chức hai khóa thực tập chánh niệm dành cho giáo viên, một khóa ở New Delhi trong 3 ngày tại trường Sanskriti và khóa nữa ở Dehradun trong 4 ngày tại trường Doon. Một số giáo viên và lãnh đạo nhà trường còn thỉnh cầu chúng tôi đến trường họ hướng dẫn để toàn thể các thầy cô đều được tham gia. Nhiều người bày tỏ nguyện vọng tha thiết được tham gia tu học thường xuyên với quy mô lớn hơn. Họ đề đạt nguyện vọng cứ mỗi 16 khu chung cư ở Dehradun lại được tổ chức một khóa thực tập chánh niệm định kỳ như vậy. Ban quản lý dành nhiều quan tâm và tích cực ủng hộ các khóa tu, còn trên các trang báo lại xuất hiện những bài viết hưởng ứng nhiệt liệt.

— Shantum Seth, giáo viên, thông dịch viên văn hóa và cũng là hướng dẫn viên nhóm hành hương tâm linh, Ấn Độ

Xây dựng tăng thân thầy cô giáo

Thầy Làng Mai hết lòng khuyến khích đại chúng sát cánh cùng những người có chung chí nguyện, hoặc một tăng thân, để cùng nhau tu tập. Như Christiane Terrier quan sát, theo thời gian chúng ta sẽ xây dựng được tăng thân ngay trên ghế nhà trường phổ thông hay đại học, và đây chính là nơi ta được hưởng rất nhiều lợi lạc.

Chúng tôi đã quyết định thành lập tăng thân sinh hoạt định kỳ mỗi tháng một lần, đến chia sẻ và cùng nhau thực tập. Thực tập cùng tăng thân giúp chúng tôi rất nhiều trong việc duy trì tình huynh đệ. Tôi cảm thấy phước đức vô cùng khi được tham gia những buổi sinh hoạt này, lắng nghe những trải nghiệm quý giá cũng như những khó khăn trong lớp của mọi người. Chúng tôi không còn cảm thấy cô đơn nữa, mà cùng yểm trợ nhau giải quyết vấn đề. Thật hiếm có nơi nào mang lại cho chúng tôi nhiều lợi lạc từ sự sẻ chia và lắng nghe sâu đến vậy. Đồng nghiệp tôi nhanh chóng nhận ra rằng chỉ cần thực tập lắng nghe thôi là đã thấy bớt khổ rồi, chẳng hạn như nhiều khi đến nửa học kỳ, hết sức mệt mỏi và nản lòng nhưng cứ gặp nhau là họ lại được sạc đầy năng lượng trở lại. Họ chia sẻ: “Tôi được hưởng rất nhiều lợi lạc khi được sinh hoạt cùng tăng thân”, “Tôi cứ muốn được thực tập mãi”, “Tôi thấy bình an trong tâm.” Ngày xưa họa hoằn lắm mới kiếm được một nơi tràn ngập niềm tin yêu, ái ngữ và sự yểm trợ như vậy ở trường, vậy mà giờ đây bầu không khí an yên ấy đã trở thành một phần không thể thiếu. Tôi cũng như các đồng nghiệp nguyện làm nhân chứng sống cho nhận định: thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thương yêu học trò hơn, học trò cũng sẽ hạnh phúc hơn, và thế là việc học sẽ ngày càng tốt đẹp hơn.

Một giảng viên cao đẳng cộng đồng tại Mỹ tên là Kenley Neufeld đã nỗ lực xây dựng một tăng thân sinh hoạt hàng tuần cùng đồng nghiệp. Qua 10 năm, tăng thân của thầy phát triển lên, và thầy được mời đi khắp các trường để chia sẻ về “thực tập chánh niệm tại nơi làm việc”.

Trong 10 năm qua, khi dạy học tại một trường cao đẳng cộng đồng hệ công lập ở Mỹ, tôi đã có nhiều cơ hội được chia sẻ kinh nghiệm thiền tập với sinh viên, cán bộ hành chính và các giảng viên tại các khoa. Những buổi thiền tập hàng tuần tại thư viện trường đã dần nuôi dưỡng sự hăng say trong mỗi thành viên, cũng như làm phát sinh nhiều cơ hội mới để mở rộng sự thực tập. Nhóm chúng tôi dành ba mươi phút ngồi thiền mỗi tuần – không cần đọc tài liệu trước, không cần ghi danh hay bắt buộc phải có đức tin gì. Mỗi kỳ tôi đều email cho toàn trường thông báo về thời khóa của nhóm Quán niệm đồng thời gởi lời mời tất cả những ai quan tâm đều có thể tham dự. Treo thêm vài tấm áp phích quanh khuôn viên trường nữa là hoàn tất việc chuẩn bị. Tăng thân chúng tôi được xây dựng đơn sơ và thực tế vậy thôi, nhưng hơn một thập niên sau, chúng tôi vẫn đang còn sinh hoạt chung với nhau.

Sinh hoạt cùng tăng thân giúp tôi ý thức sâu sắc hơn quá trình thiền tập của mình, sau đó tôi được mời đến các lớp nói chuyện, chia sẻ với các lớp học, các khoa, rồi với cả ban giám hiệu. Khi chia sẻ với cán bộ giảng dạy các khoa hay với lãnh đạo nhà trường, tôi chú trọng cách thực tập chánh niệm trong môi trường công sở và tầm quan trọng cũng như những lợi lạc mà chánh niệm mang lại cho đời sống của cán bộ trong trường. Tôi trình bày rất đơn giản, chủ yếu mời mọi người trở về hơi thở và để ý thực tập mọi lúc mọi nơi ngay khi đang làm việc, lúc đứng lớp hay ngồi tại văn phòng.

Dunia Aparicio, Karina Grau, Carme Morist, Toni Pujades, Montserrat Ramírez Sáez, và Rosa Rodrigo là tên một nhóm các giáo viên trung học cơ sở ở Tây Ban Nha. Họ kể về bữa sáng chánh niệm hàng tuần trong đó mọi người cùng uống cà phê, ngồi thiền, rồi nói chuyện với nhau. Trước hết ta hãy cùng nghe chia sẻ từ phía cô giáo đã sắp xếp và chuẩn bị thiền đường với tất cả thân tâm của mình:

Thứ Tư rất đặc biệt đối với tôi. Đó là ngày nhóm giáo viên chúng tôi gặp nhau với bữa sáng chánh niệm rồi ngồi thiền; khoảng thời gian ngắn thôi nhưng đủ để chúng tôi cảm thấy mình có mặt cho nhau. Buổi sáng tôi đến thiền đường, đặt bình cà phê lên chiếc bàn nhỏ, sau đó chuẩn bị thảm, bồ đoàn và xếp ghế thành vòng tròn một cách thật chú tâm. Tôi trải tấm khăn xinh xắn mô phỏng một bức thư pháp của Thầy và gắn ở mỗi bên ảnh của thiền sinh tham gia khóa tu Wake Up. Rồi để không gian gần gũi với tự nhiên tôi từ từ điểm xuyết một vài viên sỏi, vỏ sò, lá cây với một chân đèn cầy ở chính giữa. Đây là cách tôi thực tập chánh niệm trước giờ lên lớp. Sau đó, tôi dành 5 phút để trở về với chính mình, theo dõi hơi thở và tưởng tượng khuôn mặt của những học sinh sẽ đi học hôm đó. Tôi chúc cho mình và các thành viên trong nhóm thiền tập có được một ngày hạnh phúc.

Đồng nghiệp của cô cũng tích cực chia sẻ về sự an trú, tĩnh lặng và tình huynh đệ toát ra từ hải đảo bé nhỏ này vào đầu ngày.

Thứ Tư nào tôi cũng thức dậy với tâm trạng khác thường, lòng đặc biệt rộn ràng vui tươi. Trước tiên tôi nhắn với các thành viên đừng quên bữa sáng chánh niệm của tăng thân mình. Đến giờ, tôi đi bộ đến “thiền đường” nằm ngay trong trường, cảm thấy biết ơn vì đã dành thì giờ chăm sóc và nuôi dưỡng thân tâm mình đồng thời cũng nỗ lực hết sức vì học trò của mình. Bước vào thiền đường tôi cảm nhận được tình thương trong sự chuẩn bị của tăng thân. Tôi ngồi thiền, trở về với hơi thở chánh niệm. Các giáo viên khác lần lượt đến, và chúng tôi thực tập có mặt cho nhau trong tĩnh lặng.

Giờ thì tôi sinh hoạt rất đều đặn vào ngày thứ Tư Quán niệm của tăng thân, chúng tôi cùng thực tập chánh niệm, trở về hơi thở, và chế tác lại nguồn năng lượng sau những giờ dạy vất vả. Đây cũng là khoảng thời gian chúng tôi có mặt cho nhau dù bằng cách này hay cách khác. Tôi thực sự trân quý giây phút này.

Sau buổi Quán niệm, giờ học của chúng tôi được làm mới một cách sâu sắc. Lan tỏa khắp các lớp học là ý thức sâu sắc được cống hiến cho nghề dạy học cùng với nguồn năng lượng tươi mát tràn đầy nơi chúng tôi.

Tìm đến với phụ huynh

Truyền thống thực tập của Làng Mai luôn đặc biệt trân quý những bậc cha mẹ cũng như các thành viên trong gia đình. Các gia đình thường cùng tham dự khóa tu định kỳ để được hưởng sự an lạc, hoan hỷ, cũng như để học cách trị liệu và làm mới sự truyền thông. Pháp thoại của Thầy (Thiền sư Thích Nhất Hạnh) và sách Thầy viết vẫn luôn quan tâm đến gia đình và các bậc làm cha mẹ. Theo Thầy, thực tập chánh niệm chữa lành được những khổ đau thường gặp trong giao tiếp cũng như trong các mối quan hệ gia đình. Trong các khóa tu, Thầy thường mời các thiền sinh gọi điện về nhà ngay đêm đó để tái lập truyền thông và làm mới mối quan hệ với bất cứ thành viên nào trong gia đình mà họ đang lục đục hoặc xa cách. Nhiều người đã thành công, như chia sẻ dưới đây từ khóa tu năm 2013 dành cho các nhà giáo.

Chúng tôi ý thức sâu sắc rằng các thiền sinh đến tu học mỗi người có một hoàn cảnh gia đình khác nhau, và cũng được nhiều người khác nhau chăm sóc hay nuôi dưỡng. Vì vậy trong phần này chúng tôi xin được phép sử dụng thuật ngữ “bố mẹ” làm cụm từ viết tắt với ý nghĩa bao hàm cả những bậc bố mẹ nuôi, bố mẹ kế, bố mẹ đỡ đầu, người giám hộ, mang thai hộ… đã chăm sóc và nuôi dưỡng mỗi thiền sinh. Chúng tôi cũng ý thức rõ rằng thiền sinh còn được chăm sóc và nuôi dưỡng ít nhiều bởi bà con họ hàng và các anh chị em bè bạn của thiền sinh. Mỗi thái độ và hành vi của chúng tôi đối với gia đình các thiền sinh đều được thực hiện với tâm từ bi mà không phán xét hay đối xử phân biệt.

Trong những buổi pháp thoại tại các khóa tu, hay thực chất là những buổi chia sẻ các câu chuyện, Thầy đã kể những điều nghe có vẻ kì lạ nhưng rất thường xảy ra ở mỗi khóa tu:

Phép màu của sự hòa giải luôn xảy ra trong các khóa tu, cho dù ở châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ, hay bất cứ nơi đâu. Khi bắt đầu khóa tu, đại chúng thực tập cách buông bỏ căng thẳng, chạm được những điều màu nhiệm trong cuộc sống, đối trị các cảm xúc mạnh và quán chiếu những nỗi khổ niềm đau của bản thân để thấu hiểu những niềm đau nỗi khổ của người khác. Sau đó, đến ngày thứ 5 hay ngày thứ 6 của khóa tu, thiền sinh phải thực tập hòa giải với một người mà vị ấy đang thiếu truyền thông. Ngày thứ 5 này các thiền sinh sẽ được thông báo rằng: “Thưa đại chúng, từ bây giờ cho đến nửa đêm đại chúng có thể thực tập hòa giải với một người nào đó. Nếu vị đó không có ở đây, đại chúng được phép sử dụng điện thoại để liên lạc với họ.” Thầy nhớ trong một khóa tu ở miền Bắc nước Đức có 4 cậu thanh niên đã đến gặp Thầy và chia sẻ về việc hòa giải qua điện thoại với bố mình vào đêm hôm trước. Một người nói: “Thầy ơi, không thể nào tin được là con có thể nói chuyện với ba con như thế. Con đã từng rất giận ba con. Vậy mà không hiểu sao con lại trò chuyện với ba con rất dịu dàng! Thế là đêm qua con làm được rồi! Con có hơi băn khoăn lúc bấm số, nhưng nghe giọng ba, tự nhiên con ăn nói nhẹ nhàng hơn.” Bố cậu ấy không biết rằng những hạt giống tốt lành đã được tưới tẩm trong con mình vào 5 ngày đầu tiên của khóa tu, để rồi cậu có thể nhận diện được nỗi khổ của ông bằng cách quán chiếu nỗi khổ của chính mình. Đó là lý do tại sao cậu cất lên được những lời yêu thương khi nghe giọng bố mình. Cả 4 cậu thanh niên đã làm lành với bố chỉ trong vòng 1 hay 2 tiếng đồng hồ – việc mà đã bao nhiêu năm rồi họ chưa làm được. Phép màu đã xảy ra. Và phép màu cũng sẽ đến với bất kỳ ai trong chúng ta nếu biết thực tập ái ngữ và lắng nghe sâu[3].

Theo Michael Schwammberger, một người có nhiều kinh nghiệm tổ chức khóa tu mà chúng ta đã được nghe anh chia sẻ vài lần trong bộ sách này, các gia đình thiền sinh mà anh ấy gặp có rất nhiều nỗi khổ đau nhưng lại hiếm khi được yểm trợ và thấu hiểu, vì vậy họ được hưởng bao nhiêu là lợi lạc khi tham gia tu học.

Tôi đã tham gia tổ chức các khóa tu gia đình ở Anh trong nhiều năm vì tôi thấy đó là việc cần làm. Tôi quan sát thấy các gia đình cần được yểm trợ nhiều lắm, nhưng dường như không phải ai cũng nhận diện được điều đó. Chính khóa tu 5 ngày đã giúp tôi quán chiếu được những nhu cầu thực sự của bố mẹ và con cái, cũng như khả năng hàn gắn gia đình lại với nhau. Chỉ cần tạo ra được một không gian thích hợp. Thời khóa đặc biệt nhất là thực tập Làm mới trong gia đình. Tôi rất ngạc nhiên trước tác dụng to lớn của việc “tưới hoa” và “xin lỗi”. Đó là việc mà đại chúng khó lòng thực hiện nếu không có một môi trường thuận lợi như thế. Đúng là họ chưa có cơ hội được thực tập.

Tại trường tiểu học mà cô Bea Harley làm việc, cô đã nhận thấy chánh niệm giúp nuôi dưỡng sự gắn kết giữa nhà trường và gia đình, xây dựng một mô hình học đường tạo được nhiều cảm hứng.

Tôi biết, thông thường khi thấy con cái mình thay đổi thì bố mẹ sẽ tò mò muốn tìm hiểu về sự thực tập chánh niệm. Trường tôi tổ chức sinh hoạt gặp mặt mọi người với nhau mỗi tuần một lần, không chỉ để ghi nhận thành quả học tập của các em học sinh mà còn là dịp để chúng tôi tập hát thiền ca, xướng tụng, tập thở, và chia sẻ với nhau những kinh nghiệm, những câu chuyện về lòng từ bi, để có thể hiểu nhau và thương nhau nhiều hơn.

Muốn các bố mẹ thấu hiểu và ủng hộ sự thực tập, chúng tôi nghĩ mình phải mời các bố mẹ cùng tham gia ngay từ đầu. Thời gian qua, chúng tôi đã tổ chức những khóa thiền cho bố mẹ và các buổi thực tập sau giờ học. Sau chuyến viếng thăm của quý thầy quý sư cô, chúng tôi đã thành lập một tăng thân tên là “Bố Mẹ Hiểu Biết”, cùng sinh hoạt mỗi tháng một lần. Ngoài ra các bố mẹ còn yểm trợ nhau thông qua các kênh mạng xã hội.

Cô Bea thật may mắn khi được làm việc trong môi trường tư thục nhỏ, lấy chánh niệm làm nguyên tắc hoạt động. Còn chúng ta, trên chặng đường dài trước mắt, có thể làm gì để xây dựng mối liên hệ tốt đẹp như vậy giữa gia đình và nhà trường nơi mình đang giảng dạy?

Tương tác hàng ngày với các thành viên gia đình trong chánh niệm

Trước khi mời các bố mẹ thực tập chánh niệm thì bản thân các thầy cô khi tiếp xúc thường kỳ với bố mẹ cũng như những thành viên khác trong gia đình cần thực tập tiếp xúc với họ một cách chánh niệm – đầy tình thương, đầy chất liệu từ bi, đầy khả năng thấu cảm, đầy lắng nghe sâu và thực tập ái ngữ.

Gặp bố mẹ nào điềm tĩnh và thân thiện thì ta giữ được chánh niệm và từ bi khá dễ dàng, song những cuộc gặp có tính quyết định lại thường ở tình huống cam go khi các ông bố bà mẹ đến lớp để phàn nàn, thể hiện sự khó chịu hay giận dữ. Là giáo viên, ai cũng biết rằng những vị phụ huynh mình muốn trao đổi nhiều nhất thường lại là những người ít xuất hiện nhất, có lẽ do ngày xưa đi học họ có những trải nghiệm không mấy tốt đẹp nên tránh tới trường vì sợ hãi. Khi vào thế buộc phải đến trường (phổ thông hay đại học), họ lại đi với tâm trạng căng thẳng và tư thế phòng thủ. Nếu biết thực tập, ta sẽ cảm thấy vững chãi và điềm tĩnh, dễ dàng nắm bắt cơ hội quý báu để lắng nghe, xoa dịu và hàn gắn mối quan hệ, bởi tâm từ bi giúp ta thấy được thực ra chính bố mẹ cũng đang rất đau khổ.

Cô Bea nhắc ta nhớ tầm quan trọng của việc lắng nghe khi tiếp xúc với bố mẹ, để lỡ gặp vị nào có vẻ khó khăn, ta cũng tránh được ý định hơn thua với người đó. Theo cô, thực tập cho phép mình cởi mở và đồng cảm hơn, qua đó giúp buổi gặp mặt diễn ra trong không khí thân thiện:

Thực tập lắng nghe sâu luôn là một trải nghiệm khiến tôi thấy ngại chia sẻ. Đôi khi, tôi thấy khó tránh được tâm thế phòng thủ lúc phải đối mặt với một vị phụ huynh đến bày tỏ một mối bận tâm nào đó, nhất là khi họ có thái độ đối với phương pháp giảng dạy hay cách thức tổ chức lớp của tôi. Nếu tôi đặt tâm phán xét sang một bên và lắng nghe người bố người mẹ đó, tôi sẽ có cơ hội thực sự kết nối với họ. Đôi khi tôi hiểu được những trăn trở đó bắt nguồn từ chính nỗi đau hay khó khăn mà cá nhân họ từng trải qua, từ đó tôi thương họ hơn, và thể hiện sự hiểu biết, thương yêu trong hành động và lời ăn tiếng nói của mình hơn.

Quán niệm hơi thở đã giúp Murielle Dionnet biết chú tâm lắng nghe khi gặp một vị phụ huynh mà trước đây cô thấy rất khó tiếp xúc.

Khi đi dạy tôi phải trao đổi với những vị phụ huynh rất khó chịu, chẳng hạn như mẹ của một em học sinh nọ. Do bà bị mắc chứng hoang tưởng, nên nhiều lúc tôi không tài nào ngồi nghe bà ấy nói chuyện được. Thỉnh thoảng, tôi phải thực tập theo dõi hơi thở rồi trở lại lắng nghe. Trong khi lắng nghe, tôi cũng thực tập hơi thở ý thức. Tôi đã chấp nhận được sự thật của vấn đề, và biết rằng người mẹ này đã cố gắng hết sức rồi. Cứ thế hơi thở giúp tôi vừa kết nối với bà ấy vừa chăm sóc bản thân mình và giúp được con trai bà. Một đồng nghiệp bảo tôi: “À thì ra cô đang giả vờ vậy thôi” nhưng không, tôi thực sự lắng nghe đấy chứ. Tôi đã lắng nghe cái thẳm sâu bên trong của người mẹ ấy.

Là một người hướng dẫn thiền tập tại Mỹ, cô Judith Toy đã tạo dựng một chương trình giúp tăng cường kỹ năng cho các gia đình có hoàn cảnh khó khăn do nghèo đói, bất công và bạo lực liên thế hệ. Theo quan sát của cô, chính việc thực tập của bản thân đã đóng vai trò then chốt giúp cô giữ mình vững chãi và thấu cảm được phụ huynh và đứa trẻ mà cô đang dạy:

Chánh niệm giúp tôi biết đặt mình vào hoàn cảnh của Dee (tên đứa trẻ). Cảm giác sẽ ra sao nếu con không có cha, mất mẹ, rồi lại bị chính bà của mình ngược đãi? Đối với mẹ của cô bé, người vừa dứt được cơn nghiện rượu, chánh niệm đã giúp tôi hướng bà ấy đến cách nuôi dạy con cái với sự bình tĩnh và nhẫn nại[4].

Thậm chí có khi các em học sinh còn nhờ thầy cô mình dùng sự thực tập chánh niệm để thúc đẩy nhanh việc truyền thông với bố mẹ của chúng:

Thi thoảng, khi các em gặp khó khăn trong việc học và không biết nói như thế nào cho bố mẹ hiểu thì chúng lại mời phụ huynh tới văn phòng của tôi. Tôi lắng nghe cả hai bên và yểm trợ cả nhà thông qua thực tập Làm mới.

— Morrakot “Chompoo” Raweewan, giáo sư đại học, Thái Lan

Đem chánh niệm về nhà

Học sinh chính là những vị sứ giả đắc lực kết nối mình với mái ấm gia đình các em. Khi phụ huynh và các em cho biết cả nhà đã bắt đầu thực tập và sự thực tập đang yểm trợ truyền thông trong gia đình, mang đến những hiệu quả tích cực trong đời sống của họ, thì biết mình đã thực hiện bước đi đúng đắn trên con đường đưa chánh niệm vào trường học. Dưới đây là một số câu chuyện kể về những điều lợi lạc mà các bố mẹ thường được chứng kiến và chiêm nghiệm, đa số là về sự đổ vỡ và tái lập truyền thông:

Qua lời kể của các bố mẹ, tôi hiểu thêm về cách các em mang sự thực tập về nhà như thế nào. Chẳng hạn, như khi một cậu bé và mấy đứa em gái đang giành nhau một món đồ chơi, chúng đang cãi nhau ỏm tỏi thì cậu bé chợt nói: “Anh nghĩ tụi mình cần dừng lại hít thở cái đã.” Trong một ví dụ khác, bà mẹ tâm sự rằng, khi cô đang cãi nhau với chồng thì đứa con gái đến nói: “Bố mẹ ơi, bố mẹ hãy trở về với hơi thở đi ạ”.

— Christine Petaccia, nhà trị liệu chức năng, Mỹ

Một lần, những hoa trái của sự thực tập đã hiện lên sống động trong tôi khi một em thiếu niên chia sẻ vào buổi sinh hoạt hằng tuần rằng: “Hôm đó đi học về em đang thấy tức giận và căng thẳng thì bố sai em làm một việc càng khiến em bức bối hơn nữa. Nhưng thay vì gắt lên trước mặt bố thì em chỉ hít một hơi, thở vào thở ra, rồi vào phòng ngồi thiền một lúc. Bố thấy vậy bèn theo em vào phòng và cũng ngồi cạnh cùng thiền với em. Ngồi xong thì tâm trạng của cả hai bố con đều tốt lên rất nhiều, và tối ấy hai bố con đã có một khoảng thời gian rất vui bên nhau.”

— Dzung X. Vo, bác sĩ Nhi, Canada

Có vị phụ huynh gọi điện kể về việc bà đã yểm trợ cậu con trai của mình khi cậu bé đang cố gắng kiếm một suất trong đội đấu kiếm trẻ toàn quốc. Cứ vài lần một tuần, bà lại chở cậu bé tới sân tập và trong ba tiếng đồng hồ di chuyển ấy, bà đã quen thấy cậu bé dán mắt vào các thiết bị điện tử. Nhưng đến một hôm, trên đường đi cậu bé không những ngừng sử dụng thiết bị điện tử mà còn tắt luôn cả iPhone lẫn iPad khiến bà rất ngạc nhiên. Thế rồi bà vui mừng khi cậu bé đề nghị hai mẹ con hãy cùng có mặt cho nhau, chỉ sống với giây phút hiện tại, cùng vui ngắm cảnh trí dọc đường, thưởng thức bầu trời và những đám mây.

— Betsy Blake Arizu, giáo viên trung học kiêm tư vấn viên đã nghỉ hưu, Mỹ

Khiêm tốn mà nhìn nhận thì người trẻ đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực tập chánh niệm cho người lớn chúng ta, kể cả bố mẹ của chúng. Cô Annie Mahon, dạy chánh niệm ở Mỹ kể lại câu chuyện cảm động và hài hước giúp cô khám phá ra điều này. Trong khóa tu, mặc dù cô nghĩ mình thực tập chánh niệm chuyên tâm lắm nhưng chính cậu con trai mới 9 tuổi của cô đã đánh động cho cô biết thế nào mới thực sự là ăn trong chánh niệm − ăn với tất cả những thanh âm vui sướng − thay vì cứ luôn cố tỏ ra “trịnh trọng” trong khi ăn như cô thường thực tập.

Cậu con trai 9 tuổi của tôi đã dạy tôi, hay đúng ra là Louie đã nhắc tôi cách ăn trong chánh niệm. Khóa tu năm ấy, tôi cùng bốn đứa con đang dùng bữa trưa trong im lặng tại một nhà ăn rất rộng. Tôi ăn rất chú tâm, cẩn thận đặt nĩa xuống trong lúc nhai thì nghe có tiếng kêu khoái chí đột ngột phá tan sự im lặng hùng tráng của cả nhà. “Nhăm… nhăm… nhăm…” Louie đang ở phía bên kia nhà ăn nhấm nháp một mẩu bánh kem việt quất. Cậu bé mải mê đắm chìm vào chiếc bánh mà không hề biết rằng có 600 cặp mắt đang nhìn nó – có người nhìn chằm chằm ra vẻ bực bội, có người tròn xoe mắt ngạc nhiên, có người chỉ mỉm cười, còn đa số trông như đang thèm được bắt chước cách Louie thưởng thức đồ ăn với toàn bộ năng lượng hoan hỷ… Ngắm Louie ăn với niềm vui và chánh niệm một cách tự nhiên như vậy, tôi vô cùng hứng khởi và hy vọng rằng một ngày nào đó tôi cũng có thể tìm lại được cảm giác ấy cho bản thân. Câu thần chú mới của tôi từ dạo đó là: Nguyện sẽ thọ dụng thức ăn với niềm hoan hỷ của cậu bé 9 tuổi đang ăn bánh kem việt quất.

Từng bước hướng dẫn bố mẹ và các thành viên trong gia đình

Một khi nhịp cầu tình thân đã được bắc ngang nối liền giữa nhà trường, gia đình và các em học sinh. Ngày ngày, đi qua cây cầu tình thân ấy, chắc hẳn ta sẽ tìm thấy cơ hội để chia sẻ trực tiếp về sự thực tập chánh niệm với các bậc phụ huynh và gia đình.

Để thuyết phục các bố mẹ cùng thực tập chánh niệm, ta có thể tổ chức những thời khóa đơn giản như đi dã ngoại. Ở Chương 6 của tập 1 Cẩm nang hạnh phúc, cô giáo người Mỹ Chelsea True từng chia sẻ việc khuyến khích các gia đình tham dự buổi ăn trong chánh niệm và một chương trình thực tập ngoại khóa. Ngoài ra, ta có thể tạo điều kiện cho bố mẹ và các em cùng thực tập với nhau, nhất là đối với các em bé còn nhỏ, còn nhóm tuổi vị thành niên thì thường không thích ý tưởng này cho lắm. Trong câu chuyện của cô Tineke, bố mẹ và các bé đều đặn đến với ngày Quán niệm để trải nghiệm thiền buông thư giúp giải tỏa căng thẳng.

Chúng tôi mời mọi người nằm xuống theo cặp (bố với con, mẹ với con) hoặc là cả nhóm ba người cùng có mặt cho nhau. Các em nhỏ thường thích gối đầu lên bụng bố/mẹ mình.

Các thầy cô thỉnh chuông hướng dẫn các em nhỏ thực tập thiền buông thư. Có thể sẽ có vài em di chuyển, chúng tôi mời các bố mẹ đi theo để thực tập cùng, đừng ngăn cấm chúng.

Trong số các phụ huynh có một mẹ đã ghi âm giọng mình bằng điện thoại giúp con trai dễ ngủ và buông thư hơn. Cậu bé cho biết khi nghe tiếng mẹ sẽ làm cậu cảm thấy thư thái trọn vẹn, và thế là cậu không tài nào gượng lại được cơn buồn ngủ trước khi đoạn ghi âm kết thúc.

Thầy Richard Brady đã mô tả chi tiết quá trình tổ chức các khóa tu dành cho phụ huynh tại trường Sidwell Friends ở tiểu bang Washington D. C. Sau vài năm hướng dẫn khối lớp Chín thực tập xả stress, thầy nghĩ đến tiềm năng các bố mẹ có thể yểm trợ lẫn nhau nếu có cơ hội trải nghiệm thực tập cùng các em. Gần đây thầy hay giới thiệu các khóa giảm stress giúp phụ huynh buông bỏ căng thẳng tương tự như khóa dành cho học sinh, nhưng số lượng bố mẹ tham gia hầu như rất ít. Không biết do họ quá bận hay không thấy thoải mái khi nhận sự giúp đỡ từ người khác? Hoặc giả, nếu các khóa thực tập chánh niệm tập trung giúp bố mẹ yểm trợ con cái hiệu quả hơn thì liệu họ có quan tâm nhiều hơn không? Đó là xuất phát điểm những quả ngọt được biểu hiện dưới đây.

Thực hành cho bố mẹ: Niềm vui của việc nuôi dạy con cái bằng chánh niệm

Yếu tố then chốt trong công tác nuôi dạy con cái bằng chánh niệm là sự có mặt, có mặt trọn vẹn cho cả chính mình và con cái. Tham gia khóa thực tập chánh niệm này, các bố mẹ sẽ được thực hiện những thời khóa giúp nhận diện sâu sắc hơn về tư duy, cảm thọ, giáo dục cảm xúc, cũng như thực tập ái ngữ và lắng nghe sâu. Những kỹ năng này đóng vai trò quan trọng xây dựng mối liên hệ tốt đẹp không chỉ với trẻ con mà còn cả người lớn nữa. Các khóa chánh niệm dành cho phụ huynh mà tôi tổ chức dần lan tỏa sang các trường khác. Chúng tôi tập trung vào thực tập truyền thông và làm chủ các cảm thọ tiêu cực. Trước hết, cần có mặt với cái tâm không phán xét dù có bất kỳ chuyện gì xảy ra trong phút giây hiện tại. Muốn vậy, chúng tôi nhắm mắt lại trong vòng 4 phút, đơn giản chỉ để nhận diện những gì đang xảy ra trong tâm trí, qua các giác quan, phản ứng cơ thể, qua tư duy, hay cảm thọ. Tiếp theo, chúng tôi thực tập chánh niệm với một bạn đồng tu khác. Mỗi người trong chúng tôi đều hiểu rằng món quà tuyệt nhất mình có thể tặng cho các con chính là sự có mặt trọn vẹn và lắng nghe con mình một cách chú tâm. Tôi giải thích cách lắng nghe sâu, hay theo cách dùng từ của Mary Rose O’Reilley là “lắng nghe như cô bò”, nghĩa là dành 100% sự chú tâm của mình cho người nói, không hỏi, không cự nự, không suy tư, hay so sánh với những gì mình cho là đúng. Các bố mẹ bắt cặp với một người lạ, sau khi đọc 3 câu trích dẫn tạo cảm hứng, chọn câu mình tâm đắc nhất rồi cùng ngồi xuống thực tập chia sẻ và lắng nghe người kia trong 3 phút.

Trong mỗi buổi thực hành tôi đều mời mọi người chia sẻ những cảm thọ khó khăn nảy sinh khi bố mẹ phải đương đầu với lũ trẻ. Những cảm xúc này là hoàn toàn tự nhiên; chẳng có gì sai cả. Quan trọng là cách ứng xử của bố mẹ mà thôi. Để xử lý tốt những cảm xúc khó chịu này, bố mẹ cần nhận diện được sự có mặt của mình và tuyệt đối không nên hành xử một cách vô thức. Điều này nhắc mình quay về thực tập nhận diện những gì đang xảy ra bên trong cũng như bên ngoài trong giờ phút hiện tại. Hãy xem những cảm thọ tiêu cực này như là một phần cơ thể đang bị thương (giống đứa trẻ đang gào khóc) cần sự quan tâm chăm sóc của mình. Lúc này, mình hãy chuyển hướng chú ý từ đứa trẻ sang tâm hành của chính mình và ôm ấp nó trong chánh niệm. Thở vào, tôi biết mình đang giận hay bất kỳ một cảm thọ nào khác. Thở ra, tôi ôm ấp cơn giận bằng tình thương. Tôi mời các bố mẹ liên hệ đến một sự việc mới xảy ra khiến họ đau lòng (tỉ dụ như một lời nói không hay về họ hoặc lời họ nói ra gây tổn thương cho người khác), rồi thực tập chăm sóc cảm giác khó chịu đó tựa như những cảm xúc phát sinh trong quá trình nuôi dạy những đứa con nghịch ngợm.

Kết thúc khóa thực tập chánh niệm, tôi mời các vị phụ huynh thực tập thường xuyên để họ có thể duy trì kĩ năng đối trị những cảm thọ tiêu cực, nhất là trong tình huống khó khăn buộc họ phải đối mặt trực diện với con cái mình.

Cốt yếu của việc chia sẻ sự thực tập chánh niệm với người khác là không nên bắt buộc họ “cần phải” làm thế này hay thế kia mà hãy giúp họ hiểu họ đang ở đâu và nên làm gì cho hợp lý.

