Tôi về lật lại trang xưa

bỗng nhiên tôi đón tôi trở về

dấu vết cứ điểm không còn

giấc mơ hôm qua lung linh ngàn ảo tượng

nhng bức tường che gió sương

tạo thành một không gian góc ấm

lửa nến lung linh

cười nhẹ hương trầm ngày nguyên đán

một bữa cơm trời mưa

hương tía tô

thu tóm quê nhà sắc, hương, hơi thở,

biên giới tháo tung

bàng hoàng

một buổi trưa giông tố về, chớp lòe trình bày hiện thể

mt trời hôm nay có còn mặt trời hôm nao

hoàng hôn – chim về bóng in

hai mốt thời gian nối nhau

đẩy tôi nhẹ nhàng thoát ra

ngõ mới

màn lưới giăng trời buông bắt hư không    

bỗng nhiên rủ thành tơ liễu

mấy cụm mây chiều kéo nhau

về đỉnh núi

tôi về lật lại trang xưa

lửa đốt mảnh chứng thư

a phép trần gian trước sau vẫn là vô hiệu

gió thổi mau

xa tít biển khơi, cánh chim nào vội vã

ta ở đâu?

điểm quy tụ là nhớ thương

nhà

ôi quê hương tuổi nhỏ đồi xanh um cỏ dại

lá tía tô thơm

hương mùa thu mới chín

bàn chân nhỏ lá non giọt sương

lá thư gửi về, tiếng trống cầm canh

một trời hoa vàng trong hạt cải

chắp tay tôi để hoa nở trên búp tuyệt vời.

“Một trời hoa vàng trong hạt cải”, câu này làm tôi nhớ bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Hình như “vườn cải hoa vàng” là hình ảnh quê hương rõ rệt nhất trong ký ức của tác giả. Thiền sư Khánh Hỷ đời Lý cũng có dùng hình ảnh hạt cải:

Càn khôn tận thị mao đầu thượng

Nht nguyệt bao hàm giới tử trung.

(Càn khôn đặt trọn đầu sợi tóc

Nht nguyệt nằm trong hạt cải mòng.)

Hạt cải của thiền sư Khánh Hỷ thì chứa đựng mặt trời mặt trăng, còn hạt cải của thầy Nhất Hạnh lại chứa trọn một trời hoa cải. Bài thơ Tôi về lật lại trang xưa nghe Thầy nói đã được viết trong chuyến đi vận động hòa bình năm 1971. Tháng 9 năm đó, tôi còn nhớ, chính phủ Sài Gòn báo tin cho các nước Pháp, Anh, Nhật, Mỹ, Gia Nã Đại cùng các nước Tây Âu là đã vô hiệu hóa thông hành của thầy Nhất Hạnh. Ta thấy dấu tích đó trong hai câu:

lửa đốt mảnh chứng thư

a phép trần gian trước sau vẫn là vô hiệu.

Cuộc vận động nhọc mệt, mỗi đêm ngủ tại một thành phố khác nhau, giấy thông hành vô hiệu hóa, tác giả thấy nhớ nhà, không biết đi về đâu, ao ước một bữa cơm trời mưa, hương tía tô thu tóm quê nhà sắc hương hơi thở. Nhớ nhà, chắp tay lại cầu nguyện. Hình ảnh tôi ưa thích là hình ảnh hai bàn tay úp lại thành búp sen: chắp tay tôi để hoa nở trên búp tuyệt vời.

Ảo hóa

mí mắt chân trời mỏi

đu núi nghiêng nghiêng tìm gối tựa

đêm về thơm giấc cỏ hoa

ảo hóa

bàn tay gió dậy

ngân hà nến ngọc lung linh

khung cửa lưng đồi bỏ ngỏ

sao băng vụt cháy lời kinh

vạn kiếp xoay quanh vòng mộng mị

đêm nay chợt thấy chân hình.

Bài này được làm một buổi khuya mùa thu năm 1970 dưới chân đồi Phương Vân am, nơi ẩn cư của Thầy tại rừng Othe. Ba câu thơ đầu nhẹ như gió thoảng. Bắt đầu từ câu thứ tư bỗng nhiên hơi thơ bừng dậy, khí thơ đi trang nghiêm và hùng vĩ như một thớt bạch tượng. Câu sao băng vụt cháy lời kinh giải tỏa năng lượng dồn lên từ bốn câu đi trước. Hai câu cuối trở lại sự thanh thản ban đầu nhưng tỉnh táo và khỏe khoắn dị thường. Đây là một trong những bài tôi hâm mộ nhất. Thầy có nhờ tôi gửi bài này cho thầy Đức Tâm của Trung tâm Văn hóa Liễu Quán Huế. Thầy Đức Tâm có cho biết là Thầy rất thích. Nếu chọn hai bài của thầy Nhất Hạnh để đưa vào sách Ngũ lục có lẽ tôi chọn bài này với bài Đại trượng phu.

