Bài Viết

Bát Nhã là một công án thiền

Đừng đi tìm cái anh muốn thấy. Việc làm đó vô ích.
Không đi tìm, nhưng cho phép cái thấy tự đến, cái thấy ấy sẽ
giải phóng được cho anh.
– Nhất Hạnh-

Bát Nhã đây là Tu Viện Bát Nhã ở Bảo Lộc, là Tăng thân Bát Nhã đang gặp khó khăn và đang là một mối băn khoăn cho chính quyền, là Pháp nạn của Phật giáo Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ thứ hăm mốt. Công án là một vấn nạn cần phải giải quyết bằng niệm, định và tuệ chứ không thể chỉ bằng trí năng của ta. Nếu chưa giải quyết được thì mình chưa có hướng đi, chưa có an lạc và hạnh phúc. Công án này có thể được tham cứu chung, nhưng cũng có thể được tham cứu riêng. Công án là một mũi tên cắm vào thân thể ta, chưa rút được mũi tên ra thì chưa có an lạc. Mũi tên này không phải từ bên ngoài bay tới. Nó không phải là một tai nạn mà là một cơ hội để ta quán chiếu và vượt thoát được những băn khoăn trăn trở của ta lâu nay về ý nghĩa cuộc đời, về tương lai đất nước, về hạnh phúc chân thật của ta.

Vua Trần Thái Tông ngày xưa đã từng tu Thiền, đã từng tham khảo công án và vua cũng đã đưa ra bốn mươi công án Thiền với các bài Niêm, Tụng và Kệ để mời các bạn tu cùng tham khảo tại chùa Chân Giáo. Những công án này còn được ghi lại trong sách Khóa Hư Lục do vua sáng tác. Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung, anh ruột của tướng Trần Hưng Đạo, cũng đã từng tham khảo công án, và cũng đã đề ra mười ba công án, những công án này cũng còn được ghi lại trong sách Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục.

Sách Bích Nham Lục do thiền sư Viên Ngộ biên soạn vào thế kỷ mười hai có cả thảy 100 công án thiền với những lời Thùy thị, Bình xướng và Trước ngữ, là một tác phẩm cổ điển được sử dụng trong nhiều trăm năm ở chốn thiền môn.

Trong số các công án phổ thông nhất có các công án “Cây tùng trước sân”, “Cái tất cả đi về cái một, cái một đi về đâu?”, “Con chó có Phật tính không?” và “Ai đang niệm Phật?”. Công án hào hùng nhất mà Tuệ Trung Thượng Sĩ đưa ra là “ Tất cả đều vô thường, đều là pháp sinh diệt. Cái gì sinh diệt?”

Công án không thể được giải quyết bằng lý luận, bằng biện chứng pháp, dù là biện chứng pháp duy tâm hay duy vật, mà phải được giải quyết bằng niệm lực và định lực, nghĩa là bằng năng lượng của chánh niệm và chánh định. Giải được công án thì ta thấy khỏe, không còn lo sợ thắc mắc gì nữa, là thấy được con đường đi, là đạt được sự an tâm.

Nếu nghĩ rằng con chó có Phật tính hay không là một vấn đề của riêng con chó, hoặc nghĩ đó là một vấn đề triết học cần phải giải quyết, thì đó chưa phải là một công án. Nếu nghĩ rằng cái một đi về đâu là một vấn đề chỉ liên hệ tới sự vận hành của thế giới khách quan bên ngoài thì đó cũng không phải là một công án. Nếu nghĩ rằng Bát Nhã là vấn đề của 400 tu sinh đang gặp khó khăn, đang cần một giải pháp “hợp tình hợp lý” thì đó cũng không phải là một công án. Chỉ khi nào thấy rằng Bát Nhã là vấn đề chính của bản thân ta, nó có liên hệ trực tiếp đến hạnh phúc, đau khổ của ta, của tương lai ta và tương lai đất nước dân tộc ta, và chừng nào chưa giải quyết được công án Bát Nhã thì ta còn ngủ không yên, ăn không yên, làm việc không yên, thì lúc ấy Bát Nhã mới thực sự là một công án. Niệm có nghĩa là nhớ tưởng, là canh cánh bên lòng, là nâng công án lên từng giây từng phút trong đời sống hàng ngày của mình để quán chiếu, không phút giây nào xao lãng. Niệm phải liên tục không được gián đoạn. Khi ăn cơm, khi mặc áo, khi tiểu tiện hoặc đại tiện, khi uống trà, khi tắm gội, hành giả phải đưa công án lên để mà quán chiếu. Công án có khi còn gọi là thoại đầu. Phật là ai mà ta phải niệm, và người đang niệm Phật, người ấy là ai? Ta là ai? Phải tìm cho ra. Chưa tìm ra là chưa vỡ vạc, chưa chứng ngộ, chưa thông suốt.

