Phương Hương xuôi vạn lý

Lời giới thiệu

Tôi thường học hỏi được rất nhiều từ những học trò của tôi. Với tôi, học trò cũng là thầy. Sư cô Chân Không là một trong những người ưu tú nhất trong số những học trò như vậy. Để tôi kể cho quý vị nghe một trong những bài học quan trọng mà tôi đã học được từ Sư cô. Đó là vào năm 1966. Cuộc chiến tại Việt Nam đang càng ngày càng khốc liệt. Tôi mải miết nghĩ cách để vận động nhiều vị tôn đức trong Giáo hội chịu cùng đứng ra kêu gọi chấm dứt chiến tranh, và nhiều khi không thể nuốt trôi miếng cơm nào mỗi khi nghe tin một trận chiến khốc liệt vừa xảy ra. Bữa đó, tại chùa Pháp Vân ở Phú Thọ Hoà, Sư cô Chân Không, đang chuẩn bị một dĩa rau thơm cho món phở, Sư cô quay qua hỏi tôi: “Bạch Thầy, Thầy có thể cho con biết những loại rau thơm này ở miền Bắc gọi là gì không?” Nhìn Sư cô đang cẩn trọng đặt những nhánh rau vào chiếc dĩa lớn với tất cả sự chú tâm, tôi bỗng bừng tỉnh. Sư cô có khả năng duy trì sự chú tâm vào những cọng rau thơm. Và tôi nhận ra rằng tôi cũng nên học để tâm tới những nhánh rau, chứ không phải chỉ nghĩ về chiến tranh mà thôi. Thầy trò chúng tôi trao đổi với nhau mười phút về những loại rau thơm ở miền Nam, Trung và Bắc. Tâm trí tôi thoát khỏi những suy nghĩ về cuộc chiến trong khoảng thời gian đó đủ giúp tôi lấy lại được sự cân bằng mà tôi đang rất cần. Năm 1968, khi sống ở miền Nam nước Pháp, tôi đã phát hiện ra những loại rau thơm của vùng Provence với tất cả sự chú tâm và thích thú.

Nhiều năm sau, một người bạn Hoa Kỳ hỏi tôi: “Thưa Thầy! Thầy trồng rau xà lách làm gì cho mất thời gian. Thầy dành thời gian đó để làm thơ có hơn không? Ai mà không trồng được rau xà lách, nhưng ít ai có thể sáng tác những bài thơ sâu sắc như thơ của Thầy.” Tôi mỉm cười đáp: “Bạn ơi! Nếu tôi không trồng những cây xà lách thật chánh niệm như vậy thì tôi không làm ra những bài thơ như vậy được.” Tôi đã không tiết lộ rằng câu trả lời của tôi có xuất xứ từ bài học với Sư cô Chân Không mười hai năm trước. Cho đến hôm nay, tôi vẫn tiếp tục học từ Sư cô. Một vị thầy luôn nên có khả năng làm học trò và một đệ tử cũng luôn phải cùng lúc làm thầy. Nhớ được điều này, cả thầy và trò sẽ cùng lợi lạc.

Điều khiến tôi khâm phục nhất ở Sư cô là khả năng sống an lạc và hạnh phúc. Niềm tin vững chắc của Sư cô đối với Giáo pháp ngày càng được củng cố khi sự tu tập không ngừng mang lại cho Sư cô hoa trái của chuyển hoá, chữa trị và niềm vui. Sự vững chãi, an lạc và hạnh phúc của Sư cô là nguồn động viên nhiệm màu cho rất nhiều các bạn ở Làng Mai cũng như trong đại gia đình Tăng thân. Nguồn vui của Sư cô là làm việc giúp người và giúp chuyển hoá xã hội. Nằm sâu bên trong những công tác của Sư cô là một tình thương lớn và sự quan tâm sâu sắc. Chân Không cũng có nghĩa là tình thương đích thực. Câu chuyện cuộc đời Sư cô vượt xa những gì ngôn từ có thể diễn tả, đó là cả một bài Pháp sống.

Thật tiếc là cuốn sách này còn quá ngắn, không chuyển tải hết sự sâu sắc và sống động những gì Sư cô đã đi qua. Sư cô còn rất nhiều chuyện để kể cho chúng ta, có thể dài gấp mười lần cuốn sách này. Nhưng Sư cô là một nhà hoạt động xã hội hơn là một nhà văn, và hiện tại chúng ta phải bằng lòng với tác phẩm này thôi. Nếu có cơ hội tiếp xúc với Sư cô, quý vị đừng quên xin Sư cô chia sẻ cho nghe những kinh nghiệm của Sư cô. Quý vị sẽ học hỏi được rất nhiều. Sư cô đích thực là một vị Bồ tát.

Thích Nhất Hạnh

Làng Mai, Pháp quốc – Tháng 5, 1993

Tri kỷ của Bụt

Lời Tựa Sách Tri Kỷ Của Bụt

Có người nói: “Chỉ có một vị Bụt mới hiểu được một vị Bụt mà thôi!”Nếu đó là sự thật thì buồn quá! Nếu trong thời của Bụt mà không ai hiểu được Bụt, thì Bụt cô đơn đến chừng nào! Nhưng qua kinh điển chúng ta có cảm tưởng rằng vẫn có một số người hiểu được Bụt, trong giáo đoàn của Ngài cũng như trong giới nhân sĩ, trí thức và các vị tu sĩ ở ngoài giáo đoàn của Ngài.

Có những kinh rất hay không phải do Bụt nói mà do một số thầy lớn như thầy Phú Lâu Na (Purana) hay sư cô Dhammadinna nói ra. Nhiều người nghe kinh rất ấn tượng và tới báo cáo với Bụt:

Thầy Purana nói như vậy, sư cô Dhammadinna nói như vậy, thì có đúng với ý của Bụt không?

Bụt thường trả lời :

Nếu tôi nói về đề tài ấy thì tôi cũng nói được tới như vậy mà thôi!

Chúng ta tin rằng có những thầy hiểu được Bụt. Nhưng chưa chắc những thầy gần Bụt nhất như thầy A Nan có thể hiểu được Bụt một cách dễ dàng tuy là thầy có trí nhớ rất tốt. Có lần thầy A Nan nói với Bụt:

Lý duyên khởi đủ đơn giản để con có hiểu được.

Bụt nói:

Này A Nan, chưa chắc em đã hiểu được lý duyên khởi. Lý này rất mầu nhiệm. Em phải quán chiếu thêm nữa mới có thể hiểu được lý duyên khởi. Nó có khả năng đưa tới tuệ giác Không.

Trong thời của Bụt có rất nhiều người hiểu lầm Bụt, không chỉ những người ở ngoài giáo đoàn mà cả những người ở ngay trong đoàn thể của Bụt. Các thầy, các sư cô hiểu lầm Bụt rất nhiều. Các thầy lớn đã cố gắng giúp họ bỏ đi những tà kiến ấy. Thỉnh thoảng chính Bụt cũng gọi các thầy, các sư cô ấy tới và nói:

Thầy hiểu những lời Như Lai dạy như thế nào mà lại đi tuyên bố như vậy?

Ví dụ như thầy Arittha (A lê xá). Ngày xưa Thầy đã từng làm nghề huấn luyện chim ưng. Thầy ưa nói Bụt chủ trương rằng hạnh phúc (hạnh phúc ở đây là sự hưởng thụ dục lạc) không làm chướng ngại gì cho sự tu học. Nhiều thầy đã tới nói với thầy Arittha:

Sư anh nói như vậy là sai ý của Bụt. Nhưng thầy Arittha nói:

Không! Theo tôi thì đây là ý Bụt!

Các thầy đã tới báo cáo nhiều lần với Bụt. Bụt cho gọi thầy Arittha tới hỏi thì mới biết rằng thầy Arittha đã hiểu lầm lời nói của Bụt. Bụt dạy”hiện pháp lạc trú” tức là sống an lạc trong giây phút hiện tại, chứ không phải dạy rằng hưởng thọ dục lạc là không chướng ngại cho sự tu tập.

Thầy Xá Lợi Phất (Sariputra) là một thầy có thể được gọi là thông minh nhất trong các thầy. Nhưng thầy Sariputra có thể hiểu được Bụt một cách hoàn toàn hay không? Tôi tin rằng thầy Sariputra là một đệ tử thông minh có thể hiểu được ý của Bụt. Thầy là một người rất thực tế. Trong những điều Bụt dạy, thầy thấy có những giáo lý mà người nghe có thể hiểu và đem ra áp dụng được, nhưng cũng có những giáo lý quá sâu sắc, không dễ để cho đại đa số quần chúng tiếp nhận. Vì vậy cho nên thầy Sariputra không trao truyền và khuyến khích các thầy đem những giáo lý đó ra phổ biến, sợ người ta hiểu lầm và bài bác Bụt, cho Bụt là người chủ trương thuyết hư vô đoạn diệt. Đây là một khuyết điểm của thầy Sariputra.

Nếu học Phật pháp một cách thông minh, nếu có tinh thần học hỏi, có tinh thần nghiên cứu và phê phán một cách tự do (the spirit of free inquiry) thì chúng ta có thể nhận biết và thanh lọc lại những hiểu lầm mà các thầy đã ghi chép vào kinh điển. Trong khi đọc kinh điển chúng ta thấy thỉnh thoảng có những điều chống đối nhau, thậm chí có những đoạn kinh mà khi đọc chúng ta không hiểu gì cả. Điều này chứng tỏ là do các thầy không hiểu nên đã truyền lại một cách tam sao thất bản.

May thay chúng ta có thể biết được một cách chắc chắn những giáo lý nào là do Bụt nói và những giáo lý nào không chắc là do Bụt nói. Những điều chắc chắn do Bụt nói là: Tứ Đế (Bốn Sự Thật), Bát Chánh Đạo (Con đường bát chánh), Tứ Niệm Xứ (Bốn lĩnh vực quán niệm), An Ban Thủ Ý (Mười sáu phép thở) và Thất Bồ Đề Phần (Bảy yếu tố của sự giác ngộ). Và chắc chắn là Bụt đã dạy về Không. Trong kinh điển Nam tông có gần 10 kinh nói về đề tài Không. Nhưng trong truyền thống Phật giáo Nam tông, những kinh điển nói về Không chưa bao giờ được nghiên cứu, phân tích và phát triển như trong Phật giáo Đại thừa. Chúng ta biết chắc rằng giáo lý “tam giải thoát môn” (The three doors of liberation) có mặt trong Phật giáo Nam tông cũng như trong tất cả các trường phái Phật giáo khác. Nhưng Phật giáo Nam tông chưa bao giờ khai thác được cái gọi là”Không” chứ đừng nói tới “vô tướng’’ và “vô tác”. Trong Phật giáo Nam tông người ta hiểu chữ Không một cách quá đơn giản. Không chỉ có nghĩa là không có cái ngã mà thôi. Với cách hiểu này họ đã không đi xa hơn được, đó là một điều rất đáng tiếc!

