Tình thương nuôi lớn ước mơ
Tình thương nuôi lớn ước mơ
Đem Heartforce đến Dreamforce
Tám giờ sáng thứ Ba, tại một ngã tư trung tâm thành phố San Francisco mà thường ngày xe cộ tấp nập, hai mươi lăm quý thầy và sư cô Làng Mai đang đứng thành vòng tròn và hát thiền ca trước một trong những tòa thị sảnh lớn nhất của thành phố San Francisco. Cả một khu phố đã được chặn lại để làm nơi diễn ra hội nghị Dreamforce, một hội nghị công nghệ thường niên lớn nhất của thành phố do công ty Salesforce tổ chức. Với sự tò mò pha chút ngại ngần, một số doanh nhân bắt đầu đến và tham gia cùng quý thầy, quý sư cô. Ai cũng có ly cà phê và điện thoại di động trên tay.
Sau một vài bài thiền ca, thầy Pháp Triển chia sẻ cách đi trong chánh niệm với những người đến sớm, những người đã biết trước là sẽ có thiền tập trong chương trình hội nghị. Rồi vòng tròn mở ra và đoàn thiền hành do quý thầy, quý sư cô dẫn đầu đi im lặng và chậm rãi ngang qua khuôn viên của hội nghị như một con rắn khổng lồ đang từ từ trườn đi với tốc độ của một con ốc sên. Trên đường đi, nhiều người nhập vào đoàn, dù vẫn còn đang mặc đồ công sở với giày cao gót hoặc giày da bóng loáng. Những người hướng dẫn và nhân viên bảo vệ đang đứng rải rác khắp nơi trong khuôn viên hội nghị đưa mắt nhìn nhóm người đầu tròn áo nâu đang dẫn đầu đoàn thiền hành rồi thì thầm với nhau một cách lo ngại “Chắc mấy người này là dân ghiền ma túy? Hay đây là một sô trình diễn?”. Một thầy nghe được mấy câu trao đổi đó liền giải đáp thắc mắc pha chút khôi hài: “Các bạn đang tự hỏi cái gì đang xảy ra phải không? Mấy người này không phải là đang bị thuốc hành đâu. Họ đang thực tập chánh niệm đấy.”
“Đó là cái gì vậy? Có phải là một trạng thái xuất thần không?”
“Không, không hẳn vậy. Chúng tôi bày cho họ cách làm sao để chậm lại.”
“Chậm lại… À, tôi hiểu rồi. Có thể cho tôi một chút cái đó được không? Tôi cũng cần chậm lại đây.”
“Không, cái đó không phải là thuốc viên có sẵn để uống đâu, mà đó là sự trải nghiệm với bước chân, với những bước đi vội vã. Anh muốn thử không?”
“Không được, tôi đang làm nhiệm vụ mà.”
Ba tháng trước, buổi sáng ngay sau vụ tấn công khủng bố tại Nice trong ngày kỷ niệm phá ngục Bastille (Bastille Day), sư cô Chân Không nhận được một email từ Marc Benioff, Tổng Giám đốc của Salesforce. Trong email, ông chia buồn về sự việc đáng tiếc đó và lập lại lời mời tăng đoàn Làng Mai đến dự hội nghị của công ty ở San Francisco. Ông nói rằng thế giới đang cần gặp gỡ quý thầy, quý sư cô để mọi người có thể học hỏi cách cùng nhau trị liệu. Ông muốn những người chưa bao giờ được gặp quý thầy, quý sư cô có một cơ hội; đó có thể là cơ hội duy nhất trong đời họ được tiếp xúc với những người xuất gia thật sự.
Hội nghị thường niên Dreamforce diễn ra trong bốn ngày, từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 10 năm 2016, dành cho giới kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ. Ngày cuối cùng của hội nghị được dành riêng cho đề tài Từ bi trong kinh doanh. Đây là hội nghị lớn nhất trên thế giới về lĩnh vực này. Marc muốn 170 ngàn doanh nhân đến dự hội nghị Dreamforce được trải qua kinh nghiệm mà ông đã có – tiếp xúc với tăng thân Làng Mai và học hỏi về phương pháp thực tập chánh niệm. Ước muốn chân thành đó của ông đã làm sư cô Chân Không và tất cả mọi người trong tăng thân vô cùng xúc động. Nhờ vậy mà các nhân duyên đã được hội tụ đầy đủ để cho hai mươi lăm xuất sĩ từ nhiều trung tâm khác nhau của Làng Mai ở khắp nơi có mặt tại hội nghị. Cả sư cô Chân Đức và thầy Pháp Ấn từ Viện Phật học Ứng dụng châu Âu (EIAB) cũng bay sang tham dự.
Marc Benioff là một nhà hảo tâm, đồng thời cũng là Tổng giám đốc của Salesforce – một trong những công ty kinh doanh phần mềm lớn nhất thế giới hiện nay. Marc gặp Thầy Làng Mai lần đầu vào tháng 10 năm 2013 tại một sinh hoạt dành cho ba mươi tổng giám đốc của Silicon Valley được tổ chức tại nhà riêng của ông ở San Francisco.
Trong buổi sinh hoạt ngắn ngủi vào buổi chiều hôm đó, Thầy đã đề nghị các tổng giám đốc nên “làm cho doanh nghiệp trở thành một gia đình”. Thầy nói: “Mục đích của công việc làm ăn không nên chỉ là tiền bạc mà còn phải có lòng từ bi – từ bi cho công nhân viên, cho khách hàng, và cho cả hành tinh của chúng ta nữa”. Thầy đề nghị họ nên “ngồi xuống để lắng nghe những khổ đau của nhân viên”. Và cuối cùng Thầy thách thức các vị Tổng giám đốc với một câu nói: “Các ông phải chọn lựa, hoặc làm người thành công nhất, hoặc làm một người hạnh phúc” (You have to choose, between being number one, or being happy).
Hạt giống nhỏ bé ấy, nhờ được chăm sóc giữ gìn, đã đơm hoa kết trái một cách không ngờ. Marc và nhiều người có cùng tâm huyết như ông bắt đầu đem sự thực tập chánh niệm vào môi trường làm việc, và làm cho văn hóa công ty của họ thay đổi. Sự thực tập chánh niệm không những giúp nhân viên trong công ty giảm căng thẳng để hoàn thành công việc mà còn mang lại cho công ty của họ không khí của một gia đình, một cộng đồng đầy bình an và hạnh phúc.
Thấy được tâm nguyện chân thành của Marc trong việc chuyển hóa văn hóa công ty, Thầy khuyến khích chúng tôi tiếp tục giữ liên lạc với những doanh nhân này. Tâm nguyện của Marc đã được chứng minh qua câu nói của ông: “Nhiệm vụ của các doanh nghiệp là làm cho thế giới này trở thành một nơi tốt đẹp hơn”. Năm 2015, tăng đoàn Làng Mai đã hướng dẫn một ngày tu chánh niệm cho Salesforce và đề xướng việc thiết lập những khu vực thực tập chánh niệm (mindfulness zones) trong các văn phòng làm việc của công ty này. Chúng tôi đã rất ấn tượng vì chỉ một năm sau, năm 2016, Marc đã biến lời đề nghị đó thành sự thật. Trong mỗi tòa nhà của công ty Salesforce đều đã có một khu vực chánh niệm. Và giờ đây, tại hội nghị Dreamforce, Marc cũng cố gắng kết hợp để thực hiện ý tưởng này trong ngày cuối với chủ đề “Từ bi trong kinh doanh”.
Chúng tôi rất ngạc nhiên khi biết mình có toàn quyền trong việc tổ chức, sắp xếp cách thức chia sẻ pháp môn chánh niệm tại hội nghị. Ban tổ chức đã thiết kế hai khu vực chánh niệm nằm ngay giữa trung tâm khuôn viên để bảo đảm ai cũng có cơ hội được tiếp xúc với quý thầy, quý sư cô trong suốt bốn ngày của hội nghị. Mỗi buổi sáng, chương trình của chúng tôi bắt đầu bằng thiền hành, tiếp đó là thiền tọa có hướng dẫn và một bài pháp thoại ngắn, kết thúc bằng một thời vấn đáp; đây là những hoạt động trong nhà. Thời gian còn lại của buổi sáng chúng tôi hiến tặng sự có mặt của mình tại khu thực tập chánh niệm ngoài trời, đây là nơi mà mọi người có thể đến để học hỏi về các phương pháp thực tập. Ngồi xung quanh mỗi thầy hay sư cô là một nhóm nhỏ bao gồm các doanh nhân đang háo hức tìm hiểu về sự thực tập chánh niệm. Họ phải cố gắng hết sức để nghe những lời hướng dẫn của quý thầy, quý sư cô, trong tiếng ồn của một ban nhạc đang chơi gần đó.
Sư cô Hiến Nghiêm đóng vai trò của một người tiếp đón. Sư cô trả lời những câu hỏi sơ bộ rồi căn cứ vào câu hỏi chính và lượng thời gian mà họ có, hướng dẫn họ đến gia nhập một trong các nhóm trong khu thực tập chánh niệm. Ai cũng nói: “Tôi chỉ có năm phút thôi”, và sư cô luôn trả lời: “Không thành vấn đề, bao nhiêu đó cũng quá đủ để quý vị tìm hiểu những điều cần biết về chánh niệm”, dù biết quá rõ là họ sẽ bị thu hút ít nhất là hai mươi phút. Thậm chí có vài người còn ở lại cả hơn hai giờ đồng hồ, và cuộc tham vấn của họ đã chấm dứt bằng thiền ôm, bằng nước mắt, và thậm chí có khi còn bằng một bài tập khí công do thầy Pháp Ấn hướng dẫn riêng.
Thật thú vị khi thấy cảnh tượng mười hai vị xuất sĩ, mỗi vị có một nhóm nhỏ vây quanh, và ai cũng đều có khả năng đáp ứng một cách thật chính xác nhu cầu cấp thiết của những người trong nhóm. Nhờ đó, chúng tôi thấy được lợi ích của sự rèn luyện làm việc chung như một tăng thân và việc thực tập những pháp môn đáp ứng được nhu yếu thực tiễn của đời sống. Từ thầy Pháp Hợp là vị trẻ nhất đến sư cô Chân Không là vị lớn nhất trong đoàn, không ai là không nhận ra sự rèn luyện và tu tập trong tu viện – như sự thực tập tiếp xúc và chăm sóc khổ đau trong tự thân, cũng như chế tác niềm vui, niềm hạnh phúc – đã giúp chúng tôi dễ dàng giúp người khác cởi bỏ được nội kết trong lòng. Bất cứ một khổ đau nào mà chúng tôi đã vượt qua đều trở thành một bông hoa để chúng tôi có thể hiến tặng cho người khác. Chúng tôi cảm thấy rất được khích lệ và có nhiều cảm hứng khi thấy chỉ trong một thời tham vấn ngắn ngủi mà quý thầy, quý sư cô đã có thể đem chánh pháp đến làm vơi nỗi khổ của người khác một cách thật hiệu quả. Chúng tôi nhớ đến câu “Sáng cho người thêm niềm vui, chiều giúp người bớt khổ” và thấy lòng mình tràn ngập niềm biết ơn đối với Thầy và với tăng thân.
Trong khi một số vị cho tham vấn thì cùng lúc đó, một nhóm quý thầy quý sư cô được phân công đi thiền hành trong khuôn viên hội nghị, thỉnh thoảng dừng lại cho mọi người có cơ hội được tiếp xúc và đặt câu hỏi. Ngày nào hai thầy Pháp Triển và Trời Ngộ Không cũng xung phong vào vai trò này. Không hiểu bằng cách nào hai thầy đã thu thập rất nhiều món quà miễn phí và một bộ huy hiệu đủ loại rất ấn tượng. Cứ hai ba mét, hai thầy lại phải dừng lại để trả lời cho những doanh nhân hiếu kỳ là tại sao những người xuất sĩ lại có mặt trong một hội nghị dành cho giới doanh thương như vậy. Đồng thời hai thầy cũng chỉ đường cho mọi người đến các khu chánh niệm để tìm hiểu thêm.
Một số vị chuyên hướng dẫn thực tập chánh niệm (lay mindfulness instructors) cũng cống hiến các buổi sinh hoạt chuyên đề vào những thời gian khác trong ngày. Nhưng nhiều người đã phản hồi là sự có mặt của quý thầy, quý sư cô trong hình tướng người tu, năng lượng của tăng đoàn, sự hòa điệu trong khi làm việc và giảng dạy như một tăng thân đã làm cho họ rất ấn tượng.
Hội nghị rất xôn xao, căng thẳng và ồn ào, nhưng mỗi khi chúng tôi cùng đi chung với nhau là tự nhiên có một vùng năng lượng tập thể làm chúng tôi cảm thấy được bảo hộ và thảnh thơi. Đi chung và giữ khoảng cách gần nhau giúp cho bước chân chúng tôi có chánh niệm hơn và hơi thở cũng nhẹ nhàng tự nhiên hơn. Khi có ai đó bị tách ra và lạc vào đám đông, chúng tôi lập tức thấy mình trở nên lạc lõng, và phải cố gắng hơn để giữ sự tập trung. Nhiệm vụ chính của chúng tôi là chia sẻ về pháp môn thực tập chánh niệm, nhưng sự có mặt của tăng đoàn đông đảo đã đem lại một không khí vui vẻ, tự nhiên và nhẹ nhàng cho hội nghị. Chúng tôi chính là những kẻ vô sự đúng nghĩa, không có chương trình nghị sự nào cả. Chỉ có mặt mà thôi. Chỉ cần đi không hối hả, nhìn vào mắt của mọi người và mỉm cười. Bao nhiêu đó đã là một sự trao truyền. Chúng tôi cảm nhận mọi người xung quanh đã có sự chậm lại, có nhiều người đã dừng lại để mỉm cười với chúng tôi.
Vào ngày thứ ba của hội nghị, Marc đến khu vực chánh niệm thăm chúng tôi, theo sau là cả một đoàn tùy tùng hơn bốn mươi người bao gồm các nhà báo, trợ lý và cộng sự. Ông đang chuẩn bị có một cuộc phỏng vấn nhưng muốn ghé thăm và trò chuyện với chúng tôi. Dự định chỉ ghé thăm một chút nhưng ông đã ngồi lại cả ba mươi phút để đàm luận về sự cống hiến của Làng Mai cho thế giới. Ông đã khéo léo chuyển các câu hỏi của nhà báo về cho quý thầy, quý sư cô. Kết quả là sau này có rất nhiều bài báo đã ra đời dựa trên các chia sẻ đó. Ông muốn tiếng nói của quý thầy, quý sư cô được lắng nghe và sự có mặt của tăng đoàn có một ảnh hưởng sâu rộng. Ông muốn những người đến tham gia hội nghị biết đến tầm ảnh hưởng mà sự thực tập chánh niệm có thể tạo ra cho giới doanh thương và các tập đoàn lớn.
Có một khoảnh khắc rất dễ thương đã diễn ra giữa Marc và sư cô Chân Không. Đó là lúc Marc đến ngồi cạnh sư cô trò chuyện rất vui vẻ, thoải mái. Những trợ lý của Marc càng lúc càng trở nên căng thẳng. Marc cứ tỉnh như không, nói rằng ông có một câu hỏi rất quan trọng cho sư cô. Mọi người tò mò không biết câu hỏi gì mà quan trọng như thế. Ai cũng nín thở, các nhà báo nghiêng người tới trước, rất tập trung, tay cầm sẵn sổ ghi chép, máy ghi hình và ghi âm sẵn sàng. Và Marc hỏi sư cô một cách rất nghiêm trang: “Sư cô có thích loại kem vị cà phê Việt Nam mà tôi mua cho sư cô không?”
Đỉnh điểm của hội nghị là ngày có chuyên đề “Từ bi trong kinh doanh”. Hôm đó chúng tôi cùng những vị khách mời khác lên sân khấu để trình bày bài thuyết trình chính của hội nghị. Mỗi bài nói – giới hạn trong bốn mươi lăm phút – sẽ được đưa lên mạng trực tuyến cho bảy mươi ngàn người xem, trong đó có hai ngàn người hiện diện trong khán phòng. Thử thách của chúng tôi là dùng bốn mươi lăm phút đó để chuyển tải sự có mặt đích thực của Thầy và hiến tặng cho mọi người những trải nghiệm thực sự về lòng từ bi. Trong khi chuẩn bị cho bài thuyết trình, chúng tôi nhận ra là mình chưa bao giờ làm cái gì tương tự với một thời gian ngắn kỷ lục như thế.
Trước giờ thuyết trình, chúng tôi không chắc là mình có thể thực hiện được điều ấy trong thời gian cho phép trong khi bị bao vây bởi tám máy quay phim di động và hai mươi màn hình phẳng khổng lồ. Khi đến lượt mình, chúng tôi lần lượt đi lên làm hai hàng, giống như trong một buổi ăn cơm quá đường. Chúng tôi đã sử dụng năm phút trong bốn mươi lăm phút quý giá ấy, chỉ để đi lên sân khấu. Năm phút đó đã kéo dài thành khoảnh khắc thiên thu.
Lên đến sân khấu, chúng tôi ngồi xuống chỗ của mình, rồi sư cô Chân Không chia sẻ về kinh nghiệm gieo trồng hạt giống từ bi của sư cô từ chiến tranh Việt Nam cho đến thảm họa tại Nice. Sư cô cũng kết hợp chia sẻ về thiền từ bi (Metta meditation) như là một giọt nước cam lồ để đối trị với sợ hãi. Năng lượng và đức độ của sư cô – trải qua bao năm tháng tu tập và phụng sự, chăm sóc cho những người nghèo, lân mẫn cho những người đau khổ – đã đánh động trái tim của mọi người trong hội nghị. Cuộc đời của sư cô đã trở thành một thông điệp và điều đó khiến cho chúng tôi tràn ngập lòng biết ơn.
Sau đó, chúng tôi đứng lên để trì niệm hồng danh của Bồ tát Quán Thế Âm bằng tiếng Phạn, có thầy Pháp Ấn ngồi chuông. Chúng tôi cảm nhận rõ ràng năng lượng và nụ cười của Thầy trong giây phút ấy. Cùng với nhau, chúng tôi đã trì tụng thật hết lòng, tiếp xúc với khổ đau trong tự thân, chế tác từ bi cho chính mình, cho mọi người trong hội nghị, và cho toàn thế giới, nhất là những vùng chiến tranh, bạo động, cho thảm họa kinh hoàng ở Nice, cho hàng triệu triệu con cá và các loài sinh vật đã chết vì ô nhiễm môi trường ở vùng biển miền Trung Việt Nam.
Sau khi niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, thầy Pháp Dung đã cho một thời pháp thoại. Thầy nhắc rằng trên thương trường thì chúng tôi – đại diện tăng đoàn xuất sĩ của Bụt – thuộc về một công ty xưa nhất trên thế giới, công ty bắt đầu từ hơn 2600 năm về trước: một công ty không chuyên về lợi nhuận, mà chuyên về tình thương. Thầy nói rằng hai sản phẩm và dịch vụ chính của công ty chúng tôi là cách làm vơi bớt khổ đau và cách chế tác hạnh phúc. Thầy mời các doanh nhân trở thành đối tác của công ty chúng tôi, và giới thiệu danh từ “Heartforce” (Sức mạnh của trái tim) để mô tả công ty tâm linh của mình.
Chúng tôi thấy mình đã hoàn thành những gì mà mình cần làm để vinh danh Thầy Tổ và đó cũng chính là một món quà mà chúng tôi dâng lên Thầy. Chúng tôi đã một lần nữa cùng nhau đi như một tăng thân, như một cơ thể sống. Ngay sau khi rời khỏi hội nghị, chúng tôi đến một quảng trường gần đó để hướng dẫn một thời ngồi thiền công cộng (flashmob sitting meditation). Có khoảng hai trăm thành viên của tăng thân địa phương và năm mươi người từ hội nghị đến tham gia. Chúng tôi ngồi thành một vòng tròn lớn, và những người đi ngang bắt đầu ghé lại cùng ngồi. Những người làm việc trong các văn phòng trên những tòa cao ốc gần đó nhìn xuống với vẻ ngạc nhiên. Những người ngồi một mình trên các băng ghế công viên, thông thường lúc nào cũng cầm điện thoại di động trên tay, bỗng dưng thấy mình bị lọt giữa một sinh hoạt công cộng có năng lượng rất bình an, vui tươi. Có thể thấy khuôn mặt của họ từ từ dịu lại, thậm chí còn có một nụ cười nhẹ trên môi. Sự mầu nhiệm của thực tập ngồi thiền nơi công cộng là việc sử dụng những nơi ấy để chuyển tải năng lượng bình an, niềm vui và tình huynh đệ. Sau thời ngồi thiền, các bạn trong ban tổ chức bỗng nhận ra là quý thầy quý sư cô sẽ ra về trong chốc lát, thế là họ bắt đầu khóc. Suốt một tuần qua, các bạn đã chăm sóc chúng tôi từng li từng tí, từ việc bảo đảm cho quý thầy quý sư cô có mặt đúng nơi đúng lúc, lo thức ăn, chỗ nghỉ ngơi cho đến việc bảo đảm không ai bị trễ xe buýt. Trước khi chúng tôi rời khỏi, các bạn đã tìm đến từng thầy, từng sư cô để thiền ôm tạm biệt.
Chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy rất nhiều tấm lòng hảo tâm và thiện chí trong hội nghị. Có không biết bao nhiêu đề tài về công tác từ thiện đã được đề cập đến trong suốt thời gian ở đây. Chúng tôi cũng thấy sự hiện diện của rất nhiều cơ quan phi lợi nhuận, làm việc từ thiện dưới sự yểm trợ của Marc và chi nhánh phi lợi nhuận của công ty Salesforce. Được biết hội nghị đã giúp quyên góp được bốn triệu đô la để giúp ngăn chặn sự lây lan của vi-rút HIV.
Cái làm chúng tôi ấn tượng nhất là buổi chia sẻ đặc biệt gần cuối hội nghị. Đây là một buổi chia sẻ nội bộ để Marc gặp gỡ mấy trăm nhân viên trong công ty. Ông ngồi trên sân khấu lắng nghe những phản hồi của nhân viên về công ty trong năm vừa qua. Chúng tôi biết mình đang chứng kiến một sự kiện rất đặc biệt. Marc thực tập lắng nghe nỗi khổ niềm đau của họ một cách sâu sắc, với một sự cởi mở chân thành và một mối quan tâm thực sự đối với những đề nghị của nhân viên mình. Chúng tôi không chắc là sự lắng nghe ấy có liên quan đến giáo lý của Thầy, nhưng có vẻ là Marc đã làm theo gợi ý của Thầy, đã có khả năng chia sẻ nỗi khổ niềm đau của chính ông với nhân viên cũng như lắng nghe nỗi khổ niềm đau của họ. Ông cũng bày tỏ ước muốn biến công ty thành một gia đình.
Nhân viên của ông rất xúc động bởi sự cởi mở và dễ tiếp xúc của Marc. Có người đã khóc, nói rằng trong thế giới kinh doanh, ông chính là một huyền thoại, một nhân vật hiếm hoi – họ không thể tin là ông đang thực sự làm những gì ông nói: ông đang thật sự lắng nghe.
Lúc ban đầu, một vài người trong chúng tôi có chút lo ngại về việc tham gia hội nghị. Nhưng sau khi hội nghị hoàn mãn, những vị này cho biết là tri giác của mình về thế giới doanh thương bây giờ đã thay đổi. Chúng tôi đã thực sự tiếp xúc với nỗi khổ niềm đau của giới doanh nhân, cũng như với tình người và khát khao chính đáng trong việc tìm ra một lối sống và cách làm việc khác hơn lối thông thường của họ.
Trước khi đến hội nghị, chúng tôi ý thức rất rõ ràng về câu hỏi liên quan đến vai trò của chánh niệm trong kinh doanh; chúng ta có thật sự nên dạy cho doanh nhân phương pháp thực tập chánh niệm để giúp họ thành công hơn trên thương trường hay không? Nhưng chúng tôi đã có kinh nghiệm là một khi mình có thể thực sự giúp mọi người có chánh niệm hơn về sự căng thẳng, sự lo sợ và khổ đau của chính họ, thì tự nhiên lòng từ bi cho chính tự thân sẽ khiến cho họ phát khởi tâm từ bi cho gia đình, cho nơi làm việc và cho thế giới. Qua những thực tập căn bản, mọi người có thể cho phép mình được nghỉ ngơi, thư giãn, tìm lại sự cân bằng cho thân và tâm, nhờ thế họ có thể sống trong hiện tại hơn là sống cho tương lai hoặc sống trong quá khứ.
Sự hiện diện của chúng tôi tại hội nghị chính là một bằng chứng cho thấy sức mạnh của những hạt giống mà Thầy đã gieo – vào năm 2013 – với nhiều tình thương trong tâm của ít nhất một doanh nhân, người đã toàn tâm toàn ý tìm cách chia sẻ những lời Thầy dạy cho biết bao người. Ý thức này giúp chúng tôi tiếp tục cố gắng đem sự thực tập đến cho giới doanh thương – gieo trồng hạt giống của hiểu và thương. Ngày nay, khi thế giới bị toàn cầu hóa, kỹ nghệ hóa và quân đội hóa, nhu cầu tâm linh lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta biết cách thức làm ăn của các tập đoàn, của các chính phủ và của xã hội ngày nay đã tạo ra rất nhiều đau khổ. Rất nhiều căn bệnh của thời đại – như chiến tranh, xung đột xã hội, biến đổi khí hậu và những thảm họa môi trường – là hậu quả của việc tranh giành quyền lực và lợi nhuận. Những căn bệnh này có gốc rễ sâu xa từ sự bất an và bất mãn với chính bản thân cũng như với thế giới. Và do đó, chúng ta đã bị dẫn dắt một cách sai lầm trong khi tìm kiếm một cái gì đó để bù đắp cho sự thiếu thốn đó trong chính mình.
Chúng tôi không biết tương lai sẽ như thế nào, nhưng với sự chừng mực và quân bình của cuộc sống tăng thân, chúng tôi tin rằng mình đang đi đúng hướng. Sống theo mô thức tập thể trong tăng thân, chúng tôi có thể tiết chế, duy trì và được bảo hộ để không bị quyền lực, danh lợi và thành công cuốn đi. Và đây chính là dụng cụ giúp chúng tôi tiếp nối Thầy trong sự nghiệp gieo trồng tưới tẩm hạt giống của hiểu và thương trong giới doanh nhân.
Thủy chung vẫn một niềm thương
BBT: Thưa sư cô, sư cô đã bắt đầu cuộc hành trình tâm linh của mình như thế nào?
Sư cô Chân Đức: Cuộc hành trình tâm linh của Chân Đức (CĐ) bắt đầu từ Chúa Jesus. CĐ nhớ có một lần CĐ đến tham quan nhà thờ Thánh Sepulchre ở Jerusalem trong lúc các giáo phái Công giáo đang tranh giành nhau ngôi nhà thờ đó. Bỗng nhiên CĐ thấy Chúa Jesus. CĐ rất ngạc nhiên. Ngài không giống như trong hình CĐ thường thấy trong Thánh Kinh. Ngài đang cười và rất khỏe mạnh. CĐ băn khoăn không biết tại sao Ngài lại cười. CĐ nghĩ có lẽ Ngài đến thế gian này để đem lại bình an và hòa giải, mà ở đây những giáo phái đại diện cho Ngài lại không thể sống chung hòa hợp với nhau. Nhưng Ngài lại cười chứ không hề giận dữ.
CĐ được rửa tội tại nhà thờ địa phương khi chưa đầy một tuổi. Lúc còn nhỏ, ba CĐ thường đưa CĐ tới nhà thờ địa phương và CĐ rất thích ngôi nhà thờ này. Nó nằm trong thung lũng, cạnh một dòng sông. Nhà của bà ngoại CĐ ở gần đó. Có một lần ở xóm Hạ, CĐ nằm mơ thấy mình trở về nơi đó với tư cách của một tăng thân để thực tập thiền hành dọc theo bờ sông, và CĐ thấy ở đó có một thiền đường thật đẹp.
Hơn năm tuổi một chút, CĐ được đi học ở một trường thuộc nhà thờ Anh giáo. CĐ thường nhận được phần thưởng về môn Thánh kinh. CĐ không hề cố gắng mà cũng không nghĩ là mình giỏi môn này. Phần thưởng bao giờ cũng là một quyển sách về đạo Công giáo. Gia đình bên nội CĐ có rất nhiều người là tín đồ Công giáo thuần thành nên CĐ đã được trao truyền những hạt giống này.
Trường thứ hai CĐ học là một tu viện Công giáo, ở đó CĐ bắt đầu có ý nghĩ trở thành một nữ tu. Trong tu viện Công giáo người ta còn cầu nguyện nhiều hơn ở trường Anh giáo. Các nữ tu làm cho trường học trở thành như một gia đình. Không phải nữ tu nào cũng dạy học nhưng tất cả nữ tu đều gần gũi với học sinh. Những nữ tu nào không dạy học thì nhận những trách nhiệm khác như nấu ăn, làm vườn, chăm sóc giáo đường, hay rửa chén bát. Và học sinh thường giúp đỡ các nữ tu trong các công việc đó.
Khi vào đại học, CĐ bắt đầu quan tâm tới chủ nghĩa cộng sản. CĐ gia nhập vào một nhóm có tên là Công giáo – Mác-xít (catholic-marxists) và tham gia các hoạt động của nhóm này, bởi CĐ nghĩ họ sẽ đem lại công bằng nhiều hơn cho thế giới. Đó là vào những năm 1967-1968, khoảng thời gian mà sinh viên biểu tình rất nhiều trong các trường đại học ở Âu châu, trong đó có Anh quốc. CĐ không còn thỏa mãn với sự tín mộ trong tôn giáo mà cảm thấy mình cần phải hành động để có thể sống đúng với tín ngưỡng ấy. Sau khi tốt nghiệp đại học, CĐ đến thăm một tu viện thuộc dòng thánh Benedict ở Normandy một thời gian. CĐ cảm thấy rất gần gũi với các nữ tu, với thánh ca, với sự cầu nguyện. Các nữ tu ở trong một tu viện lớn dưới quyền của một ông viện trưởng. Một hôm CĐ hỏi ông viện trưởng là CĐ có thể trở thành một nữ tu hay không? Ông tỏ ra không nhiệt tình gì mấy và đề nghị CĐ nên là một cư sĩ thì hay hơn. Sau đó CĐ dần dần xa nhà thờ và không còn thực tập nữa.
Năm 1970, CĐ sang Hy Lạp để giảng dạy về cổ ngữ Hy Lạp và tiếng Phạn trong một trường học quốc tế. CĐ sống chung với những người Hy Lạp gốc Á châu. Họ là những người sùng đạo Chính Thống giáo (Orthodox). Họ nghĩ là mọi người ai cũng phải có một tôn giáo để theo, và họ hỏi CĐ theo tôn giáo nào. CĐ trả lời là mình không theo tôn giáo nào cả. Họ bảo nếu CĐ dạy tiếng Phạn thì nên theo Phật giáo, và họ gởi CĐ tới một trung tâm Phật giáo Tây Tạng ở Athens, Hy Lạp. CĐ không hề có ý muốn thực tập theo đạo Bụt nên đi một cách rất miễn cưỡng. Khi tới trung tâm thì một sư cô người Tây Tạng nói được một ít tiếng Anh dẫn CĐ vào phòng thờ, chỉ CĐ cách lạy, rồi đưa một chuỗi tràng hạt, dạy CĐ đọc câu Om Mani Padme Hum mỗi khi lần một hạt. Trước khi CĐ ra về, sư cô nói với CĐ là tháng tới sẽ có một vị Lama lớn tới trung tâm và khi đó CĐ nên trở lại, mà đừng nên tới sớm hơn.
Một tháng sau CĐ trở lại. Trong phòng thờ đầy nghẹt cả người, CĐ thấy một vị Lama đang thuyết pháp bằng tiếng Tây Tạng, kế bên ông là một thầy tu trẻ thông dịch ra tiếng Anh: “Một người nọ đang đi trên đường. Anh ta thấy có một cái gì đang nằm trên đường và nghĩ đó là một con rắn. Tim anh bắt đầu đập thật nhanh tại vì anh ta rất sợ. Nhưng khi nhìn lại, anh thấy đó không phải là con rắn và sự sợ hãi trong anh biến mất liền lập tức. Cũng giống như tri giác của chúng ta vậy, chúng ta sợ những cái không có thật. Khi những tri giác sai lầm không còn nữa thì sự sợ hãi cũng không còn”.
Bài pháp thoại đánh động CĐ một cách sâu sắc đến nỗi CĐ không thể dùng từ ngữ để diễn tả được. CĐ nghĩ: Đây là sự thật mà CĐ vẫn luôn biết nhưng chưa có ai tưới tẩm sự hiểu biết đó trong CĐ. Cứ như là bài pháp thoại của vị Lama đã có sẵn trong CĐ rồi vậy.
Khi đó là vào dịp Tết tây, và sắp sửa có một lễ quy y. Sư cô có tên là Anila hỏi CĐ có muốn nộp đơn xin quy y hay không? CĐ hỏi sư cô nhiều câu ngớ ngẩn về vấn đề quy y và sư cô đã từ chối trả lời. Cuối cùng sư cô nói: “Hãy chờ tới ngày mai xem sao. Nếu cô muốn quy y thì quy y, nếu cô không muốn thì thôi vậy”.
Sáng hôm sau, CĐ đến dự buổi lễ và ngồi ở sau cùng. CĐ không được kêu tên vì đã không nộp đơn. Khi vị Lama hỏi: “Còn ai nữa không?”. Không hiểu sao CĐ đứng lên và ra tham gia cùng những người khác. CĐ quỳ xuống để cho vị Lama cắt vài sợi tóc của mình. Sau đó, vị Lama tìm trong xấp thẻ có ghi các pháp danh và chọn ra pháp danh cho CĐ là Karma Trashi Zangmo. CĐ thích pháp danh này. Karma có nghĩa là hành động, phần còn lại có nghĩa là tốt lành. Vị Lama đó có tên Khenpo Tsultrim Gyatso, là một người Tây Tạng tị nạn ở Bhutan. Ngài có thành lập một ni viện tại Bhutan, hy vọng một ngày nào đó CĐ có thể tới thăm nơi này.
Năm 1980, CĐ sang Ấn Độ. Lần đầu tiên đặt chân lên đất Ấn, CĐ có cảm tưởng là mình đang về nhà. CĐ cảm thấy rất thân quen với nước Ấn mặc dù không khí của New Dehli rất ô nhiễm. Nhìn trẻ con chơi đùa, CĐ có cảm giác mình đã thấy cảnh này trước đây rồi. Cho nên, mười hai tiếng đồng hồ ngồi không thoải mái trên xe bus vẫn không làm cho CĐ nản lòng. Khi tới chân rặng núi Himalaya vào lúc hoàng hôn, CĐ đã rất xúc động khi nhìn những đỉnh núi phủ tuyết trắng xóa, thật huy hoàng. Mỗi lần ngắm những đỉnh núi ấy, CĐ thấy mình phải sống một đời sống tâm linh và vượt thoát những ràng buộc của sinh tử.
Lúc đầu, CĐ ở trong tu viện của các sư cô. Tu viện có tên là Tiklopur, được đặt theo tên của đạo sư Tilopa, người đã tu tập ở đây, trong một cái động bên bờ sông. Tu viện này có khoảng ba mươi sư cô. CĐ ngủ trong một căn nhà hai phòng với một sư cô khác. Giường rất cứng và CĐ chưa bao giờ có thể ngủ cho tròn giấc bởi vì CĐ rất không thoải mái. Không có nước máy trong tu viện nên phải đi lấy nước từ giếng làng gần đó.
Sau đó, CĐ rời ni viện để về sống trong một tu viện khác nằm cao hơn, ở chân núi Himalaya. Đó là tu viện nằm một nơi hẻo lánh không có đường xe tới. CĐ phải đi bộ tám cây số băng qua những cánh đồng lúa, những con sông và những cánh rừng để tới đó.
Điều kiện sống ở đây rất tối thiểu. Mặc dù vậy, các thầy ở đây tu tập thật tinh tấn. Hạnh phúc và sự thảnh thơi, an lạc của một số thầy làm cho CĐ rất ấn tượng. Một hôm CĐ thấy một thầy ngồi trên đỉnh đồi nhìn xuống cánh đồng. Thầy ngồi thật an nhiên, hoàn toàn mãn ý trong giây phút đó, “không đi đâu nữa, có chi để làm”. Niềm an lạc tỏa rạng của thầy đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng CĐ.
Sự thực tập của các sư cô là trì chú trong mọi sinh hoạt, và vài giờ đồng hồ trong ngày ngồi lại với nhau để tụng kinh. CĐ được dạy câu chú “Om Mani Padme Hum”. CĐ thường tụng câu chú đó theo những âm điệu mà CĐ đã biết. Một ngày kia trong lúc đang tụng chú, bỗng nhiên CĐ thấy không phải CĐ là người đang tụng chú. Những rặng núi ngoài kia đang đáp lại tiếng tụng của CĐ. Có lẽ đó là do năng lượng tập thể. Rất nhiều người đã tụng chú “Om Mani Padme Hum” tại chỗ này, và nó đã trở thành một phần của môi trường chung quanh. CĐ yên lặng thưởng thức cái cảm giác “trong ngoài là một” đó.
Tuy nhiên cũng đến lúc CĐ phải chăm sóc cho thân của mình. CĐ không được khỏe lắm. CĐ băn khoăn không biết phải làm sao? Tình cờ ngày đó có một thầy nghé thăm. Thầy cầm theo một cái radio và thầy kể cho CĐ nghe về căn cứ quân sự Greenham Common và những người phụ nữ đang biểu tình ở đó để ngăn chặn không cho Mỹ đem vũ khí hạt nhân ra gây chiến. Thầy hỏi tại sao CĐ không có mặt ở đó với họ. Ngay lúc đó CĐ quyết định đó là việc CĐ muốn làm, nhằm góp phần ngăn chặn chiến tranh.