Hướng tiếp cận toàn diện

Trong lời tựa, chúng ta đã quán chiếu mức độ nhận thức ngày càng nâng cao về tầm quan trọng của việc tiếp cận toàn diện các trường phổ thông và đại học hay còn gọi là “toàn trường” đối với vấn đề đòi hỏi tổng lực của toàn bộ tổ chức nhà trường. Khái niệm này đang trở nên phổ biến trong giáo dục, khi các nghiên cứu ngày càng cho thấy rõ hiệu quả của sức mạnh tổng hợp có thể tạo ra với sự minh bạch và mạch lạc xuyên suốt. Trích lời nhà tâm lý học Chris Willard dưới đây giúp ta nắm bắt thế nào là phương cách tiếp cận toàn trường một cách toàn diện khi lồng ghép nội dung thực tập chánh niệm:

Chúng tôi ươm trồng những hạt giống tốt trong đứa trẻ và hết lòng chăm sóc toàn bộ khu vườn ấy. Trên cương vị là phụ huynh, chúng tôi đã mời cả nhà thực tập, đề xuất ý tưởng đưa thực tập chánh niệm vào chương trình học ở trường hay chùa và nhà thờ. Nơi nào chưa có thì các bố mẹ xung phong hướng dẫn thiền tập. Mình cũng có thể chung tay xây dựng một tăng thân trường học, nơi thầy cô và học sinh có thể thực tập cùng nhau. Nếu mình dạy thể dục thì có thể kết hợp yoga và thái cực quyền. Nếu mình khám chữa bệnh thì có thể hướng dẫn thực tập cho tăng thân bệnh viện – nghiên cứu cho thấy học sinh sẽ rất học tập tốt nếu có sự phối hợp từ phía phụ huynh; bệnh nhân sẽ hồi phục rất nhanh nếu chánh niệm được lưu ý trong y học và trị liệu tâm lý. Mình càng nhắc đứa trẻ hành trì ở nhiều nơi thì càng có nhiều hạt giống chánh niệm được nuôi dưỡng và cho ra quả ngọt[5].

Tiếp cận toàn trường

Các trường phổ thông và đại học tại một số nước trên thế giới đang thực hiện chương trình áp dụng chánh niệm vào trường học. Cách tiếp cận toàn diện hơn với nhiều cấp độ, xuyên suốt từ trên xuống dưới, nhằm mục đích cuối cùng là để tạo ra một trường học chánh niệm – tầm nhìn này cũng bắt đầu được hiện thực hóa, trong đó có sự yểm trợ của Làng Mai. Sau đây là 4 câu chuyện khơi nguồn cảm hứng.

Chuyện thứ nhất: Tạo môi trường thực tập

Nhà giáo dục người Tây Ban Nha Carmelo Blazquez Jimenezae mô tả ảnh hưởng sâu sắc đối với không khí làm việc toàn trường khi mọi người thực tập ái ngữ và lắng nghe sâu. Hiệu quả này thậm chí còn thấy rõ đối với giám đốc địa phương của chương trình mà thầy phụ trách.

Cách đây không lâu, sếp của tôi là giám đốc Làng Trẻ em SOS xứ Catalan đến thăm chúng tôi và đã phát biểu rằng: “Mỗi lần gặp các bạn trẻ chương trình Làn gió ấm, tôi thấy ai cũng hoan hỷ và hạnh phúc. Đó chính là trái ngọt mà cả nhóm đã tạo ra được cũng như tình thân mà các bạn đang nuôi dưỡng trong nhau.” Nhóm giáo viên chúng tôi trên thực tế đã cùng hợp tác với nhau được 9 năm trong chương trình này; đó là đội ngũ ổn định nhất với tỉ lệ bỏ việc thấp nhất khi xét cơ cấu tổ chức toàn bộ Làng trẻ em SOS Catalan. Mức độ xung đột xảy ra giữa các bạn trẻ cùng chung sống với nhau cũng như với các thầy cô, đã giảm đáng kể. Họ hiểu nhau sâu sắc hơn và thương nhau, chăm sóc lẫn nhau nhiều hơn.

Chuyện thứ hai: Mở rộng quy mô thực tập

Thầy Miles Dunmore dạy môn Văn học Anh, có kinh nghiệm trong việc hướng dẫn các khóa tu tập chánh niệm tại Anh. Thầy chia sẻ quá trình cùng đồng nghiệp phát triển tăng thân nhỏ trong nhiều năm và hiện đang xúc tác việc xây dựng chương trình giáo dục chánh niệm cho học sinh tại một trường trung học quốc tế. Thầy cũng hy vọng tiếp theo sẽ thực hiện được những thay đổi trong phạm vi toàn trường.

Kinh nghiệm cho thấy các thầy cô giáo cùng chí nguyện thường sẵn sàng thực tập. Đôi khi, chúng tôi chẳng bao giờ nghĩ là họ lại quan tâm đến chuyện này.

Tại trường tôi ở Luân Đôn, từ khóa tu với Thầy và các thầy các sư cô Làng Mai năm 2012, một vài người đã bắt đầu ngồi lại với nhau 15 phút mỗi tuần vào sáng thứ Hai trước khi giờ học bắt đầu. Vài tháng sau, chúng tôi sinh hoạt thêm 30 phút mỗi chiều thứ Sáu nữa. Chúng tôi thường mời các đồng nghiệp khác tham dự với tư cách là người thử nghiệm. Mọi người đến và nhiều khi những buổi quán niệm này còn kéo dài hơn cả dự định.

Các thầy cô tham gia đông hơn và chúng tôi bắt đầu ngồi thiền mỗi ngày trước giờ lên lớp, lúc đầu là ở một góc yên tĩnh của thư viện, cũng trong khoảng tầm 15 phút. Không phải ai cũng thiền mỗi ngày nhưng bao giờ cũng có vài người sắp xếp được. Những lợi lạc biểu hiện ở sự bình an và điềm tĩnh hơn khi chúng tôi bắt đầu một ngày làm việc mới và yểm trợ nhau duy trì chánh niệm trong công tác giảng dạy của mình. Sau đó 1 năm thì chúng tôi chuyển đến một phòng học có cửa sổ mở ra hành lang. Nhiều đồng nghiệp và học sinh bắt gặp chúng tôi đang ngồi thiền. Thế là điều gì đó đã xảy ra. Sáng kiến mới bắt đầu nảy sinh. Chúng tôi mời học sinh thực tập trong lớp và tận dụng một phòng yên tĩnh, chánh niệm cho những tiết học khác.

Một khi đã có thể cùng nhau đi sâu hơn vào sự thực tập để làm lớn mạnh ý thức chánh niệm trong trường học, chúng tôi đã có thể bắt đầu chia sẻ những phương thức hiệu quả đưa giáo dục chánh niệm vào chính ngôi trường mình đang dạy, cách lựa chọn biên soạn chương trình học, tìm tài liệu tập huấn, đề đạt lên ban lãnh đạo và những vị đứng đầu trong công tác biên soạn. Chúng tôi luôn yểm trợ nhau giúp mọi việc diễn ra chu đáo và kĩ càng, tự nhủ rằng mình không hề đơn độc. Giáo dục chánh niệm nhờ thế mà trở nên dễ dàng hơn.

Hai câu chuyện về phương pháp tiếp cận toàn diện

Theo báo cáo của cô Lyndsay Lunan, phương thức tiếp cận toàn diện mang tính thực tiễn đã tạo ra những tiến bộ vượt bậc tại trường đại học của cô ở Glasgow, Scotland. Khởi sự từ việc hướng dẫn sinh viên thực tập chánh niệm đến việc đào tạo đồng nghiệp, xây dựng chương trình sinh viên toàn trường, trong đó có cả sự tham gia của phụ huynh và gia đình các em. Cô yểm trợ trực tuyến toàn bộ chương trình này, cung cấp những phương pháp thực tập chánh niệm để mọi người tải xuống, trong đó có chương trình dành cho “các bà các mẹ bị stress”. Cô nhận xét về kết quả đạt được khi thu thập dữ liệu và xuất bản song song với quá trình phát triển và đánh giá các sáng kiến kinh nghiệm nhằm tăng mức độ tin cậy với các đồng nghiệp như sau:

Tôi khởi động bằng cách hướng dẫn đội ngũ cán bộ thực tập chánh niệm vào giờ ăn trưa và cuối ngày (ở Anh, đội ngũ này bao gồm tất cả mọi người làm việc trong trường). Giá trị ở chỗ có thể đo được ảnh hưởng của sự thực tập; có bao nhiêu người đến bao nhiêu người ở lại tôi đều ghi lại hết, và tôi thiết kế phiếu điều tra phản hồi những ảnh hưởng mà các buổi sinh hoạt đem lại đối với mức độ giảm stress và tăng năng suất lao động. Chính nhờ những dữ liệu này mà Phòng Nhân sự có thể kiếm nguồn tài trợ cho chương trình thực tập chánh niệm dành cho cán bộ, tôi cũng tiếp tục công việc đánh giá, và đã thực hiện được 5 năm.

Trong năm thứ hai, tiếp bước thành công với khóa thực tập chánh niệm dành cho cán bộ, tôi tiến hành nghiên cứu thí điểm ở quy mô nhỏ với các em sinh viên. Một trong những lý do chính giúp chương trình thực tập chánh niệm cho sinh viên của tôi giành được giải thưởng thật ra là nhờ ảnh hưởng mà tôi đã đo lường được; tất cả các sinh viên đã hoàn thành bảng phân loại các cấp độ căng thẳng và an lạc vào đầu trong cuối khóa học kéo dài 12 tuần.

Kết quả rất tích cực và mọi người rất hưởng ứng chương trình thực tập chánh niệm dành cho sinh viên.

Đối với cả cán bộ giảng viên và sinh viên, tôi đã tạo ra môi trường học tập trực tuyến với các tài liệu MP3 ghi lại tất cả những bài thực tập có hướng dẫn mà chúng tôi thực tập chung với nhau trong nhóm. Mọi người có thể tải xuống điện thoại hoặc iPod để tiếp tục thực tập ở nhà. Nhiều sinh viên đã chia sẻ các tài liệu này với gia đình và đã cho tôi biết là những người bà người mẹ đang căng thẳng cũng thực tập theo. Điều này thực sự giúp cải thiện đời sống gia đình của các em. Sau 2 năm điều hành chương trình, tôi đã mời được đội ngũ giảng viên chia sẻ chánh niệm với các em sinh viên trong lớp họ dạy.

Tôi đã bắt đầu tổ chức những buổi thực tập chánh niệm cho nhóm quản lý cấp cao, thực sự hy vọng rằng sự có mặt và lắng nghe sâu có thể định hình các giá trị của trường đại học – rằng đến cuối con đường chúng tôi có thể sống và làm việc chung với nhau trong chánh niệm.

Câu chuyện cuối cùng rất thú vị được chia sẻ bởi Gift Tavedikul, hiệu phó trường American (Mỹ) ở Bangkok (American School of Bangkok – ASB) cùng với cô Peggy và thầy Larry Rowe Ward là hai chuyên gia giáo dục chánh niệm đã cố vấn cho trường. Họ viết về những tiến bộ đáng kể mà trường đạt được trong 15 năm qua hướng tới phương pháp tiếp cận thực sự toàn diện, trong đó có sự tham gia của học sinh, giáo viên và phụ huynh. Qua đó ta thấy được giá trị của phương thức hoạt động lâu dài và ổn định, được chuyên gia và quản lý cấp cao hỗ trợ trong giai đoạn đầu. Đây là phát biểu của Gift từ quan điểm của một nhà lãnh đạo cấp cao:

Cách đây 15 năm, tôi đã chia sẻ với các cán bộ niềm đam mê thiền tập của mình, bắt đầu từ một nhóm 4 người. Sự hoan hỷ trọn vẹn luôn có mặt trong nhóm của chúng tôi. Hơn 1 thập kỉ tự nguyện thực tập cùng nhau, tăng thân chúng tôi đã mở rộng dần từ 4 lên đến 70 thành viên. Ban lãnh đạo nhà trường, lần lượt từng người một cũng bắt đầu tham gia, thế rồi tất cả mọi người đều nhất trí thực tập chánh niệm trên phạm vi toàn trường. Cơ duyên lớn nhất cuộc đời tôi là được gặp cặp vợ chồng giáo thọ cư sĩ Larry Ward và Peggy Rowe Ward ở Saraburi, Thái Lan. Họ chuyên về giảng pháp, kinh doanh, tâm lý, giáo dục và tâm linh, qua đó đặt nền tảng tuyệt vời cho nhiều hình thức giáo dục chánh niệm khác nhau tại ASB. Thông qua sự giới thiệu của họ, tôi đã ghi danh tham dự Khóa tu dành cho giới giáo chức tại Làng Mai.

Chúng tôi đã mất 15 năm để xây dựng nền tảng hiểu biết lành mạnh trước khi chương trình có được một chỗ đứng vững vàng trong cộng đồng. Giáo dục mọi người cho họ thấy được chánh niệm làm tăng cường khả năng hoạt động của não bộ và chế tác chất liệu từ bi là chìa khóa giúp chúng tôi vượt qua những rào cản ban đầu. Bây giờ trường chúng tôi hiện có 850 sinh viên, 120 giảng viên và 200 cán bộ yểm trợ, tất cả đều được tiếp xúc với chánh niệm trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành.

Peggy và Larry cảm thấy may mắn gấp bội khi được cả hiệu trưởng và chủ nhân ngôi trường ủng hộ.

Ở khóa đào tạo tại chức đầu tiên về giáo dục chánh niệm với trọng tâm là tác động về mặt thần kinh học của chánh niệm, chúng tôi đã mở đầu bằng cách giới thiệu một nghiên cứu về tác động của chánh niệm lên sự phát triển của trí não cũng như toàn bộ cơ thể đứa trẻ. Kết thúc khóa tập huấn đã có hơn nửa số giảng viên mong muốn được tiếp tục tham gia. Đợt đào tạo tiếp sau đó, chúng tôi chia các giảng viên ra thành 3 nhóm; tôi cùng cô Gift và anh Larry đã hướng dẫn 3 buổi thực tập khác nhau với chủ đề: hành động chánh niệm, hơi thở chánh niệm, và khoa học thần kinh mở rộng.

Cuối đợt này, gần như 80% số giảng viên đã bày tỏ nguyện vọng muốn được thực tập thêm.

Chúng tôi đã thực hiện hai buổi thực tập chánh niệm dành cho phụ huynh tại cả hai cơ sở. Một buổi về kế hoạch ứng dụng chánh niệm 5 năm tại ASB, và một lần nữa chúng tôi lại thực tập hơi thở chánh niệm. Chúng tôi quay vài clip rất hay khi mọi người đang thực tập chánh niệm tại các phòng học khác nhau. Khóa thực tập chánh niệm này nói cả tiếng Anh, tiếng Thái, tiếng Nhật và tiếng Hàn. Chúng tôi chơi trò “Năm hơi” (có giới thiệu trong tập 1 Cẩm nang hạnh phúc, Chương 1 “Hơi Thở”) với các bố mẹ và trả lời các câu hỏi được đặt ra. Các bố mẹ ai cũng hưởng ứng nhiệt tình. Chúng tôi đã cùng soạn thảo chương trình giảng dạy từ Mẫu giáo cho đến lớp 12 cho năm đầu tiên; mỗi lớp có 5 buổi thực tập. Chúng tôi rất hạnh phúc với nhau.

Cô Peggy đã chia sẻ một số điều tâm huyết về những bài học kinh nghiệm mà cô nghĩ đã đúc rút được trong quá trình giáo dục chánh niệm trên phạm vi toàn trường.

“Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”, tuy nhiên chúng tôi đã quán chiếu thấy rằng:

  • Chúng ta cần bắt đầu bằng quy mô nhỏ, với sự kiên trì và kế hoạch rõ ràng. Giáo viên vốn nổi tiếng là có tư duy phản biện và thường là những học viên khó tính. Lúc ban đầu nên làm gì đó không tốn nhiều thời gian và công sức, khiến họ khó để phản đối, chẳng hạn như chơi trò “Năm hơi”. Cho dù có vài lời ra tiếng vào thì đa số cũng đánh động được bầu không khí chung. Với kế hoạch 5 năm, chúng ta cho ban lãnh đạo nhà trường hay rằng muốn thay đổi toàn diện cần phải có thời gian, lòng kiên nhẫn và sự thực tập.
    • Chúng ta nên thu hút giáo viên tham gia ngay từ đầu. Thầy cô giáo ai cũng muốn biết có chuyện gì đang xảy ra và họ thích tự học nên chỉ cần cung cấp tài liệu và hướng dẫn họ chứ đừng ép buộc. Yêu cầu các thầy cô giáo tham gia định hướng ban đầu, còn các buổi thực tập chánh niệm, ngày Quán niệm, hay khóa tu là hoàn toàn tự nguyện.
    • Bao giờ cũng có những người tiên phong và những người phản đối ở mỗi cơ sở giáo dục. Hãy sớm dẫn dắt những người tiên phong, những chú chim đầu đàn và đừng phí công thuyết phục những người phản đối. Ngay trong buổi thực tập chánh niệm đầu tiên, một số thầy cô đã đến chia sẻ với tôi: “Tôi muốn làm được như cô.” Những giáo viên này đã trở thành các chuyên gia giáo dục chánh niệm đầu tiên của chúng tôi.
    • Ba nhân tố song hành không thể thiếu trong giáo dục chánh niệm là người học, người dạy và các bố mẹ. Chúng ta cần đưa cả ba vào kế hoạch phát triển 5 năm.
    • Bản thân người dạy chánh niệm cũng cần thực tập. Nghiên cứu đã lưu ý rất rõ điểm này và chúng tôi cũng nghiệm thấy như vậy. Có cùng nhau thực tập, chúng ta mới tạo ra được một môi trường thực tập chánh niệm vững chãi. Cùng nhau, chúng ta mới có thể nuôi dưỡng tính khiêm cung và tăng cường sức mạnh bản thân. Chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực thức tỉnh, chế tác chất liệu từ bi, hiểu biết và thương yêu để tôn trọng nhân phẩm của nhau trong khi hành xử.
  • Làm gì đi nữa, chúng ta cũng không ngừng thực tập và chia sẻ những điều mình yêu thích với học trò và đồng nghiệp. Thật may mắn khi chúng ta đã tìm ra con đường.

Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới

Thầy Richard Brady, đã đóng góp trong nhiều chương của bộ sách này, kể câu chuyện cuối cùng gieo cho ta niềm hy vọng. Theo thầy quan sát, thì ảnh hưởng sâu rộng những gì ta đang làm cho thế hệ trẻ qua thời gian sẽ khiến ta ngày càng ngạc nhiên.

Khi trao đổi với những người trẻ về thực tập chánh niệm, chúng tôi thường tự hỏi: “Rốt cuộc liệu việc thực tập có thay đổi được gì không?” Chúng tôi tin là có. Nhưng nếu không dựa vào các nghiên cứu chứng minh liệu chúng ta có biết được hay không? Cách đây 4 năm, trong buổi đón tiếp cựu học sinh hàng năm của trường, tôi có một buổi nói chuyện đáng nhớ với Tom (tốt nghiệp năm 1989). Tom đã tâm sự về con đường sự nghiệp của mình, và cuối cùng là công việc hiện tại làm luật sư Ngân hàng Thế giới. Khi cậu ấy hỏi tôi đang làm gì, tôi chìa tấm danh thiếp trên đó ghi “Sống Tỉnh Thức” thì Tom nói: “Giáo dục chánh niệm. Em nhớ Thầy đã đọc câu chuyện về việc rửa chén”. (Ý cậu ấy muốn nói đến câu chuyện của Thầy về sự có mặt khi mình rửa chén, trong cuốn sách Phép lạ của Sự tỉnh thức). 18 năm rồi mà Tom vẫn còn nhớ câu chuyện khiến tôi rất ngạc nhiên. Thì ra trong những năm tháng qua em ấy đã tìm đọc thêm một số cuốn sách khác về chánh niệm[6].

Cứ kiên nhẫn rồi chúng ta sẽ thấy thầy cô giáo có thể thay đổi thế giới, với lần lượt từng em học sinh sinh viên. Bộ sách này xin kết lại bằng lời mở đầu đầy tuệ giác của Thầy là chúng ta hãy luôn trở về với chính mình, trở về với sự thực tập căn bản của tự thân. Đó là nền tảng vững chắc để thay đổi những gì chúng ta mong muốn.

Là thầy cô giáo, là con người, chúng ta rất háo hức giúp đỡ. Chúng ta muốn giúp người bạn đời của ta, muốn giúp những thành viên trong gia đình ta bớt khổ. Ta muốn giúp đồng nghiệp, sinh viên học sinh và thậm chí là gia đình họ bớt khổ. Chúng ta có khuynh hướng muốn làm một cái gì đó: “Tôi muốn làm cái gì đó để cải thiện đời sống, để thay đổi tình trạng”. Đó là điều chúng ta mong muốn.

Tuy nhiên theo sự thực tập, chúng ta không nên quá nôn nóng làm cái gì đó ngay. Điều đầu tiên ta làm là trở về với chính mình. Khi có đủ bình an, niềm vui và tình thương thì ta sẽ bớt khổ, ta có thể đến bên người bạn đời của ta, người gần gũi ta nhất, để giúp đỡ người ấy. Nếu chưa thay đổi được bản thân thì làm sao ta có thể thay đổi người khác. Tất nhiên, người bạn đời, người thương của ta, cũng cần thực tập như vậy. Hãy yểm trợ người thương của ta thực tập trở về chăm sóc chính họ. Giúp họ học cách buông bỏ căng thẳng; chế tác niềm an vui, hạnh phúc; lắng nghe những nỗi khổ niềm đau trong lòng để hiểu được chúng. Sau khi yểm trợ người thân trong gia đình, ta sẽ có một tăng thân vững chãi ngay tại nhà cùng nhau thực tập. Cả nhà cùng chia sẻ những giá trị chung; cùng thực tập chung con đường tâm linh. Chúng ta sẽ bớt khổ đau hơn, có nhiều bình an, vui tươi và hạnh phúc hơn bởi chúng ta biết mọi chuyện sẽ tốt lên từng ngày.

Trên nền tảng ấy, chúng ta bắt đầu yểm trợ đồng nghiệp và học sinh ở trường. Nguyên tắc cũng không có gì khác biệt là giúp họ thực tập trở về chăm sóc thân tâm. Chúng ta giúp các em học sinh trong lớp, biến lớp học thành một nơi hạnh phúc hơn. Lớp học trở thành gia đình của các em. Có gia đình, đồng nghiệp, học sinh và toàn trường yểm trợ, ta trở nên vững chãi hơn. Cùng nhau chúng ta có thể tiến bước kế tiếp và sẽ giúp nhiều người hơn. Sự chuyển hóa bắt đầu ảnh hưởng lên gia đình, đồng nghiệp, học sinh sinh viên và làn sóng này sẽ tiếp tiếp tục lan rộng và lan xa. Tuy nhiên điều cốt yếu chúng ta cần ghi nhớ là: lối ra tùy thuộc đường vào nội tâm[7].


[1] Pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, ngày 4.1.2012, trong khóa tu dành cho giáo viên tại Làng Mai, Pháp.

[2] Thầy Pháp Dung, xuất sĩ Làng Mai, Pháp, trích đoạn từ cuốn phim tài liệu với tựa đề Happy Teachers Will Change the World. (Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới)

[3] Pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, ngày 4.1.2012.

[4] Judith Toy, giáo viên dạy chánh niệm tại Hoa Kỳ với bài viết “Generation to Generation” (Từ thế hệ này sang thế hệ khác), đăng trên tạp chí The Mindfulness Bell 55 (2010), 18.

[5] Willard, “Tending the Whole Garden” (Chăm sóc cả khu vườn).

[6] Brady, “My Path,” (Con đường của tôi).

[7] Thiền sư Thích Nhất Hạnh, trích Pháp thoại trong khóa tu giáo viên tại Toronto, Canada, ngày 12 tháng 8 năm 2013.

Chương 2: Nuôi dưỡng chánh niệm cho học sinh và trong lớp học

Ở trường tôi, các giáo viên cảm thấy rất tuyệt vọng. Chúng tôi đã thử nhiều phương pháp đối với học sinh. Và khi áp dụng phương pháp chánh niệm, chúng tôi thấy có hiệu quả. Hiệu quả thật sự. Vì vậy chúng tôi và các em học sinh đều yêu thích phương pháp này.

DEREK HEFFERNAN, Giáo viên trung học ở Canada

Nội dung

  • Khám phá những cách thức nuôi dưỡng chánh niệm cho học sinh.
  • Tìm hiểu phương pháp thực tập chánh niệm, với cách tiếp cận không phân biệt, kỳ thị, giúp chúng ta tiếp xử với những hành vi của học sinh một cách khéo léo hơn.
  • Áp dụng một vài nguyên tắc vào việc giảng dạy chánh niệm trong lớp học.
  • Thực tập chánh niệm giúp cho việc học hiệu quả hơn như thế nào?
  • Làm thế nào, khi nào và ở đâu ta có thể giảng dạy về chánh niệm? Những phương pháp và cách thức mà ta có thể sử dụng?
  • Khám phá làm thế nào để sự thực tập chánh niệm và đạo đức ứng dụng có thể được giảng dạy trong những phạm vi rộng hơn, như chăm sóc cảm xúc, nuôi dưỡng sự lành mạnh của thân tâm, chế tác hạnh phúc và ngăn ngừa bạo lực nơi học đường?
  • Cách thức xử lý những khó khăn, trở ngại khi giảng dạy về chánh niệm.

Nuôi dưỡng chánh niệm cho học sinh

Trong các chương trước, chúng ta đã tìm hiểu những cách thức nuôi dưỡng chánh niệm cho học sinh, thông qua việc giảng dạy cho các em những thực tập căn bản và lồng những thực tập này vào trong lớp học cũng như trong đời sống hàng ngày của các em. Chúng ta cũng khám phá ra rằng tất cả những điều này chỉ có thể thực hiện được dựa trên sự thực tập chánh niệm của chúng ta với tư cách là thầy cô giáo, đặc biệt là khả năng thực sự có mặt cho học sinh của mình. Đây cũng là nền tảng thiết yếu cho những lĩnh vực khác mà chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu thêm trong chương này.

Ứng xử khéo léo trước những hành vi của học sinh

Những hành vi được cho là “gây rối” của học sinh là một trong những nguyên nhân chính tạo nên sự căng thẳng cho giáo viên và cả cho chính học sinh, cũng như làm gián đoạn việc giảng dạy. Vì vậy mà tất cả các giáo viên đều mong muốn tìm được những cách thức ứng xử khéo léo trước những hành vi gây rối của học sinh. Nhiều người trong số đó nhận thấy sự thực tập chánh niệm đóng vai trò quan trọng giúp họ khám phá ra những cách thức ứng xử hữu hiệu và khéo léo.

Khái niệm “tàng thức” trong Chương 7 của tập 1 Cẩm nang hạnh phúc, mở ra một cách tiếp cận mới, đòi hỏi chúng ta phải suy ngẫm. Đó là cách tiếp cận thay cho lối tư duy lưỡng nguyên, phân biệt – lối tư duy khiến cho ta luôn bị mắc kẹt trong những mặt đối lập đơn thuần như đúng – sai, khen thưởng – trừng phạt, hay thủ phạm – nạn nhân. Khi nhìn sâu vào chính mình, ta có thể thấy mình là một dòng chảy liên tục mà không chỉ là những khác biệt và đối lập mà thôi, và tất cả chúng ta đều được tạo nên bởi những yếu tố giống nhau. Sự nhìn sâu còn giúp ta khám phá ra rằng chúng ta đều có tiềm năng như nhau. Theo cách nói của Làng Mai thì chúng ta đều có những “hạt giống” thiện và bất thiện mà chúng ta có thể lựa chọn để “tưới tẩm” hoặc “không tưới tẩm”. Khi có chuyện xảy ra, chúng ta đều có khả năng chuyển hóa và làm mới chính mình, đặc biệt là khi ta cảm thấy được hiểu, được thương, được yểm trợ và tha thứ. Nếu chúng ta nhìn những hành vi ứng xử của học sinh dưới ánh sáng không lưỡng nguyên, kỳ thị thì ta có thể hoàn toàn thay đổi cách nhìn nhận của mình.

Thầy Pháp Dung, một vị giáo thọ của Làng Mai và cũng là người đang giúp đẩy mạnh phong trào đem chánh niệm vào trường học – gọi tắt là Wake Up Schools, chia sẻ kinh nghiệm của mình khi áp dụng cách tiếp cận này với hành vi ứng xử của trẻ em. Thay vì tập trung vào chuyện xử phạt “đúng – sai”, thầy chú trọng đến việc giúp các em phát triển sự khéo léo trong cách ứng xử của mình. Cách phản ứng điềm tĩnh, không bị kích động và đi theo hướng tìm hiểu, khám phá sự việc của thầy đã gây bất ngờ, trước hết là với các em nhỏ mà thầy hướng dẫn trong các khóa tu.

Chúng ta cần dạy cho các em về những cách hành xử khéo léo, thay vì chỉ chú trọng đến tiêu chuẩn đúng – sai. Tôi nghĩ vấn đề đạo đức cần được tiếp cận theo hướng: không dựa trên tiêu chuẩn đúng – sai mà dựa trên những hạt giống được tưới tẩm trong tâm thức. Khi xem xét hành vi của một đứa trẻ, chúng ta cần nhận diện những điều kiện nào xung quanh đứa trẻ khiến cho em trở nên khó chịu hơn, giận dữ hơn và bạo động hơn so với những đứa trẻ khác.

Chúng ta cần dạy cho các em một cách tiếp cận toàn diện hơn, khéo léo hơn khi có xung đột xảy ra. Chẳng hạn khi một em nhỏ đánh bạn của mình, thấy tôi tới, hai em nghĩ chắc chắn sẽ bị la rầy. Nhưng tôi chỉ nói: “Này, hai em nghĩ gì về chuyện mới xảy ra?”. Câu hỏi của tôi làm các em ngạc nhiên quá đỗi, bởi tôi không có vẻ gì là giận dữ hay muốn trừng phạt. Và thực sự tôi không dùng hình phạt đối với các em, thay vì vậy tôi thường hỏi các em chuyện gì đã xảy ra. Tôi mời các em ngồi xuống và trao đổi với nhau. Đó là cách tiếp cận mà tôi luôn sử dụng. Khi chăm sóc các em, tôi không muốn ép buộc các em phải nghe lời chỉ bảo của mình hay sử dụng biện pháp trừng phạt. Tôi thực sự cố gắng mời các em ngồi lại với nhau và hỏi chuyện gì đã xảy ra.

Cô Bea Harley, người được nhắc đến nhiều lần trong bộ sách này, từng là một nhà quản lý giáo dục thâm niên tại một trường tiểu học ở Anh. Nơi đây, sự thực tập chánh niệm đã được áp dụng vào việc giảng dạy một cách rõ nét. Với kinh nghiệm của mình, cô Bea Harley đã phác họa một cách sơ lược về cách tiếp cận không phân biệt, kỳ thị có nghĩa như thế nào trên thực tiễn, để giúp thầy cô giáo đối diện với cách hành xử của học sinh trong trường.

Tất cả các thành viên trong cộng đồng đều có trách nhiệm đóng góp và yểm trợ môi trường học tập cho các em, đó là kỳ vọng của chúng tôi và cũng là nền tảng cho cách tiếp cận của chúng tôi đối với hành vi ứng xử của học sinh. Một hành vi gây khó khăn của các em được nhìn nhận như là một sự “thiếu khéo léo” và mục đích của chúng tôi là giúp các em hiểu được hành vi “thiếu khéo léo” đó gây hậu quả như thế nào lên bản thân các em và những người xung quanh. Bằng sự thực tập chánh niệm và nhìn lại chính mình, chúng tôi muốn giúp các em nuôi dưỡng những đức tính: tôn trọng, thương yêu, cẩn trọng trong hành xử với ý thức rằng cách hành xử của mình có tác động lên chính mình và những người xung quanh; từ đó giúp chuyển hóa những hành vi “thiếu khéo léo” một cách tích cực và lâu dài.

Cách tiếp cận không kỳ thị này đối với những hành vi ứng xử của học sinh là điều mà rất nhiều trường học có tầm nhìn xa mong muốn đạt được, ít nhất là về mặt lý thuyết. Cách phản ứng dựa trên bằng chứng cụ thể của nền giáo dục hiện đại (evidence-based responses) đã có những bước tiến dài so với cách tiếp cận giản đơn của thuyết Hành vi và những biện pháp trừng phạt[1]. Cách tiếp cận của nền giáo dục hiện đại là tìm hiểu đối tượng học sinh đó một cách toàn diện đằng sau hành vi sai phạm, nhận diện rõ những tính cách tích cực của học sinh và khuyến khích thầy cô giáo tìm hiểu ý nghĩa, thái độ và những cảm xúc bên dưới hành vi sai phạm đó, thay vì cảm thấy bị xúc phạm bởi hành vi của học sinh. Với cách tiếp cận này, ta ghi nhận hành vi của học sinh có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân sâu xa mà ta chưa từng biết đến, chẳng hạn như học sinh đó có những vấn đề tâm lý, bị các học sinh khác bắt nạt, có những khó khăn trong gia đình, hay có khó khăn về sức khỏe, về khả năng học hỏi – tất cả những khó khăn này đều có thể giải quyết được. Hành vi gây rối của học sinh và những chuyện khó khăn xảy ra nơi học đường có thể được nhìn nhận như những cơ hội quý giá để dạy cho các em học sinh những kỹ năng ứng xử và giúp cho các em chọn lựa những cách hành xử hay hơn. Thầy cô giáo có thể trao truyền cho các em điều này. Nói như vậy không có nghĩa là các em hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, nhưng điều quan trọng ở đây là khi cần phải có những phản ứng trước hành vi của học sinh thì những phản ứng đó cần phải thích ứng, phù hợp với từng học sinh. Theo cách này, học sinh vẫn chịu trách nhiệm cho những hậu quả do hành động của mình gây ra nhưng đồng thời cảm nhận được sự ấm áp và tình thương từ thầy cô giáo, từ đó các em có thể học hỏi những kỹ năng ứng xử khéo léo hơn để khắc phục và sửa chữa những lỗi lầm của mình, thay vì cảm thấy tủi hổ và bị trừng phạt.

Nói thì dễ nhưng để áp dụng lý thuyết này vào thực tế thì không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên, sự thực tập chánh niệm có thể hỗ trợ cho chúng ta. Khi phải đối diện với một người trẻ hay gây rối và tạo nhiều khó khăn, chúng ta có thể chú ý đến những cảm xúc rất con người – chẳng hạn như sự bực tức, giận hờn, sợ hãi, hoang mang, và tuyệt vọng – thường đi kèm với những thách thức này. Nếu không ý thức được về điều đó, chúng ta có thể dễ dàng bị kéo theo và trở nên giận dữ, lớn tiếng, có cái nhìn phán xét một cách tiêu cực, hoặc muốn trừng phạt, trách móc đối tượng đó.

