Bài Viết

Bụt và Chúa sống mãi

Cuộc đời Ngài là Giáo Lý

Có một khoa học gọi là Phật học, đó là học về cuộc đời của Bụt. Bụt là một nhân vật có thật trong lịch sử. Bụt sinh ra ở thành Kapilavatsu (Ca Tì La Vệ), gần biên giới Ấn Ðộ và Nepal. Ngài thành hôn, có một con, xuất gia, giác ngộ, và chia sẻ giáo pháp của Ngài cho đến năm tám mươi tuổi Ngài tịch. Nhưng cũng có một vị Bụt ở trong mỗi người chúng ta, không tùy thuộc vào thời gian và không gian. Ðó là Ðức Bụt Sống, vị Bụt của sự thật sau cùng, vượt trên các ý nghĩ và khái niệm, và lúc nào chúng ta cũng gặp được. Vị Bụt Sống đó không sinh ra ở Kapilavatsu và cũng không tạ thế ở Kushinagar.

Ki Tô Học là môn học về cuộc đời Chúa Ki Tô. Khi nói Chúa Ki Tô, chúng ta cũng cần biết đang nói về Chúa Giêsu trong lịch sử hay Ðức Ki Tô Hằng Sống. Chúa Ki Tô trong lịch sử sinh tại Bê Lem, con của một người thợ mộc. Ngài rời quê hương xa, trở thành một đạo sư, và bị đóng đinh trên thập tự vào năm ba mươi ba tuổi. Ðức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng Ðế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống. Trong Ki Tô Giáo, bạn phải tin vào sự Phục Sinh, nếu không thì bạn không phải tín đồ. Tôi e rằng điều kiện nầy làm nhiều người e ngại, không chịu nhìn sâu vào cuộc đời Chúa Giêsu. Thật đáng tiếc, vì chúng ta có thể học hỏi cả nơi Chúa Giêsu trong lịch sử lẫn Chúa Giêsu như một cánh cửa tuyệt đối.

Khi chúng ta theo dõi và tiếp xúc một cách sâu sắc với cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu, chúng ta có thể thâm nhập vào sự thật của Thượng Ðế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao dung, là những biểu hiện của cuộc đời Chúa Giêsu. Thượng Ðế xuất hiện với chúng ta qua Giêsu Ki Tô. Với Thánh Linh và Nước Chúa ở trong Ngài, Giêsu đã tiếp xúc với mọi người sống cùng thời của Ngài. Ngài đã nói chuyện với những cô gái điếm, những người thâu thuế, Ngài có can đảm làm bất cứ việc gì cần thiết để chữa các căn bệnh của thời đại Ngài. Như là đứa con của mẹ Maria và thánh Giuse, Giêsu là Con của Người, Người Nam và Người Nữ. Như một người sống với Thánh Linh, Ngài là Con của Thượng Ðế. Nói rằng Chúa Giêsu vừa là Con của Người, vừa là Con của Thượng Ðế, các Phật tử có thể chấp nhận không khó gì. Chúng ta có thể thấy Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con là một, bất nhị, vì nếu không có Ðức Chúa Cha ở trong Ngài thì không có Ðức Chúa Con. Tuy nhiên, trong Ki Tô Giáo, Giêsu thường được gọi là Con Một của Thượng Ðế. Tôi thấy chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài. Tôi nghĩ cuộc đời Chúa Giêsu là bài học căn bản nhất của Ngài, quan trọng hơn cả sự phục sinh và tính vĩnh cữu.

Sống tỉnh thức là Bụt

Bụt là người giác ngộ, nghĩa là không còn bị ràng buộc vào thế tục. Nhưng khi nhiều người nói rằng họ tin Bụt, họ đang nói về niềm tin vào vị Bụt thần thông, huyền diệu, không phải niềm tin vào giáo lý hay cuộc đời của vị Bụt lịch sử. Họ tin vào sự mầu nhiệm của Bụt, và thấy như vậy là đủ. Nhưng các thí dụ trong cuộc đời thật của Bụt và Chúa Giêsu quan trọng hơn, vì khi các Ngài sống như những con người thật, chúng ta có thể bắt chước, sống theo mẫu đời sống của các Ngài.