Có lần thầy Sariputra sau khi xuất thiền thì tới thăm Bụt. Bụt hỏi:

Này thầy Sariputra, hôm nay trong khi ngồi thiền thầy đã quán chiều về đề tài gì?

Thầy Sariputra thưa:

Bạch đức Thế Tôn, con quán chiếu về Không.

Bụt nói:

Hay lắm, hay lắm, tại vì cái định về Không là cái định cao nhất.

Và nhân tiện đó Bụt dạy cho thầy Sariputra một kinh gọi là”Thanh Tịnh Khất Thực”. Trong kinh Bụt dạy: Khi một vị khất sĩ mặc áo, ôm bát, cùng đi với một nhóm khất sĩ xuống phố để khất thực thì vị khất sĩ đó phải hộ trì sáu căn, phải giữ gìn như thế nào để những tư tưởng tạp loạn không dấy lên và hoàn toàn an trú được trong từng bước chân để có an lạc, có thảnh thơi và hạnh phúc. Vì vậy ngay trong khi đi khất thực ta đã thực hiện được định về Không.

Chúng ta đã biết rõ là trong Nam tông có nhiều kinh nói về đề tài Không, nhưng chưa bao giờ được khai thác. Và vì vậy Tam giải thoát môn (Không-Vô tướng-Vô tác) chưa bao giờ có cơ hội được khai thác. Chúng ta có kinh Tùy thuận trí (Anulomajñāna). Tùy thuận trí là một loại trí tuệ sử dụng được tuệ giác duyên khởi để đi tới tuệ giác cao nhất là tuệ giác Không. Kinh này cũng thuộc về truyền thống nguyên thỉ, nhưng chưa bao giờ được khai thác. Có những kinh mà chúng ta biết chắc là do Bụt nói như kinh Ca Chiên Diên (Kātyāyana). Trong kinh Bụt đưa ra một định nghĩa rất rõ về chánh kiến: Chánh kiến là cái thấy vượt thoát khỏi ý niệm có và không. Kinh này rất quan trọng!

Có một câu rất tuyệt vời nói về Niết bàn mà chúng ta phải nhắc lại. Câu này nằm trong kinh Như Thị Ngữ (Itivuttaka) và kinh Vô Vấn Tự Thuyết (Udana) của tạng Pali và cũng có mặt trong kinh Pháp Cú tạng Hán được dịch tại Nam Kinh vào giữa hế kỷ thứ 3. Trong tạng Pali Bụt nói: Có cái không sinh, không có, không tác và không hành (Atthi, bhikkhave, ajātam, abhūtam, akatam, asankhatam). Trong tạng Hán ta đọc : Này các thầy Tỳ Kheo, ở đời có cái sinh, cái diệt nhưng cũng có cái không sinh, không diệt. Ở đời có cái có, cái không nhưng cũng có cái không có, không không. Ở đời có cái tạo tác và được tạo tác nhưng cũng có cái không tạo tác và không được tạo tác. Ở đời có cái hình thành và được hình thành nhưng cũng có cái không hình thành và không được hình thành (Tỳ kheo, thế hữu sinh, hữu hữu, hữu tác, hữu hành, hữu vô sinh, vô hữu, vô tác, vô sở thành). Đó là những câu kinh rất tuyệt vời nói lên giáo lý rất sâu sắc của Không. Các thầy của chúng ta bị kẹt vào giáo điều và bảo thủ một cách rất dễ sợ. Các thầy hiểu lầm chữ Không (Emptiness, śūnyatā) là không có, tức ngược lại với có, mà quên rằng Có là một tà kiến và Không cũng là một tà kiến khác.

Một thầy đang ngồi. Có một thầy khác tới hỏi:

Thưa thầy, thầy có thấy một người phụ nữ vừa đi ngang qua đây không?

Thầy kia trả lời:

Tôi đâu có thấy người nào đi qua đây đâu. Tôi chỉ thấy một tập hợp của năm uẩn di động mà thôi chứ làm gì có người?

Vì vậy có một số đông các thầy rất bực. Họ lãnh đạo thành lập những tông phái chủ trương có ngã và có con người. Nếu nói ngã là cái trống rỗng được làm bằng những yếu tố không phải ngã, nếu nó chỉ là một giả danh không có thực thể riêng biệt, thì chúng ta có thể chấp nhận được cái ngã ấy được. Nó không thật sự có, nó chỉ là giả danh (conventional resignation). Như vậy chúng ta có thể nói có một cái ngã, có một người, nếu ta đừng chấp đó là một thực tại độc lập, bất biến. Ví dụ có một thầy đó, sinh vào năm đó, tên gì đó, xuất gia năm đó, chứng đạo năm đó. Rõ ràng là phải có người thì mới có tu và chứng được, làm sao mà nói là không có cái ta? Vì vậy kẹt vào giáo điều thì rất khó chịu.

Chánh Lượng Bộ (Sammitīya) và bộ phái Pudgalavāda (Pudgala là con người) thường trích trong kinh những câu chứng minh rằng Bụt nói rõ ràng là có người, có cái ngã. Nếu chúng ta hiểu con người đó, cái ngã đó là trống rỗng chứ không phải là một thực tại bất biến thì có hại gì đâu. Thường thường họ trích những câu rất nổi tiếng trong kinh như câu:”Này các vị Tỳ kheo, có một người sinh ra đời có thể đem lại rất nhiều lợi lạc cho tất cả chúng sanh. Người đó là ai? Người đó là Bụt.”Như vậy rõ ràng đức Thế Tôn nói có người, vậy nếu quí vị nói không có người, không có người tu học, không có người chứng đạo thì đó là một tà kiến. Khi thầy Huyền Trang sang Ấn Độ học đạo vào thế kỷ thứ 7 thì có tới 70 ngàn thầy theo phái Pudgalavāda. Họ nói rằng: Cho rằng không có con người là một tà kiến. Không có một cái ta để suy tư, để tu tập và chuyển hóa là một tà kiến. Nó trái chống với tuệ giác Bụt trong kinh Kātyāyana.

Vì vậy trong lịch sử Phật giáo chúng ta thấy có những tông phái bị kẹt vào ý niệm “không có ngã”. Ngay cả trong Thiền tông cũng vậy! Làm gì có cây bồ đề? Làm gì có đài gương sáng? Xưa nay có gì đâu để bụi bám vào? Bài kệ rất nổi tiếng của Thiền tông cũng bị kẹt vào tà kiến “không”. “Không” là một trong những tà kiến, nó không phù hợp với chánh kiến.

Kinh Pháp Cú Hán tạng và nhiều kinh khác của Nam tông cũng như của Bắc tông có nói rất rõ về “hiện pháp Niết bàn”, có nghĩa là Niết bàn có thể có mặt trong giây phút hiện tại. Chữ Niết bàn được định nghĩa rất rõ: Niết bàn là sự vắng mặt của mọi phiền não. Chúng ta có thể thực chứng được Niết bàn bằng cách làm vắng mặt mọi phiền não. Trong quan điểm về “hiện pháp Niết bàn” chưa có ý niệm về Niết bàn hữu dư y và Niết bàn vô dư y. Niết bàn hữu dư y là Niết bàn còn năm uẩn và Niết bàn vô dư y là Niết bàn không còn năm uẩn. Đây là những ý niệm có sau này, làm cho người ta hiểu lầm ý của Bụt là chỉ khi nào buông bỏ năm uẩn rồi thì mới thật sự có Niết bàn tuyệt đối. Nếu còn mang năm uẩn thì vẫn chưa có Niết bàn tuyệt đối! Thật ra năm uẩn rất mầu nhiệm! Cái không mầu nhiệm là năm thủ uẩn. Khi chúng ta nắm bắt năm uẩn và cho đó là cái ta hoặc là sở hữu của cái ta thì năm uẩn trở thành năm thủ uẩn. Năm thủ uẩn làm cho chúng ta không tiếp cận được với Niết bàn tuyệt đối. Trong khi đó thì năm uẩn rất mầu nhiệm! Tuy còn năm uẩn nhưng chúng ta vẫn tiếp cận được với Niết bàn tuyệt đối mà không cần phải buông bỏ năm uẩn mới đi vào được Niết bàn tuyệt đối.

Với những câu kinh như vậy, với cái thấy thông suốt và hệ thống hóa, với tinh thần nghiên cứu và phê phán tự do, chúng ta có thể thanh lọc được toàn bộ kinh điển và có thể phục hồi được tư tưởng đích thực của đức Thế Tôn, để có thể trở thành tri kỷ của Bụt. Tinh thần gọi là tìm hiểu và nghiên cứu tự do này nằm ngay trong trái tim của đạo Bụt. Một lần Bụt đi ngang qua vùng của bộ tộc Kalama, các chàng trai Kalama đã rủ nhau tới gặp Bụt rất đông và thưa:

Bạch thầy, vị đạo sư nào đi qua đây cũng nói rằng giáo lý của họ đích thực là chân lý, còn giáo lý của các thầy khác thì chưa chắc. Người nào cũng nói như vậy cho nên chúng con rất hoang mang và không biết nên tin theo ai? Vậy thầy dạy chúng con như thế nào?

Đó là cơ hội để đức Thế Tôi nói ra những câu rất chắc nịch về tinh thần tìm hiểu và phê phán tự do mà một người học Phật phải biết sử dụng. Bụt dạy như thế này:

Này các em, đừng vội tin tưởng vào một điều gì dù điều đó đã được chép trong kinh điển như kinh Vệ Đà hay Áo Nghĩa Thư. Đừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó đã được một đạo sư nổi tiếng nói ra. Đừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó được đa số chấp nhận là sự thật. Đối với tất cả những gì được nghe các em phải dùng tâm mình để quán chiếu, để tìm hiểu, để phê phán. Sử dụng sự thông minh và óc tự do phê phán của mình và đem áp dụng những điều đó vào trong đời sống hàng ngày xem thử chúng có khả năng tháo gỡ được những khổ đau, những khó khăn của mình hay không. Nếu có thì mình mới bắt đầu tin đó là sự thật.

Kinh Kalama là một kinh rất hay, rất nổi tiếng, có mặt trong Hán tạng và trong truyền thống Theravada.

