Pháp thoại theo chủ đề

Tu là một nghệ thuật và người tu là nghệ sĩ

(Trích trong pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 12 tháng 12 năm 1996 tại Xóm Mới- Làng Mai Pháp quốc)

 

 

Chúng ta ai cũng có những nỗi khổ niềm đau truyền lại từ ông bà, cha mẹ. Nó có thể không phải là những nỗi khổ niềm đau mà chúng ta đã gom góp ở trong kiếp này. Trong mỗi chúng ta có thể có một ngọn núi lửa đang ngủ. Đó là những bực nhọc, những đau buồn, những giận hờn, những oán trách từ ngày xưa. Cho nên chúng ta phải ý thức về ngọn núi lửa ấy, và khi núi lửa cựa quậy thì ta bắt đầu phun lửa. Ta biến thành một hỏa diệm sơn, và ta sẽ đốt cháy hết tất cả. Khi núi lửa sắp phun, nó có những triệu chứng. Người hiểu về núi lửa thì khi nghe thấy những triệu chứng đó, họ tìm cách trốn chạy.

Khi có chánh niệm và biết là núi lửa sắp phun, chúng ta phải lo chạy để được an toàn. Nó phun ra bằng những lời nói không chánh ngữ, khiến cho người nghe khổ đau, và làm tan nát đổ vỡ cho những người chung quanh. Cho nên chúng ta phải học nhận diện ngọn núi lửa trong ta và trong những người khác. Nhận diện để mà hiểu mà thương. Tại vì không phải chỉ người kia mới có núi lửa mà chính ta cũng có núi lửa ở trong mình. Khi núi lửa trong ta phun lên thì tất cả đều tan nát, do đó chúng ta phải có cách để có thể đối phó với ngọn núi lửa ấy. Ta có những bực dọc, uất ức, đè nén, và ta có cảm tưởng rằng nếu nói ra không được thì ta sẽ chết. Tại sao vậy? Tại vì chúng ta không biết quản lý nó, không biết quản lý cái năng lượng núi lửa của chúng ta.

Đạo Bụt có phương pháp gọi là tịnh khẩu. Tịnh khẩu tức là không nói, làm cho miệng núi lửa đừng phun. Dù có lửa trong lòng nhưng ta không để cho nó phun ra, mà tìm cách cho lửa trở về nguyên quán. Giữ an ninh cho ta và mọi người.

Tịnh khẩu là một thực tập thương yêu: “Tôi biết nếu tôi mà nói là tôi sẽ nói những điều làm cho anh đau, làm cho chị đau, vì vậy tôi thực tập tịnh khẩu, để tôi không nói”. Nhưng tịnh khẩu không có nghĩa là đè nén xuống. Nếu đè nén thì tịnh khẩu trở thành một thực tập rất nguy hiểm. Tại vì nén xuống, đến khi nó phun lên, thì nó phun mạnh gấp mười lần, và nguy hiểm gấp mười lần! Vì vậy trong khi tịnh khẩu thì ta thực tập quán chiếu, tức là nhìn sâu. Nhìn sâu thì mới làm cho lửa tàn đi, làm cho sức nóng dịu xuống.

“Ngày hôm qua gặp ông kia, ông ta nói với mình một câu làm cho mình điên tiết! Mình có cảm tưởng nếu không nói lại được thì chắc mình chết quá! Giận ghê, ông ta nói xong thì ông ta bỏ đi, không cho mình cơ hội để trả đũa! Nếu trả đũa lại được, thì mình bớt khổ biết bao! Thành ra về nhà, mình đau khổ cả buổi chiều! Vậy mà không biết tại sao, sau một giấc ngủ ngon, sáng mai thức dậy, mình nghĩ lại thì thấy buồn cười quá. Tại sao mình lại muốn nói lại cho bằng được? Mình thấy rõ ràng không nói thì mình đâu có chết? Bây giờ nhớ lại thì thấy rất buồn cười! Cả mình và ông ta đều buồn cười. Ông ta nói câu ra đó rất là tội nghiệp, mà mình nổi nóng lên, và mình muốn trả đũa để ông ta đau, thì cũng tội nghiệp cho mình. Chỉ có một đêm ngủ ngon thôi là đủ cho mình thấy được sự thật. Còn trong lúc ấy thì mình là người mê mờ”.

Trong cơn mê, trong cơn cuồng si mình làm những điều tạo ra đổ vỡ, và khổ đau. Cho nên mình phải tìm ra phương pháp để những lúc mình sa vào giây phút cuồng si, thì mình sẽ được thiên thần bảo hộ. Thiên thần đó mình phải nuôi dưỡng, phải mang theo. Còn đến lúc đó mới cầu cứu thiên thần thì thiên thần không rảnh để đến với mình đâu. Trong đời sống hàng ngày ta phải biết đi, biết thở, biết cười, biết bảo hộ thân tâm, thì những lúc cần đến, thiên thần mới có mặt cho mình.