Khi chúng ta đọc, “Cửa trời mở rộng và Thánh Linh giáng xuống Ngài như một con chim bồ câu,” chúng ta có thể thấy hình ảnh Chúa Giêsu đã giác ngộ. Ngài đã tiếp xúc được với sự thật của đời sống, nguồn suối của tỉnh thức, của minh triết và trí tuệ ở trong Ngài. Ðó là điều phân biệt Ngài với người phàm tục. Khi Ngài sinh ra trong một gia đình người thợ mộc, Ngài là Con của Người. Khi Ngài mở rộng trái tim, cánh cửa thiên đường đã mở ra cho Ngài. Thánh Linh đã ngự xuống Ngài như một con chim bồ câu, và Ngài biểu hiện như là Con của Thượng Ðế – rất thiêng liêng, sâu sắc, và vĩ đại.

Nhưng Thánh Linh không phải chỉ ngự xuống Giêsu không thôi, mà cho tất cả chúng ta. Trong nhãn quan Phật Giáo, ai không phải là con của Thượng Ðế? Ngồi dưới gốc cây bồ đề, những hạt giống thiêng liêng và huyền diệu ở trong Bụt bừng nở. Ngài là một người, nhưng đồng thời Ngài cũng thị hiện tâm linh nhân loại đến mức cao nhất. Khi chúng ta tiếp xúc được với tâm linh tối thượng trong chúng ta, chúng ta là Bụt. Chúng ta mang ơn Thánh Linh, và chúng ta trở nên rất bao dung, rất cởi mở, sâu xa, và thông cảm.

Những cánh cửa mở ra cho các thế hệ sau

Kinh Thánh Mathiơ tả Nước Chúa giống như một hạt cải nhỏ xíu. Ðiều đó có nghĩa là hạt giống của Nước Chúa ở sẵn trong chúng ta. Nếu chúng ta biết vun trồng hạt giống đó trong mảnh đất mầu của cuộc sống hằng ngày, nó sẽ lớn lên và thành một cây cao cho chim chóc đến trú ẩn. Chúng ta không cần phải chết đi mới tới được cửa thiên đàng. Thật ra chúng ta cần phải sống đích thực. Việc tu tập là tiếp xúc sâu xa với sự sống để Nước Chúa trở thành sự thật. Ðây không phải là chuyện sùng tín. Ðây là chuyện thực tập. Có thể vào Nước Chúa bây giờ và ở đây. Nhiều đoạn trong Phúc Âm cũng có cách nhìn nầy. Chúng ta đọc Kinh Lạy Cha, rằng chúng ta không đi tới Nước Chúa, nhưng Nước Chúa sẽ đến với chúng ta: “Nước Ngài sẽ tới …” Giêsu nói, “Ta là cánh cửa vào.” Ngài tự mô tả là cánh cửa của Nước Chúa. Vì Ðức Chúa Con được tạo nên bằng Ðức Thánh Linh, Ngài là cánh cửa để chúng ta vào Nước Chúa.

Bụt cũng được mô tả như là một cánh cửa, là vị đạo sư chỉ đường cho ta sống trong đời. Phật tử tu học con đường đó một cách sâu xa để giúp ta sống trong chánh niệm, từ bi, và an lạc. Kinh sách nói có 84 ngàn pháp môn, cánh cửa của sự tu học. Nếu bạn may mắn tìm thấy một cánh cửa, và cho rằng cánh cửa của bạn là cánh cửa duy nhất, thì đó không phải là tinh thần đạo Bụt. Thật ra, chúng ta phải mở ra thêm nhiều cánh cửa mới cho các thế hệ tương lai. Chúng ta đừng sợ có quá nhiều cánh cửa – đúng ra, ta nên lo ngại không có thêm những cánh cửa mới. Thật tội nghiệp cho con cháu chúng ta, và con cháu của họ, nếu chúng ta hài lòng với 84 ngàn cánh cửa hiện có. Mỗi người chúng ta, với sự tu tập và tâm từ bi, có thể mở ra những Cánh Cửa Pháp mới.

