Nuôi lớn bốn vị bồ tát
https://www.youtube.com/watch?v=U0dR5kuQgek&list=PLMG8i-w8rYWm-hwFeM-HD9YE02FNqLty2&index=5
Bốn lời quán nguyện hướng về bốn vị bồ tát lớn: bồ tát Quan Thế Âm, bồ tát Văn Thù, bồ tát Phổ Hiền và bồ tát Địa Tạng là để đánh động những hạt giống vững chãi, thảnh thơi và hiểu biết trong con người của mỗi chúng ta. Ban đầu những vị bồ tát lớn như Quan Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền và Địa Tạng có thể được nhìn nhận như những vị bồ tát ở ngoài ta. Nhưng nếu thực tập tinh chuyên và vững chãi ta sẽ thấy được rằng những vị bồ tát đó đang ở trong ta và ta cũng có những hạt giống năng lượng của các vị bồ tát ấy. Có thể những nhà khảo cứu sẽ đặt câu hỏi rằng các vị Quan Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Địa Tạng có phải là những nhân vật lịch sử không, họ sinh ở đâu năm nào, họ xuất gia năm nào. Được hỏi như vậy chúng ta có thể sẽ bối rối tại vì chúng ta không có những tư liệu đó. Nhưng vì thực tập theo con mắt đại thừa, nên ta thấy được rằng những chi tiết kia không quan trọng. Quan trọng là cái tên ấy và con người ấy có đại diện được cho một cái gì không. Tình thương và khả năng lắng nghe là một cái gì có thật, nhưng ta chỉ tiếp xúc được với tình thương và khả năng lắng nghe khi mà ta tiếp xúc được với một con người. Bồ Tát Quan Thế Âm là một con người, nhưng chúng ta không nghĩ rằng chỉ có con người ấy mới có tình thương và khả năng lắng nghe, tại vì chung quanh ta, trong đoàn thể chúng ta sống, cũng có những người có tình thương và khả năng lắng nghe. Có những người có tình thương khá lớn, có khả năng lắng nghe khá lớn. Có người thì tình thương nhỏ hơn, khả năng lắng nghe nhỏ hơn. Nhưng ai cũng có tình thương, ai cũng có khả năng lắng nghe. Vì vậy cho nên Quan Thế Âm là một nhân vật có thiệt, không phải chỉ trong quá khứ, mà còn có thiệt ngay trong hiện tại. Và chính trong mỗi chúng ta cũng có Bồ Tát Quan Thế Âm. Vì vậy cái quan trọng là cái chất liệu có thật, còn cái hình tướng để biểu lộ chất liệu đó có thể là thiên hình vạn trạng. Cho nên vấn đề Bồ Tát Quan Thế Âm có phải là một nhân vật lịch sử không, điều đó không trở thành một vấn đề quan trọng nữa. Bồ Tát Quan Thế Âm có thể đang có mặt và đang ngồi sát cạnh ta mà ta không biết.
Trước hết ta có thể nghĩ rằng Quan Thế Âm Bồ Tát là một khía cạnh của Bụt Thích Ca. Bụt Thích Ca là một nhân vật lịch sử, và trong Bụt Thích Ca cũng có khả năng thương yêu và lắng nghe. Vậy thì ta có thể nói một cách rất đơn giản và rõ ràng rằng Bồ Tát Quan Thế Âm là một khía cạnh của đức Bổn Sư. Đức Bổn Sư có lòng thương lớn và có khả năng lắng nghe, nên là học trò của đức Bổn Sư thì ta phải thực tập thế nào để nuôi lớn cái tình thương ấy và cái khả năng lắng nghe ấy trong ta. Cho nên đức bồ tát Quan Thế Âm là một thực thể có thật, ít nhất là trong đức Thích Ca, trong ta và cố nhiên là trong các vị tổ sư qua các triều đại.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi cũng là một khía cạnh khác của đức Bổn Sư, tại vì trong đức Bổn Sư có tuệ giác lớn. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi là biểu trưng cho tuệ giác lớn đó. Vậy thì khi ta xướng lên câu Nam Mô Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ta cũng tỏ bày sự cung kính của ta đối với đức Bổn Sư, tại vì bồ tát Văn Thù Sư Lợi nằm ngay trong đức Bổn Sư. Và hơn nữa bồ tát Văn Thù Sư Lợi cũng nằm ở trong ta, tại vì ta cũng có hạt giống của tuệ giác. Nếu ta tu hành cho đàng hoàng thì hạt giống của tuệ giác cũng lớn lên và bồ tát Văn Thù Sư Lợi cũng được thể hiện trong ta và ta trở thành bồ tát Văn Thù Sư Lợi. Vì vậy cho nên vấn đề Ngài có phải là một nhân vật lịch sử hay không không còn quan trọng nữa. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi không những có mặt trong quá khứ mà cũng đang có mặt trong hiện tại và cũng sẽ có mặt trong tương lai. Cũng như Bụt Thích Ca đã có mặt trong quá khứ và đang có mặt trong hiện tại. Tại vì ta đang có mặt đây cho nên ta biết rằng đức Bổn Sư cũng đang có mặt và đức Bổn Sư sẽ có mặt trong tương lai. Ta biết điều đó vì ta sẽ có con cháu và con cháu ta sẽ tiếp nối ta nghĩa là tiếp nối đức Bổn Sư. Cho nên ngay cả vấn đề Bụt Thích Ca có phải là một nhân vật lịch sử không cũng không quan trọng mấy, tại vì nếu ta thấy được và tiếp xúc được với đức Thích Ca một cách rất thực tế thì ta đâu cần phải hỏi những câu hỏi như vậy.
Đức Bồ Tát Phổ Hiền cũng thế. Ngài biểu trưng cho hành động lớn. Đức Thích Ca là người có hành động lớn, bởi vì nếu không có hành động lớn thì Ngài đã không thiết lập tăng đoàn, đã không đi giáo hóa từ nước này sang nước khác, đã không dựng nên được một nếp sống văn minh tinh thần mà nhân loại đã và đang được thừa hưởng trong 2600 năm qua. Vì vậy cho nên đức Thích Ca là bồ tát Phổ Hiền, và bồ tát Phổ Hiền là một phần của đức Thích Ca. Khi ta lạy, ta lạy một cái gì rất cụ thể, tại vì ta biết rằng cái ước muốn hành động lớn và cái khả năng hành động lớn cũng có ở trong ta. Tuy rằng nó có thể đang còn yếu kém nhưng nếu ta thực tập nó sẽ lớn lên.
Nói tới bồ tát Địa Tạng ta thấy rằng ngài tượng trưng cho đại nguyện. Chữ nguyện này ta có dịch là vow, aspiration, deep longing, promesses. Nguyện là lời thề. Lời thề của đức Địa Tạng là không bỏ nhau. Dầu sao đi nữa tôi sẽ không bỏ anh, dầu sao đi nữa tôi sẽ không bỏ em, nhất là trong khi anh đang còn bị kẹt trong tình trạng đau khổ, tuyệt vọng thì tôi sẽ không thể bỏ anh. Đó là tinh thần bất xả. Trong đạo Bụt có danh từ xả nghĩa là buông bỏ. Có những cái mà ta cần phải buông bỏ thì ta mới có hạnh phúc. Nhưng có những cái ta không thể buông bỏ: đó là những người thương của ta. Ta buông bỏ những người thương của ta thì ta là kẻ không có giá trị gì cả. Mà những người thương của bồ tát Địa Tạng là những người đang đau khổ dưới địa ngục. Đó là tinh thần bất xả. Một mặt ta thực tập xả, một mặt ta thực tập bất xả. Xả là releasing, bất xả là not abandoning. Hai cái có thể đi đôi với nhau, và phải đi đôi với nhau.