Về lại Anh, Chân Đức lên kế hoạch đi đến Greenham Common. Lúc đó là vào cuối tháng ba và nhiệt độ vẫn còn dưới 0 độ, nhưng CĐ muốn thực tập ngủ ngoài trời không có lều và mái che vì những phụ nữ đang ở Greenham đều phải làm như vậy. CĐ có thể ngủ ngoài trời một cách thoải mái nên quyết định khởi hành. CĐ muốn đi bộ càng nhiều càng tốt. CĐ nghĩ mình có thể không cần thức ăn và dọc đường CĐ có thể gõ cửa nhà người ta để xin nước uống. CĐ mang giày ống bằng cao su. CĐ không biết là mình đã đi bộ bao lâu nhưng khi tới Greenham Common thì chân phồng rộp hết, và CĐ phải đi đứng rất khó khăn trong vài ngày.
Những phụ nữ ở Greenham rất dễ thương. Họ dựng nhiều trại chung quanh căn cứ. Họ có một hệ thống những người tình nguyện làm những công việc như nấu nướng, đào hầm vệ sinh, giữ cho lửa không tắt và canh gác ở cổng, chỗ mà vũ khí hạt nhân có thể được chở ra. CĐ được cho một tấm nhựa để bao túi ngủ lại nếu trời mưa. Trong khi canh gác, CĐ thường thực tập thiền ngồi bên ngoài hàng rào. Lúc nào cũng có một toán phòng vệ đi tuần tra bên kia hàng rào. Thường thì họ rất thân thiện. Họ nói CĐ sẽ bị đông đá đến chết nếu còn tiếp tục ngồi đây và hỏi CĐ làm gì trong khi ngồi thiền.
Những người phụ nữ không quan tâm gì mấy tới Phật giáo và thiền tập, nhưng khi CĐ hỏi có ai muốn phối hợp hoạt động hòa bình với thiền tập hay không thì có người cho CĐ biết về hội Buddhist Peace Fellowship (Phật tử thân hữu tranh đấu cho hòa bình). CĐ tìm tòi và nhận được một bản tin của hội. Lần đầu tiên CĐ đọc được một bài thơ của Thầy, đó là bài thơ Hãy gọi đúng tên tôi, và thấy hình Thầy đang rót một tách trà.
BBT: Thưa sư cô, làm thế nào mà sư cô biết đến Sư Ông và Làng Mai?
Sư cô Chân Đức: CĐ đến sống trong một cộng đồng với những thành viên của hội Buddhist Peace Fellowship. Họ muốn tổ chức một khóa tu để mời Thầy tới nước Anh. Cuối cùng CĐ là người đứng ra tổ chức và tìm địa điểm. CĐ tìm được một lâu đài rất cũ và lạnh lẽo ở miền Bắc nước Anh. Hồi đó là vào tháng 3 năm 1986. CĐ ra đón Thầy ở phi trường Luân Đôn. Khi thấy Thầy và sư cô Chân Không, CĐ có cảm tưởng như là mình được gặp lại người thân sau một thời gian dài vắng bóng. Sau khóa tu, Thầy hỏi CĐ có muốn về ở Làng Mai trong 6 tuần lễ hay không. Dĩ nhiên là CĐ thưa “Dạ có!”
CĐ về Làng vào tháng 7 và trong khóa tu mùa hè năm 1986, CĐ thọ 14 Giới Tiếp Hiện. CĐ nghĩ sẽ ở Làng một tháng và sau đó sẽ về Anh để dạy học, nhưng sau khi ở Làng một tháng, Thầy và sư cô Chân Không mời CĐ ở lại lâu dài. Thầy nói sống ở Làng, CĐ có thể được là chính mình. Nếu muốn, CĐ có thể trồng rau dền, ngò, cải bẹ xanh cho mùa đông. Sư cô Chân Không nói CĐ có thể dạy tiếng Pháp cho những người Việt Nam tị nạn đang sống ở Làng.
BBT: Xin sư cô chia sẻ một vài khoảnh khắc mà sư cô cảm thấy mình thực sự tiếp xúc sâu sắc với Sư Ông.
Sư cô Chân Đức: Lần đầu tiên mà CĐ cảm thấy có sự liên hệ sâu sắc với Thầy là lúc Thầy cho pháp thoại ở Anh vào tháng 3 năm 1986. Thầy giảng về Bát Nhã Tâm Kinh và sử dụng tờ giấy để làm thí dụ. Thầy đưa lên một tờ giấy và nói: “Nếu bạn có tâm hồn thi sĩ khi nhìn vào một tờ giấy, bạn sẽ thấy một đám mây bay trong ấy. Không có mây thì không có mưa, không có mưa thì cây cối không mọc được, và nếu không có cây thì làm sao có tờ giấy này trong tay bạn? Cho nên tờ giấy có mặt là vì đám mây có mặt, không có mây thì không có tờ giấy. Đám mây và tờ giấy phải nương vào nhau để hiện hữu, cái đó gọi là tương tức”. Khi nghe lời giảng của Thầy lúc ấy, CĐ cảm thấy mình không còn cần tìm kiếm gì hơn nữa.
Lần thứ hai là khi CĐ tới Làng lần đầu tiên. Khi ấy, Thầy dạy cách thỉnh chuông để hướng dẫn buổi ngồi thiền. Thầy thường tới thiền đường và ngồi ở những chỗ khác nhau. Một hôm Thầy ngồi kế bên CĐ, CĐ cảm nhận từ Thầy một năng lượng tuyệt vời của định lực và sự khinh an. Nhiều khi CĐ nhầm lẫn Thầy với ba CĐ. Thầy nói: “Chắc thầy phải đeo một tấm biển ghi ‘Thầy không phải là ba của con đâu’!”.
Thầy và sư cô Chân Không rất dễ thương với CĐ vì hiểu được lối sống Tây phương của CĐ. Hai vị không đòi hỏi gì ở CĐ cả mà cho phép CĐ được là chính mình. Sau này CĐ có hỏi Thầy: “Con có thể làm gì khác hơn là làm chính mình?”, thì Thầy nói rằng trong đạo Bụt có giáo lý vô ngã, nghĩa là không có một cái ta riêng biệt. Thầy luôn luôn dạy CĐ từng chặng một. Lúc đầu Thầy bảo CĐ làm hạnh phúc cho chính mình. Sau đó Thầy dạy CĐ cách thức giúp cho người khác. Thầy cho phép CĐ trải nghiệm những gì mà CĐ phải đi qua để tự mình học hỏi mà không bảo CĐ nên làm cái này hoặc không nên làm cái kia.
Thầy dạy cho CĐ cách nương tựa tăng thân. CĐ nhớ là vào năm 1986, một hôm CĐ hỏi Thầy là ở Làng có thể trồng trọt theo phương pháp hữu cơ hay không? Thầy nói miễn là mọi người trong tăng thân đều đồng ý thì cứ làm, nhưng đây là một vấn đề mà mọi người phải cùng nhau quyết định. Cuối cùng, mọi người không đồng ý nên Thầy nói CĐ có thể xin một khoảnh đất nhỏ và trồng trọt theo lối hữu cơ. Nếu mọi người thấy CĐ thành công thì sẽ muốn làm theo. Một hay hai năm sau đó, Làng Mai bắt đầu trồng trọt theo lối hữu cơ.
Sau khi Thầy bị đột quỵ, CĐ quan sát thấy Thầy vẫn tiếp tục trao truyền giáo pháp bằng sự sống của Thầy. CĐ rất ấn tượng khi nhìn Thầy ăn cơm trong chánh niệm. Mặc dù có khó khăn trong khi ăn nhưng Thầy có mặt hoàn toàn cho thức ăn. CĐ có thể thấy Thầy có mặt đó cho mặt trời, cho cơn mưa trong thức ăn cùng một lúc.
CĐ ấn tượng nhất là cách Thầy làm sáng tỏ những giáo lý của đạo Bụt. Thầy đã gạn lọc rất nhiều sự hiểu lầm và những trao truyền sai lạc trong giáo lý, giúp cho giáo lý đạo Bụt trở nên sáng tỏ và mang tính thực tiễn.
BBT: Có khi nào tăng thân yêu cầu sư cô làm một việc nào đó mà sư cô không thích nhưng sư cô vẫn làm vì vâng lời và nương tựa tăng thân? Sư cô có lời khuyên nào cho những người xuất gia trẻ khi tăng thân yêu cầu mình làm công việc mà mình không thích.
Sư cô Chân Đức: CĐ là tăng thân và tăng thân là CĐ. CĐ không có một cái ta riêng biệt. Khi CĐ muốn làm cái gì đó (như muốn đi Thái Lan chẳng hạn) thì CĐ hỏi tăng thân. Nếu tăng thân trả lời: “Sư cô hãy chờ một năm nữa” thì CĐ xem đó là một cơ hội. Tăng thân ở đây và tăng thân ở đó là một. Đôi khi mình muốn cái gì đó nhưng lại không biết cách trình bày ý muốn của mình một cách khéo léo nên tăng thân từ chối. CĐ nghĩ là CĐ không đủ khéo léo khi trình bày ý của mình. CĐ phải thử lại một lần nữa. Khi muốn làm việc gì thì CĐ hỏi ý một vài chị em mà CĐ tôn trọng ý kiến nhất để xem họ trả lời như thế nào. Nếu họ không đồng ý thì có khi CĐ bỏ luôn ý định của mình hay có khi CĐ vẫn thử trình bày ý muốn của mình trong buổi họp của Hội đồng Tỳ Kheo Ni. CĐ biết càng nhiều con mắt nhìn thì cái thấy càng sáng.
Nếu tăng thân yêu cầu CĐ làm một việc mà CĐ cảm thấy mình không đủ khả năng thì CĐ cố gắng giải thích cho tăng thân hiểu tại sao CĐ không làm được việc đó. Nếu tăng thân không chấp nhận sự giải thích của CĐ thì CĐ sẽ nhận làm công việc đó và tự nhủ rằng: “Nếu mình làm tốt thì tăng thân sẽ có lợi, còn nếu mình làm không tốt thì tăng thân sẽ không bao giờ yêu cầu mình làm nữa!”
BBT: Sư cô đã thực tập như thế nào để thích ứng và sống hòa hợp trong một môi trường văn hóa khác với môi trường văn hóa của mình?
Sư cô Chân Đức: Thầy và sư cô Chân Không đã có khả năng bơi lội được trong dòng sông của văn hóa Á đông và của văn hóa Tây phương. Cách sống của hai vị kết hợp được hai nền văn hóa một cách thoải mái. Đó là điều lôi cuốn CĐ tới Làng Mai. Thầy và sư cô Chân Không có khả năng khám phá ra được những châu báu của văn hóa Tây phương. Tất cả chúng ta cũng cần khám phá như thế. Người Tây phương phải khám phá những châu báu của nền văn hóa Việt Nam và người Việt Nam phải khám phá những châu báu của văn hóa Tây phương. Thầy thường kể về một sư cô người Việt ở Los Angeles biết cách thức uống trà với các thầy cô người Việt và với người Tây phương. Cách thức sư cô mời trà hay nhận trà có khác nhau trong mỗi trường hợp nhưng uống trà với ai sư cô cũng đều thấy thoải mái như nhau.
Có lúc CĐ cảm thấy không vui khi có những sư em người Việt sống ở Tây phương không thực tập theo một số điều cho phù hợp với khí hậu bên này, thí dụ như vào mùa đông khi ra vào cần đóng cửa để giữ hơi ấm trong nhà. Nhưng CĐ tự nhắc nhở mình là có những cái khác quan trọng hơn trong liên hệ chị em. CĐ phải kiên nhẫn và tiếp tục nhắc nhở các sư em mà không nên có thái độ bực bội, và cả hai bên sẽ cùng tiến bộ.
CĐ thấy mỗi trung tâm của Làng Mai đều nên sử dụng ba ngôn ngữ (Pháp, Anh, Việt hoặc Thái, Anh, Việt hoặc Đức, Anh, Việt, v.v..). Văn hóa xuất sĩ cần thời gian để có thể bắt rễ ở Tây phương. Chúng ta muốn đi nhanh nhưng chúng ta cũng không muốn làm mất đi phẩm chất của đời sống xuất sĩ.
BBT: Điều mà sư cô muốn trao truyền nhất cho các sư em của mình là gì?
Sư cô Chân Đức: Là người xuất gia, chúng ta không có những đứa con huyết thống. Tuy nhiên chúng ta cũng muốn được tiếp nối, và chúng ta phải tiếp nối trong các sư em của mình. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tu tập cho có nội dung mà không phải bằng hình thức bên ngoài. Chúng ta trao truyền lại cho các sư em nội dung của sự tu tập, tình thương và sự hiểu biết. Nếu chúng ta thật sự đã về đã tới và có hạnh phúc trong từng bước chân thì đó là sự trao truyền thật tuyệt vời mà không cần phải sử dụng lời nói.
BBT: Làm sao để mở lòng ra với những quốc gia khác? Làm thế nào để yểm trợ cho đất nước mình khi sống xa quê hương?
Sư cô Chân Đức: Những thầy tu Ấn Độ đã tới Việt Nam. Thầy Huyền Trang đã tới Ấn Độ và phải ăn cà ri Ấn. Các vị xuất gia trong Phật giáo xưa nay vẫn sẵn sàng sống ở nước ngoài. Cái chính là lòng mình có bình an và hạnh phúc hay không. Có thể chúng ta nghĩ là mình sẽ hạnh phúc hơn khi sống tại đất nước mình nhưng nếu tâm mình không an thì mình sẽ không có hạnh phúc. Giảng pháp bằng ngôn ngữ mẹ đẻ thì thoải mái, nhưng không có nghĩa là mọi việc đều sẽ dễ dàng. Chúng ta không cầu mong sự dễ dàng mà chỉ cầu có sức mạnh để làm được những việc không dễ dàng. Ở Việt Nam cần các thầy các sư cô và ở Tây phương cũng vậy. Chúng ta có cơ hội để đổi trung tâm và trải nghiệm được những nơi khác nhau trên toàn cầu. Đó là một cơ hội tuyệt vời!
BBT: Sư cô đã hết lòng chăm sóc cho mẹ trong những ngày cuối đời của bà và hiện cũng đang chăm sóc cho ba. Vậy sư cô có những lời khuyên nào cho những thầy, những sư cô trẻ về cách thức giúp cho cha mẹ trong lúc tuổi già hay khi họ hấp hối, với tư cách một người xuất gia hay không?
Sư cô Chân Đức: Đó là một sự thực tập rất tuyệt vời và sâu sắc! Chúng ta rời gia đình để trở thành một người tu và sau một thời gian tu tập, chúng ta lại trở về để giúp cho cha mẹ khi cha mẹ lâm bệnh nặng hoặc đang hấp hối. Sự thực tập của chính chúng ta phải thật vững chãi. Khi nào cha mẹ còn sống thì chúng ta phải thực tập cho có nội dung để hồi hướng công đức cho cha mẹ. Cha mẹ có thể tiếp nhận công đức đó và chuyển hóa. Chúng ta không cần phải ở gần cha mẹ mới có thể yểm trợ được. Tuy nhiên, tăng thân sẽ cho phép chúng ta được về chăm sóc cha mẹ khi thật sự cần thiết.
Việc đầu tiên chúng ta cần thực tập là phải buông bỏ hết mọi ý tưởng. Khi trở về giúp cha mẹ, CĐ có rất nhiều ý tưởng trong đầu là mình phải làm gì và làm thế nào. Nhưng những ý tưởng đó thật ra lại không thể thực hiện được. Trong nhà thương, bên giường bệnh, mình phải có mặt và đáp ứng được ngay với những gì đang xảy ra lúc đó, chứ không phải sử dụng những ý tưởng đã có sẵn của mình.
Lúc mẹ CĐ nằm nhà thương, khi từ giã mẹ về nhà tối hôm đó, CĐ không nghĩ đó là lần cuối cùng CĐ gặp mẹ khi bà còn sống. CĐ tới nhà thương sau khi hướng dẫn một ngày chánh niệm nên rất mệt. Mẹ CĐ nằm trên giường và CĐ hát cho mẹ nghe bài hát của Rumi, nhà thơ Sufi người Ba Tư nổi tiếng của thế kỷ 13:
Silence is an ocean,
Language is a river,
When thousands of voices in your head are speaking
You know: That’s enough for now.
When the ocean calls you,
Don’t go to the river,
Listen to the ocean saying: That’s enough for now.
“Im lặng là đại dương
Ngôn ngữ là dòng sông
Khi trong đầu có hàng ngàn tiếng nói
Thì ta biết: như thế đã đủ rồi.
Khi đại dương lên tiếng gọi
đừng nên tìm đến dòng sông
Hãy lắng nghe đại dương lên tiếng:
Như thế đã đủ rồi!”
CĐ ngồi trên giường bệnh của mẹ và hoàn toàn cảm thấy mình với mẹ là một. Mẹ là CĐ và CĐ là mẹ. Lúc đó tai của CĐ rất đau và CĐ rất mệt. CĐ nói với mẹ: “Tai con đau quá! Con có thể về nhà không mẹ?” Mẹ CĐ nói thật dịu dàng: “Ừ, con về đi!” CĐ để mẹ một mình trong bệnh viện. Sáng hôm sau cô y tá gọi điện thoại báo tin mẹ CĐ vừa mới mất. CĐ ân hận là mình đã không ở với mẹ lâu hơn.
Khi ba của CĐ lâm bệnh nặng, CĐ tới bên cạnh ba thì ba mê man và thỉnh thoảng ba nói sảng. CĐ xoa bóp cho ba thật nhẹ và hát vào tai ba những bài hát mà ba thích. Khi mới tỉnh dậy, ba không tin CĐ là con gái của ba. Ba lẫn lộn không biết mình đang ở đâu. Ba nghĩ mọi người muốn hại ba. CĐ nói với ba: “CĐ là con gái của ba” và ba nói: “Cô là một Phật tử thì chắc cô không nói dối”.
Có nhiều lúc CĐ tưởng ba CĐ sắp mất, nhưng rồi CĐ ngồi bên ba, theo dõi hơi thở của mình và nghe ông thở. Bỗng nhiên câu “Hãy thở và biết là bạn đang còn sống” trở nên rất thực đối với CĐ. Sự sống là một phép lạ! Mầu nhiệm thay khi ta đang còn sống! Và dĩ nhiên là nếu không có cái chết thì không thể có sự sống! CĐ muốn sống một cuộc sống thật tròn đầy, giống như ba CĐ đã thưởng thức và sống thật tròn đầy cuộc đời của mình! Đó là điều mà CĐ đã học được bên giường bệnh của ba!
BBT: Chúng con kính cảm ơn sư cô đã chia sẻ những kinh nghiệm tu tập rất thực tế và sâu sắc!
Xin nguyện đứng bên nhau
Mother, hear our call,
Here we stand.
No matter where we stand,
We are your children.
And we stand for the Truth of our Oneness.
May we stand in the steadiness of your Love
To protect you, Mother,
On your lap, we stand
To protect the humanity of all hearts
Facing each other, we stand.
In the Truth of our Oneness, we stand.
May we stand with no anger.
May we stand with no fear.
May we stand with no discrimination.
May we stand together,
Our hearts beating on the rhythm of the ancestor's drum.
May we stand in stillness
Calling upon winds and rains to carry our hope,
Opening hearts; Calling upon stars and suns to radiate our faith,
Opening eyes;
Calling upon hawks, trees and rocks to whisper our truth,
Freeing spirits.
And as we walk,
We'll keep on standing;
As we sit,
we'll keep on standing;
As we lie,
We'll keep on standing
As we dance and sing,
We'll keep on standing.
Mother, hear our prayer,
For here we stand.
Mỗi bước chân là phép lạ
“Mỗi buổi sáng thức dậy, sau khi rửa mặt, tôi choàng áo khoác lên rồi đi bộ quanh xóm Thượng. Ngoài trời vẫn còn tối. Tôi bước thật nhẹ, mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với thiên nhiên, trăng sao, cây cối, hạnh phúc vô cùng. Tôi có viết một bức thư pháp: “I am in love with Mother Earth” (Tôi yêu đất Mẹ). Giống như một chàng trai trẻ khi nghĩ tới người yêu thì lòng rộn ràng lên, tôi cũng vậy. Chỉ cần nhớ ở ngoài kia có trăng, có trúc, có con đường thiền hành thì trong lòng rộn lên. Đất Mẹ đã đem đến cho tôi biết bao hạnh phúc. Tôi yêu đất Mẹ, một tình yêu mà không bao giờ có sự phụ bạc. Tôi gửi tôi cho Mẹ, Mẹ gửi Mẹ nơi tôi…” (Trích dịch từ “Love letter to the Earth” – Thầy Làng Mai)
Khi còn bé, tôi thường nhìn đại dương mênh mông với một đôi mắt đầy kinh ngạc và thích thú. Biển là tình yêu đầu tiên của tôi. Mỗi năm ba tôi hay đưa chúng tôi đi cắm trại gần biển. Ba đã dạy tôi bơi và cách giỡn sóng để không còn sợ nước. Khi có bão lớn, ba lại dẫn chúng tôi ra bãi biển để nhìn những con sóng khổng lồ vỗ vào bờ.
Tôi nhớ là mình đã rất ấn tượng trước sự bao la, rộng lớn của bầu trời, của trăng sao. Vào mùa đông, chúng tôi được ba mẹ đưa lên núi. Ở đó, tôi cảm thấy mình có một sự liên hệ thật sâu sắc với thiên nhiên xung quanh và với sự tĩnh mặc của núi non hùng vĩ.
Ở vườn sau của ngôi nhà mà tôi đã sống thời thơ ấu có một cây đào rất đẹp, hè nào cũng trĩu quả thơm ngon. Khi Thầy cho tôi pháp tự “Chân Đào Nghiêm”, rất nhiều kỷ niệm về cây đào tuổi thơ ấy đã quay về. Hồi nhỏ, đối với tôi cây đào ấy đích thực là một người bạn. Ông bà tôi kể rằng hồi chiến tranh thế giới thứ II, có một trái bom đã rơi vào vườn nhưng không nổ. Tôi tin là cây đào ấy đã bảo hộ cho chúng tôi. Tôi đã có rất nhiều kỷ niệm vui trong khu vườn tuổi thơ ấy, nơi tôi cùng với anh chị chơi đùa dưới bóng cây đào.
Một cây liễu cổ thụ ở trong vườn của ông bà ở dưới quê là một người bạn khác của tôi. Ông tôi rất thích ngồi dưới cội cây này và tôi hay ra chơi với ông dưới những cành liễu thướt tha theo gió. Tôi biết bất kỳ lúc nào muốn tìm ông, tôi cũng có thể đến đó. Ông ngồi đó và dù là ông đi đứng không dễ dàng lắm, ông luôn sẵn sàng có mặt để chơi với chúng tôi. Cây liễu cũng vậy, luôn luôn có đó. Bây giờ bất cứ khi nào thấy một cây liễu, tôi cũng cảm thấy sự vững chãi và tình thương của ông tôi.
Ở xóm Hạ, tu viện mà tôi đang sống, tôi cũng thường hay ngồi dưới gốc liễu vào mỗi buổi sáng sớm và thưởng thức cái tĩnh lặng của bình minh với một tách trà.
Trước khi đến Làng Mai, tôi đã sống trong một cộng đồng tu tập, nơi đó chúng tôi cũng thực tập thiền hành. Tôi thích đi trong sự tĩnh mặc và giữa cái đẹp của thiên nhiên. Tuy nhiên, lúc đó tôi chưa biết cách dừng cái tâm rong ruổi của mình lại, tôi hay nghĩ về tương lai. Vừa đi tôi vừa lên kế hoạch cho ngày hôm đó, cho nên tôi không thật sự có mặt để tiếp xúc với đất Mẹ. Thậm chí, việc này xảy ra ngay khi tôi đi trong sự yên lặng của những cảnh đẹp tuyệt vời khó diễn tả bằng lời. Chỉ đến khi tôi đến Làng Mai và bắt đầu thực tập thiền hành với Thầy, đi theo những bước chân chánh niệm của Thầy, tôi mới bắt đầu khám phá sức mạnh chuyển hóa và trị liệu của pháp môn này.
Tôi đã đọc rất nhiều sách của Thầy trước đó, vì vậy tôi rất mong được thấy Thầy đi thiền hành để có thể hiểu được tại sao Thầy lại ưa thích và xiển dương pháp môn này đến thế. Lần đầu tiên khi gặp Thầy, tôi đã thật sự ấn tượng khi được tận mắt nhìn thấy Thầy và đại chúng cùng đi như một dòng sông. Thầy đi thật thanh thoát, bình an với một sự tĩnh lặng nội tại rất hùng tráng. Giờ đây tôi vẫn thấy Thầy đang đi bằng đôi chân của chúng tôi, dù Thầy không còn tự đi được nữa mà phải đi thiền hành trên xe lăn.
Nhờ thiền hành mà rất nhiều vết thương trong tâm tôi đã được chữa lành. Có lần Thầy dạy chúng tôi “cùng đi với ba”. Đầu tiên là hình dung mình đang nắm lấy tay ba, rồi thấy mình đang đi bằng đôi chân của ba. Ba tôi đã qua đời khi tôi chưa đầy 20 tuổi nhưng tôi vẫn làm theo lời Thầy hướng dẫn. Tôi cho phép mình cảm thấy sự hiện diện của ba ở bên cạnh. Ba nắm lấy tay tôi và ngắm cảnh thiên nhiên qua đôi mắt của tôi. Rồi tôi thấy đôi chân mình chính là đôi chân của ba đang đi trên mặt đất. Lòng tôi tràn ngập niềm vui vì đã có thể tiếp xúc được với ba sau rất nhiều năm. Đó là một kinh nghiệm thật sâu sắc.
Hồi còn nhỏ, có lần tôi đứng trên hai bàn chân của ba và ba đã dạy tôi khiêu vũ. Có biết bao nhiêu kỷ niệm đẹp thời thơ ấu mà tôi đã lãng quên. Tôi rất mang ơn Thầy đã dạy cho tôi pháp môn mầu nhiệm này và làm thay đổi cuộc đời tôi. Tôi vẫn đang tiếp tục đi với ba, hòa giải với ba qua pháp môn thiền hành. Pháp môn này giúp tôi hiểu ba tôi hơn nhiều so với lúc ông còn sống. Nó đã giúp tôi kết nối với ba một cách sâu sắc và đem lại sự trị liệu cho cả hai cha con. Không những vậy, tôi còn trò chuyện và viết thư cho ba. Tôi nói cho ba biết là tôi thương ba và luôn ý thức là ba vẫn luôn ở bên cạnh tôi, ba chưa bao giờ rời bỏ tôi hết.
Trong rất nhiều năm, pháp môn thiền hành mầu nhiệm này cũng giúp tôi thực sự có mặt cho những người thân khác. Khi chị tôi bị bệnh ung thư máu hoặc khi Thầy bị hôn mê, tôi đã thực sự có mặt trong từng bước chân chánh niệm để chế tác năng lượng bình an và trị liệu. Tôi thấy rất rõ ràng rằng nếu tôi để cho tuyệt vọng, buồn khổ và lo lắng cuốn đi thì tôi không thể nào giúp cho những người thân. Hơi thở và bước chân chánh niệm là điều tốt nhất mà tôi có thể hiến tặng cho người thân và chính mình. Tôi biết ơn những người thân đã cho tôi thấy mỗi giây phút của sự sống là quý giá vô cùng.
Năm 2013, tôi cùng con gái Sivakami thực hiện chuyến đi bộ 40 cây số xuyên dãy Pyrénées từ Đại Tây Dương qua Địa Trung Hải. Chuyến đi ấy là một món quà tôi dâng tặng cho ba, cho mẹ và anh chị em tôi – những người đã khuất, và cho tất cả tổ tiên. Đó là dịp kỷ niệm 40 năm ba tôi qua đời, và tôi tròn 60 tuổi. Trong suốt chuyến đi, tôi có thể thấy tổ tiên có mặt với tôi trong những đám mây, trong chim muông, cây cỏ, trong sự tĩnh lặng, trong đá, trong hoa.
Sivakami – con gái tôi – đã bắt đầu đến Làng 14 năm về trước, từ lúc tôi còn đang tập sự xuất gia. Sivakami cũng rất thích đi thiền hành cùng Thầy và đại chúng. Trong Sivakami luôn có một tình yêu thiên nhiên sâu sắc. Đầu tiên, con gái rủ tôi đi bộ một tuần dọc tuyến đường hành hương Saint James, sau đó là chuyến đi xuyên Pyrénées 40 ngày. Bây giờ thì cứ hai hoặc ba năm, hai mẹ con lại cố gắng tổ chức một chuyến leo núi. Thường thì chúng tôi cùng đi trong yên lặng một cách chậm rãi, thường xuyên dừng lại để thở ba hơi và thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên. Tối đến, chúng tôi mới chia sẻ với nhau những gì sâu sắc nhất. Càng đi, chúng tôi thấy tâm mình càng tĩnh lặng và có một niềm vui sâu lắng.
Chúng tôi thích đi và mang tất cả những vật dụng cần thiết trên lưng trong khi đi: thức ăn, lều, gas và nước uống. Đi như thế cho tôi một bài học là tôi không có nhu cầu nhiều như tôi tưởng. Thí dụ như trong chuyến đầu tiên, chúng tôi mang theo một lượng thức ăn khổng lồ vì sợ đói, dần dần chúng tôi thấy chỉ cần một ít trái cây khô, hạt, một lát bánh mì và nước là đã đủ. Leo núi giúp tôi chuyển hóa những cái sợ, biết tin vào cơ thể và khả năng tự nhiên của mình cũng như giúp tôi cảm nhận được một tình yêu sâu sắc đối với đất Mẹ.
Tôi nhớ lần đầu tiên khi mới bắt đầu đi với một cái ba lô nặng trịch, tôi đi rất hăng hái và tràn đầy năng lượng. Nhưng chỉ một lúc sau tôi đi càng lúc càng khó khăn, phải dừng lại để thở và vất vả lắm tôi mới có thể đi tiếp được. Sivakami dừng lại và bảo “Mẹ, thở đi mẹ!” rồi bắt đầu đi trước, rất chậm rãi. Sivakami nói: “Khi mẹ thấy tim đập mạnh và gấp gáp nghĩa là mẹ đi quá nhanh, cơ thể mẹ không chịu được. Mẹ đi chậm thôi, để ý cứ mỗi bước chân thì một hơi thở”. Tôi đi phía sau con gái và bắt đầu để hết tâm vào hơi thở, kết hợp với bước chân. Đột nhiên leo núi với một cái ba lô nặng trĩu sau lưng trở nên dễ dàng. Rất nhiều lần tôi phải đi qua những con đường núi hiểm trở, những khi ấy tôi chỉ có thể đi được khi chú tâm 100% vào bước chân, hơi thở, đặt hết niềm tin vào đất Mẹ, đồng thời tôi cũng có mặt 100%. Tôi thấy rất an toàn và được đất Mẹ chở che. Giống như bài thực tập mà Thầy đã dạy:
Để Bụt thở, để Bụt đi,
Mình khỏi thở, mình khỏi đi
Bụt đang thở, Bụt đang đi,
Mình được thở, mình được đi
Bụt là thở, Bụt là đi,
Mình là thở, mình là đi
Chỉ có thở, chỉ có đi,
Không người thở, không người đi.
Hồi nhỏ, tình yêu thiên nhiên của tôi có pha lẫn một chút sợ hãi, nhất là khi trời nổi cơn sấm sét. Khi nghe tiếng sấm, tôi thường khiếp sợ, nấp dưới gầm bàn và khóc vì nghĩ đó là lúc thiên nhiên đang lên cơn phẫn nộ đối với loài người. Trong những chuyến leo núi, nỗi sợ này quay trở lại. Có một đêm, hai mẹ con đang cắm lều gần một cái hồ đóng băng thì một cơn bão lớn ập tới. Bên cạnh tôi, Sivakami ngủ thật bình yên. Chiếc lều nhỏ bé mong manh là cái duy nhất bảo vệ chúng tôi. Tôi có thể thấy nỗi sợ hãi dâng lên trong lòng.
Tôi nhận diện cái sợ của em bé trong mình và bắt đầu tưởng tượng ra đủ thứ tình huống có thể xảy ra. Tôi không có chọn lựa nào khác là phải giữ bình tĩnh, không chao đảo. Tôi quay lại với hơi thở, nghĩ thầm: “Nếu mình có chết thì phải chết với năng lượng bình an mới được”. Để giữ cho tâm an tĩnh, tôi bắt đầu niệm danh hiệu của Bồ tát Quán Thế Âm. Ở bên ngoài bão tố suốt đêm, nhưng em bé trong tôi đã có nhiều bình yên và an toàn vì đã được tôi, bây giờ đã là một người trưởng thành ôm ấp.
Nhờ Thầy, tôi đã học cách hoàn toàn chú tâm đến sự tiếp xúc giữa bàn chân với đất Mẹ, để cho đôi bàn chân hôn lên đất Mẹ, hoàn toàn có mặt để tâm tôi không còn rong ruổi nữa. Thực tập pháp môn thiền hành càng nhuần nhuyễn, tôi càng thấy sự liên hệ giữa mình với đất Mẹ, với tổ tiên, với những người xung quanh càng sâu sắc. Bức tường ngăn cách của tri giác và sợ hãi trong tôi dần dần tan biến đi để nhường chỗ cho niềm vui và hạnh phúc thật sự.
Lần đầu tiên khi nghe Thầy nói về tình thương đối với đất Mẹ và về tình thương vô lượng mà đất Mẹ dành cho chúng ta, tôi bắt đầu cảm được tình thương của đất Mẹ. Đó là một kinh nghiệm rất sâu sắc bởi vì đồng thời tôi cũng nhận được tình thương của mẹ tôi, người mà tôi luôn tưởng nhớ. Mẹ tôi luôn hiện diện trong đất Mẹ mọi nơi mọi lúc, và khi tiếp xúc với đất Mẹ tôi có thể cảm được sự nâng niu và dịu dàng của mẹ. Khi tình yêu đất Mẹ trong tôi tăng trưởng, có mặt với Mẹ trở thành sự ưu tiên của tôi. Tôi dành nhiều thời gian hơn cho thiên nhiên khi sống ở Thiền đường Hơi Thở Nhẹ, Paris. Mỗi sáng sớm tôi đều đi dọc dòng sông Marne, để được đất Mẹ ôm ấp, thương yêu. Sự thực tập đó đem lại cho tôi rất nhiều trị liệu. Tôi nương tựa nơi đất Mẹ trong khi đi. Tôi chỉ có thể thật sự hòa làm một với đất Mẹ khi có chánh niệm trong mỗi bước chân và hơi thở.
Càng ngày sự thực tập thiền hành của tôi càng sâu sắc. Tôi rất may mắn có cơ hội được đi thiền hành cùng Thầy và tăng đoàn ở rất nhiều thành phố và các miền quê, được tận mắt chứng kiến pháp môn này đã mang đến bình an và trị liệu ngay tại chỗ cho chính tự thân và cho thế giới như thế nào.
Trong tương lai có thể chúng ta sẽ không còn được nhìn thấy vẻ đẹp của đất Mẹ như hiện nay nữa. Vì vậy, ý thức sự có mặt quý giá của đất Mẹ là một điều quan trọng. Hãy ưu tiên có mặt với thiên nhiên. Trước đây, tôi nghĩ là tôi có quá nhiều cái quan trọng hơn cần phải thực hiện và tôi không có thời gian để ra với thiên nhiên. Nhưng thực tế thường ngược lại. Có mặt với thiên nhiên, tiếp xúc với cỏ cây, chim chóc, chúng ta sẽ trở nên gần gũi hơn với thế giới xung quanh, nhờ đó chúng ta trở nên sáng tỏ hơn, vững chãi, bao dung và bình an hơn. Đất Mẹ là người thầy vĩ đại nhất của chúng ta. Chúng ta cần phải lắng nghe đất Mẹ. Nhưng để có khả năng lắng nghe đó, ta cần phải biết dừng lại và làm sao để thực sự có mặt. “Mỗi bước chân là phép lạ”, như Thầy đã nói.
Tôi thấy đi thiền hành với những vận tốc khác nhau rất là có ích. Tôi thích bắt đầu một ngày bằng cách đi thật chậm, dành thời gian để có mặt hoàn toàn trong từng bước chân. Suốt cả ngày tôi quán sát khuynh hướng vội vã của mình trong các hoạt động, nhưng tôi biết cách để quay về nương tựa nơi đất Mẹ.
Hãy đi cho những người thương, đi cho những người bệnh không còn khả năng đi nữa, đi cho những người thương đã khuất. Hãy hiến tặng những bước chân của bạn cho những người thân yêu. Hãy cảm nhận tình thương của những người đó dành cho bạn. Nên biết là đất Mẹ rất yêu thương bạn. Mỗi bước chân đi trên đất Mẹ thật là quý báu. Cha mẹ, anh chị của tôi đã không sống được tới tuổi của tôi bây giờ, tất cả đã ra đi khi tuổi đời khá trẻ, vì vậy tôi ý thức một cách sâu sắc mỗi bước chân của mình quý giá đến ngần nào.
Đi tìm ý nghĩa của đời sống
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng đi tìm cho mình một ý nghĩa của đời sống. Người chưa tìm ra được một ý nghĩa cho đời sống thì chưa có hạnh phúc, chưa có năng lượng. Nếu không khéo thì người đó có thể rơi vào tình trạng trống rỗng hiện sinh (existential vacuum). Tình trạng trống rỗng đó buộc con người phải đi tìm một cái gì đó để khỏa lấp. Thường thì người ta đi tìm nơi đối tượng của dục. Có người tìm quên nơi rượu, có người sử dụng ma túy, có người tìm trong âm nhạc, trong những cuộc vui thâu đêm, cũng có người tìm nơi sắc dục để khỏa lấp sự trống rỗng trong lòng.