Sự thực tập chánh niệm giúp chúng ta có khả năng thực hành những gì mình giảng giạy, hay nói cách khác là nói và làm đi đôi với nhau. Đây chính là chìa khóa cần thiết để giúp cho việc giáo dục hành vi ứng xử một cách tích cực – một mơ ước cao quý của nghề giáo – trở thành hiện thực. Với việc thực tập chánh niệm, chúng ta có thể học hỏi được những phương pháp giúp chúng ta có đủ sự vững chãi, thư thái, tĩnh lặng cùng với tâm tư rộng mở và cẩn trọng để chúng ta không bị tổn thương bởi những hành vi gây rối từ phía học sinh cũng như có thể chăm sóc tốt hơn những căng thẳng và cảm xúc mạnh trong ta. Sự vững chãi của chúng ta có thể giúp học sinh lắng dịu xuống và nhìn lại hành vi của mình, từ đó cho phép học sinh đó có những lựa chọn tích cực hơn trong cách hành xử. Nếu học sinh của chúng ta cũng biết thực tập chánh niệm, cả thầy và trò đều có những cách thực tập chung và biết chăm sóc hành vi của mình một cách chánh niệm thì công việc của chúng ta sẽ dễ dàng hơn. Nhưng cho dù không có được những điều kiện như vậy, chánh niệm vẫn có thể giúp cho thầy cô giáo giữ được sự vững chãi trong những tình huống khó khăn.

Cô Christiane Terrier, giáo viên dạy môn Lý – Hóa tại trường Lycée Edmond Michelet, Arpajon, nước Pháp, nhấn mạnh rằng thầy cô giáo không nên coi hành vi gây rối của học sinh là một sự xúc phạm đối với cá nhân mình, thay vì vậy cần chú ý đến những sự tình nằm bên dưới hành vi của học sinh. Cách này sẽ hiệu quả hơn nhiều. Cô thấy sự thực tập chánh niệm rất hữu ích, giúp cho thầy cô giáo giữ được sự vững chãi trong hoàn cảnh đó.

Khi một học sinh có thái độ gây hấn với giáo viên, thay vì phản ứng ngay lập tức hay có biện pháp trừng phạt, chỉ cần ta dừng lại và thở, cố gắng không để cho những gì vừa nghe làm ta bị tổn thương. Khi nói chuyện với em học sinh đó, ta có thể thực tập lắng nghe sâu để hiểu được những gì đang xảy ra. Chúng ta sẽ nhận ra rằng hành vi của người đó không phải là không dễ thương hay nhắm vào cá nhân ta, mà hành động đó được gây ra bởi một nỗi khổ đau rất lớn.

Sự có mặt định tĩnh, lắng dịu của chúng ta có thể là tất cả những gì mà một đứa trẻ hay một học sinh cần đến. Michael Schwammberger nhận thấy khi một đứa trẻ đang gây rắc rối, chỉ cần ta thực sự có mặt với em, nhận diện và làm lắng dịu những cảm xúc đang thúc đẩy hành vi của em bằng hơi thở và sự hợp nhất của thân tâm, điều đó có một ý nghĩa thật đặc biệt.

Ta có thể nhận thấy đứa trẻ đó đang có những khổ đau. Em có thể không chịu làm hay nói một điều gì, hoặc có thể la hét và phản ứng. Nếu một đứa trẻ đang thật sự khó chịu thì thông thường những gì mà ta cần làm là ôm đứa trẻ đó vào lòng hoặc đặt tay lên vai đứa trẻ. Chỉ cần có mặt, ngồi với em và nhìn vào mắt em rồi nói: “Được rồi, kể cho thầy/cô nghe chuyện gì đã xảy ra? Bây giờ em đang cảm thấy thế nào?”. Hoặc chỉ cần có mặt mà không cần dự định làm một cái gì cả, chỉ cần ngồi bên em đó thôi. Không hiểu sao tôi nhận thấy có một quá trình thay đổi vô thức nơi đứa trẻ. Dường như đứa trẻ bắt đầu cảm thấy chuyện mình có cảm xúc như vậy cũng không sao, không cần phải sợ hãi.

Sự chuẩn bị cần có trước khi đem chánh niệm vào lớp học

Đã đúng lúc, đúng thời chưa?

Cảm hứng từ sự thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày, nhiều giáo viên mong muốn đem chánh niệm vào lớp học và giảng dạy các phương pháp thực tập chánh niệm cho học sinh một cách chính thức. Đó là một mong ước rất tự nhiên. Tuy vậy, chúng ta cần lưu ý là đừng làm điều này một cách vội vàng. Chúng ta có thể dành thời gian để suy xét một cách thực tế về chính bản thân, những động lực, khả năng của chính mình, và mức độ thử thách mà chúng ta có thể đón nhận trong khả năng của mình. Chúng ta cũng cần suy xét một cách cẩn trọng, xem thử môi trường đã thực sự phù hợp chưa, và đảm bảo rằng chúng ta không làm cho các học sinh mất hết cảm hứng vì “món quà” không được tặng đúng lúc, đúng thời.

Thầy Chris Willard là người có kinh nghiệm dạy chánh niệm cho trẻ em trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, những lời chia sẻ chân thật và hóm hỉnh của thầy hoàn toàn có thể áp dụng cho môi trường học đường. Thầy đã sử dụng việc thực tập chánh niệm của mình để nhận diện và làm chậm lại những thói quen vốn ăn sâu bám rễ trong tâm trí thầy. Thầy nhận thấy mình cần buông bỏ ước muốn thôi thúc là dạy chánh niệm cho trẻ em ngay lập tức, dù trong đầu thầy đã vẽ ra biết bao cảnh tượng thành công cho kế hoạch này. Thầy khuyên chúng ta hãy suy xét cho kỹ, xem học sinh của chúng ta đã thực sự sẵn sàng để học hỏi về chánh niệm chưa, hoặc sẵn sàng để học theo cách mà chúng ta dự định áp dụng lên các em hay chưa.

Tôi thường nhận thấy việc đối diện với chính mình và những mong đợi của bản thân là một thách thức khó khăn hơn nhiều so với việc đối diện với những đứa trẻ cứng đầu nhất. Tôi đã từng làm việc một thời gian với những đứa trẻ có khó khăn. Khi mới bắt đầu, tôi có kỳ vọng rất lớn về sức mạnh của chánh niệm. Tôi tưởng tượng ra lớp học ồn ào mà tôi đang dạy tại một bệnh viện tâm thần bỗng nhiên biến thành một ốc đảo bình yên, có thể sánh với bất kỳ một tu viện nào. Trong trí tưởng tượng của tôi, không chỉ những đứa trẻ có cảm hứng thực tập chánh niệm – những vấn đề hành vi và cảm xúc của các em đều được chữa lành nhờ sự thực tập chánh niệm – mà các giáo viên khác cũng sẽ tìm đến và học hỏi từ tuệ giác của tôi trong việc quản lý lớp học và những lý thuyết về chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, những điều trong tưởng tượng ấy không hề xảy ra. Vậy mà một khi tôi buông xuống những kỳ vọng đó thì tôi lại có nhiều cơ hội nếm được những khoảnh khắc bình an hơn. Những khoảnh khắc đó đến cùng với sự thực tập và sự kiên nhẫn của chính tôi.

Điều quan trọng thiết yếu là chúng ta cần thường xuyên nhìn lại chính mình, nhìn lại những ý định cũng như những kỳ vọng mà ta có đối với những đứa trẻ mà mình chăm sóc, dạy dỗ. Hãy tự hỏi: mình có những mục tiêu gì? Những mục tiêu đó có phù hợp với đứa trẻ mà mình đang chăm sóc hay không? Mình có quá vướng mắc vào ý tưởng làm cho đứa trẻ thay đổi hoặc hướng đứa trẻ vào việc học thiền hay không? Mình có quá vướng mắc vào vị trí giáo viên của mình hay không? Và dù cho thiền tập hay sự thực tập chánh niệm có quan trọng với cá nhân mình như thế nào đi nữa thì nó có thể chưa đúng lúc để áp dụng cho đứa trẻ mà bạn đang cố gắng dạy dỗ.[2]

Cô Morrakot “Chompoo” Raweewan chân thành chia sẻ một kinh nghiệm của cô khi dạy cho các sinh viên đại học, nơi mà cô “càng cố gắng thì lại càng cảm thấy căng thẳng”. Kinh nghiệm của cô cho thấy rằng chúng ta có thể đối diện bất cứ thất bại nào trong sự truyền thông với học sinh của mình bằng sự chấp nhận, lòng bao dung không phân biệt và tình thương cho chính bản thân. Chỉ cần chúng ta có thể trở về với sự thực tập để làm cho sự có mặt của mình tươi mới trở lại, đây là một điều rất cần thiết cho các học sinh.

Tôi thường làm việc với các sinh viên chưa tốt nghiệp và sinh viên vừa tốt nghiệp đại học. Ở độ tuổi này, các em đã có cách suy nghĩ riêng của mình, vì vậy rất khó để tôi có thể giới thiệu sự thực tập chánh niệm cho các em mà không phải cố gắng. Nhưng càng cố gắng thì tôi lại càng cảm thấy căng thẳng, khó chịu. Trong khóa tu 21 ngày năm 2012 tại Làng Mai, Thầy (Thiền sư Thích Nhất Hạnh) nói rằng nếu chúng ta muốn dạy về chánh niệm thì chúng ta nên dạy bằng thân giáo của chính mình – cách chúng ta nói năng, cách chúng ta lắng nghe, cách chúng ta sống đời sống hàng ngày của mình. Nếu chúng ta có chánh niệm thì chánh niệm sẽ thể hiện ra. Lời khuyên của Thầy là câu trả lời cho chính tôi. Từ đó, tôi tiếp tục duy trì sự thực tập của mình. Có những sinh viên hỏi tôi cảm thấy thế nào khi dạy trong lớp học, vì sao không thấy tôi nổi giận, tôi xử lý cơn giận của mình như thế nào, và tôi thực tập như thế nào. Những sinh viên cần sự giúp đỡ, hoặc trong việc học hoặc trong đời sống cá nhân, đã có can đảm đến với tôi. Không khí trong lớp học trở nên dễ chịu hơn. Bây giờ thì tôi có thể dễ dàng khuyên bảo các sinh viên của mình và các em thực sự lắng nghe những lời tôi chia sẻ. Tôi đang là một cô giáo hạnh phúc. Và như lời Thầy nói: “Thầy cô giáo hạnh phúc có thể thay đổi thế giới.”

Trở về với chính mình, chúng ta nhận ra rằng thân giáo của chúng ta – những giáo viên – luôn là giáo cụ chính yếu, và sự thực tập chánh niệm tỏa chiếu nơi chúng ta là món quà quan trọng nhất mà ta hiến tặng cho học sinh, cho các đồng nghiệp và cho bản thân ta. Vì vậy đôi khi ta đi đến quyết định, sau một thời gian suy xét, là nên chờ đợi thêm một thời gian trước khi đem chánh niệm vào trường học: sự dừng lại tạm thời đó có thể cho chúng ta thêm thời gian để tập trung vào sự thực tập của bản thân, để đảm bảo là chúng ta có một nền tảng vững chắc cho những gì chúng ta đang và sẽ thực hiện trong tương lai.

Chúng ta có nhiều kinh nghiệm và kỹ năng giảng dạy trong lớp học hay chưa?

Phần lớn những chia sẻ trong bộ sách này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm lớn mạnh sự thực tập chánh niệm nơi tự thân trước khi giảng dạy cho người khác. Tuy nhiên, việc đem chánh niệm vào trường học và các trường đại học còn đòi hỏi những kỹ năng giảng dạy trong môi trường học đường. Một giáo viên có kinh nghiệm, bằng trực giác của mình, hiểu được sự khác biệt trong cách tiếp cận giữa việc học chánh niệm cho chính mình – một người lớn có động lực mạnh cùng với tinh thần tự nguyện và việc đem chánh niệm vào giảng dạy cho học sinh trong lớp. Học sinh, sinh viên của chúng ta không tự lựa chọn việc học chánh niệm. Cho tới thời điểm đó, các em có thể vẫn chưa có hứng thú, nhưng lại không thể rời khỏi lớp học theo ý muốn của mình. Ngoài ra, những sinh hoạt thường ngày ở trường đã quá quen thuộc với các em, thành ra mọi thứ dễ trở nên nhàm chán, không có gì mới mẻ.

Chúng ta không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm học hỏi và thực tập chánh niệm của một người lớn để rồi mặc nhiên cho rằng những gì làm cho chúng ta có cảm hứng trong sự thực tập cũng sẽ tạo cảm hứng tương tự nơi các học sinh, sinh viên của mình. Chúng ta phải mời gọi, khuyến khích và tạo cảm hứng cho các em. Mọi kỹ năng mà một giáo viên đầy kinh nghiệm đã tích lũy cần được sử dụng để đem chánh niệm vào giảng dạy trong lớp học, như: những phương pháp, những nguồn tài liệu đa dạng và sống động; khả năng nắm bắt được trình độ, nhu cầu của học sinh và làm cho bài giảng của mình có thể đáp ứng được những nhu cầu, những mối quan tâm của học sinh; nắm rõ mục tiêu mà mình muốn đạt tới và xây dựng một kế hoạch vững chắc; có những mối liên hệ thân tình, vui tươi nhưng cũng đồng thời có sự trân kính giữa thầy cô với học trò; và những kỹ năng vững chãi để làm yên lắng sự ồn ào, huyên náo của một lớp học với khoảng ba mươi học sinh.

Nếu bạn là một giáo viên trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm, cũng chưa có nhiều phương pháp và kỹ năng giảng dạy, lại mới chỉ được trang bị những kỹ năng cơ bản về quản lý lớp học thì việc bạn thực tập chánh niệm trong khi tiếp xúc và giảng dạy cho học sinh, sinh viên sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều. Tuy nhiên, đừng vội dạy chánh niệm một cách trực tiếp cho học sinh của mình. Hãy dành thời gian rèn luyện thêm những kỹ năng giảng dạy trong lớp học. Còn nếu bạn không phải là một giáo viên nhưng muốn đem chánh niệm vào trường học thì tốt nhất là bạn nên nghĩ đến việc cộng tác với một giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy. Việc quản lý lớp học là cả một nghệ thuật và cũng đòi hỏi phải có khoa học, vì vậy bạn nên tôn trọng điều đó. Nếu không có chuyên môn thì hoàn toàn không dễ dàng chút nào. Vì vậy nếu bạn được mời để dạy chánh niệm trong trường học, hãy đảm bảo chắc chắn là bạn có một giáo viên phụ trách lớp học, người hiểu rõ học sinh của lớp đó, có mặt với bạn để giữ cho mọi chuyện được diễn ra suôn sẻ.

Giả sử thời cơ đã đến, cả giáo viên và học sinh đều đã sẵn sàng, và ý định dạy chánh niệm trong trường học là dựa trên nhu yếu của các học sinh, sinh viên, mà không phải dựa vào sự tưởng tượng của chúng ta, và chúng ta đã có một nền tảng thực tập chánh niệm vững vàng cũng như có đủ những kỹ năng giảng dạy cần thiết. Trong trường hợp đó, chúng ta có thể tiếp tục tìm hiểu những cách thức mà chúng ta có thể áp dụng để giảng dạy chánh niệm trong trường học.

Những phương pháp và cách thức giảng dạy về chánh niệm

Đa dạng, sống động và vui tươi

Tất cả những phương pháp, cách thức giảng dạy cũng như những nguồn tư liệu mà một giáo viên đầy kinh nghiệm nắm trong tay đều có vai trò riêng trong việc giảng dạy về chánh niệm. Chúng ta có thể sử dụng những khả năng đó một cách linh hoạt và sáng tạo để duy trì sự hứng thú và đáp ứng được những nhu yếu đa dạng, thường xuyên thay đổi của học sinh. Những người trẻ thường có đầu óc sống động nhưng lại có khả năng tập trung thấp hơn so với người lớn. Michael Bready, người có kinh nghiệm xây dựng chương trình dạy chánh niệm tại Anh, chia sẻ rằng:

Tôi sử dụng nhiều phương pháp và cách thức khác nhau. Tôi thích sử dụng hình thức vận động khi có thể. Tôi cũng thích sử dụng video để minh họa cho những khái niệm, những ý tưởng khác nhau, chẳng hạn như về lòng biết ơn và lòng tốt. Ngoài ra, tôi còn sử dụng những hoạt động liên quan đến viết lách, chẳng hạn như đề nghị các em viết xuống ba điều mà các em biết ơn, hoặc viết một lá thư thể hiện lòng biết ơn của mình đối với ai đó; và cả những trò chơi, chẳng hạn như trò chơi xem sự chú ý của mình đang hướng về đâu, về đối tượng nào khi nó đi lang thang khỏi hơi thở. Những sinh hoạt đòi hỏi sự chuyển động thực sự rất hữu ích, giúp cho trẻ em cân bằng năng lượng của mình – nếu các em quá hiếu động thì những trò chơi giúp cho các em tiêu hao bớt một ít năng lượng; còn nếu các em quá mệt mỏi thì nó có tác dụng làm cho các em tỉnh táo hơn.

Đối với trẻ em ở độ tuổi từ 5 – 7 thì chúng ta cần làm sao cho những bài học được đơn giản, có thể thực hiện ngay tức thì và lặp đi lặp lại nhiều lần, đó là lời chia sẻ từ kinh nghiệm của Niki Smith, một người làm công việc trợ giảng tại Anh.

Trong lớp học mà chúng tôi phụ trách, chúng tôi thường xuyên sử dụng nhiều phương pháp thực tập chánh niệm mà những người bạn đến từ Làng Mai giới thiệu cho chúng tôi. Nhưng trong số đó, những thực tập mà tôi cảm thấy các em nhỏ ưa thích và tiếp nhận sâu sắc nhất lại là những thực tập đơn giản nhất và có thể thực hiện nhanh chóng nhất, đó là: tập thỉnh chuông và hát.

Biết được lúc nào thì “làm ít hơn nhưng lại có hiệu quả hơn” (less is more) là một kỹ năng vô cùng cần thiết. Thầy Chris khuyến khích các thầy cô giáo nên có cái nhìn thực tế khi đặt ra mục tiêu hay mong muốn đối với bản thân và với học trò của mình.

Bạn cần phải kiên nhẫn. Bạn có thể thách thức chính mình và những học trò của mình, nhưng đừng ép quá mức. Kinh nghiệm cũng như các nghiên cứu cho thấy phương thức hiệu quả nhất đối với trẻ em là áp dụng những hoạt động thiền tập ngắn nhưng được lặp lại nhiều lần. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đề nghị cho trẻ em thực tập thiền đi trong năm hoặc mười bước chân, rồi cho các em nghỉ, chạy nhảy một chút, sau đó thực tập trở lại[3].

Tìm hiểu về những phương pháp thực tập thông qua thảo luận và chia sẻ

Bên cạnh những phương pháp thực tập căn bản như ý thức về hơi thở, bước chân, ý thức trong khi ăn, cũng như ý thức về thân thể, chúng ta cũng cần giúp cho học sinh có cơ hội chia sẻ, hiểu rõ thêm về những trải nghiệm của chính mình khi thực tập chánh niệm, thông qua những buổi thảo luận có hướng dẫn. Thời gian chia sẻ và nhìn sâu vào những trải nghiệm của mình giúp các em để ý và nhạy cảm hơn với những gì rất nhỏ và vi tế diễn ra trong tự thân. Các em có thể chia sẻ những điều đó trong nhóm, đồng thời thấy được “những gì đã xảy ra cho mình” trong khi lắng nghe chia sẻ của những người khác. Điều này giúp các em nhận ra rằng không chỉ riêng mình mà nhiều người cũng gặp những khó khăn tương tự, từ đó các em có động lực để tìm cách ra khỏi những khó khăn của mình. Các em sẽ nhận ra rằng không có một con đường duy nhất hay một cách duy nhất đúng mà mình phải theo; chánh niệm nghĩa là đơn thuần có mặt với những gì đang xảy ra, trong mình và xung quanh mình, ngay giây phút hiện tại. Các em ở tuổi thiếu niên (tuổi teen) có thể tỏ ra nghi ngờ về sự hào hứng của người lớn đối với sự thực tập chánh niệm. Khi làm một điều gì, các em rất muốn biết vì sao mà mình cần làm như vậy. Và những buổi thảo luận có thể giúp các em tìm được câu trả lời cho chính mình thông qua những chia sẻ dựa trên trải nghiệm của những người bạn đồng trang lứa.

Trong cuốn Cẩm nang hạnh phúc, tập 1 của bộ sách này, nói về những thực tập căn bản, chúng tôi có gợi ý một vài câu hỏi mà các giáo viên có thể sử dụng để hướng dẫn một buổi thảo luận. Đây là những câu hỏi mà các em cần phải suy ngẫm và nhìn sâu để có thể chia sẻ. Chúng tôi có nhấn mạnh đến đặc tính của những câu hỏi được đưa ra để thảo luận, giọng điệu của câu hỏi cũng thể hiện sự chánh niệm trong đó. Những câu hỏi nên đơn giản, mang tính cởi mở, không phán xét, khuyến khích và chấp nhận tất cả những câu trả lời, kể cả những câu trả lời không theo chiều hướng tích cực hay câu “em không biết”. Thật nhẹ nhàng, chúng ta hướng cuộc chia sẻ trở về với những kinh nghiệm trong đời sống thực tiễn để giúp các em học sinh rời khỏi những câu chuyện hoặc những phán xét của mình và trở về với giây phút hiện tại.

Dzung X. Vo, một chuyên gia chăm sóc sức khỏe vị thành niên mà chúng ta có cơ hội biết đến nhiều lần trong bộ sách này, một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng những câu hỏi mở. Anh chia sẻ điều này từ kinh nghiệm của mình đối với các em tuổi thiếu niên.

Tôi nhận thấy các em thiếu niên thường học hỏi từ nhau, và bạn bè có thể là những người thầy tốt nhất đối với các em. Trong quá trình huấn luyện của chúng tôi, điều này thường xảy ra trong giai đoạn “đặt câu hỏi”. Vào mỗi buổi thực tập, chúng tôi thường bắt đầu với một thời thiền có hướng dẫn (thường là ngồi thiền hoặc thực tập ý thức từng bộ phận cơ thể – body scan) trong khoảng 10 – 20 phút. Sau đó chúng tôi sẽ tuần tự từng người chia sẻ theo vòng tròn với một câu hỏi về sự thực tập mà chúng tôi vừa mới trải nghiệm.

Người hướng dẫn buổi chia sẻ có thể đặt những câu hỏi như: “Bạn nhận thấy gì khi trải nghiệm sự thực tập đó? Nó khác với cách thường ngày của bạn như thế nào? Sự thực tập này có liên quan gì đến sức khỏe, sự căng thẳng, trầm cảm, lo lắng, đau đớn… trong bạn?

Rồi kế đó chúng tôi tiếp tục đặt câu hỏi và chia sẻ về sự thực tập trong tuần trước đó. Chẳng hạn, tôi có thể mở đầu buổi chia sẻ như thế này: “Tuần trước chúng ta đã tập trung vào sự thực tập chánh niệm trong đời sống hằng ngày. Chúng ta đã có bài tập về nhà là đem sự thực tập chánh niệm vào một vài hoạt động mà ta làm mỗi ngày, chẳng hạn như cột dây giày hay đi bộ ra trạm xe buýt. Vậy có ai thử làm điều này chưa? Nếu có thì các bạn nhận thấy như thế nào?”

Những người trẻ học hỏi được rất nhiều từ nhau

Chúng ta có thể sử dụng hình thức thảo luận một cách rộng rãi, linh hoạt hơn để giúp học sinh áp dụng chánh niệm vào đời sống thực tiễn của mình. Đặc biệt các em ở độ tuổi thiếu niên rất hứng thú khi áp dụng chánh niệm vào những sinh hoạt và những hoàn cảnh khó khăn, thách thức mà các em phải đối diện mỗi ngày. Các em học hỏi được rất nhiều từ những người bạn đồng trang lứa cũng như có thêm niềm tin và cảm hứng, như lời chia sẻ dưới đây của David Viafora:

Kinh nghiệm của tôi cho thấy người trẻ, đặc biệt là các em thiếu niên, thường dạy cho nhau tốt hơn nhiều so với những gì mà tôi hay các đồng nghiệp hoặc người lớn dạy cho các em. Trong nhóm thực tập chánh niệm dành cho trẻ em hoặc thiếu niên mà chúng tôi phụ trách, ngay từ buổi đầu, chúng tôi thường khuyến khích những em thực tập lâu hơn chia sẻ một vài phương pháp thực tập hoặc chia sẻ kinh nghiệm của mình với những em mới tham dự vào nhóm. Điều này giúp các em cảm nhận được sự chân thành và đáng tin cậy trong nhóm, vì những chia sẻ xuất phát từ kinh nghiệm của những người bạn đồng trang lứa mà không phải là từ một ai đó có vị trí, quyền hành. Nó cũng giúp cho các em mới đến, dù là trẻ em hay thiếu niên, có thái độ tôn trọng những gì mà các bạn của mình đã học hỏi được và dần dần có niềm tin cũng như cảm hứng rằng mình cũng có thể học hỏi và lớn lên trong sự thực tập như các bạn của mình.

Chúng ta có thể dạy chánh niệm ở bất cứ nơi nào có học sinh, không nhất thiết là chỉ trong lớp học. Có nhiều khung cảnh để ta có thể dạy chánh niệm ngoài thời khóa biểu bắt buộc trong ngày. Những sinh hoạt nhóm vào giờ ăn trưa hoặc sau giờ tan trường có lợi thế là mang tính tự nguyện, vì vậy sự thực tập có thể sâu hơn và cũng linh hoạt, nhẹ nhàng hơn so với những giờ bắt buộc trên lớp. Không khí trong một nhóm nhỏ cũng dễ tạo ra cảm giác an toàn, giúp cho các em dễ bị tổn thương có thể mở lòng chia sẻ những cảm xúc của mình.

Chánh niệm và sự học hỏi

Chánh niệm giúp cho học sinh có thể tập trung tâm ý và sẵn sàng cho sự học hỏi

Tất cả các giáo viên đều mong muốn học sinh của mình có khả năng chú ý và tập trung – nền tảng của bất cứ một hình thức học hỏi nào. Để cho những người trẻ tràn đầy năng lượng và hiếu động có thể tập trung sự chú ý, đó luôn là một thách thức. Tuy nhiên, các giáo viên cũng thấy rõ rằng điều này càng trở nên khó khăn hơn trong một thế giới kỹ thuật số với các thú tiêu khiển ngày càng phong phú và xu hướng xử lý nhiều việc, nhiều thao tác cùng một lúc đang được khuyến khích rộng rãi.

Như đã đề cập trong lời mở đầu của bộ sách này, có những chứng cứ khoa học rõ ràng cho thấy sự thực tập chánh niệm hỗ trợ cho quá trình học hỏi, giúp cho học sinh lắng dịu, tập trung sự chú ý và bắt đầu quan sát những hoạt động bên trong của thân và tâm mình. Nếu được thực tập đều đặn, chánh niệm có thể giúp mang lại trạng thái lắng dịu, bình an và buông thư, làm cho ta cảm thấy rất dễ chịu, đồng thời nó cũng giúp cho tâm trí của chúng ta sáng tỏ hơn.

Tưởng tượng một đứa trẻ ở trường học, có biết bao cảm xúc và tâm trạng mà đứa trẻ phải đi qua trong một ngày: có thể là cảm xúc hoang mang, hoặc phấn khích, hoặc bị hắt hủi, chối bỏ, hoặc được quan tâm, hoặc bị mất bình tĩnh, hoặc tự hào… đôi khi những cảm xúc, tâm trạng này diễn ra liên tục, nối tiếp nhau. Nếu trẻ em được dạy về chánh niệm, nếu các em biết cách nhận diện những tâm trạng khác nhau này và biết rằng những cảm xúc, những trạng thái này đều ‘không phải là chính tôi, là của tôi’ thì các em có thể tránh được rất nhiều khổ đau và có nhiều không gian để chú tâm vào việc học hơn.

– John Bell, chuyên gia tư vấn và huấn luyện về chánh niệm, Mỹ

Thường thì khi bước vào tiết học do tôi phụ trách, các em vẫn còn rất phân tán, chộn rộn, đôi khi bực bội vì chuyện ở tiết học trước. Thay vì đề nghị các em lắng dịu xuống – điều này thường gây hiệu quả ngược lại, tôi thường hỏi: “Các em có thể cho cô biết là có chuyện gì xảy ra với các em vậy?” và cố gắng lắng nghe hết lòng để hiểu và cảm thông cho các em, sau đó tôi cho các em vài phút để thư giãn. Nếu tôi yêu cầu các em học liền lúc đó thì sẽ không có hiệu quả mà chỉ lãng phí thời giờ. Khi các em cảm thấy mình được thầy cô giáo hiểu và cảm thông cho những cảm xúc của mình thì các em dễ mở lòng hơn cho việc học.

– Cô Christiane Terrier, cựu giáo viên trung học và hiện đang hướng dẫn chánh niệm, Pháp.

Chánh niệm giúp cho học sinh có khả năng nhìn sâu

Chánh niệm có công năng tưới tẩm những hạt giống định và tuệ (cái thấy sâu sắc) – vốn đã có sẵn trong mỗi chúng ta. Những hạt giống này được nuôi lớn khi chúng ta âm thầm duy trì sự chú tâm vào bất kỳ một điều gì hoặc một đối tượng nào mà chúng ta đang muốn tìm hiểu, chẳng hạn như hơi thở, bước chân, suy tư, những cảm xúc của mình hoặc câu nói của một ai đó. Chánh niệm có khả năng giúp ta vượt ra khỏi những thói quen, những lề lối suy tư mà bấy lâu ta vẫn đi theo và tiếp xúc với thế giới xung quanh theo một cách mới. Chánh niệm giúp chúng ta phát triển khả năng suy nghĩ cẩn trọng, nhận thức sáng suốt và có thể xuyên qua hình tướng bên ngoài để thấy được tính gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau của sự vật, hiện tượng, cũng như đưa đến cái thấy sâu hơn về thực tại.

Thông qua các phương pháp thực tập chánh niệm, chúng ta có thể có khả năng nhìn sâu hơn và kinh nghiệm trực tiếp hơn về bản chất phức tạp, vi tế của thế giới vật chất cũng như thế giới xã hội mà ta đang sống. Chánh niệm giúp ta có một tâm trí tập trung và cởi mở, đồng thời có thể làm cho những phản ứng của thân thể lắng dịu, hài hòa hơn trong khi ta tiếp xúc với chính mình, với hoàn cảnh và trong khi ta chia sẻ, thảo luận với người khác. Chúng ta có thể hiểu được những nhu yếu, cảm xúc và những ý tưởng một cách trực tiếp hơn. Bên cạnh đó, chánh niệm giúp cho chúng ta nhìn việc học với một tâm trí sáng suốt, đầy trí tuệ hơn.

Richard Brady – một người có nhiều năm kinh nghiệm với việc hướng dẫn chánh niệm – đã chiêm nghiệm về quá trình này.

Mục tiêu hàng đầu của tôi trong việc giảng dạy, dù là dạy về thiền tập hay Toán học, cũng tương tự như nhau. Đó là tạo ra những cơ hội cho học sinh ý thức rõ hơn về sự vận hành của tâm trí, về hơi thở, về những bài toán hay về những người bạn, cũng như về cách học của mình. Khi tôi tạo ra những cơ hội thực tập chánh niệm như vậy, các em học sinh có thể tự khám phá ra được ý nghĩa và giá trị những trải nghiệm của chính mình.

Chánh niệm có thể giúp chúng ta dừng lại và chiêm nghiệm về quá trình tư duy của chính mình. Khả năng này, được gọi bằng thuật ngữ “siêu nhận thức” (metacogniton)[4] hay còn gọi là “tư duy về tư duy”, ngày càng được công nhận một cách chính thống trong lĩnh vực giáo dục như là một kỹ năng nền tảng có khả năng hỗ trợ mọi loại hình học tập.

Khả năng lắng nghe chủ động và giá trị của sự im lặng

Trường học nói chung, kể cả các trường đại học, thường là nơi có nhiều hoạt động với nhiều tiếng ồn và các cuộc nói chuyện, mà không phải cuộc nói chuyện nào cũng có ích lợi. Vì vậy, học cách lắng nghe sâu và chủ động không chỉ giúp chúng ta liên hệ tốt với người khác mà kỹ năng này còn đóng vai trò quan trọng thiết yếu đối với tất cả các hình thức học hỏi khác. Cô Sara Messire, giáo viên tiểu học tại Pháp, đã thực tập kỹ năng chánh niệm thiết yếu này trong những tiết học mà cô phụ trách ở trường.

Năm nay, việc học cách lắng nghe đặc biệt cần thiết cho các em học sinh của tôi. Các em có xu hướng chỉ thích lắng nghe những gì thầy cô giáo chia sẻ, mà không phải là những lời chia sẻ của các bạn cùng lớp. Tôi muốn các em có khả năng phân tích công việc mà mình đang làm, cũng như công việc của các bạn khác để chiêm nghiệm một cách thấu đáo hơn. Để giúp cho các em lắng nghe một cách chủ động, tôi đặt ra nghi thức như sau: khi một em đang chia sẻ mà nghe tiếng các bạn khác nói chuyện thì em sẽ nói to “Xin hãy lắng nghe tôi”, và cả lớp đáp lại “Tôi đang lắng nghe đây”, đồng thời đặt hai bàn tay phía sau tai để tỏ ý là mình đang lắng nghe. Bằng cách này, các em đem toàn bộ con người mình để tiếp nhận lời chia sẻ của người khác. Và các em đã phối hợp với nhau hiệu quả hơn.

Khi được yêu cầu giữ im lặng, những người trẻ thường liên tưởng đến kỷ luật và mệnh lệnh. Sự thực tập chánh niệm tạo ra không gian để ta có thể chiêm nghiệm và nhìn sâu, vì vậy có thể mang đến cho giáo viên và học sinh một cái thấy mới về giá trị tích cực của sự lắng yên và tĩnh lặng. Chánh niệm giúp cho giáo viên và học sinh tiếp nhận sự thực tập im lặng một cách hạnh phúc và tự nguyện, coi đó như một món quà dành cho chính mình.