Trái tim của sự thực tập là chánh niệm. Chánh niệm trong khi ăn, uống, đi, đứng, nằm, ngồi… Chánh niệm này tạo thành năng lượng. Năng lượng được thể hiện ra bốn mặt. Mặt thứ nhất là mặt Bi, tức là tình thương. Thử tưởng tượng đức Bổn Sư Thích Ca không có tình thương. Không tình thương thì đâu phải là đức Bổn Sư nữa. Tình thương là một yếu tố trong bản chất của đức Bổn Sư Thích Ca. Thứ hai là tuệ giác, là trí tuệ, là understanding, là wisdom. Nếu không có đại trí, thì đức Bổn Sư cũng đâu phải là đức Bổn Sư nữa. Và vì vậy đại trí là bản chất thứ hai của Bụt. Trí và Bi viên mãn, đó là lời khen ngợi đức Bổn Sư. Thứ ba là Hạnh (action). Khi đã thấy và hiểu rồi thì thế nào cũng phải thương, mà đã thương rồi thì không thể nào bỏ được. Cái đó gọi là bất xả. Năng lượng của tình thương đưa tới hành động. Thương tức là hành động. Và cuối cùng là khi có hiểu và thương rồi thì cũng có nguyện tức là có lời thề, và lời thề của đức Địa Tạng là “Địa ngục vị không thề bất thành Phật” có nghĩa là “khi nào địa ngục còn chưa trống trơn thì con chưa thành Phật”. Lời nguyện đó cũng là lời nguyện của những người muốn hành động, muốn đi tới những vùng tối tăm nhất, khổ đau nhất để đem tới ánh sáng và niềm an ủi. Vì vậy chánh niệm ở đây được thể hiện bởi lời thề, và đại diện là bồ tát Địa Tạng. Tình thương được thể hiện bằng đức Quan Âm và ngài được nhận diện như là một người có khả năng lắng nghe. Đức Văn Thù đại diện cho Đại Trí. Và Hành Động là đức Phổ Hiền. Phổ có nghĩa là cùng khắp, Hiền có nghĩa là cái lòng tốt. Phổ Hiền được dịch là Universal Goodness. Vì vậy ta đi tới kết luận là bốn vị bồ tát này có mặt trong quá khứ, có mặt trong hiện tại và có mặt trong tương lai. Bốn vị bồ tát này không cần phải là nhân vật lịch sử. Bốn vị bồ tát đó là những thực thể, tại ta biết rằng khả năng thương yêu, khả năng hiểu biết, khả năng hành động và cái nguyện lớn của chúng ta là những điều có thật trong ta, trong đức Bổn Sư và trong những người khác. Tụng đọc bốn lời này là để nuôi lớn lên những năng lượng như vậy trong ta, những năng lượng ấy có ở nơi đức Bổn Sư một cách tràn đầy, có nơi các vị tổ sư một cách tràn đầy và cũng đang có trong những người chung quanh ta. Người nào cũng có những năng lượng ấy cả. Thành thử ta không cần biết đức Văn Thù, đức Phổ Hiền, đức Địa Tạng và đức Quan Thế Âm là những nhân vật lịch sử có thiệt hay không. Ta chỉ cần biết rằng những năng lượng đó là những gì có thật và ta đang tiếp xúc với những gì có thật. Ta không đang vẽ cho ta những hình bóng vẩn vơ để mà thờ phụng.
Vấn đề đức tin là vấn đề lớn. Có những người hoài nghi nói rằng giả sử mình thờ phụng Thượng Đế, mà nếu Thượng Đế không có thì mình mất công quá. Ngày nào cũng cầu nguyện, ngày nào cũng đầu tư vào Thượng Đế, lỡ Ngài không có thiệt, thì có phải là uổng công hay không. Mình tính toán, mình quen thói làm nhà buôn, mình đầu tư, cho nên mình xem việc tu hành cũng là một cách đầu tư. Trong lịch sử tư tưởng loài người đã có những câu hỏi như vậy, đã có những người tính toán như vậy. Có người nói: cứ thờ phụng Thượng Đế đi, nếu có Thượng Đế thì mình về thiên đường, nếu không có Thượng Đế thì mình đâu có mất gì. Đó là thói quen tính toán thiệt hơn của những nhà buôn.
Tôi biết bằng kinh nghiệm trực tiếp của tôi là đức Quan Âm có thật, tại kinh nghiệm ấy cho biết tình thương có thật. Tôi biết bằng kinh nghiệm trực tiếp của tôi là đức Địa Tạng có thật, tại vì ý chí đi tới những vùng khổ đau để làm công việc nâng đỡ và cứu giúp là năng lượng có thật. Bây giờ trên thế giới có những người đang đi về những phía có đau khổ như vậy. Có những Địa Tạng tuổi còn rất nhỏ nhưng đang đi vào những chốn địa ngục mong cứu giúp và làm nhẹ bớt khổ đau. Đức Địa Tạng đang có mặt trong giây phút hiện tại khắp nơi trên thế giới. Trong lòng ta cũng có một đức Địa Tạng, nhưng có thể là đức Địa Tạng trong ta chưa đủ lớn thành ra bây giờ ta đang không ở địa ngục mà thôi. Nếu đức Địa Tạng lớn thì ta đang ở trong địa ngục, đang làm công việc cứu giúp cho những người khổ đau trong địa ngục. Tuy nhiên ở trong địa ngục mà ta không đau khổ những cái khổ đau của những người đang ở trong địa ngục. Trong ta có nhiều tình thương, tình thương đi tới đâu là đem tịnh độ theo tới đó. Ta ở dưới địa ngục mà vẫn hạnh phúc như thường, càng ở dưới địa ngục lâu thì hạnh phúc của ta càng lớn, tại vì ở đó ta làm những cái có thể thỏa mãn được tình thương của ta, được nhu yếu thương yêu của ta. Địa ngục chính là cái đạo tràng tốt nhất. Chính trong môi trường đó mà ta có thể nuôi dưỡng tình thương và hạnh phúc của ta. Vì vậy cho nên khi một vị Bồ Tát có mặt dưới địa ngục thì địa ngục sáng lên. Vị Bồ Tát không đau khổ vì sự có mặt của vị Bồ Tát làm nhẹ đi rất nhiều những đau khổ của địa ngục. Trong ta ai cũng có một Bồ Tát Địa Tạng. Nếu chúng ta thờ ơ, nếu chúng ta làm lơ và phớt tỉnh về những đau khổ của mọi loài là vì đức Địa Tạng trong ta chưa được ta tiếp xúc. Vậy câu hỏi đức Địa Tạng có phải là một nhân vật lịch sử hay không không phải là một vấn đề với tôi, vì tôi biết đức Địa Tạng có thật bằng kinh nghiệm trực tiếp, vì mắt tôi đã trông thấy những bồ tát Địa Tạng ở khắp nơi, ở trong tổ chức Médecins Sans Frontière, ở trong các tổ chức những người thiện nguyện đang đi vào các vùng đói kém khổ đau ở trên thế giới. Họ không phải là những Địa Tạng thì họ là gì nữa, những vị Địa Tạng lớn tuổi, những vị Địa Tạng nhỏ tuổi, những vị Địa Tạng không muốn trở về với đời sống tiêu thụ của xã hội mà nguyện ở lại càng lâu càng tốt ở những vùng đói kém khổ đau. Địa Tạng là những nhân vật có thiệt, chúng ta phải trả lời như vậy. Đức Địa Tạng cũng đang có ở trong tôi và tôi đang nuôi lớn đức Địa Tạng trong tôi. Với tuệ giác đó, chúng ta đọc những lời quán nguyện này và chúng ta thấy rằng những lời quán nguyện này hoàn toàn không có tính cách cầu khẩn mê tín mà là sự thực tập vun tưới những hạt giống tốt ở trong ta và trong những người sống xung quanh ta.