Tác giả có phổ nhạc bài này, viết “nốt” thôi chớ không chia “tăng”, để người hát tự do. Anh Võ Đình đã minh họa bài thơ này bằng bút lông, bút sắt và mực tàu. Anh chị nữ thi sĩ Teo Savory dịch ra Anh văn như sau:

Illusion Transformed

horizon’s heavy eyelids

mountains leaning

                     seeking rest from earth’s pillow

at night fall

                     grass and flowers perfume sleep    

illusion shifts her veils

 

wind lifts up her hands

jade candles

                     shimmer in the silver river of the sky

the hillside’s open doorway frames

                     a falling star that writes

                     the sacred words in fire

ten thousands lives

                 are spinning, circling

                     dream’s illusion: the moment

                     of this night

                     reveals

         this word’s reality.

Bé đã sinh ra rồi

bé đã sinh ra rồi

chân trời xôn xao dâng ánh sáng

hoa cỏ ơi sống dậy

núi rừng ơi sống dậy

tht đã qua rồi đêm tối hãi hùng

ánh sáng dồn

trên cánh bướm mong manh

hoa cải rực vàng

trên lối cũ.

cành mai ấy

ngày tôi về trước ngõ

có rưng rưng giọt ngọc nhìn tôi cười?

đất tái sinh

cho sắc hương đoàn tụ

cho nước non này

lại thành cẩm tú

y cho hết hai bàn tay anh

cơ hội muôn thuở một lần

níu sự sống trên vành nôi ươm biếc.

Bài này tác giả làm tại Vọng Các[1] ngày 24 tháng 9 năm 1973 sau khi nghe tin hiệp định Paris được ký kết và lệnh đình chiến được ban hành. Tôi nhớ trước đó cuộc chiến ác liệt quá và mỗi khi có được hai mươi tư giờ đình chiến vào các ngày lễ lớn như Phật đản, Giáng sinh, Tết dương lịch hay ba ngày đình chiến nhân dịp Tết Nguyên đán, tất cả chúng tôi đã mừng đến chảy nước mắt rồi. Cứ tưởng tượng hai mươi bốn giờ đồng hồ không có máy bay oanh tạc, không có bom nổ, không có nhà cháy, người chết, cỏ cây cũng dám vươn mình lên thở, chúng tôi thấy được hết tất cả sự quý giá của mỗi giờ đình chiến. Trong nước và ngoài nước vận động tranh đấu bao nhiêu tháng năm, nghe tin đình chiến ai mà không mừng vui, không hy vọng.

Buổi sáng đó, khi Laura Hassler tới (Laura là người bạn gái phụ tôi tại văn phòng về văn thư Anh ngữ), tôi ôm chầm lấy cô, cả hai chị em đều chảy nước mắt. Các bạn đánh điện tới văn phòng Phái đoàn Phật giáo tại số 11 rue de la Goutte d’or Paris mừng tới tấp. Lúc đó thầy Nhất Hạnh đang ở tại Vọng Các vì nơi đây có một cuộc gặp gỡ giữa Phật giáo quốc nội và phái đoàn quốc ngoại để điều hợp công việc. Thượng tọa Thiện Hoa, viện trưởng Viện Hóa Đạo mới viên tịch trước đó vài ba ngày. Người hướng dẫn phái đoàn quốc nội là thượng tọa Huyền Quang, tổng thư ký của Viện. Cuộc họp mặt đã đi đến nhiều quyết nghị quan trọng, trong đó có chương trình thành lập Ủy ban Tái thiết và Phát triển Xã hội của Giáo hội, bản hiệu triệu của Viện Hóa Đạo nhân dịp đình chiến và sự thành lập Ủy ban Phóng thích tù nhân chính trị do hai phía lâm chiến giam giữ. Tại Paris, tôi nhận được bài thơ này viết tay trên một tờ giấy vàng bạc (thứ giấy ngày xưa dùng làm tiền để đốt xuống cho người cõi âm dùng). Sau đó tác giả cho biết đã làm bài thơ trên tại một trạm bưu điện nhỏ ở thành phố Vọng Các, và ông đã chép tay mấy chục bản trên giấy vàng bạc mua được ở khu chợ bình dân gần đấy.