Didde và Nikolaj Flor Rotne, hai tác giả của cuốn sách dạy về chánh niệm Everybody Present, chia sẻ rằng “sức mạnh của sự tĩnh lặng là một trong những món quà quý nhất mà chúng ta có thể hiến tặng cho những người xung quanh và cho chính chúng ta trong thế giới huyên náo ngày nay”. Didde và Nikolaj Flor Rotne đã đưa ra bốn bước thực tập để đem sự tĩnh lặng vào đời sống hàng ngày và họ cũng đã dạy điều này cho học sinh của mình để giúp các em tạo dựng “một nơi trú ẩn bình an” trong tự thân[5].

Có những giáo viên cảm thấy sự im lặng làm cho họ mất bình tĩnh và thiếu tự tin. Nhưng đối với Julie Berentsen đến từ Anh thì thưởng thức sự im lặng trong lớp học là điều tuyệt vời nhất mà sự thực tập chánh niệm mang lại cho cô. Cô chia sẻ ví dụ về một học sinh thường hay im lặng và điều này làm cho cô rất bận tâm, nhưng hóa ra em học sinh đó học hỏi được những điều rất sâu sắc từ sự im lặng. Và cô nhận ra rằng lẽ ra cô cần phải thoải mái trong hoàn cảnh đó.

Ngay trước dịp lễ Giáng sinh, tôi có hỏi các em học sinh của mình là các em nghĩ như thế nào về những buổi thực tập chánh niệm trong nhóm. Các em trả lời là “vui”, “thú vị”, và “lý thú”. Tất nhiên là tôi hạnh phúc với những lời nhận xét đó nhưng đồng thời tôi cũng muốn biết là các em học hỏi được gì, nếu có, từ sự thực tập chánh niệm. Có một em nữ thường hay rất im lặng trong các giờ sinh hoạt và tôi thường tự hỏi không biết em tiếp nhận được gì trong thời gian chúng tôi thực tập chung với nhau. Em chia sẻ với cả nhóm rằng em cảm thấy chánh niệm giúp cho em hiểu được mình nhiều hơn. Em hiểu ra rằng trong em có rất nhiều cảm xúc và đó là chuyện bình thường. Em đã học được cách thương mình nhiều hơn.

Từ sự quán sát và chiêm nghiệm về các buổi thực tập với học sinh, tôi thấy điều mà các em trân quý và biết ơn là thông qua sự thực tập chánh niệm, các em có không gian để tiếp xúc với hình hài và cảm xúc của chính mình cũng như được người lớn lắng nghe. Có lẽ điều đặc biệt nhất mà tôi nhận thấy là tầm quan trọng của không gian và sự tĩnh lặng: niềm vui khi ngồi bên nhau mà không cảm thấy cần phải lấp đầy thời gian bằng sự bận rộn của trường lớp.

Lồng ghép sự thực tập chánh niệm vào chương trình giáo dục về cảm xúc, đạo đức và xã hội

Các giáo viên thường tự hỏi làm thế nào để đưa việc giảng dạy chánh niệm vào trong chương trình đào tạo và trong thời khóa biểu của trường. Tất nhiên là chánh niệm có thể được giảng dạy như một tiết học đặc biệt và điều này thường tạo ra điểm khởi đầu rất hiệu quả cho trường học. Qua thời gian, sự thực tập chánh niệm tạo ra nhiều ảnh hưởng lâu dài và có được độ tin cậy cao hơn khi nó được bình thường hóa và được lồng ghép vào trong những phạm vi rộng lớn hơn – những phạm vi này được thường xuyên sử dụng để tổ chức việc dạy và học ở trường, trong đó có các trường đại học.

Với bản chất nền tảng và phổ quát của chánh niệm cũng như sự đa dạng trong cách thức tổ chức chương trình giảng dạy của các trường trên khắp thế giới, chắc chắn là có vô số phương thức để đem chánh niệm vào chương trình giảng dạy chính thức mà không phải là một cách duy nhất. Ở đây, chúng ta sẽ khám phá chỉ một vài cách thức mà có hiệu quả rõ ràng nhất, đặc biệt là những cách thức đã được các giáo viên – những người có cảm hứng với sự thực tập chánh niệm theo pháp môn Làng Mai – ứng dụng vào thực tiễn.

Như chúng ta đã thảo luận, các trường học từ tiểu học cho đến đại học ngày càng quan tâm đến việc giúp các học sinh phát triển các phẩm chất liên quan đến cảm xúc, đạo đức và xã hội. Họ sử dụng một loạt các thuật ngữ như tính cách, giá trị, đạo đức của học sinh, giáo dục kỹ năng cảm xúc – xã hội. Dưới đây, chúng ta sẽ cùng khám phá những cách thức giảng dạy chánh niệm trong bối cảnh vừa nêu trên, được trình bày theo các đề mục; sau đó chúng ta sẽ tiếp tục tập trung vào những cách thức lồng ghép chánh niệm vào các môn học ở trường. Không có một cách thức nào là duy nhất đúng, vì vậy chúng ta có thể chỉ sử dụng những điều thích ứng với hoàn cảnh của chúng ta mà thôi, đồng thời vẫn giữ gìn những nguyên tắc căn bản của sự thực tập.

Chúng ta sẽ bắt đầu với những tiêu chuẩn và thuật ngữ được sử dụng tại Làng Mai liên quan đến đạo đức học và những phép thực tập chánh niệm.

Đạo đức học ứng dụng

Có thể nói những phương pháp thực tập cốt lõi mà chúng ta đã khám phá trong những phần trước của bộ sách này chính là những yếu tố làm nên một chương trình giảng dạy chánh niệm căn bản. Tuy nhiên, xem xét những phương pháp này như một thể thống nhất và với một mục đích sâu hơn sẽ giúp ta có thể lồng ghép chúng vào một bộ quy tắc rộng hơn, đôi khi được gọi là “đạo đức học ứng dụng”, trong phạm vi giáo dục. Như đã được đề cập trong lời mở đầu, sự thực tập chánh niệm chỉ là một phần của một truyền thống có từ hơn 2500 năm, chỉ dạy cho chúng ta cách sống một nếp sống thiện lành. Chánh niệm không phải là cái mà ta có thể sử dụng như một công cụ hoặc để phục vụ lợi ích riêng của mình. Chánh niệm thực sự sống động khi nó được áp dụng vào những mối liên hệ và những hoạt động của chúng ta trong đời sống hàng ngày.

Phương pháp tiếp cận của Làng Mai cung cấp cho chúng ta những tiêu chuẩn đạo đức để giúp ta đối diện với những khó khăn, thách thức trong đời sống hàng ngày. Phép thực tập đơn giản nhất là Hai lời hứa, dành cho thiếu nhi.

  • Lời hứa thứ nhất: Con xin mở rộng lòng thương và tìm cách bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài (cỏ cây, cầm thú và đất đá).
  • Lời hứa thứ hai: Con xin mở rộng tầm hiểu biết để có thể thương yêu và chung sống với mọi người và mọi loài (cỏ cây, cầm thú và đất đá).

Nhiều thiếu niên và người lớn cũng thấy hai phép thực tập đơn giản này rất hữu ích cho mình.

Năm phép thực tập chánh niệm (hay còn gọi là Năm Giới)

Sự thực tập được thường xuyên sử dụng nhất với người trẻ là Năm phép thực tập chánh niệm (có thể xem toàn bộ nội dung của Năm phép thực tập này trong Phụ lục B). Những phép thực tập này tập trung vào năm lĩnh vực: tôn trọng sự sống, hạnh phúc chân thực, ái ngữ và lắng nghe, nuôi dưỡng và trị liệu. Trong khóa tu dành cho giáo chức diễn ra tại Barcelona, Tây Ban Nha vào ngày 10.05.2014, Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ rằng:

Năm phép thực tập chánh niệm, hay Năm Giới, là biểu hiện cụ thể của sự thực tập chánh niệm. Nếu chúng ta và những người trẻ sống theo Năm phép thực tập chánh niệm này thì hạnh phúc, từ bi và trị liệu là điều mà ta có thể chế tác được. Thầy cô giáo nên làm phát khởi trong tự thân mình năng lượng tỉnh thức, từ bi và hiểu biết đó. Điều này sẽ giúp cho thế hệ trẻ rất nhiều trong quá trình chuyển hóa và trị liệu.

Các giáo viên có thể lo ngại là sự thực tập chánh niệm, đặc biệt là khi đi về lĩnh vực đạo đức, sẽ rất gần với tôn giáo. Thầy Pháp Khâm, một xuất sĩ thuộc Viện Phật học Ứng dụng châu Á (AIAB) tại Hồng Kông, chia sẻ rất rõ rằng đạo đức học ứng dụng không phải là về một tôn giáo hay một chủ thuyết, mà về những nguyên tắc sống có giá trị phổ quát đối với con người.

Những phép thực tập chánh niệm có nội dung rất gần gũi với cuộc sống, không mang tính tôn giáo. Những phép thực tập này được thiết lập dựa trên những nguyên tắc căn bản, phổ quát về từ bi và hiểu biết; có thể được xem như là những lời mời, những cam kết tự nguyện, sự bày tỏ ý định hay những ước nguyện. Những giáo viên áp dụng các phép thực tập này rất trân quý và biết ơn vì có được những nguyên tắc đạo đức vững chắc, rõ ràng và có thể chia sẻ rộng rãi để làm nền tảng cho những hành động của chính mình cũng như để hướng dẫn cho các em học sinh. Những giáo viên này chia sẻ rằng họ thấy Năm phép thực tập chánh niệm có khả năng giúp cho họ xác định được hướng đi trong cuộc đời cũng như trong việc hướng dẫn những người trẻ.

Người trẻ cũng có những nỗi sợ hãi khi nghe đến danh từ “đạo đức”. Họ lo sợ là Năm phép thực tập chánh niệm sẽ đưa đến sự giáo huấn về đạo đức và cả sự phán xét. Tuy nhiên, sư chú Trời Minh Tâm, với kinh nghiệm chăm sóc thanh thiếu niên tại tu viện Lộc Uyển – một trung tâm tu học của Làng Mai tại Nam California, lại có một cái nhìn tương đối khác. Sư chú thấy Năm phép thực tập chánh niệm như những người bạn rất độ lượng, bao dung, luôn hiến tặng tình thương vô điều kiện mà không phán xét.

Tôi xem Năm phép thực tập chánh niệm như năm người bạn thân. Những người bạn đó luôn có mặt và giúp ta thức tỉnh, thoát khỏi sự hoang mang và trở về được với chính mình. Đây là những người bạn không bao giờ xa lìa hoặc bỏ rơi chúng ta, dù cho con đường mà chúng ta đi có quanh co và nhiều bất trắc. Bản chất của Năm phép thực tập chánh niệm chính là tình thương không điều kiện – điều mà chúng ta mong muốn hiến tặng cho chính mình và cho thế giới. Khi chúng ta cam kết thực tập theo những điều này, chúng ta chỉ cam kết với chính bản thân mình mà không phải là với một quan tòa hoặc một ai đó có thẩm quyền ở ngoài chúng ta. Thậm chí Thầy Thiền sư Thích Nhất Hạnh của chúng tôi thấy không có vấn đề gì nếu chúng ta chỉ thực tập một hoặc một vài trong Năm phép thực tập chánh niệm. Thầy nhận thấy rõ rằng dù ta chỉ cam kết với một phép thực tập nhưng thực sự chúng ta cũng đang thực tập tất cả những phép còn lại.

Đạo đức trong lớp học

Một vài giáo viên sử dụng thuật ngữ đạo đức và những phép thực tập chánh niệm một cách trực tiếp trong việc giảng dạy của mình. Ngôn ngữ và cách thức tiếp cận này đặc biệt thích ứng một cách dễ dàng ở những nơi mà việc giáo dục về đạo đức được thực hiện một cách chính thức và đều đặn, chẳng hạn như trong việc đào tạo các sinh viên y khoa.

Cô Neha Kaul là người chuyên dạy về đạo đức nghề nghiệp cho các sinh viên y khoa ở Mỹ. Cô cảm thấy không thoải mái với cách tranh luận của các sinh viên trong những buổi học mà cô giảng dạy. Nhìn sâu vào chính mình, cô nhận ra rằng cô cần phải ý thức về sự cứng nhắc trong tâm, và thấy mình cần đi về hướng cởi mở hơn, buông bỏ ý niệm đúng và sai, đồng thời cho phép các sinh viên của mình có những suy nghĩ độc lập. Cô còn nhận thấy sự cởi mở và tạo điều kiện đó thực sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp các em sinh viên của cô có khả năng xử lý nhiều tình thế khó xử về mặt đạo đức mà các em phải đối diện khi làm việc trong lĩnh vực y khoa.

Ban đầu, tôi cảm thấy căng thẳng khi bước vào mỗi tiết học. Thường trong suốt các cuộc thảo luận, tôi nhiều lần phải vật lộn với mong muốn hướng các sinh viên của mình đi về một cách suy nghĩ nhất định. Và thường là tôi sẽ dẫn dắt hoặc thậm chí cố gắng để chi phối các cuộc thảo luận. Tôi phải dùng đôi mắt của sự thực tập để nhìn sâu hơn vào những gì đang diễn ra trong tôi, khiến cho tôi mệt mỏi và kiệt sức. Tôi nhận ra một tập khí rất mạnh trong tôi, đó là sự cứng nhắc đối với những gì mà tôi cho là đúng hoặc sai. Lúc đó tôi cũng đang có thái độ cứng nhắc, tôi sợ các sinh viên đưa ra những quyết định không đúng về mặt đạo đức. Đạo đức y khoa liên quan đến cách suy nghĩ, nhìn nhận trước một vấn đề khó xử liên quan đến đạo đức hoặc một tình huống khó khăn trong lĩnh vực y khoa, trong đó ta phải sử dụng những cách tiếp cận khác nhau và tìm ra những phương pháp để giải tỏa sự căng thẳng khi có nhiều nguyên tắc đạo đức có thể áp dụng được để xử lý một tình huống. Tôi nhận ra là nếu tôi muốn các sinh viên của mình thành công trong việc áp dụng đạo đức y khoa vào đời sống thực tiễn, khi mà các em đều bận rộn với công việc chuyên môn của mình thì tôi phải giúp các em cảm thấy thoải mái với quá trình này ngay bây giờ và ở đây trong lớp học. Tôi cần phải chấp nhận một điều là tôi không thể nào điều khiển cách tư duy của các em được. Điều mà tôi có thể làm là giúp các em hiểu được những khái niệm liên quan đến đạo đức y khoa và khuyến khích các em giữ vững quan điểm của mình, dù đó là một quan điểm gây nhiều tranh cãi, trong quá trình bàn thảo về đạo đức y khoa.

Giáo dục về cảm xúc – xã hội

Như chúng ta đã biết trong phần mở đầu, học hỏi các kỹ năng cảm xúc – xã hội (SEL) là một khái niệm đã được sử dụng rộng rãi để nói về một lĩnh vực giáo dục. Mục đích của chương trình giáo dục này là giúp cho ta hiểu rõ hơn về chính mình và liên hệ hiệu quả với những cá nhân khác trong xã hội thông qua việc phát triển những khả năng như tự nhận thức và quản lý cảm xúc, suy nghĩ và hành vi; khả năng thích ứng và sự bền bỉ; khả năng thiết lập và duy trì các mối liên hệ; cũng như khả năng thấu cảm với những cá nhân khác trong xã hội. SEL ngày càng được chấp nhận và giảng dạy rộng rãi. Có những trường đại học và dưới đại học đã đưa lĩnh vực giáo dục này vào trong chương trình giảng dạy chính thức của trường. Giữa SEL và phương pháp chánh niệm có sự tương đồng và hỗ trợ nhau khá mạnh mẽ, vì vậy mà những trường đã áp dụng SEL cảm thấy chương trình này là nơi thích hợp để giảng dạy chánh niệm. Trong lời mở đầu, chúng ta đã khám phá những gì mà chánh niệm có thể mang lại cho chương trình SEL và tại sao chánh niệm thường được những người làm việc trong lĩnh vực giáo dục mô tả như là “mảnh ghép còn thiếu”. Đối với Constance Chua Mey-Ing, một giáo viên tiểu học tại Singapore, chánh niệm – sự tác động từ bên trong – là “mắt xích còn thiếu” trong việc giáo dục cảm xúc và xã hội – một sự tác động từ bên ngoài.

Kể từ năm 2004, Bộ Giáo dục của Singapore đã yêu cầu đưa chương trình giáo dục cảm xúc – xã hội vào các trường học. Chánh niệm là mắt xích còn thiếu trong việc giáo dục cảm xúc – xã hội, vì vậy thật là một giải pháp toàn hảo khi việc học hỏi về các kỹ năng cảm xúc – xã hội được dựa trên sự thực tập chánh niệm. Chánh niệm là sự tác động từ bên trong, giúp cho ta ý thức rõ hơn về bản thân bằng cách hướng sự chú tâm của ta vào cơ thể, vào giây phút hiện tại. Trong khi đó, sự giáo dục về cảm xúc – xã hội là nhằm đào tạo những kỹ năng quản lý cảm xúc, một sự tác động từ bên ngoài. Đối với trẻ em, sự thực tập chánh niệm là cần thiết nhưng vẫn chưa đủ, vì các em chưa được trang bị những kỹ năng quản lý cảm xúc khi chúng phát khởi.

Chánh niệm cũng phù hợp với nhiều chương trình giáo dục có mục tiêu giúp cho học sinh, sinh viên phát triển các giá trị và chuẩn mực đạo đức cũng như những kỹ năng quản lý cảm xúc và xã hội, dù được sử dụng bằng những thuật ngữ khác. Chẳng hạn, bác sĩ Dzung X. Vo nhận thấy có một sự tương đồng khá rõ giữa khái niệm “tương tức” (inter-being) của Làng Mai với khái niệm “tính gắn kết” (sense of connectedness) mà phong trào người trẻ sống tích cực và kiên cường (resilience and positive youth movement) hiện đang sử dụng:

Các tài liệu nghiên cứu về sự phát triển tích cực và kiên cường của người trẻ cho chúng ta thấy rằng khả năng gắn kết một cách tích cực với những người bạn đồng lứa, với thầy cô giáo ở trường, và với cha mẹ hoặc những người chăm sóc mình là một nhân tố bảo vệ vô cùng quan trọng đối với người trẻ. Tôi thấy điều này rất phù hợp với tinh thần tương tức và có thể được dạy dưới hình thức phi tôn giáo.

Chúng ta hãy sử dụng bất kỳ một thuật ngữ hoặc ngôn từ nào phù hợp và có hiệu quả để kết nối với những lĩnh vực mà ta thấy có sự tương đồng với chánh niệm.

Phòng tránh sự gây hấn, bắt nạt và bạo động nơi học đường

Phép thực tập đầu tiên trong Năm phép thực tập chánh niệm (hay còn gọi là Năm Giới) liên quan đến tôn trọng sự sống và ngăn ngừa tình trạng bạo động, gây hấn, thù địch và thiếu bao dung. Ý tưởng xây dựng phong trào Wake Up Schools ban đầu bắt nguồn từ nhu yếu khắc phục tình trạng bạo hành trong xã hội Pháp và phép thực tập chánh niệm về tôn trọng sự sống trực tiếp giải quyết vấn đề này. Nhiều trường học và tổ chức liên quan đến người trẻ đã thực hiện những công việc cụ thể về những chủ đề này – chẳng hạn như cố gắng ngăn ngừa tình trạng bắt nạt và bạo động trong học đường; giúp học sinh, sinh viên quản lý cơn giận; nghiên cứu, khám phá nguồn gốc của tình trạng bạo động và gây hấn trong xã hội loài người; xử lý tình trạng định kiến, thiếu bao dung; và dạy những kỹ năng giúp giải quyết xung đột, hòa giải và chăm sóc những khó khăn, khổ đau. Toàn bộ lĩnh vực này là một cơ hội quý để giảng dạy về chánh niệm và đạo đức.

Những người trẻ thường bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những cảm xúc mạnh mà họ trải qua, trong đó có sự ghét bỏ và bạo động. Nhiều em, dù có hoàn cảnh sống tương đối dễ dàng, cũng trải qua ít nhiều khổ đau và bị đối xử tệ. Tony Silvestre, một giáo sư ở Mỹ, đã rất ngạc nhiên khi khám phá ra điều này trong một khóa học dành cho các sinh viên đại học về chủ đề “sự khác biệt”.

Câu chuyện bắt đầu khi lần đầu tiên tôi đưa ra một bài tập với chủ đề “Sự khác biệt” vào trong khóa học về Sự đa dạng của con người và sức khỏe cộng đồng. Mở đầu khóa học, tôi đề nghị các sinh viên bắt cặp với nhau và chia sẻ về trải nghiệm lần đầu tiên mà các em cảm thấy mình khác biệt so với những người khác. Sau hai mươi phút, tôi tập trung các em lại và mời các em thảo luận chung với nhau. Trong mười lăm năm qua, khóa học nào cũng vậy,

những buổi thảo luận về chủ đề này luôn khiến tôi rơi nước mắt. Các em đã chia sẻ nỗi đau về cảm giác dị biệt khi là một đứa trẻ được chuyển đổi giới tính; sống với một người mẹ nghiện rượu và hay đánh đập con; là người Do Thái sống ở một thị trấn toàn là người Thiên Chúa giáo bảo thủ; là người thuộc hai chủng tộc và bị cả trẻ con da trắng và da đen kỳ thị; mắc rối loạn lưỡng cực; là người “gầy trơ xương”, v.v. Tôi từng nhìn các em học sinh của mình như những chiếc bình có khuôn mặt thiên thần, ngọt ngào đang chờ được tôi đổ đầy bằng những kiến thức mà tôi cho là quan trọng. Nhưng chia sẻ của các em đã đập tan những ý niệm đó trong tôi. Kinh nghiệm dạy cho tôi cần phải lắng nghe cho sâu, phải nhìn và tiếp xúc với con người thật đang ngồi trước mặt tôi. Mặc dù có những ý niệm ngây thơ về các em học sinh của mình, tôi đã nhận ra rằng nỗi đau là một điều không hề xa lạ với những người trẻ như các em.

Những người trẻ trong lớp học của Tony, những người có nghị lực và đủ điều kiện hỗ trợ để vào được đại học, vẫn còn cảm thấy khổ đau thì chúng ta có thể hình dung được mức độ độc hại của bạo động, gây hấn và đối xử tệ bạc có thể gây tác động như thế nào đối với những người trẻ có hoàn cảnh kém may mắn hơn. Chúng có nguy cơ làm cho cuộc sống của những người trẻ này trở nên hoàn toàn bất ổn. Chúng ta có thể cùng nhau suy ngẫm xem sự thực tập chánh niệm có thể giúp cho những người trẻ như thế nào.

John Bell hiện đang điều hành một dự án có tên là YouthBuild, trong đó anh sử dụng cách thức của Làng Mai để chăm sóc những người trẻ đang bị tách rời khỏi xã hội. Những người trẻ này phải sống trong những điều kiện cực kỳ độc hại, khiến cho họ đi tới chỗ bị cách ly ra khỏi nhịp điệu phát triển của xã hội và thường là dẫn đến con đường phạm pháp, lạm dụng ma túy và tù tội. Thay vì đưa ra những biện pháp trừng phạt, hoặc những lời khuyên răn có ý nghĩa mà những người trẻ này đã quá quen thuộc, dự án YouthBuild khởi đầu bằng cách tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho những người trẻ được trị liệu và phát triển một cách khỏe mạnh, mang đến cho các em một “nơi trú ẩn an toàn và đầy tình thương”.

YouthBuild là chương trình hỗ trợ giáo dục toàn diện và dạy nghề trong một năm cho những người trẻ thuộc gia đình nghèo, từ mười sáu đến hai mươi tư tuổi. Thông qua chương trình này, các em sẽ tham gia vào dự án xây dựng những khu nhà dành cho người vô gia cư và người có thu nhập thấp ở khu vực mình sinh sống. Đồng thời, các em có cơ hội học để lấy bằng tốt nghiệp trung học hoặc GED, ngoài ra các em còn được rèn luyện những kỹ năng để trở thành những người lãnh đạo cộng đồng.

Ở một vài khía cạnh thì YouthBuild cũng giống như một tu viện thu nhỏ. Những người trẻ khi đến đây thường ở trong tình trạng tương đối chán nản, thất vọng vì nghèo đói, bị kỳ thị chủng tộc hoặc bị lạm dụng… Có những em đang phải trốn chạy khỏi súng đạn và cảnh sát. Có những em là nạn nhân của việc lạm dụng tình dục hoặc bạo lực gia đình. Có những em đã từng bị ở tù. Các em tìm thấy gì ở chương trình YouthBuild? Một nơi trú ẩn an toàn và đầy tình thương. Ban đầu các em không tin vào điều đó. “Từ trước tới giờ, chưa có ai quan tâm đến em hết”. Đối với một số người trẻ thì đây là lần đầu tiên các em thực sự cảm thấy là mình được thương yêu. Một cố vấn của chương trình YouthBuild chia sẻ rằng: “Các em không quan tâm là bạn biết những gì cho đến khi các em biết là bạn quan tâm đến các em”. Chỉ khi đó các em mới tận dụng được hết cơ hội để học tập, phát triển kỹ năng và đóng vai trò lãnh đạo. Cùng với tiến trình của sự chuyển hóa thì cá tính của người trẻ cũng dần thay đổi.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thầy của tôi, đã sử dụng hình ảnh của những bông hoa khép lại vào ban đêm. Buổi sáng, khi mặt trời xuất hiện và chiếu những quang tử (photon) lên khắp mọi loài không hề phân biệt, bông hoa đáp ứng lại những quang tử dễ thương đó, từ từ mở cánh ra và khoe toàn bộ vẻ đẹp của mình. Bản chất của bông hoa là mở cánh ra đón nhận ánh sáng mặt trời. Những người trẻ đến với YouthBuild cũng giống như những bông hoa còn khép cánh vậy. Nếu các tác viên của YouthBuild tỏa chiếu lên các em ánh sáng của thương yêu, chăm sóc và tôn trọng thì từ từ các em sẽ bắt đầu mở lòng ra. Bản chất của các em là đi tới, hướng về sức khỏe và hạnh phúc. Thật không dễ để thay đổi những thói quen đã huân tập lâu đời của con người, một phần là ảnh hưởng của văn hóa, tập tục. Nhưng điều này không phải là không thể làm được. J., một học viên trong chương trình, cho biết: “Tôi thường cho mình là một người xấu. Nhưng các cộng tác viên ở đây đã giúp tôi tìm lại chính mình. Giờ đây, tôi chỉ muốn tham gia vào một phong trào lớn để giúp cho những người bạn đồng trang lứa cũng nhận được sự tôn trọng này.”

Thừa nhận rằng ai trong chúng ta cũng có khía cạnh tối tăm và kêu gọi sự bao dung, tình thương dành cho tất cả mọi người là một việc làm thật can đảm. Không phải ai cũng hiểu được công việc này. Cara Harzheim, một cô giáo người Đức dạy cho các em thiếu niên, đã sống với nguyên tắc tôn trọng sự sống, không kẹt vào cái mình thấy và tin tưởng vào lòng bao dung cũng như khả năng trị liệu, trong lớp Triết học của cô. Cô thấy các học sinh của mình cần được nghe lời chia sẻ trực tiếp của một bà mẹ – người có khả năng tha thứ cho kẻ đã giết chết con trai mình, với một tấm lòng bao dung phi thường. Vì vậy, cô đã mời bà mẹ kia tới lớp học của mình, mặc dù các đồng nghiệp của cô không đồng tình lắm với hành động này.

Một chủ đề khác được mang ra trong giờ triết học là án tử hình còn tồn tại ở nhiều quốc gia. Chủ đề này có liên quan đến phép thực tập chánh niệm thứ nhất là tôn trọng sự sống.

Tình cờ thầy hiệu trưởng hỏi tôi có bằng lòng cho một phụ nữ người Mỹ tới lớp để chia sẻ về những gì bà đã làm hay không. Con trai của bà bị giết chết ngoài đường. Và bà đã tha thứ cho kẻ sát nhân, bà không muốn người đó bị giết. Bà đã giải thích điều đó với các em học sinh của tôi. Chúng tôi rất cảm động khi nghe bà chia sẻ. Bà đang làm một vòng du thuyết ở châu Âu để giải thích cho người ta hiểu tại sao bà lại làm như vậy. Tôi có 50 em học sinh. Các thầy cô khác không muốn người phụ nữ kia tới lớp của họ, nhưng tôi nói: “Chúng tôi muốn bà tới và chia sẻ với các học sinh, vì đây là một vấn đề rất quan trọng.”

Giảng dạy về hạnh phúc và sự khỏe mạnh về tinh thần trong trường học

Phép thực tập chánh niệm thứ hai nói về chế tác hạnh phúc chân thật (xem Phụ lục B). Như đã trình bày trong phần mở đầu, hạnh phúc và sự khỏe mạnh về tinh thần (well-being) là đề tài càng ngày càng được công nhận chính thức để đưa vào lớp học cho các học sinh nghiên cứu. Một phần là vì ngày càng có nhiều căn cứ khoa học chứng minh tầm quan trọng của đề tài này; mặt khác, vấn đề hạnh phúc và sự khỏe mạnh tinh thần có liên hệ tới việc học tập của học sinh. Trong phần này, chúng tôi đưa ra một vài ví dụ cụ thể và tạo nhiều cảm hứng về cách thức mà một số giáo viên đã áp dụng phương pháp của Làng Mai và tinh thần của phép thực tập chánh niệm thứ hai vào lớp học của mình. Các giáo viên này đã mời học sinh đủ mọi lứa tuổi cùng quan sát và nhìn lại xem thói quen và sự chọn lựa có ảnh hưởng tới hạnh phúc của các em như thế nào.

Người lớn thường lo sợ rằng người trẻ đi tìm hạnh phúc bằng những con đường sai lầm, quá chạy theo vật chất, sử dụng phương tiện truyền thông, công nghệ và ma túy để chạy trốn khỏi những cảm xúc không dễ chịu. Nhưng khi nói chuyện với người trẻ, chúng tôi nhận thấy họ thường giải thích rõ ràng, ít nhất về mặt lý thuyết, là những thứ đó không đem lại cho họ hạnh phúc. Khi thảo luận về đề tài hạnh phúc với các học sinh ở tuổi thiếu niên trong lớp của mình, Mike Bell khám phá ra rằng người trẻ không có khó khăn gì trong việc đưa ra một số quy tắc cụ thể để xây dựng một xã hội hạnh phúc.

Các học sinh đã đề ra một danh sách những điều lệ mà họ gọi là “Những quy tắc cho một xã hội hạnh phúc”. Trong đó gồm có:

  1. Tôn trọng người khác – không kỳ thị vì tuổi tác, giới tính, tôn giáo, hay khuyết tật
  2. Không trộm cắp
  3. Không làm hại, không xâm phạm, không giết chóc
  4. Bảo vệ tôn giáo và văn hóa
  5. Chấp nhận một mức độ rủi ro mà mình gặp phải – không tìm cách đổ lỗi cho ai khác
  6. Tiếp nhận người tị nạn, nhưng trục xuất người di cư bất hợp pháp
  7. Đảm bảo cơ sở và điều kiện sống thuận lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi
  8. Giới hạn việc sử dụng các chất gây nghiện

Tôi đã thử làm một bài tập tương tự với các em học sinh 12 tuổi. Tôi giới thiệu sự thực tập với tên gọi “khoa học về hạnh phúc”. Tôi bảo các em đừng tin những gì tôi nói mà hãy xem xét, kiểm chứng từ thực tế. Và thật bất ngờ là dù không có sự chỉ dẫn nào, các em đã chia những quan tâm của mình thành năm phạm trù giống như Năm phép thực tập chánh niệm: Bạo động, trộm cắp, lời nói, tà dâm và sự tiêu thụ. Theo kinh nghiệm thì tôi nghĩ mình nên đặt thêm một câu hỏi nữa như là: “Các em thấy những sản phẩm nào mà khi mình ăn, mình mua hay mình tiêu thụ có thể làm cho người khác không có hạnh phúc?” Đưa ra câu hỏi như vậy sẽ giúp cho các em dễ dàng nhận thấy những thói quen không đem lại hạnh phúc như sự ăn uống không có chừng mực, sự say sưa và nghiện ngập.

Trong một ví dụ khác, Mike sử dụng một viên đá và một cây xanh để giúp các em học sinh suy nghĩ sâu sắc hơn về nhu cầu phức tạp của các sinh vật, giúp cho các em nhận ra được những điều kiện hạnh phúc đang có mặt khắp nơi, trong đó mối liên hệ với con người và môi trường xung quanh cũng đóng một vai trò quan trọng.

Năm nay tôi dự định giảng cho các em học sinh 11 tuổi về đặc tính của các sinh vật. Tôi nhờ anh kỹ thuật viên đem cho tôi một cây xanh và một tảng đá to. Tôi chỉ cho các em học sinh hai vật đó và đặt câu hỏi: điều gì sẽ xảy ra khi tôi cất tảng đá vào tủ, rồi một năm sau lấy nó ra. Các em trả lời không chút do dự là tảng đá vẫn gồ ghề như vậy, có lẽ nó có nhiều bụi hơn hay bị mốc một chút nhưng căn bản thì nó vẫn như cũ. Khi tôi hỏi các em điều gì sẽ xảy ra nếu tôi cất cây vào tủ một năm thì các em đều đồng ý với nhau là cây sẽ chết, mục ruỗng hay khô lại.

Rồi tôi hỏi nếu các em bị nhốt vô tủ một năm thì sao (tôi nhấn mạnh là mình không cố ý làm như vậy). Các em trả lời một cách dễ dàng là các em sẽ chết, thối rữa và bốc mùi. Tôi hỏi các em cần gì để sống thì đầu tiên các em nghĩ tới thức ăn, nước và không khí. Sau đó các em thêm vô bạn bè, gia đình và nhà ở. Các em nhận ra rằng mình không thể tồn tại một mình. Rồi tôi hỏi các em cần gì để có hạnh phúc, và một lần nữa tôi lại nhận thấy các em không cảm thấy khó khăn gì khi đưa ra một danh sách những thứ có thể làm cho mình hạnh phúc[6].

Cũng về chủ đề hạnh phúc, cô giáo Lyndsay Lunan – giảng viên đại học tại Vương quốc Anh – đã sử dụng một phương pháp đặc biệt lấy sinh viên làm trọng tâm. Cô đề nghị các sinh viên lập một bản đồ và nghiên cứu các phản ứng cảm xúc của họ ở những thời điểm khác nhau trong ngày. Phương pháp này giúp cho sinh viên có ý thức hơn, một cách tự nhiên và trực tiếp, về cái gì nuôi dưỡng hạnh phúc và cái gì làm cho hạnh phúc của các em bị tiêu hao.