Đức Bồ tát Quán Thế Âm
“Lạy đức Bồ Tát Quan Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh bồ tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ“. Khả năng lắng nghe của con đang còn yếu kém. Mỗi khi buồn giận, con không có khả năng lắng nghe người kia một cách sâu sắc được. Vậy nên những lúc như vậy con rất cần tới ngài, con cần thực tập như ngài. Chúng ta biết chỉ cần lắng nghe người khác trong vòng một giờ đồng hồ với tất cả trái tim thì người kia đã bớt khổ nhiều rồi. Vậy mà ta không biết cách nuôi dưỡng khả năng lắng nghe của mình. Thực tập lời quán nguyện này là thực tập khả năng lắng nghe. “Con xin học theo hạnh bồ tát“, nghĩa là con xin bắt chước bồ tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. “Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu“. Nghe ở đây không phải là nghe bằng hai tai mà nghe bằng trái tim. Nghe như vậy thì mới có thể hiểu được, và khi hiểu được rồi thì khổ đau của người kia sẽ tự nhiên nhẹ bớt. Người đau khổ nhất trên đời là người có cảm tưởng rằng không ai hiểu được mình. Giờ phút có một người chứng tỏ là đã hiểu được mình, và nghe được mình, thì cái khổ đau đó không còn lớn lao như trước nữa. Cho nên trong số chúng ta nếu ai tìm ra được một người có thể nghe mình và hiểu được mình thì người đó được xem như là đã có hạnh phúc. Ta phải tự đào luyện mình thành một hành giả biết nghe và biết hiểu.
Khả năng biết nghe và biết hiểu là khả năng của đức bồ tát Quan Thế Âm và của bồ tát Văn Thù Sư Lợi. Câu này cho chúng ta thấy đức Văn Thù Sư Lợi nằm ở trong đức Quan Thế Âm. Biết nghe tức là biết hiểu, biết hiểu tức là biết nghe, Quan Âm và Văn Thù không phải là hai thực thể riêng biệt. Văn Thù là hiểu mà Quan Âm là nghe. Trong Quan Âm có Văn Thù, trong Văn Thù có Quan Âm. Đó là sự tương tức của hai vị bồ tát lớn. “Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con“. Chú tâm ở đây là định. Nghe thì thân và tâm phải nhất như, mình phải có mặt thật sự. Hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại để lắng nghe một cách đích xác. Thành khẩn ở đây cũng chỉ có nghĩa là có mặt hoàn toàn. Mỗi người trong chúng ta ai cũng đều có thể làm được như vậy, nhưng chúng ta chưa chịu làm đấy thôi. Chúng ta ai cũng biết thở. Khi thực tập thở có ý thức ta đưa thân và tâm về một mối, để ta có mặt thật sự trong giây phút hiện tại. Ta không đánh mất ta trong tương lai, trong quá khứ, ta có mặt hoàn toàn trong giây phút hiện tại để lắng nghe người kia.
“Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến“. Thành kiến là những ý kiến đã có sẵn trước. Vì có những ý kiến có sẵn trước rồi nên những điều đang nói không lọt được vào tâm hồn mình. Mình bóp méo tất cả những điều người kia nói. Đức Quan Thế Âm là người biết nghe với tâm không thành kiến. Chúng ta còn có những thành kiến. Khi nghe chúng ta thường bị những thành kiến đó bít lấp và vì vậy ta không chấp nhận và không hiểu được người kia. Thành kiến ở đây là những vọng tưởng mà ta đã chứa chấp sẵn. Tu tập thiền quán là để đả phá những thành trì của thành kiến và cố chấp. Nếu không phá được thành trì của thành kiến và cố chấp thì ta sẽ khổ, và ta sẽ làm cho người khác khổ. Do đó thực tập nghe với tâm không thành kiến là một phương pháp tu hành rất sâu sắc. “Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng“. Chúng ta có tập khí muốn làm quan tòa. Nghe cái gì là muốn phán xét liền, giống như một bức tường hất trái bóng trở lại. Đó là một tập khí xấu. Chúng ta đừng làm một bức tường. Chúng ta phải làm không gian để khi trái bóng được liệng tới thì ta có thể tiếp đón được. Phạm Duy có một bài hát “Em là khoảng trống cho tình đong vào”. Nếu mình là bức tường thì làm sao trái bóng có thể đi vào được. Phải làm khoảng trống thì mới có thể lắng nghe.
Có một câu chuyện thiền: Một ông giáo sư triết học tới tham vấn với một thiền sư. Thiền sư mời ông giáo sư uống trà. Trong khi vị thiền sư pha trà, thì ông giáo sư cứ nói liên tục không ngừng. Vị thiền sư muốn dạy cho ông giáo sư một bài học. Ngài rót trà vào ly, và không ngừng rót làm nước trà tràn ra ngoài chén, để trà tràn ra khay, rồi tràn ra bàn. Lúc đó ông giáo sư mới ngừng nói lại và la lớn: “Thôi đừng rót nữa! Thầy không thấy sao, nước tràn ra ngoài như vậy mà cứ rót hoài”. Thiền sư ngưng lại, nhìn lên vị khách quý mỉm cười và nói: “Ông giáo sư cũng đầy như chén trà vậy, làm sao tôi có thể rót thêm trà vào được nữa. Làm sao tôi có thể nói cho ông nghe chút gì về thiền được?”
“Chúng con xin tập ngồi nghe để hiểu“. Mục đích ngồi nghe là để hiểu. Ta có những cái mê muội trong ta. Khi biết nghe thì nghe những lời nói đúng ta hiểu, mà nghe những lời nói sai ta cũng hiểu. Nghe điều gì ta cũng quán chiếu điều đó. Người ta nói đúng mình cũng học được, nói sai mình cũng học được. Mình học được trong chiều sâu, mình biết tại sao người ta nói như vậy. “Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói“. Có những điều người kia nói ra không được, tại vì họ không có khả năng nói. Khi một thiền sinh có những nỗi khổ niềm đau tới với chúng ta, lúc đầu họ làm như không có nỗi khổ niềm đau nào hết. Nhưng khi đã thực tập vài ngày, cảm được tình thân của ta thì họ bắt đầu nói ra được những khổ đau của họ. Tuy nhiên, họ vẫn giấu không dám nói tới điểm chính, mà chỉ nói những điểm xung quanh thôi. Họ ít dám nói thẳng niềm đau của họ. Ta phải lắng nghe rất kỹ để không những nghe được điều họ đang nói mà còn nghe được những điều họ chưa dám nói. Nếu ta khéo léo hỏi đúng một câu thì họ òa lên khóc và nói cho ta tất cả sự thật. Một cặp vợ chồng nọ có khó khăn với nhau, người vợ tới không nói thẳng là mình có khó khăn với chồng, chỉ nói tới những khó khăn của riêng mình và của các con thôi. Bởi vì cảm thấy ngại ngùng khi phải thổ lộ với một người ngoài rằng tôi có khó khăn với chồng tôi. Chỉ khi tin tưởng lắm thì họ mới dám nói. Do đó khi ngồi nghe, nếu ta không nghe bằng tất cả trái tim thì không thể hiểu được, không thể hỏi được những câu hỏi khiến cho người kia bật ra sự thật.” Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi“.