Vào khoảng năm 1965, trong một cuộc thăm dò người ta thấy rằng ở châu Âu số lượng sinh viên có được một chủ đích sống trong cuộc đời lên tới 60 – 65%, trong khi số lượng sinh viên ở Mỹ chỉ có hơn 20%. Sự kiện “trống rỗng hiện sinh” là một triệu chứng của thời đại. Đó không phải là triệu chứng bất an của một cá nhân mà là triệu chứng tập thể của một xã hội. Người ta có cảm giác trống rỗng, cảm thấy đời sống không có ý nghĩa và rồi phải tìm tới những phương tiện để khỏa lấp. Nhưng vì không được soi sáng nên họ đi về hướng sắc dục, ma túy và bạo động.
Vì vậy chúng ta phải làm thế nào để giúp cho người trẻ có được một ngọn lửa trong lòng, tìm ra được một ý nghĩa của cuộc sống, biết mình sống để làm gì, sống vì cái gì, sống vì người nào, sống vì một chính nghĩa nào. Chúng ta không thể đưa ra một ý nghĩa của đời sống nào đó và mời họ: “Đây là một chính nghĩa, anh lấy đi để xài!”. Công việc mà chúng ta có thể làm là soi sáng cho người đó, giúp cho họ tìm ra được một ý nghĩa của cuộc đời.
Tưới tẩm hạt giống tốt
Thỉnh thoảng có những người tới Làng Mai trong tình trạng như vậy. Họ nói: “Tôi không cảm thấy đời sống của mình có một ý nghĩa gì cả! Tôi thấy chết hay sống cũng giống nhau thôi!”. Sự chán nản bao trùm lên những người đó. Khi đối diện với những người như vậy thì chúng ta phải làm gì để giúp họ? Chúng ta không thể nói một bài pháp thoại hay cho ý kiến để người đó chấp nhận. Chúng ta phải tìm cách nhìn sâu để có thể hiểu được, nhận diện được những hạt giống tốt của người đó, và chỉ cho họ phương pháp tưới tẩm những hạt giống tốt đó nơi họ. Đức Như Lai có dạy rằng người nào cũng có hạt giống tốt của tâm bồ đề. Khi được tưới tẩm thì hạt giống tâm bồ đề của ta biểu hiện ra cách này, và của người kia thì biểu hiện ra cách khác.
Vấn đề không phải là trao truyền những ý kiến mà là làm thế nào để giúp người kia tìm ra được lẽ sống của chính người đó. Ta sẽ không làm được chuyện đó nếu ta không biết gì về quá khứ cũng như hiểu được cách sống của người đó trong giây phút hiện tại. Những bài pháp thoại của chúng ta chỉ có tác dụng tưới tẩm, khơi lối cho người kia tìm ra được mục đích, ý nghĩa của đời họ. Ta cho pháp thoại không chỉ bằng lời nói mà còn có thể bằng cách sống của mình. Ta sống một cuộc sống có lý tưởng, có thương yêu, có mục đích. Ta hành xử và tỏa chiếu niềm vui, năng lượng. Rồi khi tiếp xúc được với con người và với cách sống của ta thì người đó có cơ hội nhìn trở lại để khám phá ra trong bản thân họ có một cái gì tương tợ mà lâu nay đã bị bít lấp và đè nén.
Đôi khi người kia bị kẹt, bị những trở lực, và có những bức màn ngăn che không cho người đó thấy được khía cạnh tốt đẹp của chính mình. Ta có thể giúp người đó lột bớt bức màn ngăn che, tháo gỡ những chỗ kẹt để cuối cùng người đó có thể tiếp xúc với những cái đẹp, cái lành, cái thật nơi họ. Họ tìm ra được hướng đi của đời mình.
Ý tư liệu pháp (Logothérapie)
Nhà phân tâm học Viktor Frankl là cha đẻ của phương pháp trị liệu “Logothérapie”. Nếu dùng danh từ Phật giáo chúng ta có thể dịch “Logothérapie” là: ý tư liệu pháp. Ý tư mượn từ chữ ý tư thực (có khi còn gọi là tư niệm thực), tức là ước muốn (volition, deep desire). Nếu có ước muốn là ta có năng lượng và ta có thể đi tới. Những người chán chường, không muốn sống là những người không tìm ra được ý nghĩa của đời sống.
Frankl đã từng sống rất lâu trong trại tập trung của Đức Quốc Xã (Nazi) và đã trải qua những khổ đau, tuyệt vọng cho đến nỗi ông đã từng nghĩ rằng mình không có khả năng sống sót trở về. Ông là một nhà tâm lý trị liệu có tài. Ông đã sáng tác một tác phẩm nói về phương pháp trị liệu gọi là “ý tư liệu pháp”. Trong đó, ông muốn trao truyền những kinh nghiệm và tuệ giác của mình lại cho đời. Nhưng khi ông bị chuyển tới trại tập trung Auschwitz thì người ta khám phá ra bản thảo và đã tịch thu tác phẩm của ông. Đó là đứa con tinh thần, là lẽ sống của ông. Bây giờ đứa con tinh thần bị tiêu hủy thì cuộc sống của ông còn có ý nghĩa gì nữa?
Trong điều kiện sống tồi tệ ở trại tập trung, người ta rất dễ dàng trở thành nạn nhân của sự tuyệt vọng. Nhưng ông đã tìm cách để sống sót. Sau khi lột áo ông để lấy bản thảo, người ta đưa cho ông cái áo rách tả tơi của một tù nhân vừa bị cho vào lò hơi độc. Trong cái áo tả tơi đó, ông tìm thấy một tờ giấy xé ra từ một cuốn kinh Do Thái. Trong tờ giấy có bài kinh Kadish, tức bài kinh được đọc lên trước khi chết để chứng tỏ mình có niềm tin rất vững ở Thượng Đế và mình coi thường cái chết, cái chết không đụng chạm gì được tới mình. Khi tìm thấy mảnh giấy trong áo người tử tù đã chết trong phòng hơi độc thì ông bừng tỉnh. Ông thấy rằng cái chết và những khổ nhục lớn lao nhất của cuộc đời không làm cho người tử tù mất đi đức tin. Người này đã sống những giờ phút cuối cùng với đức tin đó. Vì vậy ông quyết tâm tìm mọi cách để sinh ra đứa con tinh thần của mình lần thứ hai.
Ông lượm những miếng giấy vụn, ghi lại những ý chính mình đã viết trong bản thảo, hy vọng được sống sót để một ngày nào đó có thể viết lại bản thảo. Chính nhờ bám vào ý tư, vào ước muốn đó mà ông chống cự được với những khổ nhục, nhất là với bệnh sốt thương hàn đang hoành hành trong trại tập trung. Theo Frankl, mình chỉ có thể tìm ra được ý nghĩa của cuộc sống khi có ba yếu tố:
Yếu tố thứ nhất: mình muốn thực hiện một cái gì đó trong cuộc đời
Chẳng hạn như ý muốn trao lại cho đời một đứa con tinh thần kết tinh từ những kinh nghiệm của mình, hoặc theo đuổi một chương trình, một sự nghiệp. Ví dụ mình tìm ra là mình có tài năng của một họa sĩ; những bức tranh của mình có thể đem lại niềm vui cho nhiều người, giúp họ quên bớt những khổ đau dằn vặt. Mình thấy những sáng tác của mình có thể tô điểm, làm đẹp cho cuộc đời. Vì vậy mình muốn theo đuổi sự nghiệp của một họa sĩ, không hẳn vì tiền bán tranh hay vì danh tiếng mà chỉ vì ý nguyện muốn làm đẹp cho cuộc đời. Nếu là người có khiếu âm nhạc, mình sáng tác không hẳn là vì quyền bính, vì danh vọng, vì lợi dưỡng hay sắc dục mà vì mình có ý nguyện. Sự nghiệp của mình là sống và thể hiện được cái mình cho là đẹp, là quí, là cần thiết cho cuộc đời.
Trong trường hợp của Siddharta, Siddharta muốn tu tập để chuyển hóa những khổ đau và giúp những người đương thời chuyển hóa khổ đau. Đó là một tư niệm và tư niệm đó giúp Siddharta đi qua được những thời gian khổ hạnh cực kỳ. Khi chưa tìm ra được con đường, Siddharta đã thử nhiều cách thực tập, trong đó có sự thực tập khổ hạnh, và làm cho thân thể héo mòn, tiều tụy đến nỗi suýt chết. Nhưng Siddharta đi qua được tất cả những khổ hạnh đó và sống sót được vì có một ý tư rất mạnh. Ý tư đó là chuyển hóa phiền não và cứu độ con người. Sau khi thành đạo, ý tư đó vẫn còn hùng mạnh nên Siddharta đã để ra 45 năm để đào tạo, giảng dạy và thực tập. Siddharta không muốn nổi tiếng. Siddharta không muốn trở thành đối tượng của sự kính ngưỡng. Siddharta chỉ muốn chuyển hóa khổ đau và giúp người chuyển hóa khổ đau. Vì vậy ý nghĩa của cuộc sống có được là nhờ sự nghiệp, mà sự nghiệp đó không phải là sự thỏa mãn những tư dục cá nhân. Chúng ta phải phân biệt rõ ràng điều đó.
Có những người đang chạy theo năm dục: tài (tiền bạc), sắc (sắc dục), danh (danh vọng), thực (ăn) và thụy (ngủ). Trong họ cũng có một động lực, họ biết họ muốn gì và chạy theo cái gì. Có nhiều người đi tìm những đối tượng của dục chẳng qua chỉ để khỏa lấp cái trống vắng trong lòng. Có người đi tìm hạnh phúc nơi quyền lực. Họ nghĩ rằng khi có quyền lực thì có thể thỏa mãn được những dục khác. Có người thấy rằng có nhiều tiền thì sẽ có nhiều quyền lực. Mặc dù mình không phải là ông bộ trưởng, ông thủ tướng hay ông tổng thống, nhưng một khi mình có nhiều tiền thì ông bộ trưởng, ông thủ thướng hay ông tổng thống cũng phải đi theo mình. Vì vậy trong thế giới của chúng ta, những nhà lãnh đạo công nghiệp rất quan trọng, nhiều khi họ còn có nhiều quyền lực hơn những nhà lãnh đạo chính trị. Có tiền là có quyền lực.
Ngoài ra có những đối tượng khác như thức ăn ngon. Thức ăn ngon ở đây là những thứ làm thỏa mãn khẩu vị nhưng có ảnh hưởng tàn hại thân và tâm. Chúng ta không có khả năng chống cự lại những thức ăn hấp dẫn. Chúng ta biết ăn thứ đó vô thì sẽ khổ đau, sẽ dẫn đến tình trạng rã rời của thân và tâm nhưng không ăn không được.
Chạy theo đối tượng của năm dục chưa hẳn là đã tìm ra được ý nghĩa của sự sống. Có những người có quá nhiều quyền hành, quá nhiều tiền bạc nhưng họ đau khổ cực kỳ vì họ thấy trống rỗng. Những nhà lãnh đạo doanh thương lớn như ông Bill Ford đã tới tu viện Thanh Sơn ngồi thiền với Thầy. Ông thấy cuộc sống của một người giàu có và quyền lực không đem tới hạnh phúc. Ông cho biết trong giới giàu có và quyền lực, có người đau khổ rất nhiều. Họ rất cô đơn, sống cô đơn mà chết cũng cô đơn. Vì vậy dù đi tìm quyền bính, đi tìm danh vọng người ta vẫn đau khổ như thường. Và rốt cuộc có người đã phải tự tử. Bill Ford đang đi tìm một ý nghĩa của đời sống. Ông muốn chế tạo ra xe hơi không gây ô nhiễm môi trường. Ông nuôi chí nguyện: làm sao để xe hơi sau này có thể chạy bằng nhiên liệu khí hydro. Đó là ý tư mà ông đeo đuổi. Nhưng liệu ông có nuôi được ý tư đó lâu dài hay không?
Có thể nói cuộc đời của tướng De Gaulle rất thành công. Ông đã giải phóng được nước Pháp, đem lại độc lập và tự do cho nhân dân Pháp. Ông nổi danh như cồn và có thời dân Pháp coi ông như quốc phụ (tức người cha của tổ quốc). Nhưng những ngày tháng cuối của tướng De Gaulle rất buồn thảm. Sau một cuộc biểu tình chống đối của người trẻ, ông tổ chức buổi trưng cầu dân ý (referendum) để hỏi người dân có còn muốn ông đứng ở địa vị tổng thống nữa không? Ông tin chắc rằng người dân sẽ trả lời “muốn” tại vì ông là quốc phụ, là người đã có công giải phóng nước Pháp. Nhưng kết quả của cuộc trưng cầu dân ý thì trái lại, người dân không muốn. Ông bỏ chức vụ tổng thống, ngay lập tức trở về làng quê của ông trong vòng 24 giờ đồng hồ. Trong lòng ông có một nỗi thất vọng lớn. Ông nghĩ người dân Pháp vô ơn bạc nghĩa; mình là người anh hùng đã cứu nước Pháp mà bây giờ dân lại nói không thích mình. Những ngày tháng cuối cùng của tướng De Gaulle rất cô đơn. Ông chưa thoát khỏi ý niệm về ngã và chưa chuyển hóa được lòng tự hào của mình.
Như vậy, danh vọng, dù lên tới mức cùng cực, cũng chưa có thể làm cho con người có hạnh phúc chân thật, huống hồ là lợi lộc, quyền bính và sắc dục. Chúng ta thấy rõ ràng khi chưa tìm được ý nghĩa của đời sống thì ta dễ bị xao động bởi sự đi tìm đối tượng của dục. Ta nghĩ đi tìm đối tượng của dục có thể khỏa lấp được cái trống rỗng trong lòng. Chứng bệnh tập thể của thời đại chúng ta là chứng bệnh trống rỗng hiện sinh (existential vacuum). Ta phải tu học như thế nào để vượt thoát triệu chứng đó và giúp cho đời bằng muôn ngàn phương tiện để mỗi người trong xã hội tìm ra được ý nghĩa của đời sống. Nếu là người xuất gia mà ta lâm vào tình trạng đó tức là Bồ đề tâm của ta bị soi mòn. Không có ý tư thực thì ta không giúp được cho chính mình, không giúp được cho tăng đoàn của mình chứ đừng nói là giúp được cho xã hội.
Khi Bồ đề tâm không vững, chí nguyện tu học không bền thì tự nhiên mình đi tìm những chuyện tầm thường trong phạm vi năm dục để khỏa lấp sự trống rỗng. Nhưng nếu mình có khối lửa trong tâm thì sự lôi kéo của năm dục không đủ sức để làm xao động lòng mình.
Yếu tố thứ hai: Tình yêu, kinh nghiệm của trái tim
Tình yêu đó có thể là tình yêu Thượng đế hay tình yêu nam nữ. Khi có tình yêu thì mình bắt đầu đi trên con đường khám phá, khám phá bản chất của người mình yêu và bản chất của chính mình. Theo Frankl, tình yêu là cách duy nhất để nắm được một cách sâu sắc bản chất của một người. Không có tình yêu thì không thể hiểu được người đó. Nhưng theo thầy thì làm sao mình nắm được bản chất của một người khác khi mình không biết được mình là ai? Mình chưa biết mình là ai thì làm sao mình biết được người khác là ai? Tình yêu chân thật là một con đường khám phá, khám phá được bản thân tới chừng nào thì mình khám phá được đối tượng thương yêu tới chừng đó. Nếu không có sự khám phá bản thân thì không thể nào khám phá được người khác. Đức Thế Tôn có mười danh hiệu, trong đó có danh hiệu Thế Gian Giải, tức là bậc hiểu thấu thế gian. Có hiểu mới có thương. Tại sao đức Thế Tôn hiểu thấu được thế gian? Tại vì Ngài hiểu được chính mình. Hiểu được thì mới thương được người và giúp người thoát khỏi vòng khổ đau.
Frankl nói một câu giống như giới thứ ba của Năm giới: Sự gần gũi nam nữ chỉ có thể được chấp nhận khi có tình yêu chân thật, nếu không thì đó là hành động có tính cách tàn hại. Trong giới thứ ba, chúng ta nói: “Con nguyện không ăn nằm với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức lâu dài.” Theo Frankl, sự gần gũi nam nữ trong trường hợp có tình thương đích thực có thể là một cái gì thánh thiện. Mình có thể chấp nhận câu nói của Frankl. Vì vậy trong Năm giới dành cho người tại gia chúng ta cũng có một câu tương tợ.
Đối với người xuất gia thì khác. Tại sao một sự thật áp dụng được cho người này lại không áp dụng được cho người khác? Người xuất gia cũng biết rằng hành động giao hợp nam nữ nếu được xảy ra trong sự cung kính, trong tinh thần trách nhiệm, trong tình yêu chân thật và sự cam kết lâu dài thì không phải là chuyện xấu. Nhưng tại sao người xuất gia không làm chuyện đó? Câu trả lời là tại vì người xuất gia có một tư niệm rất đặc biệt, muốn dồn hết năng lượng của mình về một hướng, sử dụng tất cả năng lượng để thực hiện chí nguyện của mình. Đời sống độc thân là một trong những nền tảng rất quan trọng cho chí nguyện đó. Những nhà cách mạng bôn ba nơi hải ngoại để tìm con đường sống cho quê hương cũng sống giống như người xuất gia. Họ không vướng bận thê nhi. Người xuất gia không cho đó là chuyện xấu ác, nhưng không làm vì mình đang theo đuổi một chí nguyện lớn. Vướng vào ái dục cũng là một trở lực không cho phép mình đi tới được.
Trong trường hợp thứ hai (tình yêu), hình như trong thâm tâm của tác giả có nói tới một kinh nghiệm tâm linh (religious experience), có thể nói là tình yêu Thượng đế. Tình yêu đó có thể cho mình nhiều năng lượng để đi tới và làm được chuyện này chuyện kia. Khi yêu một người thì mình có thể hy sinh thân mạng để người đó được hạnh phúc.
Nhưng trong ánh sáng của sự thực tập, chúng ta thấy rất rõ là khi thương một người và muốn làm cho người đó hạnh phúc thì mình phải hiểu người đó. Khả năng hiểu tùy thuộc nơi sự thực tập của mình, vì nếu không hiểu được mình là ai thì mình chưa thể hiểu được người kia là ai. Cũng như thương, nếu không thương được mình thì làm sao mình có thể thương được người khác. Thương như vậy chẳng qua là một sự đam mê. Mình phải phân biệt giữa đam mê và tình thương. Đam mê thì đưa đến sự vướng mắc, rồi dìu nhau vào chỗ khổ đau. Còn tình thương thì đưa tới hạnh phúc và tự do cho cả hai phía.
Chúng ta phải phân biệt, phải nhìn cho rõ: sự nghiệp này có thể chỉ là sự chạy theo đối tượng của năm dục và tình yêu này có thể chỉ là sự chạy theo đam mê. Khi đọc Frankl với con mắt của Bụt thì mình thấy như vậy. Tình yêu, theo đạo Bụt, là một sự khám phá, không phải chỉ là sự khám phá người kia mà thôi. Làm sao mình khám phá được bản chất của người kia khi mình không biết mình là ai? Mình không yêu được mình thì làm sao mình yêu được người kia? Mình không giải phóng được mình thì làm sao mình giải phóng được người khác? Khi mình chưa tìm ra được ý nghĩa của đời mình thì làm sao mình giúp được người kia tìm được ý nghĩa đời sống của người kia?
Khi thương thì mình có khả năng giúp được người kia phát triển tiềm năng trong họ. Người đó ban đầu thấy rã rời, không có năng lượng. Nhưng nhờ tình thương, mình có thể soi đường chỉ lối, gỡ ra những bế tắc của người đó và làm cho họ phát hiện ra được những tiềm lực lớn lao trong người họ. Và người đó trở thành một bậc anh hùng, một chàng hiệp sĩ, một người có khả năng làm đẹp cho cuộc đời. Đức Thế Tôn đã từng thương như vậy. Ngài đã khám phá ra những tài ba tiếp nối được Ngài như thầy Xá Lợi Phất, thầy Mục Kiền Liên, thầy A Nan, v.v. Sở dĩ Đức Thế Tôn làm được vì Ngài đã khám phá được chính Ngài. Ngài đã khám phá ra ý tư của Ngài, lẽ sống của đời Ngài. Ngài đã hiểu được Ngài. Ngài đã tự giác nên mới giác tha. Ngài đã tự độ nên mới độ tha. Ngài đã tự ái nên mới ái tha. Điểm thứ hai là có tình yêu thì tự nhiên có một lẽ sống. Lẽ sống không thể có bằng sự đam mê mà phải bằng tình yêu chân thật.
Yếu tố thứ ba là khổ đau
Khổ đau đã có nhiều, ta không cần phải đi tìm thêm khổ đau. Nhưng nếu biết quán sát, nhìn sâu vào lòng của khổ đau thì ta tìm ra được ý nghĩa của đời sống. Điều này rất rõ trong giáo lý “Tứ diệu đế”. Bụt nói sự thật hiển nhiên là có khổ đau (ill-being) và nếu quán chiếu sâu sắc khổ đau thì mình tìm ra được ý nghĩa của đời sống, tức sự thật thứ tư – Đạo đế. Khổ đau phải có giá trị mở mắt cho mình, giúp mình tìm ra được lẽ sống của đời mình. Nếu không thì khổ đau sẽ tràn ngập, và làm cho mình chết đuối trong biển cả mênh mông của nó.
Tất cả mọi người trong trại tập trung gần như tuyệt vọng, không thấy một chút hy vọng sống sót nào. Và Frankl cũng không chắc có thể viết lại được, sinh ra đứa con tinh thần lần thứ hai để hiến tặng cho đời. Tất cả mọi người chung quanh đều nghĩ nếu không có được ngày mai thì tất cả các khổ nhục mà mình đang chịu đựng sẽ không có ý nghĩa gì nữa. Nhưng Frankl không để mình bị cuốn chìm trong tư tưởng đó. Và nhờ tờ giấy có bài kinh Kadish vò nhàu trong túi áo mà Frankl thấy rõ ràng: người Do Thái kia đi vào phòng hơi độc với những bước chân rất vững, ngẩng đầu lên và đọc bài kinh, không khiếp sợ, không co rúm, không than khóc. Frankl chợt tỉnh: những tuệ giác mà mình muốn trao cho người, mình có thể sống những tuệ giác đó trong giây phút hiện tại. Có thể ngày mai hay ngày mốt mình sẽ chết, nhưng nếu mình còn một hay hai ngày để sống thì mình phải sống với cái tuệ giác mà mình muốn trao truyền đó. Mình trao truyền bằng sự sống của chính mình. Frankl nghĩ: nếu ta chết trong phòng hơi độc với những tuệ giác ta muốn trao truyền thì ta đã thành công rồi. Vì vậy khổ đau tuyệt vọng cũng là một điều kiện để ta tìm ra được nghĩa sống. Frankl nói một câu rất hào hùng: nếu mình không thể chuyển đổi được tình trạng thì mình phải chuyển đổi tự thân mình! Mình đừng nói rằng hoàn cảnh này không thể chuyển đổi được nên tôi chịu thua, tôi bỏ đi.
Frankl kể, một hôm một ông bác sĩ tới gặp Frankl, than khóc buồn khổ vì vợ ông mới qua đời, một người vợ mà ông thương yêu hết mực. Ông coi bà như lẽ sống của đời mình. Người đó chết nên ông không tìm được niềm vui sống nữa. Đau khổ, tuyệt vọng của ông lớn quá, ông chịu không nổi. Ông có ý muốn tự tử đi cho khỏe. Trong ông có sự trống rỗng hiện sinh. Frankl đã nói với ông như thế này:
– Này ông, bây giờ ông thử trả lời tôi. Nếu ông chết và bà sống thì ông có nghĩ là bà sẽ khổ đau sau khi ông chết không?
Ông nói:
– Như vậy sẽ nguy hiểm lắm, tại vì bà ấy sẽ khổ đau vô cùng.
Frankl nói:
– Đó, ông thấy không? Ông biết bà chết thì không phải gánh nỗi khổ đau tuyệt vọng mà ông đang gánh. Có phải như vậy là đỡ cho bà lắm không? Vì vậy ông phải thực tập gánh khổ đau này cho bà. Đó là tình thương, đó là tình yêu.
“Phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sanh, thọ vô lượng khổ” có nghĩa là thay thế cho chúng sanh mà chịu đựng khổ đau vô lượng. Đó là câu trong kinh Tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân (Kinh Bát đại nhân giác). Bây giờ ông đang chịu gánh nặng đau thương để bà khỏi đau thương, như vậy thì điều này có ý nghĩa không? Ông bác sĩ tìm thấy ý nghĩa và ông hết đau khổ giống như một phép lạ vậy. Mình không thể làm phép lạ cho bà sống dậy, nhưng mình có thể làm cho ông hết khổ hay là bớt khổ.
Nếu không thay đổi được hay chưa thay đổi được tình trạng thì ta phải thay đổi bản thân mình. Thay đổi bản thân thì ta bớt đau khổ liền mà không cần phải đòi hỏi người này phải như thế này, người kia phải như thế kia. Thay đổi tâm mình thì tự nhiên hoàn cảnh trở nên trong sáng và ta chấp nhận được tất cả những cái mà ta chưa chấp nhận được trong quá khứ. Frankl cũng giỏi, ông nói được ngôn ngữ của những người trong cuộc.
Có một ông Rabi – tức giáo sĩ Do Thái giáo – đến gặp Frankl. Vợ và bốn đứa con của ông chết trong trại tập trung. Ông không còn đứa con nào để tiếp nối, để đọc kinh Kadish khi ông chết. Vậy nên ông tục huyền, cưới một bà vợ khác. Nhưng bà này lại không có khả năng sinh con nên ông tuyệt vọng vô cùng. Ông nói:
– Bốn đứa con trai của tôi đã bị bức tử. Tâm hồn chúng trong trắng, bây giờ chúng đang ở trên cõi trời với Thượng đế. Còn tôi là một người trần tục. Tôi có nhiều tội lỗi, nhiều yếu kém.
Frankl nói:
– Nhưng mà ông cũng còn hy vọng là sau khi chết, ông sẽ trở về đoàn tụ với con ông trên đó.
Ông Rabi nói:
– Chắc không? Con tôi rất trong trắng. Khi chúng chết thì Thượng Đế đưa chúng trực tiếp lên trên đó. Còn tôi, tôi không còn trong trắng nữa, tôi có những phàm tục. Chắc chắn là trong khi tôi chết không có đứa con nào đọc kinh Kadish và tôi cũng không được đưa lên để gặp các con.
Frankl không có niềm tin như ông đó, nhưng Frankl học nói ngôn ngữ đức tin của ông ta:
– Nhưng nếu giáo sĩ chấp nhận những khổ đau này để thanh lọc hóa thì khổ đau trở nên có ích lợi. Nhờ những đau khổ này mà ông có thể thanh lọc tự tâm. Và chính nhờ sự thanh lọc mà sau này Thượng Đế sẽ cho ông lên đoàn tụ với các con của ông.
Frankl giúp cho ông Rabi thấy trong quá trình đi ngang qua khổ đau, mình có thể biến khổ đau trở thành hữu ích và tìm ra được nghĩa sống của đời mình. Đạo Bụt nói rất rõ khổ đau là chất liệu làm ra tuệ giác, an lạc; cũng như bùn là chất liệu làm thành hoa sen. Không có khổ đau thì không có hạnh phúc, hiểu biết và thương yêu. Nhưng ta không cần và không nên tạo thêm khổ đau. Đã có quá đủ khổ đau cho ta sử dụng rồi.
Sứ mạng thương yêu
Nhìn và quan sát cây cỏ, ta thấy lá chuối chị nuôi lá chuối em và nuôi thân chuối. Ta học được rất nhiều trong sự quan sát đó. Lá chuối chị được sinh ra trước, tiếp thu ánh sáng mặt trời, những chất hơi như carbonic dioxide (CO2) và chuyển hóa thành những chất nuôi dưỡng thân chuối và những lá chuối con đang từ từ phát hiện. Lá chuối chị có một sứ mạng, có thể gọi đó là sứ mạng thương yêu. Ngay trong giới cây cỏ cũng có, đó là điều rất tự nhiên: nuôi dưỡng và bảo hộ cho thế hệ tương lai. Đó là một cái gì được ghi khắc vào trong sự sống. Nhưng có một điều trong lá chuối chị có một cái mà mình có thể tạm gọi là ý nghĩa sống, mục đích sống của lá chuối chị là nuôi cây chuối và những thế hệ lá chuối tương lai.
Khi một bà mẹ thương yêu và nuôi dưỡng đứa con, mình thấy rất rõ trong bà mẹ có tình thương, có một ý nghĩa của đời sống. Mục đích của bà là nuôi con lớn lên. Bà mẹ có sứ mạng giống như lá chuối chị. Nhưng trong khi lá chuối đang làm việc nuôi nấng cây chuối và những lá chuối khác thì nó cũng có thể có hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Nó xòe ra tiếp nhận ánh sáng ban mai, trình bày tất cả những tươi mát, đẹp đẽ của mình và sống an lạc trong từng giây từng phút. Hai công việc đó không chống đối nhau. Năng lượng của Bồ đề tâm và khả năng lạc trú trong giây phút hiện tại không chống đối nhau. Con sư tử mẹ hay con mèo mẹ cũng chăm sóc, bảo hộ những những đứa con nó sinh ra. Nhiều khi nó nhịn để cho con ăn. Nó có tình yêu, nó có một ý nghĩa của đời sống.
Là một người cha hay một người mẹ, ta phải thấy đời sống của mình có một ý nghĩa nào đó. Ta đã tiếp nhận như thế nào và sẽ hiến tặng như thế nào? Nếu không thấy được mình đã tiếp nhận cái gì thì làm sao thấy được mình sẽ hiến tặng cái gì? Là một người xuất gia, ta đã tiếp nhận được giới pháp, ta đã tiếp nhận được Tam bảo, đã có hạnh phúc. Ta đã trở thành một sư anh, một sư chị. Ta có bổn phận nhìn các sư em bằng con mắt đó. Ta phải sống và hành xử như thế nào để mỗi giây phút của đời sống hàng ngày có tác dụng nuôi nấng các sư em. Ít nhất ta phải làm được như một tàu lá chuối. Vì vậy mỗi bước chân của ta phải đi trong chánh niệm. Nếu bước chân không chánh niệm thì bước chân đó không có tính cách nuôi dưỡng và không thể hiện được tình thương của mình. Là một sư chị mà ta không biết thở và ôm ấp khi có sự bực tức biểu hiện thì ta không thương các sư em. Mình nói mình thương sư em, thương thầy nhưng nếu mình không làm được việc đó thì lời tuyên bố kia trở thành trống rỗng. Thương là một cái gì có thật. Thương bằng mỗi bước chân, bằng mỗi hơi thở, bằng cách hành xử, bằng từng lời nói của mình. Mình có tình thương hay không, điều này có thể thấy được rất rõ ràng, không thể che giấu được.
Làng Mai năm qua
Kính thưa quý vị thân hữu,
Chỉ còn vài ngày nữa là chúng ta bước sang năm mới Đinh Dậu. Sư Ông đang ở tuần thứ bảy của chuyến viếng thăm Làng Mai Thái Lan. Các con xuất sĩ và đồng bào Việt Nam từ bốn phương về Thái thăm Sư Ông đông quá! Ngồi trên xe lăn, Sư Ông vẫn đem đến cho mọi người bao nhiêu là hạnh phúc. Và chính Sư Ông cũng rất hạnh phúc. Nhìn lại năm qua, biết bao sự mầu nhiệm đã xảy ra. Chúng tôi xin được lược thuật lại những gì đã diễn ra tại Đạo tràng Mai Thôn từ đầu năm 2016 cho đến nay.
Có thể nói đối với tăng thân Làng Mai, năm 2016 được đánh dấu bằng sự kiện Sư Ông từ Mỹ về lại Pháp ngày 8.1.2016, sau gần nửa năm điều trị tại San Francisco. Khi đó, Sư Ông đang điều trị có kết quả tốt nên các thầy, các sư cô thị giả chưa muốn Sư Ông về Pháp; vì nếu về Pháp thì khó tìm được những bác sĩ giỏi về chỉnh cơ bắp, châm cứu hoặc các chuyên gia tập phát âm,… như ở Mỹ. Nhưng tin tưởng vào tuệ giác của Sư Ông nên các sư con cũng cố gắng làm theo. Không ngờ khi về lại Pháp, Sư Ông hạnh phúc khi được tiếp xúc lại với năng lượng của đại chúng nên sức khỏe của Người phục hồi nhanh chóng. Gần như ngày nào, Sư Ông cũng ngồi xe lăn đi thăm từng góc suối, từng bụi cây, hay khu rừng tre và gốc tùng thiên thọ phía bên kia của Sơn Cốc.
Sư Ông cũng tham dự vào không khí đón Tết Bính Thân ở Làng. Cũng như mọi năm, Tết ở Làng Mai mang nhiều màu sắc quê hương với cây nêu, câu đối đỏ, bánh chưng, bánh tét,… Và đặc biệt có hội chợ ẩm thực với rất nhiều món ăn đặc trưng ngày Tết, lại có chợ hoa để mọi người mua về chưng Tết cho vui. Sư Ông cũng đi dạo chợ hoa trong không khí vui xuân ấm áp.
Đêm Giao thừa có thầy Pháp Đăng và sư cô Hội Nghiêm bình thơ đón xuân. Quý thầy, quý sư cô đắp y làm lễ đón Giao thừa. Sau đó, đại chúng cùng ăn Tất niên rồi xem văn nghệ cây nhà lá vườn mừng xuân.
Mồng một Tết, lúc 9 giờ sáng, đại chúng tập họp tại thiền đường Nước Tĩnh xóm Thượng nghe chuông trống Bát nhã mừng xuân, có múa lân, chúc thọ Sư Ông, có bói Kiều, bói Victor Hugo (cho người nói tiếng Pháp), bói Shakespeare (cho người nói tiếng Anh). Tuy nhiên, nhiều bạn Tây phương vẫn ưa bói Kiều. Các chùa Tây Tạng, Nhật Bản ở gần Làng cũng đến xin quẻ Kiều. Bói Kiều đã trở thành phương tiện quyền xảo để hướng dẫn cho bà con tu tập trong suốt một năm.
Ở Làng Mai vào dịp Tết, mỗi phòng của quý thầy hay quý sư cô được coi là một “nhà”. Thường thường mỗi phòng tại tăng xá quý thầy ở xóm Thượng hay Sơn Hạ và ni xá quý sư cô ở xóm Hạ hay xóm Mới, có ít nhất là ba đến bốn vị. Hầu như “nhà nào” của quý thầy cũng có hòn non bộ… lại có hoa mai, hoa đào, có trà, có mứt,… Nhà nào cũng chưng bày, trang trí khác nhau và cũng trổ tài làm thức ăn thật hết lòng để đãi khách. Có nhà đãi gỏi cuốn, nem Thái, có nhà thì thết bún Huế, có nhà có bánh lọc. Nhà nào có thầy người Ý thì có pizza. Bên quý sư cô, nhà nào có sư cô gốc Nhật thì có sushi. Và chỉ trong ngày Tết, các vị cư sĩ mới được vào thăm từng “nhà” của mỗi xóm. Những đêm gần Tết có tổ chức nấu bánh chưng, bánh tét, quây quần vừa hát, kể chuyện vui, vừa giữ lửa canh bánh suốt đêm… không khí thật Tết, và cũng thật đầm ấm…
Khóa tu xuất sĩ: Chung tay giữ bếp lửa hồng (từ ngày 25.02 đến ngày 05.03.2016)
Khóa tu xuất sĩ năm nay diễn ra ở xóm Thượng, ai ai cũng đều hạnh phúc vì có Sư Ông ở Làng. Dù đang dưỡng bệnh, Sư Ông vẫn ra có mặt gần trọn buổi để nghe các con họp bàn thời khóa và phân công công việc trong khóa tu.
Đây là lần đầu tiên khóa tu xuất sĩ tại Làng Mai kéo dài đến mười ngày. Nhờ vậy, chương trình sinh hoạt phong phú mà thư giãn. Cũng có đủ các sinh hoạt: pháp thoại, pháp đàm, thiền hành, thiền tọa, tụng kinh, sinh hoạt theo chủ đề (workshops), đi chơi dã ngoại, và có cả giải bóng đá Plum Village Cup. Trong khóa tu có một ngày im lặng hùng tráng. Thật thú vị! Ngày hôm ấy, tất cả các công việc như rửa dọn, nấu ăn, khử trùng bát đĩa, lau quét nhà ăn,… vẫn được diễn ra bình thường vì ai cũng đã biết việc để làm, không cần phải trao đổi gì. Huynh đệ gặp nhau, chỉ cần mỉm cười là đủ. Không gian bên trong và bên ngoài đều thênh thang.
Đất trời đang vào xuân trên những cây đào, cây mận, cây mộc lan, trên những thảm hoa bồ công anh vàng rực xen lẫn màu trắng, xanh, tím của cỏ hoa… Cũng có hôm dù trời mưa lất phất, Sư Ông vẫn ra đi thiền hành với đại chúng trên xe lăn. Thầy đi trước, các con đi sau, giây phút đó thật đẹp!
Trong suốt khóa tu, có những buổi đại chúng dùng cơm vòng tròn chung với nhau, và cũng có những bữa ăn trưa ngoài trời, theo tuổi, theo gia đình pháp đàm,… Có hôm Sư Ông ra dùng cơm cùng đại chúng. Trong bữa ăn, Sư Ông thường đưa mắt nhìn đại chúng và đại chúng cũng nhìn Sư Ông với ánh mắt đầy hạnh phúc và biết ơn. Ai cũng trân quý từng thời khóa, điều đó đã khiến cho năng lượng tập thể của khóa tu thật hùng hậu.
Đại giới đàn Ân Nghĩa (từ ngày 22 đến ngày 27.03.2016)
Trong khí trời ấm áp của mùa xuân, Đại giới đàn Ân Nghĩa đã diễn ra tại Đạo tràng Mai Thôn từ ngày 22 đến ngày 27 tháng 03 năm 2016. Lễ rước giới bổn được tổ chức thật long trọng tại chùa Pháp Vân – xóm Thượng và được tổ chức đồng thời tại trung tâm Làng Mai Thái Lan.