Tôi đề nghị các em vẽ một bản đồ về cảm xúc của các em trong một ngày bình thường và quan sát xem các cảm xúc tích cực, tiêu cực hay trung tính phát sinh chiếm khoảng bao nhiêu thời gian trong một ngày. Các em đã khám phá ra rằng rất nhiều các cảm xúc tiêu cực và chán nản bắt nguồn từ những hành động dựa trên thói quen của mình như là dùng Facebook hay xem tivi. Và điều này đưa đến những cuộc thảo luận hấp dẫn về đề tài: “Cái gì thực sự nuôi dưỡng chúng ta?. Những giây phút hạnh phúc của các em luôn là những giây phút được gần gũi với những người mình thương yêu hay khi đi chơi bên ngoài. Từ các khám phá đó, chúng tôi cùng thực tập chế tác những cảm xúc tích cực. Thay vì đề xuất những “điều kiện hạnh phúc” mà đôi khi không gần với nhu yếu của các em, tôi để các em tự lựa chọn một trải nghiệm về hạnh phúc mà các em đã từng nếm được và ngồi yên, mời những trải nghiệm đó đi lên trong tâm trí. Các em biết ý thức về hơi thở và chú tâm vào cảm xúc mà những trải nghiệm đó đem lại trong lòng mình. Đây là cách mà các em có thể dễ dàng áp dụng được để trở về với chính mình. Và có lẽ đây cũng là sự thực tập công hiệu nhất đối với các em.

Angelica Hoberg, một giáo viên tiểu học người Đức đã về hưu, từng cho các em học sinh lớp Ba làm một cuốn sổ chánh niệm để ghi lại những thành công của các em trong việc tưới tẩm hạt giống tốt nơi tự thân. Qua sự quan sát, suy ngẫm của các em cùng với kinh nghiệm hướng dẫn của cô Angelica Hoberg, các em đã dần phát triển khả năng sống hạnh phúc và có nhiều tình thương hơn. Các em biết trân quý những điều kiện hạnh phúc đang có mặt bây giờ và ở đây. Phương pháp thực tập rất thực tiễn này không những thúc đẩy các em học sinh (và cả cô giáo) phải suy nghĩ và hành động mà còn thu hút cả các bậc phụ huynh.

Tôi mời các em tự làm cho mình một cuốn sổ ghi chép, gọi là cuốn sổ chánh niệm. Tôi vẽ một biểu đồ thật lớn tượng trưng cho ý thức và tàng thức. Và chúng tôi cùng nhau suy nghĩ xem hạt giống nào mình muốn tưới tẩm trong tự thân mình. Tôi viết xuống tất cả những đề nghị của các em và treo lên cùng với tấm biểu đồ.

Các em vẽ lại biểu đồ vào cuốn sổ chánh niệm của mình và mỗi người ghi xuống những hạt giống mà mình đã chọn để tưới tẩm, từ danh sách các hạt giống mà cả lớp cùng đề nghị ra với nhau. Mục đích của bài tập này là khuyến khích các em tưới tẩm hạt giống mà mình đã lựa chọn trong vòng một tuần lễ. Sau đó các em viết bên cạnh sơ đồ của mình về những hoàn cảnh/tình huống mà các em đã thực tập thành công.

Có lần, một em nhỏ trong lớp tự nhiên khen ngợi sự thành công của một bạn khác. Tôi hỏi em lúc đó em cảm thấy như thế nào thì em ngập ngừng. “Em có thấy vui không? Cảm thấy hạnh phúc khi giúp đỡ và khen ngợi người khác chẳng phải là điều rất tuyệt vời sao?”, tôi hỏi. Từ giây phút đó cho đến cuối tiết học, tôi thấy em chạy hết chỗ này đến chỗ khác để giúp các bạn của mình. Tôi phải nói rằng, trước nay điều này chưa bao giờ là ưu điểm của em. Cách hành xử này thực sự cũng là một sự khám phá vô cùng ngạc nhiên đối với em. Chính tôi cũng thấy mình còn nhiều thứ để khám phá. Tôi có cuốn sổ chánh niệm của mình. Tôi nhận thấy có một sự khác biệt rất lớn khi tôi bắt một em học sinh đang giận dữ, ồn ào phải yên lặng với khi tôi chỉ hỏi em một câu: “Em đang tưới tẩm hạt giống nào vậy?”. Các bạn khác giúp em suy nghĩ và em dừng lại để lắng nghe cảm xúc của mình. “Hạt giống giận dữ?” Chúng ta đã chọn tưới tẩm hạt giống nào trong tuần này?”, “Hạt giống hạnh phúc”. Và cười. Không có gì cần phải nói nữa.

Trong những trường hợp như vậy, các em học được rằng mình có thể chọn lựa cách nhìn sự vật/sự việc và quyết định nên có thái độ như thế nào cho phù hợp. Các em không còn phản ứng như là nạn nhân của những điều kiện bên ngoài. Khi họp với các bậc phụ huynh học sinh vào buổi tối, tôi chia sẻ cuốn sổ chánh niệm của lớp. Tôi chỉ cho cha mẹ của các em xem cuốn sổ sau khi họ đã hứa là không chỉ trích những lỗi lầm của con họ khi trở về nhà. Lẽ dĩ nhiên là trước đó tôi đã xin phép các em rồi! Các phụ huynh xem cuốn sổ và tôi cảm thấy trong phòng có một bầu không khí lắng yên và đầy tôn trọng.

Chánh niệm và chương trình giáo dục chính quy dựa theo chủ đề

Chúng tôi đã nghiên cứu việc giảng dạy chánh niệm trong các lớp học, dưới hình thức một khóa học chánh niệm theo đúng nghĩa, hoặc dưới hình thức của một phần khóa học về đạo đức hoặc một phần trong chương trình giáo dục cảm xúc – xã hội. Chúng tôi nhận thấy có một tiềm năng rất lớn trong việc đưa chánh niệm vào trong chương trình giáo dục. Chánh niệm ngày càng được học sinh, sinh viên, giáo viên và phụ huynh xem như một phương pháp thực sự quan trọng, đáng tin cậy. Việc thực tập chánh niệm có thể giúp cho học sinh, sinh viên thay đổi cách nhìn và lối sống của mình một cách lâu dài, một khi nó được đưa vào trong chương trình giáo dục chính quy.

Như đã trình bày trong phần trước của chương này, những kỹ năng do sự thực tập chánh niệm đem lại có thể yểm trợ cho việc học tập và có khả năng lồng ghép được vào trong chương trình giảng dạy cũng như thời khóa biểu của các trường. Trong khi đó, chánh niệm với những kỹ năng siêu nhận thức (metacognition – ý thức về quá trình tư duy) có thể giúp cho các em học sinh, sinh viên tiếp cận với các môn học khác dễ dàng hơn. Với chánh niệm, các em có thể lùi lại và nhìn những sự kiện hay thông tin chi tiết trên bề mặt để thấy được những giả định hay những quá trình tư duy nằm ở bên dưới; tiếp nhận những môn học khác nhau như những mô thức riêng biệt với sự thật và quy trình nhận thức khác nhau.

Michael Schwammberger, một người hướng dẫn thực tập và có nhiều kinh nghiệm tổ chức các khóa tu chánh niệm, chia sẻ những suy nghĩ của mình về việc các giáo viên giảng dạy chánh niệm theo cách thức riêng, phù hợp với sở trường và kỹ năng của họ về các môn học.

Mỗi giáo viên đều có những kỹ năng khác nhau. Có những giáo viên rất khéo léo, khôi hài, hoặc có những giáo viên có thể sử dụng môn học làm phương tiện để truyền đạt sự thực tập. Chẳng hạn như một vị giáo sư triết học. Với kinh nghiệm thực tập chánh niệm của mình, thầy có thể giảng dạy về triết học mà vẫn có thể đưa sự thực tập chánh niệm vào đó, giúp mở ra những không gian nhận thức, giúp học sinh tiếp xúc với thực tại, khơi dậy tính hiếu kỳ, sự quan tâm và chú ý của các em.

Richard Brady bình luận về cách thức mà chánh niệm dần định hình “phương pháp sư phạm” (pedagogies – khoa học về giảng dạy) theo đúng nghĩa của nó, một cách thức giảng dạy “phù hợp với tính chất của từng môn học nhất định”.

Nhờ vào sự thực tập, chúng tôi có thể giảng dạy một cách có chánh niệm, điều này được các em học sinh, sinh viên đánh giá cao. Thêm vào đó, sử dụng phương pháp sư phạm để khuyến khích sự học tập có chánh niệm giúp chúng tôi tạo ra những không gian phù hợp với từng chủ đề, từng môn học và từng đối tượng học sinh, sinh viên. Thông thạo một vài phương pháp sư phạm này cũng là sự yểm trợ thứ hai cho chúng tôi, những người hướng dẫn thực tập chánh niệm. Những phương pháp sư phạm này có khi giản dị như công việc lau bảng trong chánh niệm hay có khi phức tạp như giúp lớp học đi đến những quyết định trong sự đồng tâm nhất trí với nhau. Một số phương pháp sư phạm liên hệ đến việc tạo không gian trong lớp học, như xếp các bàn học thành vòng tròn hay thành nhóm bốn bàn. Một số phương pháp liên hệ đến thời gian, chẳng hạn như cho các em thời gian định kỳ để thực tập quán chiếu, nhìn sâu hay viết lách tự do. Nhờ chánh niệm, chúng tôi có thể sử dụng thành công các phương pháp sư phạm một cách chánh niệm để giảng dạy những môn học khác nhau cho những đối tượng học sinh, sinh viên khác nhau.

Ông bình luận về cách thức mà một số nhà giáo dục nổi tiếng đã phát triển những phương pháp giúp cho học sinh sử dụng chánh niệm để khám phá những môn học khác nhau.

Dựa vào sự thực tập của mình, các nhà giáo dục ngày càng phát triển những phương pháp để giúp các em học sinh, sinh viên tham dự một cách chánh niệm vào nội dung của bài giảng. Các học sinh lớp Ba và lớp Bốn của cô Denise Aldridge đã ngồi trong khu vườn của trường trong vòng 40 phút để quan sát và vẽ những gì các em quan sát thấy. Các em đã thực tập như vậy ba lần trong mùa thu. Qua những lần như vậy, các em khám phá ra cách thức quan sát một vật thể, cả chi tiết cũng như sự thay đổi của vật thể đó.

Các em học sinh 12, 13 tuổi trong lớp tiếng Anh của Hope Blosser thì đọc cuốn sách The house on Mango Street (Ngôi nhà trên đường xoài) của Sandra Cisneros và học cách quán chiếu, nhìn lại bản thân trong khi sáng tác ra một tiểu thuyết nhỏ của mình. Giáo sư về công nghệ thông tin David Levy đề nghị các em sinh viên trong khóa học “Thông tin và Quán niệm” (Information and Contemplation) viết xuống trong sổ nhật ký những suy nghĩ và kinh nghiệm của mình mỗi khi sử dụng một hình thức công nghệ thông tin đặc biệt. Các sinh viên trong giờ học về “Sự tiêu thụ và mưu cầu hạnh phúc” của giáo sư kinh tế Daniel Barbezat đã nhận ra được phép thiền tập về tình thương và lòng từ bi có ảnh hưởng đến sự rộng lượng của mình như thế nào.

Tiếp theo, chúng ta sẽ xem chánh niệm cần được giảng dạy hay hỗ trợ như thế nào trong từng môn học của chương trình giáo dục chính quy. Chúng tôi sẽ lấy một vài chủ đề hay môn học mà các giáo viên thực tập theo phương pháp của Làng Mai đã ứng dụng vào thực tế để làm ví dụ.

Trong một chương khá ngắn như ở đây, chúng tôi chỉ có thể minh họa mà không trình bày được hết tất cả những phần trong chương trình giáo dục mà chúng ta có thể lồng ghép vào đó phương pháp chánh niệm. Chúng tôi hy vọng những chia sẻ này sẽ đem lại cho quý vị hứng thú để áp dụng chánh niệm vào việc giảng dạy, đặc biệt là trong chính môn học mà quý vị đảm trách.

Sáng tạo

Sự sáng tạo là một người bạn đồng hành tự nhiên của chánh niệm và cũng là nhân tố thiết yếu đối với phương pháp thực tập của Làng Mai. Những khóa tu dành cho người trẻ luôn sôi động với những bài hát, những vở kịch, các hoạt động về nghệ thuật và thủ công, một số nghi thức nho nhỏ, những cơ hội để sáng tạo và chia sẻ. Ngoài ra các bạn còn tham gia cắt gọt và chuẩn bị cho bữa ăn hàng ngày. Thầy Pháp Dung, một người có nhiều nhiệt huyết trong những sinh hoạt với giới trẻ tại Làng Mai, đã chia sẻ về cảm giác ấm áp, cảm giác của một đoàn thể hay một gia đình nhờ vào khả năng sáng tạo, khả năng “đi xa hơn” đó.

Làm cho lớp học trở thành một đoàn thể hay một gia đình là cả một nghệ thuật. Chúng ta cần dùng sức sáng tạo của mình để tạo ra những cơ hội, những cách thức liên hệ khác nhau, vượt lên trên mục tiêu thông thường. Một đoàn thể cần phải có âm nhạc, kịch, nhảy múa và sự chia sẻ từ trái tim. Nếu chúng ta họp lại với nhau mà chỉ để bàn luận thôi thì những buổi gặp gỡ đó sẽ trở nên nhàm chán, tẻ nhạt. Chúng ta phải ăn trưa với nhau, phải làm tiệc nướng ngoài trời với nhau, phải đi ra biển chơi với nhau. Những sinh hoạt như vậy sẽ đem lại làn gió mới, mà ta gọi là khả năng “đi xa hơn”. Vì vậy cho nên thành lập một đoàn thể có liên quan rất nhiều đến khả năng sáng tạo.

Trong những chương trước, đặc biệt là những phần trình bày về các phương pháp thực tập cốt lõi của Làng Mai, chúng ta thấy có nói tới những ví dụ về tính sáng tạo trong giảng dạy chánh niệm. Pilar Aguilera, người hướng dẫn một khóa học về chánh niệm cho các thầy cô giáo theo chương trình Wake Up Schools của Làng Mai tại trường đại học Barcelona, đã mô tả sự ấm áp và sáng tạo này trong buổi kết thúc khóa học.

Cuối khóa học, chúng tôi tổ chức một buổi sinh hoạt gọi là “Ngồi chơi bên nhau” để chia sẻ về mảnh vườn tuyệt đẹp mà chúng tôi đã gieo trồng trong suốt khóa học. Các giáo viên mang tới những tác phẩm nghệ thuật rất sáng tạo lấy cảm hứng từ chương trình Wake Up Schools, những bài hát, những chiếc bánh ngọt, tất cả những thứ mà các bạn muốn làm quà để tặng cho lớp học.

Chúng tôi chấm dứt khóa học với thật nhiều quà trong tay, cùng với tình thương và lòng biết ơn tràn ngập trong trái tim mình.

Dưới đây là phần chia sẻ của Chelsea True, trong đó đưa ra nhiều cách thức mà các giáo viên, đặc biệt là giáo viên cấp tiểu học, có thể dễ dàng áp dụng để lồng ghép sự thực tập chánh niệm và sáng tạo vào công việc giảng dạy hằng ngày, giúp các em học sinh “thật sự trở nên sống động hơn”.

Các em sẽ thật sự trở nên sống động hơn nếu các em đi vào sự thực tập chánh niệm thông qua cánh cửa của trí tưởng tượng. Kể chuyện, mỹ thuật và thi ca nâng cao đời sống nội tâm của các em và tạo ra những hình ảnh mà các em có thể cảm nhận và hình dung được. Tôi đã viết và đọc cho các em nghe những mẩu chuyện có liên quan đến sự thực tập, trong đó tôi sử dụng những hình ảnh vui nhộn để giúp các em đi vào sự thực tập thông qua cánh cửa của trí tưởng tượng. Tôi cũng chia sẻ với các em về nghệ thuật và về những chương trình thủ công kết hợp với thực tập chánh niệm để giúp cho các em hiểu sâu hơn và dễ áp dụng. Trong mỗi lớp học của trường, chúng tôi đều có giờ thực tập ăn trong chánh niệm và trước khi ăn, chúng tôi cùng đọc lên một bài thơ để tiếp xúc với ánh sáng mặt trời có mặt trong thức ăn và sự tương tức giữa chúng tôi với vạn vật.

Sáng tạo, cũng như chánh niệm, giúp cho ta thoát ra khỏi những khuôn mẫu quen thuộc và tiếp xúc được với thế giới một cách mới mẻ và tươi mát hơn. Dưới đây là phần chia sẻ của cô Bea Harley về lý do tại sao, đối với cô, sáng tạo ít nhiều đồng nghĩa với chánh niệm – một sự tiếp xúc trực tiếp và sinh động với thế giới. Việc học mỹ thuật đã đem lại một trải nghiệm có tính thiền quán và tạo ra một chuyển hóa sâu sắc nơi cô. Trải nghiệm đó giúp cho cô một cảm giác kết nối sâu sắc hơn và khả năng nhìn thấu vào lòng sự vật. Vì vậy mà cô rất mong muốn chia sẻ điều này với các em học sinh của mình.

Khi còn là sinh viên tại đại học Mỹ thuật, có một lần tôi đã để ba mươi sáu giờ đồng hồ ngồi vẽ đi vẽ lại chỉ một cội cây thôi. Và tới một lúc thì tôi nhận ra rằng tôi là cội cây và cội cây là tôi, giữa tôi và cội cây không còn một sự cách biệt nào cả. Cái thấy tương tức, tương nhập này mở ra cho tôi một thế giới màu nhiệm cần khám phá và nó làm thay đổi cuộc đời tôi vĩnh viễn. Từ đó tôi luôn tin tưởng rằng giữa quá trình sáng tạo và sự thực tập chánh niệm có một mối liên hệ mật thiết. Trong khi giảng dạy Mỹ thuật, tôi cố gắng khuyến khích sinh viên hãy để sự phán xét và mong chờ kết quả qua một bên. Các em chỉ cần tập trung vào một đối tượng duy nhất, cố gắng để thấy sâu hơn những gì đang ở trước mắt mình, thật sự hiểu thấu được bản chất của sự vật để nắm được cái tinh hoa của nó. Đôi khi tôi cũng tự hỏi, có phải những giây phút nắm bắt được cảm hứng trong một tác phẩm nghệ thuật, trong âm nhạc hay trong văn chương là cái đánh động mình hay không? Như thể là khi hiểu thấu được những biểu tượng thì một cách vô thức, ta cũng đồng thời nhận ra được bản chất toàn vẹn của chính mình. Trong giây phút đó, cái thấy (tuệ giác) có được do sự thực tập chánh niệm có thể đưa ta vào một thế giới của những khả năng vô hạn. Nếu hiểu được tâm mình, một khi làm chủ được những tạo tác, phóng chiếu của tâm ý mình (tôi sợ là phải thực tập cả đời đó) để thoát ra được những lo sợ đang có, thì một “cú nhảy lộn nhào” của ý nghĩ hay một “bước nhảy lượng tử” của tri giác có thể khiến cho chúng ta trở thành đúng những gì mà chúng ta mơ ước. Và chúng ta có thể đi tiếp trên con đường xây dựng một thế giới có tình thương và bình an hơn.

Sáng tạo có thể giúp cho người trẻ thể hiện chính mình một cách trực tiếp, giãi bày được những gì họ ôm ấp trong trái tim hay những trải nghiệm của họ về thế giới. Sư cô Hài Nghiêm, người đã hướng dẫn nhiều khóa tu cho các em thiếu niên, chia sẻ về những phương cách sáng tạo mà các em thiếu niên sử dụng, như là những bài hát và kịch, để tiếp thu những lời giảng dạy một cách trực tiếp, mà không dùng đầu óc như người lớn thường làm. Theo sư cô thì cho các em sáng tác một bài nhạc rap nói về đề tài “sự rối ren, hỗn tạp trên thế giới” mang lại kết quả hay hơn là bắt các em tìm hiểu về Năm phép thực tập chánh niệm. Trong quá trình sáng tác bài hát, các em đã làm hiển lộ những gì tốt đẹp nhất nơi những người trẻ.

Khóa tu năm ấy thật vui vì chúng tôi có một buổi chia sẻ về Năm phép thực tập chánh niệm mà không cần phải thuyết trình về nội dung của các phép thực tập. Chúng tôi cùng nhau sáng tác một bài nhạc rap về chủ đề này. Các em ngồi lại với nhau và chúng tôi viết lên bảng những tình trạng rối ren, hỗn tạp trên thế giới mà các em thấy cần phải sữa chữa, khắc phục. Rồi tôi hỏi, “các em có những giải pháp nào cho tình trạng này không?”. Trong quá trình thảo luận, các em đã nhận thấy sâu sắc về khổ đau của chính bản thân và khổ đau của thế giới. Kết quả thảo luận được chuyển tải thành một bài hát và các em đã trình diễn bài hát đó trong buổi “ngồi chơi bên nhau” vào cuối khóa tu.

Xem các em trình diễn, chúng tôi mới khám phá ra là các em đã tiếp thu được từ những bài pháp thoại nhiều như thế nào. Các em chọn một bài hát mình thích rồi thay đổi lời để trình bày những gì mình hiểu được từ các bài giảng. Hoặc các em làm một vở kịch trong đó thể hiện (theo cách hơi cường điệu một chút) những con đường tối tăm và những gì mà ta phải trải qua nếu không thực tập theo Năm phép thực tập chánh niệm. Tôi quá ngạc nhiên khi thấy các em thật sự đã tiếp nhận được ý nghĩa của những thực tập này. Các em trình bày Năm phép thực tập chánh niệm bằng một phương pháp khác hẳn với cách chia sẻ của người lớn. Người lớn chỉ ngồi thành vòng tròn rồi chia sẻ ý nghĩ và cảm xúc với nhau. Các em thiếu niên thật thông minh và dí dỏm. Cách các em chia sẻ những gì mình học hỏi được cũng tác động lên người lớn rất nhiều.

Mỹ thuật

Cô Bea chia sẻ với chúng tôi, Mỹ thuật có thể giúp chúng ta dễ dàng kết nối trực tiếp với cảm xúc của mình. Diễn tả một cảm xúc khó khăn (như buồn đau, tuyệt vọng…) qua nghệ thuật giúp chúng ta ôm ấp cảm xúc đó một cách an toàn để có thể được lắng dịu và trị liệu. Cô Barbara Calgaro, một nhà giáo dục ở Ý, đã trải nghiệm được điều này trong lớp học của cô.

Chúng tôi cùng nhau làm một cầu vồng ba chiều. Mỗi em dùng tay nhúng màu, vẽ một vạch của cầu vồng rồi dán lên giấy bìa cứng. Sau đó, chúng tôi chia sẻ với nhau về mỗi màu gắn với một cảm xúc như thế nào và mỗi cảm xúc đó quan trọng như thế nào. Chúng tôi cùng bàn luận và thấy rằng tất cả các màu sắc cần phải hợp lại với nhau để làm nên sắc màu rực rỡ của cầu vồng, và những cảm xúc trong mỗi chúng ta cũng cần phải tới với nhau như vậy.

Chúng tôi đặt cầu vồng ở một góc của lớp học. Cái góc đó trở thành nơi mà chúng tôi có thể đến để nhận diện và ôm ấp cảm xúc của mình, hoặc chỉ giản dị là để có một ít không gian cho riêng mình. Khi có xung đột với nhau thì các em biết đi tới cái góc đó để ôm ấp cảm xúc đang trào lên, hay để gặp người mà các em đang có xung đột, cho dù người đó là một em nhỏ hay là một người lớn, để nói cho người đó biết về những cảm xúc mạnh đang biểu hiện trong lòng mình.

Elli Weisbaum, một người hướng dẫn chánh niệm tại Canada, đã sử dụng những buổi sinh hoạt nghệ thuật để giúp học sinh thường xuyên chia sẻ trạng thái cảm xúc bên trong, hay còn gọi là “thời tiết”.

Sinh hoạt nghệ thuật và “kiểm tra thời tiết”

Theo truyền thống Làng Mai, để mở đầu buổi chia sẻ (hay còn gọi là pháp đàm), đôi khi chúng tôi chia sẻ một vòng, mỗi người đều nói lên cảm xúc của mình trong giây phút đó bằng một hình ảnh về thời tiết. Có thể lúc đó thời tiết bên trong của mình là nắng nhưng có khả năng sẽ có mưa, hay có sấm sét. Khi chia sẻ với lớp học, tôi thường giới thiệu sinh hoạt này như một sinh hoạt nghệ thuật. Tôi thấy nó có tác dụng thật sự với các em học sinh tiểu học và trung học, cũng như với các sinh viên đại học và người lớn. Đầu tiên chúng tôi họp lại với nhau và tôi giải thích điều căn bản của sinh hoạt này là diễn tả những cảm xúc trong tâm mình như “thời tiết” vậy. Đối với các học sinh nhỏ tuổi, tôi thường cùng các em xem lại có những kiểu thời tiết khác nhau như thế nào và mỗi kiểu thời tiết có thể tượng trưng cho loại cảm xúc nào. Rồi tôi mời các em trở về bàn của mình. Chúng tôi cùng nghe một tiếng chuông, dừng lại một chút để nhìn lại chính mình, xem mình đang có cảm giác gì? Rồi mỗi người vẽ lại thời tiết của mình ngày hôm đó. Sau khi mọi người vẽ xong, nếu có thì giờ, tôi sẽ mời các em chia sẻ về thời tiết bên trong mình. Những chia sẻ này giúp tạo nên không khí gắn kết, hiểu và thương nhau sâu hơn trong lớp học, tại vì cả học sinh và thầy cô giáo đều ý thức hơn về những cảm xúc khác nhau đang có mặt trong cùng một không gian. Nhiều thầy cô giáo còn làm một cuốn sổ nhật ký “kiểm tra thời tiết” với học sinh của họ mỗi ngày. Sinh hoạt này giúp các em học sinh ý thức được những kiểu thời tiết đang diễn ra bên trong mình. Và nếu được sự đồng ý của các em thì các thầy cô cũng được biết những cảm xúc gì đang biểu hiện trong các em học sinh của mình.

Theo cô Elli thì sinh hoạt này có ý nghĩa vô cùng quý giá. Nó đã từng giúp cho một học sinh nói ra được những cảm xúc khó khăn trong lòng mà trước đó các thầy cô giáo của em đã không nhận ra được.

Trong lớp Ba mà tôi từng giảng dạy, có một em học sinh lúc nào cũng tươi cười, nhưng lại nói ra những lời khắc nghiệt với các em học sinh khác và gây ra sự xao lãng trong giờ học. Cô giáo bắt đầu cảm thấy khó chịu vì cách cư xử bất thường này của em. Trong tuần lễ đó, cô giáo mời các em học sinh trong lớp cùng làm một cuốn sổ “kiểm tra thời tiết” cho chính mình. Cô xin phép được đọc cuốn sổ của em học sinh đang có khó khăn và em đồng ý. Cô giáo rất ngạc nhiên khi thấy trong suốt một tuần lễ qua, ngày nào em cũng chỉ vẽ sấm sét trong. Khi được hỏi vì sao em vẽ sấm sét nhiều như vậy thì em nói là em rất buồn vì ba em đang đi công tác xa. Bây giờ cô giáo mới hiểu được những gì em học sinh đã trải qua và rất thương em. Nếu không có sổ nhật ký “kiểm tra thời tiết” thì cô giáo không thể nào biết được những gì đang xảy ra trong lòng học sinh của mình, vì bề ngoài em vẫn luôn tỏ ra vui tươi như ánh mặt trời.

Truyện kể và thi ca

Một câu chuyện hay một bài thơ, nếu được kể hay được đọc một cách khéo léo, sẽ có khả năng chuyển tải được cốt tủy của sự thực tập một cách trực tiếp và sống động. Gai Silver là tác giả của một cuốn sách có tựa là Cơn giận của Anh (Anh’s Anger). Đây là một cuốn sách bằng tranh dạy cho trẻ em cách ôm ấp cơn giận bằng chánh niệm. Cuốn sách này rất được ưa thích trong các lớp tiểu học. Bà Adriana người Ý, một người có kinh nghiệm hướng dẫn các khóa tu chánh niệm, đã đọc cuốn sách này cho cháu trai của bà. Sau đó cậu bé đã xin bà đọc lại cho cả lớp của cậu cùng nghe.

Trong phần Phụ lục D, chúng tôi có cung cấp danh sách những sách truyện dành cho trẻ em và người trẻ theo pháp môn Làng Mai, cùng với phần tóm tắt nội dung của sách.

Vài năm trước, tôi đã đọc cho cháu Ariele nghe câu chuyện Cơn giận của Anh, nói về phương pháp chuyển hóa cơn giận. Khi đó cháu mới năm tuổi rưỡi. Ariele đã ấn tượng với câu chuyện đến nỗi vài ngày sau đó, khi chúng tôi đang ngồi quanh lò sưởi trong một buổi tiệc gia đình được tổ chức tại nhà thì có hai em bé trai xung đột với nhau dữ dội. Ariele đến nói nhỏ vào tai tôi: “Mình có nên đọc cuốn sách đó cho hai em nghe không bà?”. Tôi làm theo và phép lạ của sự hòa giải xảy ra gần như ngay lập tức. Thực ra, hai cháu nhỏ đó còn muốn tôi đọc lại cho chúng nghe một lần nữa. Ngày hôm sau, Ariele năn nỉ tôi tới trường của cháu, trường dành cho trẻ em từ bốn đến sáu tuổi, và đọc cho cả lớp của cháu cùng nghe. Chúng tôi phải chờ một tuần để được sự cho phép của hiệu trưởng. Cuối cùng, tôi tới trường vào một buổi chiều và chia sẻ câu chuyện làm thế nào để chuyển hóa cơn giận trong một vòng tròn gồm 25 trẻ em và cô giáo. Tôi giới thiệu cho các cháu cách sử dụng cái chuông nhỏ, chúng tôi cùng thở và hát những bài thiền ca. Sự có mặt của các cháu thật ấn tượng làm sao! Các cháu tham gia và hưởng ứng rất vui vẻ!

Trong một khóa tập huấn dành cho giáo viên, Richard đã sáng tạo ra một phương pháp giúp các giáo viên cùng nhau khám phá một bài thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Anh sử dụng phương pháp chánh niệm trong truyền thông, mạnh dạn ghép những người nghĩ là mình hiểu được bài thơ với những người không hiểu bài thơ thành những cặp đôi để chia sẻ với nhau.

Lấy cảm hứng từ Parker Palmer, tôi thích sử dụng thi ca để giảng về sự thực tập quán chiếu (hay nhìn sâu). Ban đầu tôi có ý định dùng bài thơ Hãy gọi đúng tên tôi của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Sau đó tôi nhận thấy là ý tưởng này hơi gặp khó khăn một chút, vì sự thực tập chánh niệm và giáo lý tương tức còn khá mới mẻ với nhiều giáo viên tham dự khóa tập huấn. Vì vậy, hôm đó tôi quyết định thay đổi cách thức một chút. Sau khi các giáo viên đọc qua bài thơ và ngồi yên ba phút để suy ngẫm, tôi mời họ đứng dậy và yên lặng xếp thành một hàng ngang trong phòng. Những người hiểu một chút hay hoàn toàn không hiểu về bài thơ thì đứng ở một đầu, còn ở đầu kia là những người nghĩ rằng mình thật sự hiểu bài thơ. Rồi tôi đề nghị các giáo viên kết thành từng cặp theo thứ tự như sau: người đứng ở đầu này kết hợp với người ở đầu kia thành một cặp, sau đó đến người kế tiếp ở hai đầu và cứ tiếp tục như thế. Sau khi mỗi người đều tìm được đối tác của mình và hai bên ngồi đối diện nhau, tôi mời người chưa hiểu ý nghĩa của bài thơ chia sẻ trước. Tôi có cảm tưởng là mọi việc đều diễn ra rất suôn sẻ. Sau đó, một người đã rất quen thuộc với bài thơ này chia sẻ với tôi là qua phương pháp này, anh đã học được cách lắng nghe một người không có cái nhìn, cái hiểu giống mình.

Âm nhạc và ca khúc

Nếu tham dự một khóa tu tại Làng Mai, bạn sẽ có cơ hội tiếp xúc với âm nhạc và những bài thiền ca với nhiều chủ đề về hạnh phúc, tình thương, sự quán chiếu và bình an. Những bài thiền ca của Làng Mai vô cùng dồi dào, phong phú và được rất nhiều giáo viên yêu thích. Các giáo viên sử dụng những bài thiền ca đó để làm nguồn cảm hứng cho đời sống của mình và chia sẻ với các em học sinh.

Trong Chương 7 của tập 1 Cẩm nang hạnh phúc, nói về “Những cảm xúc”, chúng ta đã khám phá sức mạnh của những bài thiền ca này trong việc chuyển hóa cảm xúc như thế nào.

Trong buổi vấn đáp của một khóa tu tổ chức tại Anh vào năm 2012, Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ về sức hấp dẫn, khả năng tác động trực tiếp của âm nhạc và ca khúc. Với âm nhạc và ca khúc, ta không cần phải giảng giải dài dòng về chánh niệm. Thay vào đó, âm nhạc và ca khúc giúp cho ta trải nghiệm được sự bình an một cách trực tiếp, sống động, mang lại sự hòa điệu trong thân tâm ta.

Khi dạy chánh niệm cho học sinh, chúng ta không cần phải dạy cho các em tất cả những gì được ghi trong sách, mà chỉ cần bắt đầu với một số điều mà các em có thể hiểu được. Để có thể hiểu được chính mình, chúng ta phải trở về quán sát hình hài, cảm xúc, tri giác, tâm hành (những hiện tượng tâm lý) và nhận thức để hiểu được phương thức vận hành của chúng. Có như vậy chúng ta mới có thể giúp cho năm yếu tố này (còn được gọi là năm uẩn) hoạt động hiệu quả và cùng làm việc với nhau một cách hài hòa. Ví dụ như khi thực tập thở trong chánh niệm, chúng ta có thể sử dụng âm nhạc và ca khúc để thực tập. Khi ta hát thầm một bài hát và đồng thời theo dõi hơi thở vào-ra trong khi hát thì lúc đó ta đang đem năm uẩn về với nhau và tạo nên sự hài hòa trong năm uẩn. Năm uẩn không còn chống đối, xung khắc với nhau nữa. Âm nhạc mà ta sử dụng có tác dụng kết hợp các uẩn lại với nhau. Trong ta có bình an và hài hòa khi thở vào, thở ra. Ta cũng có thể áp dụng tương tự như vậy khi ta thực tập thiền đi[7].