Giáo nghĩa về Không đã được hiểu rất cạn trong rất nhiều bộ phái Phật giáo, kể cả trong Phật giáo Đại thừa. Truyền thống Hữu Bộ (Sarvāstivāda) chủ trương “ngã không và pháp hữu”tức là không có cái ngã nhưng các pháp thì có, tuy chỉ có trong sát na thôi. Quá khứ có, hiện tại có và tương lai cũng có; chỉ có một cái không có mà thôi, đó là cái ngã. Vì vậy người ta hiểu chữ vô ngã là không có cái ngã, mà không hiểu rằng cái ngã tuy có đó nhưng nó chỉ là một cái gì trống rỗng (Emptiness of the self). Mới nhìn ta tưởng như sự vật là có thật, nhưng nhìn cho sâu thì thấy chúng là trống rỗng. Vì vậy cái ngã không thật sự có, nó là một giả danh (conventional designation), là một sự thật ước lệ. Trong Thượng Tọa Bộ, Phân Biệt Thuyết Bộ, Đồng Diệp Bộ cũng như Hữu Bộ, người ta vẫn bị kẹt vào ý niệm có và không và không đi đúng với tinh thần của Bụt là Chánh kiến vượt ra khỏi cái thấy có và không. Trong Tâm Kinh cũng có một đoạn, trong đó vì người ta hiểu lầm nên đã ghi chép lầm. Người ta đã lẫn lộn ý niệm Không (Emptiness) và ý niệm vô (non-being). Vì vậy có đầy dẫy những sự sai lầm trong kinh điển. Nếu có tinh thần tìm hiểu, phân tích tự do và nắm được giáo lý căn bản của Bụt thì chúng ta mới có khả năng dọn lại, giúp làm sáng tỏ tinh thần Nguyên thỉ của Bụt.

Thầy Xá Lợi Phất có thể là một tri kỷ của Bụt. Thầy rất thực tế vì nghĩ rằng có những người không thể nào hiểu được giáo lý về Không cho nên thầy chỉ khuyến khích các thầy dạy về vô ngã. Thầy cũng không dạy về pháp không, hình như thầy thấy rằng giáo lý về pháp không quá khó. Trong khi đó thì Bụt rất vô phân biệt, tuệ giác của Ngài tuôn trào ra như vậy. Nhưng chính thầy Xá Lợi Phất là người điều hành, là người quyết định những giáo lý nào nên phổ biến và những giáo lý nào khoan nên phổ biến vì có thể sẽ gây ra sự hiểu lầm. Và ảnh hưởng của thầy Xá Lợi Phất đã kéo dài nhiều trăm năm về sau trong các bộ luận A Tỳ Đạt Ma.

Sách “Tri kỷ của Bụt” không phải là một cuốn sách giáo khoa, cho dù là giáo khoa cao cấp. Trước hết sách không được soạn trước như một giáo trình, thứ hai là sách không có mục đích giải thích hay làm sáng tỏ những giáo lý như Tứ Đế, Bát Chánh Đạo, Tứ Niệm Xứ, Thất Bồ Đề Phần hay Mười sáu phép quán niệm hơi thở trong kinh An ban Thủ ý. Sách”Tri kỷ của Bụt” được phiên tả từ những bài pháp thoại của tôi trong suốt mùa An Cư Kết Đông 2012-2013. Mỗi tuần tôi chỉ dạy hai bài pháp thoại. Trong thính chúng có những người đã xuất gia trên 30 năm và có người mới xuất gia 6 tháng. Tôi phải lặp đi lặp lại những điều hơi khó đối với những người mới học, vì vậy trong sách có hiện tượng lặp đi lặp lại. Đó là chuyện rất thường, rất tự nhiên. Nhưng “Tri kỷ của Bụt” cũng có thể nhận thức như một sách giáo khoa cao cấp. Mục đích của sách không phải là để chú giải hay làm sáng tỏ giáo lý của Bụt, mà để phê phán ngay cả những điều được cho là đã do Bụt nói để chúng ta thấy rằng chưa chắc những lời đó thật sự là do Bụt nói. Giá trị của sách “Tri kỷ của Bụt” nằm ở chỗ làm sáng tỏ được tinh thần rất đặc biệt của Phật giáo là khi tu tập, tìm hiểu về tư tưởng của đạo Bụt thì chúng ta phải sử dụng sự thông minh, sử dụng khả năng phán xét quyết đoán độc lập của mình mà đừng vội tin vào bất cứ điều gì được ghi chép lại trong kinh. Đó là tinh thần của người học Phật, có khả năng tìm hiểu thấu đáo, phê phán tự do (the spirit of free inquiry). Vì vậy mong các đọc giả thấy được điều đó và đừng trông chờ một sách giáo khoa thường lệ ở sách “Tri kỷ của Bụt”. Bụt dạy chúng ta ai cũng có Phật tính. Như vậy chúng ta ai cũng có khả năng trở thành một người Tri kỷ của Bụt.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Trồng một nụ cười

Lời mở đầu

“Trong tất cả những điều chúng ta trao truyền cho học sinh, có một điều vô cùng quan trọng nhưng thường bị lãng quên chính là bài học về sự có mặt đích thực. Một phần vì áp lực hoàn thành chương trình giảng dạy cũng như trách nhiệm quản lý học sinh khiến chúng ta chưa thực sự có mặt cho học trò của mình. Thiền sư Nhất Hạnh đã giúp chúng ta nhận ra một khía cạnh sâu sắc hơn trong mối liên hệ giữa ta với học trò, dựa trên hai nhu yếu căn bản và phổ quát của con người, đó là nhu yếu được hiểu và được thương. Chúng ta biết rằng sự có mặt đích thực của thầy cô giáo trong lớp học chính là một bài giảng không lời. Vì vậy, sự thay đổi và chuyển hóa của chúng ta thông qua sự thực tập nuôi dưỡng chánh niệm sẽ là khởi đầu cho những thay đổi và chuyển hóa nơi học đường cũng như trong xã hội.” – Chia sẻ của Adele Caemmerer, một giáo viên đã từng tham dự khóa tu dành cho các nhà giáo dục do Thiền sư Thích Nhất Hạnh hướng dẫn tại Ấn Độ năm 2008

Hiện nay, vai trò của chánh niệm trong giáo dục ngày càng được công nhận một cách rộng rãi. Sự thực tập chánh niệm giúp học sinh tăng cường khả năng chú tâm, ý thức và làm chủ được các hoạt động của thân, điều phục các cảm xúc mạnh cũng như phát triển các kỹ năng giao tiếp, ứng xử trong mối liên hệ giữa mình với mọi người. Nhưng quan trọng hơn hết, chánh niệm giúp các em phát triển một cách toàn diện và lành mạnh, nuôi lớn niềm vui, sự bình an và tự tin nơi chính mình, thông qua những phương pháp thực tập làm lắng dịu căng thẳng, lo lắng và bạo động trong tự thân.

Thực tế là hệ thống giáo dục của chúng ta thường đặt trọng tâm vào thành tích thi cử mà chưa chú trọng đầy đủ đến việc dạy cho các em cách chăm sóc những cảm xúc của mình, cũng như các phép ứng xử cần thiết khi giao tiếp với xã hội. Lẽ tất nhiên là trường học cần trang bị cho các em những kỹ năng và kiến thức cần thiết, nhưng việc giúp các em có thêm sức mạnh và sự vững chãi khi đối diện với những cơn bão cảm xúc, cũng như khả năng chấp nhận và bao dung trước những khác biệt trong nhận thức, lối sống của con người trong xã hội cũng quan trọng không kém. Sự thực tập chánh niệm có công năng rất lớn trong việc giúp các em phát triển những kỹ năng chế tác và nuôi lớn bình an trong tự thân, góp phần vào sự bình an của môi trường xung quanh mình.

Cách đây một vài năm, hiệu trưởng của trường nữ sinh Welham (Welham Girls’ School) ở Dehra Dun, Ấn Độ có mời tôi chia sẻ một vài phương pháp thực tập chánh niệm với học sinh của trường nhằm giúp các em bớt căng thẳng trong các kỳ thi. Trong buổi chia sẻ đó, tôi nhận ra rằng những bài thực tập đơn giản về hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm đã có thể giúp các em lấy lại được sự bình an, lắng dịu và bớt lo lắng.

Theo lời mời của hiệu trưởng trường American Embassy School tại Delhi, tôi cũng đã hướng dẫn một khóa học về chánh niệm cho các giáo viên trong mười tuần. Đến bây giờ, những thầy cô giáo đã từng tham gia khóa học vẫn tiếp tục gặp nhau mỗi tuần một lần để chia sẻ sự thực tập. Dù khá bận rộn, các thầy cô giáo vẫn ưu tiên dành thời gian để đến và thực tập với nhau, bởi vì họ nhận ra sự thực tập chánh niệm có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với hạnh phúc của bản thân cũng như của các em học sinh. Cheryl Perkins, một giáo viên của trường American Embassy School với hơn ba mươi năm kinh nghiệm giảng dạy đã chia sẻ: “Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi sử dụng một công cụ giảng dạy nào có khả năng làm cho học sinh trong lớp học trở nên lắng dịu như tiếng chuông chánh niệm.”

Tôi đến Làng Mai lần đầu tiên vào năm 1989 và từ đó đến nay tôi vẫn thường xuyên đến Làng tu học. Mùa hè nào, Thiền sư Nhất Hạnh cũng tổ chức khóa tu cho các gia đình. Trong những khóa tu này, thiền sinh – đủ các độ tuổi – cùng nhau thực tập trở về với chính mình để ý thức rõ mình là ai, mình đang làm gì, nói gì, đang có những cảm xúc hay suy nghĩ gì, ý thức về những gì đang diễn ra bên trong và xung quanh mình. Cuốn sách này chính là hoa trái tu học của tứ chúng Làng Mai, được hình thành dựa trên kinh nghiệm thực tập cùng với trẻ em trong mấy chục năm qua.

Trong cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh cùng quý thầy, quý sư cô Làng Mai và nhiều cư sĩ đã hiến tặng tuệ giác của mình và đóng góp những câu chuyện, những phương pháp thực tập cụ thể mà các bậc phụ huynh, thầy cô giáo và bất kỳ ai làm việc trong lĩnh vực có liên quan đến trẻ em đều có thể áp dụng. Những phương pháp thực tập vô cùng hữu ích này có thể được áp dụng trong gia đình, trường học, các đoàn thể địa phương một cách linh hoạt, sao cho nó thực sự có ý nghĩa và tạo hứng thú cho trẻ em.

Cuốn sách này là một cuốn cẩm nang dành cho tất cả những ai muốn thực tập và chia sẻ chánh niệm với trẻ em. Để có thể chia sẻ từ kinh nghiệm của chính mình, chúng ta cần thực tập trước tiên. Nếu chúng ta áp dụng những phương pháp thực tập trong cuốn sách này với gia đình và trẻ em trong cộng đồng nơi chúng ta ở thì cả trẻ em và người lớn đều được hưởng năng lượng bình an, tươi vui và hòa điệu mà sự thực tập mang lại.

Mỗi cá nhân đều có ảnh hưởng đến những thành viên khác trong cộng đồng. Vì vậy, khi có một vài nhóm nhỏ thực tập chánh niệm trong trường học hay trong cộng đồng, năng lượng bình an từ những nhóm người này sẽ có tác động lan tỏa rất lớn. Sự gắn kết, hòa điệu giữa con người với nhau cũng như với môi trường thiên nhiên xung quanh nhờ đó mà lớn dần lên. Chính trong bầu không khí an lành này, trẻ em mới có thể vui vẻ, thoải mái phát huy mọi tài năng vốn có của mình.

