Trời bên ấy sáng chưa
Tặng Huệ Liên
trước ngõ dòng sông cuồn cuộn
mây trắng nhẹ hồn thơ ấu
sau vườn hoa cải rực vàng
bướm lạc quê hương
vầng mộng chàng trao
mặt trời là mặt trời chung
hoa bưởi tóc em phải nào hương xa lạ
đôi tay nhỏ thay chàng khuya sớm
hồn trên nét bút
mầu pha khói sóng
thương những giờ chàng buông bút dạy con
vai gánh lấy trọn vẹn giang sơn
đòn gánh trĩu hai đầu văn hóa
đông tây tiếng gà bồn chồn tấc dạ
nghiêng gối hỏi thầm: trời bên ấy sáng chưa?
trọn một mùa đông
lửa hồng ấp ủ tin yêu
tiếng ngâm thơ vang qua trời tuyết
rau dưa nuôi lấy tương lai
mùa xuân hoa nở thắm đồi
mắt xanh vì trời xanh
hoa phượng lên rồi
nửa trời tình yêu hé mở.
Huệ Liên là nữ sĩ Helen Coutant, phu nhân của anh họa sĩ Võ Đình. Chị hiền dịu và đảm đang không thua những người đàn bà Á Đông hiền dịu đảm đang nhất. Chị nấu cơm Việt Nam rất khéo. Có lần chị đã viết bài phát biểu về thực phổ Việt Nam trong tập san Chuông Việt, cơ quan ngôn luận của sinh viên Việt Nam tại Chicago. Khi thấy bài chị đăng trên Chuông Việt, anh Võ Đình nói “hoảng”, bèn viết cho báo Chuông Việt nói: “Nhà tôi là ai mà dám lên tiếng về môn nấu ăn Việt Nam?” Tôi chắc anh Võ Đình la át chị ấy như thế cho đẹp, chứ trong thâm tâm, anh cũng tự hào về người vợ hiền thục của mình lắm lắm. Huệ Liên (Bông Sen Trí Tuệ, tên của họa sĩ đặt cho phu nhân) khuyến khích anh rất nhiều trong việc sáng tạo và biên soạn. Một trong những tác phẩm của chị là First Snow được chồng minh họa rất đẹp, do nhà xuất bản Knopt ấn hành. Chị đã dịch nhiều bài thơ của thầy Nhất Hạnh và nhà xuất bản Unicorn Press đã cho in một tập lấy tên là The Cry of Vietnam. Anh chị có hai cháu: Katherine Phượng Nam và Hannah Linh Giang. Bài Trời bên ấy sáng chưa tác giả viết tặng Huệ Liên hồi hai vợ chồng nghệ sĩ này còn cư trú tại Matamoras bên dòng sông Delaware. Lúc ấy trời đã lạnh, hoa cải đã nở sau vườn, trước mặt nhà nước sông Delaware chảy mạnh. Sau buổi cơm chiều có dưa giá chấm tương gừng, Thầy ngồi uống trà, anh Võ Đình ngâm bài Trường giang của Huy Cận, Huệ Liên ngồi bên hai mắt sáng trưng. Chị là người được hấp thụ cả hai nền văn hóa, và thương nước Việt Nam không khác gì thương Tổ quốc chị: chị ước ao chờ đêm dài chiến tranh được chấm dứt phía trời Đông.
vai gánh lấy trọn vẹn giang sơn
đòn gánh trĩu hai đầu văn hóa
Đông Tây tiếng gà bồn chồn tấc dạ
nghiêng gối hỏi thầm: trời bên ấy sáng chưa?
Chị có dịch bài thơ Trời bên ấy sáng chưa ra Anh văn như sau:
East and West
for Hue Lien
swiftly
past the front gate
the river flows,
like childhood memories
the clouds float,
in the backyard
mustard flowers ablaze
where the lost butterflies
hover
within his arms a firmament,
beneath the sun
his and mine,
grapefruit blossoms in my hair
are no strange fragance,
for him
my small hands, night and day,
trace the soul of the calligrapher
who rests his pen
to teach the child.
ancestral rivers and mountains
on my shoulders
two cultures: east and west
bend the carrying pole down,
a rooster crows,
and over pillows the hear throbs
whispers: is it dawn yet, over there?
all winter long
the red fire smolders
where our faith is warmed,
he sings poems and his voice rings clear
in snowy sky,
to keep alive the future
meals of pickles and rice,
when spring comes back to hills
the sky is blue for eyes are blue
and far away phuong buds burst forth
among the coconuts:
half a world of love
has half-way opened.
Tôi mới gặp lại Huệ Liên cách đây mấy tuần sau hơn mười năm xa cách. Vẫn người phụ nữ hiền thục ấy, vẫn đôi mắt sáng trưng ấy, lúc nào cũng lắng nghe những thao thức của người dân Việt khổ đau. Tôi biết rất rõ tiếng gà vẫn bồn chồn trong lòng chị và chắc hẳn đã nhiều lần chị nghiêng gối hỏi thầm: “Trời bên ấy sáng chưa?”