***

Những vị xuất gia trong Tăng thân Bát Nhã chắc hẳn là những người có cơ hội nâng  công án Bát Nhã lên cứu xét nhiều nhất trong đời sống hàng ngày. Ngày nào họ cũng ngồi thiền nhiều lần, đi thiền hành nhiều lần, và trong khi nấu cơm, giặt áo, lặt rau, quét tước, v.v., lúc nào họ cũng có cơ hội tham cứu về công án Bát Nhã. Họ có niệm và họ có định dễ dàng hơn, vì đó là vấn đề sống chết, vấn đề lý tưởng, vấn đề tương lai của họ.  Và có người đã quán chiếu thành công, vì vậy ở trong một tình trạng bị đàn áp và khủng bố thường xuyên như thế mà có những người trong số họ vẫn cười dòn được, vẫn tươi như hoa, vẫn chế tác được bình an và tình thương, vẫn không bị lo lắng sợ hãi và hận thù lôi kéo; trong khi đó thì những vị khác còn mang nặng chấn thương và những thống khổ gây nên trong những ngày Bát Nhã và Phước Huệ bị đánh phá. Một sư cô đã làm được bài kiến giải để trình lên thầy của mình. Cô viết: “Bát Nhã ngày xưa, nay đã thành mưa, rơi xuống mặt đất, nẩy hạt Bồ đề.”  Sư cô này chỉ khoảng 18 tuổi, và mới tu chưa đầy hai năm, nhưng đã quán chiếu thành công.

Tại sao mình chỉ muốn tu thôi mà người ta không cho mình tu? Tại sao các bậc tôn túc muốn che chở bảo lãnh cho mình tu mà nhà nước lại không cho bảo lãnh? Mình có biết chính trị là cái gì đâu và chẳng tha thiết gì tới chuyện chính trị, tại sao người ta cứ nói là mình làm chính trị và tại sao cứ nói Bát Nhã là một mối đe dọa cho an ninh quốc gia? Tại sao phải giải tán cho được Bát Nhã dù phải áp dụng những biện pháp như thuê côn đồ, vu khống, lừa gạt, đánh đập, đe dọa? Tại sao họ là những người đáng bậc cha chú mình mà họ nỡ làm như thế đối với mình? Nếu nhà nước không cho mình tu chung như một Tăng thân nữa mà bắt mình phải mỗi người đi một ngả thì làm sao trong tương lai mình có thể có lại một Tăng thân? Tại sao ở các nước khác người ta có tự do để thực tập pháp môn, còn ở đây thì không? Những câu hỏi như thế dồn dập đi tới. Ngồi thiền, đi thiền hành, nghe pháp thoại, thực tập chánh niệm trong khi nấu cơm, làm vườn, chấp tác, người hành giả nuôi niệm lực và định lực. Niệm và định lực ấy như sức nóng của lửa làm tan rã tất cả những dấu hỏi, những vấn nạn. Bát Nhã ngày xưa là hạnh phúc. Mình đã được sống rất thật với chính mình, với cách sống mà mình muốn sống. Mình có thể nói ra những cảm nghĩ của mình cho các anh chị em đồng tu mà không e ngại sợ sệt. Mình đã tìm ra được tình huynh đệ. Mình có cơ hội đem tuổi trẻ của mình để giúp đời. Đó là hạnh phúc lớn nhất. Bát Nhã trong những ngày qua cũng đã từng là một cơn ác mộng, nhưng ta đã có cơ duyên tìm thấy ta rồi, ta đã tìm được con đường rồi, thì dù có Bát Nhã hay không có Bát Nhã ta vẫn không cần lo sợ. Bát Nhã đã trở thành một cơn mưa, đã mưa xuống làm cho hạt giống kim cương nẩy mầm trong ta. Ngày mai dù không có Bát Nhã, dù bị đuổi ra khỏi Phước Huệ, nhưng hạt giống Bồ đề trong ta vẫn không bao giờ mất. Thầy đã dạy mỗi đứa con thầy phải trở thành một Bát Nhã, một Phương Bối. Mình là sự tiếp nối của thầy, chắc chắn mình sẽ tạo dựng được trong tương lai những Bát Nhã mới, những Phương Bối mới. Đã có hạt giống rồi, đã có đường đi rồi, mình không còn lo sợ cho tương lai, tương lai của mình và của đất nước. Những người cấm cản mình tu học hôm nay, ngày mai mình sẽ có cơ hội độ cho họ. Họ chưa có cái thấy bây giờ, nhưng sau này họ sẽ có cái thấy ấy. Một số trong những người đã từng đàn áp, đã từng làm khổ mình, bây giờ cũng đã hé thấy được sự thật rồi. Thành kiến và tri giác sai lầm như bức tường Bá Linh đang rã ra từ từ và sẽ sụp đổ. Mình không lo ngại, không tuyệt vọng. Mình có thể cười vang như nắng sớm.