Bồ tát lắng nghe làm cho người bớt khổ. Lắng nghe là một phương pháp mầu nhiệm để thiết lập lại sự cảm thông. Trong thời đại chúng ta có những phương tiện truyền thông rất hiện đại như email, fax, điện thoại,… Chỉ cần nửa phút thôi là có thể gởi tin tức tới những nơi rất xa, trong khi đó sự truyền thông giữa những người thân trong gia đình đã trở nên khó khăn. Truyền thông giữa cha con, anh em, vợ chồng hầu như bị cắt đứt. Nền văn minh của chúng ta đang bị phá sản về phương diện đó. Đời sống gia đình không hạnh phúc, giao hảo quốc tế giữa nước này và nước khác trở nên khó khăn, những sắc tộc khác nhau trong một thành phố chống báng và kỳ thị nhau. Cá nhân cũng như đoàn thể không có khả năng truyền thông với nhau nên nảy sinh ra những chống đối, những hiểu lầm. Do đó hạnh tu của bồ tát Quan Thế Âm rất thiết yếu. Ai cũng phải học hạnh lắng nghe để có thể thiết lập lại sự truyền thông.
Đức Bồ tát Văn Thù Sư Lợi
“Lạy đức bồ tát Văn Thù Sư Lợi, chúng con xin học theo hạnh bồ tát biết dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật và vào lòng người”. Trong đời sống hiện nay, chúng ta chỉ quen “chạy”. Chúng ta chạy trong lòng, chạy như bị ma đuổi. Tuy đang ngồi uống trà hoặc đang ăn cơm ta vẫn tiếp tục chạy, vì thế ta không thấy được sự thật đang xảy ra. Muốn nhìn sâu và hiểu rõ thì chúng ta thì phải dừng lại. “Dừng” là chỉ, “thấy” là quán. Đức bồ tát Văn thù là người thực tập thiền quán, ngài biết dừng lại và biết nhìn sâu. Biết dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật và vào lòng người. Lòng người là lòng mình và lòng những người xung quanh mình. Lòng đây là những tâm hành như ghét, thương, vui, buồn, giận, sợ hãi, chán nản, hy vọng… tất cả những tâm tư ấy là đối tượng của cái nhìn. Thực tập nhìn như thế nào để thấy được chiều sâu của các tâm hành. Muốn nhìn sâu thì phải dừng lại.
Trong khi ngồi, khi đi, khi đứng, khi ăn cơm ta phải thực tập dừng lại. Có thể là mình đang ngồi ăn cơm cùng với đại chúng cả trăm người. Trong số đó có những người đã thực sự dừng lại được để ăn cơm, nhưng một số khác vẫn tiếp tục rong ruổi. Chúng ta chạy đi đâu mà chạy dữ như vậy? Vào giờ ăn mà vẫn còn chạy nữa? Nếu không có khả năng dừng lại thì làm sao có khả năng có hạnh phúc? Hãy dừng lại trong khi ăn cơm. Trong khi ăn cơm ta chỉ ăn cơm mà thôi. Anh có thể làm được chuyện đó không, chị có làm được chuyện đó không? Chúng ta đã chạy trong bao nhiêu đời, trong bao nhiêu kiếp rồi? Bây giờ có cơ hội này, vậy mà ta cũng còn chạy nữa. Tại sao ta không ngồi ăn cơm cho đàng hoàng, tại sao ta không ngồi uống trà cho đàng hoàng, tại sao ta không ngồi thiền cho đàng hoàng, không đi thiền cho đàng hoàng? Thiền hành tuy là đi nhưng mà cũng một pháp môn thực tập để dừng lại.
Thiền chỉ và thiền quán là bản chất của sự thực tập. “Chúng con xin tập nhìn bằng tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con“. Chú tâm và thành khẩn tức là có mặt thật sự. Thân, khẩu và ý hợp nhất. “Chúng con xin tập nhìn với con mắt không thành kiến“. Phải phá đổ hàng rào của thành kiến và cố chấp thì ta mới có thể thấy được. Một người Do Thái khi nhìn một người Palestinien thì phải nhìn bằng cách ấy mới thấy được những sợ hãi, khổ đau và ước mơ của người Palestinien. Một người Palestinien khi nhìn một người Do Thái cũng phải nhìn bằng cách ấy mới thấy được những sợ hãi, đau khổ và những ước mơ của người Do Thái. Nếu cả hai bên đều có thể nhìn nhau một cách sâu sắc như vậy thì sẽ thấy rằng bên nào cũng tội nghiệp, bên nào cũng có sợ hãi, hận thù, cũng bị trấn ngự bởi cảm giác không có an ninh. Và khi cả hai bên đều thấy được như vậy thì mới phát kiến ra được sự thật là nếu cứ tiếp tục trừng phạt nhau thì tình trạng sẽ không đi đến đâu. Chi bằng cùng nắm tay nhau ngồi xuống để tìm ra một giải pháp thiết lập lại truyền thông. Nếu người Do Thái và người Palestinien chưa làm được thì chúng ta-những người không phải là Do Thái hay Palestinien, chúng ta phải làm được với nhau. Để rồi chúng ta có thể tới với họ và giúp họ. Nếu có hai người không tới được với nhau, không hiểu nhau thì ta phải đến với cả hai người để giúp cho hai người đó dừng lại việc làm khổ nhau, và tập lắng nghe nhau, nhìn nhau bằng con mắt không thành kiến. Lắng nghe bằng lỗ tai không thành kiến và nhìn bằng con mắt không thành kiến là một phương pháp thực tập rất quan trọng.
“Chúng con xin tập nhìn mà không phán xét, không phản ứng“. Chúng ta không nhìn bằng con mắt của quan tòa, chúng ta phải nhìn bằng con mắt của người thương. Chúng con nguyện tập nhìn sâu để thấy và để hiểu những gốc rễ của mọi khổ đau. Đây là thực tập Tứ diệu đế. Khổ đau có mặt. Nhìn sâu vào khổ đau để thấy và để hiểu được gốc rễ của nó. Để thấy được tự tính vô thường và vô ngã của vạn vật. Khi thấy được tự tánh vô thường và vô ngã là tự nhiên ta có thể thay đổi cái nhìn và ta chấp nhận được người khác một cách dễ dàng. Tôi với anh không phải là hai thực thể riêng biệt. Nếu anh còn khổ thì tôi còn khổ, nếu tôi còn khổ thì anh còn khổ. Vì vậy chúng ta phải nương vào nhau và giúp đỡ nhau thay vì trách móc hay trừng phạt nhau. “Chúng con xin học theo hạnh bồ tát dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền não“. Phiền não tức là tham, sân, si, mạn, nghi và tà kiến. Phiền não ở đây chỉ có thể bị chặt đứt bằng thanh gươm của trí tuệ. Đức Văn Thù có thanh gươm ấy. Ngày xưa dưới cây bồ đề đức Thế Tôn đã dùng thanh gươm ấy. Và giờ đây chúng ta đã được trao truyền thanh gươm ấy. Đó là phương pháp chỉ và quán. Tức là dừng lại và nhìn sâu. Nhìn sâu để thấy bản chất của khổ đau. Nếu không dùng thanh gươm chỉ và quán chúng ta sẽ không đoạn trừ được những sợi dây phiền não đang trói buộc ta. Nếu ta đang khổ, đó là tại vì ta đang bị trói buộc bởi những sợi dây của thèm khát, của giận hờn, của thù oán, của ngã mạn. Và ta phải thực tập ngày đêm để chuyển hóa những tập khí đó.”Dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền não, giải thoát khổ đau cho chúng con và cho mọi giới“. Nếu mình không có khả năng tự cởi trói cho mình được thì làm sao mong cởi trói cho người khác?