 

Xã hội đang biến đổi, con người thay đổi, đời sống chính trị và kinh tế ngày nay không còn giống như thời Bụt và Chúa nữa. Bụt trông cậy nơi chúng ta để Giáo Pháp tiếp tục phát triển như một thực thể sống động – không phải một giáo pháp cứng đọng, mà là một Pháp Thân (Dharmakaya), một thực thể giáo lý thiêng liêng.

Bà mẹ sinh ra các vị Bụt

Bụt dạy Pháp thân của Ngài quan trọng hơn nhục thân. Ngài muốn dạy chúng ta phải thực hành Giáo Pháp để đạt tới Niết Bàn ở đây và bây giờ. Giáo Pháp sinh động không phải là những thư viện chứa kinh điển hay các băng thâu những bài giảng hay. Pháp sinh động là sống tỉnh thức trong chánh niệm, biểu hiện trong cuộc sống hằng ngày của Bụt cũng như của quý vị. Khi tôi nhìn thấy quý vị bước đi với chánh niệm, tôi tiếp xúc được với sự an lạc, với sự hiện diện của quý vị một cách sâu xa. Khi quý vị săn sóc các anh chị em của mình, tôi nhìn thấy Giáo Pháp sống động trong quý vị. Nếu có chánh niệm, quý vị có thể tiếp xúc với Pháp thân của Bụt.

Bụt mô tả những hạt giống của tỉnh thức trong mỗi chúng ta là “Như Lai Mẫu” (tathagatagarbha). Chúng ta đều là “mẹ của Như Lai” vì trong lòng chúng ta đều mang sẵn hạt giống của tỉnh thức. Nếu chúng ta đều săn sóc vị Bụt sơ sinh trong mình bằng sự thực tập tỉnh thức mỗi ngày, một ngày nào đó Ðấng Giác Ngộ sẽ đến với chúng ta. Các Phật tử nhìn Bụt như một vị thầy và một người anh, không phải là một thần linh. Chúng ta đều là Pháp huynh Pháp đệ của Bụt. Chúng ta cũng nói Trí Tuệ Bát Nhã (Prajnaparamita) là mẹ của tất cả các vị Bụt. Trong lịch sử, các giáo phái Tin Lành giảm bớt hình ảnh Mẹ trong Thượng Ðế và đề cao vai trò Cha của Ngài, nhưng trong Giáo hội Công Giáo có sự sùng kính Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời.

Thật ra Mẹ và Cha là hai phương diện của cùng một thực thể. Hình ảnh người cha hiện rõ hơn trong Trí Tuệ và Hiểu Biết, người Mẹ trong Tình Thương và Từ Bi. Trong đạo Bụt, hiểu biết (prajna) là căn bản của thương yêu (maitri). Nếu không có hiểu biết thì không có tình thương đích thực, và không có tình thương thì không có hiểu biết đích thực.

Người con gái của Thượng Ðế

Người ta gọi Bụt bằng mười danh hiệu, mỗi danh hiệu biểu lộ một phẩm chất. Danh hiệu thứ nhất, Như Lai (Tagatatha), tức là “vị đến với chúng ta trên đường chánh”, “vị đến từ sự thật mầu nhiệm của sự sống và sẽ trở về sự thật mầu nhiệm đó”, hay “vị đến từ cõi như vậy, ở trong cõi như vậy, và quay về cõi như vậy”. Như là danh từ Phật giáo nói đến Chân Như, bản chất của sự vật, hay sự thật tối hậu. Ðó là bản thể hay nền tảng của sự hiện hữu, ví như nước là bản thể của sự sống. Cũng như Bụt, chúng ta cũng tới từ Chân Như, ở tại Chân Như, và sẽ quay về Chân Như. Chúng ta từ cõi Không mà đến và sẽ trở về cõi Không.