– Shantum Seth, một giáo thọ cư sĩ thực tập theo truyền thống Làng Mai, viết tại Delhi, Ấn Độ, năm 2010

Hỏi đáp từ trái tim

Lời nói đầu

Khi mới bắt đầu thực tập chánh niệm, quý vị thường có cả ngàn câu hỏi. Nhưng trước khi tìm người khác để xin giải đáp thì hãy ngồi xuống với câu hỏi của mình. Quý vị sẽ ngạc nhiên khi khám phá ra rằng nhờ nhìn sâu và ôm ấp câu hỏi mà quý vị có thể tự trả lời hầu hết các câu hỏi của mình. Chúng ta có thói quen luôn hướng ngoại, nghĩ rằng chúng ta có thể tiếp nhận tuệ giác hay từ bi từ một người khác, từ Bụt, từ lời dạy của Bụt (Pháp) hay từ Tăng thân. Nhưng mà quý vị là Bụt, quý vị là Pháp, quý vị là Tăng.

Mục đích của cuốn sách này không phải để giảng dạy đạo Bụt. Chất chứa kiến thức về đạo Bụt không giúp ta trả lời được những câu hỏi khẩn thiết. Chúng ta phải học những gì có thể giúp chuyển hóa khổ đau của chính chúng ta, tháo gỡ những tình huống ngặt nghèo của chính chúng ta. Một vị đạo sư nếu là một vị đạo sư đích thực thì những lời giảng dạy của người phải giúp ta tiếp xúc với sự sống và giúp ta cởi bỏ thành kiến, ý tưởng cũng như tập khí. Mục đích của một vị đạo sư đích thực là giúp đệ tử của mình chuyển hóa.

Một câu hỏi hay là một câu hỏi có thể giúp ích cho rất nhiều người. Chúng ta nên đặt những câu hỏi từ tận đáy lòng mình, những câu hỏi liên quan đến hạnh phúc, khổ đau, sự chuyển hóa và sự thực tập. Một câu hỏi hay không cần phải dài dòng.

Thiền sư Lâm Tế là một thiền sư nổi tiếng ở Trung Quốc thế kỷ thứ chín. Ông ta nổi tiếng vì những cuộc thiền chiến giữa thầy và trò. Một thiền sinh thường đứng lên hỏi một câu hỏi để xem thử mức hiểu biết của mình đã chín muồi hay chưa. Thiền sư Lâm Tế thường bắt đầu bằng câu: “Nào, có vị nào xuất trận thì ra đây”. Trong trận chiến ấy thiền sinh đôi khi thắng, đôi khi bại. Trong cuốn sách này những vị nêu lên câu hỏi không cần phải xuất trận. Trong một trận chiến sẽ có người thắng kẻ thua. Trái lại, tôi cố gắng nhìn sâu vào từng câu hỏi và từng người hỏi với tâm từ bi, như chính tôi là người đã nêu lên câu hỏi ấy.

Điều này không có nghĩa là những câu trả lời sẽ nói lên được những gì mình muốn nghe. Chúng ta có xu hướng tránh né một mũi tiêm hay một viên thuốc đắng mặc dầu ta biết mũi tiêm hay viên thuốc đắng ấy giúp ta lành bệnh. Cũng thế, chúng ta thường tránh né những câu trả lời gợi lên những kinh nghiệm khổ đau của đời mình.

Đôi khi những câu trả lời trong nhà Thiền giống như những rào cản giúp chặn đứng dòng suy luận của thiền sinh. Suy luận không phải là chứng ngộ. Chứng ngộ nhanh hơn chớp nhoáng. Ở đâu có suy luận là ở đó có thất bại.

Đôi khi vị đạo sư phải trả lời theo cách mà thiền sư Lâm Tế gọi là đoạt cảnh. Nghĩa là khi một thiền sinh nêu lên một câu hỏi, nếu vị đạo sư dành hết thì giờ giải thích thì có khi chẳng giúp ích gì và vị thiền sinh vẫn còn bị kẹt trong suy luận và kiến chấp của mình. Thay vào đó, vị đạo sư gạt bỏ câu hỏi, bởi vì câu hỏi ấy rất có thể nêu lên một trở ngại không thật. Tôi thường đoạt cảnh để đưa câu hỏi về lại với thiền sinh. Tôi hy vọng rằng nhờ những câu hỏi trong cuốn sách này mà hành giả có thể tìm được phương thuốc chữa trị rất cần thiết. Lời dạy của Bụt thường được gọi là viên âm. Nghĩa là lời dạy tròn đầy, phù hợp với mọi chúng sanh. Viên âm cũng có nghĩa là lời dạy thích hợp cho người nghe, có liên hệ trực tiếp với hoàn cảnh hiện thực của người nghe. Tham vấn là một cơ hội giúp ta thực tập khả năng lắng nghe với lòng rộng mở, sẵn sàng đón nhận trong trạng thái tĩnh lặng an nhiên. Lắng nghe như thế thì chắc chắn ta sẽ nhận được phương thuốc mà ta đang cần.

Kỷ yếu Đến đi thong dong

KHẢI BẠCH

Thầy chúng con, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng dạy rằng:

Ta vẫn còn đến đi thong dong
Có không còn mất chẳng băn khoăn
Bước chân con hãy về thanh thản
Không tròn không khuyết một vầng trăng
(Đến đi thong dong)

Gần trăm năm trụ thế và tròn tám mươi năm hành hóa khắp Đông Tây, Thầy chúng con đã trở về an nhiên xả báo tại chốn Tổ Từ Hiếu, nơi Người đã bước chân vào con đường xuất thế. Lễ Tâm Tang diễn ra như một khóa tu Im Lặng Hùng Tráng uy nghiêm giữa núi đồi Dương Xuân đã thắp lên ý thức trao truyền tiếp nối và thức dậy không biết bao nhiêu ngọn lửa Bồ đề trong tâm hàng đệ tử chúng con cũng như tất cả những ai từng có cơ duyên tiếp xúc, gần gũi và tiếp nhận sự giáo hóa của Người. Chúng con đã nhận được rất nhiều lời châu ý ngọc từ chư vị Tôn đức, chư vị lãnh đạo tôn giáo và tâm linh, chư vị lãnh đạo các quốc gia, chư vị nhân sĩ trí thức, các nhà báo, các thân hữu khắp nơi chia sẻ về công hạnh giáo hóa cũng như những ân tình với Thầy chúng con. Đó thật là những trân bảo vô giá, nhắc nhở chúng con về giá trị thiêng liêng của truyền thống tôn Sư trọng Đạo và chí nguyện dũng liệt trên con đường xây dựng tình huynh đệ, nghĩa đồng môn. 

Trong ý thức ấy, môn đồ pháp quyến và bốn chúng Đạo Tràng Mai Thôn biên tập nên tập Kỷ Yếu Đến Đi Thong Dong này như một phẩm vật dâng lên Thầy của chúng con trong lễ Tiểu Tường (Ngày 19 tháng Chạp năm Nhâm Dần, nhằm ngày 10 tháng 01 năm 2023) và cũng là một vòng hoa ngát hương cúng dường lên chư Tôn đức cùng thiện hữu tri thức gần xa. Chúng con thành kính niệm ân chư Tôn đức và chư liệt quý vị.

Chúng con nguyện sẽ cùng nhau giữ gìn và tiếp nối gia tài Pháp bảo mà Thầy chúng con đã trao truyền để luôn luôn được soi sáng trong sự hiện diện của Pháp thân mầu nhiệm ấy.

Thế sự như đại mộng
Quên tuế nguyệt ta đà
Tan biến dòng sinh tử
Duy còn ngươi với ta 
(Đề thiền duyệt thất – Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Kính ghi,

Thay mặt môn đồ pháp quyến và bốn chúng Đạo Tràng Mai Thôn

Thay mặt ban biên tập Kỷ yếu Đến Đi Thong Dong

Tỳ Kheo Thích Chân Pháp Ấn

Kỷ yếu Đến đi thong dong – Tập 1

Kỷ yếu Đến đi thong dong – Tập 2

LỜI TRI ÂN

Kính bạch chư Tôn Thiền đức, 

Kính thưa quý vị thiện hữu tri thức,

Với tâm niệm kết tập lời châu ý ngọc từ những chia sẻ, những bài viết của chư Tôn đức và thiện hữu gần xa về Lễ Tâm Tang Thầy chúng con là Thiền sư Thích Nhất Hạnh thành một tràng hoa thơm ngát, Ban biên tập Kỷ Yếu Đến Đi Thong Dong đã không ngại những yếu kém và hạn chế về thời gian chuẩn bị, mạnh dạn ra mắt tập Kỷ yếu này trong dịp Lễ Tiểu tường Thầy chúng con.

Chúng con xin dâng tràng hoa ngát hương này cúng dường lên chư Tôn đức, quý vị thiện hữu tri thức khắp nơi để ghi dấu những đạo tình và ân đức của quý liệt vị đối với Thiền sư cũng như đối với tất cả hàng hậu học môn đồ pháp quyến. Nguyện cầu cho tất cả mọi người và mọi loài được an lành, luôn an trú trong cõi Tịnh của phút giây hiện tại, bây giờ, ở đây.

Mặc dù đã cố gắng làm tốt nhất mọi việc với sự yểm trợ hết lòng của các pháp hữu trong phần phiên tả, phiên dịch và in ấn nhưng chắc chắn không thể nào tránh được những thiếu sót, trong đó trước hết phải nói tới việc xin phép bản quyền. Ban biên tập đã may mắn có được sự cho phép của hầu hết tác giả có bài in trong tập Kỷ yếu này nhưng cũng lấy làm tiếc vì nhiều lý do khách quan mà chúng con không liên lạc được với một số tác giả, chúng con rất mong quý vị thông cảm và thấu hiểu. Thời gian sưu tầm và biên tập bài viết hạn chế cho nên chúng con không thể tập hợp được tất cả sự chia sẻ và bài viết từ nhiều nguồn khác nhau. Những sai sót trong tập Kỷ yếu này do khả năng có hạn của nhóm biên tập, ngưỡng mong chư Tôn đức và quý vị thiện hữu lượng thứ và hoan hỷ.