Đức bồ tát Phổ Hiền
“Lạy đức bồ tát Phổ Hiền, chúng con xin học theo hạnh nguyện của bồ tát, biết đem con mắt và trái tim đi vào cuộc sống“. Ta đi vào cuộc sống với hành trang nào, nếu không phải với con mắt và trái tim của ta? Con mắt nào có thể đem vào cuộc đời nếu không phải là con mắt của Văn Thù Sư Lợi? Nếu không có con mắt ấy, đi vào cuộc đời ta sẽ bị cuộc đời kéo theo như một dòng nước lũ. Anh đã có con mắt ấy chưa, em đã có con mắt ấy chưa? Nếu chưa có con mắt ấy thì đừng nên vội vã đi vào trong cuộc đời để trở thành chàng dũng sĩ trong truyện Cửa Tùng Đôi Cánh Gài. Ta phải có con mắt của bồ tát Văn Thù và trái tim của bồ tát Quan Thế Âm để đi vào đời. Mà có con mắt của Văn Thù và trái tim của Quan Thế Âm thì ta cũng trở thành bồ tát Phổ Hiền, nghĩa là mình có bàn tay hành động của bồ tát Phổ Hiền. Trong bồ tát Phổ Hiền có bồ tát Quan Âm và bồ tát Văn Thù. Các vị bồ tát có mặt trong nhau. Chúng con nguyện buổi sáng dâng niềm vui cho người, buổi chiều giúp người bớt khổ. Đạo pháp không phải là vấn đề miệng lưỡi, đạo pháp là vấn đề thực tập. Anh làm sao để buổi sáng có thể đem đến niềm vui ít nhất cho một người, và buổi chiều ít nhất làm cho một người bớt khổ. Những điều anh nói không đủ để tạo ra sự chuyển đổi. Ta đâu cần làm gì nhiều. Chỉ cần đi, đứng, nằm, ngồi, ăn sáng cho có chánh niệm là đã có thể mang đến niềm vui cho rất nhiều người. Khi trả lời cho anh, cho em, ta trả lời với một nụ cười, đó đã là trái tim của sự thực tập.
“Chúng con biết hạnh phúc của người chính là hạnh phúc của mình, và nguyện thực hiện niềm vui trên con đường phụng sự“. Đây là một câu nói diễn tả được giáo lý của Làng Mai: “hạnh phúc không phải là vấn đề cá nhân”. Trong liên hệ giữa mình và người kia, nếu kẻ kia khổ đau thì sao mà mình có hạnh phúc cho được. Làm cho người kia nở được nụ cười là mình đã thấy nhẹ trong lòng. Trên con đường lý tưởng, phải làm sao cho con đường ta đi trở thành con đường vui, bởi nếu không vui thì tu để làm gì? Điều này phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Ngoài đời người ta đã rầu rĩ khổ đau rồi, mình đi tu mà cũng rầu rĩ khổ đau nữa thì đâu có thể giúp đỡ được ai? Trong bài Quy Nguyện có câu: “Tăng là đoàn thể đẹp, cùng đi trên đường vui”. Ngày nào cũng cần chế tác niềm vui. Nếu chưa biết làm cho mỗi giây phút trong đời sống hằng ngày trở thành một giây phút an lạc thì mình chưa nắm được phép tu. Tu cùng nhau là hợp tác với nhau để tạo ra niềm vui trong đời sống hằng ngày. Ta sẽ được nuôi nấng bởi những niềm vui ấy. Tu là nghệ thuật chế tác niềm vui và chuyển hóa khổ đau. Phải đem tài năng và sáng kiến của mình ra để áp dụng trong sự tu tập. Làm sao để mỗi ngày là mội hội vui, mỗi ngày là một ngày tết.
“Chúng con biết mỗi lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cử chỉ và mỗi nụ cười đều có thể đem lại hạnh phúc cho mình và cho người.” Chúng ta giàu có hơn chúng ta nghĩ. Mỗi cử chỉ đều có thể đem lại hạnh phúc cho người, vậy mà mình cứ quen thói hà tiện. “Chúng con biết rằng nếu chúng con siêng năng tu tập thì tự thân chúng con là một nguồn an lạc bất tuyệt cho mọi người và cho cả muôn loài“. Ta rất giàu có, ta có thể bố thí, có thể đem lại niềm vui cho rất nhiều người, có thể ban tặng hạnh phúc cho mọi loài. Chỉ cần sống tỉnh thức để bồ tát Quan Âm có mặt trong trái tim, để bồ tát Văn Thù có mặt trong đôi mắt, thì tự nhiên những cử chỉ, những hành động, những lời nói của ta sẽ tạo ra niềm vui cho mình và cho mọi người.
Đức bồ tát Địa Tạng
“Lạy đức bồ tát Địa Tạng, chúng con xin học theo hạnh bồ tát, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự để có thể đem đến nơi ấy niềm tin, hy vọng và giải thoát. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình huống tuyệt vọng, nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai không còn lối thoát, những ai còn bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình nhân phẩm và quyền được làm người“. Có những người đang ngồi dưới đáy vực thẳm nhưng không có cách nào để có thể truyền thông được với bên ngoài, có những người đang bị kẹt vào những tình huống khó khăn và tuyệt vọng. Hiện giờ trên thế giới có rất đông những người như vậy. Nếu không có bồ tát Địa Tạng thì ai có thể đem ánh sáng tới những vùng đó? Trong thế giới chúng ta có rất nhiều người trẻ muốn làm những vị bồ tát Địa Tạng, muốn đem ánh sáng tới những vùng xa xôi và sâu thẳm như vậy. Ở trong một hoàn cảnh đầy đủ về vật chất, có nhân quyền, có tự do, vậy mà chúng ta lại giận hờn nhau, ganh tị với nhau, rồi xâu xé nhau. Chúng ta đau khổ mà không biết rằng cái đau khổ của chúng ta không thấm gì so với đau khổ của những người hiện đang ở trong những tình huống của địa ngục. Chúng ta phải tu tập như thế nào để trở thành một Địa Tạng trong vô số các vị Địa Tạng? Cánh tay của ta phải với tới được những tình trạng khổ đau và tuyệt vọng đó.
