Trở về thương lấy chính mình
(Trích pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 16.11.1997 tại tu viện Rừng Phong)
Chúng ta ai cũng đã có thương nhưng có lẽ ít người có cơ hội nhìn lại tình thương của mình, xem thử ta đã khổ đau như thế nào trong khi thương? đã hạnh phúc như thế nào trong khi thương và đã học được gì trong quá trình thương yêu? Thật ra phần lớn trong chúng ta bận rộn rất nhiều và chưa có cơ hội để ngồi lại và làm việc ấy để có thể học được từ những kinh nghiệm thương yêu, khổ đau và hạnh phúc.
Chúng ta thương cha, thương mẹ, thương con, thương cháu, thương trời, thương đất… Chúng ta thương nhiều thứ lắm. Mỗi người trong chúng ta nên để ra độ chừng bảy ngày để suy nghĩ và ta phải nhìn cho sâu, phải thành thật, để có thể bắt đầu thấy được bản chất của tình thương cũng như của những khổ đau, khó khăn và hạnh phúc mà tình thương ấy đã đem tới. Từ đó chúng ta sẽ rút ra những kinh nghiệm và sẽ chuyển hóa được tình thương, để tình thương ấy bớt gây đau khổ cho mình và cho người, và cũng để bắt đầu tạo thêm hạnh phúc cho mình và cho người mình thương.
Chúng ta thương nhưng thực sự ít ai biết được bản chất của tình thương.
Nếu biết thực tập chánh niệm và quán chiếu, thì chúng ta sẽ có cơ hội nhiều hơn để hiểu biết và chuyển hóa bản chất của tình thương trong ta. Nhà văn Pháp Antoine de St. Exupéry, tác giả quyển “Hoàng tử bé” (Le Petit Prince), có nói: “Thương nhau không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một hướng.” (Aimer, ce n’est pas se regarder l’un l’autre, c’est regarder ensemble dans la même direction). Chúng ta thử xét xem lời tuyên bố của ông có đúng không?
Tôi nghĩ là thương nhau mình có thể ngồi nhìn nhau được chứ, miễn là đừng ngồi suốt ngày mà thôi! Lâu lâu phải nhìn nhau, phải nhận diện rằng người thương của mình có mặt. Nhìn nhau ở đây có nghĩa là công nhận sự có mặt của người kia. Nếu thương mà không công nhận sự có mặt của người kia thì người kia sẽ tủi chết và sẽ nghĩ là mình không thật sự được thương. Người kia sẽ nói: “Anh không bao giờ để ý tới tôi, anh không bao giờ nhìn mặt tôi, anh không bao giờ ý thức là tôi đang có mặt!” Như vậy không được. Chúng ta phải biết nhìn nhau và phải tập nhìn có chánh niệm. Nhìn như thế nào và nói như thế nào để người kia biết mình thật sự có mặt cho người đó, và người đó thấy sự có mặt của họ đang được công nhận và trân quý. Nếu người mình thương làm như mình không có mặt trên cõi đời này thì mình sẽ có cảm tưởng là mình không thực sự được thương, là mình đang bị bỏ quên bởi người ấy. Nhìn nhau vì vậy rất quan trọng.
Nhưng mà vấn đề là khi nhìn nhau mình sẽ thấy gì? Khi thấy có cái gì dễ thương thì mình mới thương. Bắt đầu là như vậy. Mình phải thấy người kia đẹp, mình phải thấy người kia thật, mình phải thấy người kia hiền. Ai cũng muốn thương, ai cũng cần đến cái Chân, cái Thiện và cái Mỹ. Thiện là sự hiền từ. Ai lại đi thương một bà chằng bao giờ! Mỹ là đẹp. Quỷ Dạ Xoa xấu quá, khó thương lắm! Ngoài ra, đối tượng của sự thương yêu còn phải thật (Chân). Nếu đối tượng đó chỉ là một cái bóng dáng, một cái mặt nạ hoặc một sự giả trang thì làm sao mình thương được, phải không? Nếu đối tượng đó chẳng qua chỉ là phấn sáp, chẳng qua chỉ là cái hào nhoáng bên ngoài thì nó không thật. Không ai mà lại đi thương cái giả dối. Vì thế đối tượng của sự thương yêu phải là sự thật. Trừ khi mình dại dột, bị đánh lừa thì mình mới kẹt vào cái giả ngụy mà thôi.