***

Mình là một vị đại úy công an. Ban đầu mình tin rằng nếu cấp trên đã có chính sách giải tán Bát Nhã thì chắc chắn là chủ trương này phù hợp với nhu cầu an ninh của đất nước. Mình có niềm tin nơi lãnh đạo. Nhưng trong quá trình thực hiện chính sách, mình đã khám phá ra nhiều việc đau lòng. Bát Nhã đã trở thành công án của đời mình. Mình mất ăn, mất ngủ. Giữa đêm mình thức dậy. Mình tự hỏi nhóm người này đã làm gì để mình phải nhìn họ như là những phần tử phản động, có hại cho an ninh. Họ có vẻ rất bình an;  chính mình mới không có đủ bình an trong lòng. Không có bình an trong lòng, mình làm sao giữ gìn và thiết lập được sự bình an trong xã hội? Trên phương diện luật pháp, họ không có tội tình gì cả. Sự thực là mình đã đứng về phía những người muốn chiếm hữu tài sản của họ, buộc họ phải rời nơi mà họ đã cư trú trong nhiều năm, nơi mà cơ sở đã do chính họ góp phần tạo dựng. Mình đã làm đủ mọi cách để cho họ đi, nhưng họ đã nhất định không chịu đi. Họ có vẻ thương yêu nhau, đoàn kết với nhau. Họ sống một đời sống lành mạnh. Tuy họ trẻ tuổi, nhưng không ai rơi vào vòng ma túy, hút xách, đĩ điếm. Họ sống đơn giản, ăn chay, ngồi thiền, nghe kinh, pháp đàm, hoàn toàn bất bạo động. Họ không có vẻ gì là nguy hiểm. Họ không hề có một lời nói hoặc hành động nào chống báng nhà nước. Mình không thể nói là họ phản động, là họ làm chính trị được. Vậy mà cuối cùng mình phải nói họ là phản động, là làm chính trị. Mình đã tìm mọi cách để cho họ bỏ đi: dụ dỗ, dọa nạt, cúp điện nước, kiểm soát hộ khẩu mỗi ngày, và trong suốt nhiều tháng lúc nào cũng tới chùa vào ban đêm để sách nhiễu họ, để họ nản lòng. Họ đã không trách móc, họ lại còn mời mình ngồi lại, hát cho mình nghe và đòi chụp ảnh với mình nữa. Cuối cùng mình phải thuê côn đồ tới để phá phách, để đánh đập, để buộc họ ra đi. Và mình cũng phải mặc thường phục đến để chỉ huy, để chỉ cho người mình thuê biết ai là những người dẫn đầu để mà thanh toán. Họ không chống trả. Vũ khí của họ chỉ là niệm Phật, ngồi thiền, và nắm lấy tay nhau, để mình không thể gỡ họ ra từng người mà tống lên xe được. Có cả một vị thiếu tướng từ trung ương vào để chỉ huy trận đánh. Tại sao phải huy động một lực lượng hùng hậu như thế, từ trung ương đến địa phương, để đánh dẹp một nhóm người tay không hiền lành như thế? Tại sao hơn một năm trời mà không dẹp được họ? Họ có gì để phải bám víu vào cái chùa này? Chỉ có ngày hai bữa cơm chay, chỉ có ngày ba buổi ngồi thiền, một buổi pháp thoại, một buổi thiền hành? Tại sao đông như thế, trẻ như thế mà họ sống chung với nhau an lành được như thế? Trong bọn họ có những đứa tốt nghiệp đại học, con của cán bộ cấp cao, có việc làm, có lương cao, nhưng đã bỏ tất cả để đến sống đời đạm bạc tu hành. Phải có một cái gì hay ho lắm mới hấp dẫn được họ như thế chứ? Đâu có thể nói là chỉ vì họ nghe lời đường mật của một người nào đó sống ở nước ngoài, để chống lại nhà nước ta? Bởi vì lệnh trên đã đưa ra, mình phải thừa hành thôi, nhưng mình rất hổ thẹn với lương tâm mình. Trước kia, mình đã nghĩ là những thủ đoạn ấy chỉ để sử dụng tạm thời vì nước vì dân, vì sự nghiệp đại đoàn kết. Nhưng bây giờ mình đã thấy những thủ đoạn ấy là gian trá, là thấp hèn, là trái với lương tâm con người. Mình bắt buộc phải giữ những cảm nghĩ này cho riêng mình. Mình không dám nói cảm nghĩ ấy ra dù với những người trong cùng đơn vị, huống hồ là nói với cấp trên. Mình đi tới cũng không được, mà tìm cách thoát khỏi guồng máy cũng không xong. Phải làm thế nào đây để mình có thể sống thật được với chính mình?

***

Mình thuộc hàng giáo phẩm của Giáo Hội. Bát Nhã đã trở thành một trăn trở lớn. Những người tu trẻ ấy,  mình biết là họ có tu thật. Ai đã từng thăm viếng và tiếp xúc với họ đều thấy như thế. Nhưng tại sao mình bất lực không che chở được cho họ? Tại sao mình phải sống và hành xử như một nhân viên của chính quyền? Tách rời chính trị khỏi tôn giáo, giấc mơ này đến bao giờ mới thực hiện được? Trong thời Thực dân, trong thời ông Diệm và ông Thiệu, tuy hành đạo có khó khăn thật đấy, nhưng người tu cũng không bị kiểm soát gắt gao quá đáng như trong hiện tại. Người ta chỉ muốn có một đạo Phật của tín mộ, của thờ cúng, người ta không muốn có một đạo Phật có khả năng lãnh đạo tinh thần và văn hóa đạo đức cho quốc dân. Một đạo Phật thật sự có uy quyền lãnh đạo tinh thần, người ta rất sợ. Người ta chỉ chấp nhận được một tổ chức Giáo Hội mà người ta có thể kiểm soát được, sai sử được. Ngày xưa đức Thế Tôn cũng đã không chịu khuất phục trước bạo quyền, kể cả bạo quyền của vua A Xà Thế. Trong thời Pháp thuộc, trong thời ông Diệm, ông Kỳ và ông Thiệu, các bậc cha anh của mình cũng đã tranh đấu. Tại sao bây giờ mình không tiếp nối được công hạnh ấy, tại sao mình phải chấp nhận vai trò làm công cụ cho một đường lối chính trị không muốn cho phép mình vươn dậy trên con đường lý tưởng, thực hiện hoài bão cao cả của bồ đề tâm?