Đại giới đàn năm nay đã cung thỉnh được chư Tôn đức từ Việt Nam, Canada, Pháp và Thái Lan vào Hội đồng truyền giới như quý Hòa thượng: Thích Chí Mãn – Trú trì chùa Pháp Vân (Đà Nẵng), Thích Minh Cảnh – Viện chủ tu viện Huệ Quang (Sài Gòn), Thích Giác Quang – Trú trì chùa Bảo Lâm (Huế), Thích Minh Nghĩa – Viện chủ Tổ đình Giác Nguyên; quý Thượng tọa: Thích Nguyên Minh – Trú trì chùa Kim Sơn, Thích Giác Không – trú trì chùa Phước Long, Thích Chúc Thịnh – chùa Đa Bảo, TT. Saddhanyano – Trú trì chùa Vihara Dharmabhakti (Thái Lan), Thích Pháp Hòa – Trú trì chùa Trúc Lâm (Canada)… và quý Sư bà: Thích nữ Tịnh Nguyện – Ni trưởng trú trì chùa Phước Hải (Sài Gòn), Thích nữ Như Ngọc – Ni trưởng trú trì chùa Linh Bửu (Sài Gòn), Thích nữ Như Tuấn – Ni trưởng trú trì chùa Phổ Hiền (Strasbourg, Pháp), Thích nữ Lưu Phong – Ni trưởng trú trì chùa Kiều Đàm (Sài Gòn), Thích nữ Như Minh – Ni trưởng trú trì chùa Pháp Hỷ (Huế)…
Với sự chứng minh của Sư Ông Làng Mai và chư Tôn đức, Đại giới đàn đã truyền các giới Tiếp hiện, giới Khất sĩ và Khất sĩ nữ. Có tất cả 60 vị thọ giới Tiếp hiện, 30 vị thọ giới Khất sĩ và 31 vị thọ giới Khất sĩ nữ. Dù đang dưỡng bệnh, Sư Ông vẫn có mặt hết lòng trong lễ khai mạc cũng như các lễ truyền giới Khất sĩ và Khất sĩ nữ. Sự hiện diện vô hành của Sư Ông khiến cho chư Tôn đức cũng như tất cả đại chúng Làng Mai đều xúc động. Niềm vui thắp sáng trong từng ánh mắt, nụ cười. Sự hiện diện của chư Tôn đức cũng khiến cho Sư Ông vui và khỏe hơn. Hầu như các bữa ăn trưa trong Đại giới đàn, Sư Ông đều có mặt cùng chư Tôn đức. Thầy trò, huynh đệ ngồi bên nhau thật là hạnh phúc!
Trong Đại giới đàn Ân Nghĩa cũng đã diễn ra lễ truyền đăng cho 71 vị tân giáo thọ (62 xuất sĩ và 9 cư sĩ). Một hình ảnh rất đẹp của lễ truyền đăng là hình ảnh quý thầy, quý sư cô lớn trong tăng thân (tại Pháp: thầy Pháp Đăng, sư cô Chân Không, sư cô Chân Đức; tại Thái Lan: Ôn Thủ tọa Tu viện Vườn Ươm, thầy Pháp Niệm, thầy Từ Minh, sư cô Đoan Nghiêm, sư cô Hạnh Liên, và sư cô Quy Nghiêm) đã thay mặt Sư Ông và tăng thân phú pháp truyền đăng cho các sư em của mình. Một hình ảnh thật đẹp của sự trao truyền và tiếp nối! Hình ảnh ấy đã khiến chư Tôn đức vô cùng xúc động và có niềm tin nơi sự tiếp nối của tăng thân Làng Mai. Ngọn đèn chánh pháp đã được Bụt trao truyền qua bao thế hệ Tổ sư, giờ đây đang được tiếp nối.
Dưới đây là kệ truyền đăng cho 62 thầy và sư cô ở các trung tâm Làng Mai Pháp và Thái Lan
Khóa tu mùa xuân (từ ngày 20.03 đến ngày 26.06.2016)
Xuân về, tất cả những cây hoa, bụi cỏ như đồng loạt mở cửa đón khí trời ấm áp của mùa xuân. Làng Mai đón các bạn thiền sinh đến tu học trong không khí nhẹ nhàng, thời khoá đều đặn với hai ngày quán niệm do ba xóm thay phiên nhau tổ chức. Rất nhiều quý thầy, quý sư cô Làng Mai đã lên đường để hướng dẫn khóa tu tại nhiều nước, trong đó có Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp, Ireland,… Vì vậy, mùa này một vài quý thầy, quý sư cô giáo thọ trẻ ở Làng đã có đủ duyên lần đầu tiên “đăng đàn thuyết pháp” với sự yểm trợ rất nhiệt tình và thương mến của bốn chúng. Phần lớn quý sư cô trẻ chọn cho pháp thoại chung với một hay hai vị khác, gọi là một “panel”.
Đại chúng Làng Mai rất may mắn có Sư Ông trong suốt khóa tu mùa Xuân. Mỗi tuần Sư Ông đều ra thăm đại chúng, dẫn đầu buổi thiền hành trên xe lăn. Ở xóm Mới, Sư Ông rất hào hứng cùng thiền hành với đại chúng lên đồi Dương Xuân. Thị giả đẩy xe Sư Ông đi đầu, đại chúng theo sau. Khi Sư Ông dừng lại dưới bóng râm của một gốc mận thì đại chúng ngồi chung quanh. Sư Ông nâng một cái chuông nhỏ trên tay trái để thị giả thỉnh chuông. Mọi người ngồi đó, thưởng thức tiếng chuông và hơi thở, tiếng chim hót, vẻ đẹp của bầu trời xanh và cảnh đẹp xung quanh trong ý thức thầy trò đang có nhau. Tại xóm Hạ, trong một buổi thiền hành, Sư Ông đi thăm khu rừng bạch dương để ngắm những chiếc lá đang múa reo với gió mùa xuân ở trên cao. Sư Ông không ngừng nhắc nhở đại chúng thưởng thức những nhiệm mầu của giây phút hiện tại và của sự sống.
Sự có mặt của Sư Ông là một bài pháp thoại đích thực với một năng lượng hùng hậu của bình an, của niệm và định. Có thể thấy rất rõ ràng Sư Ông thưởng thức từng khoảnh khắc có mặt cùng đại chúng và rất được nuôi dưỡng bởi năng lượng tập thể của tứ chúng. Năng lượng này đã đem lại nhiều trị liệu cho Sư Ông và cho cả đại chúng.
Khóa tu dành cho người nói tiếng Pháp (từ ngày 16 đến ngày 23.04.2016)
Làng Mai tọa lạc tại Pháp nhưng các vị xuất sĩ của Làng đến từ hơn 21 nước trên thế giới nên tiếng Anh là ngôn ngữ chính. Để tri ân đất nước đã chào đón, cưu mang, nuôi dưỡng và tạo điều kiện cho Làng Mai được thành lập, Sư Ông quyết định mỗi năm có một khóa tu bằng tiếng Pháp. Thiền sinh Pháp đến Làng rất hạnh phúc được nghe pháp thoại, được chia sẻ pháp đàm, đọc kinh, Sám pháp địa xúc, ngồi thiền có hướng dẫn,… bằng tiếng Pháp.
Khóa tu tiếng Pháp năm 2016 có sáu trăm người ghi tên, trong đó có bốn trăm người là thiền sinh tới tham dự lần đầu sau khi đọc sách của Sư Ông hay do người thân giới thiệu. Nhiều thiền sinh Pháp phải chờ đến dịp này mới mời gia đình, bạn bè đến tham dự. Pháp thoại do quý thầy: Pháp Liệu, Pháp Linh, cùng quý sư cô: Chân Không, Chân Đức, Định Nghiêm, Giác Nghiêm và Đào Nghiêm phụ trách. Các giáo thọ cư sĩ Pháp như chị Michelle Pillot, anh Serge, Hélène Le Bris, Châu Francine, Murielle,… giúp quý thầy, quý sư cô hướng dẫn thiền sinh rất hết lòng.
Ngày thứ hai của khoá tu, Sư Ông đã cùng thiền hành với đại chúng. Nhiều người được thấy Sư Ông lần đầu đã cảm động đến rơi nước mắt.
Làng Mai đến Liberia (từ ngày 28.4 đến ngày 4.5.2016)
Năm nay Làng Mai vươn tay về một nước nghèo khác ở châu Phi là Liberia. Phần đông người dân ở đây nói tiếng Anh vì họ vốn là dân nô lệ của người da trắng ở Hoa Kỳ; sau khi được giải phóng họ xin trở về châu Phi và lập nên nước Liberia.
Trong mấy năm qua, Christian Bethelson, Harper Karmon và Annie Nushann – những người hoạt động cho hòa bình và cũng là những tác viên xã hội rất xuất sắc ở Liberia – đã sang Làng Mai tu tập và đem pháp môn chánh niệm về chia sẻ với người dân Liberia với sự hỗ trợ của tổ chức phi chính phủ Liên minh hòa bình giúp chuyển hóa xung đột (Peace Hut Alliance for Conflict Transformation – PHACT). Chuyến thăm Làng Mai gần đây nhất của ba vị này là vào tháng Hai năm 2016.
Cách đây sáu năm, Thiếu tướng Christian Bethelson, biệt danh “hổ báo”, đã quyết định đơn phương giải giới và khuyến khích mấy ngàn binh lính dưới quyền của ông trở về làm nghề khác. Tâm từ bi của ông được đánh thức khi ông nhận ra trong số binh sĩ của ông có nhiều người còn quá trẻ mà phải cầm súng. Giọt nước cuối cùng đẩy ông đi tới quyết định giải giới là khi ông gặp hơn bốn trăm bà mẹ đi kêu gọi sự thức tỉnh của ông. Người lãnh đạo nhóm phụ nữ đó là bà Annie Nushann, một bà mẹ có bốn con. Một hôm nhìn đứa con trai mười một tuổi của mình, bà rất sợ vài năm nữa đứa con của bà cũng sẽ bị rủ rê theo đoàn quân này hay đoàn quân kia cầm súng giết nhau và sẽ bị giết. Bà quyết định rủ một số phụ nữ cũng là mẹ của những đứa con trai đang cầm súng cùng đi với bà đến các trại có lính để khuyên giải các quân sĩ nên giải giới.
Họ quyết định đi bộ đến từng nơi của xứ Liberia đang xảy ra nội chiến để kêu gọi những người lính nên dừng lại, trở về dùng cuốc cày mà sinh sống hơn là cầm súng chém giết nhau. Khi đến quân đoàn của thiếu tướng Christian thì bà đã quy tụ được 480 người. Ban đầu, thiếu tướng Christian Bethelson không thèm tiếp nhưng các bà không nản lòng, cứ ngồi ở đó và hát những bài ru con, những bài thánh ca Công giáo, Hồi giáo,… rất thân thương. Các chú lính cảm động hát theo. Có bài khiến các chú đứng dậy múa với các mẹ…. Không khí an bình lan dần làm nhiều thành phần lính khác ai cũng cảm động. Khi đó, thiếu tướng “hổ báo” Christian Bethelson mời bà Annie Nushann vào.
Khi thiếu tướng hỏi các bà là ai mà đòi gặp thiếu tướng. Bà trả lời: “Chúng tôi là mẹ của những đứa con trai mới mười sáu, mười bảy tuổi bị các ông dụ dỗ, phát súng đạn để chúng giết nhau và bị giết… Chúng tôi đến đây để thuyết phục các ông thả chúng về để làm nghề lương thiện. Chúng tôi nhất quyết làm mọi cách dù phải bị bắn”. Ông nói: “Nếu tôi ngưng đánh giặc, rồi mười ngàn binh sĩ bên kia đánh úp chúng tôi thì sao?”. Các bà mẹ nhao nhao đính chính: “Nhiều nghìn người bên kia chiến tuyến thật ra cũng là những người di dân như chúng tôi (vì nhà cửa bị đốt, chồng hay vợ, hay con, chết do chiến tranh). Họ cũng khổ lắm. Không tin, ông cho một nhóm lính đi theo chúng tôi qua bên kia sông xem…”. Thiếu tướng “hổ báo” bỗng nhiên thấy mấy người phụ nữ nầy nói quá đúng. Ông nhìn lại đoàn quân của ông. Có nhiều đứa to lớn, đánh giặc giỏi nhưng cũng có đứa còn non nớt quá, chắc lớn hơn con trai ông vài ba tuổi thôi… Ông đang phân vân thì nghe các binh sĩ tí hon nói: “Con không về được các mẹ ơi vì ba mẹ con không chấp nhận con nữa. Ba mẹ giận và nói con đã đi hoang. Thành ra, bấy lâu nay ba mẹ con đã ‘từ’ con luôn rồi”. Các bà mẹ anh hùng này bèn hứa sẽ đưa các cháu về tận nhà và thuyết phục ba mẹ các cháu cho các cháu trở về với đời sống trồng trọt chăn nuôi thanh bạch. Sau đó, 37 cháu này đi theo một nhóm các bà mẹ, rồi 28 cháu khác đi theo bảy bà mẹ khác… Các bà dẫn hết về cho cha mẹ chúng. Gia đình mừng và cảm động lắm.
Về phần thiếu tướng Christian Bethelson, sau khi giải giới, ông có ý định trả thù người đã giết năm người thân trong gia đình ông. Christian báo tin cho vợ của người đó biết là tuy hết đánh giặc nhưng chồng cô đã giết năm người trong gia đình ông nên ông sẽ bắt người kia đền mạng. Kẻ thù của ông sợ quá lánh nạn sang một nước khác. Sau đó, Christian được tổ chức PHACT – do Cynthia Jurs, một vị Tiếp Hiện của Làng Mai, làm Giám đốc điều hành – đài thọ để sang Làng Mai học pháp môn chánh niệm do Sư Ông dạy. Một sáng mùa đông năm 2013, vừa nghe Sư Ông giảng về tâm từ bi, Christian bỗng nghe bức rức trong tim. Ông nghĩ: “Nếu mình giết người kia thì vợ con anh ấy, mẹ anh ấy khổ mà bố mình, em mình, ông chú mình, hai chị mình,… cũng đâu sống lại được”. Con đường từ bi bắt đầu mở ra trong tâm của Christian. Christian điện thoại về cho vợ của người kia và nhắn rằng: “Hãy nói chồng của cô trở về Liberia, tôi xin hứa bỏ qua những hiềm hận cũ và tôi sẽ mời ông ấy tham gia vào công trình giúp đời của tôi trong chương trình PHACT”. Lần đầu tiên khi gặp lại, hai bên đều sợ lẫn nhau nhưng dần dần họ thấy được sự chuyển hóa của bên kia nên cả hai người đã cùng hợp tác với nhau để giúp người dân Liberia vượt qua dịch bệnh Ebola đang hoành hành trên đất nước này.
Với sự yểm trợ hết lòng của Christian Bethelson, Harper Karmon và Annie Nushann, Làng Mai đã phối hợp với tổ chức PHACT để thực hiện một số đề án ở Liberia như xây các giếng nước để cung cấp nước uống cho người dân ở các vùng thôn quê, xây dựng những chiếc lều hòa bình truyền thống (Peace Hut) để làm nơi tụ họp cho các sinh hoạt cộng đồng như: giải quyết xung đột, bàn thảo việc làng xóm, học hỏi pháp môn chánh niệm,… Những chiếc lều này cũng được hợp tác xã thủ công do các phụ nữ thành lập sử dụng để sản xuất các sản phẩm làm bằng tay tạo thu nhập cho gia đình.
Nhân duyên hội tụ đầy đủ nên vào tháng Tư năm 2016, phái đoàn gồm hai thầy: Pháp Khôi, Trời Đại Định và hai sư cô: Thăng Nghiêm, An Nghiêm sang Liberia ba tuần. Đoàn đã đến rất nhiều địa phương để gặp gỡ, chia sẻ với những vị có trách nhiệm tiến hành các đề án, các vị trưởng lão của các cộng đồng, các nhóm phụ nữ, sinh viên đại học, nhà thờ và những người dân địa phương được yểm trợ bởi các đề án,… Đi đến đâu quý thầy, quý sư cô cũng lắng nghe những nhu cầu, thao thức của người dân địa phương và tùy theo hoàn cảnh cụ thể mà chia sẻ với họ những pháp môn thực tập chánh niệm.
Tăng đoàn cũng viếng thăm một trại mồ côi trong thời gian ở đây đồng thời khánh thành Thiền đường do Annie xây cạnh nhà của cô ở Totota, được đặt tên theo tên sư cô An Nghiêm (sư cô người Mỹ gốc Phi), để kỷ niệm chuyến đi Làng của Annie.
Tăng đoàn cũng đã khánh thành một giếng nước ở Wainsue và đến thăm một khu đất rộng 4 mẫu tây, nơi mà những người dân địa phương dự định sẽ thành lập Làng Mai Liberia.
Khóa tu 21 ngày (từ ngày 01 đến ngày 22.06.2016)
Khóa tu 21 ngày được khai mạc vào sáng ngày 2 tháng 6 tại thiền đường Hội Ngàn Sao, chùa Cam Lộ, xóm Hạ, với sự tham dự của 200 vị xuất sĩ và hơn 400 thiền sinh đến từ 37 quốc gia trên thế giới. Có nhiều giáo thọ cư sĩ đã tu tập mười, hai mươi hoặc ba mươi năm, đã đi giảng dạy và tổ chức những khóa tu ở khắp nơi cũng về tham dự. Vào ngày khai mạc, Sư Ông đã có mặt tại thiền đường để chứng minh. Đại chúng, nhất là thiền sinh và những ai đã lâu không gặp Sư Ông đều rất cảm động khi thấy năng lượng của Sư Ông vẫn như ngày nào. Sư Ông ngồi trên xe lăn nhưng dáng ngồi vẫn rất thẳng, rất đẹp.
Khóa tu năm nay có chủ đề “Đường về núi Thứu”, thể hiện mong muốn của tăng thân Làng Mai là trở về tắm trong dòng thiền nguyên thỉ, tức phép tu Niệm xứ, để không đánh mất cốt tủy của đạo Bụt. Trong khóa tu này, đại chúng cũng có cơ hội nhìn sâu – với tư cách một tăng thân quốc tế – về truyền thống thực tập của Làng Mai, về Dòng tu Tiếp Hiện và sự thực tập đem đạo Bụt đi vào cuộc đời, cũng như những thách thức trong quá trình dấn thân đó.
Có rất nhiều điều khiến cho khóa tu 21 ngày năm nay đặc biệt hơn mọi năm. Khóa tu diễn ra đúng vào dịp Làng Mai kỷ niệm 50 năm thành lập Dòng tu Tiếp Hiện. Vì vậy có nhiều vị khách đặc biệt đến từ Việt Nam, Mỹ, Đức, phần lớn là những tác viên kỳ cựu của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội người Việt. Ngoài ra cũng có những Tiếp Hiện cả Tây phương và Việt Nam đã cùng chung vai sát cánh với Sư Ông từ những năm 1970, khi Người bắt đầu xây dựng tăng thân ở phương Tây.
Sư Ông rất vui khi cô Cheri Maples – Chân Bảo Niệm, một vị giáo thọ cư sĩ và là cựu Đại úy công an Hoa Kỳ, chia sẻ với thiền sinh về việc đem pháp môn chánh niệm chính thức hướng dẫn cho lực lượng cảnh sát Hoa Kỳ và cho Ban quản giáo các nhà tù. Cảm động nhất là cô đã lập được những tăng thân cho các em vị thành niên phạm pháp ở Hoa Kỳ.
Trong khóa tu, sư cô Chân Không cùng với thầy Pháp Trung đã có những buổi thuyết trình với rất nhiều hình ảnh về quá trình hoạt động của Dòng tu Tiếp Hiện trong việc đem đạo Bụt vào đời cùng với Sư Ông như thế nào trong 50 năm qua.
Đây cũng là khóa tu 21 ngày đầu tiên không có Sư Ông Làng Mai trực tiếp cho pháp thoại. Dù vậy, thiền sinh vẫn được học hỏi rất nhiều từ sự có mặt của Sư Ông qua những buổi thiền hành và những lúc Sư Ông có mặt với đại chúng, dù ngắn ngủi, trong những buổi pháp thoại do quý thầy, quý sư cô lớn của Làng Mai phụ trách.
Thật ấm lòng khi ngày thứ hai của khóa tu, đại chúng thấy sư cô Định Nghiêm và giáo thọ cư sĩ Chân Trí (được Sư Ông truyền đăng từ năm 1992) cùng cho pháp thoại. Ngày thứ ba trong khóa tu, pháp thoại do thầy Pháp Dung và giáo thọ cư sĩ người Mỹ, Mitchell Ratner – Chân Trí Cảnh phụ trách. Có thể thấy sự tiếp nối của Sư Ông thật rõ ràng trong tăng thân tứ chúng. Hình ảnh một tăng thân tứ chúng cùng đi như một dòng sông luôn là tâm nguyện của Sư Ông.
Khóa tu mùa Hè (từ ngày 01 đến ngày 29.07.2016)
Khóa tu này thiền sinh về tham dự rất đông, một phần muốn về thăm vì nghe Sư Ông trở về Pháp sau cơn đột quỵ. Tuần đầu có 800 thiền sinh, tuần thứ hai 1000, tuần thứ ba 1100 và tuần thứ tư 1200 thiền sinh, đến từ khắp nơi trên thế giới. Năm nay có nhiều thiền sinh đến từ các nước Nam Mỹ, và nhìn chung có khoảng 75% thiền sinh là người mới tới Làng lần đầu tiên.
Như mọi năm, người Việt vẫn được sống và thực tập với nhau ở xóm Trung. Nhiều người lần đầu tiên biết đến pháp môn mà đã thực tập có nhiều chuyển hóa. Cũng nhiều người lần đầu tiên về xóm Trung được thưởng thức cơm lam do quý thầy, quý sư cô nướng, trong sự ấm cúng của tình gia đình, tình quê hương.
Trong khóa tu mùa Hè, trẻ con và thiếu niên bao giờ cũng là trung tâm của sự chú ý, thương yêu và nâng niu của mọi người. Hè này, trong suốt bốn tuần lễ, tại ba xóm Làng Mai, có thể thấy trẻ con ở khắp nơi. Mỗi tuần tổng cộng có từ 120 đến 220 thiếu nhi và thanh thiếu niên. Trẻ con nói tiếng Pháp về xóm Thượng, trẻ con nói tiếng Anh và các em nữ thiếu niên tuổi từ 12 đến 17 về xóm Mới. Xóm Hạ đón trẻ con nói tiếng Đức, tiếng Hà Lan. Các em có chương trình sinh hoạt riêng do quý thầy, quý sư cô và các bạn tình nguyện viên phụ trách. Vào các ngày quán niệm, quý thầy, quý sư cô bao giờ cũng có một bài pháp thoại ngắn cho các em trước khi có pháp thoại cho người lớn, như Sư Ông vẫn thường làm trong khóa tu mùa Hè. Nhìn trẻ con đến tu tập chung, ánh mắt của người lớn dịu đi; nhìn các em, vẻ mặt ai cũng tươi cười, âu yếm.
Nhiều em theo gia đình về dự một tuần, thích quá xin ba mẹ ở lại thêm một tuần nữa. Tuần cuối là tuần đông nhất, không còn chỗ nên đôi lúc quý sư cô ban văn phòng phải từ chối những người muốn ở thêm. Có một bé trai tám tuổi nghe mẹ nói không có chỗ, tự động lên văn phòng xin quý sư cô cho ở lại. Quý sư cô thấy thương quá phải sắp xếp để tìm chỗ. Trong văn phòng nghe có một mùi hơi khó chịu, hỏi thăm thì mẹ bé nói là từ khi biết là có thể không được ở lại, bé đã không chịu tắm rửa gì cả nên mới như thế. Bây giờ được ở lại thêm, bé hứa với quý sư cô là sẽ đi tắm ngay.
Các em thiếu niên (Teens) cũng có chương trình riêng. Các em nam về xóm Thượng, các em nữ về xóm Mới. Lứa tuổi của các em đã phải đối diện với rất nhiều vấn đề từ sự căng thẳng và cạnh tranh ở trường học, mặc cảm thua kém, quan hệ tình cảm đến bế tắc truyền thông với gia đình. Có em lần đầu tiên mở lòng chia sẻ về vết thương sâu mà các em đã có hồi còn thơ ấu vì bị một người thân lạm dụng. Ở Làng, cùng với các bạn đồng lứa tuổi, các em đã thực tập lắng nghe sâu, nói lời ái ngữ và quán chiếu để chấp nhận mình và thiết lập truyền thông lại với người thương. Hàng tuần, các em đều có một buổi thực tập làm mới với cha mẹ. Những buổi làm mới như thế bao giờ cũng có rất nhiều nước mắt cảm thông và kết thúc bằng thiền ôm.
Mùa hè là cơ hội đầu tiên từ khi bị đột quỵ, Sư Ông ra thiền hành với trẻ em và thưởng thức năng lượng hồn nhiên, tươi mát của các em. Các em nắm tay Sư Ông một cách nhẹ nhàng, cẩn trọng khi Sư Ông ngồi trên xe lăn, dẫn đầu đoàn thiền hành cả 1000 người. Rất nhiều lần trong khóa tu, đại chúng đã được cùng Sư Ông ngồi tại hồ sen các xóm, hát thiền ca trong tiếng hòa tấu của ban nhạc “nhái xanh” ở dưới hồ. Thỉnh thoảng có ai đó dâng lên Sư Ông một bông sen ngát hương. Có một ngày đẹp trời, Sư Ông đã đến rừng bạch dương trong lúc mấy trăm thiền sinh đang ngồi thật yên để cùng nghe bài hát “Hải triều âm” do thầy Pháp Linh sáng tác.
Tại xóm Thượng, có lần khi buổi thiền hành trong rừng sồi sắp chấm dứt, Sư Ông xuống xe lăn và đi một đoạn đường tới thất Ngồi Yên. Với một nỗ lực phi thường và với sự hỗ trợ của thị giả, Sư Ông đứng lên và bắt đầu đi, từng bước một. Trong khi đó, mấy trăm thiền sinh hát vang bài “chân hôn mặt đất, mắt ôm trời” bằng tiếng Pháp. Sư Ông đã cho thấy một quyết tâm đáng kinh ngạc, một tấm gương của sự thực tập “hỷ lạc trong mỗi bước chân” với sự yểm trợ, ôm ấp và thương yêu của bốn chúng. Pháp thân của Sư Ông luôn nhắc nhở chúng ta về sự mầu nhiệm của giây phút hiện tại, của sự sống quý giá và cái đẹp của tăng thân. Nhìn Sư Ông, chúng ta không khỏi tự hỏi “mình có đang trân quý từng giây phút, từng bước chân hay không?”.
Khóa tu dành cho người trẻ với chủ đề “Giữ gìn đất Mẹ” – Earth Wake Up
(từ ngày 05 đến ngày 12.08.2016)
Đây là khóa tu một tuần do xóm Thượng và xóm Hạ kết hợp tổ chức. Hơn 500 người trẻ đã về tham dự khóa tu này (ngoài ra còn có hơn 100 vị trong danh sách chờ đợi vì đã hết chỗ). Thiền sinh nam ở xóm Thượng và nữ ở xóm Trung nhưng tất cả mọi sinh hoạt đều ở xóm Thượng.
Đến khóa tu này, ngoài các thời khóa thường lệ như thiền ngồi, thiền đi, pháp thoại, thiền ăn, thiền sinh còn có rất nhiều không gian để thư giãn, gần gũi thiên nhiên, làm việc ở Nông trại Hạnh phúc (Happy Farm), đốt lửa trại, xây dựng tình huynh đệ. Năng lượng trẻ với nhiều tiếng cười, tiếng hát, tiếng nhạc giúp cho ai cũng mở lòng chia sẻ, lắng nghe, học hỏi, chuyển hóa và đặc biệt là tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Trong bối cảnh của sự khủng hoảng khí hậu và những cuộc chiến tranh trên thế giới, làm sao tìm được sự cân bằng giữa việc dấn thân vào những hoạt động phụng sự và dành thời gian cho hành trình tâm linh của mỗi cá nhân?”.
Khóa tu “Nấu ăn trong chánh niệm” (từ ngày 05 đến ngày 12.0.2016)
Trong khi khóa tu dành cho người trẻ diễn ra ở xóm Thượng thì tại xóm Mới có khoảng 120 thiền sinh đến tham dự khóa tu Nấu ăn trong chánh niệm. Đây là lần đầu tiên một khóa tu như vậy được tổ chức ở Làng Mai. Trong những năm qua, nhiều thiền sinh Tây phương đến xóm Mới tu học đã đề nghị quý sư cô hướng dẫn cách nấu những món chay để tạo cảm hứng cho những người ăn “vegan” (hoàn toàn không sử dụng những sản phẩm từ động vật: thịt, cá, trứng, sữa,…). Đây là một phương tiện quyền xảo để giới thiệu pháp môn chánh niệm cho người mới.
Nhiều thiền sinh đến Làng tu tập thành công, có hạnh phúc và chuyển hóa nên cũng muốn người thân đến Làng để có hạnh phúc như mình. Tuy nhiên những người thân này lại không có cảm hứng đến Làng. Vậy mà khi họ nghe nói có khóa tu Nấu ăn trong chánh niệm thì lại muốn đến. Thời khóa tu tập trong suốt khóa tu cũng có giờ thiền ngồi, thiền đi, pháp thoại, thiền hướng dẫn, pháp đàm, ăn cơm im lặng, thiền buông thư, v.v. Vì vậy, người đến khóa tu dù muốn dù không cũng từ từ “thấm” và “thương” pháp môn chánh niệm hồi nào không hay. Nấu ăn không còn là mục đích chính nữa. Nhiều người hạnh phúc quá và nói rằng chắc chắn họ sẽ quay trở lại.
Khóa tu cho người nói tiếng Đức và Hà Lan tại Viện Phật học Ứng dụng châu Âu – EIAB
(từ ngày 08 đến ngày 20.08.2016)
Năm nay một số quý thầy, quý sư cô lớn của Làng Mai như sư cô Chân Không, thầy Pháp Ứng, thầy Pháp Dung đến Đức thay cho Sư Ông để yểm trợ khóa tu cho người nói tiếng Đức với chủ đề Làm bạn với tự thân (08 – 13.08.2016) và khóa tu cho người nói tiếng Hà Lan chủ đề Không có bùn thì không có sen (15 – 20.08.2016). Trước khi đi, sư cô Chân Không xin phép Sư Ông đi qua Đức để yểm trợ tăng thân ở EIAB. Sư Ông rất hạnh phúc và ra dấu gởi lời thăm mọi người. Khoảng 350 người Đức và 200 người Hà Lan, trong đó có nhiều trẻ em và thanh thiếu niên đã về tham dự hai khóa tu này.
Khóa tu mùa Thu (từ ngày 16.09 đến ngày 11.11.2016)
Cũng như khóa tu mùa Xuân, mùa thu là mùa quý thầy và quý sư cô đi hướng dẫn khóa tu ở khắp nơi, thậm chí đi còn nhiều hơn là vào mùa xuân. Vì vậy mùa thu ở Làng rất tĩnh lặng và nhiều không gian. Những người thích yên lặng, không thích đông người thì thường chọn về Làng vào mùa thu. Ấy vậy mà có tuần cũng đến cả trăm thiền sinh về Làng ở mỗi xóm.
Sư Ông vẫn thường có mặt và thiền hành cùng đại chúng trong những ngày nắng đẹp, khi thì ngắm rừng bạch dương vào thu khi thì dạo chơi trên đồi mận. Thỉnh thoảng Sư Ông còn dùng cơm quá đường với đại chúng. Có những ngày thầy trò cùng nhau đi ngắm hoa cúc và đi hái táo, thật là hạnh phúc! Hòa thượng Minh Cảnh và Hòa thượng Minh Nghĩa cũng dành thời gian sang thăm Sư Ông, đúng vào dịp đại chúng mừng Ngày Tiếp nối của Sư Ông (ngày 11.10).
Làng Mai đến Dreamforce
Ngày 23/08, ông Marc Benioff, Tổng giám đốc của công ty Salesforce đến Làng Mai thăm Sư Ông. Ông rất cảm động nghe sư chú ở quán sách xóm Thượng nói không có thư pháp do chính tay Sư Ông viết để cho mọi người thỉnh nữa. Chỉ còn có cửa hàng ABC Home ở thành phố New York, Mỹ là còn phát hành thư pháp nguyên bản của Sư Ông mà thôi. Ông dự định thỉnh hết thư pháp còn lại ở ABC và gửi tặng lại cho Làng mấy chục tấm. Trong dịp này ông cũng lập lại lời mời tăng đoàn Làng Mai đến dự hội nghị thường niên Dreamforce của công ty.
Từ ngày 04 đến ngày 07.10.2016, tăng đoàn Làng Mai đến San Francisco để tham dự hội nghị Dreamforce – hội nghị thường niên của công ty Salesforce, theo lời mời của ông Marc Benioff, Tổng giám đốc của công ty. Đoàn gồm có 20 thầy và sư cô từ các trung tâm Làng Mai khắp nơi tham dự (xin xem thêm bài viết chi tiết có tựa đề “Thương yêu nuôi lớn ước mơ” của thầy Pháp Dung trong LTLM số này).
An cư kiết đông 2016 – 2017
Sáng ngày 15.11.2016, tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng, Sư Ông cùng tứ chúng Làng Mai đã làm lễ Đối thú, mở đầu cho 90 ngày an cư hùng tráng. Số người an cư tại đạo tràng Mai Thôn trong mùa An cư kiết đông năm nay là 295 vị (199 xuất sĩ và 94 cư sĩ). Tất cả đều sẽ an trú, tu tập miên mật trong 90 ngày.
Sau hai mùa An cư vắng Sư Ông ở Làng, sự có mặt của Sư Ông trong buổi lễ đối thú làm cho đại chúng vô cùng hạnh phúc và xúc động. Trong lời tác bạch thỉnh Sư Ông làm chỗ nương tựa cho đại chúng, thầy Pháp Hữu – trú trì chùa Pháp Vân, xóm Thượng; sư cô Định Nghiêm – đại diện hội đồng trú trì chùa Từ Nghiêm, xóm Mới và sư cô Hội Nghiêm – trú trì chùa Cam Lộ, xóm Hạ đều nói lên lòng biết ơn và niềm hạnh phúc của đại chúng khi có Sư Ông cùng an cư năm nay.
Quý thầy và quý sư cô giáo thọ lớn của Làng đã thay phiên nhau cho pháp thoại trong suốt mùa An cư với chủ đề xuyên suốt “Theo gót chân Thầy” dựa trên giáo lý Bát chánh đạo. Mỗi tuần có một ngày quán niệm cho bốn chúng vào Chủ nhật, có ăn cơm quá đường, và một ngày xuất sĩ vào thứ Năm. Các xóm thay phiên nhau tổ chức ngày xuất sĩ, trong khi đó thì thiền sinh cũng có ngày cư sĩ tổ chức ở một xóm khác. Năm nay quý thầy, quý sư cô trong ban tổ chức ngày xuất sĩ rất năng động và sáng tạo, trưng cầu ý kiến mọi người rất kỹ lưỡng nên có nhiều ý tưởng mới. Thí dụ như sinh hoạt chuyên đề (workshops) rất phong phú về đề tài, trong đó có lớp học cách làm thiền hướng dẫn của sư cô Định Nghiêm, lớp dành cho quý thầy, quý sư cô giáo thọ tương lai của thầy Pháp Thạnh rất được ưa chuộng, loạt chuyên đề “nguồn gốc của loài người” do thầy Pháp Lưu phụ trách, loạt chuyên đề về Thiền tập nhìn từ góc độ của nhà thần kinh học của thầy Pháp Linh, v.v. Đề tài nào cũng hấp dẫn, đi tham dự cái này thì phải mất cái kia nên có nhiều người tiếc rẻ “thôi để lần sau”, thậm chí có vị còn nhờ thâu lại để về nghe nữa.
Lễ truyền đăng tại tu viện Mộc Lan
Ngày 20.11.2016, một số quý thầy sư cô lớn ở Bắc Mỹ từ các tu viện Bích Nham và Lộc Uyển đã quy tụ về tu viện Mộc Lan để làm lễ truyền đăng cho một số vị xuất sĩ và cư sĩ trong khu vực Bắc Mỹ. Hòa thượng Phước Tịnh, thầy Pháp Hải và sư cô Hoa Nghiêm đã đại diện Sư Ông và Tăng thân để truyền đăng phú pháp. Kệ truyền đăng của quý thầy quý sư cô tại Bắc Mỹ:
Truyền đăng
cho Thượng tọa Thích Nguyên Minh
Thượng toạ Thích Nguyên Minh, trú trì chùa Kim Sơn, Nha Trang, suốt mấy mươi năm nay lúc nào cũng âm thầm ủng hộ và giúp quý thầy, quý sư cô Làng Mai tổ chức các khoá tu tại tu viện Kim Sơn.
Đầu tháng 11 năm 2016, nhân duyên hội tụ đầy đủ, Ôn Nguyên Minh sang thăm Sư Ông Làng Mai tại Pháp. Trước khi đi, Ôn đã gặp chướng duyên (gãy cườm tay) nhưng quyết chí của Ôn thật lớn. Vừa tới phi trường, được biết Sư Ông đang có mặt với đại chúng trong buổi hái táo, ban thị giả đã đưa Ôn tới khu vườn táo và Sư Ông đã sờ đầu Ôn Nguyên Minh thật thân thương trong giây phút gặp mặt.