Trong sự mừng vui, người mà tác giả nghĩ tới đầu tiên là Nhất Chi Mai, người con gái đã đem thân làm đuốc ngày Phật đản 1967 để kêu gọi các phía lâm chiến thực hiện hòa bình. Chị Mai là bạn cùng tu của tôi. Chúng tôi cùng thọ giới năm 1966 tại chùa Pháp Vân. Tôi có viết một thiên hồi ký để kể lại những ngày chúng tôi cùng tu chung trong dòng Tiếp Hiện. Hồi ký này tên là Ngày tháng, đã được đăng trong văn tập Chim về trên không do Viện Hóa Đạo xuất bản năm 1971, vào ngày giỗ thứ tư của chị.

cành mai ấy, ngày tôi về trước ngõ

có rưng rưng giọt ngọc nhìn tôi cười?

Tôi nghĩ hình ảnh ấy rất đúng. Chị Mai mà thấy thầy Nhất Hạnh về khi đất nước Hòa Bình thì đúng là vừa cười vừa chảy nước mắt. Cười vì vui, chảy nước mắt là vì sung sướng. Thầy Nhất Hạnh biết trước là hòa bình sẽ mong manh lắm và hiệp ước Đình chiến rất khó tôn trọng cho nên đã xin quý thầy trong Giáo hội nỗ lực vận động quần   chúng Phật tử tranh đấu bảo vệ Đình chiến và kêu gọi hai bên tôn trọng hiệp ước. Hiệu triệu của Viện Hóa Đạo ngày 2 tháng 12 năm 1973 do thượng tọa Thiện Minh ký phản chiếu được nỗ lực này. Bài thơ cũng nói lên ước vọng là cơ hội rất hiếm có, ai nấy đều phải góp phần vào việc nuôi dưỡng bảo vệ con chim hòa bình còn yếu đuối và trứng nước mà tác giả gọi là “bé”.

y cho biết hai bàn tay anh

cơ hội muôn thuở một lần

níu sự sống trên vành nôi ươm biếc.

[1] Tên gọi cũ của Bangkok.

Thiên đường đã mất

thy tôi nhìn em, em nhìn xuống

chiếc nạng gỗ chống khung trời thân phận

mắt mở trên không gian

nhưng mắt thấy gì đâu

vô tình bàn tay em đặt thành dấu hỏi

gió nín trong cây

nước ngưng lòng suối

im lặng trời cao

 

mảnh thép cắt hồn đơn

vườn ổi tuổi thơ, giấc mộng hoang đường chưa tỉnh

hôm qua môi dại cắn vào vỏ xanh

nhng trái xoài non mới hái

nhng mảnh xoài chua chấm lòng bàn tay muối ớt

bạn bè mấy đứa xuýt xoa nhăn mặt

bờ sông hàng trúc vọng tiếng nô đùa.

cũng mới hôm qua bến nước trong cô gái nhỏ soi bóng một mình

nhng chiếc kẹp tóc tuổi mười hai nằm lẫn bút chì, bút mực,

chuỗi ngọc cườm cổ tay

mộng đời lên thao thức

ai hay giông bão tơi bời!

hôm nay tuổi thơ chỉ còn lại cánh tay níu lấy cuộc đời

nước mắt còn tưới từng năm trên bát cơm khoai sắn

chiều hè mẹ gọi

trông coi một đàn em thơ

i gì nữa đến thiên đường đã mất?

sữa hy vọng không còn nuôi nhan sắc

tương lai

hoàng tử ơi

mai sau chàng có chịu về.

Bài thơ này viết cho một em bé Quảng Ngãi trạc mười hai tuổi. Chiến tranh đã làm mất chân bên trái của em.

Pháp giới thực ấn

xin đừng nghe lời thi sĩ

trong tách cà phê của anh sáng nay có một giọt lệ

xin đừng nghe lời tôi

trong tách cà phê sáng nay của tôi có một giọt máu

bạn ơi xin đừng la mắng tôi

tôi không thể nào nuốt trôi được chất loãng này

không khí trong buồng phổi tôi sáng nay đã trở nên đông đặc.

 

chàng nói hãy cho chàng khóc bằng mắt anh

bởi vì chàng không còn mắt

chàng nói hãy cho chàng đi bằng hai chân anh

bởi vì chàng không còn chân

và với bàn tay tôi đây

tôi đang sờ vào ác mộng các anh

chàng nói chàng đã được giải phóng rồi

giải phóng là để cho người còn lại.