Ban đầu mình nghĩ rằng bó thân theo nhà nước thì còn có cơ hội làm được một ít “Phật sự”, còn nếu chống nhà nước thì hoàn toàn là sẽ không làm được gì, do đó mình đã phải ẩn nhẫn chịu đựng mọi chê trách của các bạn đồng liêu để đi vào guồng máy. Nhưng sau đó mình lại thấy rất rõ ràng rằng chính nhờ các vị ở ngoài Giáo Hội có can đảm nói lên tiếng nói phản kháng cho nên người ta mới để cho mình làm được một ít công việc Phật sự. Mình sẽ trả lời như thế nào với lịch sử? Ý nguyện của mình là vực dậy một nền Phật giáo sinh động có công năng phục vụ dân tộc và đất nước, không phải là chiếm giữ một chức vụ trong guồng máy kiểm soát Phật tử.

Vị thượng tọa kia bị áp lực không cho phép được tiếp tục bảo lãnh cho các tăng sinh tiếp tục tu học tại chùa, không đủ sức kháng cự, phải buộc lòng phản thầy, phản bạn, đi ngược lại lời nguyền và sự cam kết long trọng của mình cách đây chỉ có mấy năm. Tội nghiệp cho vị ấy. Nhưng vị ấy là ai? Vị ấy có mặt ngoài mình hay có mặt ngay trong tự thân mình ? Mình cũng đang bị áp lực, không dám nói và làm những gì mình nghĩ để có thể bảo hộ cho con em của chính mình. Có phải hoài bão sâu sắc của mình là “Tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”? Vậy mà vì cớ gì mình đành phải bất lực nhìn các học tăng, học ni con em của mình bị đàn áp, nhục mạ và chà đạp? Mình sẽ nhìn con cháu mình bằng mặt mũi nào? Chân diện mục của mình là gì? Mình là ai?

Mình là huynh đệ với nhau, cùng là đệ tử của đức Thế Tôn, nhưng có phải vì công phu thực tập xây dựng tình huynh đệ của mình chưa đủ vững chắc, cho nên mình mới bị người ta chia rẽ và kết quả là mình đã giận hờn nhau, trách móc nhau? Theo nguyên lý thị hiện của Phật dạy thì đáng lý dù theo Giáo Hội này hay Giáo Hội kia, mình cũng vẫn là anh em của nhau, bên nào làm việc bên ấy mà không cần phải chống đối nhau và xem nhau như thù nghịch. Đó phải chăng là vì sự thực tập của mình còn yếu kém? Đó phải chăng là vì đạo lực của mình chưa đủ cao cường? Nhưng mình đã học được bài học: nếu ngay tự bây giờ mình biết nhìn nhận nhau, hòa giải với nhau thì mình vẫn có thể vực dậy tình huynh đệ ngày xưa, gây niềm tin cho quốc dân và làm gương cho bốn chúng. Dù có trễ nhưng vẫn còn kịp thời. Chỉ cần một giây phút giác ngộ là tình trạng đạo pháp sẽ thay đổi. Hình như Bát Nhã ngày nay đã học được bài học ấy: những vị xuất gia tu học ở đây, số lượng có cả đến 400 vị, nhưng khi bị đánh đuổi họ đã không bao giờ tỏ vẻ thù hận vị thượng tọa đã từng cưu mang họ trong bao nhiêu năm. Họ biết rằng vị thượng tọa ấy vì chịu áp lực rất nặng nên đã bị bắt buộc phải mời họ ra khỏi chùa. Mình bị dồn vào phía phải phản bội huynh đệ mình, đó là vì pháp lực của mình chưa tới mức cao cường. Mình phải quyết tâm hạ thủ công phu thế nào để đạt cho được mức đạo lực ấy? Có hiểu mới có thương. Mà đã thương thì sẽ không còn xem nhau như là thù nghịch. Xem nhau như là thù nghịch tức là còn làm nạn nhân cho những âm mưu chia rẽ.

Người Phật tử Việt Nam, từ hai ngàn năm nay, thời nào cũng thuần kính tôn ngưỡng Tam Bảo, một lòng quy ngưỡng Phật, Pháp và Tăng. Vậy mà bây giờ có những nhóm người được thuê mướn, mang guốc dép đi vào Phật điện giăng biểu ngữ, chửi bới, ném phân thối vào chư vị tôn túc, đập phá chùa, hành hung, đánh đuổi các thầy và các sư cô ra khỏi chùa. Các viên chức chính quyền đã thuê mướn họ, nói họ là Phật tử. Đó là một hành động vu cáo Phật giáo, bôi bẩn lịch sử. Hành động này làm cho mình muốn nôn mửa, nhưng tại sao mình không dám nói lên ? Giáo hội Phật giáo có khả năng minh oan cho người Phật tử khi người Phật tử bị bôi xấu và bị vu oan giá họa không ?

Bát Nhã không phải là một vấn đề mà ban Thường Trực Giáo Hội phải giải quyết cho xong. Bát Nhã là một công án, một vấn nạn của đời mình. Mình sẽ phải giải quyết như thế nào để đừng hổ thẹn với chư vị tổ sư, với những bậc tiền bối? Tại sao mình không nói được cảm nghĩ chân thành của mình với các vị đồng liêu trong guồng máy Giáo Hội? Tại sao mình không được phép thực tập phép Kiến hòa đồng giải, mà phải che dấu tư tưởng và cảm nghĩ của mình?