Sau một tuần sinh hoạt với đại chúng xóm Thượng và hầu thăm Sư Ông, vào đêm 21.11.2016, Sư Ông Làng Mai đã thương mến trao cho Ôn Nguyên Minh bài kệ truyền đăng như sau:
Bài kệ này do quý thầy lớn trong tăng thân soạn giúp, có thảo luận thêm bớt rồi đọc cho Sư Ông nghe. Cuối cùng Sư Ông đã gật đầu hài lòng. Thượng toạ đã trình kệ kiến giải trước Sư Ông và quỳ nhận kệ phú pháp truyền đăng tại Nội viện Phương Khê với sự yểm trợ năng lượng của quý thầy, quý sư cô giáo thọ lớn của ba chùa Làng Mai.
Sư Ông sang Làng Mai Thái Lan (9.12.2016)
Ngày 9 tháng 12, đại chúng Làng Mai Pháp tiễn Sư Ông lên đường sang Làng Mai Thái Lan. Làng Mai Thái Lan ra đời năm 2009, sau sự kiện Bát Nhã. Đây là trung tâm lớn nhất của Làng Mai tại châu Á, với gần 200 xuất sĩ – phần lớn là những người xuất gia trẻ – đang tu tập tại đây. Sự có mặt của Sư Ông tại Làng Mai Thái Lan như một phép mầu, khiến cho đại chúng nơi đây, chư Tôn đức và đồng bào ở Việt Nam vô cùng hạnh phúc. Có lẽ hạnh phúc nhất là những giới tử chuẩn bị được xuất gia vào ngày 14 tháng 12 với sự chứng minh của Sư Ông. Sư Ông về Thái Lan là một sự kiện rất hy hữu bởi hầu như ai cũng nghĩ có lẽ Sư Ông sẽ thường trú ở Làng Mai Pháp vì lý do sức khỏe.
Lễ xuất gia cây Mai Vàng (ngày 14.12.2016)
Sáng ngày 14.12.2016, tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng, Làng Mai, đã diễn ra lễ xuất gia cho gia đình Cây Mai Vàng (trong đó 17 vị được xuất gia tại Làng Mai – Pháp, 30 vị được xuất gia tại trung tâm Làng Mai – Thái Lan và 3 vị được xuất gia tại tu viện Bích Nham – Mỹ). Đặc biệt tại trung tâm Làng Mai Thái Lan, Sư Ông đã có mặt để chứng minh cho lễ xuất gia – diễn ra vào ngày 15.12 – cùng với chư Tôn đức đến từ Việt Nam.
Tại Làng Mai Pháp, 17 giới tử đến từ 10 quốc gia khác nhau (Pháp, Đức, Hà Lan, Mỹ, Canada, Mexico, Argentina, Nhật Bản, New Zealand, và Việt Nam).
Giây phút hồi hộp và thú vị nhất là giây phút đọc pháp tự của 50 em trong gia đình cây Mai Vàng. Mỗi em đều có một cái tên rất dễ thương, mang bao tình thương và sự gửi gắm của Bụt, của Thầy và tăng thân:
Các sư chú cây Mai Vàng: Chân Trời Đức Hành, Chân Trời Đức Hiền, Chân Trời Minh Thiện, Chân Trời Đức Niệm, Chân Trời Đức Định, Chân Trời Đức Phổ, Chân Trời Đức Bản, Chân Trời Đức Trí, Chân Trời Đức An, Chân Trời Đức Dũng, Chân Trời Kiên Tuệ, Chân Trời Giác Tuệ, Chân Trời Phước Tuệ, Chân Trời Biển Tuệ, Chân Trời Đức Khiêm, Chân Trời Đức Trú, Chân Trời Đức Tuệ, Chân Trời Đuốc Tuệ.
Các sư cô cây Mai Vàng: Chân Trăng Mai Lâm, Chân Trăng Mai Sơn, Chân Trăng Mai Trang, Chân Trăng Mai Viên, Chân Trăng Mai Điền, Chân Trăng Định Chiếu, Chân Trăng Mai Phương, Chân Trăng Hoàng Anh, Chân Trăng Hoàng Yên, Chân Trăng Tịch Chiếu, Chân Trăng Tuệ Chiếu, Chân Trăng Hải Chiếu, Chân Trăng Viên Chiếu, Chân Trăng Minh Chiếu, Chân Trăng Từ Chiếu, Chân Trăng Thông Chiếu, Chân Trăng Quang Chiếu, Chân Trăng Nhiên Chiếu, Chân Trăng Phổ Chiếu, Chân Trăng Mãn Chiếu, Chân Trăng Linh Chiếu, Chân Trăng Bảo Chiếu, Chân Trăng An Chiếu, Chân Trăng Học Chiếu, Chân Trăng Liên Chiếu, Chân Trăng Ngọc Chiếu, Chân Trăng Thiện Chiếu, Chân Trăng Phương Chiếu, Chân Trăng Hằng Chiếu, Chân Trăng Huyền Chiếu, Chân Trăng Huy Chiếu, Chân Trăng Mẫn Chiếu.
Giáng Sinh và Tết dương lịch 2016
Có khoảng 450 thiền sinh về Làng đón Giáng Sinh và 600 thiền sinh về đón Tết dương lịch. Tuy Giáng sinh là ngày sum họp gia đình nhưng thiền sinh vẫn dành những ngày đặc biệt này để về Làng tu tập và tham dự Giáng sinh cùng Làng. Nhiều người chia sẻ rằng họ trở về Làng với niềm hân hoan như là về nhà mình vậy. Hình ảnh quý thầy, quý sư cô hát những bài thánh ca trong dịp Giáng sinh làm cho nhiều người rất xúc động. Tăng thân Làng Mai là một tăng thân quốc tế với các thầy và sư cô đến từ nhiều nền văn hóa, tôn giáo khác nhau, trong đó có Cơ Đốc giáo, Hồi giáo,… Sư Ông Làng Mai thường dạy các đệ tử của mình trở về với cội nguồn để tiếp xúc với gốc rễ tâm linh và huyết thông trong mình. Thế cho nên ở Làng cũng tổ chức mừng Giáng sinh và những lễ hội mang đậm dấu ấn văn hóa mỗi quốc gia.
Ngày 31.12, đại chúng vân tập về thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng để đón Tết dương lịch. Buổi chiều cũng có một thời pháp thoại đón năm mới do thầy Pháp Dung chia sẻ. Sau khi dùng chiều đại chúng lại được xem văn nghệ. Sau đó thiền sinh được thưởng thức một thời thiền buông thư để… có sức đón giao thừa.
11.30 tối, đại chúng lại vân tập về thiền đường Nước Tĩnh để chuẩn bị đón Giao thừa. Quý thầy quý sư cô đắp y vàng rất trang nghiêm. Đại chúng được nghe lời Khấn nguyện Tổ tiên và đất Mẹ, trong đó có lời nguyện dâng lên Sư Ông rất cảm động:
Kính lạy Thầy, chúng con xin được sám hối với Thầy: trong thời gian qua, chúng con đã nhiều lần để cho sự hoang mang tưới tẩm hạt giống bất an và sợ hãi nơi chúng con. Chúng con không hết lòng nương tựa nơi con đường, nơi pháp môn tu tập. Chúng con đánh mất niềm tin nơi gia đình và đoàn thể của mình. Nhiều khi chúng con đã để cho cảm xúc mạnh và những tri giác sai lầm trấn ngự, khiến chúng con cảm thấy cô đơn, xa cách và tuyệt vọng.
Ý thức được điều đó, chúng con xin sám hối và nguyện trở về nương tựa nơi pháp môn tu học và tăng thân yêu quý của chúng con để có thể là sự tiếp nối xứng đáng của Thầy và của chư vị Tổ tiên. Chúng con xin nguyện nuôi dưỡng hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm, như lời Thầy thường dạy, để có thể sống sâu sắc mỗi giây phút của đời sống hằng ngày. Chúng con cũng xin nguyện hết lòng tiếp nối công trình xây dựng tăng thân, nuôi dưỡng tình huynh đệ mà Thầy đã dày công tạo dựng, cho dù đôi khi chúng con phải đối mặt với không ít khó khăn, thử thách. Khi có khó khăn xảy ra, chúng con sẽ không để cho mình đánh mất sự thực tập hay rời bỏ những người thương, rời bỏ tăng thân yêu quý, mà xin nguyện thực tập lắng nghe nhau, nâng đỡ nhau và không có thái độ ruồng bỏ bất cứ ai, dù đó là người làm cho chúng con khổ đau.
Ngay trong lúc những dòng chữ này được viết xuống thì mọi chuyện của năm cũ, năm 2016 tại Làng Mai cũng vừa khép lại. Cây nêu ở các xóm đã được dựng lên. Chúng tôi đã gói xong bánh chưng, bánh tét và thức suốt đêm canh bánh. Trong Phật Đường, ngoài thiền đường lớn, giữa sân chùa, đâu đâu quý vị cũng có thể ngắm nhìn những cành hoa mận hồng, mận trắng nở rộ. Chuông trống Bát nhã cùng sẵn sàng cho phút cuối năm.
Từ tấm lòng trân quý và biết ơn, bốn chúng Làng Mai xin gởi đến quý vị lời chúc Năm Mới thật dồi dào sức khỏe, an lạc và có một cái Tết sum vầy thật bình an, đầy niềm vui và tiếng cười.
Hình LTLM 40
Lá thư Làng Mai 40 – 2017
Giảng Kinh Chuyển Hóa Bạo Động và Sợ Hãi
Kinh Chuyển Hóa Bạo Động và Sợ Hãi
(Duy Lâu Lạc Vương Kinh)
Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 16, Đại Tạng Tân Tu 198
tương đương với Attadanda Sutta, Sutta-Nipàta 935-954
Phần 1:
(Đây là bài pháp thoại Sư Ông giảng vào ngày 7.2.2010 tại thiền đường Trăng Rằm, xóm Mới, Làng Mai, trong khóa An Cư Kết Đông 2009 – 2010)
Hôm nay chúng ta học Kinh Duy Lâu Lặc Vương tức kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh. Kinh này được dịch từ tạng chữ Hán và chúng ta có thể tham khảo được bản dịch từ tiếng Pali.
Nghĩa Túc kinh là một kinh được dịch từ đầu thế kỷ thứ ba. Chữ nghĩa 義 có nghĩa là giáo nghĩa, giáo pháp hay sự thật. Nói một cách chính xác nhất, chữ nghĩa là giáo nghĩa 教義 tức nghĩa lý, có thể dịch là the meaning, the content, the teaching. Chữ túc 足 có nghĩa là cái chân, là cái vế, tức một cái gì mình có thể nương tựa lên. Chữ túc được dịch từ chữ pada, pada là một cú, một câu (sentence, verse). Giáo pháp được trình bày dưới hình thức những câu gọi là Pháp Cú (Dharmapada). Chữ pada nhiều khi cũng được dịch là túc tức là chân hay vế. Người có hai chân được gọi là lưỡng túc, Đức Thế Tôn có một tên rất hay: Lưỡng Túc Tôn tức một bậc được tôn quí nhất trong giới có hai chân. Túc là chân đi, là vai vế, là chỗ nương tựa. Túc cũng có nghĩa là câu, là bài thi kệ, bài thi cú. Nghĩa Túc là giáo nghĩa Bụt dạy trong hình thức những thi cú. Chúng ta cũng có thể dịch là Nghĩa Cú nhưng cư sĩ Chi Khiêm đã dùng chữ Nghĩa Túc. Chữ túc trong tiếng Hán cũng có nghĩa là đầy đủ, vì vậy Nghĩa Túc cũng có nghĩa là giáo nghĩa đầy đủ. Trong bản tiếng Anh tôi dịch là The Sutra of the Complete Teaching hay The Sutra on the Teaching presented in verses. Kinh Nghĩa Túc tiếng Phạn là Arthapada (artha là nghĩa lý, pada là câu) tức nghĩa lý của giáo pháp được trình bày trong từng câu kệ.
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
Bài kệ 1
Tùng vô ai trí khủng bố 從 無 哀 致 恐 怖
Nhân thế thế tùng hiệt thính 人 世 世 從 黠 聽
Kim dục thuyết nghĩa khả thương 今 欲 說 義 可 傷
Ngã sở tùng xả uý bố 我 所 從 捨 畏 怖
Hãy lắng nghe và quán sát để thấy tại sao mà từ trạng thái an lành người ta đưa xã hội tới tình trạng đầy khủng bố bạo động như hiện nay? Các thế hệ vừa qua đã hành xử như thế nào để tình trạng trở thành như thế? Tôi muốn nói với các vị về chuyện đau thương này và kể cho quí vị nghe làm sao mà tôi đã buông bỏ được tâm trạng sợ hãi của tôi.
Đó là câu hỏi mà Đức Thế Tôn đã đặt ra cách đây 2600 năm và chúng ta ai cũng đặt câu hỏi đó.
Tùng vô ai trí khủng bố: Ai là sự đau thương, vô ai là không có sự đau thương. Từ chỗ không có sự đau thương người ta đi tới chỗ khủng bố. Trí là đi tới. Không biết người ta đã làm như thế nào mà để đi tới tình trạng như hiện nay?
Nhân thế thế tùng hiệt thính: Chúng ta hãy lắng nghe để tìm hiểu tại sao con người, từ đời này sang đời khác, đã đưa xã hội từ tình trạng an lành sang tình trạng đầy khủng bố và bạo động như hiện nay? Các thế hệ vừa qua đã hành xử như thế nào để tình trạng trở nên như thế? Thế thế là từ đời này sang đời khác. Bạo động và sợ hãi phải được nuôi dưỡng, phải có thực phẩm thì nó mới lớn lên được. Thế hệ này sang thế hệ khác cứ tiếp tục nuôi dưỡng sự sợ hãi và bạo động đó cho nên bây giờ nó đã trở nên quá lớn.
Kim dục thuyết nghĩa khả thương: Bây giờ đây tôi muốn nói với các vị về chuyện đau thương này, đó là lời của Đức Thế Tôn.
Ngã sở tùng xả úy bố: Tôi kể cho quí vị nghe, làm sao tôi đã buông bỏ được tâm trạng sợ hãi của tôi. Đức Thế Tôn cũng là người như chúng ta, cũng có tâm niệm sợ hãi, lo lắng. Nhưng Đức Thế Tôn đã thực tập và Ngài đã buông bỏ được sự sợ hãi của mình. Là học trò của Ngài, mình lắng nghe xem thầy của mình đã làm như thế nào mà buông bỏ được sự sợ hãi, để mình cũng có thể làm được như Ngài.
Bài kệ 2
Triển chuyển khổ giai thế nhân 展 轉 苦 皆 世 人
Như càn thủy đoạn lưu ngư 如 乾 水 斷 流 魚
Tại khổ sinh dục hại ý 在 苦 生 欲 害 意
Đại bỉ khủng si minh lạc 代 彼 恐 癡 冥 樂
Người đời trải nghiệm từ cái khổ này sang các khổ khác như con cá sống trong một nơi mà ở đó nước càng ngày càng khô cạn. Trong hoàn cảnh khổ đau, ý tưởng bạo động dễ nẩy sinh và con người u mê cứ đi tìm sự bớt khổ bằng những phương tiện khủng bố trừng phạt.
Triển chuyển khổ giai thế nhân: Người đời đều như vậy, họ đi từ cái khổ này sang cái khổ khác.
Như càn thủy đoạn lưu ngư: Ngư là cá, càn thủy là nước cạn, đoạn lưu là dòng nước bị cắt đứt. Dòng nước đưa vào đã bị cắt, mà nước còn lại thì càng ngày càng cạn. Đó là tình trạng khó sống của con người. Đây là một hình ảnh rất phổ thông. Trong “Bài kệ vô thường” có câu: Ngày này đã qua, đời sống ngắn lại. Hãy nhìn cho kỹ ta đã làm gì? Càng ngày sự sống càng ngắn lại như con cá cảm thấy nước của mình càng lúc càng ít đi.
Bây giờ mỗi khi đi máy bay, người nào cũng bị nghi là quân khủng bố, người nào cũng phải đi qua body scan. Sự sợ hãi tăng đến mức rất cao, hành khách nào đi máy bay cũng có thể là một quân khủng bố. Con người nghi ngờ tất cả mọi người: Đàn bà, đàn ông, người già, trẻ nhỏ, kể cả người mặc áo tu cũng bị nghi ngờ. Ai cũng có thể bị tình nghi là khủng bố. Mình đã làm ăn như thế nào mà tình trạng lại tới mức độ như vậy? Đó là tình trạng của một con cá không nhận được nước chảy vào mà nước còn lại thì càng ngày càng khô cạn. Đó là tình trạng thế giới của chúng ta ngày nay. Kinh này, tuy được nói ra cách đây 2600 năm nhưng vẫn còn rất mới.
Tại khổ sinh dục hại ý: Tại vì khổ nên trong tâm người ta sinh ra ý muốn trừng phạt, muốn giết hại. Khi mang khổ đau trong lòng, mình đem tâm oán hận người kia, người đã làm cho mình khổ, và mình muốn làm cái gì đó để trừng phạt người kia.
Hại là bạo động, dục là muốn, có khuynh hướng muốn trừng phạt, muốn giết, muốn đánh cho vỡ nát, tiêu đi. Dục hại ý là ý muốn tàn hại, trừng phạt. Tại vì khổ mà không biết cách xử lý cái khổ của mình nên mình sinh ra tâm ý muốn trừng phạt, ý muốn đó rất lớn, mình muốn trừng phạt người kia dù mình phải chết cũng cam. Mình mang trái bom nhảy vào đám đông để giết chết cả một xe bus hay một quán cà phê. Mình đem chất nổ lên máy bay làm nổ tung cả máy bay và mình cùng chết theo, tại vì trong lòng mình có ý muốn trừng phạt. Ý muốn trừng phạt phát sinh ra do cái khổ của mình. Mình có nỗi khổ niềm đau không xử lý được, nỗi khổ niềm đau làm cho mình nẩy sinh ra tâm thù hận, muốn trừng phạt.
Đại bỉ khủng si minh lạc: Tìm sự bớt khổ, tìm niềm vui ở chỗ trừng phạt, khủng bố người khác. Si là tối tăm, mờ ám. Minh cũng là tối tăm, mờ ám. Mình đi tìm sự bớt khổ, sự trả thù bằng cách gây khổ đau cho người khác. Đó là bóng tối, là vô minh nằm trong tâm mình.
Triển chuyển là trải nghiệm, là đi qua, đi qua cái khổ này tới các khổ khác, từ khổ A tới khổ B rồi tới khổ C. Người đời trải nghiệm từ cái khổ này sang các khổ khác như con cá sống trong một nơi mà ở đó nước càng ngày càng khô cạn.
Trong hoàn cảnh khổ đau, ý tưởng bạo động dễ nẩy sinh (tại khổ sinh dục hại ý) và con người u mê (si minh) cứ đi tìm sự bớt khổ bằng những phương tiện khủng bố trừng phạt. Khi khổ, mình nghĩ rằng phải làm cho người kia khổ, phải giết chết người kia đi thì mình mới bớt khổ. Đó là cách suy nghĩ và hành động của con người.
Bài kệ 3
Nhất thiết thế tất nhiên thiêu 一 切 世 悉 然 燒
Tất thập phương loạn vô an 悉 十 方 亂 無 安
Tự cống cao bất xả ái 自 貢 高 不 捨 愛
Bất kiến cố trì si ý 不 見 故 持 癡 意
Cả thế giới đều đang bốc cháy vì bạo lực, mười phương loạn lạc cả mười phương, không có nơi nào thật sự còn an ổn. Ai cũng cho mình là hơn người, ít ai biết buông bỏ cái đam mê của mình. Vì không thấy được sự thật ấy cho nên con người cứ ấp ủ mãi cái tri giác sai lầm của mình.
Nhất thiết thế tất nhiên thiêu: Thiêu là đốt cháy. Cả thế giới đều đang bốc cháy vì bạo lực.
Tất thập phương loạn vô an: Cả mười phương đều loạn lạc, không có nơi nào còn an ổn.
Tự cống cao bất xả ái: Ái là đam mê. Người nào cũng có cái đam mê của người đó, mình không bỏ được sự thèm khát của mình. Nếu dịch chữ cống cao là “cho mình là hơn người” thì chưa đủ mạnh. Cống cao có nghĩa là tự ái bị tổn thương và không buông bỏ được đam mê của mình.
Bất kiến cố trì si ý: Bất kiến là không thấy được sự thật, mỗi người đều có cống cao, tự hào, tự ái và cái mê say, ham muốn của mình. Trì là duy trì, không thấy được hai sự thật, thứ nhất là tự ái của mình bị tổn thương, thứ hai là mình có đam mê. Vì không thấy được sự thật cho nên mình cứ duy trì tâm ý đam mê tức những tri giác sai lầm của mình. Chính nó đã tạo ra mũi dao nhọn trong lòng mình.
Mình có một tôn giáo, một đức tin để theo nhưng người kia không chấp nhận niềm tin và tôn giáo của mình. Người ta nói xấu giáo chủ của mình, họ vẽ hình giáo chủ của mình để trêu chọc. Mình có nếp sống của mình, họ cho nếp sống đó là không văn minh. Mình có nền văn hóa của mình, họ cho nền văn hóa đó là lạc hậu. Họ kỳ thị mình, họ cho rằng chỉ có họ mới có dân chủ, có văn minh còn mình thì lạc hậu. Điều đó làm mình bị thương tổn rất nhiều. Anh không chấp nhận tôi, không chấp nhận tôn giáo của tôi, không chấp nhận cách sống của tôi, không chấp nhận văn minh của tôi, tại sao tôi phải chấp nhận văn minh của anh? Tại sao tôi phải chấp nhận tôn giáo của anh? Tôi có sự tự hào của tôi. Đó gọi là cống cao (pride). Khi sự tự hào của mình bị xâm phạm, mình có sự thù hận. Sự thù hận cộng với tham vọng tạo thành một sự phá hoại rất tàn khốc. Mình tạo ra sự loạn lạc trong thân và trong hoàn cảnh của mình. Mình không thấy được sự thật đó (bất kiến) nên cứ duy trì tâm ý đen tối của mình (si ý). Mình phải thấy được, mình khổ và người kia cũng khổ với mình vì hai cái: Cái đam mê (cái tham lam) và cái tự hào của mình.
Bài kệ 4
Mạc tác phược cầu minh khổ 莫 作 縛 求 冥 苦
Ngã tất quán ý bất lạc 我 悉 觀 意 不 樂
Bỉ trí khổ thống kiến thứ 彼 致 苦 痛 見 刺
Dĩ chí kiến nan khả nhẫn 以 止 見 難 可 忍
Tự trói buộc mình bằng những tri giác sai lầm ấy chỉ đem lại thêm cho mình nhiều tối tăm và thống khổ. Tôi đã nhìn sâu vào trong tâm ý của những người không có hạnh phúc và tôi đã thấy một mũi dao nhọn được che dấu dưới những niềm thống khổ của họ. Vì chính họ không thấy mũi dao nhọn ấy trong tâm cho nên họ khó có khả năng chịu đựng được niềm đau.
Những người mà mình cho là quân khủng bố, họ có niềm đau nỗi khổ của họ, nó như một mũi dao nhọn nằm trong tâm họ. Họ khổ và họ làm khổ cuộc đời vì mũi dao nhọn đó. Vì vậy phải làm thế nào để lấy mũi dao nhọn đó ra khỏi trái tim của mình, đó là lời Đức Thế Tôn dạy. Ai là người có khả năng lấy mũi dao nhọn ra khỏi trái tim của mình? Ai là người có thể giúp người kia lấy mũi dao nhọn trong tim của họ ra? Người đó là ai? Khi người ta chê mình, không chấp nhận mình, không chấp nhận tôn giáo của mình, không chấp nhận nền văn minh của mình, nếp sống của mình thì mình tự ái. Họ không chấp nhận mình thì tại sao mình phải chấp nhận họ? Con người chúng ta rất dại dột; chúng ta hay nói, hay làm những việc có thể đưa mũi dao nhọn vào trong tim của người kia. Những lời mình nói, những việc mình làm đã tạo ra một mũi dao nhọn trong tâm người kia. Người kia khổ và muốn trừng phạt mình cho bớt khổ. Đó là vấn đề hoàn toàn do tri giác sai lầm mà ra.
Trong Kinh, mình phải học cho được phương pháp làm sao lấy mũi dao nhọn ra khỏi trái tim của mình. Mũi dao nhọn có đó và làm mình nhức nhối ngày đêm. Nó được ủ lên bởi nhiều lớp khổ đau. Mình tưởng nó không có, nhưng thật ra nó có đó. Chính mình không thấy mũi dao nhọn trong tâm mình nên mình khổ và mình làm những người khác khổ. Câu hỏi ở đây rất thiết thực: Làm thế nào để nhận diện mũi dao trong tự thân và lấy nó ra cho mình bớt khổ. Sau đó mình mới giúp được người kia lấy mũi dao nhọn nơi họ ra. Đó là nội dung của kinh.
Bài kệ 5
Tùng thứ thống kiến bất di 從 刺 痛 堅 不 遺
Hoài thứ tẩu tất biến thế 懷 刺 走 悉 遍 世
Tôn thích kiến bạt thống thứ 尊 適 見 拔 痛 刺
Khổ bất niệm bất phục tẩu 苦 不 念 不 復 走
Niềm đau gây ra do mũi dao nhọn ấy kéo dài, không thay đổi, và cứ tiếp tục ôm lấy mũi dao nhọn ấy mà đi cho nên họ làm cho niềm đau trong họ tràn ngập thế giới. Chỉ khi nào có cơ hội nhận diện được nó và lấy nó ra khỏi trái tim thì khổ đau mới không còn và mình mới có cơ hội dừng lại.
Thế giới tràn ngập bạo động, đau thương tại vì có những người mang mũi dao nhọn trong lòng đang đi khắp thế giới. Bạo động và sợ hãi có một nguyên nhân rất sâu xa, đó là mũi dao nhọn trong tâm mình. Mình bị sự chỉ trích, sự chê trách, sự khinh bỉ, đàn áp của người khác. Mình nghĩ người kia muốn tiêu diệt mình thì tại sao mình không tiêu diệt họ trước để họ khỏi tiêu diệt mình? Vì vậy mình đi vào con đường khủng bố và trừng phạt trước.
Duy Lâu Lặc Vương là một ông vua hung bạo, tên ông là Virudhaka, có khi được dịch là vua Tỳ Lâu Ly. Ông là con trai của vua Ba Tư Nặc, một người rất thân thiết với Đức Thế Tôn. Vì trong quá khứ có người hành xử vụng về với ông nên ông vua mang một mũi tên độc trong trái tim và khi lớn lên ông đã tàn phá thế giới. Ông đã sát hại vô số người trong đó có bộ tộc Thích Ca.
Sau khi vua Tịnh Phạn, thân phụ của Đức Thích Ca qua đời thì Mahanam lên ngôi vua tại vì Siddharta đã đi tu. Mahanam có một cô nữ tỳ rất xinh đẹp nhưng không thuộc dòng quyền quí. Khi vua Ba Tư Nặc tới thăm, thấy cô nữ tỳ xinh đẹp muốn đưa về làm hoàng hậu. Nước Ca Tỳ La là một nước nhỏ trong khi nước Xá Vệ là một nước rất lớn. Khi vua Ba Tư Nặc rước cô nữ tỳ về, hoàng hậu Thắng Man rất sợ hãi, thấy đây có thể là một điềm không lành cho đất nước Xá Vệ, nhưng một khi vua đã thích rồi làm sao ngăn được. Vua Ba Tư Nặc rất yêu quý cô nữ tỳ xinh đẹp nhưng không thuộc dòng Bà La Môn hay dòng Sát Đế Lợi này. Khi Virudhaka được sinh ra, hoàng hậu nói: “Đứa nhỏ này có thể làm cho đất nước tan vỡ sau này.”
Hồi tám tuổi thái tử Duy Lâu Lặc được gửi về thành Ca Tỳ La Vệ để học bắn cung vì người ở Ca Tỳ La Vệ bắn cung rất giỏi. Hồi đó gia đình họ Thích vừa mới xây được một thiền đường rất đẹp. Họ quyết định với nhau không cho người thường đi vào thiền đường. Chỉ khi nào Đức Thế Tôn tới mới mở cửa để Đức Thế Tôn vào trước, rồi đến các thầy, các sư cô, rồi mới tới người khác đi theo sau. Thiền đường đó dùng để tôn quí Đức Thế Tôn. Nhưng khi thái tử Tỳ Lâu Ly tới để học bắn cung, cậu ta tự động đưa bạn bè vào trong thiền đường chơi giỡn, ngồi lên pháp tòa của Bụt. Khi khám phá ra việc đó dân chúng rất giận giữ. Đối với họ đây là một giảng đường rất linh thiêng, chỉ để dành cho Bụt, các thầy, các sư cô và gia đình vương tử. Vậy mà một người tầm thường như vậy lại dám đi vào. Có người giận quá nói: “Mày là gì mà dám vào đây? Mày chỉ là con của một nô tỳ của chúng tôi thôi!”. Chỉ mới có tám tuổi đầu mà câu nói đó đã tạo ra một niềm hận thù trong lòng Virudhaka, cho đến khi lớn lên cũng không thể nào lấy ra được.
Sau khi thái tử trẻ trở về nước, những người trong bộ tộc Thích Ca nói: “Bây giờ mình phải làm lễ tẩy tịnh vì con của một người nô tỳ đã tới đây làm ô uế giảng đường.” Họ vào thiền đường, xúc bảy tấc đất đổ ra ngoài, họ nghĩ đất này đã bị thằng nhóc con của một nô tỳ làm cho ô uế. Rồi họ lấy đất mới ở ngoài cho vào lại và dùng nước tiểu của bò để tẩy tịnh. Khi thái tử Tỳ Lâu Ly nghe được như vậy vô cùng căm giận và quyết tâm trả thù, đó là một mũi tên nhọn trong tim.
Những lời nói thiếu chánh niệm của chúng ta có thể tạo ra những nỗi khổ đau sau này. Cậu bé tám tuổi trở về với một vết thương rất nặng trong trái tim. Cậu nghĩ, khi lớn lên mình sẽ đem quân qua đánh cho gia đình họ Thích tan tác. Sau này, khi lên ngôi vua, Tỳ Lâu Ly có một điều kiện rất thuận lợi là có một quan đại thần rất thích việc chinh phục. Ngay trong khi Bụt còn tại thế, vua Tỳ Lâu Ly đã đem quân đội có voi ngựa sang đánh phá và giết không biết bao nhiêu người trong gia đình họ Thích. Đức Thế Tôn đã có can thiệp một lần để vua bỏ ý định chinh phục. Hôm đó Ngài biết quân đội vua Tỳ Lâu Ly đang đi tới thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài ra ngồi dưới một gốc cây khô trên đường đi của quân đội. Vua Tỳ Lâu Ly hỏi:
– Tại sao Ngài không ngồi dưới một bóng cây râm mát mà lại đi ngồi dưới một gốc cây khô?
Đức Thế Tôn nói:
– Cây này ngày xưa cũng rất đẹp, rất mát. Tôi đã từng ngồi dưới cây này, tên nó và vẻ đẹp của nó còn sống mãi trong lòng tôi. Bây giờ dù nó không còn lá tôi vẫn muốn ngồi dưới gốc cây này để chứng tỏ tôi có ân tình với những gì tôi đã được hưởng thụ.
Đó là cách nói của Đức Thế Tôn để vua bỏ ý định chinh phục và vua đã rút quân về. Nhưng lần sau, do lời xúi xiểm của các đại thần, vua đã đem binh trở lại tàn sát không biết bao nhiêu người.
Trong những người khủng bố có nhiều người rất trẻ, có người thuộc gia đình đại gia. Những người làm nổ máy bay không phải là những người quá nghèo, họ có thể là những người đậu bằng cao học, những người tốt nghiệp đại học. Không phải họ đi làm quân khủng bố để kiếm tiền. Họ có mũi dao nhọn trong tâm, họ sẵn sàng chết để trừng phạt. Những người trai trẻ đó có mặt khắp nơi. Chúng ta đã nói, đã làm như thế nào, chúng ta đã gài một mũi dao nhọn vào tâm của họ. Chúng ta không hẳn là những nhà chính trị, chúng ta có thể là họa sĩ, là thi sĩ, là nhà văn. Chúng ta nói năng và hành động không cẩn thận như những người trong bộ tộc Thích Ca; câu nói của chúng ta biến thành mũi dao nhọn trong lòng người kia. Chính chúng ta là những người đã góp phần tạo nên những người khủng bố. Tự ái của những người đó bị tổn thương rất nặng và họ muốn trừng phạt. Tự ái cũng như ý muốn trừng phạt phát sinh từ tri giác sai lầm. Nhiều khi chúng ta không có tâm tàn hại, không có ý muốn chê họ, nhưng chúng ta đã vụng về làm cho họ nghĩ mình muốn tiêu diệt họ.
Trong đạo Bụt chúng ta được học Tứ vô lượng tâm, từ-bi-hỷ-xả, xả có nghĩa là không loại trừ (inclusiveness). Bạn là người bạn của tôi, tôi không muốn loại trừ bạn dù bạn theo bên này hay bên kia. Nhưng trên thế giới có những người nghĩ, cần phải loại trừ những người kia tại vì nếu người kia còn đó thì thế giới chưa có an ninh. Tôi nhớ hồi thủ tướng Iraq bị giết, tổng thống Hoa Kỳ có nói: “Không có ông thì thế giới sẽ an lành hơn!” Điều đó chứng tỏ có những người mà mình muốn loại trừ ra, mình nghĩ loại trừ được họ mình sẽ có sự an toàn. Và khi một người có cảm tưởng người ta muốn loại trừ mình, thì người đó mang một mũi dao nhọn trong lòng. Anh muốn loại trừ tôi? Tôi cũng muốn loại trừ anh! Có thể trước khi anh loại trừ tôi thì tôi đã loại trừ anh rồi.
Trong từ-bi-hỷ-xả, chữ xả có nghĩa là không loại trừ, người nào cũng là anh em của mình. Theo nguyên tắc, trong bất cứ truyền thống tôn giáo nào, truyền thống Cơ Đốc giáo, truyền thống Hồi giáo hay truyền thống Phật giáo, người ta cũng được học: Người kia cũng do Thượng Đế sáng tạo, người kia cũng là anh em của mình. Dù người kia da đen, da trắng, da vàng hay da đỏ; dù người kia theo đạo này hay đạo nọ thì người kia vẫn là người anh em của mình. Trong Cơ đốc giáo dạy như vậy mà trong Hồi giáo cũng dạy như vậy. Tại sao mình lại muốn loại trừ người ta? Câu đầu tiên mình phải nói với người kia là: “Anh là người anh em của tôi, tôi không có ý muốn loại trừ anh!” Đó là câu cần phải nói liền lập tức. Mình là một nhà chính trị, một nhà văn hóa, một nhà kỹ thuật, mình phải học câu nói đó: “Anh là người anh em của tôi. Tôi không hề có ý muốn loại trừ anh. Tôi muốn tìm ra phương thức để anh em mình có thể sống chung trên trái đất này.” Mình phải nói câu đó, đó là xả, là một trong bốn yếu tố thương yêu trong đạo Bụt. Nếu là một nhà chính trị mà mình nói: “Có những người mình cần phải loại trừ đi thì thế giới mới yên” là không được. Mình thuộc về một truyền thống tôn giáo lớn mà lại đi nói như vậy là không đúng.
Hình ảnh một mũi dao nhọn trong trái tim là một hình ảnh rất rõ ràng. Chúng ta làm ăn như thế nào mà tạo ra những con dao, những mũi nhọn trong lòng người khác? Chúng ta muốn loại trừ họ. Bây giờ nhìn phương này mình thấy có người ôm mũi dao nhọn mà đi, nhìn phương kia mình cũng thấy có người ôm mũi dao nhọn mà đi, họ đi khắp thế giới. Mỗi ngày chúng ta càng tạo thêm những người như vậy. Cuộc chiến tranh tiêu diệt quân khủng bố, chẳng những đã không tiêu diệt được mà càng ngày càng làm cho quân khủng bố càng đông.
Vì cứ tiếp tục ôm lấy mũi dao nhọn ấy mà đi cho nên họ đã làm cho niềm đau của họ tràn ngập thế giới. Đó là tình trạng của mình. Ngày xưa Đức Thế Tôn đã dạy Kinh này trên kinh nghiệm đau thương của Ngài. Ngài đã từng thấy bạo động, Ngài đã từng thấy vua A Xà Thế đem quân đi đánh vua Ba Tư Nặc, Ngài đã từng thấy vua A Xà Thế tìm cách giết cha để lên ngôi vua. Ngài đã từng thấy chiến tranh, thấy mũi dao nhọn trong tâm của người đương thời. Ngài đã nói ra sự thật: “Hễ còn mũi dao nhọn thì chúng ta còn đau khổ và chúng ta còn tiếp tục làm người khác đau khổ.” Tu học trước hết là làm thế nào để lấy mũi dao nhọn ra khỏi trái tim của mình, mũi dao nhọn tạo ra do những gì mình nghe, mình thấy, mình nghĩ, do tri giác sai lầm của mình.
Bây giờ chúng ta đọc lại năm bài kệ đã học:
1- Hãy lắng nghe và quán sát để thấy vì sao mà từ trạng thái an lành người ta đưa xã hội tới tình trạng đầy khủng bố bạo động như hiện nay? Các thế hệ vừa qua đã hành xử như thế nào để tình trạng trở thành như thế? Tôi muốn nói với các vị về chuyện đau thương này và kể cho quí vị nghe làm sao mà tôi đã buông bỏ được tâm trạng sợ hãi của tôi.
Đức thế Tôn đã lấy được mũi dao nhọn ra khỏi trái tim của Ngài cho nên Ngài khoẻ. Là học trò của Ngài, chúng ta cũng phải làm được như vậy trước khi chúng ta có thể giúp cho người khác.
2- Người đời trải nghiệm từ cái khổ này sang các khổ khác như con cá sống trong một nơi mà ở đó nước càng ngày càng khô cạn. Trong hoàn cảnh khổ đau, ý tưởng bạo động dễ nẩy sinh và con người u mê cứ đi tìm sự bớt khổ bằng những phương tiện khủng bố trừng phạt.