 

bàn tay tôi úp xuống mặt bàn

vũ trụ trầm ngâm

biển lớn vẫn chưa hề nguôi cơn thổn thức

và năm đỉnh núi cao

giữ nguyên thế hồng hoang trời đất

tinh tú trên cao

đêm đêm Ngân hà một dải

bí mật ngàn đời chưa hề hé mở

bàn tay tôi nằm úp mặt bàn

vng chãi giữ chặt Tề Thiên không cho vùng dậy.

không! Bàn tay tôi sẽ không bao giờ lật ngửa ra trên mặt bàn

như một vỏ sò ngả nghiêng

dạt trôi vào bãi biển

như một thân hình ngã lăn cù khi trúng đạn

để cho núi sông ngã đổ

để cho tinh tú tắt ngấm nền trời

để cho đại dương bặt tiếng thủ thỉ muôn đời.

bàn tay tôi vẫn còn úp xuống mặt bàn

và năm đỉnh núi cao

vẫn còn hiên ngang thống trị

bí mật ngàn đời chưa hé

nhưng sao trăng đêm rằm còn đương thì thầm nói chuyện

bàn tay tôi còn úp mặt bàn

đợi phút linh về lật ngược thế thăng bằng trời đất

bàn tay

dáng núi bàn tay

 

Bài này được in trong tập Tiếng đập cánh loài chim lớn xuất bản năm 1967 bốn tháng trước tết Mậu Thân, nhưng không được trọn bài. Thầy có dịch ra Anh ngữ và đọc đêm 12 tháng 11 năm 1967 tại phòng khánh tiết thành phố Nữu Ước (Town Hall) trong một đêm thi ca cho hòa bình Việt Nam do hội Thân hữu hòa giải (Fellowship of Reconciliation) tổ chức, có sự tham dự của hai mươi hai thi sĩ Hoa Kỳ trong đó có Robert Lowell. Arthur Miller, Mark Van Doren, Paul Gooodman, Marguerite Young, Daniel Berrigan… Đêm thi ca này được thu thanh và truyền lại thành một đĩa hát của hãng Spoken Arts lấy tên là Poets for Peace. Bản dịch Anh văn tác giả đã bỏ rơi đâu mất, tôi tìm mãi vẫn chưa được.

Trong bài thơ này, hơi thơ đi rất mạnh, mạnh như một câu đà la ni (thần chú) đang được tuyên đọc. Tôi hình dung một bàn tay đang bắt ấn và bài thơ đọc lên như một khẩu quyết, duy trì mạng sống của con người và của vũ trụ. Ta có cảm tưởng như không có ấn quyết ấy, không có thần chú ấy thì lập tức con người ngã lăn ra chết như một “vỏ sò ngả nghiêng dạt trôi vào bãi biển” và vũ trụ pháp giới cũng tan rã biến hoại, “tinh tú tắt ngấm nền trời”, “đại dương bặt tiếng thủ thỉ muôn đời”.

Mạng sống của con người quý hóa vô chừng. Vũ trụ chỉ hiện hữu khi mạng sống hiện hữu. Mạng sống sụp đổ là vũ trụ sụp đổ. Mỗi khi có một mạng sống sụp đổ là vũ trụ lại sụp đổ.

Bàn tay úp trên mặt bàn có dáng núi Ngũ Hành sơn, trấn ngự một Tề Thiên Đại Thánh trong đó. Lá bùa của đức Phật trấn giữ không cho Ngộ Không nổi loạn, duy trì sinh mạng duy trì vũ trụ. Đó là pháp giới thực ấn.

Nhưng dù hiện hữu con người và pháp giới vẫn còn là một bí mật ngàn đời chưa hé. Phút giác ngộ tới có thể lật đổ thế thăng bằng của thực ấn, và phát giác ra sự thực của cuộc tồn sinh.

Đứng sau sự thao thức bảo vệ sự sống là sự thao thức khám phá thật tướng của pháp giới, của vũ trụ và con người.

Trái ý thức chín rồi

tuổi trẻ tôi

trái mơ xanh

vết răng của em

y thành thương tích nhỏ

nhng chân răng rúng động

và nhớ hoài

nhớ hoài.

nhưng tự thuở yêu em

cánh cửa tôi mở rộng trước gió

thực tại kêu gào cách mạng

trái ý thức chín rồi

cánh cửa

không thể nào còn khép lại

lửa

lửa cháy tràn thế kỷ

loang lổ núi rừng hoang

gió thét ngang tai

bão tuyết bên trời quằn quại

vết thương mùa đông

vết thương mùa đông nằm nhớ lưỡi thép lạnh

bồn chồn, trăn trở

nhức nhối

tu đêm.