Cô Nguyễn Như Mai, người có kinh nghiệm tổ chức các khóa tu chánh niệm, chia sẻ ý nghĩa và giá trị của một bài thiền ca là nhắc nhở chúng ta về những yếu tố cốt tủy của sự thực tập, nâng cao tinh thần, tạo ra hay làm thay đổi một tâm trạng, gợi sự suy ngẫm và đem con người lại gần với nhau.

Ca khúc là một phương tiện giáo dục hữu hiệu, chủ yếu là vì ca khúc yểm trợ cho trí nhớ, ảnh hưởng lên tâm trạng và giúp mang lại một sự chú tâm tập thể cho một nhóm người. Ví dụ như bài hát Thở vào thở ra, về căn bản chính là sự thực tập Thiền sỏi, được chuyển thành ca khúc. Nhiều người cho biết là sau khóa tu năm ngày, họ không còn nhớ những gì đã nghe trong những buổi pháp thoại nhưng họ vẫn còn nhớ một hay hai bài hát mà họ đã học được.

Ta có thể sử dụng ca khúc để nâng đỡ, khích lệ tinh thần hay để làm lắng dịu những cảm xúc. Tôi yêu bông hồng (I like the roses) là một bài hát phổ biến ở Làng Mai, bài hát này thường làm cho tinh thần vui tươi lên. Thở vào thở ra cũng là một bài hát dùng để làm lắng dịu những cảm xúc mạnh rất hữu hiệu. Một số bạn trẻ cho biết là họ đã hát bài hát này mỗi khi cảm thấy ưu tư và tuyệt vọng. Bài hát là một cái phao cứu cấp giúp cho họ vượt qua được những lúc khó khăn.

Thông thường ở Làng Mai, trước khi bắt đầu một sinh hoạt nào đó, mọi người cùng hát với nhau một bài hát để tạo ra sự tập trung tập thể. Bài hát cũng có thể được sử dụng để kết thúc buổi sinh hoạt. Người hướng dẫn cần nhớ rằng, mục đích khi hát thiền ca không phải là hát cho hay, mà hát như thế nào để tiếp xúc được với ý nghĩa của từng chữ trong bài hát.

Cô Elia Ferrer Garcia là một cô giáo dạy tiểu học ở một vùng nghèo khó nằm ở ngoại ô Barcelona. Học sinh và gia đình của các em ở vùng này luôn phải đối đầu với nạn thất nghiệp và những khó khăn do thất nghiệp gây ra. Giống như nhiều giáo viên khác, cô Elia Ferrer Garcia thường xuyên đưa những bài thiền ca vào trong lớp học. Cô nhận thấy những bài thiền ca có thể tạo ra sự hài hòa trong lớp học, đồng thời mang lại một ngày “êm dịu và tĩnh lặng hơn” cho cả giáo viên và học sinh.

Thật là đẹp và nuôi dưỡng mỗi khi các em học sinh đến trường và bắt đầu buổi học bằng bài hát Dear friends (Các bạn thân yêu ơi). Chúng tôi đứng thành vòng tròn và hát, ý thức rằng mỗi người cũng như tất cả mọi người trong vòng tròn này đều rất quan trọng. Chúng tôi cùng chung một đội, một nhóm. Trong giây phút đó chúng tôi là một, không còn sự phân biệt nào cả. Chúng tôi cảm nhận được sự gắn bó với nhau nhờ những cảm xúc và khả năng thật sự có mặt. Một ngày ở trường dường như trở nên êm dịu, tĩnh lặng hơn, và tình đồng nghiệp giữa các giáo viên cũng trở nên tốt đẹp hơn.

Những người trẻ thường thích sáng tác các ca khúc. Joe Reilly, một nhạc sĩ đồng thời cũng là một nhà giáo dục về môi trường, đã kể rất chi tiết về kinh nghiệm của anh khi cùng viết nhạc với trẻ em trong một bài viết đăng trên tạp chí Mindfulness Bell.

Khi cùng các em sáng tác nhạc, tôi biết rằng đây cũng là một cách thức để chia sẻ sự thực tập chánh niệm với các em. Trong cuộc đời tôi, những hình thức nghệ thuật này tương tức với nhau. Tôi nhận thấy trong khi tưới tẩm hạt giống của chánh niệm, của hy vọng và của sự sáng tạo trong tôi thì đồng thời tôi cũng giúp tưới tẩm những hạt giống đó trong các em[8].

Ca khúc, gắn liền với hơi thở, có thể thấm vào những vùng của thân tâm mà những cách tiếp cận bằng trí năng không thể nào tới được. Nó có thể làm thay đổi tâm trạng của chúng ta một cách trực tiếp và thường là nhanh chóng. Cô Tineke Spruytenburg, một giáo viên về chuyên ngành giáo dục đặc biệt, đã giúp cho một em học sinh lo sợ trước khi bơi lấy lại bình tĩnh bằng bài hát quen thuộc Thở vào, thở ra của Làng Mai.

Cách đây vài năm, có một em học sinh lớp Ba cực kỳ hiếu động và dễ bị mất tập trung. Đời sống của em không hề dễ dàng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn và em không có hứng thú để học hành. Em thiếu tự tin và vì vậy mà em không có động lực trong chuyện học hành. Thế nhưng trong giờ học bơi em lại muốn khoe với các bạn khả năng của mình, ít ra trong lĩnh vực này em cũng là một trong những học sinh xuất sắc nhất.

Một hôm, tôi dạy cho các em bài hát Thở vào, thở ra. Các em rất thích bài hát này, và em học sinh kia đặc biệt cảm thấy có một sự lắng dịu trong khi hát. Chúng tôi vừa hát vừa làm những động tác. Tôi cũng giải thích cho các em làm thế nào mà hơi thở êm dịu và có ý thức có thể giúp cho mình lắng dịu lại trong “cơn bão tố”. Vài tuần sau đó, lớp của chúng tôi có giờ học bơi. Tôi đang quan sát các em bơi và nói chuyện với thầy giáo dạy bơi thì em học sinh kia chạy tới. Em rất lo sợ, tim em đập nhanh đến nỗi tôi nhìn thấy nó phập phồng lên xuống trong ngực của em. Em nói lắp bắp: “Cô giáo ơi, cô làm ơn hát cho em nghe bài hát về thở đi cô, nếu không thì em không thể nào bơi tiếp được nữa”. Tôi quỳ xuống nhẹ nhàng hát cho em nghe. Gương mặt của em sáng lên và em tiếp tục “công việc” của mình với một nụ cười rạng rỡ.

Trong phần Phụ lục D, quý vị có thể tìm thấy một số trang mạng có đăng những bài hát thiền ca Làng Mai dưới dạng video.

Giáo dục thể chất

Hiện nay chánh niệm gần như đã trở nên rất thông dụng trong lĩnh vực thể dục thể thao, thường với mục đích giúp cho vận động viên thể hiện được khả năng của mình, buông bỏ đi những suy nghĩ, ưu tư, đồng thời giúp cho họ thật sự có mặt và tập trung toàn bộ tâm ý trong giây phút đó, trạng thái này có khi được gọi là “trạng thái trôi chảy” (flow).

Julian Goetz, một nhà giáo dục người Mỹ, diễn tả tầm quan trọng của “những khoảnh khắc tĩnh lặng” khi dạy cho các học viên về khả năng cứu mạng của các kỹ năng vận động – xúc cảm (sensory-motor skills) trong khi đi xe đạp, dựa vào tính chất linh động của chánh niệm.

Trong ba năm làm huấn luyện viên lái xe đạp tại thành phố New York, tôi đã đưa sự thực tập chánh niệm vào các bài giảng của mình. Đem sự thực tập chánh niệm vào các lớp học về giáo dục thể chất rất có ích lợi, tại vì các học viên đã được yêu cầu phải chú ý tới thân thể của mình.

Đi xe đạp có rất nhiều rủi ro. Trong khi đi xe đạp trên đường phố Manhattan, Brooklyn hay bất cứ ở đâu mà sự mất tập sẽ khiến cho các em gặp rủi ro hay trở ngại. Các em chỉ hiểu được khi tôi làm cho các em chứng nghiệm được điều này. Tôi thường giới thiệu về sự thực tập chánh niệm khi giải thích về hệ thống thắng của xe đạp. Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng siết thắng tay bên trái luôn luôn nguy hiểm, hoặc là chỉ siết mỗi thắng tay bên phải thôi là cách hay nhất. Cả hai trường hợp đều không đúng. Điều này, ta có thể giải thích dễ dàng. Nhưng để một người có thể siết cả hai bên thắng tay một cách nhẹ nhàng, trong lúc họ bị khủng hoảng nhất (chưa nói đến trẻ em và thiếu niên) là một vấn đề khác. Trong trường hợp này thì chánh niệm cực kỳ hữu ích.

Tôi đề nghị các em để hai tay lên trên hai thắng, từ từ siết lại trong khi nhẹ nhàng đạp tới, đạp lui. Tôi khuyên các em nên nhắm mắt lại một phút, trải nghiệm cảm giác được ngồi trên xe đạp, bình an, tập trung và yên lắng là như thế nào. Tôi nói các em thở vài hơi, cảm nhận được hơi thở đang đi vào và tác động lên cơ thể mình. Đôi khi tôi đề nghị các em chú ý cảm nhận sự kết hợp giữa hơi thở với những chuyển động của các bắp thịt. Sau đó các em phải khắc ghi những trải nghiệm này – sự tĩnh lặng, hơi thở, cảm giác khi siết hai thắng tay một cách nhẹ nhàng – vào trong bộ nhớ của mình để có thể sử dụng nó khi gặp những trường hợp rủi ro. Lúc nào cũng có thể có sự cố xảy ra trong khi đi xe đạp. Để có thể sẵn sàng cho những giây phút đó, ta cần sử dụng những giây phút tĩnh lặng để ôm lấy những giây phút rủi ro khi nó xảy đến.

Đó là cách tôi dạy cho các học viên của mình. Trước khi đạp xe ra ngoài hay đi vào những đoạn đường có nhiều chỗ giao nhau khá nguy hiểm, tôi bảo các em dừng lại và lặp lại bài thực tập một lần nữa. Những lúc dừng lại có chánh niệm như vậy làm cho bài học càng thấm hơn. Tôi tin rằng đó là những chìa khóa để giảng dạy chánh niệm cho người trẻ, đặc biệt là trong môi trường thể thao.

Khoa học

Chánh niệm có thể giúp cho ta có cái nhìn sâu hơn, vượt qua hình tướng bên ngoài và tiếp xúc được với những liên hệ hỗ tương (interconnections) cũng như sự thật nằm sâu bên trong mà không bị kẹt vào những ấn tượng do các giác quan gây ra hay bị kẹt vào những thành kiến và những thói quen suy tư sẵn có trong ta. Quá trình nhìn sâu này giúp mang lại sự khách quan, sáng suốt và định tĩnh – những yếu tố mà chúng ta hy vọng các sinh viên sẽ có được khi học hỏi về khoa học cũng như các phương pháp và quy trình của nó.

Trong những khóa tu dành cho gia đình, Thiền sư Thích Nhất Hạnh giúp cho trẻ em nhìn sâu vào bản chất của thực tại bằng cách sử dụng những đối tượng cụ thể trong thế giới hiện tượng – như bông hoa, ngọn lửa, nước, biển, mưa và mây. Những đối tượng này luôn thay đổi, vì vậy mà có lúc ta cảm tưởng là chúng biến mất, không còn tồn tại nữa, nhưng thật ra chúng chỉ chuyển hóa và biểu hiện dưới một hình tướng khác mà thôi. Một ví dụ điển hình về phương pháp giảng dạy cho trẻ em của Thiền sư Thích Nhất Hạnh được nhiều người biết đến, đó là bài giảng về hạt bắp. Thiền sư cho mỗi em nhỏ một hạt bắp và dặn các em về nhà gieo hạt bắp đó xuống đất, coi đó như là một bài tập về nhà. Để chuẩn bị cho các em, Thầy mời các em nhìn sâu vào một cây bắp, quan sát xem cái gì đã xảy ra với hạt bắp.

Hạt bắp không hề chết mà nó trở thành cây bắp. Nó không còn hình tướng của một hạt bắp nữa, nhưng nó vẫn còn đó. Nếu nhìn sâu vào cây bắp, các con sẽ thấy hạt bắp có mặt khắp nơi trong cây bắp. Lúc đầu hạt bắp nhỏ và có màu vàng, nhưng bây giờ nó lớn lên và có màu xanh. Nếu thông minh thì khi nhìn vào cây bắp, các con sẽ thấy được hạt bắp trong đó. Các con có thể nói: “Chào em, hạt bắp nhỏ của tôi. Tôi biết là em không chết và tôi có thể thấy được em trong cây bắp.”[9]

Cô Marianne Claveau, giảng viên đại học và cũng là người giảng dạy về chánh niệm, đã sử dụng những bài giảng về sinh vật học để giúp các sinh viên trẻ khám phá lĩnh vực hấp dẫn này. Chỉ với một ly nước, cô giúp các em nhìn sâu và trải nghiệm trực tiếp bản chất phức tạp và biến đổi không ngừng của thế giới hiện tượng, cũng như mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa con người với vạn vật.

Tôi thường giảng dạy về sinh vật học và sự phát triển bền vững. Với sự thực tập chánh niệm, tôi giúp cho các em sinh viên hiểu sâu hơn về tính phức tạp và phụ thuộc lẫn nhau của thực tại, cũng như xây dựng một cách nhìn có hệ thống về từng tình huống khác nhau.

Tôi bắt đầu chia sẻ bằng cách uống một ly nước, sau đó tôi làm như thế này: “Bây giờ mời các em nhìn kỹ vào ly nước này. Các em có biết ai đã làm ra cái ly này không? Ai đã nảy ra ý tưởng dùng cát và lửa để làm ra thủy tinh? Ai là người đầu tiên nghĩ ra những vật dụng đựng nước? Nhìn vào cái ly này, các em có thấy được kỹ năng, sự khéo léo, kiến thức và trí thông minh của toàn thể nhân loại không? Các em có thể nhìn vào cái ly và tiếp xúc được với tất cả những người mà trong quá khứ đã nghĩ và làm ra cái ly cho ta sử dụng bây giờ không? Chúng ta có thể nghĩ mình là những cá thể độc lập, nhưng chỉ cầm một một cái ly trong tay thì ta có thể kết nối với rất nhiều người, phải vậy không? Và bây giờ chúng ta hãy nhìn vào nước trong ly. Nó đã ở đâu hôm qua, tháng rồi, năm ngoái? Nó đã ở đâu một trăm triệu năm về trước? Nó có thể đã là một đám mây, là đại dương, là con chim, là con khủng long? Và trong vài giờ đồng hồ nữa nó sẽ đi về đâu? Các em có thể tưởng tượng ra được cuộc hành trình của mỗi giọt nước trước khi chúng tập hợp lại trong cái ly này để trở thành một phần của cơ thể mình không? 75% cơ thể của ta được làm bằng nước. Khi tiếp xúc với nước trong từng tế bào của cơ thể, liệu các em đặt câu hỏi là hình hài này là gì, cái hình tướng mà ta thường gọi là “tôi” đó là gì, và cái tôi đó được làm bằng những yếu tố nào không?”

Sau đó tôi mời các em uống ly nước trong chánh niệm, ý thức về những cảm giác của mình, tiếp xúc với sự mát lành của nước, thưởng thức nó như lần đầu tiên được uống nước. Tôi mời các em uống nước với ý thức nó đã từng là một đám mây.

Tôi luôn ngạc nhiên nhận thấy sự thực tập này đã tác động lên các em học sinh nhiều như thế nào. Phần đông các em bỗng hiểu ra mình là một phần của tất cả – đây không phải là một ý niệm mà là một cảm nhận trực tiếp, bằng cả cơ thể mình.

Khoa học về Trái đất cho ta cơ hội khám phá được tính chất phụ thuộc lẫn nhau của vạn vật. Bobbie Cleave và Gordon“Boz” Bosworth, hai nhà giáo dục về môi trường mà chúng ta được biết đến trong những phần trước, đã dựa trên sự thực tập thiền ăn và Năm phép thực tập chánh niệm để giúp cho học sinh của mình xem xét khái niệm về tiêu thụ có chánh niệm trong một phạm vi rộng hơn liên quan đến việc sử dụng năng lượng bền vững và làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Trong lời quán nguyện hàng ngày trước khi ăn tại các trung tâm thiền tập có nhắc đến tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu. Chúng tôi thấy cần giúp cho thiếu niên và trẻ em học cách ăn trong im lặng và để ý tới thức ăn của mình, đây là bước đầu tiên. Với những trái nho, chúng tôi đã bắt đầu chia sẻ sự thực tập này với trẻ em ở các trường công lập và tư thục. Chúng tôi mời các em nhìn vào trái nho hay nhìn vào đĩa thức ăn của mình và tìm ra tất cả những nguyên nhân, điều kiện cần có để trái nho hay đĩa thức ăn đó có thể đến với chúng ta, những người tiêu dùng, như là: xe vận tải, con người, nhà máy, nông trại, đất, mặt trời, mưa, giun đất, v.v… Sự thực tập này có thể dễ dàng khiến cho các em đi tới một cuộc thảo luận về vấn đề: loại thực phẩm nào có thể được trồng mà ít gây tàn hại nhất cho trái đất. Thông qua đó, không cần đi sâu vào nhiều dữ kiện, các em cũng nhận ra rằng ngành công nghiệp sản xuất thịt không những là nhân tố tác động rất lớn vào quá trình hâm nóng toàn cầu (nhiều hơn là khí thải xe hơi) mà còn liên quan đến rất nhiều bạo động và khổ đau. Vì vậy, điều quan trọng là cần tạo nên sự thức tỉnh nơi các em.

Chúng tôi còn đưa các em tới Lộc Uyển và chỉ cho các em xem những tấm năng lượng mặt trời. Sau đó các em cùng thảo luận về năng lượng mặt trời, những nguyên nhân gây ô nhiễm, kể cả sự ô nhiễm do tiếng ồn gây ra, và sự thực tập của các em trong đời sống hàng ngày để bảo vệ môi trường. Đối với trẻ em thì ta cần giúp các em thấy được mối liên hệ giữa môi trường với đời sống cá nhân của các em bằng cách đặt câu hỏi: những gì chúng ta ảnh hưởng tới hành tinh cũng như tất cả mọi người và mọi loài sống trên đó như thế nào? Năm phép thực tập chánh niệm hướng dẫn chúng ta về điều đó: ăn như thế nào, trồng trọt như thế nào, vui chơi như thế nào, du lịch như thế nào… Tất cả những hoạt động này của chúng ta đều có ảnh hưởng sâu sắc tới hành tinh trái đất và tới chính chúng ta.

Giáo dục về quan hệ tình yêu và tình dục

Ở nhiều nước, trường học có nhiệm vụ giáo dục học sinh về quan hệ tình dục và tình yêu. Nhiều trường học cảm thấy trách nhiệm này rất khó khăn. Ở các nước công nghiệp phát triển, người trẻ thường cho rằng quan hệ tình dục thuộc về đời sống riêng tư của mỗi người. Họ tỏ ý nghi ngờ mỗi khi người lớn giảng đạo đức cho họ. Họ thích có cái thấy của riêng mình. Chánh niệm có thể giúp ta hiểu được những nhu yếu và mối ưu tư của người trẻ xung quanh vấn đề tình dục, giúp ta mở lòng lắng nghe với tình thương, với sự thấu cảm mà không phán xét, đồng thời ta cũng khuyến khích người trẻ cân nhắc cách nhìn nhận của mình xung quanh vấn đề tình dục, nên lắng nghe chính mình và lắng nghe những người khác cho thật kỹ, thật sâu.

Có thể chúng ta lo ngại là nếu cứ “để vậy” thì chúng ta sẽ không hướng dẫn được cho học sinh của mình phải làm thế nào để chăm sóc chính mình và những người xung quanh. Nhưng nếu ta có cái nhìn cởi mở và muốn khám phá thì sẽ không khó để nhận ra rằng bản thân những người trẻ cũng thường ý thức về trách niệm của mình đối với những người khác, và họ cũng ý thức được giá trị của tình yêu cùng sự cam kết trong một mối quan hệ tốt đẹp. Giáo sư Fiona Cheong, người phụ trách môn “viết sáng tạo” tại một trường Đại học ở Hoa Kỳ, đã lắng nghe rất kỹ các sinh viên của bà. Qua đó, bà nhận thấy rằng, một mặt họ luôn dành sự yêu thích cho những quan hệ lãng mạn, mặt khác vẫn cảm thấy rất rõ ràng rằng trong một mối quan hệ tốt đẹp cần có tình yêu chứ không phải chỉ có tình dục mà thôi.

Trách nhiệm đối với người mình thương yêu và ước muốn bảo vệ cho họ khỏi những lo lắng, sầu khổ tạo ra một loại năng lượng và năng lượng này luôn hiện diện, ngay cả trong lớp học. Thêm vào đó là những lo lắng, sợ hãi thường có, nhất là ở những người trẻ. Chẳng hạn như: liệu họ có nên hẹn hò với người kia vào cuối tuần tới hay không? Và nếu có thì buổi hẹn hò đó có tốt đẹp hay không? Người kia có thấy họ mập quá không? Họ có nói ra điều gì ngu ngốc hay không? Người kia có ý muốn về tình dục hay không? Điều quan trọng hơn là, liệu họ có gặp được người (không kể những thành viên trong gia đình) mà họ có thể yêu thương sâu sắc hay không? Và người kia có đáp lại tình yêu của họ hay không?

Norma Ines, đến từ Mexico, là người làm việc với các em thiếu niên để giúp cho các em nâng cao ý thức về sức khỏe và liên hệ tình dục. Cô đã sử dụng một loạt những phương pháp sáng tạo để giúp các em trân quý bản thân cũng như cơ thể mình.

Tôi đang làm công việc hỗ trợ các em thiếu niên từ 10 đến 19 tuổi trong các trường tiểu học và trung học. Nội dung cụ thể là tăng cường kỹ năng sống, ngăn ngừa tình trạng mang thai ở tuổi thanh thiếu niên, chăm sóc sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản. Tôi sử dụng sự thực tập chánh niệm và nghệ thuật để giúp các em nói lên được tiếng nói và ước muốn sâu sắc của mình.

Tôi mời các em nhìn sâu và khám phá sự thiêng liêng của cơ thể mình, đồng thời học cách chăm sóc thân và tâm mình. Chúng tôi phát động một chiến dịch giáo dục để kêu gọi mọi người cùng suy ngẫm về tình trạng mang thai ngoài ý muốn. Chúng tôi yểm trợ cho những dự án nghệ thuật của các thiếu niên (cả nam và nữ).

Thông qua phương tiện kịch nghệ, truyền thanh và video, các em thiếu niên có cơ hội khám phá những phương pháp chăm sóc cơ thể và năng lượng tình dục trong mình. Mục đích của toàn bộ quá trình này là giúp các em biết phải làm thế nào để có những quyết định đúng đắn, sống một đời sống có trách nhiệm và hạnh phúc hơn.

Giáo dục về truyền thông đại chúng

Cô Chau Li Huay hiện đang làm việc trong lĩnh vực giáo dục truyền thông đại chúng tại Singapore. Cô Chau đã sử dụng Phép thực tập chánh niệm thứ năm để giúp cho các em học sinh trung học có ý thức hơn trong sự chọn lựa tiêu thụ những phương tiện truyền thông. Cô Chau giúp các em thấy rõ cảm xúc hồi hộp, ly kỳ và những hình ảnh bạo động được coi như lẽ đương nhiên trong phim ảnh tác động như thế nào đến tâm trạng và nhận thức của chúng ta.

Đề tài mà tôi giảng dạy là giáo dục về truyền thông đại chúng, mà thực tế là giúp học sinh ý thức về những thông điệp từ các phương tiện truyền thông. Một chủ đề phổ biến trong các video và phim ảnh là bạo động, một yếu tố gây sự kích động lớn. Các học sinh thường cười to và bị kích động khi thấy các nhân vật trong phim bị văng xuống đồi và chết một cách thê thảm hoặc có một cái chết thật buồn cười như là bị va đầu vào tường. Hầu hết các em học sinh đều cảm thấy hài lòng khi thấy các nhân vật bị giết chết. Trong giờ học, ngoài việc đề nghị các em học sinh tìm ra thông điệp và ý nghĩa của phim (ví dụ như trong một phim trinh thám, khi tất cả mọi người đều chết trừ người anh hùng – nhân vật chính), tôi còn đề nghị các em cùng suy ngẫm xem liệu sự giết chóc đó có thật sự cần thiết hay không. Có đúng không khi ta vì lòng tham, sự ganh tị mà sát hại, hay vì tìm kiếm quyền lực, lòng trung thành, sự tự hào dân tộc hay vì lý tưởng – như cứu giúp thế giới chẳng hạn – để biện minh cho hành động giết hại đó? Có thể đạt được những điều họ mong muốn mà không cần giết hại hay không? Giết hại có thể chấm dứt được sự việc hay biến cố đó hay không?

Liên hệ tới phép thực tập chánh niệm thứ năm, tôi đã chỉ ra cho các em thấy rằng chỉ riêng hành động tiếp xúc với phương tiện truyền thông đã là một sự tiêu thụ rồi. Nếu thật sự có chánh niệm trong khi tiếp xúc với những phương tiện truyền thông và nhận ra rằng những phương tiện truyền thông đang đưa ra những thông điệp không lành mạnh thì các em sẽ biết là nên tiêu thụ nó hay không.

Cô Chau cũng sử dụng việc giáo dục về phương tiện truyền thông như một phương tiện để tìm ra những điều kiện để có được hạnh phúc. Cô Chau khuyến khích các em tận dụng lối tư duy phức tạp và đầy hoài nghi của lứa tuổi thiếu niên để tự các em có thể thấy được nhà quảng cáo đã lợi dụng ý niệm về hạnh phúc như thế nào để bán sản phẩm của họ.

Phép thực tập chánh niệm thứ hai dạy chúng ta là hạnh phúc không phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài. Nhưng thật khó để nói điều đó với những người trẻ. Những gì mà tôi cố gắng làm (để kết nối với nội dung của phép thực tập chánh niệm thứ hai) là dạy các em nhận ra những thông điệp của các phương tiện truyền thông và suy ngẫm xem: có phải là mình chỉ thật sự hạnh phúc khi mua sản phẩm hay dịch vụ đặc biệt đó, theo như phương tiện truyền thông nói, hay không? Hay đó chỉ là một thông điệp sai lầm? Liệu các nhà quảng cáo có đang dùng hạnh phúc như một miếng mồi nhử, tại vì theo các phương tiện truyền thông thì hạnh phúc đồng nghĩa với tuổi trẻ, trang phục lộng lẫy, xe hơi hào nhoáng và sự nổi tiếng? Cái mà chúng ta gọi là hạnh phúc, thực sự nó là gì? Nếu thật sự có chánh niệm trong khi tiếp nhận những thông điệp từ các phương tiện truyền thông, và nhận ra đó là những thông điệp không lành mạnh thì các em sẽ biết nên hay không nên tiêu thụ những sản phẩm đó.

Chúng ta không cần phải lấy những ví dụ trong hiện tại mà thôi. Yvonne Mazurek, một giáo viên tại Ý, đã sử dụng những hình ảnh trong lịch sử nghệ thuật để giúp các sinh viên suy xét kỹ lưỡng hơn những hình ảnh về cơ thể đang bủa vây và trấn ngự mình.

Tôi đã tìm tòi những phương pháp giúp cho các sinh viên nhận ra được những hình ảnh không lành mạnh trong văn hóa nhạc pop. Tôi quyết định tập trung vào hình ảnh về thân thể, vì từ nhiều năm qua tôi được nghe các em nữ ở tuổi thiếu niên kể về cảm giác bất an càng lúc càng tăng trong các em. Trong khoảng thời gian hơn một tháng, tôi dành cho mỗi lớp một tuần lễ để nhận xét về cách thức người ta miêu tả cơ thể của con người qua thời gian. Chúng tôi so sánh thân hình lý tưởng thời xưa – như bức tượng về một vận động viên Hy Lạp hay một bức chân dung thời Phục Hưng – với những hình ảnh quảng cáo hiện nay. Khi nhìn thấy những hình ảnh từ các phương tiện truyền thông hiện nay, các em học sinh bắt đầu nhận ra rằng người ta nhắm tới sự giàu có cá nhân, quyền lực, quyền thống trị và sự thỏa mãn tức thời nhiều như thế nào. Khi đối chiếu những mẫu quảng cáo hiện nay với những bức hình ở các thời kỳ và ở các quốc gia khác nhau, các em sinh viên thấy được rằng có nhiều quan niệm về cái đẹp và nhiều hệ thống giá trị khác nhau. Với nhận thức đó, các em bàn luận về cách thức mà mình chọn lựa và làm thế nào để trở thành những tác nhân thay đổi xã hội. Các em bắt đầu nhận ra những giới hạn của sự tiêu thụ vật chất và thấy được ảnh hưởng sâu sắc của phương tiện truyền thông lên tâm lý của cá nhân và của xã hội. Một khi nhận ra được một hình ảnh có giá trị bằng ngàn lời nói thì các em sẽ có khả năng nghe và phân biệt được rõ ràng những thông tin mà các em đã từng bị nhấn chìm trong đó.

Khi có khó khăn trong việc giảng dạy chánh niệm

Việc giảng dạy chánh niệm không phải lúc nào cũng suôn sẻ theo đúng những gì ta mong muốn. Thay vì nản chí, chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta thường học hỏi được nhiều hơn trong những tình huống đó. Trong phần dưới đây, chúng ta sẽ cùng lắng nghe các giáo viên mở lòng chia sẻ những khó khăn, thách thức của họ.

Tạo ra những khó khăn cho chính mình

Khi nhìn kỹ lại cách phản ứng và những tri giác của mình, chúng ta thường nhận ra là những khó khăn mà ta đang đối diện có gốc rễ từ những thói quen trong tâm thức. Một rào cản mà những giáo viên như chúng ta thường tự đặt trên đường đi của mình là sự nhận xét, đánh giá về những điều mà chúng ta cho rằng “phải” xảy ra, và tin rằng mình biết rõ cái gì là tốt nhất cho người khác. Đặc biệt, các giáo viên có thể đau khổ bởi sự thôi thúc phải cứu giúp các học sinh của mình và ước muốn nghe từ các em những câu trả lời phù hợp với những điều mà mình đã có sẵn trong đầu. Thật không dễ để các giáo viên thay đổi thói quen này và chỉ cần có mặt với những gì đang diễn ra trong giây phút hiện tại, cho học sinh không gian để tự giải quyết vấn đề theo cách thức phù hợp với nhu yếu của các em.

Richard chia sẻ kinh nghiệm dạy toán của mình tại một trường trung học. Ông mô tả những nỗ lực để làm gương cho học sinh trong việc thay đổi nhận thức về những khó khăn. Mục đích của ông là giúp các em đón nhận những khó khăn chướng ngại, “xem món quà hiểu biết mà chướng ngại này đem lại cho mình là gì”, thay vì cố sức để vượt qua hay né tránh nó.

Khi các học sinh của tôi gặp những chướng ngại thì phản ứng đầu tiên của các em là hướng về một trong hai thái cực: vượt qua chướng ngại hoặc là bỏ cuộc. Khuynh hướng đón nhận khó khăn chướng ngại, ngồi lại với nó để xem nó có thể hiến tặng cho ta sự hiểu biết nào, khuynh hướng đó rất xa lạ với các em học sinh, nhưng nó lại rất có ích lợi cho đời sống của các em. Tôi tự hỏi mình phải làm thế nào để có thể làm gương cho các em trong việc xử lý những khó khăn trong lớp học. Tôi thấy là tôi có thể bắt đầu bằng thực tập kiềm chế sự thôi thúc phải phân tích và đưa ra giải pháp khắc phục những khó khăn của học sinh. Tôi chỉ cần có mặt cùng các em với những vấn đề của chúng[10].

Gloria Shephard, người hướng dẫn thực tập chánh niệm cho các bậc phụ huynh học sinh tại Hoa Kỳ, cũng đi đến kết luận tương tự. Cô nhận ra được khuynh hướng của mình là vội vã tìm kiếm giải pháp khi học sinh gặp khó khăn, mà điều này không thực sự giúp ích cho các em.

Tôi thấy những bài giảng của Làng Mai thường đi kèm với nụ cười và rất nhiều không gian tĩnh lặng. Điều này đã giúp cho tôi, trong khi giảng bài, có khuynh hướng bỏ qua những chuyện được coi là khó khăn đang xảy ra trong lớp (như là có học sinh đang không chăm chú nghe giảng hay đang làm một chuyện gì đó khiến cả lớp mất tập trung) và cười được với những ai đang ở trước mặt tôi. Thêm vào đó, tôi phản ứng chậm rãi hơn, để câu hỏi thấm vào mình hơn một chút trước khi bắt đầu giải đáp, và cho các em nhiều thời giờ hơn để chia sẻ những trải nghiệm của mình.

Lúc nào nên tiếp tục kiên trì và lúc nào nên thay đổi

Trong khi giảng dạy chánh niệm, không phải lúc nào mọi việc đều diễn ra như chúng ta mong muốn. Khi điều này xảy ra, chúng ta cần có sự sáng suốt và định tĩnh để quyết định nên tiếp tục kiên trì với những gì ta đang làm và chờ đợi, hay là thay đổi nội dung bài giảng để thích ứng với hoàn cảnh.

Julie Berentsen cho biết, đôi khi chúng ta chỉ cần giữ vững lập trường và cho học sinh thời gian để thích ứng với những yêu cầu mới của sự thực tập chánh niệm. Đồng thời, chúng ta cần phải tin tưởng vào kỹ năng sư phạm của mình. Trong trường hợp này, Julie đưa ra cho học sinh những hướng dẫn rõ ràng, lắng nghe sâu và trao đổi rất chân thành với các em.

Tôi có cơ hội chia sẻ sự thực tập chánh niệm với một nhóm trẻ em tại trung tâm thành phố Luân Đôn cũng được vài năm rồi. Chúng tôi gặp nhau mỗi tuần một lần trong vòng khoảng ba mươi phút. Phải nói thật là không dễ dàng gì để duy trì được sinh hoạt này cho đến ngày hôm nay. Cần rất nhiều thời gian để xây dựng niềm tin và để hiểu nhau. Các em cần hiểu rằng sự thực tập chánh niệm không phải là một bài tập với một đáp án chính xác, và không thể trông đợi ở thành tích đạt được. Lúc đầu, các em cảm thấy ngồi và quan sát hơi thở là một việc gì rất khó khăn. Bằng cách xây dựng một cấu trúc rõ ràng cho buổi thực tập và lắng nghe nhu yếu của các em, tôi đã sử dụng nhiều phương diện của sự thực tập để yểm trợ và nuôi dưỡng các em. Chẳng hạn như, nếu ngay từ đầu buổi mà các em chia sẻ là tối hôm trước các em đi ngủ hơi muộn thì tôi sẽ hướng dẫn các em thực tập buông thư toàn thân. Sau đó, các em thường nói cho tôi biết là các em nhận ra mình đã mệt mỏi như thế nào khi tới trường.