3- Cả thế giới đều đang bốc cháy vì bạo lực, mười phương loạn cả mười phương, không có nơi nào thật sự còn an ổn. Ai cũng cho mình là hơn người, ít ai biết buông bỏ cái đam mê của mình. Vì không thấy được sự thực ấy cho nên con người cứ ấp ủ mãi cái tri giác sai lầm của mình.
Tại Làng Mai chúng ta đã học đi học lại rằng hờn giận và tự ái là do tri giác sai lầm mà ra. Muốn hết bạo động, hận thù, muốn hết khủng bố chúng ta phải giúp nhau lấy cái tri giác sai lầm, lấy mũi dao nhọn đó ra. Chúng ta không thể lấy nó ra bằng cách sử dụng bom đạn, bằng sự chửi mắng hay lên án. Trong Kinh dạy rất rõ: “Trước hết mình phải lấy mũi dao trong tâm của mình ra, rồi mình mới giúp cho người kia làm chuyện đó.” Những người như thủ tướng Anh, tổng thống Mỹ nếu làm được như vậy sẽ giúp cho những người như Bin Laden cũng làm được như vậy. Tổng thống Mỹ Barack Obama, trong quá khứ đã chứng tỏ mình sử dụng được ngôn ngữ từ ái. Khi đi qua thủ đô Le Caire ông đã đọc một bài diễn văn rất hay, muốn hòa giải mình với người Islam. Tổng thống Obama có thể nói như thế này với Bin Laden:
– Này anh, anh là người anh em của tôi, tôi không muốn loại trừ anh. Tôi muốn anh và tôi cùng được sống trên trái đất này như hai anh em, dù tôi thuộc truyền thống Cơ đốc giáo và anh thuộc truyền thống Hồi giáo. Tôi biết trong chúng ta có nhiều người mang một mũi dao nhọn trong lòng. Tôi đang tìm đủ mọi cách để lấy mũi nhọn trong trái tim của tôi ra. Tôi biết làm như vậy tôi sẽ bớt khổ và tôi có thể giúp được người khác. Anh có thể giúp tôi được phần nào không? Nếu tôi có thể làm được gì để giúp anh làm được chuyện đó thì nói cho tôi biết để tôi có thể giúp anh.
Mình chờ những nhà lãnh đạo của mình nói và làm được như vậy, Đức Thế Tôn có thể chỉ cho mình đường đi nước bước:
– Tôi không muốn có lưỡi dao nhọn trong tim của tôi. Tôi biết nếu còn lưỡi dao nhọn đó thì tôi còn khổ đau, tôi ăn không ngon, ngủ không yên cho nên tôi muốn lấy nó ra. Anh có thể giúp tôi một phần không? Tôi biết nếu tôi lấy nó ra được tôi có thể giúp cho người khác, đôi khi tôi có thể giúp được anh tại vì trong tôn giáo của anh, anh cũng được dạy rằng, chúng ta là những người anh em của nhau chứ không phải là kẻ thù. Tôi không muốn loại trừ anh!
Nói như vậy có thể cứu chuộc, có thể giúp nhau được, vấn đề là làm sao lấy được con dao đó ra khỏi trái tim mình.
4- Tự trói buộc mình bằng những tri giác sai lầm ấy chỉ đem lại thêm cho mình nhiều tối tăm và thống khổ. Tôi đã nhìn sâu vào trong tâm ý của những người không có hạnh phúc và tôi đã thấy một mũi dao nhọn được che dấu dưới những niềm thống khổ của họ. Vì chính họ không thấy mũi dao nhọn ấy trong tâm cho nên họ khó có khả năng chịu đựng được niềm đau.
Trước hết mình phải nói: “Anh ơi! Tôi có con dao đó trong tâm. Tôi khổ quá! Tôi phải lấy nó ra!” Mình phải bắt đầu từ đây.
5- Niềm đau gây ra do mũi dao nhọn ấy kéo dài, không thay đổi, và cứ tiếp tục ôm lấy mũi dao nhọn ấy mà đi cho nên họ làm cho niềm đau trong họ tràn ngập thế giới. Chỉ khi nào có cơ hội nhận diện được nó và lấy nó ra khỏi trái tim thì khổ đau mới không còn và mình mới có cơ hội dừng lại.
Lời dạy của Đức Thế Tôn rất rõ ràng.
Phần 2
(Đây là bài pháp thoại Sư Ông giảng vào ngày 11.2.2010 tại chùa Pháp Vân, Xóm Thượng, Làng Mai)
Giây phút này là một trong những giây phút hạnh phúc của đại chúng. Hôm nay chúng ta học tiếp kinh Duy Lâu Lặc Vương, kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh.
Bài kệ 6
Thế diệc hữu tất mạc thọ 世 亦 有 悉 莫 受
Tà loạn bổn xả mạc y 邪 亂 本 捨 莫 依
Dục khả yểm nhất thiết độ 欲 可 厭 一 切 度
Học tị khổ việt tự thành 學 避 苦 越 自 成
Trong hệ lụy của cuộc đời, mình đừng để cho tự thân vướng vấn vào bất cứ một hệ lụy nào. Những gốc rễ của tà loạn phải được cắt đứt. Phải buông bỏ, đừng nương vào chúng nữa. Nếu buông bỏ được tà dục thì ta có thể vượt qua mọi khổ nạn. Kẻ hành giả phải vượt ra khỏi cái vòng khổ nạn thì mới thành tựu được sự nghiệp giải thoát cho chính mình.
Thế diệc hữu tất mạc thọ: Trong hệ lụy của cuộc đời, mình đừng để cho tự thân vương vấn vào bất cứ một hệ lụy nào.
Hữu là có, thế diệc hữu là trong cuộc đời có những hệ lụy. Mạc là đừng có, mạc thọ là đừng vướng mắc vào một trong những hệ lụy, những cái cột mình, giam hãm, đè nén mình. Tất là tất cả, tất mạc thọ là đừng nhận chịu, đừng vướng víu vào những hệ lụy đó.
Tà loạn bổn xả mạc y: Những gốc rễ của tà loạn, mình phải biết cắt đứt. Bổn là gốc rễ. Tà là không thẳng, xiên một bên. Loạn là bất an. Xả là buông bỏ, mạc là đừng có, y là nương vào. Những gì có tính cách bất chính (tà), không bình an (loạn) thì mình phải thấy được gốc rễ của nó. Thấy được gốc rễ rồi phải nhổ nó lên, phải xả bỏ. Có thể trong quá khứ mình đã dựa lên cái không đáng dựa. Đó là tinh thần vô trú, không nương tựa vào những cái không đáng nương tựa.
Dục khả yểm nhất thiết độ: Nếu buông bỏ được tà dục, ta có thể vượt qua mọi khổ nạn.
Yểm là buông bỏ được, là biết chán. Nếu chưa biết chán thì mình cứ tiếp tục ôm lấy nó. Ví dụ như mỗi lần ăn vào một món nào đó thì mình bị đau bụng. Cho đến một ngày thấy món đó mình chán và mình được giải thoát. Nhất thiết là tất cả. Nhất thiết độ là khi mình đã nhàm chán đối tượng đam mê đó mình có thể vượt qua được tất cả.
Học tị khổ việt tự thành: Kẻ hành giả phải vượt qua khỏi cái vòng khổ nạn mới thành tựu được sự nghiệp giải thoát cho chính mình.
Học là sự thực tập (training, practice). Trong đạo Phật chữ học (śikśa) là sự luyện tập chứ không phải mở sách ra đọc. Tị là vượt ra khỏi. Quốc hiệu Việt Nam 越 南 có nghĩa là vượt lên. Mình thực tập để vượt ra khỏi vòng khổ nạn. Việt là vượt lên (overcome, transcending).
Ngày xưa có hàng trăm bộ tộc Việt gọi là Bách Việt 百 越 và bộ tộc Việt ở miền nam gọi là Nam Việt. Bây giờ ở Trung Quốc có nhiều giống Việt, nhưng không phải Nam Việt mà là Mân Việt.
Mình phải thực tập như thế nào để tránh và vượt thoát được vòng khổ nạn thì mình mới tự thành tựu được tuệ giác. Thành (realization) là thành tựu được cái mình mong muốn tức là đạt tới tuệ giác. Tu là để đạt tới tuệ giác.
Bài kệ 7
Trú chí thành mạc vọng cử 住 至 誠 莫 妄 舉
Trì trực hành không lưỡng thiệt 持 直 行 空 兩 舌
Diệt nhuế hỏa hoại tán tham 滅 恚 火 壞 散 貪
Xả não giải hiệt kiến độ 捨 惱 解 黠 見 度
Kẻ hành giả chân chính phải có tâm dạ chí thành, đừng tự hành động dựa trên vọng tưởng. Cứ đường thẳng mà đi, không nói lưỡi hai chiều. Phải biết dập tắt ngọn lửa của sự hờn giận, biết cách làm tan vỡ khối tham vọng của mình. Nếu biết cởi bỏ được những ràng buộc của phiền não thì mình có thể bắt đầu thấy được bến bờ của giải thoát.
Trú chí thành mạc vọng cử: Chí thành là thực sự tin tưởng vào một cái gì đó, mình đem hết trái tim đặt vào đó. Thành là thành thật với chính mình, thành thật đi tới mức độ cao nhất là chí thành. Làm việc gì cũng phải có tâm niệm chí thành thì mới thành công được. Tu cũng phải có tâm niệm chí thành. Mạc là đừng, vọng là sai lầm, cử là hành động. Mạc vọng cử là đừng hành động dựa trên vọng tưởng, đừng vọng động, đừng hành động căn cứ trên tri giác sai lầm. Theo tri giác sai lầm mà hành động sẽ đưa tới đổ vỡ, hứng chịu khổ đau.
Trì trực hành không lưỡng thiệt: Cứ đường thẳng mà đi, không nói lưỡi hai chiều. Trực là thẳng, hành là đi, trì trực hành là nắm lấy con đường thẳng mà đi. Không lưỡng thiệt là không nói hai lời khác nhau.
Ở xóm Hạ có câu đối: Nhất Hạnh vô nhị ngữ. Có nghĩa là một hành động mà không có hai lời khác nhau, tức là thầy Nhất Hạnh không nói lưỡi hai chiều, không nói hai lời. Đó là câu đối các Phật tử Hồng Kông tặng cho tôi: Đi con đường thẳng, không nói hai lời khác nhau, không được nay nói thế này mai nói thế khác.
Diệt nhuế hỏa hoại tán tham: Phải biết dập tắt ngọn lửa của sự giận hờn, phải biết cách làm tan vỡ khối tham vọng trong lòng mình.
Diệt nhuế hỏa là làm hư đi, làm tan nát đi, dập tắt đi ngọn lửa của hận thù. Đó là một hiệu lệnh. Trong con người của mình có ngọn lửa của hận thù và trong con người của người kia cũng có ngọn lửa của hận thù. Ngọn lửa ấy có mặt nơi người khủng bố lẫn nơi người đang tìm cách tiêu diệt khủng bố. Ngọn lửa ấy là mũi dao nhọn, cắm chặt trong trái tim hai bên.
Chúng ta đã học trong những bài trước: Khi nhận ra sự có mặt của mũi dao nhọn trong mình và lấy nó ra được, mình mới khỏe. Khỏe rồi mình mới có thể giúp cho người kia lấy mũi dao nhọn của họ ra. Đó là phương cách đối trị với khủng bố. Mình không thể nào đối trị được với khủng bố bằng gươm súng, bom đạn. Diệt nhuế hỏa là một hiệu lệnh dập tắt ngọn lửa của hận thù. Ngọn lửa hận thù trong lòng người kia đang làm cho thế giới rung rinh, điên đảo. Nhưng trong chính mình cũng có ngọn lửa của hận thù, của sự ghét bỏ, kỳ thị. Mình cũng có mũi dao nhọn trong lòng. Vì chưa lấy ra được mũi dao nhọn trong tâm mình nên mình chưa có khả năng giúp người kia lấy ra mũi dao nhọn trong tâm họ. Vấn đề đầu tiên là mình phải lấy mũi dao nhọn trong tâm mình ra trước. Người kia có thể là người Taliban, có thể là người Mỹ.
Theo giáo lý này, người Mỹ có thể giúp được người Taliban và người Taliban có thể giúp được người Mỹ. Người nào lấy được mũi dao nhọn trong tim mình ra trước thì người đó có khả năng giúp được người kia.
Trước hết mình phải coi người kia là anh em của mình và mình không được giết nhau. Kế đó, mình đặt câu hỏi và đem hết lòng hết dạ để trả lời: “Ta có thể làm được gì để giúp người kia lấy mũi dao nhọn ra khỏi trái tim của họ?”
Mình biết rất rõ, muốn giúp được người kia trước hết mình phải lấy mũi dao nhọn ra khỏi trái tim của mình. Lấy mũi dao nhọn ra có nghĩa là dập tắt ngọn lửa của hận thù. Mình phải quán chiếu, mình phải có phương pháp mới làm được việc đó, không phải cứ muốn dập tắt ngọn lửa của hận thù là mình có thể làm được. Mình phải hoại tán tham, tức làm tan vỡ ra cái khối tham vọng trong con người mình. Chính mình cũng có tham vọng trong lòng, tham vọng đi theo với hận thù và hận thù đi theo với sợ hãi. Mình còn tham vọng mà đi trách người ta tham vọng. Mình có hận thù, mình muốn tiêu diệt người ta mà nói người ta có hận thù, muốn tiêu diệt mình. Mình có sự sợ hãi nơi mình và người kia cũng có sự sợ hãi nơi họ. Mình và người kia đều có những hành động, lời nói và suy nghĩ trên căn bản của sự sợ hãi. Hai bên rất giống nhau, bên khủng bố (terrorist) và bên chống khủng bố (anti-terorist) đều có cái giống nhau. Hai bên đều sống trong lo lắng, khổ đau và sợ hãi.
Xả não giải hiệt kiến độ: Xả là cởi bỏ, não là những phiền não (affliction) như hận thù, tham vọng. Làm sao lấy ra được khối hận thù và tham vọng trong con người mình. Giải là cởi trói. Có sợi dây hận thù, tham vọng, sợ hãi đang trói mình. Chữ hiệt có hai nghĩa: Trước hết hiệt có nghĩa là vững chắc và thứ hai hiệt là thông minh, khôn khéo. Độ là đi qua (paramita). Với sự vững chãi, thông minh, khôn khéo đó, từ từ mình thấy được bến bờ bên kia.
Cả hai bên đều đang ở bờ bên này, người khủng bố và người chống khủng bố đều đang ở bên bờ của khổ đau, của hận thù, của sợ hãi và tham vọng. Làm sao mình có thể đi qua được bờ bên kia, bờ không hận thù, không khổ đau, không tham vọng và đưa được người kia cùng qua với mình? Người mà mình coi là kẻ thù, người mà mình gọi là American hay gọi là Taliban đều đi qua một lần với mình? Câu trả lời là mình phải mở thêm một con đường, vạch ra một lối đi. Mở thêm rộng lớn con đường. Con đường từ bờ bên này sang bờ bên kia là con đường tháo bỏ những phiền não trong đó có tham vọng và hận thù.
Kiến độ là thấy được bến bờ của giải thoát, nếu cởi bỏ được sợi dây phiền não đang giăng mắc trong lòng thì mình có thể vững chãi, thông minh thấy được bến bờ của giải thoát. Nhuế là sự giận dữ, hận thù, tham là tham vọng. Hận thù và tham vọng là hai năng lượng có tính cách công phá, tàn hoại, tiêu hủy. Nó là hai trong những tâm hành độc hại mà mỗi người trong chúng ta đều có, người có nhiều người có ít.
Nhưng trong chúng ta cũng có tâm hành gọi là vô tham ngược lại với tâm hành tham. Vô tham là một chữ khác của generosity, tức khả năng có thể ban phát ân đức. Khi trong lòng có tâm vô tham thì mình có sự thảnh thơi, giải thoát, tại vì tham vọng là một sợi dây cột kéo mình. Bị sợi dây tham vọng cột kéo mình sẽ không có tự do. Không bị sợi dây tham vọng cột kéo thì mình rất thảnh thơi, đi cũng hạnh phúc, ngồi cũng hạnh phúc, làm gì cũng hạnh phúc. Đó là tâm niệm vô tham.
Có những lúc bị tâm niệm tham trấn ngự, mình thấy khổ nhưng khi trong lòng không có tham, mình sẽ thấy khỏe. Theo phương pháp quán niệm của mình thì khi có tâm tham mình phải biết tâm tham đang có, sự ham muốn đang có trong mình:
– Thở vào tôi biết cái ham muốn, cái thèm khát đang có trong tôi. Nó đang làm tôi khổ.
Đó là chánh niệm. Khi có sự ham muốn, sự thèm khát, người hành giả phải thở và biết rằng: Đang có sự ham muốn và thèm khát trong tôi, vì vậy nên tôi đang khổ. Mình không cần phải đánh phá, tiêu diệt nó liền lập tức. Trước hết mình phải chấp nhận nó, nhận diện nó và khoan hành động:
– Thở vào tôi biết tâm niệm thèm khát, ham muốn đang có trong tôi. Tôi đang thở và ôm ấp nó.
Tự nhiên có sự thay đổi trong tâm mình, cái ham muốn còn đó nhưng mình bắt đầu có một ít an lạc tại vì mình có chánh niệm. Chánh niệm làm cho tình cảnh thay đổi, chánh niệm là Bụt. Bụt đã tới với mình rồi và Bụt đang cùng mình chăm sóc cho tự thân của mình:
– Bụt ơi, con đang thở vào, con thấy trong con có sự thèm khát, có sự ham muốn làm cho con khổ. Bụt ngồi đây với con đi!
Hai thầy trò ngồi thở, tự nhiên mình thấy khỏe dù cho tham vọng và thèm muốn chưa bị tiêu diệt.
Khi không có tham vọng và thèm khát mình cũng nhận diện:
– Bụt ơi, trong giây phút này con không có thèm khát và ham muốn, con khỏe quá! Bụt mừng cho con đi!
Khi có tham mình nhận diện có tham, khi có vô tham mình nhận diện có vô tham và khi nhận diện có vô tham thì hạnh phúc tới liền lập tức. Khi có sự hận thù, giận dữ, mình phải thực tập:
– Thở vào, thở ra, tôi nhận diện có sự hận thù, có sự giận dữ trong tôi. Nó đang làm tôi đau khổ, tôi đang bị đốt cháy bởi ngọn lửa của hận thù, giận dữ. Bụt ơi, con đang giận và đang khổ, Bụt thở với con để con bớt khổ đi.
Mình thở với Bụt, thở với thầy và mình nhận diện được sự giận hờn, sự bực bội của mình thì tự nhiên mình bớt khổ. Và cứ như vậy mình đi tới, không cần phải đánh lộn, không cần phải tạo ra khung cảnh chiến trường ở trong tâm mình tại vì cái giận, cái hận thù kia cũng là mình. Mình không được đánh phá nó, mình không được bạo hành đối với nó. Mình phải thở và chăm sóc nó:
– Cái giận của tôi ơi, cái bực bội của tôi ơi, tôi biết anh có đó. Tôi đang thở và tôi sẽ chăm sóc cho anh.
Đó gọi là nhận diện đơn thuần, ôm ấp hận thù của mình, mình sẽ đỡ khổ liền lập tức. Khi không có hận thù, mình nhận diện không có hận thù:
– Thở vào, tôi không thấy có hận thù, giận dữ trong tôi. Sướng quá đi! Bụt ơi, con đang thở vào và con thấy trong con, bây giờ đây trong giây phút này không có hận thù, không có giận dữ. Bụt vui với con không?
Đó là giây phút hạnh phúc! Mình có những giây phút như vậy trong ngày, tại sao mình không nhận diện nó để mình có hạnh phúc? Mình đi tìm hạnh phúc ở nơi nào nữa? Sự thật là mảnh đất tâm của mình rất lớn, hạt giống của hận thù, tham vọng và sợ hãi nếu nằm yên ở dưới thì phía trên có sự bình an. Phía trên là ý, phía dưới là tàng tức là chỗ cất giữ.
Những hạt giống của tham, của vô tham, của nhuế, của vô nhuế v.v.. có ở phía dưới tàng thức. Khi hạt giống tham đi lên trên ý thức thì mình khổ, khi hạt giống vô tham đi lên thì mình hạnh phúc. Phương pháp thực tập của mình là đừng để hạt giống của tham đi lên. Làm thế nào để nó ngủ yên phía dưới tháng này sang tháng khác, năm này sang năm kia thì từ từ nó sẽ nhỏ và yếu lại. Mỗi ngày, nếu mình mời hạt giống vô tham lên chơi thì càng ngày hạt giống này càng lớn mạnh. Hạt giống tham và hạt giống vô tham đi đôi với nhau, hễ hạt giống vô tham lớn lên thì hạt giống tham nhỏ lại. Hạt giống hận thù và hạt giống từ bi có liên hệ với nhau. Khi mình có tình thương thì tình thương được phát hiện thường xuyên trên bề mặt ý thức và nó có cơ hội lớn lên ở dưới tàng thức. Hạt giống của tình thương lớn lên thì hạt giống của hận thù từ từ nhỏ lại. Phương pháp tu tập này là chánh tinh tấn, là tứ chánh cần. Muốn cho một hạt giống không lớn lên được thì phải tìm cách đừng cho nó phát hiện lên trên bề mặt ý thức và làm cho hạt giống ngược lại càng ngày càng lớn lên.
Tất cả chúng ta, người nào cũng có hạt giống của ham muốn và của sợ hãi. Hồi còn ở trong bụng mẹ chúng ta không phải làm gì, khỏi phải lo lắng gì. Mẹ thở cho mình, ăn cho mình, ngủ cho mình. Trong vòng chín tháng mười ngày đó mình được ở trong một môi trường, một cung điện rất êm ấm, không lo lắng, không sợ hãi, không mong cầu. Cung điện đó, tiếng Việt gọi là tử cung, tức cung điện của đứa con. Mình được ở trong cung điện rất ấm cúng, rất bình yên và rất mềm mại, mềm hơn bất cứ một tấm nệm nào, tại vì đó là một tấm nệm bằng nước. Nhưng đến khi mình ra đời thì hoàn cảnh thay đổi một cách rất đột ngột, mình lìa khỏi chỗ mềm mại đó và ra ở một chỗ cứng cáp hơn. Dù người ta có dùng bông gòn, nệm hay vải cũng không thể nào mềm bằng khung cảnh trong tử cung.
Trước hết người ta lấy kéo cắt dây rốn của mình. Rất tội nghiệp, mình chưa biết gì cả mà bây giờ phải tự túc, mình phải tự thở lấy. Mẹ không thở cho mình nữa, khi mới sinh ra mình phải tập thở hơi thở đầu tiên. Mình phải tập thở vào, chưa ai dạy cho mình thở vào cả. Nếu không thở thì mình chết, cho nên giờ phút sinh ra là giờ phút thập tử nhất sinh, giờ phút rất nguy hiểm. Giờ phút đó là giờ phút nguy hiểm cho cả mẹ lẫn con. Đứa bé phải thở được hơi thở đầu. Thở vào rất khó. Nó chưa biết thở như mình. Muốn thở vào, phải làm cho thông các chất nước trong phổi và trong cuống phổi. Nếu đứa bé không hắt hơi để thải chất loãng đó ra thì nó không thể thở được hơi thở đầu tiên. Nó phải làm thế nào để hắt hơi, thải những chất loãng trong phổi ra mới thở vào được. Đó là giây phút rất quan trọng, giây phút sống chết và tâm niệm sợ chết phát sinh ra trong giây phút đó. Đứa bé có bản năng tìm đủ mọi cách để hắt hơi và thở hơi thở đầu tiên. Cố nhiên việc đó không dễ chịu nên em bé khóc oa oa tại vì nó phải vận dụng hết sức của mình để sống sót. Đó không phải là một giây phút hạnh phúc, đó là giây phút khổ đau. Em bé khóc biểu lộ sự sợ hãi, sự đau khổ; nhưng người lớn rất mừng vì đứa con đã được sinh ra rồi.
Lúc đó mình thấy rất rõ tâm hành sợ hãi được phát sinh, nỗi niềm sợ hãi đó khá lớn. Nhưng đồng thời với tâm hành sợ hãi có tâm hành hy vọng, ham muốn làm thế nào để sống sót, và có ý chí muốn sống sót. Hai tâm hành này sinh ra một lần, sự sợ hãi và cái ước muốn. Tuy gọi là hai nhưng hai tâm hành là một, được phát sinh lúc mình mới sinh ra. Em bé thở vào, thở ra được rồi, bà mụ đặt em bé vào nôi êm rồi nhưng nỗi sợ hãi và ước muốn đó vẫn còn.
Ngày xưa mình không phải làm gì, mẹ uống cho mình, ăn cho mình, thở cho mình. Bây giờ cuống rốn đã bị cắt đi, mình bắt đầu thấy đói, thấy lạnh. Mình nghe bước chân của ai đó đi tới và người ta đặt vào miệng mình một bình sữa. Mình cảm thấy dễ chịu, mình mấp máy hai môi và bắt đầu mút, mình cảm thấy khoẻ. Tâm tư của mình ghi nhận lại tất cả những kinh nghiệm đó. Khi đói mình có sự ham muốn, sự trông chờ. Nằm trong nôi mình cứ chờ bước chân người kia, người kia có thể là bà mẹ hay cô y tá, bước chân đó rất quen thuộc.
Em bé học rất mau. Em bé là cái máy tính rất nhạy cảm, nó biết rằng khi nghe âm thanh của bước chân là sẽ có sữa và có mền đắp lên và nó nằm trông chờ những âm thanh, những giọt sữa. Đôi khi cũng có những tiếng ru làm cho nó bớt khổ và nó ngủ được.
Khi mới sinh ra, em bé không có khả năng gì hết. Nó có hai tay, hai chân, nhưng hai tay của nó không làm được gì, hai chân của nó cũng không đi được. Nó hoàn toàn bất lực, phải có một người nào khác lo cho nó, cho nên ngay lúc đó nó đã bắt đầu có tình yêu rồi. Ta rất cần một người để chăm sóc cho ta. Tình yêu của anh, tình yêu của chị phát sinh từ giây phút đó.
Nếu bây giờ mình đi lang thang kiếm một người bạn đời thì đó chẳng qua là sự tiếp nối của ước mơ hồi còn bé thơ. Nếu bây giờ mình cảm thấy đơn độc, khó có thể sống một mình rồi mình đi tìm một người để sống đời lứa đôi thì việc đó không có gì mới cả. Nó là sự tiếp nối của ngày xưa: Một mình, mình không thể sống được, mình cần một người chăm sóc cho mình. Người đó ngày xưa là mẹ, bây giờ người đó là em hay là anh. Sự thật là như vậy. Ước muốn của mình bây giờ chẳng qua là sự tiếp nối của ước muốn ngày xưa. Sự sợ hãi, niềm hy vọng của mình bây giờ chẳng qua là sự tiếp nối của sự sợ hãi, sự mong chờ ngày xưa. Mình mong muốn được sống sót, mong muốn có một người lo cho mình tại vì mình bất lực không làm gì được. Dù cho mình lớn lên 20 tuổi, 30 tuổi, mình có thể tự một mình sống được nhưng cái mong muốn kia, cái cảm tưởng một mình mình không thể sống được vẫn còn. Vì vậy mình phải đi tìm ít nhất là một người để lo cho mình.
Tất cả những điều đó mình phải quán chiếu. Mình phải thấy sự phát sinh, sự trưởng thành của những tâm hành, trong đó có tâm hành sợ hãi, tâm hành lo lắng, tâm hành giận dữ. Tuy em bé đang còn nhỏ, chỉ mới có mấy ngày, mấy tuần thôi nhưng nó học rất mau. Nó biết cách làm thế nào để có một ít quyền lực, bắt người ta phục vụ cho nó. Nó khóc, nó la, nó ré, nó đạp, tất cả đều là chiến thuật của nó. Mình tưởng nụ cười của nó rất thiên thần nhưng đôi khi đó cũng là nụ cười ngoại giao, tại vì khi mẹ thấy nó cười thì mê quá, muốn gì mẹ cũng cho. Em bé khôn lắm, nó dùng đủ mọi cách để đạt được ước muốn.
Mình đã như vậy từ hồi còn nhỏ nên khi lớn lên mình cứ tiếp tục như vậy, mình lẫy, mình hờn với người kia. Đó chẳng qua là sự tiếp nối của ngày xưa. Mình quán chiếu để thấy tâm hành đó phát sinh như thế nào, trưởng thành như thế nào và chuyển hóa như thế nào? Mình phải thấy được sự hận thù, sự giận dữ của mình đi đôi với tham vọng và hy vọng của mình, hy vọng được sống sót. Muốn sống sót thì phải tiêu diệt người kia tại vì người kia có thể là một mối đe dọa cho mình. Hai tâm hành dính với nhau, tham vọng và hận thù, nên trong Kinh đã đưa hai cái đi đôi với nhau (nhuế, tham). Tâm hành thứ ba là tâm hành sợ hãi. Để chuyển hóa bộ ba tâm hành tham vọng, hận thù và sợ hãi mình cũng có bộ ba tâm hành vô tham, từ và bi. Nếu có từ và có bi mình sẽ chuyển hóa được tâm hành hận thù, giận dữ. Mình phải tập như thế nào để chế tác được năng lượng từ và bi tại vì từ và bi là phương thuốc đối trị hận thù. Mình tu tập như thế nào để đem lại từ và bi. Mình biết rất rõ, trong tàng thức của mình có hận thù, có lo lắng, nhưng cũng có hạt giống của từ và bi dù hạt giống đó đang còn rất nhỏ. Nếu biết cách tưới tẩm, nuôi nấng thì hạt giống đó sẽ càng ngày càng lớn. Khi từ bi lớn lên, chúng ta dùng năng lượng đó để quán chiếu thì sẽ thay đổi, chuyển hóa được sự hận thù trong ta.
Trong kho tàng văn học A Tỳ Đạt Ma, chúng ta học được rất nhiều phương pháp thực tập để làm phát sinh ra tâm niệm từ và bi. Khi có năng lượng từ và bi chúng ta chuyển hóa được sự hận thù, sự sợ hãi trong ta rất dễ dàng. Trong mình có một tâm hành gọi là niệm tức chánh niệm, trái tim của sự thực tập tại Làng Mai. Niệm là đem tâm để ý tới một mục tiêu, nhận diện nó. Duy trì niệm cho vững chãi, lâu bền mình sẽ chế tác được định, tức sự tập trung. Có niệm và định rồi thì thế nào mình cũng có một cái thấy, cái thấy ấy gọi là tuệ.
Trong tâm của mình có những đường đi nẻo về. Bây giờ khoa học thần kinh có nói tới nẻo đi, nẻo về của các tế bào thần kinh gọi là neuro-pathway. Có những nẻo đi của thần kinh mà mình đã đi quen rồi, hễ đụng vào thì nó dẫn mình tới chỗ kia rất mau. Ví dụ như khi mở tờ báo ra mình thấy một quảng cáo, quảng cáo đó đánh động tới sự thèm muốn của mình. Tiếp xúc với hình ảnh trong quảng cáo, con đường của thần kinh dẫn mình đi tới sự ham muốn. Khi ham muốn nẩy lên, con người mình bất an, mình đi tìm cách để thỏa mãn sự ham muốn đó. Mình đã đi ngang qua một neuro-pathway rất mau chóng. Trong quá khứ mình đã đi qua con đường thần kinh đó rồi và mình bị kích thích.
Có một tâm hành gọi là tác ý. Tâm của mình chú ý vào một đối tượng nào đó, gọi là tác ý. Khi tác ý về những đối tượng của dục hay của sân thì con đường thần kinh đưa mình đi tới cái sân hận rất nhanh chóng . Mình chỉ cần nghe một câu, thấy một cái thì sự hận thù trong mình đùng đùng nổi dậy. Đạo Phật gọi đó là phi như lý tác ý (inappropriated attention). Khi tâm mình để vào những cái có tác dụng lợi lạc, như tiếng chuông chẳng hạn, thì gọi là như lý tác ý (appropriated attention). Khi có tiếng chuông mình để ý tới tiếng chuông và duy trì ý thức của mình với tiếng chuông, tiếng chuông giúp mình nhớ phải thở và làm lắng dịu lại cơ thể. Con đường thần kinh đi từ tác ý tới chánh niệm, từ chánh niệm tới định, từ định tới tuệ và từ tuệ tới hạnh phúc, giải thoát.
Có người nghe tiếng chuông nhưng không để ý đến tiếng chuông, tiếng chuông đối với họ không có giá trị gì cả. Họ tới chùa, nghe chuông liên tục nhưng không thực tập, chỉ để ý tới việc đi gặp người này, người kia nói chuyện. Nhưng cũng có người tới chùa, khi nghe tiếng chuông thì tự nhiên họ dừng lại, thực tập như lý tác ý, để lòng theo tiếng chuông:
Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm
Tự nhiên thân tâm của họ lắng dịu lại và họ duy trì sự lắng dịu đó. Niệm đưa tới sự lắng dịu, sự tập trung và họ bắt đầu thấy: “Sướng quá! Mình đang ở trong chùa, mình đang được gặp thầy, mình đang có tăng thân. Mình đang có cơ hội để sống những giây phút hạnh phúc.” Con đường của thần kinh này đi từ tác ý tới niệm, tới định, tới tuệ và tới hạnh phúc, an lạc. Đó là nhờ tác ý đúng gọi là như lý tác ý. Tiếng Phạn là yoniso-manaskara, còn phi như lý tác ý tiếng Phạn là ayoniso-manaskara, manaskara là tác ý.
Ngược lại, nếu mình để tâm vào một đối tượng quảng cáo, đối tượng quảng cáo đó sẽ đưa mình tới tà niệm làm mình nhớ tới một giây phút hưởng thụ của ngày xưa và nó bắt đầu đốt cháy mình. Tâm mình không nghĩ tới chuyện khác, có bao nhiêu điều hay, điều đẹp xung quanh mình không nghĩ tới, mình chỉ nghĩ tới chuyện làm thế nào để đi kiếm đối tượng đó mà tiêu thụ. Tà niệm và tà định đưa tới một nhận thức rằng là: Nếu không mua được cái đó, không có cái đó để tiêu thụ thì chắc là mình không sống được. Vì vậy cho dù xa cách mấy, cho dù tốn bao nhiêu đi nữa mình cũng đi tìm đối tượng đó để tiêu thụ và rồi mình sẽ chết vì nó
Ở Việt Nam ngày xưa có người ghiền thuốc lào, hút nhiều quá bị đau phổi, thầy thuốc bảo anh phải ngưng thuốc, nếu không bệnh của anh sẽ càng ngày càng nặng. Anh ta nghe lời, đào một cái lỗ chôn điếu thuốc xuống, lòng dặn lòng từ nay trở đi sẽ không hút nữa. Anh cũng có hạt giống của tuệ giác nhưng vì một mình không có bạn, không có người yểm trợ nên anh thực tập không giỏi. Một buổi tối, anh nhớ thuốc lào quá đổi, phi như lý tác ý nhắc anh: Ngày xưa có lúc mình rít một hơi thuốc lào sao mà khoái quá, sao mà đã quá, thế là đêm đó anh tới đào ống điếu lên và hút trở lại.
Nhớ ai như nhớ thuốc lào
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên
Những người nghiện ma túy cũng vậy, họ rất muốn bỏ ma túy nhưng không bỏ được vì họ không có tăng thân, không có đủ tuệ giác.
Người yêu của mình là điếu thuốc lào, mình sống với người đó, người đó làm mình lên xuống, khổ đau, chìm nổi, hệ lụy quá nhiều mà mình không bỏ được. Đó là do mình thiếu tuệ giác, thiếu tăng thân. Phương pháp của đạo Bụt là phải khám phá ra những con đường đi của tâm và làm cho con đường đó trở thành dễ đi. Người chưa tu chưa có con đường của thần kinh rõ ràng, tu được một hai ngày thì họ bắt đầu thấy rõ con đường mòn, hễ có như lý tác ý thế nào cũng có chánh niệm, từ chánh niệm đi tới chánh định, tới chánh tuệ, tới hạnh phúc rồi đi tới từ và bi. Khi có từ và bi thì không còn sợ hãi, hận thù, tham vọng nữa và lúc đó mình có hạnh phúc.
Ở xóm Hạ có một con đường, trong ngày quán niệm, tăng thân thường hay ôm bình bát đi khất thực từ nhà ăn tới thiền đường. Đi khỏi thiền đường Cam Lộ có một con đường tắt bên phía tay phải. Con đường đó ngày xưa không có, nhưng vì có nhiều người gấp gáp nên đã đi tắt cho nhanh. Bây giờ lâu ngày nó đã trở thành một con đường khá lớn. Hôm qua ,tôi cũng đã đi qua con đường đó để ra thăm cành mai các sư cô cắm trong thiền đường đã nở hoa rất đẹp.
Trong óc của chúng ta có những neuro-pathway chưa được khai phá, nếu là người thực tập giỏi chúng ta phải bắt đầu khai phá những con đường ấy của tâm ý. Trong Kinh chỉ rất rõ: Mình đã có 52 tâm hành, trong đó tác ý là một tâm hành, niệm là một tâm hành, định, tuệ, từ, bi đều là những tâm hành. Nếu biết quán chiếu, chúng ta sẽ đi từ tâm hành tác ý sang tâm hành chánh niệm, chánh niệm sang chánh định, chánh định sang tuệ và tuệ sang từ bi. Chế tác được từ bi, mình sẽ làm yếu đi hận thù trong mình. Mỗi ngày mình làm như vậy thì nẻo đi kia càng ngày càng thêm dễ dàng và khi mình muốn đi thì đi được rất nhanh. Muốn có từ bi mình chỉ cần nhấn nút là từ bi tới liền lập tức, nó đi ngang qua niệm-định-tuệ rất nhanh mà niệm-định-tuệ là sự tập luyện của mình.