***

Mình là một thành phần của Ban Tuyên Giáo Trung Ương, một ủy viên Bộ Chính Trị hay một ủy viên Trung Ương Đảng. Bát Nhã là cơ hội để mình quán chiếu sự thật và tìm ra được bình an trong tâm mình. Không có bình an thì làm sao có hạnh phúc. Mà làm sao để có bình an khi mình chưa thực sự tin vào con đường mà mình đang đi, và nhất là không có niềm tin nơi những người được xem như là bạn đồng hành? Có phải là mình đang cùng ngủ chung trên một chiếc giường, nhưng mỗi người đều có riêng một giấc mộng? Tại sao mình không chia sẻ những cái ưu tư và cái cảm nghĩ của mình với những người mà mình gọi là đồng chí, có phải vì mình sợ bị lên án là đánh mất lập trường? Tại sao tất cả mọi người đều cùng nói như nhau về cái ấy, trong khi không một ai thật sự tin vào cái ấy, cũng giống như trong một câu chuyện cổ tích của Hans Christian Andersen, tất cả các quan trong triều đều khen là vua đang mặc một cái áo rất đẹp, trong khi đó thật sự vua đang ở trần?

Giấc mộng đẹp nhất là hạnh phúc của mình được hòa làm một với hạnh phúc của quê hương. Cây có cội, nước có nguồn, quê hương có cội nguồn tuệ giác và tâm linh của nó. Đời Lý là một đời thuần từ nhất trong lịch sử đất nước. Đời Trần dân tộc hùng mạnh, đoàn kết, dư sức đẩy lùi những cuộc xâm chiếm của phương Bắc. Đó là nhờ công trình giáo hóa của đạo Phật, một con đường tâm linh có đặc tính khoan dung, có thể chấp nhận và đi song hành với các tư trào tâm linh và đạo đức khác như Lão học và Khổng học để cùng xây dựng đất nước mà không có nhu yếu phải loại trừ ai.

Mình có duyên học hỏi, mình biết rằng đạo Phật không phải là một tôn giáo thần quyền, mà là một chủ nghĩa nhân bản rất là vững chãi. Đạo Phật có tinh thần cởi mở và phá chấp, nghĩa là tinh thần khoa học, và trong thế kỷ mới, đạo Phật có thể đi song hành thoải mái với khoa học. Khoa học đây là tinh thần khoa học, thái độ sẵn sàng buông bỏ cái thấy cũ để có cơ hội đạt tới cái thấy mới. Khoa học mới đã vượt xa khoa học cũ, nhất là trong lĩnh vực vật lý vi mô. Cái mà ta cho là khoa học ngày xưa bây giờ có còn là khoa học nữa không? Tâm và vật chỉ là hai mặt biểu hiện của cùng một thực tại: cái này ôm lấy cái kia, cái này dựa trên cái kia mà biểu hiện. Khoa học hiện đại đang nỗ lực vượt thoát lối tư duy nhị nguyên như tâm và vật, trong và ngoài, chủ thể và đối tượng, thời gian và không gian, vật thể và tốc độ, v.v.. Khi còn vướng bận những phiền não như giận hờn, lo lắng, đam mê và kỳ thị thì tâm chưa thể nào có đủ niệm và định để phát kiến được sự thực dù ta đang có những dụng cụ máy móc tinh vi nhất. Bởi vì đằng sau máy móc còn có tâm quan sát.

Hình như ta đã biết sở dĩ toàn dân kiên trì yểm trợ cho cách mạng đó là vì lòng yêu nước chứ không phải là vì một chủ nghĩa. Nếu không dựa vào lòng yêu nước của nhân dân mà chỉ biết thờ phụng một chủ nghĩa thì chắc chắn ta đã thất bại. Đọc lại lịch sử, ta đã thấy rằng vì thái độ vồ vập và cuồng tín vào chủ nghĩa, nên đã có những thanh toán lẫn nhau trong đoàn ngũ kháng chiến ; những vết thương ấy của dân tộc mãi cho đến bây giờ vẫn chưa được chữa lành.

Ta thử hỏi : đứng về phương diện đấu tranh giai cấp mà nói, thì hiện thời giai cấp nào đang thực sự nắm quyền cai trị ? Giai cấp vô sản hay giai cấp tư bản ? Ta có đang tin rằng, tư bản nhân dân là một chuyện có thật, hay đó chỉ là một diễm từ ?

Ta biết nếu muốn thành công, ý Đảng phải đi theo với lòng Dân. Lòng dân là muốn cho người tu được phép tu tập và giúp đời theo cách họ muốn, trong khuôn khổ của pháp luật. Lòng dân là muốn cho mọi người công dân ai cũng có cơ hội được nói lên cái thấy cái nghĩ của mình mà không sợ bị trừng phạt, đe dọa và tù tội. Lòng dân là muốn tách rời tôn giáo ra khỏi chính trị và chính trị ra khỏi tôn giáo. Lòng dân mà được thỏa thì tự nhiên có sự đoàn kết và Đảng sẽ được ủng hộ. Đảng không cần phải hô hào đoàn kết và kêu gọi sự yểm trợ nữa, một khi Đảng đã có được lòng dân. Lòng Dân như thế, ý Đảng thế nào?