Có lúc cả nhóm có thái độ khiến cho tôi cảm thấy không vui. Tuần sau đó tôi dành thì giờ chia sẻ với các em một cách thành thực về những gì đã xảy ra. Tôi cho các em biết là tôi đã suy nghĩ rất nhiều về các em, tôi tôn trọng các em và tôi muốn hiểu được các em. Vì vậy nếu các em chia sẻ suy tư và cảm xúc của mình về chuyện đã xảy ra thì sẽ giúp ích cho tôi rất nhiều. Các em cũng như tôi đều ưa thích những cuộc đối thoại như vậy.

Tương tự, khi học sinh trong lớp cứ “cười khúc khích và mất tập trung”, Sarah Woolmen nhận thấy chỉ cần giữ vững sự thực tập trong tinh thần “vô úy” (không sợ hãi) thì mọi việc sẽ suôn sẻ.

Hôm đó, cả lớp cảm thấy rất khó thực tập thiền sỏi một cách nghiêm túc. Tôi phải ôm sự khó chịu trong lòng khi có vài em trong lớp cười giỡn và mất tập trung. Lúc đó tôi phải cố gắng để giữ giọng nói bình thản và thở với từng viên sỏi, cho dù không phải tất cả các em học sinh trong lớp đều làm theo tôi. Sau buổi thực tập, có một em gái đến nói với tôi: “Thực tập thở với hình ảnh ngọn núi và không gian giúp cho chúng em có được một chút yên lặng, điều này hiếm khi có được trong một lớp học chật cứng người như vậy”. Kinh nghiệm dạy tôi phải tiếp tục duy trì sự thực tập mà không cần lo sợ, cho dù buổi thực tập có vẻ như không thành công, bởi vì thật ra chúng ta không bao giờ biết được các học sinh sẽ tiếp nhận được gì từ sự thực tập đó.

Tuy nhiên, có lúc chúng ta phải linh động và thay đổi cho phù hợp với từng nhóm đối tượng. Michael Bready nhận thấy rằng cách nói trực tiếp về vấn đề chế tác hạnh phúc và tình thương không thành công cho lắm đối với những tội phạm trẻ.

Trong khi làm việc với những tội phạm trẻ, tôi thấy nên nhấn mạnh hơn đến sự thực tập chánh niệm, thay vì chế tác hạnh phúc và tình thương. Chúng tôi đã gặp phải sự chống đối khi đưa ra sự thực tập chế tác hạnh phúc và tình thương. Vì vậy thay vì nói một cách trực tiếp, tôi cố gắng truyền đạt những thực tập này mà không cần phải dùng ngôn từ.

Cũng giống như vậy, khi các gia đình không thích thực tập thiền hành, Tineke đã đổi sang sự thực tập làm việc trong chánh niệm (hay thiền làm việc), thay vì thiền hành.

Trong những ngày quán niệm, chúng tôi không thực tập thiền hành nữa. Thông thường trong ngày quán niệm, chúng tôi đón khoảng 20 người lớn và 20 trẻ em từ 4 tuổi tới 12 tuổi. Dù cho chúng tôi có cố gắng sử dụng hình thức nào đi nữa thì các gia đình tham dự ngày quán niệm cũng không ưa thích đi thiền hành cho lắm. Cha mẹ thường bị sự ồn ào của con trẻ làm phiền và họ cảm thấy bực bội. Vì mục đích của chúng tôi là giúp các gia đình thực tập chánh niệm trong mọi tình huống của đời sống hàng ngày nên chúng tôi thay thế thiền hành bằng thiền làm việc. Mỗi gia đình chỉ cần làm vườn chung với nhau, nhổ cỏ dại giữa những khe gạch trên lối đi. Những thành phần trẻ nhất trong gia đình cũng có được việc làm thích hợp như đẩy xe cút kít đến nhà kho.

Một lần nữa chúng tôi hoan nghênh tính thực tiễn và khả năng thích nghi của các thầy cô giáo có kinh nghiệm giảng dạy.

Tất cả những điều nêu ở trên nghe có vẻ rất phức tạp, nhưng chúng tôi thấy nhiều khi chính những cảm hứng sáng tạo vô cùng đơn giản và tức thời lại đem đến cho lớp học những giây phút vui vẻ và hấp dẫn nhất, như lời Elia Ferrer Garcia, đến từ Tây Ban Nha, chia sẻ.

Các em rất thích khi tôi lấy bình tưới và làm bộ tưới lên các em. Tôi nói các em là những bông hoa, và chúng ta cần tưới hoa để giữ cho khu vườn thêm đẹp. Một hôm, để tạo sự ngạc nhiên, tôi cho vào bình tưới một ít kim tuyến và nói rằng các em đang tỏa sáng lấp lánh. Các em rất yêu thích điều này.


[1] B. Rogers, Classroom Behavior: A Practical Guide to Effective Teaching, Behavior Management and Colleague Support, 4th edition (Thousand Oaks, CA: Sage, 2015). (Cách hành xử trong lớp học: Hướng dẫn cách giảng dạy, quản lý hành vi và hỗ trợ các đồng nghiệp một cách hiệu quả)

[2] C. Willard, Chăm sóc cả khu vườn, tạp chí The Mindfulness Bell; trích đoạn từ cuốn sách Tâm thức của trẻ em: Chánh niệm có thể giúp trẻ em tập trung hơn, lắng dịu và buông thư hơn bằng cách nào.

[3] C. Willard, Chăm sóc cả khu vườn, tạp chí The Mindfulness Bell; trích đoạn từ cuốn sách Tâm thức của trẻ em: Chánh niệm có thể giúp trẻ em tập trung hơn, lắng dịu và buông thư hơn bằng cách nào.

[4] D. Wilson and M. Conyers, Teaching Students to Drive Their Brains: Metacognitive Strategies, Activities, and Lesson Ideas (Hướng dẫn cho sinh viên cách điều khiển trí óc của mình: Những chiến lược siêu nhận thức, các hoạt động và những ý tưởng cho bài giảng).

[5] D. and N. Flor Rotne, “Four Steps for Deepening Silence,” Everybody Present: Mindfulness in Education (“Bốn bước để có được sự tĩnh lặng”, trích từ cuốn sách Cả lớp đều có mặt: Chánh niệm trong Giáo dục)

[6] Bell, “The Wisdom of Ordinary Children” (Trí tuệ của những đứa trẻ bình thường), tạp chí The Mindfulness Bell 54 (2010).

[7] Buổi vấn đáp với Thiền sư Thích Nhất Hạnh, ngày 17.4.2012, tại Thượng viện Vương quốc Anh.

[8] J. Reilly, nhạc sĩ kiêm sáng tác ca khúc và cũng là một nhà giáo dục về môi trường, Hoa Kỳ, bài viết “Clap, Tap, Hum, Breathe: Mindful Songwriting with Children” (Chánh niệm trong khi viết bài hát cùng với trẻ em), tạp chí The Mindfulness Bell 71 (2016).

[9] Trích pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, ngày 24.8.2014, tại Viện Phật học Ứng dụng châu Âu – EIAB với chủ đề “Pháp giới thân” (Our Cosmic Body), đăng trên tạp chí The Mindfulness Bell 68 (2015).

[10] R. Brady, “Mindfulness and Mathematics: Teaching as a Deep Learning Process” (Chánh niệm và Toán học: Dạy học là một quá trình lắng nghe sâu), đăng trên tạp chí The Mindfulness Bell 38 (2005), 38.

Chương 1: Chế tác năng lượng chánh niệm nơi tự thân

Lối ra tùy thuộc đường vào nội tâm.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Nội dung

  • Cung cấp những phương pháp hướng dẫn cụ thể và thực tế để chúng ta có thể bắt đầu, xây dựng, đào sâu và duy trì việc thực tập chánh niệm trong đời sống hằng ngày.
  • Tìm hiểu những cách thức áp dụng, những ý kiến và phản hồi của các giáo viên, những người đã thực tập pháp môn Làng Mai và từ đó có một đời sống tích cực. Qua đó, chúng ta cùng tìm hiểu xem điều gì đã giúp họ chế tác được năng lượng chánh niệm.

Chánh niệm bắt đầu từ chính mình

Nếu có một thông điệp chính yếu của bộ sách này, thì đó là “chánh niệm bắt đầu từ chính mình”. Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói rất rõ ràng “trở về với chính mình” luôn là “bước đầu tiên”.

Mỗi người chúng ta đều có một tập khí. Thường thường, con người không thích trở về và tiếp xúc với những khổ đau bên trong. Họ tìm cách chạy trốn và khỏa lấp những nỗi khổ niềm đau như: cô đơn, sợ hãi, giận dữ và tuyệt vọng. Đối với một người thầy giáo hoặc cô giáo, điều đầu tiên phải làm là trở về với chính mình. Lối ra tùy thuộc đường vào nội tâm. Về với tự thân và chăm sóc chính mình: học hỏi những cách thức làm phát sinh cảm giác mừng vui, phát sinh cảm giác hạnh phúc, học cách xử lý những cảm thọ đau buồn, lắng nghe được nỗi khổ đau để cho hiểu biết và tình thương có mặt, để mình bớt khổ. Đó là bước đầu tiên[1].

Thầy giáo, cô giáo thường chú tâm vào những nhu cầu của người khác hơn là của chính họ. Có thể chúng ta rất tâm huyết với nghề và hòa mình vào vai trò của người giáo viên đến nỗi chúng ta quên luôn điều căn bản nhất rằng chúng ta cũng là một con người. Ông Michael Schwammberger, một nhà giáo dục có nhiều kinh nghiệm thực tập với Làng Mai, đã được thức tỉnh từ nhận thức của một thiền sinh thuộc nhóm ông hướng dẫn trong khóa tu của Làng Mai, người đó luôn ghi nhớ sự thật quan trọng rằng chúng ta là “nhiều hơn một người thầy cô giáo”.

Một người trong nhóm của tôi nói rằng: “Không phải chỉ vì đó là thầy cô giáo mà chúng ta cố gắng trị liệu, mà bởi vì họ là một con người”. Người giáo viên này có thể có một người vợ, những người con và nhiều mối liên hệ khác nữa. Vì vậy, chúng ta làm thế nào để có thể thật sự yểm trợ người này như yểm trợ một con người, mà không phải chỉ là yểm trợ một người thầy giáo hay cô giáo.

Tất cả chúng ta đều có nhu cầu và quyền lợi của con người là dành thời gian cho chính mình, trị liệu khổ đau và chế tác hạnh phúc cho chính mình.

Thầy Pháp Lưu, một hình ảnh lãnh đạo trong phong trào Wake Up, là một trong những người hướng dẫn nhiều khóa tu dành cho các nhà giáo dục, nhận ra rằng, thầy cô giáo thường ngạc nhiên với ý tưởng chánh niệm cần bắt đầu từ chính họ. Họ đến khóa tu với mong đợi và có lẽ, hy vọng, sẽ được trao cho một chương trình để dạy chánh niệm cho học sinh của mình.

Trong những khóa tu của chúng tôi, thầy cô giáo muốn đến học hỏi các chương trình và phương pháp, nhưng chúng tôi dạy cho họ cách thức chuyển hóa và mang lại hạnh phúc cho chính cuộc sống của họ. Điều này có sức mạnh hơn bất cứ một phương pháp hay chương trình giảng dạy nào. Sau bốn hay năm ngày có mặt trong nguồn năng lượng tập thể bình an, yên lặng, chánh niệm và thanh thản, không có bất cứ một dự án nào cần thực hiện, không một buổi họp nào cần tham dự, chỉ tập buông bỏ những suy nghĩ, trở về với hơi thở, ý thức thân thể và cảm thọ của mình. Họ vô cùng cảm động khi thấy chúng tôi rất chú trọng chăm sóc cho sức khỏe thân tâm và sự an vui của chính bản thân họ. Điều đó sẽ luôn là phần cốt lõi của phong trào Wake Up – chăm sóc cho các thầy cô giáo[2].

Thầy cô giáo gặt hái được điều gì từ sự thực tập chánh niệm?

Chúng ta đã nghe khá nhiều về những thay đổi mà sự thực tập chánh niệm mang lại cho đời sống của các thầy cô giáo, cho sự nghiệp giảng dạy và cho những mối liên hệ của họ với học sinh. Trong phần này, chúng ta sẽ nhìn sâu hơn về vài thay đổi và chuyển hóa mà chánh niệm mang lại cho cá nhân các thầy cô giáo, theo tường thuật của họ.

Buông bỏ căng thẳng và áp lực “phải đạt được điều gì đó”

Mục đích và thành quả có khuynh hướng trở thành những nhân tố điều khiển chúng ta – những thầy cô giáo. Môi trường sống nhiều căng thẳng, áp lực và sự săm soi từ bên ngoài cũng tác động lên cuộc sống của chúng ta. Chúng ta cũng có thể để mình cuốn theo những ý định tốt của bản thân như muốn “gỡ rối” cho người khác. Chánh niệm có thể giúp ta dễ dàng gỡ bỏ gánh nặng từ những vấn đề đang điều khiển cuộc sống của chúng ta. Chánh niệm có thể giúp chúng ta kết nối được với những kinh nghiệm của mình theo một cách khác, cho mình thời gian và không gian để chỉ có mặt ở hiện tại, khoảnh khắc duy nhất mà mọi thứ có thể thật sự thay đổi, chứ không phải luôn luôn dự tính cho tương lai.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh cảnh giác cho chúng ta về sự nguy hiểm của việc biến chánh niệm thành một thứ công cụ. Thiền sư nhắc nhở chúng ta không nên sử dụng chánh niệm để đạt tới một điều gì đó trong tương lai, mà đơn giản là trở về ngay hiện tại dù chúng ta đang ở đâu.

Chúng ta đang nói về “chánh niệm”. Vậy, nếu có chánh niệm, thì tất phải có “tà niệm”, và tất cả chúng ta cần phải có khả năng phân biệt được hai điều này.

Chánh niệm, trước hết không phải là một loại công cụ. Chánh niệm cũng không phải là một phương tiện để đạt được mục đích, cứu cánh mà chánh niệm là một con đường. Dụng cụ là cái được sử dụng trong nhiều cách khác nhau, ví dụ như một con dao. Nếu bạn đưa cho ai đó một con dao, anh ta có thể dùng nó để chặt củi hoặc cắt gọt rau quả, nhưng anh ta cũng có thể dùng nó để giết hại hoặc trộm cắp. Chánh niệm không giống như một con dao. Chánh niệm không phải là dụng cụ dùng để làm điều tốt hay xấu gì cũng được. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại nói về chánh niệm như một công cụ. Chúng ta nói rằng, với chánh niệm, chúng ta có thể trị liệu; với chánh niệm, chúng ta có thể hòa giải; với chánh niệm, chúng ta có thể kiếm tiền nhiều hơn; thậm chí thời nay quân sự cũng tuyên bố rằng với chánh niệm, họ có thể giết kẻ thù hiệu quả hơn.

Chánh niệm không chỉ là con đường đưa tới hạnh phúc, mà chánh niệm chính là con đường hạnh phúc. Khi bạn thực tập thở vào có chánh niệm, thì hơi thở vào của bạn không phải là một phương tiện để đạt đến cứu cánh. Nếu bạn biết cách thở thì bạn sẽ thấy dễ chịu, bình an và trị liệu ngay khi thở. Nếu trong khi thở mà bạn cảm thấy khổ sở – nếu bạn có khuynh hướng nghĩ rằng, “Bây giờ tôi chịu khổ để đổi lại sau này tôi sẽ có được điều gì đó tốt đẹp hơn”, đó không phải là chánh niệm. Trong chánh niệm, mỗi bước đi chính là con đường. Chúng ta cần phải nhắc nhở mình thực tập như thế nào để có bình an, tĩnh lặng và vui tươi ngay lập tức. Cho dù ta đang ngồi, đang đi, đang thở, đang nấu nướng hay đang quét nhà, thì chánh niệm sẽ làm cho những hành động đó trở nên dễ chịu và hiến tặng cho ta niềm vui, bình an và tuệ giác trong chính thân tâm và hoàn cảnh của ta.

– Khóa tu 21 ngày, năm 2014

Nhiều thầy cô giáo đều cảm nhận được sự thư thái khi biết rằng có mặt hoàn toàn trong giây phút hiện tại mà không phải lúc nào cũng dự tính cho tương lai, là điều có thể làm được. Tuệ giác này giúp ta sống chậm lại và buông bỏ, tuy tiếp tục công việc giảng dạy của mình, nhưng vẫn tận hưởng sự sống và tin rằng mọi thứ đều có hướng đi.

Một điều tôi đã học được, hay nói đúng hơn, một quan điểm tôi cố gắng áp dụng là không quá định hướng mục tiêu vào bất kì kết quả cụ thể nào. Thực sự chỉ tiến hành công việc và mọi thứ sẽ mở ra con đường của nó.

– Michael Bready, người hướng dẫn chánh niệm, Anh

Kỹ năng đáp ứng với thử thách, khó khăn và khổ đau

Trong Chương 7 của tập 1 Cẩm nang hạnh phúc, chúng ta đã khám phá vai trò của chánh niệm trong việc giúp ôm ấp những cảm thọ khó chịu và chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau. Chánh niệm có thể giúp chúng ta đương đầu với những thử thách không thể tránh được trong cuộc sống bằng sự trầm tĩnh và lắng dịu sâu hơn.

Theo như quan sát của Alison Mayo, tập trung vào những điều tưởng chừng như là “những chuyện nhỏ” lại có thể xây dựng bình an, tĩnh lặng và khả năng phục hồi nhanh chóng từ bên trong.

Đời sống cá nhân của tôi đã thay đổi đáng kể. Những lời dạy về sự thực tập đã giúp tôi nổi lên mặt nước, cưỡi trên những con sóng để vượt qua nhiều thời điểm bận rộn và căng thẳng. Hai khía cạnh tôi thấy hữu ích nhất là nhấn mạnh sự thực tập nuôi dưỡng niềm vui, khinh an, hạnh phúc và đem hơi thở ý thức, chánh niệm vào trong những sinh hoạt hàng ngày. Hiện giờ, hầu như tối nào tôi cũng thực tập đi thiền lên ngọn đồi gần nhà, điều này đã làm cho đầu óc tôi sáng suốt, giúp tôi vận động, hít thở không khí trong lành và kết nối với thiên nhiên.

Cảm giác thư giãn trở lại khi có mặt với giây phút hiện tại có thể được trải nghiệm suốt trong những khoảnh khắc của đời sống hàng ngày. Gloria Shepherd, một nhà giáo dục trong lĩnh vực chánh niệm, người Mỹ, xác nhận rằng, đối với cô, chỉ đơn giản thực tập có mặt nhiều hơn nơi giây phút hiện tại với những điều nhỏ nhặt, như dắt chó đi dạo mỗi ngày, đem lại cho cô năng lượng dự trữ để đương đầu với những thời điểm khó khăn hơn.

Tôi nghĩ, điều hữu ích nhất đối với tôi là câu nói của Thầy (Thiền sư Thích Nhất Hạnh), “This is it”-“Nó đây rồi!” (Cái mà ta tìm kiếm bấy lâu đây rồi), nhắc nhở chúng ta có mặt ở giây phút hiện tại với cuộc sống vốn như là, con cái, cha mẹ, gia đình, hoàn cảnh, v.v… Điều đó tạo cho tôi thêm rất nhiều không gian. Tôi thường ngồi nhìn kỹ điều này. Nó đã giúp tôi vượt qua những lúc thực sự khó khăn khi con cái tôi giận dữ và la hét. Với ý thức chánh niệm, tôi cảm nhận sự phản ứng của mình, sau đó tôi thường nhớ đến câu “Nó đây rồi!” và làm cho giây phút đó lắng dịu. Tôi thực tập lắng nghe sâu và làm lắng dịu cả nỗi đau hay phản ứng trong tôi. Tôi thực tập điều này ngay cả trong những thời khắc ngắn ngủi. Khi con chó của tôi còn sống và tôi dẫn nó đi bộ ban đêm, thỉnh thoảng tôi lại hấp tấp cho nó đi vệ sinh để tôi có thể vào nhà, đi ngủ. Nhưng sau khi tham dự khóa tu cho giới giáo chức của Thầy, và biến “This is it – Nó đây rồi!” trở thành sự thực tập thường xuyên, tôi bắt đầu tự nhắc nhở mình, nó thật sự đây rồi và tôi cũng đang có mặt đây! Sau đó tôi ngắm những vì sao, những đám mây và cảm nhận không khí mát lạnh, nóng bức hoặc mưa rơi hay bất kỳ thời tiết như thế nào. Tôi theo dõi hơi thở, thưởng thức từng giây phút, ngay cả giây phút tôi dọn vệ sinh cho con chó của mình.

Đối với tôi, sự thực tập liên tục trong suốt những thời khắc nho nhỏ trong đời sống đã giúp tôi có mặt được với những thời điểm thử thách lớn hơn.

Chánh niệm giúp chúng ta đối diện được với những thử thách khắc nghiệt hơn của cuộc sống, như trong trường hợp của cô Mariann Taigman, cô phải đối diện với căn bệnh và cái chết của người cha yêu quý.

Những lời dạy của Thầy (Thiền sư Thích Nhất Hạnh) thực sự đã giúp tôi “có mặt trong từng phút giây” với cha tôi trong những ngày cuối cùng trước khi cha mất. Điều này trở thành một kỷ niệm sâu sắc hơn nhiều so với những gì tôi nghĩ, mặc dù rất khó khăn khi nhìn cha mình đau đớn. Tôi vuốt lông mày của cha tôi, đút cho cha ăn, giúp cha thông đường tiểu, giúp cha di chuyển, đẩy xe lăn cho cha, giúp cha cười đùa, và hát cho cha nghe những bài hát tôi học được trong khóa tu. Đó là những ký ức sâu sắc, tuyệt đẹp (tuy buồn), và đồng thời cũng là khó khăn nhất trong cuộc đời tôi.

Chánh niệm có thể là người bạn thân thiết của chúng ta trong tất cả những giây phút khắc nghiệt nhất của cuộc đời. Jenna Joya Blondel, một giảng viên đại học đến từ Mỹ, đã đối mặt với những điều thực sự cam go, kể cả chấn thương trầm trọng của những năm trước, những đau đớn trên cơ thể, và mối quan hệ tan vỡ với người mà cô rất quan tâm. Đối với cô, chánh niệm đã giúp cô “biến cuộc đời mình thành sự thực tập”, bất chấp mọi nghi ngại để có thể sống một cuộc sống bình an, hạnh phúc và từ bi.

Với sự thực tập chánh niệm, tôi đã học cách sống bình an, nhìn nhận thế giới và những khổ đau của thế giới bằng một trái tim rộng mở, biến đời sống của tôi – đi lại, ăn uống, nói năng, lắng nghe, và thở – thành sự thực tập. Tôi đau khổ bởi chứng Rối loạn stress sau sang chấn (PTSD)[3] (Những nỗi khổ tôi phải chịu đựng từ gia đình của mình. Cuộc hôn nhân thứ nhất thất bại, tôi phải sống xa ba đứa con). Những lời dạy của Thầy (Thiền sư Thích Nhất Hạnh) đã giúp tôi đối mặt với chứng PTSD bằng sự thực tập chánh niệm, bằng cách có mặt ngay bây giờ và ở đây mà không phải đắm mình trong những kí ức đau thương hay những sợ hãi về tương lai. Tôi đau kinh niên vì chứng u xơ và hơi thở chánh niệm đã giúp tôi ôm ấp được cơn đau này. Những lời dạy của Thầy về truyền thông và tình yêu đích thực đã giúp vợ chồng tôi tạo được một mối quan hệ bình an, hạnh phúc, từ trái tim đến trái tim, trong lần tôi tái hôn. Những lời dạy của Thầy đã giúp tôi trị liệu và trưởng thành hơn. Tôi thực sự biết ơn và cố gắng trao truyền những lời dạy hữu ích này đến với những người khác.

Chế tác tự do từ những tập khí tinh thần

Chúng ta dễ bị những hành xử, thói quen hay định kiến đã lỗi thời bó buộc làm ảnh hưởng đến tinh thần. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng tự do mang lại nhờ niệm, định, tuệ sẽ làm thay đổi cách chúng ta liên hệ với tư duy của bản thân, và vì vậy giúp ta chọn lựa được cách hành xử tốt đẹp hơn cho chính mình.

Mọi thứ tiến triển tùy thuộc vào nguyên tắc tương duyên, nhưng vẫn có tự do ý chí và khả năng chuyển hóa. Tự do ý chí là chánh niệm. Khi có chánh niệm tham dự vào, chúng ta ý thức được điều gì đang xảy ra. Nếu chúng ta thích những hành động của mình thì chúng ta cho phép chúng được tiếp tục. Nếu chúng ta không thích những hành động của mình thì chúng ta dùng những phương pháp có tuệ giác và định tĩnh để thay đổi chúng. Chúng ta không muốn chọn con đường dẫn đến khổ đau, chúng ta muốn đi con đường đưa đến việc chấm dứt khổ đau và đem lại hạnh phúc. Tự do ý chí là điều có thể làm được, bởi vì chúng ta biết rằng chúng ta có khả năng làm chủ được những tư duy, lời nói và hành động của mình. Chúng ta có trách nhiệm với những hành động ấy, và sự tiếp nối tốt đẹp là điều có thể đảm bảo được. Tự do bắt đầu từ chánh niệm, chánh định và tuệ giác. Có tuệ giác và chánh kiến, chúng ta có thể thực tập chánh tư duy. Chúng ta có thể thay đổi chính mình, chúng ta có thể thay đổi thế giới. Tất cả đều là kết quả của hành động[4].

Những thầy cô giáo có kinh nghiệm thực tập nhận thấy rằng chánh niệm có thể giúp họ nhìn lại những thói quen hàng ngày, những phán xét mà họ cho là điều đương nhiên, nhận diện sự có mặt của những phán xét đó, rồi mở lòng hơn, uyển chuyển hơn để thay đổi. Điều này được thầy Ranjani Shankar, một giáo viên trung học ở Ấn Độ, minh chứng bằng kinh nghiệm của mình.

Tôi đã từng là một người suốt đời hay chỉ trích, có lẽ cũng hay phán xét nữa, nhưng bây giờ tôi dễ dàng tha thứ. Điều này làm cho cuộc đời tôi bớt khổ sở hơn. Người khác cũng có thể nhận thấy những thay đổi đó ở tôi.

Cô Valerie Brown, một nhà giáo dục có kinh nghiệm lâu năm hướng dẫn chương trình Lãnh đạo có chánh niệm ở Hoa Kỳ, đã nói về vai trò của chánh niệm trong việc giúp cô nhận ra tư duy khép kín của mình, từ đó nuôi lớn khả năng dừng lại để ý thức những phản ứng theo thói quen, thoát ra được những lối mòn trong suy nghĩ, và nhìn nhận tình huống đúng với chính bản thân nó. Điều này mang lại cho cô và sinh viên sự tự do để đưa ra những lựa chọn sáng suốt hơn.

Sự sáng suốt phát sinh nhờ khả năng chú ý tới những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại, ý thức mình đang cảm thấy như thế nào, nơi thân thể và cảm thọ. Thêm vào đó, sự sáng suốt còn đến từ sự linh hoạt khi biết dừng lại đủ lâu để lựa chọn cách phản ứng chứ không phản ứng theo thói quen hay vô thức. Nhìn thấy tình huống một cách rõ ràng, chứ không phải những gì bạn muốn được thấy, hy vọng nhìn thấy hay mong đợi để thấy, bạn biết cách hay nhất để phản ứng và chọn lựa một cách khôn ngoan. Hành động khéo léo dựa trên tuệ giác. Một trong những người tham dự khóa học với tôi, một người lãnh đạo trong giới giáo chức ở một trường tư thục tại Midwest, Hoa Kỳ, đã sử dụng sự dừng lại có chánh niệm để làm chậm lại những phản ứng vô thức của cô. Cô nói rằng những giây phút dừng lại đầy chánh niệm này đã thực sự là “những giây phút để chọn lựa”.

Những bước đầu tiên: trở nên chánh niệm hơn

Làm sao để biến chánh niệm thành điều thực tế trong đời sống hàng ngày? Con đường đó như thế nào và những bước tiếp theo mình phải đi là gì? Những người khác đã tìm thấy con đường như vậy ở đâu? Những thầy cô giáo bắt đầu chế tác năng lượng chánh niệm như thế nào? Và họ tiếp tục ra sao?

Hẳn nhiên chúng ta biết là có nhiều nguồn cảm hứng và nhiều hướng đi. Không có một hướng đi nào là duy nhất đúng. Tuy nhiên, những bảng chỉ đường luôn có đó để giúp ta.

Nghe về chánh niệm qua một cuốn sách hoặc một bài giảng

Đối với nhiều người, chỉ đơn giản được nghe những điều cơ bản về chánh niệm là đã mang đến sự đồng cảm và đánh thức được tiếng chuông chánh niệm trong lòng. Điều đó có thể đủ khiến cho ta bắt đầu đi theo con đường này. Sự thật thì nếu chúng ta không bị rúng động khi nghe về chánh niệm, chúng ta sẽ không thích bắt đầu.

Mack Paul, một giáo viên đến từ Oklahoma, đã kể một câu chuyện tương tự về những người thầy cô giáo rất trân quý truyền thống thực tập của Làng Mai nhờ có nhịp cầu đầu tiên là những cuốn sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Lúc bắt đầu dạy học, tôi không có niềm tin vào khả năng của mình khi làm một công việc nào đó lớn lao. Tôi trở nên lo lắng và bực tức khi cứ mãi khổ sở với những bệnh tật do căng thẳng gây ra. Tôi đã cố gắng thiền tập và có thể làm được trong vài phút, nhưng sau đó, khi rời khỏi chỗ ngồi tôi vẫn bị căng thẳng trở lại. Một người bạn đưa cho tôi cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức và tôi đã bắt đầu học cách duy trì chánh niệm. Điều này đã thực sự giúp tôi có thể tận hưởng hạnh phúc trong những năm tháng dạy học của mình. Tôi đã nghỉ hưu sau 32 năm đứng lớp, và bây giờ làm phụ tá cho một giáo viên đặc biệt. Tôi cũng đã trở thành một người chồng và người cha tốt hơn.

Đối với cô Valerie, đã nhắc đến ở trên, điểm khởi đầu là một bài pháp thoại đầy cảm hứng mà cô được tham dự. Nhờ buổi pháp thoại đó, cô đã quay về nhìn nhận lại sự khác biệt giữa tầm nhìn rộng lớn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và cuộc sống của cô trong giờ phút hiện tại.

Hầu như mọi thứ Thầy (Thiền sư Thích Nhất Hạnh) nói trong suốt buổi pháp thoại đều ngược lại với cách tôi đang sống. Thầy dạy về cách chế tác hạnh phúc từ bên trong và đem chia sẻ điều này với người khác. Thầy dạy về sự dừng lại và an tịnh thân tâm. Tôi thấy thực sự bị cuốn hút xen lẫn đôi chút phân vân bởi vì phần lớn đời sống của tôi là chạy đua. Thế rồi tôi đã quyết định bắt đầu thực tập chánh niệm trong công việc lẫn trong đời sống hàng ngày của mình.

Chúng tôi đã liệt kê ra các nguồn tư liệu, bao gồm sách và các đường liên kết mạng, vài đường liên kết trong số đó là cho các bài pháp thoại, trong phần “Tiếp theo là gì?” ở cuối cuốn sách này sẽ giúp bạn khám phá thêm về chánh niệm.

Bắt đầu thực tập chánh niệm khi đối mặt với những khổ đau cá nhân

Không cần phải tìm kiếm khổ đau, đằng nào thì khổ đau cũng đến gõ cửa. Đôi lúc có người bắt đầu con đường thực tập chánh niệm khi gặp những biến cố thách thức bản năng sinh tồn như bệnh nặng, lúc mạng sống bị đe dọa hay những khủng hoảng trong gia đình.

Michele Chaban, giảng viên đại học, đã kể một câu chuyện tuy giản dị nhưng lại khiến ta kinh ngạc về sự thực tập chánh niệm đã giúp cô đối mặt với ảnh hưởng tiêu cực trong sự cố kinh hoàng xảy đến với mình. Hơn thế nữa, việc duy trì chánh niệm đã giúp cô nhìn lại trải nghiệm đó với lòng biết ơn.

Hôm đó, tôi đã bị một người tài xế say rượu tông vào. Tai nạn đó làm tôi mất đi đôi chân của mình. Đối với những loại đau khổ như thế, bạn phải lựa chọn: tiếp tục sống, nổi điên khùng hay làm một điều gì đó khác hơn. Tôi đã quyết định là học hỏi về nỗi khổ đau của mình. Cho nên phải nói rằng thiền tập chánh niệm đến với tôi qua người tài xế say rượu. Tôi trân quý sâu sắc điều đó cũng như tất cả những gì ông ta đã gây ra cho tôi.

Câu chuyện của Michele chứng minh được chánh niệm có khả năng giúp chúng ta đối diện và tạo ra sức mạnh từ những kinh nghiệm đau đớn nhất trong cuộc đời của mình. Đây là một thí dụ phi thường và đầy cảm hứng của giáo lý “không có bùn thì không có sen”.

Tìm một vị thầy chánh niệm

Để duy trì sự thực tập chánh niệm, chúng ta nên tìm cho mình một vị thầy ở gần nơi mình sống để tiếp tục được hướng dẫn và tạo cảm hứng cho con đường của mình. Điều này sẽ rất hữu ích. Một nhà giáo đặc biệt ở Mỹ chia sẻ rằng sự thực tập trong một cộng đồng đã giúp đỡ cô rất nhiều, dù là cô đang thực tập với tăng thân (hay với chỉ một nhóm) hoặc thậm chí khi đang ở một mình.

Đối với tôi, thực tập với một vị giáo thọ như Eileen Kiera trong hơn 23 năm qua cũng như thực tập với tăng thân đã đem lại cho tôi nhiều hạnh phúc, hiểu biết và giảm bớt rất nhiều những điều phiền muộn. Chồng tôi, chị tôi và bạn bè tôi đã nhận thấy rất nhiều những thay đổi tích cực ở tôi trong những năm tháng qua. Thực tập thiền hành im lặng giữa thiên nhiên, thực tập trong xe hơi trên đường đi làm, dừng lại một lúc trước khi phản ứng để có thể hiểu thêm vấn đề, nhận biết khi nào cần những phút giây yên tĩnh, ôm lấy những khó khăn trong lúc ngồi thiền và để yên cho những cảm thọ được biểu hiện ra, tất cả những thực tập này tiếp tục yểm trợ tôi.