Cho nên trong khi thương, ta phải sáng suốt lắm. Nếu không thì ta sẽ mua lầm hàng giả. Mà bây giờ thiên hạ bán hàng giả rất nhiều. Thiên hạ chuyên đi mua những sản phẩm hóa trang về để sơn phết. Họ dùng những phương tiện kỹ thuật làm ra đủ thứ giả: lỗ mũi cũng giả, ngực cũng giả, rồi đạo đức cũng giả. Giả dối nhiều lắm. Nước hoa có nhiều thứ. Nước hoa có công dụng lấp đi những cái không đẹp, không thơm. Cái giả dối rất nhiều, nếu không tỉnh táo, mình sẽ bị kẹt. Đối tượng của sự thương yêu như vậy không “chân”. Đó là đứng về phương diện hình hài. Còn đứng về phương diện đạo đức cũng vậy, có đạo đức giả. Nghĩa là mình không thánh thiện, không hiền lành, không có lòng tốt nhưng mình làm ra cái kiểu là mình có thánh thiện, có sự hiền lành, có sự tốt bụng. Nhiều người bị lừa về chuyện giả trang đạo đức lắm.
Do đó khi thương ta phải tỉnh táo. Nhưng thường thường, thương thì không có tỉnh táo. Thương còn được gọi là “cơn mê”. Trong tâm trạng thương, vì mình không được tỉnh táo nên mình mới bị kẹt vào những cái không có thật. Đứng về phương diện bóng sắc cũng như đứng về phương diện đạo đức sự tình đều như vậy. Người đó không hiền mà mình tưởng là hiền. Thấy bề ngoài hiền khô vậy, nhưng mà hãy coi chừng! Nếu biết nhìn bằng con mắt của chánh niệm ta sẽ thấy ba cái chân, thiện và mỹ dính liền với nhau. Đó là tính tương tức của cả ba. Trong chân phải có thiện và mỹ, trong thiện phải có chân và mỹ, trong mỹ phải có chân và thiện. Một cái phải có hai cái kia thì mới thực sự là nó được. Nếu không có thiện và mỹ thì đó chưa phải là chân. Mình phải thấy ba cái đó tương tức.
Thương là một quá trình quán sát, nhưng người thương ít khi chịu quán sát. Mình để cho mình bị vướng vào đó thôi. Bước đi, mình bị té, mình bị sập bẫy. “Fall in love” (tomber amoureux) tức là té. Đi làm sao mà bị té? Không có chánh niệm, không biết cái gì xảy ra, thế là mình bị té, bị kẹt. Có khi mình mơ hồ biết là có hầm hố, có hiểm nguy nhưng mình vẫn đi, mình vẫn muốn bị “té”. Ở đời, biết bao nhiêu người trẻ bị kẹt trong tình huống như vậy làm tan tành cuộc đời của mình. Đó là tại vì họ không cẩn thận, cứ để cho những cái bề ngoài đánh lừa. Mình có quyền thương cái chân, cái thiện và cái mỹ, với điều kiện đó là chân thật, thiện thật và mỹ thật, phải vậy không? Và đối tượng của sự thương yêu không thể là vọng tưởng, không thể là một tri giác sai lầm. Không chân mà tưởng là chân, không thiện mà tưởng là thiện, không mỹ mà tưởng là mỹ, đó gọi là tri giác sai lầm. Vì thế tình thương thường thường là một cơn mê, một passion, một cái dream. Và khi tỉnh dậy được rồi thì trong thân và trong tâm đã có biết bao nhiêu thương tích.