Bài này chưa được in lần nào cả. Đây là một bài thơ thầy Nhất Hạnh viết để lại cho thầy Thanh Văn trước khi rời Việt Nam đi kêu gọi hòa bình. Đó là vào khoảng tháng 5 năm 1966, lúc cuộc chiến đã trở nên khốc liệt. Thầy Thanh Văn lúc đó đã nhận trách vụ giám đốc Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội. Lần đầu phải gánh vác một trách vụ lớn như thế, thầy Thanh Văn tỏ vẻ ngần ngại nhưng sau đó thầy đã thi hành nhiệm vụ mình một cách xuất sắc. Bài thơ trên rất được thầy Thanh Văn ưa thích. Có lần thầy Thanh Văn nói với tôi đó là bài thơ thầy thích nhất trong thơ của thầy Nhất Hạnh. Nghe Tài nói Masako Yamanouchi (mà chúng tội quen gọi là Mai Sa), một cộng tác viên của Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, đã dịch ra tiếng Nhật. Bản dịch không còn.

Lời đầu tập

Hồi còn làm giảng nghiệm viên trường Khoa học, tức là vào khoảng 1961 – 1962, thỉnh thoảng tôi lại cùng các bạn như Thu Hà, Huệ Dương, Khanh, Bá Dương, Chiểu, Nhiên, Chi, Diệp, Bích… lên chùa Trúc Lâm ở Gò Vấp chơi để thăm các thầy Nhất Hạnh, Châu Toàn, Thanh Văn và Đồng Bổn. Chùa Trúc Lâm là một nơi êm mát có nhiều cây mai vàng, bông sứ, nhiều bụi tre mạnh tông khỏe đẹp và nhiều cây mít đầy trái, từ gốc đến ngọn. Hồi đó, chúng tôi chưa biết tài nấu bếp của thầy Châu Toàn và thầy Nhất Hạnh, nhưng chúng tôi đã khâm phục tài kho mít của thầy Đồng Bổn và tài nấu hủ tiếu chay của thầy Thanh Văn. Hai mươi năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ món mít kho thơm ngon của thầy Đồng Bổn, trú trì của chùa Trúc Lâm, người chịu trách nhiệm về mọi sinh hoạt tài chánh của chùa. Món hủ tiếu chay của thầy Thanh Văn là một món đặc biệt không thể quên được. Trước khi ăn, ta phải lấy muỗng múc đậu phộng tán nhỏ bỏ lên tô hủ tiếu, rồi bẻ bánh tráng nướng bỏ lên mặt hủ tiếu trước khi để rau thơm. Chùa Trúc Lâm thiệt là một nguồn vui của chúng tôi hồi ấy. Chùa tuy nghèo nhưng đẹp, mát và thanh tịnh. Bốn thầy ở với nhau như bốn anh em ruột, hòa thuận và thương yêu nhau. Tôi chưa từng thấy anh em ruột thương nhau như vậy bao giờ. Thầy Châu Toàn cắm hoa và viết chữ nho rất đẹp. Chùa đẹp là nhờ sự có mặt của thầy. Cây cảnh trong vườn, màu sơn của các bức vách, vị trí của những cây trúc, nét chữ của những bài thơ trên tường… Tất cả đều do thầy. Còn thầy Nhất Hạnh thì không làm gì cả, nhưng được cả ba thầy kia thương mến, coi như người anh cả. Thầy Nhất Hạnh chỉ đi ra đi vào, tán thưởng sự có mặt và tài nghệ của ba người em đồng đạo và nuôi dưỡng họ bằng tấm lòng tri kỷ của Thầy đối với họ. Có thể nói là Thầy nuôi dưỡng họ bằng thơ của Thầy. Chúng tôi đến Trúc Lâm một phần vì chùa đẹp, một phần vì không khí thân mật giữa bốn thầy, một phần vì mít kho của thầy Đồng Bổn, hủ tiếu chay của thầy Thanh Văn, nụ cười của thầy Châu Toàn và thơ của thầy Nhất Hạnh. Đúng vậy, mỗi khi lên chùa, chúng tôi đều được thầy Nhất Hạnh đọc thơ cho nghe. Thầy Nhất Hạnh có một cái “cốc” nằm phía bên trái chánh điện, phía trước là một cây sứ bông trắng, phía trái là một cây mai vàng và phía sau là những bụi tre mạnh tông xòe lá im mát. Chúng tôi thường tụ họp phía hiên trước, bắc ghế ngồi nghe đọc thơ. Cả ba thầy kia (và một chú điệu nữa tên là điệu Dông mà bây giờ đã trở thành một thầy rồi) cũng ngồi nghe thơ với chúng tôi. Nghe thơ xong, chúng tôi lại được hỏi chuyện về đạo Phật với các thầy. Có bữa chúng tôi ở lại khuya quá, lúc ra về nhìn lên thấy trời đầy sao. Cả lũ, có khi đến mười mấy đứa, chở nhau trên xe gắn máy đi chật cả đường phố về đêm.