Ta biết tinh thần khoan dung của đạo Phật đời Lý và đời Trần đã đem lại sự đoàn kết đích thực của toàn dân, vì theo tinh thần ấy tất cả mọi người yêu nước đều có cơ hội góp phần vào công trình xây dựng và bảo vệ đất nước mà không ai bị loại bỏ ra ngoài. Tinh thần dung hợp không kỳ thị ấy trong đạo Phật gọi là xả, một trong bốn đứcVô Lượng Tâm là từ, bi, hỷ và xả. Đó là một di sản tinh thần quý báu trong kho tàng văn hóa dân tộc. Ta biết được rằng trong các đời Lý và đời Trần, những người làm chính trị đều tu tập theo đạo Phật cùng với dân chúng, vua cũng giữ giới, ăn chay, làm việc thiện, vì vậy đã được dân chúng trong nước tin cậy.

Làm sao bài trừ được những tệ nạn xã hội như ma túy, đĩ điếm, cờ bạc, bạo hành, tham nhũng, lạm quyền, v.v. khi chính những viên chức nhà nước có phận sự bài trừ tệ nạn cũng đang bị vướng vào những tệ nạn ấy? Quốc sách thôn ấp văn hóa, khu phố văn hóa làm sao thành công được chỉ với sự kiểm soát và trừng phạt suông? Ai là người cần được kiểm soát và trừng phạt trước hết?

Ta biết rằng gia đình nào có tu tập có giữ giới là gia đình ấy có an vui và có hạnh phúc. Đạo Phật trong hai ngàn năm qua đã giáo hóa dân chúng giữ gìn phong hóa bằng cách thực tập ăn chay giữ giới. Ăn chay tượng trưng cho sự tiết dục, nghĩa là giảm bớt dục vọng. Người Phật tử tự nguyện ăn chay, giữ giới và làm việc nhân đức chứ không bị ai bắt ép làm việc ấy, cũng như không ai bị trừng phạt vì không làm việc ấy. Bây giờ đây những người tu trẻ đang có chí hướng vực dậy nếp sống phong hóa ấy và họ đang có triển vọng thành công, thế thì tại sao ta lại đánh dẹp họ? Ta sợ họ có quần chúng thì ta mất quần chúng hay sao? Tại sao ta không phát tâm tu học như họ, đồng nhất với họ, để có được sự hưởng ứng và yểm trợ của họ? Tại sao ta không làm được như các vua đời Lý và đời Trần? Hay tại vì ta là người Mác-xít, ta không có quyền quy y, ăn chay và giữ giới?

Ta biết trong Đảng và trong chính quyền hiện giờ nhiều người đã nói rằng họ đang có một cái nhìn thông thoáng hơn về các vấn đề tôn giáo và tâm linh. Sự thực là các ông lớn bây giờ ai cũng có tin vào phong thủy, vào vận mạng, vào ngoại cảm, vào đổi mạng. Điều này chứng tỏ từ một thái cực này người ta đã đi sang thái cực khác. Trong khi đó người ta vẫn cố gắng giữ để cho bề ngoài mình không có vẻ mê tín dị đoan.

Các vua Lý và vua Trần đã thực sự tin tưởng ở con đường đạo đức tâm linh, do đó nhiều vị đã sống được nếp sống đạo đức gương mẫu, và có thể vì vậy cho nên dân mới làm theo. Một ông vua giữ giới, ăn chay, gửi chăn chiếu vào các nhà tù để cho tù nhân bớt khổ vì cái lạnh, đi vi hành để thấy được nếp sống thực sự và nguyện vọng của người dân, một ông vua biết ngồi thiền, tham cứu công án, thực tập sám hối một ngày sáu thời, dịch kinh, biết nương vào đức độ và lời khuyên dạy của một vị thiền sư mà mình tôn quý như một vị quốc sư, một ông vua nhường ngôi cho con để xuất gia tu hành khổ hạnh trên núi Yên Tử, một ông vua như thế có thể làm gương đạo đức cho cả nước. Ngày nay, ta hô hào vận động cán bộ và quần chúng “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhưng có được mấy ai trong tổ chức ta đang sống được như một người gương mẫu cho các đồng chí của mình? Đạo Phật Đại Thừa dạy: “Anh phải là con người ấy. Anh phải làm gương mẫu. Anh phải sống như thế thì anh mới gây cảm hứng cho người khác sống như thế.” Ta biết tham nhũng và lạm quyền đã trở thành một quốc nạn. Ta biết ta đã hô hào bao nhiêu năm nhưng chẳng có kết quả gì và tình trạng càng ngày càng trở nên trầm trọng. Tại sao? Có phải tại vì ta chỉ biết dựa vào hào quang của tiền nhân để tự hào, để khoe khoang là ta có một quá khứ vẻ vang, nhưng trong hiện tại, ta không làm được những gì mà cha ông ta đã làm được trong quá khứ? Rồi ngày nay nếu có những người trẻ tuổi đang tìm cách làm việc ấy cho ta thì ta lại ngăn cản và đàn áp họ?