Thay mặt môn đồ pháp quyến và bốn chúng Đạo Tràng Mai Thôn

Thay mặt ban biên tập Kỷ yếu Đến Đi Thong Dong

Tỳ Kheo Thích Chân Pháp Ấn

Những con đường đưa về núi Thứu

Chương 1: Dòng chảy

Chương 2: Phát triển

Chương 3: Tư liệu

Chương 4: Những chủ trương của Đại Chúng Bộ

Chương 5: Chủ trương của những bộ phái phát sinh từ Ðại Chúng Bộ

Chương 6: Những chủ trương của Ðộc Tử Bộ

Chương 7: Những chủ trương của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ

Chương 8: Những chủ trương của Hóa Ðịa Bộ

Chương 9

Những chủ trương của Đại Thừa

Những chủ trương của Mật Tông

Những chủ trương của Làng Mai

Chương 10: Hai quyến rũ lớn trong lịch sử tư tưởng Phật giáo

Kết luận: Con đường trước mặt

Sợ hãi

Không sợ hãi

Một thời đã qua

Nỗi sợ ban sơ

Hòa giải với quá khứ

Giải tỏa nỗi sợ tương lai

Không đến, không đi

Hiến tặng không sợ hãi

Sức mạnh của chánh niệm

Thực tập dừng lại

Bình yên trong cơn bão

Chuyển hóa nỗi sợ xung quanh ta

Bầu trời xanh trên đám mây

Biến nỗi sợ thành tình yêu

Đối nghịch của sợ hãi

Thực tập để giải tỏa sợ hãi khỏi cơ thể và cảm thọ

Chuyển hóa gốc rễ sợ hãi trong tâm

Thư giãn toàn thân để chuyển hóa sợ hãi và căng thẳng

Niệm tâm từ: Nguyện cho mọi người không sợ hãi

Năm phép thực tập chánh niệm (Năm giới)

Năm lời phát nguyện

Truyền thông trong cộng đồng thế giới

Truyền thông với tâm yêu thương có tác dụng mạnh mẽ cho riêng mỗi người lại càng mạnh mẽ hơn khi sử dụng cho một cộng đồng. Hai danh từ communication community đều cùng có gốc Latin là communicare, có nghĩa là chia sẻ, là dùng làm của chung. Chúng ta phải hướng hòa giải và hiểu biết không chỉ với những người trong gia đình hay bạn bè mà với cả láng giềng, đồng nghiệp. Chúng ta phải xây dựng thương yêu và không kỳ thị để làm nền tảng cho sự giao lưu giữa ta với những người khác.

Một cộng đồng chú trọng chánh ngữ và lắng nghe sâu sẽ gia tăng hiệu năng cải tiến xã hội. Đây có thể là hai yếu tố của một nền đạo đức toàn cầu thích hợp cho bất cứ sắc dân nào, không phân biệt truyền thống văn hóa, tôn giáo trong việc giải tỏa xung đột và phục hồi truyền thông.

Cộng đồng tạo nên thay đổi

Chúng ta có thể xem ái ngữ và lắng nghe như là năng lượng bởi vì chánh niệm là một loại năng lượng. Khi chúng ta cùng phối hợp thì năng lượng sẽ gia tăng gấp bội. Tổng thể sẽ lớn hơn sự phối hợp của các đơn vị rất nhiều. Sự thay đổi toàn diện chỉ có thể thực hiện bởi năng lượng của cộng đồng. Nếu muốn cải tạo toàn cầu, nếu muốn thay đổi xã hội, ta phải cần đến một cộng đồng có sức mạnh. Kỹ thuật không đủ. Không có chánh niệm thì kỹ thuật sẽ tàn phá hơn là xây dựng. Khi nói tới việc tạo dựng một môi trường tồn tại lâu dài hay một xã hội công bằng, chúng ta thường nói tới tác dụng vật lý hay sự tiến bộ của kỹ thuật như là những phương tiện cần thiết. Nhưng chúng ta quên đi yếu tố liên kết của một cộng đồng. Nếu không có yếu tố đó thì chúng ta không thể làm gì được.

Thường thường, chúng ta xem những sinh hoạt cộng đồng như là những hoạt động cụ thể. Nhưng năng lượng của tập thể khi ngồi yên hay cùng chung tụng niệm cũng là một cách truyền thông và một hoạt động có sức mạnh. Tôi không xem rằng đây là một hình thức cầu nguyện hay lễ nghi tôn giáo mà là một hình thức truyền thông. Khi chúng ta cùng ngồi lại với nhau, cùng phối hợp định lực của một cộng đồng thì chúng ta sẽ tạo nên một năng lượng tập thể có thương yêu và hiểu biết. Cùng ngồi với nhau trong yên lặng là thực tập lắng nghe niềm đau nỗi khổ trong ta và của cả thế giới.

Năng lượng chánh niệm tập thể sẽ hỗ trợ cho sự thực tập của riêng từng người. Chúng ta noi gương những người có khả năng truyền thông với chính mình và với những người khác. Đôi khi, niềm đau nỗi khổ của chúng ta bị vùi sâu trong tâm thức khiến ta không thể nào hiểu thấu mặc dù chúng ta đã cố gắng tu tập. Trong trường hợp ấy, năng lượng chánh niệm của tập thể giúp ta ôm ấp, giải tỏa khổ đau mà chúng ta không thể giải quyết một mình. Nếu chúng ta mở lòng đón nhận thì năng lượng tập thể của cộng đồng sẽ có thể chiếu sâu vào niềm đau nỗi khổ sâu thẳm trong tâm thức chúng ta. Lắng nghe và ái ngữ trong chánh niệm sẽ giúp cho việc xây dựng một cộng đồng vững mạnh dễ dàng hơn.

Xây đắp tin cậyvà chia sẻ khổ đau

Vài người trong chúng ta cảm thấy khó mà tin tưởng người khác. Đối với những người đó, thật khó để họ chia sẻ tâm tình với một cộng đồng lớn. Họ lo sợ và nghi ngờ. Họ không thể cảm nhận thương yêu và hiểu biết mà cộng đồng muốn cống hiến cho họ. Chúng ta phải tìm cách giúp những người không có khả năng tiếp nhận thương yêu và hiểu biết. Đôi khi hiểu biết và thương yêu chân thật có đó nhưng những người ấy không còn tin tưởng nơi hiểu biết và thương yêu và họ không có khả năng tiếp nhận hiểu biết và thương yêu. Họ là những con ma đói. Trong giáo lý đạo Phật, ma đói có bụng rất to, rất đói khát, nhưng cổ họng rất nhỏ. Mặc dù thức ăn có đó nhưng không thể nuốt được, không ăn vào được gì. Cho nên mặc dù có được bao nhiêu tâm tình hiểu biết thương yêu hỗ trợ, những con ma đói vẫn không tiếp nhận được.

Một người đã chịu nhiều đau khổ sẽ không có khả năng tiếp nhận hiểu biết, thương yêu và giúp đỡ. Đối với những người ấy, ta phải rất mực kiên nhẫn. Thỉnh thoảng ta có thể gặp những con ma đói chung quanh ta và ta có thể nhận diện dễ dàng. Họ trông rất cô đơn, xa cách. Chúng ta phải kiên nhẫn và dành cho họ rất nhiều không gian, thời gian. Không nên quá nôn nóng vì muốn giúp đỡ. Nếu quá nôn nóng thì hậu quả sẽ ngược lại với điều mình dự định và người ấy sẽ phản ứng ngược lại.

Hãy giữ thái độ tươi mát, thương yêu, từ tốn. Đó là tất cả những gì mà ta có thể cống hiến cho người ấy lúc đó. Hãy quán chiếu sâu sắc để tìm ra một câu thần chú khéo léo để có thể khai thông cuống họng, tiếp nhận thức ăn. Với thời gian và sự kiên nhẫn ta có thể giúp họ cảm nhận được hiểu biết và thương yêu của ta. Cho nên muốn xây dựng cộng đồng phải cần nhiều thì giờ.

Cộng đồng xây đắp thương yêu

Các nhà khoa học khi nghiên cứu đời sống tập thể của các loài động vật như chim, cá đã khám phá ra rằng các loài ấy luôn có tính vị tha: Mỗi một thành phần của tập thể luôn luôn sẵn sàng hy sinh mạng sống cho sự an toàn của tập thể.

Loài cá stickleback luôn bơi thành đàn cả ngàn con. Mỗi khi gặp bóng dáng của một con cá lớn săn mồi đe dọa đàn cá thì một vài chục con trong đàn tách rời đàn cá để bơi đi thám thính. Những con cá nhỏ biết rõ làm như thế là nguy hiểm nhưng chúng vẫn bơi về phía con cá lớn để dò xét. Nếu không có gì nguy hiểm, chúng sẽ quay về nhập lại với đàn cá. Nếu biết có nguy hiểm thật sự thì một số sẽ ở lại chịu cho cá lớn nuốt sống trong khi các con khác trở lại đàn cá để hướng dẫn đàn bơi về hướng khác. Loài kiến, loài ong, và một vài loài chim cũng có lối sống như thế. Đối với loài người, thỉnh thoảng cũng đã có những anh hùng hy sinh như thế.

Hành động hy sinh của một vài cá nhân trong cộng đồng nuôi dưỡng lòng quảng đại và tính vị tha trong chúng ta. Các nhà khoa học khi nghiên cứu loài cá stickleback khám phá ra rằng nếu cá luôn bơi với nhau thành đàn thì tính vị tha của chúng càng lớn mạnh. Nếu bầy cá tan rã thì tính vị tha sẽ bị tiêu hao rất nhanh.

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, nếu chúng ta có cơ hội chứng kiến hành động vị tha của một vài cá nhân trong cộng đồng thì hạt giống vị tha trong ta sẽ được tưới tẩm. Và nếu gặp hoàn cảnh cần hy sinh thì chúng ta cũng sẽ hành động như những người ấy, cũng hy sinh cho tập thể như họ.

Chúng ta thường sống đầy tập khí sâu dày. Chúng ta đi không ý thức, không biết thưởng thức từng bước chân đi. Chúng ta nói mà không biết mình nói gì, nói mà gây nên bao nhiêu khổ đau phiền lụy. Một cộng đồng chú trọng thực tập chánh niệm sẽ giúp các thành viên của cộng đồng học cách đi trong chánh niệm, nói trong chánh niệm. Cộng đồng hỗ trợ bạn trong việc thực tập và bạn sẽ tự mình thực tập.

Khi cùng thực tập chánh niệm trong một cộng đồng, chúng ta có cơ hội được một số đông hỗ trợ nhưng cũng có nhiều cơ hội gây nên bức xúc, buồn giận. Cho nên ái ngữ và lắng nghe sâu là cốt yếu, là chìa khóa cho việc xây dựng cộng đồng. Ta phải nói những lời không tạo nên đau khổ cho ta và cho cộng đồng. Nếu một cộng đồng mà không thực tập như thế thì không phải là một cộng đồng đích thực. Ngay cả khi đang bị đau khổ, buồn giận, ta phải thực tập nói năng làm sao để những người khác trong cộng đồng hiểu rõ những gì đã xảy đến cho ta, và như thế có thể thành công trong việc xây dựng cộng đồng.