Sau này lúc chúng tôi theo học lớp giáo lý mở cho sinh viên tại chùa Ấn Quang và chùa Xá Lợi, chúng tôi cũng được gặp thầy Nhất Hạnh, được hỏi về giáo lý, nhưng Thầy chỉ đọc thơ mỗi khi chúng tôi được gặp Thầy tại chùa Trúc Lâm. Về sau, khi Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn được thiết lập (1964), số lượng chúng tôi trở thành đông đảo, nhưng những người tới nghe thơ vẫn chỉ là một nhóm nhỏ khoảng trên dưới mười người. Các bạn như Trâm, Nguyên, Quyền… rất đắc lực trong việc kiến thiết các làng hoa tiêu làm cơ bản cho việc thiết lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội sau này, rất chăm đi họp, nhưng không thích ngồi nghe thơ. Mỗi tuần thầy Nhất Hạnh chỉ về được Trúc Lâm có một lần. Thỉnh thoảng gặp Thầy tại chùa Pháp Hộ, trụ sở đầu tiên của Viện Cao đẳng Phật học, chúng tôi cũng được nghe thơ. Có một điều tức cười là một hôm chúng tôi đến, Thầy mở một cuốn băng thơ của Thầy ra, và chúng tôi bằng lòng ngồi nghe từ cuốn băng đó trong khi Thầy sang phòng khác viết một chương Nẻo về của Ý cho báo Hải Triều Âm đăng, vì Thầy vừa bị thầy Châu Toàn, lúc ấy là thư ký tòa soạn Hải Triều Âm, đến thúc bài. Nhờ theo học ba năm tại phân khoa Phật học Đại học Vạn Hạnh (tôi có theo học các chứng chỉ Pháp tướng Duy thức học và Pháp tính Không tuệ học) nên tôi bắt đầu hiểu được một số những bài thơ của Thầy mà ngày xưa nghe chỉ thấy hay thôi chứ không thực sự thâm nhập. Điều quý nhất là thỉnh thoảng mỗi khi nghe xong một bài thơ, chúng tôi lại được Thầy nói cho nghe trường hợp mà bài thơ đó được hình thành. Có bài không hiểu thì chúng tôi hỏi. V ì vậy mà tôi nghĩ rằng có những bài thơ hầu như không thể hiện được nếu ta không biết trường hợp sáng tác của nó. Cũng do đó, từ lâu tôi có ý muốn ghi lại những cớ sự, những giai thoại có liên hệ tới những bài thơ mà tôi đã được nghe và rất thích. Sau này được làm việc với Thầy trong Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội và Phái đoàn Hòa bình của Giáo hội Phật giáo tại Hải ngoại, tôi được làm quen với nhiều bạn mới như anh Võ Đình, anh Bính, anh Hướng, chị Huệ Châu, các bạn Thomas, Kirsten, Jim, Laura, Philippe, Martine, Mobi, Pierre, Juul, Neige, Linda… tôi lại có dịp ngồi nghe Thầy đọc thơ và nói chuyện thơ, có khi bằng tiếng Việt, có khi bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp.

