Thử tìm dấu chân trên cát

Vô khứ lai từ

thiếu tiểu ly gia lão đại hồi

hương âm vô cải phát mao thôi

nhi đồng tương kiến bất tương thức

tiếu vấn lão tòng hà xứ lai.

lão tòng hà xứ lai

i cũng đến từ nơi em đã đến

nhưng em không nghĩ rằng chúng ta có quen nhau

tôi vuốt bộ râu tuyết sáng nay

lá non trên đọt cây

một buổi mai

mơn mởn sắc mầu

thy mình không hề quen hạt mầm năm trước

thy mình không quen gốc cũ

làng cũ tên không đổi

hai mươi năm

nay thành làng của em

trước đôi mắt ngơ ngác kia

i chỉ là ông khách lạ

một cụ già chống gậy về làng

buổi sáng mùa thu

ti hay lui

đi hay về

trong chúng ta, ai không là người qua lại?

lão tòng hà xứ lai

em không thấy

(mà sao em thấy được

bài hát ca dao xưa

nếu giờ tôi có hát

em cũng không nhìn nhận được tôi mà)

em cười khi tôi nói

đây là làng của tôi

tôi cũng cười vang

khi em nói tôi là người mới đến

bụi tre

bến nước

đình làng

còn đó – có đổi thay mà không đổi thay

(duy tên làng không thay đổi)

mt gốc măng mới

mt mái ngói đỏ

 

mt con đường nhỏ

mt đứa trẻ thơ

tôi về làm chi

nào tôi có biết

một thoáng hương xưa

người lữ khách

không chốn khởi hành

và không nơi tới

kẻ vãng lai tam giới

là ai?

 

kiếp luân hồi xưa

khoai sắn

đồng cỏ

toóc[1] rã rơm khô

bạn về quê bạn

tôi thấy khắp nơi

em thơ

mái ngói đỏ

con đường nhỏ

quá khứ tương lai nhìn mặt

bên nớ bên ni là một

nẻo về tiếp nối đường đi

Đề tài “khứ lai” (đến và đi) được tác giả đề cập đến trong nhiều bài thơ của ông. Ở trong các bài Lưu chuyển (TDD), Một mũi tên rơi hai cờ ảo tượng (CTNC) và Vô khứ lai từ (TDC) này, đề tài ấy được đề cập một cách tràn đầy nhất. Ông mượn bốn câu thơ của Hạ Tri Chương để mở đầu bài thơ của ông. Bốn câu ấy có nghĩa như sau:

Bỏ nhà ra đi từ hồi còn ấu thơ, nay trở về thì đã già,

Tên làng vẫn y cũ, chỉ có râu tóc mình đã bạc phơ 

Bọn con nít trong làng thấy mình mà không biết mình

Cho nên cười hỏi: cụ từ xứ nào mới đến?

Tác giả trả lời ngay thay cho ông lão: “Tôi cũng đến từ nơi em đã đến”. Ông dùng hình ảnh cụ già và các em bé để nói ràng ý niệm về đến và đi của chúng ta, cũng như của các em bé kết thành từ một nhận thức rất giới hạn. Một khi đã vượt ra được giới hạn này thì con người sẽ thấy quá khứ tương lai nhìn mặt”, “bên nớ bên ni là một” và nẻo về chỉ là sự tiếp nối của đường đi… Cũng nên nhắc lại là câu chót của bài thơ “nẻo về tiếp nối đường đi” đã được tác giả lấy làm đầu đề cho một vở kịch ông viết về Nhất Chi Mai. Vở kịch này đã được họa sĩ Võ Đình dịch ra tiếng Anh và được xuất bản ở Hoa Kỳ dưới nhan đề The Path of Return Continues the Journey.

  • [1] Rạ, tức phần thân bỏ đi của cây lúa, theo phương ngữ Quảng Trị.