Dưới đây là một phương pháp tịnh khẩu mà tôi đã chỉ cho nhiều người. Phương pháp này cũng dễ thực tập. Mỗi khi thấy ngứa mắt, ngứa tai, muốn phát ngôn, thấy bực quá mà không nói thì không được, lúc ấy mình chỉ tập thở và đừng nói. Rồi vào phòng, lật cuốn vở ra, ghi lại câu mình muốn nói. Thay vì nói ra bằng miệng, thì mình chỉ tập thở và viết nguyên câu đó vào cuốn vở. Ví dụ: “Mày là đồ ngu! Mày là một người rất ác độc! Mày là người có ác ý, muốn làm đổ vỡ tất cả! Mày là một người vô ơn v.v…”

Mình viết lại và ghi luôn ngày giờ cho rõ ràng. Ghi lại cả câu người kia nói và câu mình muốn trả lời. Ghi được như vậy cũng đỡ khổ rồi. Ba ngày sau đem ra xem lại và tự hỏi: Nếu lúc đó mình nói câu này thì sẽ ra sao, sẽ có những đổ vỡ nào?

Sự thực tập này đâu có khó? Mình có thể thực tập tịnh khẩu trong hai tuần. Trong hai tuần đó mình làm như vậy, làm mà không đè nén. Chỉ không nói thẳng thôi, và viết hết tất cả những câu mình nghe xốn tai, và cả những câu mình muốn trả lời. Mình sẽ thấy rằng những đau khổ của cuộc đời mình, và những đau khổ của người khác, có thể là do mình tạo ra, do mình không biết nói, không biết thực tập chánh ngữ của mình tạo ra.

Nếu ta biết thực tập chánh ngữ, biết nghệ thuật nói thì chúng ta tạo hạnh phúc cho rất nhiều người. Người Việt thường nói: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Lời  nói có thể làm cho người kia hoan hỷ, phấn chấn, thêm tự tin và hy vọng. Lời nói có thể giải tỏa những hiểu lầm, những giận hờn, những hiềm hận, và nhỏ nhen trong người kia. Tại sao chúng ta giàu có như vậy mà chúng ta lại không biết sử dụng gia tài của mình? Gia tài đó là khả năng chánh ngữ.

 

 

Chánh hay tà?

Muốn lời nói có chánh ngữ, mà muốn có chánh kiến thì chúng ta phải biết quán chiếu. Ngoài ra, chúng ta phải thực tập pháp môn gọi là Bẻ gãy thế tam giác. Đây là một phương pháp thực tập của Làng Mai.

Chúng ta thường ưa liệt người đó vào một phe, phe tà hay phe chánh. Đây là một điều rất nguy hiểm!

Nếu quý vị đọc “Tiểu ngạo giang hồ” thì biết triết lý của bộ tiểu thuyết trường thiên đó: Trong người gọi là phe chánh, luôn luôn có chất tà, và trong người phe tà luôn luôn có chất chánh. Tiếu Ngạo Giang Hồ là chuyện tình giữa hai người bạn. Họ đến với nhau vì âm nhạc. Khi hai người tới với nhau để chơi nhạc, một người thổi sáo, một người đánh đàn. Hạnh phúc của họ lớn như  không có hạnh phúc nào bằng. Bài nhạc đó tên là Tiếu Ngạo Giang Hồ. Họ là hai người bạn, nhưng oái ăm là một người thuộc chánh phái, còn người kia thuộc về tà phái. Theo nguyên tắc thì chánh không được chơi với tà, vì vậy cho nên khi hai người muốn hòa nhạc với nhau, họ phải rủ nhau đi đến nơi tận cùng hiểm trở, nơi mà không ai bén mảng tới. Họ phải nhìn quanh để chắc chắn là không có ai nhìn thấy, thì hai người mới hòa nhạc với nhau.

Cái chánh và cái tà nó không phải là thực chất của mình, tại vì trong chánh nó có tà, trong tà nó có chánh. Cái đó gọi là tương tức. Chúng ta phải tập để đừng suy tư theo chiều hướng của thiện- ác, đúng-sai và chánh-tà. Chúng ta nên làm ngược lại. Chúng ta tập suy tư trên cơ bản khéo hay không khéo. Có nghệ thuật nhiều hay có nghệ thuật ít. Tại vì thật tình ta không muốn cho người kia đau khổ. Ai trong chúng ta mà lại muốn làm cho anh, hay chị, hay em của mình đau khổ? Không có ai cả! Nhưng vì chúng ta vụng về mà thôi. Vụng khi nói, khi cười, khi hành xử nên ta làm cho người kia đau khổ.