Chúng ta có thể tìm được các vị giáo thọ dạy về chánh niệm trên khắp thế giới, nhiều người trong số họ đặc biệt thực tập theo những lời chỉ dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và pháp môn Làng Mai. Bạn có thể tìm thấy họ trực tuyến hoặc thông qua Làng Mai hay các trung tâm có mở các khóa tu khác. Chúng tôi cung cấp một danh sách ngắn các vị giáo thọ Làng Mai trong phần “Điều gì tiếp theo?” ở cuối sách.

Kết nối với những phương pháp thực tập chánh niệm khác

Như chúng ta đã thấy, công tác nghiên cứu và thực hành về chánh niệm, lòng yêu thương, về phương pháp thực tập quán chiếu, tâm lý học tích cực, học hỏi về xã hội và cảm xúc đang ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn thế giới trong rất nhiều bối cảnh khác nhau. Chúng ta đang chứng kiến một sự tăng trưởng theo cấp số nhân của công tác này với các công trình nghiên cứu, học bổng, học thuyết, các trung tâm, các nhà giáo, các khóa học, đào tạo giáo viên, tự học và về các nguồn tài liệu để giảng dạy.

Những bài giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và các pháp môn thực tập Làng Mai là một phần nền tảng cho lĩnh vực phong phú, đa dạng này, đã trở thành nguồn cảm hứng cho không biết bao nhiêu người. Trong bộ sách này, chúng tôi cố gắng làm sáng tỏ những đóng góp mang bản sắc riêng của Làng Mai và của Thiền sư Thích Nhất Hạnh vào lĩnh vực đang phát triển này. Những giáo lý được chia sẻ không hề giáo điều và độc tôn. Trái lại, các vị giáo thọ Làng Mai đã hòa mình rất khéo vào thế giới rộng lớn này và từ đó, hỗ trợ thêm cho lý thuyết và sự thực tập của mình, trong khi vẫn trân quý nền tảng vững chắc mà giáo pháp mang lại cho họ.

Rất nhiều nhà giáo đã thành công trong việc kết hợp pháp môn Làng Mai với nhiều chương trình lành mạnh có sẵn khác, như phương pháp Giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (Mindfulness- based Stress Reduction – MBSR), hay với một trong rất nhiều các khóa học hoặc chương trình học về chánh niệm trong khung giáo án giảng dạy của các trường phổ thông và đại học.

Ví dụ như, Michael Bready đã phát triển một chương trình của riêng ông ở tại Anh, có tên “Youth Mindfullness” (Chánh niệm cho người trẻ), trong đó ông phối hợp pháp môn Làng Mai với một vài phương pháp khác và gọi đó là “sự lai ghép giữa pháp môn Làng Mai, MBSR (phương pháp giảm căng thẳng dựa trên Chánh niệm) và tâm lý học tích cực”.

Có người lại khéo léo kết hợp pháp môn Làng Mai với các phương pháp thực tập khác có gốc rễ từ văn hóa địa phương. Norma Ines Barreiro là một giáo viên giảng dạy tại Mexico, ở xứ này, những đức tính bao dung của nền văn hóa Maya được hòa quyện rất dễ dàng với giáo lý về chánh niệm.

Một điều rất ích lợi là những nền văn hóa Maya cổ xưa có rất nhiều điểm chung với truyền thống của chúng ta và làm cho người trẻ dễ dàng hấp thụ. Ví dụ như, hai trong số các ngôn ngữ Maya mà chúng tôi tìm hiểu (Tzeltal và Tzolzil), thì nguyên tắc nền tảng của ngôn ngữ là Tik, có nghĩa là “Chúng ta”. Không có một cá nhân nào bị tách khỏi cộng đồng. Một sự tương đồng khác, tư tưởng chúng ta là một với đất Mẹ. Ảnh hưởng sâu sắc của tổ tiên trong đời sống hàng ngày, tinh thần cùng nhau có mặt của cá nhân và cộng đồng là một khía cạnh khác phù hợp với các pháp môn thực tập chánh niệm theo truyền thống Làng Mai.

Chúng tôi hy vọng có thể giúp các bạn lựa chọn con đường cho riêng mình, kết hợp những ý tưởng của Làng Mai với bất kỳ phương pháp thực tập liên quan nào tương đương về những chuẩn mực, giá trị đạo đức, phù hợp với văn hóa, hoàn cảnh, dễ thực hiện và có hiệu quả, chạm được tới trái tim và tâm hồn bạn, mà không cảm thấy quá sức hay rối trí.

Thực tập, Thực tập và Thực tập

Rất nhiều người chấp nhận chánh niệm trên lý thuyết và chỉ xen kẽ với thực tập họa hoằn đôi chút, nhưng họ lại thấy rất khó để duy trì một sự thực tập miên mật nhằm mang lại những chuyển hóa tích cực. Nếu muốn trở nên chánh niệm, không phải ta chỉ cần biết về chánh niệm và giới thiệu chánh niệm cho người khác thôi, mà còn phải thiết lập cho bản thân một sự thực tập đều đặn. Điều này đòi hỏi thời gian, nỗ lực và cam kết. Vậy nên, tiếp theo sự hứng khởi ban đầu sẽ là quá trình tu tập miên mật của mỗi người, điều này không chỉ mang đến niềm vui mà còn đòi hỏi sự tinh cần và tính kỷ luật.

Michael Schwammberger, người đã chia sẻ với chúng ta những kinh nghiệm và tuệ giác trong suốt bộ sách này, đã đưa ra một thông điệp vô cùng đơn giản cho những học viên của mình là “chỉ có thực tập”.

Các nhà giáo luôn có ý tưởng muốn làm điều gì đó cho học sinh trong giờ học, hoặc sửa đổi, hoặc là cải thiện. Nhưng thường thì chúng ta phải buông bỏ những ý tưởng đó để cùng các em đi qua những gì đang xảy ra, bởi vì những ý tưởng đó có thể trở thành chướng ngại, ngăn không cho chúng ta thực sự trải nghiệm sự thực tập. Vậy nên chúng ta phải luôn luôn quay về và phải quay về trước tiên với sự thực tập. Trải nghiệm sự thực tập. Trở về với tự thân. Trở về với hơi thở. Sống chậm lại. Buông bỏ. Tận hưởng. Trước tiên phải trở về với sự thực tập chánh niệm cơ bản và thực sự tự mình trải nghiệm.

Đời sống con người thường có khuynh hướng bị thói quen chi phối, vì vậy ta phải duy trì một chế độ luyện tập lâu dài mà không phải chỉ thực tập đôi ba ngày lẻ tẻ trong mỗi dịp năm mới. Chúng ta cần thiết lập một thời khóa hàng ngày để phát triển các “cơ bắp chánh niệm”. Điều này giúp ta, nhất là khi mới bắt đầu thực tập, xác định một phương pháp thực tập đơn giản, vừa sức, có thể làm được, gắn liền với một địa điểm và một thời điểm đều đặn mỗi ngày. Sau đó ta sẽ cố gắng hết khả năng để duy trì sự thực tập, nhận ra rằng chánh niệm là có mặt trong những gì đang xảy ra, chứ không phải là công cụ sản xuất ra một thứ hạnh phúc ăn liền. Chúng ta tiếp tục duy trì sự thực tập trong cả những ngày đặc biệt hay bất thường.

Sự thực tập của chúng ta không nhất thiết cứ phải là ngồi thiền. Tập một của bộ sách này đã đưa ra rất nhiều lựa chọn và bắt đầu bằng những thực tập căn bản, bao gồm cả thực tập ăn trong chánh niệm, các động tác chánh niệm và bước đi chánh niệm. Chúng ta đã nghe câu chuyện của Valerie về cảm hứng ban đầu của cô khi theo dõi một bài pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Chúng tôi chọn câu chuyện của cô ấy một lần nữa, tại thời điểm cô khởi đầu sự thực tập, trước tiên bằng những cách thức rất đơn giản.

“Tôi bắt đầu rất đơn giản, với những khoảnh khắc tỉnh thức ngắn ngủi, như ăn một miếng sandwich với tất cả sự chú tâm nhất có thể, hay chú ý tới bàn chân đặt lên sàn nhà, hay ý thức tới trái tim tôi đang đập hối hả, đập chậm dần và rồi xoa dịu tôi. Dần dần, mỗi ngày làm việc của tôi được đong đầy bằng những khoảnh khắc tỉnh thức như vậy, giúp tôi thay đổi cách tư duy, nói năng và hành xử.”

Việc lựa chọn một nơi chốn để thực tập cũng quan trọng như việc chọn thời điểm. Điều này giúp ta có một không gian và thực tập trong không gian đó đều đặn trong khi thiết lập cho mình một thời khóa ổn định. Ta có thể tạo một không gian thở, hay “phòng thở” như Thiền sư Thích Nhất Hạnh vẫn gọi, và đó là nơi ta quay về nương tựa. Chúng ta có thể bắt đầu rất đơn giản với một chiếc ghế, hay với chiếc gối ngồi đặt trên sàn, gần cửa sổ hay chậu cây. Tùy vào ý muốn hay khả năng cho phép mà ta thiết kế một không gian đơn giản hay cầu kỳ. Nếu thích hợp, ta có thể làm mới một góc phòng hay cả gian phòng thành không gian thở với những gam màu nhẹ, có gối ngồi, một chiếc chuông, hay thêm bức thư pháp truyền cảm hứng. Nếu ta sống cùng gia đình hay với nhóm bạn, ta vẫn có thể thiết kế một không gian chung cho ai cũng có cơ hội tới thực tập hoặc lui về ngồi yên nương náu mỗi khi gặp khó khăn.

Thực tập sâu thêm: tham dự khóa tu

Tham dự một khóa tu có nghĩa là dành ra vài ngày để sống tách biệt khỏi cuộc sống hàng ngày, lìa bỏ những việc thường làm ta phân tâm, tham gia vào một chương trình thực tập có cấu trúc và có sự hướng dẫn. Đối với rất nhiều người, khóa tu là một phần không thể tách rời của sự thực tập chánh niệm. Khóa tu giúp ta nuôi dưỡng chánh niệm, cũng như khả năng nhìn lại mình để quán chiếu, trong một môi trường tươi mát, an lành, trong khung

cảnh cuộc sống cộng đồng đơn giản. Ta có thể tham dự khóa tu vài ngày hay đôi khi có thể dài hơn.

Có những khóa tu im lặng, qua đó rất nhiều người cảm thấy được tươi mới trở lại và chuyển hóa tích cực so với cuộc sống thường ngày luôn luôn phải tiếp xúc với sự ồn ào. Các khóa tu theo truyền thống Làng Mai thì không im lặng hoàn toàn. Những thời khóa thực tập im lặng được sắp xếp xen kẽ với những thời khóa lắng nghe, chia sẻ và nhìn lại. Những thực tập căn bản và cốt lõi đã được đề cập tới trong bộ sách này đều được thực tập trong các khóa tu, đồng thời mỗi ngày đều có thời gian dành cho mình nhìn lại và chia sẻ với các thành viên khác trong mỗi nhóm “gia đình”. Trong mục “Tiếp theo là gì?” ở cuối sách, chúng tôi sẽ cung cấp danh sách các trung tâm thực tập có mở khóa tu.

Tham dự khóa tu luôn có giá trị với mọi giai đoạn trên con đường thực tập chánh niệm. Khóa tu tạo nên cảm hứng khi ta mới làm quen với sự thực tập và giúp ta khởi đầu bằng những hướng dẫn căn bản dựa trên những thời khóa thực tập thực sự. Với những ai đã thực tập lâu hơn, khóa tu tiếp thêm sinh lực, củng cố và làm sâu thêm những kỹ năng và kinh nghiệm thực tập. Chúng ta có thể bước vào một ngày mới trong cuộc sống thường ngày với cảm giác tinh khôi, hiểu biết và liên hệ tốt hơn với người khác, với quyết tâm mạnh mẽ và kỹ năng thực hành chánh niệm sắc bén hơn. Rất nhiều thiền sinh thực tập theo pháp môn Làng Mai báo cáo rằng cảm hứng ban đầu cũng như quyết tâm thực tập sâu thêm đều bắt nguồn từ việc tham dự khóa tu.

Có những nhà giáo thích tham dự các khóa tu giáo dục, chú trọng vào tầm quan trọng của cảm giác được an toàn, được lắng nghe, được thấu hiểu bởi những đồng nghiệp giáo viên khác có cùng hoàn cảnh. Đồng thời, họ cảm nhận được khả năng trị liệu của việc tham gia các khóa tu đó.

Khóa tu giúp các nhà giáo đưa ra những vấn đề mà họ chỉ có thể lên tiếng được một cách rõ ràng khi có một không gian đầy đủ sự đồng cảm và hiểu biết về vấn đề đó. Điều này vô cùng quan trọng, bởi vì nhà giáo thường giữ trong lòng rất nhiều thứ. Họ có thể chia sẻ hay buông bỏ những tâm tư này ở đâu được? Chỉ ở nơi nào có sự thấu hiểu và đồng cảm, ví dụ như trong các buổi chia sẻ pháp đàm, chia sẻ theo đề tài, hay trong những không gian yên tĩnh rất thiết yếu của một khóa tu. Vấn đề đặt ra ở đây không chỉ là làm thế nào để đưa sự thực tập chánh niệm vào trong trường học, mà cần phải xác thực hơn là làm sao chúng ta giúp các nhà giáo được trị liệu và chữa lành. Thật cảm động khi chứng kiến điều này xảy ra… và được mọi người công nhận

– Michael Schwammberger, người hướng dẫn khóa tu chánh niệm, Tây Ban Nha và Anh

Những khóa tu thường đem tới sự chuyển hóa trong chính bản thân mỗi người cũng như trong nghề nghiệp của họ. Khóa tu có thể cung cấp cho chúng ta những giải pháp bất ngờ bằng cách giúp chúng ta nhìn vấn đề theo một cách khác, như nhận diện ra rằng sự bế tắc xuất phát từ chính bản thân ta chứ không phải từ bên ngoài đưa tới, và thậm chí có khi còn dẫn ta tới những nơi mình không biết là mình nên tới. Sara J. Kein, hiện đang là giáo sư tâm lý học, giảng dạy tại trường cao đẳng Navajo ở Tây Nam Mỹ, đã phản ánh trong một bài viết cho tờ Tiếng chuông chánh niệm (The Mindfullness Bell) như sau:

Tới khóa tu vào tháng Mười một năm ngoái, tôi vẫn còn giữ trong lòng một niềm trăn trở là: Tôi muốn học cách liên hệ với học trò của mình. Nhưng không lâu sau đó, năng lượng tỉnh thức tập thể ở tu viện Lộc Uyển đã đánh thức thực tại trong tôi. Vấn đề không phải là liên hệ với học trò mà là liên hệ với chính tôi. Nếu có mất liên hệ thì đó là mất liên hệ với chính bản thân mình[5].

Cô Julie Berentsen, giáo viên tiểu học, ở Anh, đã có những chia sẻ khi tham gia một khóa tu. Khi khóa tu diễn ra, lần đầu tiên cô thấy mình đang quán chiếu một thực tế là mình đã rời xa những dự định ban đầu khi vừa bước vào sự nghiệp dạy học tới mức độ nào. Tiếp theo, cô nhận diện nhu cầu quay về chăm sóc sự an lạc của chính bản thân, và lấy lại cảm hứng dạy học bằng một hướng nhìn và cách tiếp cận mới là chú trọng hơn vào cách thức chế tác niềm vui, lòng nhân từ và tình thương yêu.

Tôi theo đuổi công việc giảng dạy của mình với hy vọng có thể làm một cái gì khác cho cuộc sống của những người trẻ. Tôi muốn tạo ra một lớp học đầy nuôi dưỡng để giúp sinh viên nhận diện và hoàn thiện tiềm năng của các em trong cuộc sống. Tuy nhiên, những áp lực, căng thẳng trong nghề cũng như tham vọng phải trở thành “người giỏi nhất” và hiến tặng những gì mình có đã khiến tôi quên mất việc quay về chăm sóc chính bản thân mình.

Lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu và trải nghiệm được thế nào là sống chánh niệm, tức là làm cho cuộc sống của tôi tỉnh thức thay vì chỉ đơn thuần là thực tập cứng nhắc trong một khoảng thời gian nhất định mỗi ngày. Điều này giúp tôi sàng lọc cách sống hàng ngày của tôi, ví dụ như nhắc mình dừng lại, thở và trở về với tự thân… Kinh nghiệm này đưa tới kết quả là tôi kết nối sâu hơn với bản thân, và với những người xung quanh. Thực tập chăm sóc tự thân và cộng đồng theo phương pháp của Làng Mai đã giúp tôi truyền thông sâu sắc hơn với bạn bè và người thân. Các khóa tu giáo dục của Làng Mai đã dạy cho tôi cách lắng nghe sâu và nói ra từ trái tim, cách trị liệu và chữa lành bản thân, cách tưới tẩm những hạt giống thương yêu trong tôi. Nhờ tập sống chậm lại mà tôi có khả năng thấy rõ những gì các học trò của tôi cần, và hoan hỷ đáp ứng những nhu cầu của các em bằng tình thương và một trái tim rộng mở. Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là chăm sóc bản thân và chăm sóc người khác bằng niềm vui.

Xây dựng tăng thân địa phương

Để duy trì sự thực tập, chúng ta cần kết nối với người khác. Thiền sư Thích Nhất Hạnh dạy rõ về tầm quan trọng thiết thực của việc tìm kiếm hoặc gầy dựng một cộng đồng hay một nhóm người thực tập chánh niệm (được gọi là tăng thân). Với chiều dài kinh nghiệm thực tế trong suốt cuộc đời giảng dạy chánh niệm trên thế giới, Thiền sư đã lặp đi lặp lại một cách quả quyết rằng nếu không có một nhóm người yểm trợ nhau như thế thì hầu hết chúng ta khó giữ gìn được sự thực tập.

Xây dựng tăng thân là một phương pháp thực tập rất căn bản. Nếu bạn có một ước nguyện sâu sắc hay một giấc mơ muốn thực hiện, bạn không thể nào đạt được nếu không có một cộng đồng. Đó là lý do tại sao xây dựng cộng đồng quả thật rất quan trọng.

Bạn có thể thành lập nên một nhóm những người cùng thực tập chung ở nơi bạn đang sinh sống. Vào mỗi cuối tuần, các bạn đến với nhau để cùng nhau thưởng thức thiền hành, ngồi thiền hay uống trà, đồng thời chia sẻ sự thực tập cho nhau. Điều đó rất tuyệt vời bởi vì cộng đồng đó sẽ giúp bạn duy trì sự thực tập trong một thời gian dài. Nếu không, bạn sẽ bị cuốn đi và bạn sẽ từ bỏ sự thực tập chỉ sau vài tuần[6].

Trải nghiệm thực tế của nhiều thầy cô giáo đều tương đồng với quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về vai trò mấu chốt của việc có một nhóm để thực tập, hay còn gọi là tăng thân.

Tăng thân giúp tôi rất nhiều trong sự thực tập của mình. Tôi nhận thấy Thầy (Thiền sư Thích Nhất Hạnh) coi tăng thân hết sức quan trọng, và tôi hoàn toàn hiểu rằng, nếu không có tăng thân, mọi thứ sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều.

− Goyo Hidalgo, giáo viên Trung học, Tây Ban Nha

Vào một trong những buổi họp hàng tháng của Tăng thân những nhà giáo dục Barcelona, mọi người thường xin lời khuyên cho những khó khăn của họ. Tôi luôn trả lời theo một cách giống nhau: cộng đồng thực tập đem lại cho mình nơi nương tựa, bởi vì tất cả chúng

ta đang có mặt ở đây là để nuôi dưỡng và làm mới lại chính mình.

− Olga Julian Segura, chuyên viên phát triển nghiệp vụ, Tây Ban Nha

Nếu ở địa phương bạn không có một nhóm thực tập chánh niệm thì có lẽ bạn nên làm như Giorgia Rossato, một nhà giáo ở Pháp và Ý, thử gây dựng một nhóm mới ở ngay vùng bạn đang sống.

Tôi không có cơ hội chia sẻ sự thực tập với những giáo viên và phụ huynh khác, vì vậy tôi quyết định thành lập tăng thân Wake Up ở Bordeaux. Phải mất một thời gian mới bắt đầu hoạt động nhưng tôi đã cống hiến hết mình cho việc này. Để bắt đầu, tôi đã lấy những gợi ý từ cuốn sách Planting Seeds (Gieo trồng hạt giống). Chúng tôi đã thực tập ngồi thiền, đi thiền và chia sẻ với nhau.

Để bắt đầu, đơn giản bạn chỉ cần tìm một người khác ở gần mình, trong trường học, trong gia đình hay ở hàng xóm, những người mà bạn có thể chia sẻ niềm hứng thú của mình trong sự thực tập chánh niệm và cùng yểm trợ qua lại cho nhau. Bạn có thể cùng nhau tham dự một buổi pháp thoại, một khóa học hay một khóa tu, cùng đọc một cuốn sách, và dĩ nhiên là cùng nhau duy trì sự thực tập cũng như nhìn lại những suy ngẫm của mình.

Tăng thân sinh hoạt theo mô thức Làng Mai đã có mặt trên nhiều quốc gia. Phần “Tiếp theo là gì?” ở cuối bộ sách sẽ cung cấp cho bạn thông tin về những tăng thân đó. Chúng ta đã gặp gỡ Mariann Taigman, một chuyên gia điều trị đến từ Hoa Kỳ. Cô ấy đã nhận được sự yểm trợ từ tăng thân địa phương về lĩnh vực chuyên môn cũng như cuộc sống cá nhân. Những người khác trong tăng thân rất hài lòng giúp cô với nhiệm vụ thiết thực là phổ biến sự thực tập chánh niệm trong trường học.

Là thành viên của một tăng thân địa phương dựa trên những lời khuyên của Thầy đã làm cho ngày giờ của tôi trở nên giàu có. Vài người bạn trong tăng thân rất hứng thú giúp tôi mang thêm những thực tập chánh niệm vào trong các trường học và cộng đồng. Thật thú vị khi chia sẻ cái nhìn của mình với người khác.

Chương cuối cùng chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn cách thức chúng ta có thể trao đổi với đồng nghiệp của mình để yểm trợ việc thực tập chánh niệm trong trường học.

Chế tác chánh niệm trong đời sống hàng ngày

Việc thực tập của chúng ta sẽ trở nên sinh động khi ta sống chánh niệm trong giờ phút hiện tại qua những hành động cụ thể. Các chương trong quyển Cẩm nang hạnh phúc của bộ sách này đã khảo sát vô số cách mà các thầy cô giáo đã kết hợp những thực tập cốt lõi vào trong công việc cũng như trong đời sống hàng ngày. Không nhất thiết phải tìm kiếm hay xây dựng một chương trình cứng nhắc hoặc quản lý chặt chẽ những thực tập này. Chỉ cần bạn duy trì việc thực tập hàng ngày, có thêm sự yểm trợ từ tăng thân nơi mình đang sống, và sắp xếp thời gian để tham dự các khóa tu, bạn sẽ từ từ tìm ra cách thức của riêng mình để chế tác chánh niệm trong nhiều lĩnh vực hơn.

Cô Pilar Aguilera là giáo viên dạy khóa học nâng cao việc thực tập chánh niệm theo truyền thống Làng Mai, cho các thầy giáo cô giáo tại trường đại học Barcelona. Cô đã rất ý thức về tầm ảnh hưởng của những lựa chọn nho nhỏ hàng ngày mà cô cho phép đưa vào thân tâm của mình.

Tôi ý thức rằng yếu tố chủ đạo chính là việc giữ cho được sự thực tập thực chất mỗi ngày, bằng chế độ ăn uống từ bi và lành mạnh, cùng với việc nhìn sâu vào những tác động của thức thực lên đời sống hàng ngày.

Tất cả những công việc ở nhà dù nhỏ nhặt đều có thể là một phần trong sự thực tập của chúng ta. Cách Thiền sư Thích Nhất Hạnh chiêm nghiệm về việc rửa chén, điều đã được nhiều người trong chúng ta biết đến, là “rửa chén bát chỉ để rửa chén bát”. Câu thực tập này đã được dán lên trên bồn rửa chén của rất nhiều nhà bếp, để gây cảm hứng cho người làm việc chỉ chú trọng vào xà phòng và nước mà thôi, không suy nghĩ đến chuyện khác.

Nếu trong khi rửa chén bát mà chúng ta nghĩ về tách trà đang đợi mình, chúng ta gấp gáp làm cho xong như thể việc rửa chén là một điều phiền toái, thì chúng ta đã không “rửa chén bát chỉ để rửa chén bát”. Hơn thế nữa, là chúng ta không thực sự sống có ý thức trong suốt thời gian chúng ta rửa chén bát. Thực sự thì chúng ta hoàn toàn không có khả năng nhận ra phép lạ của sự sống trong lúc chúng ta đứng nơi bồn rửa chén. Nếu chúng ta không có khả năng rửa chén bát trong chánh niệm thì khi uống trà chúng ta cũng không có khả năng uống trà. Khi uống trà, chúng ta sẽ nghĩ tới những việc khác, hoàn toàn không ý thức tới tách trà đang ở trong bàn tay mình. Như vậy chúng ta bị cuốn hút vào tương lai và chúng ta không có khả năng thực sự sống một phút giây nào của cuộc sống cả[7].

Khi bắt đầu thực tập chánh niệm, chúng ta thường lo lắng mình không đủ thời gian. Có nhiều người, như cô Christine Petaccia, một chuyên gia điều trị đến từ Mỹ, nhận thấy rằng khi chúng ta chế tác chánh niệm trong suốt những sinh hoạt hàng ngày, chúng ta sẽ có thêm năng lượng và làm cho công việc của ta hiệu quả hơn. Điều này là thêm vào mà không phải làm giảm đi thời gian quý báu của mình.

Khi đi bộ trong trường, tôi sử dụng phương pháp thiền hành và tôi có vô vàn năng lượng và sự kiên nhẫn. Tôi có rất ít thời gian, nhưng mỗi giờ đồng hồ tôi có thể thở ít nhất vài hơi. Khi đi bộ, tôi cố gắng thực tập thiền hành. Tôi cảm thấy thật bình an và đem lại cho tôi nhiều năng lượng hơn. Những vấn đề cần phải giải quyết với sinh viên và thầy cô giáo trở nên dễ dàng hơn rất nhiều bởi vì không có ai bị nổi nóng. Thật khó diễn tả được ảnh hưởng sâu sắc mà điều này đem lại cho công việc giảng dạy của tôi.

Hãy để cho con đường mở ra

Chúng ta đã nói rằng chánh niệm là con đường chứ không phải là một đích đến. Chúng ta chỉ cần để cho con đường mở ra trước mặt mình bằng cách bước đi hân hoan và kiên định trên con đường này, không cần phải vội vàng đến một nơi nào đó. Câu chuyện của cô Chelsea True minh họa những gì xảy ra trong quá trình mười năm bằng cách đơn giản, đặt một bước chân yên lặng trước bước chân kia. Cô ấy đã chuyển từ những thử thách cá nhân – đã được trị liệu bằng chánh niệm – đến việc thành lập một tổ chức đem chánh niệm vào các trường học.

Chỉ cách đây hơn một thập niên, một chứng bệnh do căng thẳng gây ra đã khiến cho tôi phải nghỉ việc. Trong thời gian đó tôi tìm được cuốn sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Sám Pháp Địa Xúc (Touching the Earth). Những lời dạy của Thầy là một liều thuốc dễ chịu. Tôi bắt đầu thực tập ngồi thiền mỗi ngày. Tôi thay đổi chế độ ăn uống và bắt đầu thực tập ít nhất một bữa ăn trong chánh niệm mỗi ngày. Tôi dành thời gian nhiều hơn với thiên nhiên. Tôi xem mỗi sinh hoạt hàng ngày của mình như là một cơ hội để thực tập chánh niệm. Khi tôi bắt đầu cảm nhận được kết quả của sự thực tập thì ánh sáng mặt trời như rực rỡ hơn, bầu trời trở nên bao la hơn. Tôi đã nhận ra rằng, những tia sáng mặt trời đó, sự bao la đó, cũng có ngay bên trong chính mình.

Tôi bắt đầu chia sẻ sự thực tập chánh niệm với con gái tôi, lúc đó mới ba tuổi. Qua vài năm, bạn bè và gia đình cũng khuyến khích tôi chia sẻ sự thực tập chánh niệm với họ. Năm ngoái, dự án Tinh thần Vui vẻ (Joyful Mind Project) của tôi đã được công nhận là dự án phi lợi nhuận ở California. Bây giờ chúng tôi đang mang chánh niệm đến với các trường học và gia đình khắp phía Bắc vùng vịnh San Francisco.

Năm 2014, tôi và con gái cùng nhau đi một chuyến tới Làng Mai, với tôi nó giống như một cuộc hành hương về nhà. Sống trong thời điểm mà những lời dạy này vẫn đang được áp dụng, được thực tập cùng tăng thân, nhìn thấy được những điều kỳ diệu trong đôi mắt của con mình, đây chính là kho báu đích thực. Chỉ cần ý thức mình còn sống thôi đã là một phép mầu.

Đối với một số người trong chúng ta, thực tập chánh niệm có khả năng định hướng nhân cách của ta trong thế giới này: quan điểm, giá trị cốt lõi và cảm nhận sâu sắc của chúng ta về mục tiêu và ý nghĩa. Với vài người trong chúng ta, bất kỳ một sinh hoạt nào trong cuộc đời của mình cũng đều có thể trở thành sự thực tập.

Trong chương này chúng ta đã nghe về Valerie Brown nhiều lần, như cảm hứng tiếp nhận sự thực tập chánh niệm của cô ra sao sau khi nghe một bài pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, và cách thức cô từng bước áp dụng chánh niệm vào công việc hàng ngày. Kết thúc câu chuyện của mình, cô đã quan sát sự thay đổi trong các giá trị mà cô từng bước trải nghiệm. Cô chia sẻ cách thực tập chánh niệm đã trở thành cốt lõi trong đời sống của cô như thế nào.

Thực tập chánh niệm làm thay đổi cách tôi cảm nhận về chính bản thân mình, và hơn nữa, dần dần, tôi thay đổi những tiêu chuẩn, ưu tiên cho nghề nghiệp có nhiều quyền lực thành ước muốn sâu sắc là giúp đỡ người khác.

Với sự thay đổi quan niệm về giá trị này, tôi đã bắt đầu học hỏi và thực tập chánh niệm nghiêm chỉnh. Tôi tìm kiếm những phương pháp để trị liệu chính mình và tham dự các khóa tu trên khắp nước Mỹ và ở Làng Mai. Tôi đã tham dự tất cả các khóa tu mà tôi có thể của Thiền sư Thích Nhất Hạnh từ năm 1995 đến năm 2014.

Tôi đã từng giúp tổ chức nhiều khóa tu cho người da màu, luật sư và nhà giáo tại Tu viện Bích Nham và các nơi khác. Trước khi tôi thực sự hiểu sự thực tập chánh niệm đang ảnh hưởng đến trong tôi như thế nào thì vào năm 1998, tôi đã cùng với những người khác thành lập Tăng thân Đường xưa (Old Path Sangha) trong ngôi làng nhỏ của mình ở New Hope, Pennsylvania. Ngày nay, nhóm tăng thân đó vẫn tiếp tục gặp mặt và thêm nhiều tăng thân ở những vùng khác nữa. Năm 2003, tôi đã được gia nhập dòng tu Tiếp Hiện của Thầy.

Bây giờ Valerie là nhà cố vấn giáo dục, người hướng dẫn trong công tác lãnh đạo, là nhà văn và là người hướng dẫn khóa tu[8]. Đây là hành trình đặc biệt của cô. Chúng ta hẳn sẽ không đề xuất rằng đây phải là hướng đi, là mục tiêu hay là kế hoạch của mình. Nhiều nhà giáo bắt đầu thực tập chánh niệm như là phương pháp để giải quyết căng thẳng, để cải thiện môi trường lớp học, để liên hệ tốt hơn với sinh viên và đồng nghiệp của mình. Đối với vài người trong chúng ta, đó là tất cả những gì chúng ta cần và muốn. Những người khác thì nhận thấy rằng thực tập chánh niệm tiến bộ sẽ giúp ta mạnh hơn trong những lĩnh vực khác của đời sống, và điều này tự nó đã là một kết quả thú vị.

Những ai cảm thấy mình vẫn còn một chặng đường khá xa so với những cống hiến và thành tích mà Valerie đã đạt được (chắc là phần lớn chúng ta) có thể cảm thấy tự tin hơn khi biết “Cô ấy tin chắc rằng thưởng thức một cây kem cho có hạnh phúc và chơi vòng quay ngựa gỗ một cách chánh niệm là điều vô cùng quan trọng để làm cho thế giới tốt đẹp hơn.”


[1] Thiền sư Thích Nhất Hạnh, khóa tu dành cho giáo chức, Brock University, Canada, 2013, trích đoạn từ cuốn phim tài liệu với tựa đề Happy Teachers will Change the World (Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới).

[2] Thầy Pháp Lưu, xuất sĩ Làng Mai, Pháp, trích đoạn từ cuốn phim tài liệu với tựa đề Happy Teachers will Change the World (Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới).

[3] Posttraumatic stress disorder – PTSD.

[4] Pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, ngày 21.6.2009, trong khóa tu 21 ngày tại Làng Mai với chủ đề “Con đường của Bụt”.

[5] S. J. Kein (formerly Sara Unsworth), giảng viên đại học, tác giả bài viết “Teaching the Student Within,” (Giảng dạy cho người học trò trong chính mình), tạp chí The Mindfulness Bell 54 (2010), 20.

[6] Buổi vấn đáp với Thiền sư Thích Nhất Hạnh, ngày 11.5.2014, trong khóa tu dành cho giáo viên tại Barcelona, Tây Ban Nha.

[7] Trích trong cuốn sách Phép lạ của sự tỉnh thức (The Miracle of Mindfulness, Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Boston: Beacon, 1996).

[8] V. Brown and K. Olsen, The Mindful School Leader: Practices to Transform Your Leadership and School (Thousand Oaks, CA: Corwin, 2014). (Quản lý trường học trong chánh niệm: Những thực tập để thay đổi sự lãnh đạo của mình và trường học)