Mình biết rất rõ rằng nếu đi theo con đường cũ, con đường phi như lý tác ý thì sẽ dẫn mình tới tà niệm, mình nghĩ nhớ tới chuyện không nên nghĩ nhớ. Mình nhớ nghĩ tới nó như nhớ điếu thuốc lào, không thể quên được, mình tìm tới chỗ chôn nó mà đào nó lên. Mình đào lên hút rồi có sự say sưa, dằn vặt trở lại. Mỗi người chúng ta đều có tập khí, không ghiền thuốc lào thì cũng ghiền chuyện khác, mình phải biết mình đang ghiền cái gì? Mỗi khi có tà tác ý, tà niệm sẽ dẫn mình đi tới chỗ đó, chỗ mà mình đã tới nhiều lần rồi và mỗi lần tới là mỗi lần khổ. Vậy mà cứ ngựa theo lối cũ, mình cứ đi hoài để tiếp tục khổ từ năm này sang năm khác. Mình phải cương quyết tìm cho ra con đường mới, phải tạo ra những lối đi mới. Trong Kinh dạy rất rõ: Bắt đầu bằng như lý tác ý, mình phải tổ chức như thế nào, để tác ý tới đối tượng nào thì đối tượng đó phải đưa tới niệm, tới định, tới tuệ, tới từ, tới bi. Như thế mình sẽ khỏe, sẽ giải thoát, mình sẽ không còn bị vướng mắc vào những đối tượng của sợ hãi, của hận thù, thèm khát.
“Xả não giải” là làm thế nào để buông bỏ, để cởi trói được những phiền não như hận thù, tham vọng và sợ hãi. Biết cách rồi từ từ mình sẽ thấy được con đường đi sang bên kia, con đường đó rất nhanh. Biết được phương pháp như lý tác ý mình có thể tiếp xúc với chánh niệm, chánh niệm đưa tới chánh định, chánh định đưa tới tuệ giác và tự nhiên trái tim của mình mở ra. Có từ, có bi mình sẽ thấy khỏe, hận thù, tham vọng không làm gì mình được nữa.
Lời Kinh này rất hay, rất gọn. Chúng ta rất có phước được học những Kinh như vậy. Trong một khung cảnh nhiều hận thù, mình sẽ nghe và thấy những điều tưới tẩm hạt giống hận thù trong mình. Mình sẽ đi theo đám đông và hành động trên cơ bản hận thù đó. Mình phải quán chiếu để thấy được rằng, không những mình khổ mà người kia cũng khổ, không những mình là nạn nhân của bạo động mà những người được gửi qua để giết, để đàn áp mình cũng là nạn nhân. Quán chiếu như vậy thì hận thù được chuyển hóa. Họ cũng là nạn nhân của sự sợ hãi, của hận thù và tham vọng. Ngày xưa, trong chiến tranh Việt Nam năm 1966, tôi có viết một bài thơ dặn dò các đệ tử trước khi rời đất nước để đi kêu gọi hòa bình, vận động chấm dứt chiến tranh vào năm 1966.
"Xin hứa với tôi hôm nay
Trên đầu chúng ta có mặt trời
Và buổi trưa đứng bóng
Rằng, không bao giờ em thù hận con người
Dù con người
Có đổ chụp trên đầu em
Cả ngọn núi hận thù
Tàn bạo
Dù con người dẫm lên mạng sống em
Như là dẫm lên giun dế,
Dù con người móc mật moi gan em
Đày ải em vào hang sâu tủi nhục,
Em vẫn phải nhớ lời tôi căn dặn:
Kẻ thù chúng ta không phải con người.
Xứng đáng chỉ có lòng xót thương
Vì tôi xin em đừng đòi điều kiện
Bởi không bao giờ oán hờn lên tiếng
Đối đáp được
Sự tàn bạo con người.
Có thể ngày mai
Trước khuôn mặt bạo tàn
Một mình em đối diện.
Hãy rót cái nhìn dịu hiền
Từ đôi mắt
Hãy can đảm
Dù không ai hay biết
Và nụ cười em
Hãy để nở
Trong cô đơn
Trong đau thương thống thiết
Những người yêu em
Dù lênh đênh qua ngàn trùng sinh diệt
Vẫn sẽ nhìn thấy em.
Tôi sẽ đi một mình
Đầu tôi cúi xuống
Tình yêu thương
Bỗng trở nên bất diệt
Đường xa và gập ghềnh muôn dặm
Nhưng hai vầng nhật nguyệt
Sẽ vẫn còn để soi bước cho tôi"
Tôi rời đất nước vào ngày 11 tháng 5 năm 1966, trước khi đi, tôi để lại bài thơ này. Một trong sáu anh chị Tiếp Hiện được thọ giới lần đầu tiên tại chùa Pháp Vân, chị Nhất Chi Mai, đã tự thiêu năm 1967 để kêu gọi hòa bình. Trước khi tự thiêu chị đã chép lại bài thơ này gửi cho ba mẹ và cho chủ tịch nước miền Bắc và miền Nam.
Phần 3
(Đây là bài pháp thoại Thiền sư giảng vào ngày 1.4.2010 tại thiền đưuờng Hội Ngàn Sao, chùa Cam Lộ, Xóm Hạ, Làng Mai, trong khóa tu mùa Xuân.)
Hôm nay chúng ta tiếp tục học Kinh Duy Lâu Lặc Vương tức Kinh Chuyển Hóa Bạo Động. Khi học, chúng ta nên sử dụng bản dịch tiếng Việt và bản dịch tiếng Hán để đối chiếu. Kinh này rất hiện đại vì chủ đề của nó là bạo động, hận thù, sợ hãi.
Trong Kinh Niệm Xứ có bốn đối tượng của chánh niệm. Hai đối tượng đầu của chánh niệm là niệm thân, tức quán niệm về hình hài của mình và niệm thọ, tức quán niệm về cảm thọ. Từ cư xá đi ra thiền đường, nếu để ý chúng ta sẽ thấy có biết bao nhiêu cảm thọ đã được sinh ra, có thể là năm trăm, một nghìn hay hai nghìn cảm thọ. Đó là một dòng sông cảm thọ liên tiếp nhau, cảm thọ này tiếp nối cảm thọ khác. Mỗi bước chân đều chế tác cảm thọ. Tùy theo cách chúng ta bước đi mà cảm thọ đó là cảm thọ dễ chịu nhiều hay cảm thọ dễ chịu ít hay là cảm thọ khó chịu.
Nếu đi từ cư xá tới thiền đường mà không có chánh niệm, chúng ta có thể bị kéo đi về quá khứ và chúng ta tiếp xúc với những gì thuộc về quá khứ. Khi tiếp xúc với những cái trong quá khứ ta sẽ có cảm thọ hoặc thương tiếc, hoặc đau buồn, hoặc nhớ thương. Cũng có thể chúng ta bị tương lai kéo đi. Ta tiếp xúc với những lo lắng, sợ hãi, bất an và chúng đưa tới cho ta những cảm thọ khó chịu. Khi tâm ý không có mặt, ta không nhận diện được những cảm thọ đó. Chúng ta để cho tâm của mình bị áp giải bởi những suy tư, lo lắng, buồn phiền, sợ hãi và thật sự chúng ta không có chủ quyền trong đời sống của mình.
Là một người tu, khi bắt đầu mở cửa phòng, mình phải chú tâm, phải thật sự có mặt trong khi mở cửa. Trong khi mở cửa chắc chắn là mình có cảm thọ; có thể là cảm thọ trung tính, không buồn, không vui, không khổ, không lạc; nhưng đó cũng là cảm thọ. Tùy theo cách chúng ta mở cửa và bước ra ngoài mà cảm thọ đó là khó chịu hay dễ chịu. Không khí trong phòng khác với không khí ở ngoài. Ở ngoài mát mẻ hơn và không khí trong lành hơn. Trước khi mở cửa, mình đã có thể thấy được điều đó. Mở cửa bước ra ngoài mình sẽ tiếp xúc được với không khí trong lành, tự nhiên mình có niềm vui, mình có thể có cảm thọ dễ chịu. Bước ra ngoài, đóng lại cánh cửa sau lưng, ý thức được không khí mát mẻ, hít vào một hơi thấy dễ chịu, mình biết đây là một cảm giác dễ chịu.
Mùa Xuân rất đẹp, không khí bên ngoài rất trong lành, nếu mình cứ ru rú ở trong phòng hoài thì thật uổng. Khi đi ra ngoài mà có chánh niệm mình sẽ tiếp xúc được với thực tại đang có mặt và có thể mang đến cho mình một cảm thọ dễ chịu.
Có những người trong chúng ta bước rất thảnh thơi và hưởng được cảm thọ thanh thoát, dễ chịu tại vì những người đó ít nhiều cũng có được tự do, không bị ràng buộc bởi những đau thương của quá khứ hay những lo lắng cho tương lai. Những người đó tương đối có tự do. Vì có một ít tự do nên khi bước đi từ cư xá tới thiền đường chúng ta hưởng được nhiều hạnh phúc hơn. Có tự do nên tiếp xúc được với những gì tươi mát, lành mạnh, đẹp đẽ đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Những cái lành mạnh, đẹp đẽ đó có rất nhiều trong ta và xung quanh ta. Khi tiếp xúc được với những gì tươi mát, lành mạnh, nuôi dưỡng, tự nhiên mình cảm thấy thư thái, dễ chịu trong thân và trong tâm. Nếu mỗi bước chân của mình có niệm và có định thì mình tiếp xúc càng sâu mà tiếp xúc càng sâu thì hạnh phúc của mình càng lớn.
Đi từ cư xá ra thiền đường là mình đang tu. Không phải tới thiền đường mới tu. Đang tu là đang có hạnh phúc. Từ cư xá tới thiền đường mình có thể có hàng ngàn cảm thọ và nếu thật sự có mặt, mình nhận diện được được những cảm thọ đó. Khi những cảm thọ đó là những cảm thọ dễ chịu, nhẹ nhàng mình sẽ thấy vui. Nếu lỡ có một cảm thọ hơi nặng nề, bức xúc thì nhờ có mặt đó nên mình nói: Ồ uổng quá! Trời mùa Xuân đẹp như vậy mà để cho một cảm thọ nặng nề, bức xúc tới thì hơi uổng. Tại sao mình có cảm thọ nặng nề, bức xúc như vậy? Và mình sẽ tìm ra nguyên nhân: À, thì ra tâm của mình đang truy cập những hình ảnh của quá khứ hay đang truy cập những lo lắng cho tương lai nên mình mới có cảm thọ bức xúc, nặng nề kia. Tại sao trong hiện tại có những cái tươi mát, lành mạnh, mầu nhiệm như vậy mà mình không tiếp xúc, tâm của mình lại đi truy cập những tài liệu trong quá khứ hay trong tương lai làm chi cho khổ? Tự nhiên mình mỉm cười và lấy lại được tự do. Lấy lại tự do thì mình có an lạc, hạnh phúc.
Là một người tu, đi từ cư xá ra thiền đường, tùy theo cách đi mà mình là người tu giỏi hay người tu chưa giỏi. Người tu giỏi luôn luôn có chủ quyền, thật sự có mặt và biết được những gì đang xảy ra. Trước hết là mình biết những cảm thọ đang xảy ra. Cố nhiên khi tu mình phải để ý tới hình hài, tới những tâm hành khác và tới các pháp. Nhưng thọ là một trong những đối tượng lớn, vì vậy trong Kinh nói: Người tu phải quán niệm cảm thọ trong cảm thọ. Mình phải có mặt để nhận diện những cảm thọ đang xảy ra và để xử lý những cảm thọ đó. Nếu là cảm thọ dễ chịu mình biết. Đây là cảm thọ dễ chịu và quán chiếu xem có tính cách nuôi dưỡng và trị liệu cho mình hay không? Nếu nó có tính cách nuôi dưỡng và trị liệu thì mình an tâm thừa hưởng cảm thọ đó. Ví dụ khi đi từng bước thanh thản và thở không khí trong lành thì cảm thọ dễ chịu đó không độc hại và mình an tâm thừa hưởng cảm thọ dễ chịu đó. Nhưng khi uống rượu hay hút thuốc mình cũng có cảm thọ dễ chịu, mình nhận diện đây là cảm thọ dễ chịu. Cảm thọ khi sử dụng xì ke ma túy cũng dễ chịu lắm, nó lâng lâng, thoát tục lắm. Nhưng khi thật sự có mặt, mình thấy đây là cảm thọ dễ chịu nhưng đằng sau nó chất chứa những yếu tố độc hại và chính những cảm thọ dễ chịu này ngày sau sẽ đem đến những cảm thọ bức xúc, khó chịu, dằn vặt, tuyệt vọng. Cảm thọ dễ chịu này không lành mạnh, không tốt đối với mình. Nhờ tuệ giác đó mà mình buông bỏ được cảm thọ dễ chịu kia.
Có hai loại cảm thọ dễ chịu: một loại dễ chịu lành mạnh không đưa tới những khổ đau cho tương lai và loại cảm thọ dễ chịu không lành mạnh sẽ đưa tới những khổ đau, bức xúc, hối tiếc trong tương lai. Mình không an tâm với những cảm thọ dễ chịu không lành mạnh vì đằng sau cảm thọ đó có sự lo lắng, sợ hãi. Chính sự lo lắng, sợ hãi và sự ý thức (tuệ giác) giúp mình buông bỏ cảm thọ dễ chịu đó để tìm một cảm thọ dễ chịu lành mạnh hơn.
Bản chất của con người là đi tìm những cảm thọ dễ chịu. Hạnh phúc đối với chúng ta trước hết là những cảm thọ dễ chịu. Chúng ta luôn muốn trốn tránh những cảm thọ khó chịu và đi tìm những cảm giác dễ chịu. Có khi ngồi không làm gì, chúng ta thấy trống trải. Chúng ta có được năm mười phút ngồi mà không phải làm gì cả, nhưng chúng ta không có khả năng hưởng được năm mười phút đó. Có nhiều người rất bận rộn, họ rất thèm có được những giây phút thảnh thơi. Nhưng có những người có những giây phút không phải làm gì thì họ lại thấy chán nản, họ không xử lý được tự do nên đã để cho sự lo lắng, buồn phiền xâm chiếm những giây phút ấy.
Nếu không tu mình sẽ tìm cách chạy trốn những lo lắng, buồn khổ đó bằng cách mở nhạc, xem phim, tìm đến sách báo để khỏa lấp sự trống vắng hay trốn chạy những nỗi khổ niềm đau. Khi cầm tờ báo lên đọc, không hẳn là mình cần biết tin tức. Không biết tin tức cũng không chết, nhưng tại sao mình phải mua báo để đọc, đọc trang đầu rồi tới những trang thứ hai, thứ ba, chỉ toàn là quảng cáo mà mình vẫn ngồi đọc. Hoặc giả mình lấy điện thoại gọi một người nào đó. Thật ra mình cũng không cần nói chuyện gì với người đó cho lắm, có chuyện quan trọng đâu? Nhưng vì mình cô đơn, trống trải, xốn xang quá, mình có những bất an nên mình muốn khỏa lấp bằng những câu chuyện. Mình gọi điện cho người kia nói hết giờ này tới giờ khác, toàn những chuyện trên trời dưới biển từ chuyện chính trị đến chuyện văn hóa không có ích lợi gì. Vậy mà mình vẫn làm. Ngoài đời, người khai thác được tâm lý này của khách hàng nên những hãng viễn thông thi nhau quảng cáo: “Mạng điện thoại của chúng tôi rất rẻ”.
Một cách cũng rất thông thường là khi trống trải mình đi mở tủ lạnh tìm cái gì để ăn, không hẳn là tại vì mình đói, hay mình cần chất dinh dưỡng mà là để khỏa lấp những nỗi khổ niềm đau trong mình. Mình biết ăn như vậy là không tốt, là dễ bị béo phì nhưng vì cần khỏa lấp nên mình phải ăn, phải uống cái gì đó. Mình lấy xe ra siêu thị để mua cái này, mua cái kia dù mình không thật cần nó mà chỉ để tạm quên đi nỗi khổ niềm đau trong chốc lát. Vì vậy ở ngoài người ta bán đồ ăn, thức uống rất nhiều. Chúng ta phải ý thức, phải biết mình đang làm gì. Trong đời sống hàng ngày có thể chúng ta chỉ tìm cách trốn tránh những cảm thọ khó chịu và đi tìm một vài cảm thọ dễ chịu. Mình không có khả năng xử lý, chuyển hóa những cảm thọ khó chịu, mình chỉ muốn khỏa lấp mà thôi. Tình trạng của chúng ta là vậy! Khỏa lấp bằng sự tiêu thụ, đó là cách thông thường của người đời. Đó là bản chất của nền văn minh hiện đại.
Vì vậy công phu tu tập “quán chiếu cảm thọ trong cảm thọ” rất quan trọng. Đi từ cư xá ra nhà bếp hay ra thiền đường, mình phải có mặt trong từng bước chân, trong từng hơi thở để xem xét và nhận diện những cảm thọ nào phát hiện. Nếu thực tập thiền đi, mỗi bước chân của mình phải làm phát hiện được niềm vui, sự thanh thản và hạnh phúc. Chánh niệm càng vững, chánh định càng kiên cố thì niềm vui chế tác được bằng mỗi từng bước chân của mình càng lớn và có tính cách nuôi dưỡng. Đó là đạo lực cao cường. Nếu chánh niệm và chánh định ốm yếu thì tuy mình cũng đi thiền hành như mọi người nhưng hạnh phúc đạt được trong khi đi không có bao nhiêu cả. Đạo lực cao cường có nghĩa là niệm và định hùng hậu.
Thiền đi là một pháp môn rất quan trọng của Làng Mai. Thiền ngồi cố nhiên ai cũng thích rồi, thiền ngồi có từ xưa tới nay và chỗ nào cũng có. Nhưng với Làng Mai, chỉ thực tập thiền ngồi thôi thì không đủ, mình phải thực tập thêm thiền đi. Thiền đi ở đây không có nghĩa là chỉ vào giờ thiền hành mình mới thực tập thiền đi. Mà bất cứ khi nào cần di chuyển mình đều phải áp dụng thiền đi. Mỗi ngày mình đi rất nhiều, vì vậy mình có rất nhiều cơ hội để thực tập thiền đi. Theo pháp môn của Làng Mai, khi đi mình phải đầu tư thân và tâm vào trong từng bước chân, phải có pháp lực cao cường. Pháp lực có cao cường hay không là do mình có niệm và định thật sự hay không? Niệm và định vững chãi thì mỗi bước chân đưa lại niềm vui, hạnh phúc. Nuôi dưỡng tự thân của mình và nuôi dưỡng luôn cả chúng. Sư anh, sư chị, sư em của mình và các vị Phật tử cư sĩ tới từ các nơi rất hạnh phúc khi thấy mình đi được những bước chân như vậy. Khi đi những bước chân như vậy mình chế tác niệm, định và hạnh phúc. Nếu đi cùng với đại chúng thì năng lượng tập thể thấm vào trong từng người. Cũng như lúc ngồi với nhau mà có một tiếng chuông thì tất cả mọi người đều ngưng suy nghĩ, ngưng nói năng và bắt đầu chú ý tới hơi thở. Mình thở vào một cách có ý thức và trân quí hơi thở vào của mình. Mình nhận diện được sự có mặt của những người bạn tu, những anh chị em xung quanh cũng đang thực tập như mình. Trong một đại chúng có tu, trong giây phút tiếng chuông được thỉnh lên thì năng lượng của niệm và của định rất hùng hậu. Những người bạn mới tới lần đầu, khi nghe tiếng chuông họ cảm thấy được năng lượng hùng hậu đó rất rõ. Có nhiều loại im lặng, có loại im lặng rất bức xúc, rất đè nén. Nhưng có những thứ im lặng rất hùng tráng, rất có biện tài, thứ im lặng rất hùng tráng. Làng Mai chúng ta sử dụng danh từ “im lặng hùng tráng”, dịch là “noble silence”, chữ này chưa hay lắm. “Thundering silence” (im lặng sấm sét) nghe khá hơn, “im lặng sấm sét” là danh từ của Kinh Duy Ma Cật. Một người bạn tới với mình lần đầu, ngồi trong đại chúng mà nghe một tiếng chuông họ cảm được năng lượng hùng hậu của đại chúng tại vì tất cả chúng ta đều đã được giáo huấn, rèn luyện, thực tập để khi nghe một tiếng chuông, mình nghe hết với tất cả thân và tâm của mình. Niệm và định phải hùng hậu tức là đạo lực phải cao cường, đạo lực cao cường không phải của một người mà của cả một tập thể.
Khi bước chân đi cũng như vậy, mình phải đầu tư thân và tâm của mình trong những bước đi. Bước được một bước như vậy là đạo lực rất cao cường. Ai cũng bước đi nhưng chính người đó, trong khi bước đi đã tạo ra im lặng hùng tráng, tạo ra đạo lực cao cường thì bước chân ấy đưa người đó vào ngay trong Tịnh Độ. Trong chúng có một số người làm được như vậy và chúng nào có những người làm được như vậy là chúng đó có phước. Nếu vừa đi vừa nói chuyện làm sao tạo ra được năng lượng hùng tráng đó? Khi nói chuyện mình không đi, mình đứng lại, nói cho đã, nghe cho hết rồi hãy đi. Mỗi khi đi mình phải bước những bước chân thật vững chãi, thật tự do. Bước đi như vậy là mình nối tiếp được sự nghiệp của Bụt, của Tổ, của Thầy, và như vậy mình là người có hiếu nhất.
Nói tóm lại, thở trong khi nghe tiếng chuông mình phải thở hết mình, phải đầu tư một trăm phần trăm thân và tâm của mình vào hơi thở thì năng lượng sẽ hùng tráng. Bước chân của mình cũng vậy, bước một bước là chấn động cả thiên hà tại vì bước chân đó đầy tràn năng lượng của niệm và định. Khi đi mình phải đầu tư một trăm phần trăm, mình đi hết lòng, mình đi cho cha, đi cho mẹ, đi cho Bụt, đi cho Thầy.
Bây giờ chúng ta đọc lại những bài kệ đã học trong kinh Chuyển Hóa Bạo Động:
1. Hãy lắng nghe và quán sát để thấy vì sao từ trạng thái an lành người ta đã đưa xã hội tới tình trạng đầy khủng bố, bạo động như hiện nay. Các thế hệ vừa qua đã hành xử như thế nào để tình trạng trở thành như thế? Tôi muốn nói với các vị về chuyện đau thương này và kể cho quí vị nghe làm sao mà tôi đã buông bỏ được tâm trạng sợ hãi của tôi.
2. Người đời trải nghiệm từ cái khổ này đến cái khổ khác như con cá sống trong một nơi mà ở đó càng ngày nước càng khô cạn. Trong hoàn cảnh khổ đau, ý tưởng bạo động dễ nẩy sinh, và con người vì u mê cứ đi tìm sự bớt khổ bằng những phương tiện khủng bố và trừng phạt.
3. Cả thế giới đều đang bốc cháy vì bạo lực, mười phương loạn lạc cả mười phương, không có nơi nào thật sự còn an ổn. Ai cũng cho mình là hơn người, ít ai biết buông bỏ cái đam mê của mình. Vì không thấy được sự thật ấy cho nên con người cứ ấp ủ mãi cái tri giác sai lầm của chính mình.
4. Tự trói buộc mình bằng những tri giác sai lầm ấy chỉ đem lại thêm cho mình nhiều tối tăm và thống khổ. Tôi đã nhìn sâu vào trong tâm ý của những người không có hạnh phúc và tôi đã thấy một mũi dao nhọn được che dấu dưới những niềm thống khổ của họ. Vì chính họ không thấy mũi dao nhọn ấy trong tâm cho nên họ khó có khả năng chịu đựng được niềm đau.
5. Niềm đau gây ra do mũi dao nhọn ấy kéo dài, không thay đổi, và cứ tiếp tục ôm lấy mũi dao nhọn ấy mà đi cho nên họ làm cho niềm đau trong họ tràn ngập thế giới. Chỉ khi nào có cơ hội nhận diện được nó và lấy nó ra khỏi trái tim thì khổ đau mới không còn và mình mới có cơ hội dừng lại.
6. Trong số những hệ lụy của cuộc đời là mình đừng để cho tự thân vương vấn vào bất cứ một hệ lụy nào, những gốc rễ của tà loạn phải biết cắt đứt. Phải buông bỏ, đừng nương vào chúng nữa. Nếu buông bỏ được tà dục thì ta có thể vượt qua mọi khổ nạn. Kẻ hành giả phải vượt ra khỏi cái vòng khổ nạn thì mới thành tựu được sự nghiệp giải thoát cho chính mình.
7. Kẻ hành giả chân chính phải có tâm dạ chí thành, đừng tự hành động dựa trên vọng tưởng. Cứ đường thẳng mà đi, không nói lưỡi hai chiều. Phải biết dập tắt ngọn lửa của sự hờn giận, biết biết cách làm tan vỡ khối tham vọng của mình. Nếu biết cởi bỏ được những ràng buộc của phiền não thì mình có thể bắt đầu thấy được bến bờ của giải thoát.
Đó là bảy bài kệ chúng ta đã học. Hôm nay chúng ta học những bài tiếp theo.
Bài kệ 8
Xả mông mông mạc thụy ngọa 捨 瞢 瞢 莫 睡 臥
Viễn vô độ mạc dữ câu 遠 無 度 莫 與 俱
Kỷ khả ố mạc thủ trú 奇 可 惡 莫 取 住
Trước không niệm đương tận diệt 著 空 念 當 盡 滅
Nên buông bỏ sự tự hào, đừng ham ngủ, đừng để chìm vào trạng thái hôn trầm. Biết sống và làm việc cho có chừng mực, đừng đánh mất mình trong đám đông, đừng vướng vào những cái bề ngoài hào nhoáng. Phải biết từ khước chúng, phải quán chiếu thường xuyên cái tự tánh không của vạn pháp, đạt tới Niết Bàn tĩnh lặng.
Xả mông mông mạc thụy ngọa: Mông mông có nghĩa là hồ đồ, mờ mịt, không rõ ràng. Xả là buông bỏ. Mạc là đừng. Thụy ngọa là trạng thái nằm ngủ, hôn trầm. Xả mông mông là bỏ sự hôn trầm, mờ mịt, đừng ngủ nhiều, đừng rơi vào sự hôn trầm. Nên buông bỏ sự tự hào, đừng ham ngủ, đừng để chìm vào trạng thái hôn trầm.
Viễn vô độ mạc dữ câu: Vô độ là không có chừng mực. Viễn vô độ là biết sống và làm việc cho có chừng mực. Khi ăn, ăn có chừng mực; khi làm việc, làm việc có chừng mực; khi chơi, chơi có chừng mực. Mạc dữ câu là đừng tụ năm tụ bảy nói chuyện, đừng đánh mất mình.
Văn này rất xưa, văn của thế kỷ thứ ba nên rất khó hiểu.
Kỷ khả ố mạc thủ trú: Chữ ố có nghĩa là ghét, không thích. Kỷ khả ố là những cái hào nhoáng bên ngoài, những cái thêu dệt, lòe loẹt, trang điểm không ích lợi bên ngoài, những cái không cần thiết thì người tu phải bỏ đi. Mạc thủ trú là đừng kẹt vào trong đó.
Trước không niệm đương tận diệt: Trước là mang theo. Trước không niệm là mang theo mình sự quán niệm về tự tánh không, thấy được vạn sự vạn vật là không có tự tánh. Nếu mình được trang bị bởi chánh niệm đó thì chắc chắn mình sẽ tiếp xúc được với Niết Bàn một cách sâu sắc. Tận diệt là đạt được Niết Bàn cứu cánh.
Đương là trong tương lai. Đương tận diệt là trong tương lai mới có khả năng đạt được một cách tuyệt đối cái Niết Bàn tĩnh lặng. Tận diệt là Niết Bàn. Niết Bàn là cái an tĩnh, dịch là diệt độ.
Trong Kinh Pháp Cú có một đoạn rất hay nói về Niết Bàn như thế này: Những con nai thì ưa trở về đồng cỏ vì nó cảm thấy thoải mái, thảnh thơi trong đồng nội của nó. Những con chim thì ưa trở về không gian thênh thang tại vì ở trên trời chúng thấy thoải mái. Những người trí, những người tu thì luôn luôn muốn trở về Niết Bàn tĩnh lặng. Niết Bàn tĩnh lặng là không gian thoải mái, an lạc của những người tu.
Những con nai muốn trở về đồng nội chúng có thể trở về liền tại vì đồng nội đang có đó. Những con chim muốn bay về trời xanh thì chúng có thể bay về được ngay tại vì trời xanh luôn luôn có đó. Những người tu cũng vậy, nếu muốn trở về Niết Bàn thì trở về được ngay trong giây phút hiện tại tại vì Niết Bàn luôn có đó. Niết Bàn không phải là cái gì mình đi tìm ở một cõi khác hay ở một tương lai. Niết Bàn có sẵn đó, mình có muốn về hay không mà thôi. Niết bàn là cõi không sinh, không diệt. Nó là bản môn. Có những câu Kinh nói về Niết Bàn rất hay, như trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivuttaka) Bụt nói: “Có cái không sinh không diệt, không tới không đi, không có không không, không còn không mất. Nếu có cái không tới không đi, không sinh không diệt, không còn không mất đó thì những cái sinh diệt, tới đi, còn mất sẽ không có chỗ để trở về. Cái đó là cái gì? Cái đó là Niết Bàn”. Đoạn văn này rất hay, mình phải học thuộc lòng.
Cũng như một đợt sóng, một đợt sóng có bắt đầu có chung cục, có lên có xuống, có cao có thấp, có lớn có nhỏ. Nhưng đợt sóng đó có thể trở về với nước để cảm thấy thoải mái. Khi đợt sóng biết mình là nước và trở về nước thì nó không còn thấy có bắt đầu và có chung cục. Đi lên nó cũng vui mà đi xuống nó cũng vui, cao nó cũng vui mà thấp nó cũng vui. May thay đợt sóng có nước để trở về. Nếu không có nước thì làm sao sóng có chỗ để trở về? Nếu không có cái bất sanh bất diệt, không tới không đi, không lên không xuống thì làm sao cái có sanh có diệt, có tới có đi, có lên có xuống có chỗ để trở về? Vì vậy Niết Bàn không phải là một ý tưởng, không phải là một cái gì chưa có và chỉ có trong tương lai mà nó đã có sẵn như đồng quê có đó cho những con nai, như không gian có sẵn đó cho các loài chim. Đối với người tu cũng vậy, Niết Bàn có sẵn đó, mình chỉ cần muốn trở về, về đó rồi mình sẽ thoải mái hơn nhiều. Đó là bản môn.
Từ cư xá lên thiền đường, mình đi rất sâu sắc, đi một trăm phần trăm. Khi tiếp xúc với tích môn, mình tiếp xúc được với bản môn, mình có thể đi ở chỗ không sanh không diệt, không tới không đi nghĩa là mình đang sống ở Niết Bàn. Người tu đạo cao cường đi từ phòng ngủ của họ lên thiền đường là đi trong Niết Bàn, còn mình tu dở thì vẫn đi trong cõi sinh tử. Đi trong cõi sinh tử mà đi cho thật sâu sắc, sử dụng phương pháp “một trăm phần trăm” thì mình tiếp xúc được với Niết Bàn và sinh tử trở thành Niết Bàn. Đó là công phu của niệm, định và tuệ. Người tu là người biết chế tác niệm, định và tuệ. Chìa khóa là sự quán chiếu về không. Khi có chánh niệm, mình quán chiếu thấy cái sinh cũng không, cái tử cũng không, cái lai cũng không, cái khứ cũng không, cái có cũng không mà cái không cũng không. Trong lúc đó, mỗi giây phút mình có thể tiếp xúc với Niết Bàn.
Bài kệ 9
Mạc vi khi khả khiên vãn 莫 為 欺 可 牽 挽
Kiến sắc đối mạc vi phục 見 色 對 莫 為 服
Bỉ ỷ thân tri mạc trước 彼 綺 身 知 莫 著
Hí trước âm cầu giải nạn 戲 著 陰 求 解 難
Đừng nhục mạ ai, cũng đừng để mình bị níu kéo và vướng mắc vào những hình sắc dối gạt bên ngoài, đừng dấn mình trong những cuộc vui mà quên đi mục đích của sự hành trì của mình là giải cứu khổ nạn.
Mạc vi khi khả khiên vãn: Khả khiên vãn là có thể bị níu kéo, bị vướng mắc, bị dẫn độ, bị bắt đi.
Kiến sắc đối mạc vi phục: Đối diện với hình sắc bên ngoài nếu thấy nó có tính cách lừa dối thì mình đừng để bị gạt.
Bị ỷ thân tri mạc trước: Ỷ là sự tô điểm, trang trí bên ngoài. Đừng bị dính líu vào những cái tô điểm, trang trí bên ngoài tự thân.
Hí trước âm cầu giải nạn: Những cái vui chơi, những cái mình đi tìm để khỏa lấp nỗi khổ niềm đau của mình như phim ảnh, rượu trà, ma túy, sách báo gọi là hí. Đừng dấn mình trong những cuộc vui mà quên đi lý tưởng của mình là tìm cầu để giải trừ tai nạn cho mình và cho thế giới (cầu giải nạn). Vì vậy không nên để bị đánh lừa, bị kéo theo bởi những hình sắc mà mình tiếp xúc. Mình đừng để bị dính líu vào những hành động trang điểm bề ngoài và đừng để bị kéo theo những cuộc vui. Mình phải luôn luôn nhớ rằng, chí hướng của người xuất gia, của người tu là làm sao tìm cầu được những phương tiện cởi bỏ, giải trừ những tai nạn cho mình và cho thế giới.
Bài kệ 10
Cửu cố niệm xả mạc tư 久 故 念 捨 莫 思
Diệc vô vọng đương lai thân 亦 無 望 當 來 親
Kiến tại vong bất trước ưu 見 在 亡 不 著 憂
Ly tứ hải tật sự tẩu 離 四 海 疾 事 走
Những gì thuộc về quá khứ, đừng nghĩ tới chúng nữa, những gì thuộc về tương lại, đừng vọng tưởng đến chúng. Những gì đang xảy ra trong hiện tại phải được nhận diện để đừng bị vương vấn vào. Cứ như thế thênh thang bước một mình khắp năm châu bốn biển mà không còn bị ai ganh ghét.
Cửu cố niệm xả mạc tư: Cửu cố là cổ xưa. Cửu cố niệm là những tư duy, những vướng mắc, những nhớ nhung (niệm) về cái gì đã qua. Những gì thuộc vế quá khứ mình phải buông bỏ, đừng vướng mắc vào nó. Mình đừng đi truy cập những gì thuộc về quá khứ, truy cập tiếng Anh gọi là retrieve. Mình đừng đi truy cập những đau thương, buồn khổ, những kỷ niệm của quá khứ.
Diệt vô vọng đương lai thân: Đương lai là những cái chưa tới. Đừng ngồi đó mà ngóng, mà trông cầu, mà hy vọng những cái trong tương lai.
Kiến tại vong bất trước ưu: Đối với những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại cũng vậy, mình cũng không bị dính vào những ưu tư, lo lắng, mình phải buông bỏ.
Ly tứ hải tật sự tẩu: Nhờ như vậy, trong bốn biển năm châu mình có thể bước đi những bước thật thanh thản, không bị ai ganh ghét. Ly tứ hải cũng có thể được dịch là lìa bỏ được những cơn lũ lụt như sự lo lắng, sự buồn phiền, sự vướng mắc.
Bài kệ 11
Ngã thuyết tham đại mãnh tệ 我 說 貪 大 猛 弊
Kiến lưu nhập nãi chế nghi 見 流 入 乃 制 疑
Tùng nhân duyên ý niệm hệ 從 因 緣 意 念 繫
Dục nhiễm hoại nạn đắc ly 欲 染 壞 難 得 離
Tôi nói rằng tham dục là mãnh lực gây ra tàn hại nhiều nhất. Đó là cơn lũ lụt làm tràn ngập cả thế gian. Thấy được điều đó thì mới chế phục được mọi nghi ngờ. Cần để tâm quán chiếu về lý duyên khởi. Phải thấy được rằng nếu không thoát ra được cái ô nhiễm của tham dục thì ta khó mà chấm dứt được khổ đau.
Ngã thuyết tham đại mãnh tệ: Tôi (tức là Bụt) nói rằng tham dục là mãnh lực gây ra tàn hại nhiều nhất. Đại mãnh tệ là tệ hại lớn nhất, mạnh mẽ nhất. Tôi xác nhận rằng sự thèm khát, sự ham muốn là mãnh lực gây ra tệ hại nhiều nhất.
Kiến lưu nhập nãi chế nghi : Thấy được dòng nước, thấy được cơn lũ lụt của tham dục thì mình mới có khả năng chế ngự được sự nghi ngờ, sự si mê của mình.
Tùng nhân duyên ý niệm hệ: Mình phải để tâm, phải cột tâm vào sự quán chiếu về nhân duyên, về đạo lý duyên khởi. Phải đem tâm mình quán chiếu về lý duyên khởi.
Dục nhiễm hoại nạn đắc ly: Một khi quán chiếu như vậy thì mình có thể phá hoại, chuyển hóa được những ô nhiễm do ái dục gây ra. Chỉ có quán nhân duyên mới thoát khỏi ái nhiễm và mình mới có thể xa lìa được tai nạn kia. Nạn đắc ly là tai nạn đó mới được xa lìa.
Tôi nói rằng tham dục là mãnh lực lớn nhất gây ra nhiều tệ hại. Thấy được dòng lũ lụt nguy hiểm như thế đó rồi mình mới có khả năng điều phục được những lo lắng, nghi ngờ của mình. Phải đem tâm ý của mình cột vào sự quán chiếu duyên khởi. Như vậy mới phá tan được những ô nhiễm của ái dục và những tai nạn trong cuộc đời như bạo động, tàn sát mới có thể được trừ diệt.
Phần 4:
(Đây là bài pháp thoại Thiền sư giảng vào ngày 25.4.2010 tại chùa Pháp Vân, Xóm Thượng, trong khóa tu mùa Xuân.)