Vụ Bát Nhã có thể đã bắt đầu bằng chuyện làm ăn của một công ty du lịch do những người công an chủ trương, liên hệ tới khách sạn và thị thực nhập cảnh, rồi sau đó thêm vào sự lạm quyền và thù oán để cuối cùng trở thành một chủ trương mà nhà nước phải đi theo. Có thể ta không có thì giờ xem xét mà chỉ tin vội vào những báo cáo đặt điều. Rồi ta để cho nhân viên dưới quyền sử dụng những biện pháp lừa dối, gạt gẫm, đàn áp những người dân hiền lành chưa từng gây ra một rối loạn nào cho xã hội. Và cuối cùng ta bị đặt vào cái thế phải xem là kẻ thù những gì theo nguyên tắc ta đã từng muốn tôn quý. Kẻ thù của ta có đích thực là những “thế lực thù nghịch” bên ngoài hay không? Kẻ thù ta nằm ngay nội bộ: những con ong mà ta nuôi trong tay áo của ta. Liệu ta có đủ can đảm và thông minh để đối trị với những yếu kém của chính ta không, đó là câu tham vấn căn bản.

Pháp môn Làng Mai có thể là cơ hội hiếm có để hiện đại hóa đạo Phật ở Việt Nam, và bốn năm hành trì ở Việt Nam hình như đã chứng tỏ được khả năng của pháp môn ấy. Vậy thì tại sao ta lại chịu áp lực của Trung Quốc để đàn áp và tiêu hủy ngay một nguồn sinh lực quý báu của ta ? Ta nhận được cái gì quý giá của người khác trong khi ta bị tước đoạt cái quý giá mà ta đang có?

Cách thức ăn mừng Một Ngàn Năm Thăng Long hay nhất có thể là cùng nhau nỗ lực tu tập, làm được và sống được như Lý Công Uẩn, như Trần Thái Tông, như Trần Thánh Tông, như Trúc Lâm Đại Sĩ, như Tuệ Trung Thượng Sĩ. Các vị ấy là những nhà chính trị nhưng đồng thời cũng là những người sống thật sự nếp sống tâm linh mà họ tin tưởng. Ta có cái gì để tự hào, ngoài cái quá khứ hào hùng của cha ông? Ta đã đánh mất lý tưởng cách mạng, đã làm tàn rụi ngọn lửa thiêng cách mạng, và những người đồng chí của ta không thật sự còn là những người đồng chí, bởi vì trong họ ngọn lửa thiêng cách mạng đã tắt. Lý do họ có mặt trong hàng ngũ là quyền lợi, danh vọng và chỗ đứng của họ. Pháp môn thực tập Làng Mai là một phần trong di sản văn hóa đất nước, hiện thời đang có khả năng đóng góp đáng kể cho một nền văn minh đạo đức toàn cầu, không phải chỉ trên mặt lý luận mà quan yếu nhất là trên mặt thực tế. Biết bao nhiêu người trên thế giới đã biết đến và đã thừa hưởng được sự giáo hóa này. Ta đã biết hãnh diện về nó, tại sao ta lại để cho xảy ra chuyện đánh phá và triệt tiêu nó ngay trong mảnh đất sinh thành ra nó? Đó là những câu hỏi mà nếu ta để cho chúng tác động trong phần sâu thẳm của tâm thức ta thì chúng sẽ có thể làm bật lên cái tuệ giác mà ta cần có để thấy được con đường và cách hành xử mà ta đang trông đợi.

***

Mình là một vị nguyên thủ quốc gia hoặc một vị bộ trưởng, nước mình có hay không có chân trong Hội Đồng Bảo An hay Ủy Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc. Mình biết các vụ như Bát Nhã, Tam Tòa, cũng như những vụ Thiên An Môn, Tây Tạng v.v.. đều là những vụ vi phạm trầm trọng về nhân quyền; nhưng vì quyền lợi quốc gia, vì muốn bán vũ khí, máy bay, xe lửa cao tốc, nhà máy điện lực nguyên tử, và những kỹ thuật mới khác, vì muốn hợp tác thương mại đầu tư, muốn có thị trường tiêu thụ các hàng hóa khác mà mình sản xuất, cho nên  mình đã không dám mạnh dạn lên tiếng và đi tới những quyết định có thể gây sức ép trên quốc gia liên hệ để họ sớm chấm dứt việc vi phạm nhân quyền trong nước họ. Mình cảm thấy hổ thẹn, lương tâm mình không an ổn. Nhưng vì muốn đảng và chính quyền mình thành công nên mình đành cam chịu nói rằng những vi phạm nhân quyền của các nước ấy cũng chưa đến nỗi nào. Mình cũng đang ở trong một guồng máy, mình chưa thật sự được là mình, vì mình đang không nói được cảm nghĩ và cái thấy chân thật của mình về tình trạng. Mình làm sao để có sự an tâm và không hổ thẹn với chính mình? Bát Nhã là một vấn đề nhân quyền ở Việt Nam nhưng cũng là một công án cho một nhà lãnh đạo chính trị cao cấp như mình. Làm sao để mình không bị lương tâm cắn rứt và thực sự có hạnh phúc ?

***

Công án Bát Nhã là của mọi người, là của mỗi cá nhân và cũng là của từng tập thể. Công án ấy có thể được tham cứu bởi một vị tu sinh Bát Nhã, một học tăng đang theo học tại một trường Trung Cấp Phật Học trong nước, một vị Thượng Tọa trong Giáo Hội, một chú Công an, một ông Bộ trưởng, một vị Linh mục Công giáo, một vị Mục sư Tin lành, một ủy viên Bộ Chính Trị, một vị chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân Thành Phố, một bí thư Tỉnh Ủy, một ủy viên Trung Ương Đảng, một nguyên thủ quốc gia, một chủ bút nhật báo hay tạp chí, một nhà trí thức, một nhà nghệ sĩ, một nhà doanh thương, một giáo chức, một ký giả, một vị trú trì, một vị đại sứ. Bát Nhã là một cơ hội, vì Bát Nhã có thể giúp ta thấy được rõ ràng những gì mà lâu nay ta chưa thấy hoặc chưa muốn thấy.