Trong một bài kinh, Phật nói rằng hình sắc chúng ta thấy là do các nhân duyên tạo thành, khi không đủ nhân duyên thì chúng ta không thấy. Khi có đủ nhân duyên thì chúng ta nhận ra một hiện tượng, chúng ta thấy hiện tượng là có thật. Nhưng khi một trong các nhân duyên vắng mặt, chúng ta không nhận ra hiện tượng đó nữa. Ta không thấy nên nói là nó không hiện hữu. Nhưng điều đó không đúng. Vào mỗi tháng Tư ở Làng Hồng, chúng ta không nhìn thấy hoa Hướng Dương nở, chúng ta có thể nói hoa Hướng Dương không hiện hữu. Nhưng các nông dân ở ngôi làng tại miền Nam nước Pháp này đã gieo hàng ngàn hạt giống xuống đất. Khi nhìn ngọn đồi trơ trọi, họ có thể thấy các hoa Hướng Dương rồi. Hoa Hướng Dương đã có mặt ở đó. Chúng chỉ còn thiếu các nhân duyên của mặt trời, sức nóng, mưa, và thời gian. Không phải vì ta không thấy mà hoa Hướng Dương không hiện hữu.

Cũng theo cách đó, chúng ta nói Ðức Như Lai không từ đâu tới mà cũng không đi về đâu cả. Ngài tới từ cõi Chân Như và trở về Chân Như, không phụ thuộc vào thời gian và không gian. Nếu quý vị đi qua thửa ruộng bên Làng Hồng vào tháng Tư, và xin cánh đồng cho quý vị thấy Chân Như, thấy Nước Chúa, các thửa ruộng bỗng nhiên sẽ phủ đầy hoa Hướng Dương vàng chói rực rỡ. Khi Thánh Phan Xi Cô (St Francis) nhìn quán chiếu sâu xa một cây hạnh nhân vào giữa mùa đông và bảo cây hãy nói cho ngài nghe về Thượng Ðế, cây bỗng bừng nở đầy hoa.

Danh hiệu thứ hai của Bụt là A La Hán, vị xứng đáng được tôn kính. Danh hiệu thứ ba là Thiện Thệ, vị hoàn toàn tỉnh thức. Thứ tư là Minh Hạnh Túc, vị có trí tuệ và đức hạnh đầy đủ. Thứ năm là Vô Thượng Sĩ, vị dẫn đường không ai hơn. Thứ sáu là Thế Gian Giải, người biết rõ thế giới nầy. Thứ bảy là Ðiều Ngự Trượng Phu, người đi trên con đường tự tại. Thứ tám là Thiên Nhân Sư, thầy của thần linh và người. Danh hiệu thứ chín của Ngài là Bụt (Buddha, Phật Ðà), bậc giác ngộ. Danh hiệu thứ mười là Ðức Thế Tôn, bậc đầy phúc báu.

Mỗi khi chúng ta quy y, quay về nương tựa Bụt, chúng ta tìm nương tựa vào một vị có đủ mười đức tính trên, đó cũng là hạt nhân có sẵn trong mỗi người. Thái tử Tất Ðạt Ða (Siddharta) không phải là vị Bụt duy nhất. Mọi vật trong thế giới cây cỏ, muông thú và khoáng chất đều là các vị Bụt tương lai. Tất cả chúng ta đều chứa sẵn mười đức tính của Bụt trong thâm căn của mình. Nếu chúng ta thể hiện được mười đức tính đó thì sẽ được tôn kính.

Tôi thấy trong Phép Rửa Tội là sự công nhận của mỗi người, khi mở lòng ra đón Thánh Linh, đều có khả năng thể hiện mười đức tính trên, đó cũng là những đức tính để trở thành các người con của Chúa. Trong đạo Bụt, chúng ta không nói đến Tội Tổ Tông, nhưng nói đến các Chủng Tử Bất Thiện, là những hạt giống có sẵn trong mỗi người – hạt giống của tham lam, hận thù, giận dữ, ngu si, cố chấp, v.v… – và chúng ta nói đến các hạt giống trên có thể được chuyển hóa khi chúng ta tiếp xúc với các đức tính của Bụt. Các đức tính đó cũng có sẵn hạt giống trong chúng ta. Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa khi một người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng Ðế và con của Người. Chúng ta cũng là con của Thượng Ðế và của song thân chúng ta. Nghĩa là chúng ta thuộc về cùng một thực tại như Giêsu. Ðiều này có thể coi như là tà thuyết đối với một số người Ki Tô Giáo. Nhưng tôi tin những nhà thần học đã nói là không cần phải nghĩ như vậy. Giêsu không phải chỉ là Chúa của chúng ta. Ngài còn là Cha, là Thầy, là Anh, và là Chính chúng ta. Nơi duy nhất chúng ta có thể tiếp xúc với Giêsu và Nước Chúa là ở trong nột tâm mình.