“Chúng con biết địa ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những địa ngục trần gian như thế.” Địa ngục có thật. Có những vị Địa Tạng đang tìm tới những nơi ấy. Có những địa ngục vắng Địa Tạng, nhưng cũng có những địa ngục bắt đầu có mặt Địa Tạng. Chúng ta phải nhận diện sự có mặt của những địa ngục như vậy ở khắp nơi trên thế giới. Không cần phải đi tới một cõi nào xa xôi mới thấy được địa ngục. Địa ngục nằm ngay bên cạnh chúng ta. Trong những thành phố lớn như Chicago, như New York, như Manila, như thành phố Hồ Chí Minh. Hoặc ngay ở Paris cũng có những vùng địa ngục. Chúng ta phải khám phá ra những địa ngục đó, để đưa bàn tay Quan Thế Âm tới. Ta phải nhờ bồ tát Địa Tạng dẫn ta tới. Đôi khi tưởng rằng ta không góp phần tạo ra các địa ngục ấy, nhưng kỳ thật có thể là ta đã tiếp tay xây dựng chúng. Ta là đồng lõa. Ta bận rộn tiêu thụ. Và trong cuộc sống hằng ngày, ta kẹt vào những nhỏ mọn, ganh tị, buồn chán mà không biết rằng có những địa ngục đang được dựng lên chỗ này hay chỗ khác. Thái độ thờ ơ bất cần của chúng ta là một yếu tố góp phần xây dựng lên những địa ngục như vậy trên trần gian. Chúng ta phải nói rất rõ là :”Con không muốn tiếp sức vào sự xây dựng những địa ngục ấy. Trái lại chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những địa ngục còn đang có mặt. Chúng con nguyện tu học để đạt tới đức vững chãi và kiên trì của đất. Bồ tát“. Địa Tạng có hai đức lớn là đức vững chãi và đức kiên trì. Có vững chãi thì mới kiên trì được. Kiên trì là không dễ dàng bỏ cuộc, dù khó khăn cách mấy cũng bám lấy. “Địa ngôn kiên hậu quảng hàm tàng”. Đất “kiên” và “hậu” nghĩa là vững và dày. “Quảng hàm tàng” là có khả năng chứa đựng lớn. Trong ấy có tình thương, có sự hiểu biết, có thể nâng đỡ, có thể làm chỗ nương tựa. Đó là lời ngợi khen bồ tát Địa Tạng. “Chúng con nguyện tu học để đạt tới đức vững chãi và kiên trì của đất, để trở thành trung kiên và không kỳ thị như đất, và cũng được như đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con.” Đất không kỳ thị, dù đổ phân rác vào đất thì đất cũng chấp nhận, đổ sữa lên đất thì đất cũng chấp nhận. Vì đất chuyển hóa được sữa, đất cũng chuyển hóa được phân rác. Đất có khả năng xả, nghĩa là không kỳ thị, không phân biệt, chấp nhận được tất cả để có thể chuyển hóa. Ta hãy tự hỏi mình là ta có khả năng làm chỗ nương tựa cho người khác hay không. Nếu thấy ta còn mong manh, đức còn mỏng, chưa có đủ vững chãi thì ta phải thực tập như thế nào để nuôi lớn thêm đức vững chãi mà làm chỗ nương tựa cho những người xung quanh.
Đây là một lá thư nhận được từ địa ngục gởi ra. Lá thư này của anh Nicolas người Mỹ. Lá thư gởi ra được là nhờ một Địa Tạng đã đưa vào địa ngục cuốn The joyful path và cuốn Peace is every step. Các bạn thiền sinh Hoa kỳ đã phát tâm bồ đề mua những cuốn sách ấy gởi vào trong các nhà tù. Có những tù nhân đọc được những cuốn sách ấy đã bắt đầu tu tập và chuyển hóa. Lá thư của Nicolas là một trong hằng ngàn lá thơ gởi tới. Nicolas đã bị kết án tử hình và đang chờ ngày lên ghế điện. Anh cũng đã có dịp được đọc cuốn Living Buddha Living Christ trong tù. Nhà tù này ở tiểu bang Pennsylvania. Thơ viết bằng tiếng Mỹ. Đây là bản dịch:
Ngày 28 tháng 12 năm 1997
Thưa Thầy,
Con không biết là lá thơ này tới được tay Thầy không. Nhưng con mong rằng có một người nào sống cùng địa chỉ của Thầy mở được lá thơ này ra mà đọc để cho con bớt khổ. Địa chỉ Thầy con tìm ra sau cuốn Living Buddha Living Christ mà người ta cho con. Con đã bị lên án tử hình mười bảy năm rồi và tuy rằng cuộc đời của con trong thời gian đó có bao nhiêu khổ đau, bao nhiêu thất vọng, nhưng trong con lại có ý chí muốn vượt thắng những vết thương và những cái sẹo tâm lý và tình cảm đã hằn lên tâm hồn. Những vết thương đó con đã mang theo vào trong tù và chúng đã được chất chứa và lớn lên trong tù. Con đã từng tranh đấu, đã từng vùng vẫy rất khó khăn với sự thù hận trong con. Có những lúc con nghĩ con không thể vượt thoát được. Những lúc đó con cảm thấy bị chúng đè bẹp và nghiến nát. Nhưng lạ thay, con đã học được cách sống sót từ những giờ phút khổ đau quằn quại đó, những giờ phút hờn oán hận thù ấy. Và ước muốn duy nhất bây giờ của con là có thể sống sót được mà không bị điên loạn bởi những hận thù kia, hận thù đối với những người đã bắt con, đã hành hạ con, đã làm cho con khổ đau đến mức cùng tận. Con không biết tại sao con lại có thể làm được chuyện đó, nghĩa là con có thể vượt thoát được những giờ phút mà con sắp hóa điên, để còn có thể giữ được sự an lành trong con. Con đâu có bao giờ nghĩ là con hơn ai, hơn người bên cạnh con chút nào đâu. Con chỉ là một con người tầm thường và con rất biết ơn dù sống trong tù qua mười bảy năm, con còn giữ được cái thăng bằng trong con và con chưa trở thành điên loạn. Với niềm biết ơn đó, con đã có thể trân quý được những gì xảy ra trong đời sống hằng ngày của con. Mỗi khi con nhìn mặt trời lặn, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Chỉ cần ngồi sau khung cửa sắt nhìn ra ngoài, con cũng có khả năng hưởng thụ được cái đẹp của cảnh mặt trời lặn. Trong nhà tù trước, con đã ở mười hai năm, và ngày nào con cũng chỉ được nhìn bức tường. Khi con được chuyển sang nhà tù này cánh cửa sổ trong nhà tù mới đã cho phép con thấy được một phần của thành phố với rất nhiều cây xanh. Lần đầu tiên được tiếp xúc với cây cối và một phần của thành phố, con cảm động quá cho đến nỗi con đã khóc nức nở.