Đức Thế Tôn dạy là mình phải thương; nhưng cái thương của mình phải dựa trên cái thấy chân thực chứ không nên dựa trên vọng tưởng. Khi đối tượng tình thương của mình là một vọng tưởng mà không phải là sự thật thì mình sẽ đau khổ rất nhiều. Có những cái đẹp thầm kín, có những cái đẹp mình phải nhìn kỹ lắm mới thấy được. Và thường thường những cái đẹp chân thật đều như vậy, mình phải nhìn kỹ mới thấy. Khi cái đẹp là cái đẹp chân thật thì cái đẹp đó có khả năng nuôi dưỡng mình, có khả năng làm đẹp cuộc đời mình. Vì thế thương cái đẹp rất quan trọng, với điều kiện cái đẹp đó phải là cái đẹp đích thực. Cái thiện cũng là cái đẹp. Ví dụ như lòng từ bi. Lòng từ bi cũng là một cái gì rất đẹp. Khi thương Đức Thế Tôn, mình thấy một phần quan trọng của tình thương mình là do ở chỗ Đức Thế Tôn có lòng từ bi. Mình thương tình thương của Đức Thế Tôn. Đó là một thứ tình thương rất cần thiết cho cuộc đời. Đức Thế Tôn có khả năng thấy được những đau khổ ở xung quanh Ngài và Đức Thế Tôn không quên những đau khổ đó. Ngài tìm những biện pháp để làm vơi đi những khổ đau đó. Và cả cuộc đời của Đức Thế Tôn là để làm chuyện ấy, chuyện nhắm tới làm vơi đi những khổ đau của mọi người.
Khi mình thương ai thì mình thương từ trong ra ngoài và cả ngoài lẫn trong. Bên trong Đức Thế Tôn có một tình thương rất lớn, cho nên mình thương cái tình thương ấy của Đức Thế Tôn. Từ tình thương đó, mình muốn hòa nhập làm một với Đức Thế Tôn và mình muốn tham dự vào tình thương đẹp đẽ này, mình muốn học thương được như Đức Thế Tôn. Và từ từ mình khám phá ra rằng ở trong mình cũng có cái đó. Nơi Đức Thế Tôn, tình thương này phát hiện rất rõ. Nhưng như vậy không có nghĩa là mình không có tình thương ấy trong bản thân mình. Chính Đức Thế Tôn đã nói với mình là: “Con cũng có cái đó, con cũng có hạt giống từ bi và tuệ giác đó.” Ban đầu, mình thấy nó ở nơi người khác nhưng từ từ mình thấy nó ở ngay chính mình. Mình trở thành đối tượng thương yêu của chính mình. Mình thương tình thương đó nơi chính mình.
Trở về thương lấy chính mình
Thường thường, mình cứ nghĩ rằng thương là thương những thứ ở ngoài mình, nhưng thực sự ở trong bản thân mình cũng có những thứ rất dễ thương. Ở trong mình có Chân, có Thiện và có Mỹ mà mình chưa nhận diện được. Đôi khi mình chỉ tiếp xúc được với những thứ không phải là Chân, không phải là Thiện, không phải là Mỹ ở nơi mình. Vì thế mình cứ tự đánh giá rất thấp về mình. Mình có mặc cảm là mình giả dối, không có lòng từ bi, không đẹp. Vì vậy mình có khuynh hướng giả trang. Mình giả dối với mình, mình giả dối với người khác. Mình khoác vào cho mình những bóng dáng của Chân, của Thiện và của Mỹ để mình có thể “impress” (“gây ấn tượng”) được người khác. Sở dĩ mình giả dối như vậy là vì mình chưa có khả năng thấy được cái đẹp, cái thật và cái lành ở nơi mình. Nếu mình có khả năng tiếp xúc được với cái Chân, Thiện và Mỹ ở tự thân thì mình không cần giả dối nữa. Mình có đức tin là: I am something. Lúc đó mình bắt đầu sống thật với mình. Mà nếu mình không sống thật với chính mình được thì mình không thể nào sống thật được với người khác.