Thế giới chúng ta có thể là một thế giới của chánh niệm thương yêu

Chúng ta phải tìm ra một phương cách truyền thông tốt đẹp hơn. Nếu chúng ta thành công trong quan hệ cá nhân thì chúng ta cũng có thể thành công nơi sở làm và ngay cả trong một đoàn thể chính trị. Chúng ta phải biến đổi chính quyền thành một môi trường chánh niệm, thương yêu, lắng nghe sâu, và ái ngữ. Mỗi người phải đóng góp với tư cách là một công dân, một người con trong gia đình của nhân loại. Trong tiến trình xây dựng cộng đồng, chúng ta sẽ xây đắp chuyển hóa và chữa trị cần thiết cho sự chuyển hóa và chữa trị của toàn thế giới. Đây là một tiến trình đào luyện và học hỏi. Khi nói chúng ta nên nói trong tinh thần của tuệ giác tập thể nhân loại. Khi đi chúng ta không đi một cách đơn độc mà đi cho tổ tiên, cho cộng đồng. Khi thở, hãy thở cùng thế giới. Khi buồn giận, hãy để cho cộng đồng cùng chung giải tỏa, ôm ấp buồn giận của riêng ta. Nếu làm được như thế trong một ngày, thì đã có chuyển hóa cho riêng ta. Hãy là cộng đồng và hãy để cộng đồng là ta. Đây là một sự thực tập đích thực. Hãy như là một dòng sông nhập vào biển cả. Hãy như con ong, con chim bay thành đàn. Thấy mình trong tập thể và thấy tập thể trong mình. Đây là một tiến trình thay đổi tầm nhìn của bạn. Sự thay đổi ấy sẽ đưa đến sự thay đổi tập thể và bảo đảm hiệu lực của sự thay đổi ấy.

Sáu câu thần chú ái ngữ

Mỗi khi ta cảm thấy cô đơn, không được ai nâng đỡ thì hãy nhớ rằng đó chỉ là một ý niệm. Ý niệm ấy không đúng sự thật. Hãy nhìn hàng cây ngoài sân. Cây đang nuôi dưỡng ta bằng vẻ đẹp, tươi mát, và dưỡng khí. Sự có mặt nuôi dưỡng ấy cũng là một hình thức của yêu thương. Không khí mát ngoài trời, thảo mộc nuôi dưỡng, dòng nước chảy vào lòng bàn tay từ vòi nước, tất cả đều nâng đỡ, hỗ trợ ta.

Nhiều người khác đã hỗ trợ ta, thương yêu ta bằng nhiều cách mà không cần nói ra rằng, “Tôi thương yêu anh”. Có nhiều người không bao giờ nói với ta câu “Tôi thương yêu anh”, nhưng ta biết rằng họ thương yêu chúng ta. Khi còn là một sa di trẻ, tôi có một vị thầy mà tôi biết rất rõ là thầy tôi yêu thương tôi, nhưng không bao giờ nói với tôi câu “Thầy thương con”. Thói thường là như thế. Nếu nói ra câu thương yêu, lời thương yêu thì cơ hồ sẽ đánh mất đi một điều gì linh thiêng. Đôi khi, ta cảm thấy biết ơn một ai nhưng ta muốn tỏ lòng biết ơn không chỉ bằng câu “Xin cảm ơn”. Hãy để ý có những cách mà người khác đã bộc lộ thương yêu mà không nói lên lời thương yêu. Cũng như thân cây, họ đã nâng đỡ, thương yêu ta bằng nhiều cách khác.

Cũng như thế, người mà ta thương yêu không biết rằng ta thương yêu họ. Nhiều lúc chúng ta muốn nói cho một ai biết là chúng ta lo lắng, thương yêu họ nhưng chúng ta không biết nói lời thế nào để cho người kia hiểu thấu tâm tình của ta.

Sáu câu thần chú là sáu câu thể hiện ái ngữ, để chứng tỏ cho một ai đó là chúng ta biết người ấy có đó trước mắt ta, là chúng ta cảm thông và lo lắng cho người ấy. Trong đạo Bụt, chúng ta gọi sáu câu ấy là sáu câu thần chú, sáu câu làm nên phép lạ bởi vì chúng có thể làm cho hạnh phúc hiển hiện tức thì.

Cũng như các thực tập khác, bạn hãy bắt đầu bằng hơi thở chánh niệm để thực sự có mặt. Rồi bạn đến với người kia, hoàn toàn trong chánh niệm, quyết tâm truyền thông với tâm thương yêu. Bạn có thể thở vào thở ra ba lần trước khi nói lên câu thần chú. Thở vào thở ra ba hơi thở là cần thiết. Ba hơi thở sẽ làm cho bạn bình tĩnh và cũng làm cho người kia bình tĩnh. Cho nên bạn biết rằng khi đến với một ai, bạn phải tươi mát, bình an và cống hiến cho người đó sự tươi mát và bình an.

Muốn cho câu thần chú có hiệu quả thì trước hết phải thở hơi thở chánh niệm, phải tươi mát trước khi nói câu thần chú. Hãy nhìn vào mắt người kia và nói lên câu thần chú. Câu thần chú có thể rất ngắn, chỉ có năm ba chữ nhưng khi nói lên bạn thực sự có mặt với người thương của bạn.

Câu thần chú thứ nhất

Câu thần chú thứ nhất là: “Anh đang có mặt đây cho em”.

Đây là món quà quý nhất mà mình có thể dâng hiến cho người mình thương. Không có gì quý hơn là sự có mặt. Dù cho mua tặng người thương một món quà đắt tiền cũng không có món quà nào quý hơn sự có mặt. Sự có mặt của ta đem đến tươi mát, vững chãi, tự do và bình an. Món quà ấy sẽ tăng thêm hạnh phúc cho người ta thương và cho chính ta. “Anh đang có mặt đây cho em.”

Thương yêu một ai là có mặt đó cho người mình thương. Có mặt là một nghệ thuật. Bạn có mặt đó một trăm phần trăm cho người bạn thương hay không? Sử dụng hơi thở chánh niệm, bước chân chánh niệm, đem tâm về với thân để phục hồi chính mình và có mặt thực sự trong hiện thực, bây giờ và ở đây. Được như thế, có mặt cho mình và người mình thương là một hành động thương yêu.

Bạn cũng có thể sử dụng câu thần chú ấy cho chính bạn. Khi tự nói lên câu “Anh đang có mặt đây cho em” có nghĩa là tôi đang có mặt cho tôi. Tâm tôi trở về với thân tôi và tôi ý thức là tôi có một cơ thể. Đây là một phép thực tập thương yêu chính mình. Nếu bạn có khả năng có mặt với chính bạn thì bạn có khả năng có mặt với người thương của bạn.

Đây là một thực tập rất dễ chịu. Thở vào thở ra để đem tâm về với thân là một hành động rất dễ chịu. Bạn thưởng thức hơi thở, bạn thưởng thức cơ thể bạn, tâm thức bạn và câu thần chú đó sẽ có ảnh hưởng đến những người chung quanh bạn.

Bạn không cầu mong rằng sự thực tập của bạn sẽ được đáp ứng. Người kia không cần phải nói lại với bạn một điều gì cả. Khi nói lên câu thần chú, cả hai bên đều được lợi. Câu thần chú sẽ giúp bạn và người kia trở về với chính mình và về hiện tại với thời khắc mà bạn nói lên câu thần chú. Cho nên ảnh hưởng được tăng gấp đôi. Chúng ta thường nói thương yêu bắt nguồn từ hiểu biết, nhưng làm sao ta có thể hiểu nếu ta không có mặt? Tâm của ta phải có mặt bây giờ và ở đây trước khi nói lời yêu thương. Vậy thì định nghĩa thứ nhất của tình yêu là sự có mặt. Làm sao ta có thể thương yêu nếu ta không có đó? Thương yêu là có đó. Chòm cây ngoài cửa sổ đang có đó, hỗ trợ ta. Ta có đó cho ta và cho người ta thương như thân cây kia. Thực tập chánh niệm là nền tảng của tình yêu. Ta không thể yêu thương đúng nghĩa và sâu đậm nếu không có chánh niệm. Mặc dù khi ta nói câu “Anh đang có mặt đây cho em”, người kia không cần phải có mặt ở đó. Ta có thể sử dụng điện thoại. Cầm điện thoại trong tay, ta thở vào thở ra vài hơi thở để trở về với mình, với tâm bình an. Khi điện thoại reo, ta tiếp tục thở trong chánh niệm. Khi người kia bắt máy, ta sẽ hỏi người kia có rảnh một hai phút hay không. Rồi ta sẽ nói lên câu thần chú “Anh đang có mặt đây cho em”. Nếu ta có thực tập thì cách ta nói sẽ chứng tỏ cho người kia là ta đang bình tĩnh, và thực sự có mặt.

Câu thần chú thứ hai

Không nên sử dụng câu thần chú thứ hai này nếu chưa thực tập câu thần chú thứ nhất và thực sự có mặt. Vì chỉ khi đã thực sự có mặt bây giờ và ở đây thì ta mới có thể nhận diện sự có mặt của người kia. Câu thần chú thứ hai là: “Anh biết em có đó, anh rất hạnh phúc”. Ta muốn cho người thương của ta biết rằng sự có mặt của người ấy là rất quan trọng cho hạnh phúc của ta.

Câu thần chú thứ hai xác nhận rằng ta đã thực sự thấy người ấy. Đây là một điều tối quan trọng bởi vì nếu có một ai không ngó ngàng tới ta thì ta không thể nào cảm nhận được là người kia thương yêu ta. Ta có thể nghĩ rằng người thương của ta đang vì bận tâm tới một việc gì cho nên không thấy được ta. Người thương của ta có thể đang lái xe mà tâm lo nghĩ về những chuyện gì khác và không biết rằng có ta ngồi một bên trong xe. Ta không được người kia chú ý tới. Thương yêu có nghĩa là ý thức sự có mặt của người mình thương và ghi nhận rằng sự có mặt của người ấy là quý báu vô cùng. Ta sử dụng năng lượng của chánh niệm để ghi nhận và ôm ấp sự có mặt của người ta thương. Ôm ấp trong chánh niệm như thế sẽ làm cho người kia tỏa rạng như một bông hoa.

“Tôi biết em có đó và tôi rất hạnh phúc.” Câu thần chú này xác nhận lại một lần nữa rằng người kia là rất quan trọng cho ta. Câu thần chú thứ hai này, cũng như câu thần chú thứ nhất, chỉ có hiệu quả nếu ta theo dõi hơi thở có ý thức khi nói. Hãy tưởng tượng là người kia không có mặt lúc đó, người kia đã đi xa hay quá vãng. Ta có thể cảm thấy thiếu sót. Bây giờ người kia đang có đó trước mắt ta và ta rất hạnh phúc. Vì vậy mà ta phải thực tập câu thần chú thứ hai này để tự nhắc nhở rằng sự có mặt của người kia là một món quà rất quý báu cho ta.

Khi một ai nói với ta là người ấy thương yêu ta nhưng không đếm xỉa gì tới ta, không biết rằng ta có mặt tại đó thì ta không thể nào cảm nhận tình yêu của người ấy. Cho nên, nếu ta thương yêu ai thì phải ghi nhận rằng sự có mặt của người ấy là vô cùng quý giá cho ta. Câu thần chú thứ hai này cần được thực tập mỗi ngày, nhiều lần trong ngày. “Tôi biết em có đó và tôi rất hạnh phúc.”