Khi con đọc cuốn Peace is every step của Thầy và nghe được giáo pháp an trú trong hiện tại thì con lập tức hiểu ngay được giáo lý đó. Lâu nay con có thái độ thù ghét các tôn giáo tại tôn giáo nào cũng có khuynh hướng loại trừ những người không đi theo mình. Vì thế nên con đã gắng đi vào trong con, đã theo đường nội hướng để mong tìm sự an lành bên trong mà thôi. Con biết rằng con chỉ mới bắt đầu học Phật thôi, nhưng con đã có thể thấy được cái đẹp đơn giản trong sự đi tìm và chứng nhập với giây phút hiện tại và nhu yếu phải sống trong chánh niệm. Đời sống trong tù của con rất khó khăn, rất lao khổ, nên con đã học được phương pháp biết trân quý những giây phút ngắn ngủi, và nhờ vậy mà những lo lắng, sợ hãi về tương lai và cái chết không làm cho con điên loạn nữa và không có thể tiêu diệt được tính người trong con. Nhờ vậy mà bây giờ con đã học được cách hành xử như một người Phật tử. Con tin rằng nếu con tiếp tục thực tập thì con sẽ tìm được sự cải hóa từ từ cho đời sống tâm linh của con. Điều con mong ước sâu sắc nhất của con là dầu con có bị hành xử một cách tàn tệ và bạo động đi nữa thì con cũng hy vọng rằng từ cái rác đó con có thể biến nó thành hoa, và con có thể tìm ra cái an bình trong con. Và trong khi đi tìm sự an bình trong con, con có thể chấp nhận được con và con có thể sống rất thoải mái với chính con. Ước mơ của con là một ngày nào đó con được thả ra, và có người tới gặp con, nhìn con một lát rồi nói: “À, anh này đã ở trong tù hai mươi năm với tư cách của một người tử tội vậy mà bây giờ xem cũng còn được quá chứ.” Con chỉ có ước mơ có như vậy thôi. Con viết cho Thầy lá thơ này, hy vọng rằng lời nói của con có thể chia sẻ được với Thầy cái chất người ở trong con, không phải với tư cách của một người tử tù đợi ngày hành quyết, nhưng với tư cách một người đã được gởi vào đây để học hỏi và lớn lên trong một hoàn cảnh không có một hy vọng tối thiểu nào cho tương lai. Xin Thầy hãy bảo trọng sức khỏe của Thầy, hoặc ai đó đang đọc lá thơ này cũng nên tự bảo trọng lấy mình. Cám ơn Thầy hoặc ai đó đã đọc những lời này của con. Nicolas
Sau khi đọc xong lá thơ này, tôi có nhờ sư cô Thục Nghiêm gởi cho anh ta một cuốn Thiền Hành Yếu Chỉ, và có viết cho anh một lá thơ ngắn như sau:
Dear Nicolas,Thank you for writing. It is very encouraging for us here in Plum Village to know that you are practicing being in the present moment and giving a chance for the best in you to manifest. These jewels are seeds transmitted to you by spiritual and blood anscestors. True freedom is the freedom from afflictions such as despair, anger and hate. There are so many in the world who are not free and who suffer tremendously. They do not have the space within.
(Tôi muốn nói rằng nếu trong tù mà anh chưa điên loạn và anh còn giữ được chất người trong anh, và anh không hiểu tại sao anh làm được như vậy thì anh nên biết rằng cái châu báu đó là do tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống đã truyền cho anh. Nhờ đó mà bây giờ anh còn sống sót được. Và tuy là anh ở trong tù mà có tự do nhiều hơn chúng tôi, những người ở ngoài này nhưng đang bị hận thù, thèm khát và hối hận giam giữ).
We are trying to send you a small book on walking meditation. We hope you can practice mindful walking in your cell and also outside. Please invite others to join you. Try to help other inmates, sharing with them your peace and your capacity to enjoy the wonders of life that are available around and inside of you.
(Chúng tôi gởi cho anh tập Thiền hành yếu chỉ. Anh thực tập đi, trong phòng giam của anh và nếu được thì thực tập ở bên ngoài. Anh có thể mời những người bạn tù khác thực tập với anh, giúp đỡ những người đó và làm cho họ nếm được chút ít an lạc và hạnh phúc mà anh có trong khi tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống.)
We will be glad to learn about your success. You can be a truly free person wherever you are.
(Chúng tôi ở đây sẽ rất sung sướng nếu được biết anh thực tập thành công ở trong đó. Anh có thể là một người tự do dầu anh đang ở trong tù.)
Nurture and develop your compassion and understanding and helping other people around you. That will make you happy and bring a lot of joy to all of us here. Please feel free to write to Parallax or Community of Mindful Living to ask for more books and tapes on the teaching. When you write us please address yourself to sister Thục Nghiêm. She is a nun of American origin, so she can write and read English well. She will represent all of us.
Take good care. Love.
Thầy
(Hãy nuôi dưỡng chất liệu từ bi và hiểu biết trong anh, điều này sẽ làm cho anh tự do và hạnh phúc. Và nếu cần anh cứ viết thơ cho nhà xuất bản Parallax hay Community of Mindful Living để xin thêm sách và băng giảng. Viết thơ cho chúng tôi thì anh đề cho sư cô Thục Nghiêm vì sư cô là người Mỹ, có thể hiểu và viết tiếng Anh một cách rất dễ dàng, sư cô sẽ đại diện tất cả chúng tôi. Hãy bảo trọng. Thầy.)
Đây là một lá thơ khác từ trong nhà tù gởi ra. Nhà tù này ở tiểu bang Washington. Đây là một người tù gốc Việt.
Đầu thư con xin chúc Thầy được dồi dào sức khỏe và mọi sự được thuận lợi ở Làng Mai. Đệ tử tên là Hùng, là một người rất ngưỡng mộ Thầy và hiện đang cư ngụ tại Airway Correction Center. Trong thời gian qua, đệ tử nhờ ơn những cuốn sách của Thầy chỉ dạy mà đã hấp thọ được rất nhiều về đời sống tươi đẹp và thương yêu. Thời gian xa cha mẹ hiền và bỏ nước ra đi, đệ tử đây đã đi vào con đường tội lỗi. Vì quá ham vui nên đệ tử đã quên mất con đường về nhà mà tổ tiên đã chỉ bảo cho. Nhờ ơn Thầy chỉ dạy qua các cuốn sách mà đệ tử đã may mắn được đọc trong tù, cuốn Being Peace và cuốn A Joyful Path. Những cuốn đó đã giúp cho đệ tử rất nhiều như sự thực tập trở về nguồn gốc và đi trên lối đi của tổ tiên. Trong dòng họ của đệ tử ai nấy đều hướng về Phật giáo và có đôi người đã từng xuất gia. Đệ tử đội ơn Thầy đã mở rộng tầm mắt của đệ tử và mở đường cho đệ tử trở về với con đường của tổ tiên. Nhờ cuốn A Joyful Path, trang 14, mà đệ tử đã có thể viết cho ba của đệ tử một lá thơ để nối lại tình cha con. Ba đệ tử là một người say mê rượu chè và thường đánh đập má đệ tử lúc đệ tử còn nhỏ. Lớn lên con không hết lòng thương ba con. Qua cuốn sách của Thầy con mới thấy được những đau khổ mà ba con đã chịu đựng và con đã có thể viết thơ để hòa giải với ba con và con biết phải làm thế nào để độ cho gia đình con và để cho mọi người có thể hiến tặng nhiều tình thương cho nhau. Đệ tử xin hết lòng cảm tạ công lao của Thầy đã bỏ ra để soạn những cuốn sách quý báu cho con và cho tất cả mọi người. Những cuốn sách của Thầy đã giúp cho rất nhiều người ngay ở trong nhà tù này. Con cũng đồng thời xin thay mặt cho những anh em nào đến sau mà cảm tạ ơn Thầy đã biếu cho những cuốn sách quý đó để chúng con có thể tu luyện trong tù. Con xin chúc cho toàn thể chúng sanh và cho gia đình con nhiều điều an lành. Hùng.