Chúng ta có cái mặc cảm là chúng ta không có cái đẹp, cái thật và cái hiền. Chúng ta phải nhổ gốc cho được cái mặc cảm đó. Đức Thế Tôn đã xác nhận điều này: “Con có Chân Thiện và Mỹ nơi con.” Chúng ta đôi khi gọi Chân Thiện Mỹ này là Phật tánh. Và: “Con phải tiếp xúc được với những cái đó để con đừng có mặc cảm và từ lúc đó con sẽ không còn giả dối nữa và con sẽ không còn đi tìm kiếm ở bên ngoài, bởi vì trong con đã có đầy đủ những cái này.”
Nhìn Đức Thế Tôn, mình thấy Chân, Thiện, Mỹ rõ ràng. Và khi mình soi gương vào Đức Thế Tôn để thực tập, mình cũng thấy trong mình có Chân, Thiện và Mỹ. Vì vậy thương Đức Thế Tôn tức là mình tạo một cơ hội để trở về thương lấy chính mình. Trong giáo lý đạo Phật, trước khi mình có thể thương ai mình phải thương được mình trước. Điều này rất quan trọng. Self-love is the foundation for the love of others. Điều này quan trọng nhưng ít người nói tới là vì ai cũng nghĩ “cái đó” không có trong mình, cho nên mình mới đi tìm ở ngoài. Và khi mình đi tìm như vậy, ít khi mình tìm ra được đối tượng chân thật mà lại bị vướng mắc vào những hình tướng ngụy trang bên ngoài. Vì thế đã khổ rồi, mình lại khổ thêm nhiều tầng nữa.
Mình thương Đức Thế Tôn là vì Đức Thế Tôn có sự vững chãi, thảnh thơi và hạnh phúc, không có gì lay chuyển nổi. Còn mình thì thiếu cái vững chãi đó. Mình có cảm tưởng là mình rất dễ bị tan vỡ, rất dễ bị lung lay, cho nên mình mới đi kiếm sự vững chãi ở một chỗ khác, đi kiếm ở Đức Thế Tôn. Thương là vì thiếu cho nên đi tìm. Cái “vững chãi” ấy trong Kinh gọi là bất động. “Diệu trạm tổng trì bất động tôn”. Lúc đầu mình nghĩ là mình không có, nhưng sau khi mình tin vào Đức Thế Tôn và nhận Đức Thế Tôn làm Thầy, thì mình được nghe Ngài nói: “’Con cũng có cái đó. Con phải về tìm cho được cái đó.” Đức Thế Tôn có sự giải thoát, có sự tự do, có sự thảnh thơi và mình cần những cái đó quá. Mình thấy là mình hệ lụy, mình vướng mắc, mình không có tự do gì cả. Đối với các phiền não, mình dễ trở thành con mồi. Mình không có tự do đối với các phiền não tham, sân, si, mạn, nghi và kiến, thành thử mình đi tìm tự do ở chỗ khác. Cố nhiên là mình đi tìm ở các bậc đạo sư. May mắn là mình gặp một con người như Đức Thế Tôn. Con người đó có chất liệu đích thực của sự vững chãi và sự thảnh thơi. Như thế, mình có cơ hội trở về với chính mình và tìm ra các chất liệu đó trong mình.
