Xin trả về cho non sông cho nhân loại cho đồng bào
bốn đứa em chết đêm qua
một đứa tên Hy
một đứa tên Tuấn
một đứa tên Thơ
một đứa tên Lành
tôi xin cáo với đồng bào, với đất nước,
với các chị các anh.
bốn đứa con trai, đầu còn rất xanh
hai năm trước
chúng nghe lời tôi
ra đi, vào lòng đất nước
mong gieo rắc tin yêu
xây dựng hòa bình
xương các em là xương tôi
thịt các em là thịt tôi
xương tôi tan
thịt tôi nát
nửa đêm chúng bắt các em
đầu trần chân đất
đi tới bờ sông
chúng bắt các em quỳ xuống
chúng hỏi
có phải thanh niên phụng sự xã hội không
các em nói có
chúng bắn các em ngã quỵ bên bờ sông
chúng bắn tôi ngã quỵ bên bờ sông
có mặt đồng bào
có mặt các chị các anh
máu của các em, tôi xin trả về cho non sông
xương của các em, tôi xin trả về cho non sông
máu xương đó trinh nguyên
chưa bao giờ làm hoen ố giống Lạc Hồng
còn những bàn tay các em,
tôi xin trả về cho nhân loại
trái tim các em, tôi xin trả về cho nhân loại
những bàn tay kia chưa bao giờ gây tàn hại
những trái tim kia từ thơ ấu
chưa bao giờ nhận gửi máu hờn căm
còn da các em đây, xin gửi trả về cho đồng bào
các em chưa bao giờ chấp nhận
cảnh nồi da xáo thịt
xin hãy dùng những mảnh da của các em đây
mà vá lại
những đường rách, những vết cắt rướm máu
trên thân hình dân tộc thương đau.
Bài này đã được nữ ca sĩ Nadia Cattouse trình bày tại đại nhạc hội ngày 19 tháng 3 năm 1971 tại nhà hát Queen Mary Hall Luân Đôn. Bữa đó tôi được anh David Harrding, trưởng ban tổ chức đại nhạc hội, mời lên mở đầu nhạc hội bằng một bài hát Việt Nam. Tôi lựa bài Người già em bé của Trịnh Công Sơn. Giọng Nadia Cattouse bữa đó thật cảm động và diễn tả khá xuất sắc ý bài thơ. Tôi đã suýt chảy nước mắt khi nghe lại bài này, dù là bằng tiếng Anh. Sau đó trọn chương trình đại nhạc hội này được thu vào một đĩa hát. Tiền bán vé và bán đĩa hát đã được gửi về cho công tác xã hội của Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ở nhà.
Phong trào Thanh niên Phụng sự Xã hội tuy chính thức được khai sinh năm 1965 nhưng kỳ thực đã được thai nghén từ khoảng 1960 – 1961. Hồi đó bọn sinh viên chúng tôi còn theo một lớp Phật học do thầy Nhất Hạnh hướng dẫn. Chúng tôi thao thức tìm cách thể hiện lý tưởng từ bi bởi vì chúng tôi nhận thấy từ bi là chất liệu căn bản trong nền đạo lý cổ truyền của dân tộc. Chúng tôi chọn những xóm nhà nghèo đói nhất tại thủ đô để làm môi trường hoạt động và hơn ba năm trời hoạt động chúng tôi nhận thấy chỉ có thể làm vơi bớt một ít khổ đau của đồng bào nghèo đói bệnh tật tại các môi trường đó mà không thể chuyển đổi được tình trạng của môi trường này. Chúng tôi thường họp hội thảo với nhau để tìm những phương thức mới. Đầu năm 1964, thầy Nhất Hạnh đề nghị một chương trình đặt trọng tâm vào sự phát triển cộng đồng hương thôn vốn là cơ bản của xã hội Việt Nam. Thực hiện chương trình này từ tháng Giêng 1964, chúng tôi bắt đầu thiết lập một số làng thí nghiệm mà chúng tôi gọi là làng hoa tiêu trong đó có hai làng Cầu Kinh và Thảo Điền không xa cách thủ đô mấy. Một năm sau đó, thấy kết quả của các làng hoa tiêu, chúng tôi thành lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội trong khuôn khổ Viện Đại học Vạn Hạnh. Khóa đầu, có tới trên một ngàn thanh niên, thiếu nữ và tăng ni trẻ tuổi ghi tên nhưng trường chỉ có thể thu nhận được ba trăm người. Một ngàn hai trăm gia đình Phật tử trên toàn quốc đã ký giấy ưng thuận đóng góp hằng tháng từ ba chục đồng đến một ngàn hai trăm đồng để chịu phần chi phí cho trường. Có những bà bán thuốc lá trên những vỉa hè thành phố, những cô dì bán rau cải ở chợ Cầu Muối mà cũng hoan hỉ đóng mỗi tháng ba mươi đồng cho các cô các cậu và quý tăng ni đi làm công tác xã hội giúp nước giúp dân. Đây là phong trào xã hội duy nhất tại miền Nam Việt Nam đã được nuôi dưỡng bằng tài chánh của quần chúng Việt Nam. Trường này không hề nhận tài trợ của Bộ Xã hội chính phủ Việt Nam Cộng hòa hoặc những chương trình xã hội được chính phủ Hoa Kỳ tài trợ. Năm nào trường cũng đào tạo thêm trợ tác viên tùy theo nhu yếu công tác địa phương và tài chánh của trường. Mãi đến năm 1968 khi số tác viên và trợ tác viên khá đông, trường mới bắt đầu nhận tài trợ của những hội đoàn nhân bản hòa bình ở hải ngoại. Các hội đoàn này hoàn toàn không dính líu gì đến những chương trình ủng hộ chiến tranh của chính phủ Hoa Kỳ và các nước liên hệ. Tới năm 1974, trường đã trở nên phần chủ lực trong Ủy ban Tái thiết và Phát triển Xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, hoạt động khắp trên lãnh thổ miền Nam. Các trung tâm định cư, làng hoa tiêu, làng tự nguyện, làng tái thiết được thực hiện khắp nơi. Số tác viên và trợ tác viên thực thụ của trường tuy có hạn nhưng nhân lực của các đoàn thể xã hội và thanh niên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại các tỉnh thị rất dồi dào. Từ 1972 trở đi, trường đã cộng tác với các cấp Giáo hội và do đó số người làm việc trong lĩnh vực tái thiết và phát triển xã hội của Phật giáo đã lên tới gần mười ngàn người. Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội được xây dựng trên lý tưởng cách mạng xã hội bất bạo động và chúng tôi đã thường tự nhắc rằng công tác xã hội của Phật giáo Việt Nam từ 1960 trở đi đã không còn có nghĩa là công tác từ thiện nữa mà đã mang màu sắc cách mạng xã hội bất bạo động và người làm công tác không phải là người ra thi ơn mà chỉ là người cộng tác với đồng bào để chuyển đổi tình trạng. V ì vậy cho nên sự hy sinh của các tác viên có thể được coi như là sự hy sinh của những chiến sĩ tranh đấu cho hòa bình chống lại ngu dốt, bịnh tật, nghèo đói.