Bài kệ 12
Xả dục lực kỳ bối quả 捨 欲 力 其 輩 寡
Tất sổ thế kỳ chung thiểu 悉 數 世 其 終 少
Xả bất một diệc bất tẩu 捨 不 沒 亦 不 走
Lưu dĩ đoạn vô phược kết 流 已 斷 無 縛 結
Trong đám đông, số người có năng lực buông bỏ tham dục rất ít, thời đại nào cũng thế. Nhưng một khi đã buông bỏ được rồi thì kẻ hành giả lại không cảm thấy mất mát gì, cũng không có nhu yếu di chuyển tới một nơi nào khác: cơn lũ lụt kia tự nó sẽ cáo chung và không có gì còn ràng buộc được ta nữa.
Xả dục lực kỳ bối quả: Quả là ít, những người có khẳ năng buông bỏ ham muốn rất ít.
Người nào cũng ôm một khối tham dục to lớn, ít ai có khả năng buông bỏ ham muốn của mình. Đi xuất gia là buông bỏ khối tham dục ấy xuống, nếu chưa buông bỏ được thì chưa phải là người xuất gia đích thực.
Tất sổ thế kỳ chung thiểu: Sổ là nhiều. Ở thời đại nào, thế hệ nào (tất sổ thế) thì số người đó cũng ít (kỳ chung thiểu). Trong đám đông số người biết buông bỏ tham dục rất ít, thời đại nào cũng thế.
Xả bất một diệc bất tẩu: Nhưng một khi đã buông bỏ được rồi thì người hành giả lại không cảm thấy mất mát gì.
Buông bỏ rồi mình không cảm thấy mất mát gì mà trái lại còn cảm thấy giàu có và hạnh phúc hơn nữa, mình cũng không có nhu yếu di chuyển tới một nơi khác (diệc bất tẩu). Chúng ta thường không bằng lòng với tình trạng hiện tại của mình. Chúng ta hay đứng núi này trông núi nọ. Chúng ta muốn có địa vị cao hơn, muốn có nhiều tiền hơn. Có hai triệu rồi nhưng mình thấy chưa đủ, chắc phải có hai triệu rưỡi mới vừa. Khi may mắn có được bốn triệu thì lại thấy bốn triệu vẫn chưa thấm vào đâu. Mình muốn di chuyển, muốn đi tìm cầu một chỗ làm việc khác lương cao hơn. Đó gọi là túi tham không đáy.
Khi đã ôm một khối tham dục thì có bao nhiêu mình cũng thấy không đủ. Nhưng người buông bỏ được khối tham dục, tức là người thực tập tri túc, thì lại có cảm tưởng mình rất đầy đủ. Chúng ta luôn không bằng lòng với những điều kiện mình đang có nên chúng ta chạy. Diệc bất tẩu là không có nhu yếu chạy, mình hạnh phúc với những gì mình đang có, mình không cần phải tìm cầu thêm gì nữa.
Tuy chỉ có sáu chữ “Xả bất một diệc bất tẩu” nhưng ý nghĩa thì sâu xa vô cùng. Buông bỏ được rồi, mình thấy mình không mất gì hết và mình cũng không có nhu yếu chạy đi tìm cái gì khác, mình hoàn toàn thỏa mãn. Đó là bí quyết của sự thực tập tri túc (samtustah).
Lưu dĩ đoạn vô phược kết: Cơn lũ lụt kia tự nó sẽ cáo chung và không còn có gì ràng buộc được ta nữa.
Cơn lũ lụt là những tham dục. Khối tham dục như một dòng nước cuốn mình đi, cuốn thế gian đi. Lưu (srota) là cơn lũ lụt cuốn trôi đi tất cả. Khi mình đã có thái độ dừng lại, không còn muốn chạy nữa thì tự nhiên cơn lũ lụt kia cũng dừng lại. Lưu dĩ đoạn có nghĩa là dòng chảy kia cũng dừng lại. Vô phược kết là không có gì còn có thể ràng buộc ta được nữa. Phược, kết là đóng lại, trói lại.
Những người có khả năng buông bỏ được khối tham dục rất ít, thời nào cũng vậy. Nhưng một khi buông bỏ được rồi thì không thấy mất gì cả và không có nhu yếu đi tìm kiếm một cái gì khác. Dòng lũ lụt kia sẽ chấm dứt và mình hoàn toàn được tự do, không còn bị ràng buộc nữa.
Bài kệ 13
Thừa đế lực hiệt dĩ giá 乘 諦 力 黠 已 駕
Lập đáo bỉ tuệ vô ưu 立 到 彼 慧 無 憂
Thị thai nguy tật sự hộ 是 胎 危 疾 事 護
Cần lực thủ khả chí an 勤 力 守 可 至 安
Nương vào sức mạnh của tuệ giác làm cỗ xe, vị mâu ni vượt tới bờ bên kia. Nhờ có tuệ giác, vị ấy không còn lo lắng và vị ấy thấy mình đang được sự bảo hộ. Sinh tử, tai ách và sự ganh ghét không còn xâm phạm tới vị ấy được. Do sức mạnh của tinh tiến, vị ấy đạt được bình an thật sự.
Thừa đế lực hiệt dĩ giá: Nương vào tuệ giác làm cỗ xe.
Đế là sự thật (satya), lực là sức mạnh. Sự thật là một sức mạnh. Sức mạnh của người tu không phải tìm thấy ở tiền tài, danh vọng hay quyền lực mà ở sự thật.
Thừa là ngồi trên xe, là cưỡi lên. Giá là cỗ xe. Thừa đế lực là sử dụng năng lượng của sự thật để làm sức mạnh. Chữ hiệt cũng có nghĩa là sự thật.
Lập đáo bỉ tuệ vô ưu: Cưỡi trên cỗ xe của sự thật tới được bến bờ bên kia. Bờ bên kia là bờ của trí tuệ, bờ của vô ưu. Vô ưu là không còn lo lắng.
Thị thai nguy tật sự hộ: Nhờ có trí tuệ, vị ấy không còn lo lắng, thấy mình đang được sự bảo hộ. Sinh tử, tai ách và sự ganh ghét không còn xâm phạm tới vị ấy được.
Chữ thai có nghĩa là luân hồi sinh tử, là sự sống chết. Nguy là tai nạn. Tật là sự ganh ghét. Mình được bảo hộ, không còn là nạn nhân của sự sống chết, của tai nạn và của sự ganh ghét nữa.
Cần lực thủ khả chí an: Cần là sự tinh tấn. Do có sức mạnh của sự tinh tấn vị ấy đạt tới bình an thật sự.
Bài kệ 14
Dĩ kế viễn thị thống khứ 已 計 遠 是 痛 去
Quán không pháp vô sở trước 觀 空 法 無 所 著
Tùng trực kiến quảng bình đạo 從 直 見 廣 平 道
Tất bất trước thế sở kiến 悉 不 著 世 所 見
Đã xa lìa được các kế chấp thì khổ đau không còn tồn tại, người hành giả quán chiếu về tự tánh không của vạn pháp, không còn vướng bận vào bất cứ một pháp nào. Đã trực tiếp thấy được con đường lớn đưa tới bình an rồi, người ấy không còn vướng vào bất cứ một quan điểm nào của thế gian nữa.
Dĩ kế viễn thị thống khứ: Kế là đế đạt, so đo, cố chấp, tưởng tượng, kẹt vào tri giác sai lầm. Đã xa lìa được nó thì đau khổ sẽ không còn (thống khứ).
Quán không: là quán chiếu về tự tính không. Nhờ quán chiếu như vậy mà hành giả không còn bị vướng mắc vào gì nữa cả (vô sở trước)
Tùng trực kiến quảng bình đạo: Đã trực tiếp thấy con đường lớn đưa tới bình an rồi, người ấy không còn vướng vào bất cứ một quan điểm nào của thế gian nữa.
Tùng là do, trực là thẳng. Do sự kiện mình đã thấy được một cách trực tiếp con đường rộng rãi đưa tới sự bình an cho nên mình hoàn toàn không còn bị vướng vào những chủ thuyết và những nhận thức của thế gian (Tất bất trước thế sở kiến).
Trong thế gian có rất nhiều chủ thuyết, và ý thức hệ về kinh tế, và về chính trị, những chủ thuyết ấy thường chống đối nhau. Nếu không thấy được con đường bình an, có thể mình sẽ bị vướng vào một trong những chủ thuyết đó. Nhưng nhờ thấy được con đường của sự bình an, nên mình thoát ra được mà không còn đi theo một ý thức hệ nào của thế gian. Thế sở kiến là những cái thấy của thế gian.
Ý nghĩa của cả bài kệ là: một khi mình đã quán chiếu và xa lìa được được tà kiến thì những nỗi khổ niềm đau kia sẽ biến mất. Khi đã quán chiếu được tự tánh không của các pháp, mình không còn bị vướng vào một pháp nào và nhờ thấy được một cách trực tiếp con đường rộng lớn của bình an, và hoàn toàn không còn vướng mắc vào một chủ thuyết nào của thế gian nữa.
Bài kệ 15
Tự bất kế kiến thiểu thân 自 不 計 見 少 身
Bỉ vô hữu đương hà kế 彼 無 有 當 何 計
Dĩ bất khả diệc bất tại 以 不 可 亦 不 在
Phi ngã hữu đương hà ưu 非 我 有 當 何 憂
Khi hành giả không còn chấp rằng thân này là mình, thấy được tính cách không nắm bắt được và không thật sự tồn tại của một cái ngã thì vị ấy không còn gì để lo lắng nữa.
Tự bất kế kiến thiểu thân: Kế là so đo, tính toán, cố chấp. Tự là tự mình. Tự mình không còn so đo, không còn cố chấp thấy hình hài này, năm uẩn này là một cái ngã.
Bỉ vô hữu đương hà kế: Khi nhận thức được tính cách không của năm uẩn (bỉ vô hữu) thì mình không còn chấp vào, nương vào, dựa vào gì nữa cả. Đương hà kế là không nương vào, không chấp vào cái gì nữa.
Dĩ bất khả diệc bất tại: Bất khả tức là không thể nào nắm bắt được. Bất khả có nghĩa là bất khả đắc. Giáo lý bất khả đắc là một giáo lý rất sâu sắc trong đạo Bụt. Mình tưởng mình có thể nắm bắt được, nhưng thật ra không có gì có thể nắm bắt được. Mình không thể nắm bắt được Bụt, cũng như không thể nào nắm bắt được Thượng Đế. Mình sử dụng cái gì để nắm bắt Bụt? Bàn tay năm ngón của mình có thể nắm bắt được Bụt không? Mình nắm bắt Bụt bằng ý niệm, bằng tâm của mình. Thượng đế có hay không có, Thượng đế là tạo hóa hay không phải là tạo hóa, tất cả đều là ý niệm. Chúng ta có thể dùng những ý niệm để nắm bắt Thượng đế hay không? “Ý niệm có” có thể nắm bắt được Thượng đế hay không? “Ý niệm không” có thể nắm bắt được Thượng đế hay không? Quán chiếu kỹ mình thấy “ý niệm có” và “ý niệm không” không thể nào nắm bắt được Thượng đế. “Ý niệm trước”, “ý niệm sau”, “ý niệm thời gian và không gian” cũng không thể nào nắm bắt được. Thượng đế là bất khả đắc.
Khoa học bây giờ đang muốn nắm bắt cái gọi là bản chất của thực tại (the fabric of reality) bằng cách chia chẻ vật chất ra thành từng phân tử, thành từng nguyên tử, rồi chẻ ra thành điện tử và bây giờ đi tới cái gọi là lượng tử (quantum). Nhưng các nhà khoa học cũng không thể nào nắm bắt được và sẽ không bao giờ nắm bắt được một lượng tử bằng trí tuệ, bằng toán học của họ. Dù có chế tạo ra được những loại máy móc tối tân nhất họ cũng không thể nào nắm bắt được một lượng tử. Chúng ta không nắm bắt được Thượng Đế, cho dù hạt bụi ta cũng không nắm bắt được. Khi đang yêu một người nào đó, mình tưởng rằng mình có thể nắm bắt được người đó là mình lầm. Quí vị không thể nắm được người đó, càng cố nắm bắt thì người ấy càng tuột ra khỏi tầm tay.
Chính bản thân của quí vị, quí vị có nắm bắt được không? Quí vị có biết mình là ai không? Mình có biết mình là ai chưa mà đòi nắm bắt người khác, đòi giữ người đó làm của mình? Mình là bất khả đắc mà người yêu của mình cũng bất khả đắc. Đó là một giáo lý rất thâm sâu trong đạo Bụt. Niết Bàn là bất khả đắc, Thượng Đế là bất khả đắc, chân như là bất khả đắc, không có gì là khả đắc, tại vì tự tánh của vạn pháp là không. Trong Tâm Kinh nói: vô đắc và vô sở đắc. Vô đắc là không nắm bắt được tại vì không có đối tượng của sự nắm bắt (vô sở đắc). Thực tại của vạn pháp là trống rỗng. Ví dụ như củ hành, mình tưởng rằng lột hết những lớp hành ra thì sẽ có một cái lõi bên trong, nhưng kỳ thực mình lột hết lớp vỏ này tới lớp vỏ khác thì thấy bên trong hoàn toàn trống rỗng. Tất cả đều giống như củ hành. Mình cũng vậy. Mình là một củ hành có năm bẹ: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Lột hết năm bẹ ra thì ở trong không có gì cả. Người yêu của mình cũng vậy và Bụt cũng vậy, Bụt cũng là một củ hành như mình. Vì vậy, trước khi lạy Bụt mình nói: Con biết con trống rỗng mà Ngài cũng trống rỗng. Con là một củ hành mà Ngài cũng là một củ hành. Ngài cũng không có gì cốt lõi ở bên trong hết. Người lạy và người được lạy đều như củ hành. Năng lễ, sở lễ tánh không tịch.
Chính nhờ con là không và Ngài cũng là không nên con và Ngài có thể tiếp xúc được với nhau sâu sắc. Con ở trong Ngài và Ngài ở trong con. Nếu Ngài chỉ là Ngài thôi thì lạy bao nhiêu đời nữa con mới tiếp xúc được với Ngài? Chính Ngài là không nên con mới đi vào trong Ngài được và chính nhờ con là không nên Ngài mới đi vào trong con được. Rất hay! Trước khi lạy, mình phải quán chiếu, phải thấy được tự tánh không của các pháp. Đây không phải là lý thuyết; đây là tuệ giác, tuệ giác vô ngã, tuệ giác vô đắc, tuệ giác tương tức. Chỉ khi nào mình thấy mình trong Bụt thì khi đó mình mới thấy Bụt. Chỉ khi nào Bụt thấy Bụt trong mình thì khi đó Bụt mới thấy mình. Đó là nhờ tự tánh không của các pháp.
Chúng ta đừng cho rằng chỉ có kinh Đại thừa mới là thâm sâu. Những kinh này, Bụt dạy trong những năm đầu sau khi mới thành đạo nhưng rất uyên áo và thâm sâu. Tất cả những hạt giống của kinh Đại thừa đều có đầy đủ trong các kinh này. Dĩ bất khả diệc bất tại: Tất cả đều không thật có, đều không thể nắm bắt được (dĩ bất khả). Diệc bất tại là không nằm đó như một đối tượng để cho mình nắm bắt.
Phi ngã hữu đương hà ưu: Khi đã thấy được cái ngã không phải là một cái gì tồn tại thì tại sao mình còn phải lo lắng, ưu phiền.
Bài kệ 16
Bản si căn bạt vi tịnh 本 癡 根 拔 為 淨
Hậu tài chí diệc vô dưỡng 後 栽 至 亦 無 養
Dĩ tại trung tất mạc thủ 已 在 中 悉 莫 取
Bất tu bạn dĩ khí cừu 不 須 伴 以 棄 仇
Khi gốc rễ của si mê đã được nhổ lên và khi những cây non của si mê mới mọc lên cũng đã bị nhổ sạch không có cơ hội lớn lên, thì trong hoàn cảnh hiện tại, người hành giả không còn nắm bắt một cái gì nữa vì không còn có nhu yếu phân biệt ai là đồng minh ai là kẻ thù.
Bổn si căn bạt vi tịnh: Si căn là gốc rễ của sự si mê. Si mê là một cái cây (cây si) có gốc rễ ở dưới. Mình phải nhổ bật gốc rễ đó lên. Bạt là chặt, làm cho không còn nữa. Bạt vi tịnh là làm cho sạch.
Hậu tài chí diệc vô dưỡng: Không nuôi dưỡng những mầm mới và bứng bật gốc những cây non lên.
Dĩ tại trung tất mạc thủ: Đã không nắm bắt quá khứ, đã không nắm bắt tương lai mà trong hiện tại mình cũng không nắm bắt một cái gì nữa cả. Mình có tự do đối với quá khứ, mình có tự do đối với tương lai và chính cái hiện tại cũng không lôi kéo được mình.
Bất tu bạn dĩ khí cừu: Không còn tâm phân biệt bạn hay thù. Lúc đó sẽ không có chiến tranh, không có bạo động, không còn khủng bố nữa.
Kinh này là lời giải đáp trực tiếp cho tình trạng của thế giới hiện tại, thế giới của bạo động, của hận thù, của khủng bố. Học kinh này, chúng ta có cảm tưởng như Đức Thế Tôn mới dạy kinh này sáng hôm nay. Tại vì kinh đã trả lời được trực tiếp những câu hỏi của thời đại hiện tại: tại sao thế giới lại loạn lạc, bạo động như vậy? Lời dạy chỉ cho chúng ta thấy được gốc rễ của khổ đau trong thế giới hiện tại: đó là những tà kiến, những tham dục, những cố chấp. Đây là phương thuốc cho thế giới hiện tại. Tôi nghĩ chúng ta chỉ cần học một kinh này thôi; học cho thật sâu và cùng nhau đem ra áp dụng, áp dụng trong lĩnh vực giáo dục, kinh tế, chính trị, v.v… thì sẽ có hòa bình, an lạc.
Kinh này rất hiện đại. Người khủng bố ôm quả bom lao đầu vào để chết và để giết những người khác, giết càng nhiều người càng tốt tại vì trong họ có những nỗi khổ niềm đau, có những mũi dao nhọn. Chúng ta có những ý kiến như là: Mình đang đứng về phe chánh, họ là phe tà, mình đứng về phe của Thượng đế, họ đứng về phe Ma vương và mình phải thay Thượng Đế trừng phạt Ma vương. Tất cả đều là những chủ thuyết, những ý thức hệ gọi là những si căn. Đó những gốc rễ của sự si mê mà mình phải chặt đứt, phải đốn cho sạch. Nếu những cây con của sự si mê mọc lên trở lại thì mình phải tìm cách nhổ đi. Trong hiện tại mình không bị vướng víu gì cả. Mình thoát khỏi những tà kiến và những tham dục. Mình không còn thấy ai là bạn, ai là thù, tất cả đều là anh chị em với nhau. Nếu những nhà chính trị trên thế giới như các ông Obama, ông Sarkozy, ông Putin và ông Hồ Cẩm Đào được học kinh này thì đỡ biết mấy.
Phần cuối :
(Đây là bài pháp thoại Thiền sư giảng vào ngày 29.4.2010 tại chùa Cam Lộ, Xóm Hạ, trong khóa tu mùa Xuân.)
Bài kệ 17
Nhất thiết dĩ khí danh sắc 一 切 已 棄 名 色
Bất trước niệm hữu sở thâu 不 著 念 有 所 收
Dĩ vô hữu diệc vô xứ 已 無 有 亦 無 處
Nhất thiết thế vô dữ oán 一 切 世 無 與 怨
Khi đã không còn bị kẹt vào các khái niệm tâm và vật (như những gì tồn tại ngoài nhau), khi đã không còn bị kẹt vào các ý niệm, không thấy có gì có thể nắm bắt, khi đã thấy được rằng không gian và vật thể là không, thì không có gì trong thế gian còn có thể làm cho vị ấy oán than buồn giận nữa.
Nhất thiết dĩ khí danh sắc: Không còn bị kẹt vào các khái niệm tâm và vật.
Khí là buông bỏ, trừ khử. Danh là tâm, sắc là vật. Chúng ta thường có quan niệm lưỡng nguyên về tâm và vật, chúng ta thường cho rằng tâm là chủ thể và vật là đối tượng, chủ thể và đối tượng là hai cái khác nhau, tách rời ra khỏi nhau. Quan niệm đó là một quan niệm sai lầm, mình phải tìm cách buông bỏ quan niệm đó. “Như những gì tồn tại ngoài nhau” là do khi dịch tôi đã thêm vào cho dễ hiểu.
Bất trước niệm hữu sở thâu: Không còn bị kẹt vào các ý niệm, không thấy có gì để có thể nắm bắt.
Bất trước là không bị vướng vào, không bị kẹt vào. Niệm là những ý niệm, những tri giác của mình. Mình có ý niệm về cái này, cái khác. Mình có ý niệm về Bụt, về Thượng Đế. Mình có ý niệm về thế gian, về sự vật. Những ý niệm đó có thể là những chướng ngại. Mình phải coi chừng những ý niệm của mình và phải vượt lên những ý niệm đó tại vì chúng là những yếu tố gom góp lại để gây ra những tri giác sai lầm.
Thâu là góp nhặt, tìm kiếm, nắm bắt.
Dĩ vô hữu diệc vô xứ: Không gian và vật thể là không.
Xứ là không gian, xứ sở (locality). Hữu là vật thể, là thế giới vật chất như trăng sao, sông núi, muôn loài, v.v…
Cặp danh – sắc không phải là cặp duy nhất, ngoài nó còn có nhiều cặp khác như cặp không gian – vật thể. Chúng ta hiểu, không gian là khung cảnh và vật thể là những cái nằm trong khung cảnh đó. Bây giờ khoa học đã bắt đầu tìm ra rằng thời gian, không gian và vật chất dính vào nhau, không thể lấy cái này ra khỏi cái kia, không thể lấy thời gian ra khỏi không gian, cũng không thể lấy vật thể ra khỏi thời gian và không gian. Khoa học đã tìm thấy sự liên hệ bất khả phân ly của tất cả các hiện tượng. Còn phân biệt tâm và vật là hai cái riêng biệt là còn tri giác sai lầm. Khi mình còn quan niệm không gian và vật thể là những cái tách biệt nhau thì mình vẫn còn tri giác sai lầm. “Xứ” có thể được dịch là xứ sở và “hữu” là tồn tại. Ở đây chúng ta dịch xứ là không gian và hữu là vật thể.
Nhất thiết thế vô dữ oán: Không có gì trong thế gian còn có thể làm cho người ấy oán than buồn giận nữa.
Chữ thế có thể được hiểu theo hai cách: thế là thời gian và thế là thế gian, là cuộc đời. “Tam thế chư Phật” tức là chư Phật trong ba đời (qua khứ, hiện tại, vị lai), chữ thế ở đây có nghĩa là thời gian. Chữ thế nằm riêng cũng có nghĩa là cuộc đời, là kiếp. Câu kệ này có thể được dịch theo hai cách:
1. Không có gì trong thế gian còn có thể làm cho vị ấy oán than, buồn giận nữa.
2. Không có gì trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai còn có thể làm cho vị ấy oán than buồn giận nữa.
Những cái trong quá khứ không còn làm cho mình đeo đuổi, không còn làm cho mình bị dằn vặt nữa. Những cái trong tương lai cũng không còn làm cho mình sợ hãi và những cái trong hiện tại cũng không làm cho mình vấn vương. Chúng ta có thể thêm vào cách dịch thứ hai: Khi đã thấy rằng không gian và vật thể là không thì không có gì trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai còn có thể làm cho vị ấy oán than, buồn giận nữa.
Chúng ta có thể hiểu bài kệ này như sau: Mình phải buông bỏ tất cả, trong đó có ý niệm cho rằng danh và sắc hay vật chất và tinh thần là hai cái khác biệt. Mình không bị dính vào những khái niệm, do đó mình không thấy có gì cần phải chạy theo để nắm bắt. Mình không phân biệt và chấp vào sự có mặt của không gian và vật thể và mình cũng không bị kẹt vào thời gian và vật thể.
Theo tôi, mình dịch chữ “thế” là thời gian thì đúng hơn dịch chữ “thế” là cuộc đời tại vì mình đã có không gian và vật thể, nếu dịch thế là thời gian thì mình có đủ ba cái: thời gian, không gian và vật thể. Chúng ta xem » lại:
Đã không còn bị kẹt vào các khái niệm tâm và vật (như những gì tồn tại ngoài nhau), khi đã không còn bị kẹt vào các ý niệm, không thấy có gì có thể nắm bắt, khi đã thấy được rằng không gian và vật thể là không, thì không có gì hoặc trong quá khứ hoặc trong hiện tại hoặc trong vị lai còn có thể làm cho vị ấy oán than buồn giận nữa.
Có nghĩa là vị ấy đã vượt thoát thời gian, đi vào kiếp ngoại, hoàn toàn tự do đối với quá khứ, vị lai và hiện tại. Chữ thời gian (kiếp) tiếng phạn là kalpa, kiếp ngoại là akalpa. Những bài kệ chúng ta đã học và đang học đã đi rất sâu vào trong triết học Phật giáo. Khoa học lâu nay bị kẹt vào ý niệm tâm và vật, và có một quan niệm hơi duy vật về tâm: “Tâm thức của mình là do sự chuyển động và phối hợp của những tế bào não làm thành. Những tư tưởng, những tình cảm, năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là sản phẩm của não. Não là bản chất, là nguồn gốc của thức. Giống như gan làm ra mật, não bộ làm ra tâm thức”.
Quan niệm này hiện nay đã bắt đầu bị lung lay. Nhờ khoa học lượng tử người ta thấy quan niệm đó có những sai lầm. Khi nghiên cứu những hạt vật chất (elementary particle), người ta rất ngạc nhiên thấy thỉnh thoảng những hạt đó mang hình tướng của những đợt sóng và thỉnh thoảng chúng mang hình tướng là hạt. Trong ý niệm của mình, nếu đã là hạt thì chỉ có thể là hạt mà không phải là sóng; nếu đã là sóng thì chỉ có thể là sóng mà không thể là hạt. Nhưng trong thực tế các nhà khoa học đều công nhận: Chính cái hạt vật chất đó, có khi biểu hiện ra như một cái hạt và có khi biểu hiện ra như một làn sóng. Gọi nó là hạt cũng không đúng mà gọi nó là sóng cũng không đúng, cho nên người ta đã đặt ra danh từ mới là hạt sóng (wavicle, ondicule).
Trong đạo Bụt có chữ nama-rupa (danh-sắc), chúng ta có thể ráp hai chữ đó lại giống như chữ wavicle. Nó là một hay là hai? Tùy theo tâm của mình. Nếu tâm mình đặt những câu hỏi để biết thể, tướng và dụng của hạt thì nó hiện ra dưới hình thức của hạt. Khi mình đặt câu hỏi về tác dụng của một đợt sóng thì nó hiện ra như một đợt sóng. Nó là sóng hay hạt đều do tâm của mình.
Trong khoa học lượng tử bây giờ ai cũng nói: Khi tâm mình không quan sát lượng tử thì hình như lượng tử có mặt cùng khắp trong không gian. Bản chất của nó là phi cục bộ (non local). Nhưng khi mình bắt đầu đưa tâm vào quan sát thì lúc đó mình thấy nó có một vị trí, một tốc độ. Khi mình để tâm vào quan sát thì sự vật thay đổi, cho nên người ta bắt đầu thấy được rằng vật thể không phải là một thực tại độc lập ngoài tâm. Quan niệm “tâm và vật là hai cái khác nhau” là một quan niệm sai lầm.
Trong đạo Bụt từ lâu mình đã học rằng tâm của chúng ta là ý và đối tượng của ý là pháp. Một bên là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và một bên là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Pháp là đối tượng của ý. Đạo Bụt luôn luôn nói rằng thế giới thực tại chỉ là đối tượng của tâm ý (object of mind) mà không bao giờ là một cái gì tồn tại độc lập ngoài tâm ý. Ý tiếng Anh là mind và pháp tiếng Anh là object of mind. Theo đạo Bụt, ý (mind) và pháp (object of mind) không thể tồn tại độc lập với nhau, không thể nào có ý độc lập với pháp. Ngay từ lúc ban đầu đạo Bụt đã thấy được cái bất nhị của chủ thể và đối tượng, của tâm và vật.
Bài kệ 18
Tất dĩ đoạn vô tưởng sắc 悉 已 斷 無 想 色
Nhất thiết thiện tất dữ đẳng 一 切 善 悉 與 等
Dĩ tùng học thuyết kỳ giáo 已 從 學 說 其 教
Sở lai vấn bất khủng đối 所 來 問 不 恐 對
Đã vượt hoàn toàn cái ý niệm về tất cả trong đó có ý niệm về vật thể, thì trong tất cả các pháp hành không pháp nào mà mình không đạt được. Đã được học hỏi thực tập và thuyết giảng thông thạo được giáo lý vô dục thì dù có bị bất cứ ai đến chất vấn, vị ấy cũng không còn cảm thấy e ngại trong việc ứng đối.
Tất dĩ đoạn vô tưởng sắc: Chữ tất được dịch là cái tất cả. Ý niệm về tất cả đã được cắt đứt. Tưởng là tri giác. Chúng ta nghĩ, tri giác (tức là tâm ý của mình) nắm lấy đối tượng là sắc (sắc nghĩa là pháp). Ý là một cái gì độc lập từ bên trong chạy ra bên ngoài nắm lấy một đối tượng, đó là quan điểm thông thường, tâm thức nằm ở trong và thế giới nằm ở ngoài. Nhưng đối với đạo Bụt đó là một quan điểm sai lầm. Trong đạo Bụt không có trong, không có ngoài, chủ thể và đối tượng không thể tồn tại độc lập với nhau.
Ý thức gồm có chủ thể và đối tượng. Không có đối tượng thì không có chủ thể, mà không có chủ thể thì không có đối tượng. Nói có một đối tượng nằm ngoài chủ thể, không có chủ thể nó vẫn tồn tại, giả định đó là không đúng.
Câu kệ được dịch như thế này: Khi mình đã buông bỏ được ý niệm về tất cả trong đó có ý niệm về vật thể, thì lúc đó tất cả những phương pháp thực tập hay và đẹp mình đều nắm được.
Thiện là những pháp lành, những pháp hành trì. Vì vậy cho nên tôi đã dịch: Trong tất cả những pháp hành không pháp nào mà mình không đạt được.
Dĩ tùng học thuyết kỳ giáo: Đã được học hỏi thực tập và thuyết giảng một cách thông thạo được giáo lý vô dục.
Chữ học ở đây có nghĩa là thực tập. Vô học là thực tập thành công rồi, hữu học là đang còn phải thực tập. Tùng là từ đó, nhờ đó. Nhờ đã từng học hỏi, đã từng thực tập và đã từng thuyết giảng về giáo lý bất nhị, giáo lý không lưỡng nguyên, không kỳ thị tâm và vật, không kỳ thị không gian, vật thể và thời gian, cho nên nếu có ai tới chất vấn mình cũng không sợ hãi, mình có thể ứng đối được dễ dàng (Sở lai vấn bất khủng đối).
Sau khi đã buông bỏ được ý niệm về tất cả, trong đó có ý niệm về vật thể, thì các pháp thực tập hay nhất mình đều có thể đạt tới. Đã thực tập và thuyết giảng giáo lý đó rồi thì khi có người tới hỏi, mình không còn sợ hãi và có thể đối đáp lại được.
Chữ vô dục là do mình thêm vào. Chúng ta có thể nói giáo lý vô dục và bất nhị cho đầy đủ, tại vì trong mấy bài trên có nói đến vô dục và bất nhị.
Bài kệ 19
Bất tùng nhất trí thị tuệ 不 從 一 致 是 慧
Sở cầu thị vô khả học 所 求 是 無 可 學
Dĩ yếm xả vô nhân duyên 已 厭 捨 無 因 緣
An ổn chí kiến diệt tận 安 隱 至 見 滅 盡
Đã đạt được tuệ giác rồi, vị ấy không cần lệ thuộc vào ai nữa. Đã không còn mong cầu gì và cũng không còn ghét bỏ gì nữa cho nên vị ấy đạt được sự bình an trong tâm hồn và thực chứng được Niết Bàn tịch tĩnh.
Bất tùng nhất trí thị tuệ: Nhất là bất cứ ai.
Trí thị tuệ: có nghĩa là đã đi tới tuệ giác.
Khi đã đi tới tuệ giác rồi, mình không còn lẽo đẽo đi theo một ai để mà nương tựa nữa.
Sở cầu thị vô khả học: Sở cầu là những cái mình mong muốn. Vô khả học là không còn gì để học hỏi, tìm cầu nữa.
Dĩ yếm xả vô nhân duyên: Yểm là ghét, xả là buông bỏ. Vì không còn những yếu tố để oán ghét cho nên mình đạt tới sự bình an và thực chứng được Niết Bàn tịch tĩnh (An ổn chí kiến diệt tận).
An ổn chí là đạt tới sự bình an. Diệt tận là Niết Bàn, là chỗ hoàn toàn không còn phiền não. Diệt tận sau này trong Tâm Kinh gọi là Cứu Cánh Niết Bàn tức Niết Bàn tuyệt đối.
Khi đã đạt tới tuệ giác bất nhị và vô dục thì mình không còn phải lẽo đẽo đi theo một người nào để nương tựa, để cầu xin và học hỏi. Mình không còn mong cầu gì nữa, mình không cần phải học hỏi gì nữa. Với lý do mình đã có thể buông bỏ nên mình đạt tới sự an ổn trong tâm hồn và thấy được Niết Bàn tĩnh lặng.
Bài kệ 20
Thượng bất kiêu hạ bất cụ 上 不 憍 下 不 懼
Trụ tại bình vô sở kiến 住 在 平 無 所 見
Chỉ tịnh xứ vô oán tật 止 淨 處 無 怨 嫉
Tuy thừa kiến cố bất kiêu 雖 乘 見 故 不 憍
Nhìn xuống không thấy hãnh diện, nhìn lên không thấy sợ hãi, vị mâu ni an trú nơi tự tính bình đẳng, không còn bị vướng vào một kiến chấp nào. Bấy giờ tất cả mọi tranh chấp đều đã được ngưng lại, oán thù và tật đố không còn có mặt, vị ấy tuy đứng trên tuệ giác mà chẳng thấy mảy may tự hào.
Thượng bất kiêu hạ bất cụ: Thượng bất kiêu là đứng chỗ trên cao mà không có mặc cảm hơn người. Hạ bất cụ là đứng ở dưới nhưng không có mặc cảm thua người, không có sợ hãi.
Trú tại bình vô sở kiến: Trú tại bình là an trú nơi tự tánh bình đẳng. Tự tánh bình đẳng tiếng Phạn là samata, hoàn toàn không có mặc cảm. Vô sở kiến là không còn vướng vào một chủ thuyết, một kiến chấp, một lý thuyết, một quan điểm nào. Mình có thể an trú trong tự tánh bình đẳng và không bị vướng mắc vào một tư kiến nào.
Chỉ tịnh xứ vô oán tật: Bây giờ mọi tranh chấp đều đã được ngưng lại, oán thù và tật đố không còn có mặt. Oán là oán thù, tật là ganh ghét
Tuy thừa kiến cố bất kiêu: Chữ kiến ở đây là chánh kiến tức là tuệ giác. Tuy mình có cái thấy, mình có tuệ giác nhưng không phải vì vậy mà mình có tâm niệm tự hào, tại vì tuệ giác đó không phải là kiến thức. Tuệ giác là sự chứng đắc mà chứng đắc là đạt tới vô ngã. Đạt tới vô ngã rồi làm gì còn có sự tự hào nữa.
Kinh “Chuyển Hóa Bạo Động Và Sợ Hãi” có thể là một kinh đáp ứng lại được với tình trạng hiện tại của thế giới.
Khi học các kinh trong Kinh Nghĩa Túc mình có cơ hội tiếp xúc với văn bản trong Hán tạng. Đây là một bản dịch rất xưa, vào thượng bán thế kỷ thứ ba. Đồng thời chúng ta cũng có thể tham chiếu với Kinh Tập (Sutta-Nipāta) bằng tiếng Pali. Nếu có tâm học hỏi thì không những mình tiếp thu được lời giảng của Bụt mà mình còn có thể nắm vững được nguyên văn của kinh bằng chữ Hán. Các vị nào có tâm học hỏi sẽ tìm ra được thì giờ để học. Những chữ Hán này rất xúc tích và được lặp đi lặp lại nhiều lần. Mình có thể thấy một chữ trong nhiều bài kệ khác nhau. Tuy là cùng ngồi học với nhau trong một lớp, nhưng một người có tâm học hỏi và tìm tòi thì có thể học giỏi gấp mười lần người khác. Mình có cơ hội học chữ Hán, học tiếng Pali và nắm vững nguyên bản của kinh bằng chữ Hán và chữ Pali. Nếu có chí học hỏi, mình có thể tiếp thu được rất nhiều. Nếu ham học mình sẽ tìm ra được thì giờ để đi sâu vào nguyên bản.
Bài tựa của Kinh Nghĩa Túc đã được đưa lên mạng Làng Mai, có thể có nhiều người chưa được đọc. Thầy muốn bài tựa đó được dịch ra tiếng Anh để nhiều người không biết tiếng Việt có thể đọc được. Thiếu bài tựa đó là thiếu khá nhiều vì bài tựa cho chúng ta bối cảnh để có thể hiểu được kinh này. Mình đã học bốn kinh trong Kinh Nghĩa Túc. Kinh Nghĩa Túc có tất cả 16 kinh. Thầy đã dịch xong hết 16 kinh và đã viết đại ý của từng kinh một. Có cơ hội đọc và nghe giảng từng câu là một điều rất quý. Những bài pháp thoại phiên tả này cũng đã giúp ích rất nhiều cho những người đã không có cơ duyên được trực tiếp nghe Thầy giảng. Những bài giảng này cũng sẽ từ từ được dịch ra tiếng Anh và tiếng Pháp để phổ biến rộng rãi làm lợi lạc cho nhiều người.