Câu thần chú này, cũng như câu thần chú thứ nhất, có thể nói lên bất cứ lúc nào – trong sở làm, trong bữa ăn, hay qua điện thoại. Ta cũng có thể gửi qua email cho một người ở xa, hay lâu không gặp. Hai câu thần chú ấy nếu chưa quen nói thì khi nói ra lần đầu có vẻ “ngượng ngập”, nhưng khi thấy rõ hiệu quả thì dễ nói ra hơn. Với hai câu thần chú này, ta và người kia có thể cảm thấy hạnh phúc ngay lập tức, nhanh hơn cả ly “cà phê uống liền” (instant coffee). Nhưng ta phải nhớ một điều, một câu thần chú chỉ có hiệu quả khi ta biết thể hiện sự có mặt của mình và nói lên trong chánh niệm.

Câu thần chú thứ ba

Hai câu thần chú thứ nhất và thứ hai có thể nói lên bất cứ lúc nào, trái lại, với câu thần chú thứ ba, bạn chỉ nói lên khi cảm thấy người kia đang đau khổ. Câu thần chú thứ ba này có thể giúp người kia bớt đau khổ ngay. “Tôi biết em đang đau khổ, và vì vậy tôi đang có mặt cho em.”

Nhờ có chánh niệm mà ta có thể biết rằng có điều gì không hay, không tốt đã xảy ra cho người ta thương. Mỗi khi người ta thương đau khổ, ta có xu hướng muốn làm một việc gì để giúp người ấy. Nhưng ta không cần phải làm gì nhiều, ta chỉ cần có mặt đó cho người ta thương. Đây là tình yêu chân thật. Tình yêu chân thật cần có chánh niệm.

Khi ta đau khổ mà người ta thương không hề biết tới, ta sẽ đau khổ nhiều hơn. Trái lại, khi người kia biết là ta đang đau khổ và có mặt ở đó với ta thì ta sẽ bớt đau khổ tức thì. Không phải mất nhiều thì giờ. Vậy thì ta hãy sử dụng câu thần chú này để giúp người khác bớt đau khổ.

Câu thần chú thứ tư

Câu thần chú thứ tư là câu khó nhất cho những người nhiều tự ái. Ta sử dụng câu thần chú thứ tư này khi ta đau khổ và tin rằng người kia đã làm cho ta đau khổ. Điều này thỉnh thoảng có thể xảy ra. Nếu có một người mà ta không gần gũi gì mấy và không mấy để tâm đã nói ra một điều gì hay làm một việc gì trái chống thì ta sẽ không đau khổ gì lắm. Nhưng nếu người mà ta thương yêu nói lên lời chỉ trích, trách móc thì ta sẽ vô cùng đau khổ. Nếu vì đau khổ và không nhìn sâu vào nỗi khổ của mình, mở lòng thương mình và thương người ấy thì ta sẽ có ý trừng phạt người đã làm cho ta khổ. Khi ta đau khổ thì ta thường nghĩ rằng lỗi là do ở người kia bởi vì người ấy đã không hiểu rõ hay thương yêu ta đủ. Nhiều người trong chúng ta thường có xu hướng muốn trừng phạt người khác. Một lý do khiến ta muốn trừng phạt người khác là để chứng tỏ rằng ta có thể sống mà không cần đến người ấy.

Nhiều người đã phạm lỗi lầm ấy. Chính tôi cũng phạm lỗi lầm ấy. Nhưng mà chúng ta học được bài học. Chúng ta muốn chứng tỏ cho người kia biết rằng không có người ấy thì chúng ta vẫn sống còn như thường. Đó là một cách gián tiếp để nói rằng: “Tôi không cần anh”. Nhưng sự thật không phải là như thế. Sự thật là khi đau khổ chúng ta cần đến những người khác.

Khi đau khổ, ta phải nói cho người khác biết là ta đau khổ và cần được giúp đỡ. Thường thì chúng ta làm ngược lại. Ta không muốn tìm giúp đỡ nơi người khác. Vì vậy, ta cần đến câu thần chú thứ tư: “Tôi đang đau khổ, xin hãy giúp tôi!”.

Nếu ta không thực tập câu thần chú ấy thì ta sẽ đau khổ. Nếu có người nhận biết là ta đang đau khổ, muốn an ủi ta và hỏi ta: “Anh đang đau khổ phải không?” thì ta có xu hướng trả lời: “Đau khổ à? Tại sao tôi lại đau khổ?”. Ta biết rằng nói như thế là không thật. Ta đang khổ hết mức mà vẫn giả vờ là không khổ. Ta chối bỏ sự thật để trừng phạt người kia. Nếu người ấy đến đặt bàn tay lên vai ta thì ta hất tay người ấy đi. “Để tôi yên. Tôi có can chi đâu!”. Nhiều người trong chúng ta đã phạm lỗi lầm như thế. Nhưng chúng ta có thể học hỏi.

Khi thực tập câu thần chú thứ tư này, ta sẽ xử lý ngược lại. Ta phải thừa nhận đau khổ của ta. Câu thần chú này có thể nói dài hơn nếu cần: “Tôi đang đau khổ. Tôi muốn anh biết cho tôi điều đó. Tôi không hiểu tại sao anh lại nói như thế, làm như thế. Xin nói cho tôi biết và xin giúp tôi”. Đó là tình yêu đích thực. Câu “Tôi không đau khổ, tôi không cần ai giúp” không phải là ngôn ngữ của tình yêu đích thực. Mai đây, khi ta cho rằng ta đau khổ vì một ai đó thì hãy đọc lại câu thần chú thứ tư này để biết là ta phải xử lý như thế nào.

Theo thực tập tại Làng Mai, ta có quyền đau khổ hai mươi bốn giờ nhưng không được lâu hơn. Thời hạn chót là hai mươi bốn giờ và ta phải thực tập câu thần chú thứ tư này trước thời hạn đó. Ta có điện thoại. Ta có máy vi tính. Tôi tin chắc rằng mỗi khi ta quyết định nói ra hay viết vào máy niềm đau nỗi khổ của ta thì ta sẽ cảm thấy nhẹ bớt khổ đau tức khắc. Nếu ta không đủ bình tĩnh để thực tập câu thần chú thứ tư thì hãy viết lên giấy tâm tư đau khổ của mình và để lên bàn hay một nơi nào để người kia có thể thấy và đọc được.

Câu thần chú này có thể chia ra làm ba phần.

Phần thứ nhất của câu thần chú là “Tôi đang đau khổ và tôi muốn anh biết cho tôi điều đó”. Đó là chia sẻ tâm tình với người mình thương. Chia sẻ lúc hạnh phúc cũng như lúc đau khổ.

Phần thứ hai của câu thần chú là “Tôi sẽ cố gắng”. Nghĩa là “Tôi sẽ thực tập chánh niệm và khi tôi giận, tôi sẽ không nói lên điều gì có thể gây xúc chạm cho tôi và cho người kia. Tôi sẽ thực tập hơi thở chánh niệm, bước chân chánh niệm và nhìn sâu vào niềm đau nỗi khổ của tôi để tìm ra cội nguồn của khổ đau. Tôi nghĩ rằng anh đã làm cho tôi đau khổ nhưng tôi biết rằng tôi không nên tin chắc là như thế. Tôi sẽ nhìn sâu để xem đau khổ của tôi có phải là do một ý niệm sai lầm hay không. Có thể anh đã không cố ý nói ra những lời lẽ như thế, anh không muốn hành động như thế. Tôi sẽ cố gắng thực tập nhìn sâu hết lòng để nhìn ra cơn giận của tôi và ôm ấp cơn giận của tôi với tất cả sự hiền dịu.”

Phần thứ hai của câu thần chú này cũng là “lời mời người kia cùng thực tập như mình”. Khi người kia nhận được bức thư thì người ấy có thể tự nhủ: “Trời ơi, tôi không biết là anh ta đã đau khổ như thế. Tôi không biết là tôi đã nói gì hay làm gì mà anh ta đã đau khổ như thế”. Đó là một lời mời mọc để người kia thực tập nhìn sâu. Nếu một trong hai người tìm ra được nguyên nhân thì người ấy phải tức thời đến với người kia để nhận lỗi và xin lỗi rằng mình đã không khéo léo và để cho người kia bớt khổ.

Vậy thì phần hai của câu thần chú này là nhằm khuyến khích cả hai bên thực tập nhìn sâu để biết việc gì đã xảy ra và tìm hiểu nguyên nhân chính xác đã gây nên đau khổ. Đây là một lời ghi nhận rằng người kia đang tỉnh thức và đang thực tập hết lòng, cũng như ta đang thực tập hết lòng.

Phần thứ ba của câu thần chú là “Xin giúp tôi”. Phần này có ý nghĩa là ta không thể tự mình tìm ra nguyên do. Cả hai bên cần giúp nhau. Đây có thể là phần khó nhất của câu thần chú.

Tóm lại, câu thần chú thứ tư là: “Tôi đang đau khổ. Tôi muốn anh biết cho tôi điều đó. Tôi cố gắng hết lòng. Xin hãy giúp tôi”.

Câu thần chú thứ năm

Câu thần chú thứ năm là “Đây là giây phút hạnh phúc”. Khi gần một người ta thương, ta có thể nói lên câu thần chú này. Đây không phải là tự kỷ ám thị hay là mơ ước bởi vì những điều kiện của hạnh phúc đang có đó. Nếu ta không chánh niệm thì ta không thể nhận ra. Câu thần chú này cũng nhắc nhở ta đã may mắn có được biết bao điều kiện hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Chúng ta thở và cảm thấy rất dễ chịu. Chúng ta đang còn có nhau. Chúng ta có bầu trời xanh và quả địa cầu nuôi dưỡng. Cùng ngồi, cùng đi với người kia bạn có thể đọc lên câu thần chú này để cảm thấy là bạn hạnh phúc biết chừng nào.

Để biết được đây là một giây phút hạnh phúc đòi hỏi chúng ta phải có chánh niệm. Ta cũng như người thương của ta có thừa điều kiện để được hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Nhờ chánh niệm mà giây phút này đã trở thành giây phút mầu nhiệm. Chúng ta có thể thực tập để chế tác hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Tại sao chúng ta trông chờ để được hạnh phúc? Tại sao cứ mãi trông chờ? Với chánh niệm, ta có thể có hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây.

Câu thần chú thứ sáu

Ta sử dụng câu thần chú này khi có một ai khen ngợi hay chỉ trích ta. Trong cả hai trường hợp đều có thể áp dụng như nhau.

Câu thần chú thứ sáu là “Anh có thể đúng một phần nào”.