Trong truyền thống Thiền, có những khóa tu bảy ngày, hăm mốt ngày, bốn chín ngày, v.v.. trong đó vị thiền giả để hết tâm ý vào công án. Giờ phút nào trong đời sống hàng ngày cũng là giây phút tham cứu : khi ngồi (thiền tọa), khi đi (thiền hành), khi thở, khi ăn, khi chải răng, khi giặt áo, v.v.. lúc nào tâm ý cũng tập trung vào công án, nghĩa là vào đối tượng tham cứu.  Khóa thiền phổ thông nhất là khóa bảy ngày, gọi là thiền thất. Thất đây có nghĩa là bảy. Mỗi ngày, tất cả các hành giả đều được tiếp xúc với vị thiền sư trong giờ khai thị. Vị thiền sư có thể đưa ra những chỉ dẫn giúp cho thiền giả tập trung tâm ý vào đúng chỗ. Khai nghĩa là mở ra, thị có nghĩa là chỉ cho thấy. Mở vấn đề ra, chỉ cho ta thấy rõ vấn đề hơn. Khai thị không có nghĩa là trao truyền sự thật. Sự thật, hành giả phải tự chứng nghiệm. Vị thiền sư có thể nói những lời khai thị trong vòng mười phút, rồi các thiền giả trở về chỗ ngồi của mình để tham cứu. Có khi hàng trăm vị thiền giả cùng ngồi tham cứu ở thiền đường, ngồi xoay mặt vào vách. Sau một thời ngồi thiền, lại có một thời đi thiền. Các hành giả đi chậm, mỗi bước chân đưa mình về với công án. Đến giờ ăn, có thể được ăn ngay trên chỗ ngồi thiền của mình, vừa ăn vừa quán chiếu. Đi đại tiện, tiểu tiện cũng là cơ hội quán chiếu. Im lặng hùng tráng rất cần thiết cho sự tham cứu thiền, cho nên ở bên ngoài thiền đường luôn luôn có bảng treo ‘chỉ tịnh’.

Ngày xưa, vua Trần Thái Tông ngộ đạo nhờ tham cứu công án “bốn núi” và công án “con người thật không có vị trí (vô vị chân nhân) ”. Thiền sư Liễu Quán ở Phú Yên ngộ đạo nhờ tham cứu công án “tất cả đi về một, một đi về đâu? ” và đã đệ trình kiến giải tại chùa Ấn Tôn (Từ Đàm), Huế.

Muốn thành công trong sự tham cứu công án, phải có khả năng buông bỏ mọi kiến thức, mọi ý niệm và mọi lập trường mình đang có. Vướng vào một tư kiến, một lập trường hay một ý thức hệ thì mình không còn có đủ tự do để cho công án có thể bung ra trong tâm thức của mình. Phải buông bỏ tất cả những cái gọi là sở tri, nghĩa là những cái mình đã tiếp nhận trước kia, những cái mà mình từng xem là sự thật. Nếu mình tin là mình đang nắm trong tay sự thật rồi thì cánh cửa của mình đã đóng lại, và dù bây giờ sự thật có tới gõ cửa, mình cũng không chịu mở cửa. Vì vậy cho nên sở tri là một chướng ngại, gọi là sở tri chướng. Đạo Phật đòi hỏi tự do. Tự do tư tưởng là nền tảng căn bản của tiến bộ. Đó đích thực là tinh thần khoa học. Chính trong không gian thênh thang ấy mà đóa hoa tuệ giác có một cơ hội nở ra.

Trong truyền thống thiền, tăng thân là một yếu tố rất tích cực. Khi cả mấy trăm hành giả cùng yên lặng tham cứu với nhau, thì năng lượng tập thể của niệm (ý thức) và của định (tập trung) rất hùng hậu. Năng lượng tập trung của mình nhờ vậy được nuôi dưỡng trong từng giây phút và công án có rất nhiều cơ hội để bung ra. Môi trường này rất khác môi trường của một hội nghị, một tọa đàm hay một buổi họp. Vì kỷ luật của thiền môn rất nghiêm túc và vì khung cảnh của thiền môn rất thuận lợi cho sự tập trung, thêm vào đó có sự hướng dẫn của vị thiền sư và sự yểm trợ yên lặng của các bạn thiền giả, nên ta có nhiều cơ hội để thành công.

Những điều đề nghị ở phần trước có thể được xem là những lời khai thị có công năng giúp một phần nào cho công trình tham cứu. Phải xem đó là dụng cụ, đừng cho đó là chân lý. Đó là chiếc bè qua sông để tới bờ bên kia, mà không phải là bờ bên kia. Qua tới bờ bên kia thì phải vứt bỏ chiếc bè. Nếu quý vị quán chiếu thành công, có tự do, thấy được con đường rồi thì quý vị có thể đem đốt những lời khai thị ấy, hoặc liệng nó vào sọt rác.

Xin chúc tất cả liệt vị thành công trong việc tham cứu công án Bát Nhã.

Nhất Hạnh