Chúng ta không cần đi đâu xa. Chúng ta chỉ cần ở ngay tại chỗ thôi mà vẫn có thể tiếp xúc được với địa ngục. Cánh tay của chúng ta có thể với ra rất dài. Ở bên Anh, tăng thân Anh và Việt của chúng ta cũng đã gởi rất nhiều bản tin, những tờ tạp chí, những cuốn sách viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh cho các nhà tù. Và các bạn ở bên Đức cũng đã bắt đầu làm như vậy. Trong khi đó ở bên Mỹ có rất nhiều người đang thực tập thiền quán ở trong tù và nhờ đó họ bớt đau khổ rất nhiều. Có một người thực tập thiền hành trong một nhà tù ở California đã viết thơ cho Thầy và nói:
“Con đứng ở trên đầu cầu thang, đang thở và định đi xuống cầu thang có chút việc. Con thấy có những người tù khác đang đi lên và đi xuống. Họ chạy như bị ma đuổi, và nhìn cách đi đứng của họ con thấy được tất cả những đau khổ của họ. Con thấy họ như những trái bom sắp nổ. Con ao ước rằng người nào cũng có thể leo lên cầu thang và bước xuống cầu thang một cách nhẹ nhàng và chánh niệm như con để cho họ bớt khổ.”
Có một anh chàng đã viết được nguyên một cuốn sách về sự thực tập của mình ở trong tù và sách đã được một nhà xuất bản tên là Padma Publishing House in ra. Anh ta đã có cơ hội được quy y với một Thầy người Tây Tạng. Thầy đó đã vào trong tù để truyền tam quy và ngũ giới cho anh. Anh tên là Jarvis Master. Trong sách này anh kể nhiều chuyện vui. Có một hôm anh tù ở phòng bên đập cửa và chửi ầm lên, trong khi Jarvis đang thực tập: thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười. Anh Jarvis phải ngưng thực tập vì anh chàng bên kia đập phá quá. Chàng kia đang nổi điên. Chàng la: “Thằng chó chết nào đang hút thuốc bên kia, mày phải cho tao nửa điếu.” Anh ta chắc là Jarvis đang hút thuốc mà không chịu chia cho nó hút. Nhưng Jarvis đã bỏ thuốc từ khi mới bắt đầu tập thiền. Anh ta lớn tiếng với người bạn tù bên kia: “Mày là thằng chó chết nào? Tao đã bỏ thuốc từ lâu rồi. Mày xin thuốc hút mà la lối như vậy thì chó nào mà cho. Nếu mày dễ thương nói năng có lễ độ thì họa may tao cũng tìm cách kiếm thuốc cho mày. Anh bên kia nghe như vậy thì ngưng đập phá. Jarvis tuy đã bỏ thuốc lâu rồi nhưng vẫn còn giữ một gói thuốc rê. Anh tính cho, nhưng anh nghĩ là chỉ nên cho một chút ít thôi. Anh lấy ra một tờ giấy, gói lại một phần nhỏ của gói thuốc rồi chuyền qua cho người bạn tù. Tờ giấy anh ta dùng để gói thuốc là một tờ photocopie trang đầu của sách Being Peace mà tác giả là Nhất Hạnh. Chính nhờ nhận được từ ngoài gởi vào một bản photocopie của sách này mà anh Jarvis mới biết thực tập thiền. Anh ta tự nói là nếu mình gởi cho anh chàng kia trang một, có thể nó sẽ đọc và sẽ hưởng được chút ít pháp bảo. Anh bạn tù bên kia có vẻ rất sung sướng khi nhận được gói thuốc của Jarvis. Ba bốn ngày sau Jarvis chuyền qua một ít thuốc nữa và dùng trang thứ hai của sách Being Peace để gói. Rốt cuộc ước mơ của Jarvis đã thành tựu, vì khi đã chuyền hết cả cuốn sách qua rồi thì anh bạn tù trở nên rất im lặng dễ thương, vì anh cũng đang thực tập thiền ở khám bên kia. Từ đó về sau phòng tù bên phải của Jarvis rất yên, vì người kia không những đã nhận được thuốc, được tình thương mà còn nhận thêm giáo lý trong sách Being Peace nữa. Sau đó mấy tháng anh kia được thả. Ngày được phóng thích anh đi qua và dừng lại để cám ơn Jarvis. Hai người, một người ở trong, một người ở ngoài, cùng đọc lên một câu trong sách Being Peace: If you are peaceful, if you are happy, if you can smile, then everyone in our family in our entire society will benefit from our peace (Nếu anh tĩnh lặng, hạnh phúc, nếu mà anh có thể mỉm cười thì tất cả mọi người ở trong gia đình của anh và ở trong xã hội của anh đều được thừa hưởng sự tĩnh lặng và hạnh phúc của anh). Hai bên dị khẩu đồng âm cùng đọc lớn lên câu đó vì cả hai đều thuộc nằm lòng câu kia, trước con mắt ngơ ngác và thán phục của những người cai tù. Cuốn sách của Jarvis viết nhan đề là Finding Freedom: writngs from Death row, do nhà xuất bản Padma Publishing ấn hành năm 1997.
Chúng ta đã biết Địa Tạng không phải là một nhân vật thần thoại, Địa Tạng có thật bây giờ và có thể đang ở trong tù để giúp những người bạn tù. Do đó chúng ta không nên phí thì giờ vào những chuyện vô ích không đâu vì chúng ta có thể đóng vai của bồ tát Địa Tạng ngay bây giờ và ở đây, đưa cánh tay ra mà tiếp xúc với những khổ đau không bờ không bến trong những địa ngục đang có mặt ở khắp nơi trên thế giới.
______________________________
(Pháp thoại ngày 15 tháng giêng năm 1998 tại Xóm Mới
___________
Quán Nguyện
Lạy đức Bồ Tát Quan Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết lắng nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con xin nguyện ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi.
Lạy đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật và vào lòng người. Chúng con xin tập nhìn với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập nhìn với con mắt không thành kiến. Chúng con xin tập nhìn mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập nhìn sâu để thấy và để hiểu những gốc rễ của mọi khổ đau, để thấy được tự tánh vô thường và vô ngã của vạn vật. Chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền não, giải thoát khổ đau cho chúng con và cho mọi giới.
Lạy đức Bồ Tát Phổ Hiền, chúng con xin học theo hạnh nguyện của Bồ Tát, biết đem con mắt và trái tim đi vào cuộc sống. Chúng con xin nguyện buổi sáng dâng niềm vui cho người, buổi chiều giúp người bớt khổ. Chúng con biết hạnh phúc của người chính là hạnh phúc của mình và nguyện thực hiện niềm vui trên con đường phụng sự. Chúng con biết mỗi lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cử chỉ và mỗi nụ cười đều có thể đem lại hạnh phúc cho người. Chúng con biết rằng, nếu chúng con siêng năng tu tập, thì tự thân chúng con có thể là một nguồn an lạc bất tuyệt cho những người thân yêu của chúng con và cho cả muôn loài.
Lạy đức Bồ Tát Địa Tạng, chúng con xin theo hạnh Bồ Tát, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự, để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng, niềm tin, hy vọng và giải thoát. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình huống tuyệt vọng, nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai đang không còn bị lối thoát, những ai bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và quyền được làm người. Chúng con biết địa ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những địa ngục trần gian như thế; trái lại, chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những địa ngục còn đang có mặt. Chúng con nguyện tu học để đạt được đức vững chãi và kiên trì của Đất, để có thể được trung kiên và không kỳ thị như Đất, và cũng được như Đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con.