Mình không có hạnh phúc. Những cái mình thường gọi là hạnh phúc đó chưa phải là hạnh phúc chân thật. Đó chỉ là những vui nhộn nhất thời, những ồn ào, những bóng dáng giả tạo bên ngoài để che lấp những niềm đau nỗi khổ bên trong. Mình vui nhộn như vậy nhưng đến giây phút ngồi yên lại, mình thấy những cái vui đó rất giả tạo và niềm đau nỗi khổ của mình ở dưới tiềm thức quá lớn, bắt đầu trồi lên, rồi mình lại phải đi ra, đi nhảy disco, đi nghe nhạc, đi mở tivi… để che lấp nó. Những cái mà mình gọi là hạnh phúc đó không thật sự là hạnh phúc. Khi mình thấy một người có hạnh phúc chân thật, mình rất ham. Mình thấy Đức Thế Tôn ngồi rất vững chãi, rất thảnh thơi, rất an lạc. Tại sao ở đời hạnh phúc lại có thể có được như thế hả? Mình không tin là hạnh phúc có thật. Khi gặp được một người có hạnh phúc thật sự mình mừng quá. Lúc đó mình bắt đầu nghĩ là hạnh phúc có thể có được.Đức Thế Tôn dạy: “hạnh phúc đó có ở trong con, con phải trở về tìm cho ra nó”. Cuộc gặp gỡ giữa mình với Đức Thế Tôn bắt đầu từ sự đi tìm những cái mình tưởng là mình không có. Đến khi thật sự được gặp Đức Thế Tôn, mình có cơ hội để trở về với mình và nhận diện ra cái mà ngày xưa mình tưởng là không có.
Thường thường chúng ta có cái cảm giác thiếu vắng. Mình nghĩ mình là một cái nồi chưa có vung và mình đi khắp tam thiên đại thiên thế giới để tìm một cái vung đậy lên cái nồi của mình. Cái vung đó có thể là một người con trai hay một người con gái nào đó mà mình hy vọng sẽ gặp được. Gặp được người yêu lý tưởng là tìm được cái vung đậy lên cái nồi. Và người nào cũng có cảm tưởng mình là một cái nồi không có vung. Cái nồi không có vung đó là cái gì vậy? Nhìn cho kỹ thì đó là sự trống vắng. Những cái mình cho là mình không có, tức là Chân, Thiện và Mỹ, mình tin là mình không có, cho nên mình mới đi lý tưởng hóa người yêu chỉ vì mình nghĩ người yêu đó là Chân, là Thiện, là Mỹ.
Nhưng ác hại thay, sau vài tháng hay là một năm, mình khám phá ra rằng người yêu của mình cũng không phải là Chân, không phải là Thiện, không phải là Mỹ. Người yêu của mình cũng như mình thôi. Người yêu của mình cũng chỉ là “một cái nồi không có vung!” Hầu hết chúng ta đều đi tìm trong thế giới cái nửa mà chúng ta thiếu (the other half of yourself), và biết bao nhiêu người trong chúng ta đã thất vọng. Bởi vì “cái nửa kia”, mới tìm ra đó, mình tưởng là cái đích thực mà mình cần, chỉ sau một thời gian mình lại khám phá ra rằng nó không phải là cái đích thực mà mình cần. “Cái nửa kia” cũng là một cái nửa đang đi tìm như mình vậy!
Khi Đức Thế Tôn thành đạo dưới cây Bồ Đề, Ngài đã thốt lên một câu để tỏ lộ sự ngạc nhiên: “Lạ thay, tất cả mọi chúng sanh đều có cái đó mà không hề biết là mình có cái đó”. “Cái đó” tức là khả năng vững chãi, thảnh thơi và bản chất giác ngộ. Chúng ta cứ trôi lăn từ đời này sang đời khác trong đại dương của khổ não. Trôi lăn như thế là để đi tìm cái nửa kia. Mà đi tìm cái nửa kia là vì mình không biết cái nửa kia đã nằm ngay trong cái nửa này rồi. Bây giờ nói thì người ta báng bổ, nhưng mà kỳ thực tình thương có nghĩa là thương chính mình và nhận ra những gì mình thiếu, mình tìm kiếm đã có sẵn trong chính mình (to love means to love yourself, to recognize that what you lack is within yourself). Khi mình bắt đầu khám phá và tiếp xúc được với hạt giống của Chân, của Thiện và của Mỹ trong mình, thì mình bắt đầu có tự tin. Và hạnh phúc chân thật chỉ có được khi lòng tự tin đó nứt mầm.
(Phần 2: Cuộc tương phùng giữa ta với Đức Thế Tôn)