Mùa thu năm 1978, đi cứu trợ (suýt chết) trên vịnh Thái Lan về, tôi xin được nghỉ ngơi một tháng. Tôi nhân cơ hội ngồi ghi chép lại những gì tôi nghe và còn nhớ về thơ Thầy. Chắc chắn là tôi quên nhiều. Nhưng nghĩ rằng những gì còn nhớ mà không ghi lại thì uổng lắm, cho nên tôi không ngần ngại ngồi xuống ghi chép. Trong khi ghi chép, tôi nhận ra sự liên hệ rất mật thiết giữa thơ và đời sống hàng ngày của Thầy. Chưa bao giờ tôi thấy thơ quan trọng như vậy. Có điều tiếc là tôi chưa thu thập đủ thơ Thầy. Tập thơ chép tay của Thầy ở Phật học đường Báo Quốc vào khoảng 1946 đã mất. Tập Tiếng địch chiều thu do nhà Long Giang xuất bản năm 1949 ngày xưa tôi có, nay cũng đã mất. Tập Ánh xuân vàng, cũng do Long Giang xuất bản năm 1950 hay 1951 gì đó, cũng chưa tìm ra được. Tiếc nhất là tập thơ chép tay của Thầy tàng trữ tại chùa Pháp Hội khoảng 1964 – 1965. Tập này do chính tay Thầy chép những bài thơ mà Thầy còn giữ lại được. Cuốn tập bìa cứng, dày có đến năm phân, do chính tay thầy Thanh Tuệ đóng rất đẹp để tặng Thầy. Những bài trong Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện đều trích ra từ tập này. Ngày xưa tôi đã từng trông được lật xem qua. Anh Tam Ích trong một dịp đến chơi nhà Lá Bối cũng có được đọc qua. Anh đã viết cảm tưởng của anh về tập ấy trong sách Ý văn, lời văn do Lá Bối ấn hành năm 1967. Vậy mà tập ấy bây giờ không còn thì thử hỏi tôi không tiếc sao được. Tôi chỉ có hai tập Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện Tiếng đập cánh loài chim lớn cùng với những bài thơ sưu tập được từ các tạp chí Phật giáo Việt Nam, Hải Triều Âm Thiện Mỹ. Tôi lại may mắn có tập thơ Ngụ ngôn của Thầy do Đuốc Tuệ ấn hành năm 1950 và một số bài Thầy trao cho trên những tờ giấy rời đựng trong một cặp giấy lớn có ghi bốn chữ “Dấu chân trên cát”. Có khi trong hồ sơ văn phòng Phái đoàn tôi bắt gặp những bài thơ viết vội trên một mảnh giấy nhỏ hoặc trên một cái phong bì cũ. Tôi đã sưu tập tất cả những thứ đó. Hy vọng việc làm của tôi có thể góp một niềm vui nho nhỏ cho những người ưa thích thơ của Thầy. Tôi nghĩ ít ra cuốn sách nhỏ này cũng giữ lại được một số thơ không để chúng rơi rớt mất mát thêm nữa.

Những ghi chép của tôi trong tập này coi như những cố gắng đi tìm những dấu chân trên cát, cho nên tôi sẽ đặt tên tập thơ là Thử tìm dấu chân trên cát.

Khởi viết từ tháng 10 năm 1978 mà đến nay tôi mới hoàn thành được tập này, đó là tại vì tôi chỉ có thể để dành những ngày cuối tuần cho nó. Nhưng dù sao bây giờ nó cũng đã được hoàn tất rồi, tôi xin trân trọng đề tặng nó cho tất cả những người bạn của tôi, những người ít nhiều đã được nuôi dưỡng bằng thơ của thầy Nhất Hạnh.

Ngày Lập xuân Canh Thân 1980

Chân Không CAO NGỌC PHƯỢNG

Thử tìm dấu chân trên cát

Lời đầu tập
Trái ý thức chín rồi
Pháp giới thực ấn
Thiên đường đã mất
Bé đã sinh ra rồi
Ảo hóa
Tôi về lật lại trang xưa
Padmapani
Tịch tĩnh
Tâm nguyệt
Bướm lạc quê hương
Cao Phong
Lanka
Trời bên ấy sáng chưa
Cẩn trọng
Sinh tử
Bờ bến lạ
Lưu chuyển
Uyên nguyên
Đuốc thơ còn cháy trên trang sử người
Hãy gọi đúng tên tôi
Người hành khất năm xưa còn ngồi đó
Ngày nào tôi tháo được trái tim
Đêm hội trăng rằm
Sáng nay em đi
Đêm cầu nguyện
Thông điệp
Dặn dò
Quê hương tuổi nhỏ
Tiếng gọi
Tiếng đập cánh loài chim lớn
Âm hưởng
Vô khứ lai từ
Quán tưởng
Vòng tay nhận thức
Bướm bay vườn cải hoa vàng
Lửa đốt em tôi
Trường ca Avril
Xóm mới
Đừng biến mảnh vườn xanh xưa thành mồi ngon lửa dữ
Ruột đau chín khúc
Nhập lưu
Kiến trúc chân như
Mưa quê hương
Những giọt không
Thịt da và gạch ngói
Bàn tay, bàn tay
Đại trượng phu
Bỗng tan đi
Tiếng gầm sư tử lớn
Xin đứng bên nhau
Xin trả về cho non sông cho nhân loại cho đồng bào
Buông thả
Dòng sông chiều và hồn đất
Thế giới chúng ta
Tôi thấy em nơi sân nghèo cô nhi viện
Wendy
Những hàng đậu mới
Từ bi quán
Rừng không
Tôi sẽ xin rằng tất cả
Sáu chiếc chèo tay
Đề Thiền Duyệt thất
Giao cảm
Chỗ đứng
Chúng ta hãy trả lời
Lời nguyện cầu tìm đất sống
Bát nhã
Tươi son bền sắt
Các anh đứng dậy
Marathon, marathon
Chứng nhân còn đó
Nẻo vắng
Hãy nguyện cầu cho bóng tối thêm sâu Hỡi ngàn sao lấp lánh
Mẹ
Hoa mặt trời
Chân dung
Xin cúi đầu đưa về
Lời người dân lao động Sài Gòn
Khứ lai
Mây trắng thong dong
Cái ô ram
Lòng không bận về
Bắc một chiếc cầu
Một mũi tên rơi hai cờ ảo tưởng
Ước nguyện
Sinh tử không hoa
Trời phương ngoại
Chân dung
Cỏ hoa còn thơm ngát
Dây neo
Pháp thể hằng hữu
Đừng khóc
Vết thương nhân loại
Đường quê
Duy thị nhất tâm
Ấm áp
Babita
Vững cánh
Hộ niệm
Mùa xưa
Tuyên ngôn của con người không khuất phục