Vì vậy nên tu là một vấn đề nghệ thuật hơn là một vấn đề chánh tà. Và chánh niệm là chất liệu của nghệ thuật. Vì khi có chánh niệm thì mình sẽ khéo hơn, mình sẽ có ý tứ hơn. Một bà mẹ dạy con gái, bà thường dặn: “Con ơi, con đi, đứng, nằm ngồi cho có ý tứ. Mà có ý tứ thì con đẹp thêm nhiều lắm”. Ý tứ đây là chánh niệm. Khi có ý tứ thì mình không để cho món trứng chiên của mình cháy. Khi có ý tứ thì bát canh của mình sẽ không mặn quá. Tại vì ý tứ cho mình biết mình đang làm cái gì, và mình có làm đúng hay không. Khi mình nói năng có ý tứ thì mình không gây những lầm lỡ, những vụng dại, gây đau khổ cho người, và cho mình.

Không ai trong chúng ta lại dám công nhận mình là một nghệ sĩ bậc nhất! Chúng ta đều đang học hỏi, chính tôi cũng vậy. Nếu học hỏi thì càng ngày chúng ta càng có chánh niệm hơn, và khéo léo hơn. Tu là một nghệ thuật, và người tu là một nghệ sĩ.

“Xin lỗi em, chị không có ý làm khổ em đâu, chỉ vì chị vụng về thôi. Chị xin lỗi em!” Đó là câu mà chúng ta phải học thuộc và có thể nói bất cứ lúc nào. Khi thấy người kia khổ là ta có thể nói ra được. Tôi đã từng xin lỗi học trò. Tôi nói: “Thầy xin lỗi con!

Chúng ta thực tập để đừng tạo ra thế tam giác ở trong gia đình, trong đoàn thể, và trong xã hội. Vì nếu có một thế tam giác rồi, nó sẽ tạo thế tam giác thứ hai, thứ ba, và mọi người sẽ đi vào một mê lộ. Hạnh phúc của chúng ta là do chính ta, chúng ta phải khéo léo. Ta phải ngồi lại với nhau để tìm ra phương pháp giúp chúng ta sống có hạnh phúcChúng ta đã có những phương pháp để thực tập hạnh phúc, trong đó phương pháp nghe và phương pháp nói là hai phương pháp mà chúng ta có thể thực tập mỗi ngày.

Cách nói còn quan trọng hơn là điều mình nói. Tại vì khi không hiểu được người nghe, khi không có chánh kiến và chánh tư duy, thì điều mình nói sẽ như nước đổ lá khoai, không ích lợi gì, không mang lại sự chuyển hóa cho người nghe. Ngày xưa trong những buổi pháp thoại của đức Thế Tôn, thỉnh thoảng có những người giác ngộ ngay trong khi nghe giảng. Vì trong buổi nghe giảng đó, những hạt giống lành của họ được Đức Thế Tôn tưới tẩm và chúng nở hoa ngay lập tức. Tại sao đức Thế Tôn làm được như vậy? Tại vì ngài nhìn thấu trái tim của người nghe. Ngài biết rằng người đó cần cơn mưa ấy, hay người đó cần phải có cái búa kia. Có nhiều khi ngài đã không ngại dùng những cái búa rất lớn để đập xuống. Cái đó gọi là chánh ngữ.

Chánh ngữ còn có một tác dụng khác nữa là gỡ bom. Trong mỗi chúng ta đều có một trái bom nho nhỏ và nó có thể nổ bất cứ lúc nào. Dù mình đã xuất gia, trái bom đó cũng vẫn còn. Nếu không cẩn thận, nó nổ một cái là mình tan xác.

Có một phương pháp để gỡ bom. Nhiều người vì đau khổ quá cho nên đã trở thành những trái bom. Nhìn vào, mình thấy người đó giống hệt như trái bom, rất nguy hiểm. Đụng tới người đó thì bom sẽ nổ và mình sẽ tan xác. Cho nên mình sợ, mình tránh xa, làm người đó tưởng là mình tẩy chay. Nhưng kỳ thực mình đâu có tẩy chay, mình thương nhưng chỉ tại mình sợ quá mà thôi!

Chánh ngữ là một phương pháp mầu nhiệm mà chúng ta có thể sử dụng để gỡ  bom ở trong người kia. Gỡ giùm bom ra để chúng ta được an toàn, và để người đó cũng được an toàn, vậy sẽ hạnh phúc hơn. Tháo bom là một pháp môn mà mọi người cần phải học để giúp cho mình và cho mọi người an toàn và hạnh phúc.