Tôi có lẫn ưu điểm cũng như khuyết điểm. Nếu ai khen, tôi sẽ không quá tự hào mà quên những yếu kém của tôi. Nếu ai chỉ trích, tôi sẽ không bị ám ảnh mà không biết rằng tôi còn có những điểm tích cực.

Khi ta chỉ nhìn vào những gì tốt đẹp nơi một người khác, ta có xu hướng bỏ qua những gì không mấy tốt đẹp nơi người ấy. Là con người, chúng ta đều có ưu điểm và khuyết điểm. Cho nên, nếu có ai ca tụng ta quá lời, cho rằng ta là tuyệt hảo thì ta có thể nói: “Bạn có thể đúng một phần nào đấy thôi. Bạn cũng biết đấy, rằng tôi còn có những yếu kém”. Như thế, ta sẽ giữ được thái độ khiêm nhường. Ta sẽ không trở thành nạn nhân của ảo tưởng tự cao bởi vì ta biết là ta không hoàn hảo. Đây là một điểm quan trọng. Khi nói lên câu thần chú thứ sáu, ta tỏ thái độ khiêm nhường.

Cũng vậy, nếu có ai chỉ trích ta, ta có thể trả lời rằng người ấy chỉ mới thấy được một phần của sự thật mà không thấy những ưu điểm của ta. “Bạn chỉ mới nói lên một phần sự thật mà thôi. Trong tôi còn có những ưu điểm nhưng bạn không thấy đấy thôi!”

Nếu có ai chỉ trích ta thì ta có thể trả lời: “Anh chỉ nói đúng một phần nào thôi. Tôi cũng có nhiều điểm tích cực”. Ta có thể trả lời như thế trong im lặng hay nói lên bằng lời nhã nhặn: “Anh chỉ thấy một phần của tôi thôi, không phải toàn phần của tôi. Trong tôi có nhiều điều tích cực hơn nhiều lắm”.

Câu thần chú thứ sáu là sự thật. Ta không nói dối và không khiêm nhường giả dối. Ta chỉ nói lên câu thần chú, nói cho người kia nghe hay nói thầm với mình. Trong ta có nhiều đức tính tốt đẹp mà cũng có nhiều thiếu kém. Ta chấp nhận cả hai. Nhưng chấp nhận như thế không cản trở ta phát triển những đức tính tốt hay ngăn ngừa những thiếu kém.

Chúng ta có thể sử dụng phương pháp ấy khi suy xét một người khác. Ta chấp nhận người khác cũng như ta chấp nhận chính ta. Ta biết rằng những gì người ấy biểu hiện chỉ là một phần của người ấy. Trước khi phán xét la mắng một người khác, ta phải nhìn sâu. Có người rất nhạy cảm. Chỉ một lời trách móc nhẹ cũng đủ làm cho người ấy khổ sở. Chúng ta chấp nhận chính mình với tất cả yếu kém và sẽ được bình an. Ta không phán xét ta. Ta chỉ chấp nhận. Tôi có những đức tính và những yếu kém, nhưng từ từ tôi sẽ cải thiện. Nếu nhìn vào ta như thế thì ta cũng sẽ nhìn người khác như thế, nghĩa là không phán xét. Mặc dù người kia có nhiều yếu kém nhưng người ấy cũng có nhiều tài năng, nhiều điểm tích cực. Không ai là không có những điểm tích cực. Cho nên nếu có ai phán xét ta một cách sai lầm thì ta phải nghĩ rằng người ấy chỉ nói đúng một phần nào mà thôi. Người ấy chỉ thấy một khía cạnh nào đó của ta chứ không phải toàn thể con người của ta. Và ta không vì thế mà đau khổ.

Chúng ta có thể sử dụng sáu câu thần chú này để thắt chặt mối quan hệ của chúng ta với người khác. Elizabeth, một người bạn của tôi, gần đây có chia sẻ với tôi rằng cô ấy đã sử dụng các câu thần chú ấy trong nhiều trường hợp. Cô có một người chị lớn hơn cô một tuổi. Hai người cùng lớn lên. Nhưng qua năm tháng, khi trưởng thành Elizabeth có tính hay “lên tiếng dạy dỗ” chị, khuyên bảo chị làm này nọ, khiến cho người chị lắm khi phản ứng mạnh.

Nhờ thực tập chánh niệm mà Elizabeth đã ý thức hơn về những điều mình sắp nói. Cô biết thay đổi thói quen là rất quan trọng. Khi đến thăm chị, Elizabeth thực tập câu thần chú thứ hai: “Em biết chị có đó và em rất hạnh phúc”.

Elizabeth cảm nhận sự có mặt của chị cô ấy, trong thâm tâm cô ấy trân quý sự có mặt của chị trong đời sống của mình, và biết rằng chị mình đã cố gắng hết lòng.

Elizabeth cũng đã áp dụng câu thần chú trong đời sống vợ chồng. Mới đầu, mỗi khi chồng nói một điều gì làm cô bực mình thì cô tức thì phản ứng với ý muốn trừng phạt. Bây giờ thì cô đã dịu dàng đến với chồng và sử dụng câu thần chú thứ tư: “Anh nói gì mà em không hiểu lắm. Anh nói lại cho em nghe đi!”. Chồng của Elizabeth sẽ trả lời và thường thường thì cô khám phá ra rằng lời chồng nói không liên quan gì mấy tới mình. Nhiều lúc chỉ là vì một chuyện gì khác. Câu thần chú này đã “mở cửa” để cô thấy việc gì đang xảy ra cho chồng.

Nhiều khi Elizabeth nói với chồng một điều gì khiến chồng phản ứng mạnh và cô đã phản ứng trở lại. Nhưng rồi cô thực tập câu thần chú thứ ba: “Em biết anh đang đau khổ và em có mặt đây cho anh”. Cô hỏi chồng: “Anh giận có phải là vì điều em nói hay không? Em thực sự muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Em xin lỗi. Em không có ý làm cho anh giận. Anh cho em biết để em hiểu vì sao điều em nói đã làm cho anh giận”.

Elizabeth cũng nói với tôi về một việc xảy ra khi cô ở Làng Mai. Tại vườn hoa trong làng, cô đã hái những cánh hoa hồng sắp rụng để nấu trà. Một bác làm vườn thấy thế đã nặng lời trách cô, đáng lẽ ra là để hoa cho tất cả mọi người cùng ngắm. Elizabeth trả lời rằng cô không hái những cánh hoa tươi mà chỉ hái những cánh hoa héo. Nhưng bác làm vườn vẫn không bằng lòng. Elizabeth đến tham vấn một sư cô trong làng. Sư cô cắt nghĩa rằng gần đây có người đã ngắt hoa hồng cho riêng mình và bác làm vườn rất bực mình. Sư cô nói, “Chỉ vì chị gặp lúc bác làm vườn đang bực mình”. Sau đó, Elizabeth đã tới gặp bác làm vườn và nói, “Tôi đã hiểu tình trạng đã xảy ra trước đây. Từ nay, nếu bác muốn, tôi sẽ không ngắt hoa nữa đâu!”. Bác làm vườn đang chuẩn bị một chuyến đi sang Đức. Elizabeth thực tập câu thần chú thứ nhất: “Tôi có mặt đây cho bác” và nói với bác làm vườn rằng trong thời gian ông vắng mặt, cô ấy tình nguyện tưới vườn và chăm sóc các cây hoa hồng.

Một thiền sinh khác của khóa tu chia sẻ rằng anh đã rất đau khổ trong khóa tu. Anh đã thực tập câu thần chú thứ tư: “Tôi đang đau khổ, xin giúp tôi” và nói với người bạn cùng phòng rằng anh không muốn nói chuyện nhiều mà chỉ muốn có không gian cho riêng mình. Điều này giúp những người bạn cùng phòng hiểu chuyện gì đã xảy ra, không lấy làm phiền lòng và chấp nhận rằng anh ta không muốn gần gũi thân mật với các bạn cùng phòng. Biết được ý muốn của anh bạn thiền sinh và nhu cầu được giúp đỡ của anh đã giúp ích rất nhiều.

Câu thần chú thứ sáu là một câu mà ai cũng có thể thực tập được trong gia đình. Trẻ em cũng thực tập được. Lắm lúc trẻ em cảm thấy bất lực trong gia đình. Với chánh niệm, chú tâm và thực tập câu thần chú thứ sáu, các em đó có phương cách xử lý. Nói lên câu thần chú thứ sáu với tất cả thương yêu và sự có mặt của mình, các em có thể thay đổi tình hình – có khi rất căng thẳng – tức khắc. Câu thần chú ấy cũng giúp cho cha mẹ nói lên những lời yêu thương thay vì nghiêm khắc khi nói chuyện, dạy dỗ con cái. Khi gia đình không có quan hệ tốt đẹp giữa cha mẹ và con cái, cả hai bên đều đau khổ, câu thần chú thứ sáu là cơ hội thực tập ái ngữ, lắng nghe sâu và mở lối truyền thông. Nhờ đó mà có sự cảm thông, hiểu biết nhau và tình yêu sẽ là tình yêu chân thật vì đã được xây dựng bằng sự hiểu biết.

Truyền thông với tâm thương yêu trong các quan hệ tình cảm

Sử dụng được sáu câu thần chú với người mình thương là xây đắp một mái ấm. Lắng nghe mình với tâm thương yêu là trở về với mái ấm. Sử dụng truyền thông với tâm thương yêu với người thương là mời người ấy trở về với mái ấm. Bởi vì người thương của ta cũng cần một mái ấm, một nơi để ẩn trú. Khi ta đã có một mái ấm để trở về thì ta sẽ có thể giúp người kia. Ta vững tin và giúp người ấy vững tin. Người ấy sẽ tìm về với ta như là một tổ ấm, nương tựa ta để xây đắp một mái ấm cho riêng mình.

Ta không cần một chiếc iPhone để làm việc đó. Ta cần đôi mắt để nhìn người ấy với thương yêu. Ta cần đôi tai để lắng nghe với thương yêu và cái miệng để nói lời ái ngữ. Khi người thương của ta có thể trở về với mình thì mối quan hệ của ta với người ấy là một quan hệ chân thật, bởi vì ta và người ấy đều cùng trở về với chính mình dưới một mái ấm. Đừng ngần ngại dành cho người kia một không gian riêng để họ có thể trở về lắng nghe mình. Khi ta cũng có không gian cho riêng ta thì ta có thể tìm thấy mái ấm trong ta và cả trong người kia. Đây là một mái ấm chung cho cả hai người cùng chia sẻ. Mái ấm là nền tảng của tất cả mọi quan hệ của ta. Nếu ta muốn giúp cộng đồng xã hội, hay quốc gia thì trước hết ta phải có một mái ấm để làm cứ địa. Khi ta đã có một mái ấm thực sự trong ta và trong mái ấm đó ta cảm thấy hạnh phúc, vững chãi, an ninh thì khi đó ta có đủ điều kiện để đi ra giúp đỡ và xây đắp một cộng đồng đầy từ bi, thương yêu.