Tuyển tập thơ Nhất Hạnh

Chơn Không Cao Ngọc Phượng ghi chép về thơ Thầy Nhất Hạnh
Lời đầu tập
Trái ý thức chín rồi
Pháp giới thực ấn
Thiên đường đã mất
Bé đã sinh ra rồi
Ảo hóa
Tôi về lật lại trang xưa
Padmapani
Tịch tĩnh
Tâm nguyệt
Bướm lạc quê hương
Cao Phong
Lanka
Trời bên ấy sáng chưa
Cẩn trọng
Sinh tử
Bờ bến lạ
Lưu chuyển
Uyên nguyên
Đuốc thơ còn cháy trên trang sử người
Hãy gọi đúng tên tôi
Người hành khất năm xưa còn ngồi đó
Ngày nào tôi tháo được trái tim
Đêm hội trăng rằm
Sáng nay em đi
Đêm cầu nguyện
Thông điệp
Dặn dò
Quê hương tuổi nhỏ
Tiếng gọi
Tiếng đập cánh loài chim lớn
Âm hưởng
Vô khứ lai từ
Quán tưởng
Vòng tay nhận thức
Bướm bay vườn cải hoa vàng
Lửa đốt em tôi
Trường ca Avril
Xóm mới
Đừng biến mảnh vườn xanh xưa thành mồi ngon lửa dữ
Ruột đau chín khúc
Nhập lưu
Kiến trúc chân như
Mưa quê hương
Những giọt không
Thịt da và gạch ngói
Bàn tay, bàn tay
Đại trượng phu
Bỗng tan đi
Tiếng gầm sư tử lớn
Xin đứng bên nhau
Xin trả về cho non sông cho nhân loại cho đồng bào
Buông thả
Dòng sông chiều và hồn đất
Thế giới chúng ta
Tôi thấy em nơi sân nghèo cô nhi viện
Wendy
Những hàng dậu mới
Từ bi quán
Rừng không
Tôi sẽ xin rằng tất cả
Sáu chiếc chèo tay
Đề thiền duyệt thất
Giao cảm
Chỗ đứng
Chúng ta hãy trả lời
Lời nguyện cầu tìm đất sống
Bát nhã
Tươi son bền sắt
Các anh đứng dậy
Marthon, marthon
Chứng nhân còn đó
Nẻo vắng
Hãy nguyện cầu cho bóng tối thêm sâu Hỡi ngàn sao lấp lánh
Mẹ
Hoa mặt trời
Chân dung
Xin cúi đầu đưa về
Lời người dân lao động Sài Gòn
Khứ lai
Mây trắng thong dong
Cái ô ram
Lòng không bận về
Bắc một chiếc cầu
Một mũi tên rơi hai cờ ảo tưởng
Ước nguyện
Sinh tử không hai
Trời phương ngoại
Chân dung
Cỏ hoa còn thơm ngát
Giây neo
Pháp thể hằng hữu
Đừng khóc
Vết thương nhân loại
Đường quê
Duy thị nhất tâm
Ấm áp
Babtita
Vững cánh
Hộ niệm