Chúng ta tiếp tục ra đời

Khi chúng ta làm lễ Chúa Giáng Sinh hay lễ Phật Ðản, chúng ta mừng sự ra đời của những hài nhi đặc biệt. Sự giáng sinh của Chúa và đản sinh của Bụt là các biến cố quan trọng trong lịch sử loài người. Mấy ngày sau khi Bụt ra đời, nhiều người ở Kapilavatsu đến kính thăm, trong đó có một đạo sĩ già tên là Asita. Sau khi nhìn ngắm Bụt sơ sinh, Asita bật khóc. Vua cha kinh ngạc hỏi: “Thưa đạo sĩ, tại sao ông lại khóc? Con tôi sẽ có số phận không may chăng?” Ðạo sĩ trả lời: “Thưa Ðức Vua, không phải vậy. Việc ra đời của Thái tử Tất Ðạt Ða thật là mầu nhiệm. Con trai hoàng thượng sẽ thành một vị thầy quan trọng của thế giới. Nhưng tôi bây giờ đã già quá rồi, chắc không sống được đến ngày đó nữa. Ðó là lý do tại sao tôi khóc.”

Trong Kinh Thánh cũng có một câu chuyện tương tự. Tám ngày sau khi sinh ra, Chúa Hài Ðồng được đưa đến đền thờ để làm lễ cắt bì. Khi một người tên Simeon nhìn thấy Chúa, Ông ta thấy là Ngài sẽ thay đổi cuộc sống nhân loại một cách lớn lao.

“Khi đến ngày làm lễ thánh tẩy theo luật của Mai Sen (Moses), người ta bế Ngài đến Giê Ru Sa Lem để trình Ngài lên Thượng Ðế… và người ta theo luật của Thượng Ðế làm lễ hiến sinh hai bồ câu nhỏ. Lúc đó có một người ở Giê Ru Sa Lem tên là Simeon. Người đó là một người công chính và sùng tín, đi tìm đường cứu rỗi dân Israel, đưa Thánh Linh ở cùng người đó. Ðức Thánh Linh đã báo cho Simeon biết rằng ông ta sẽ được nhìn thấy Messiah (Ðấng Cứu Thế) trước khi chết. Theo hướng dẫn của Thánh Linh, Simeon đi tới đền thờ, và khi cha mẹ Chúa Hài Ðồng bế Chúa tới trao cho ông theo luật thánh, Simeon bế Chúa trong hai tay, và ca ngợi Thiên Chúa rằng: ‘Lạy Chúa, nay Ngài có thể cho tôi tớ Ngài được yên nghỉ theo lời Ngài đã phán, vì nay tôi đã thấy được sự cứu rỗi mà Ngài đã chuẩn bị trước sự chứng kiến của mọi người, ánh sáng mạc khải cho dân ngoại và vinh quang cho dân Chúa, dân tộc Israel.’ Cha và mẹ của hài nhi kinh ngạc khi nghe Simeon nói thế.”

Mỗi khi tôi đọc chuyệm Asita và Simeon, tôi lại ước chi khi mỗi người chúng ta sinh ra lại có một vị hiền giả đến thăm viếng. Mỗi trẻ sơ sinh ra đời đều quan trọng, không kém gì việc đản sinh của Bụt. Chúng ta cũng là Bụt, một vị Bụt tương lai, và chúng ta tiếp tục ra đời trong mỗi giây phút. Chúng ta cũng đều là Con của Thiên Chúa và là con của cha mẹ ta. Chúng ta phải chăm sóc mỗi đứa trẻ mới ra đời.

Tiếp xúc với tổ tiên

Tôi không biết tôi là chính tôi hay tôi cũng là anh ruột tôi. Trước khi tôi ra đời, một em bé trai khác đã định sinh ra, nhưng mẹ tôi bị xẩy thai. Nếu người con trai đó còn sống, chắc tôi đã có một người anh. Hay tôi đã là anh tôi. Từ nhỏ tôi vẫn nghĩ ngợi về điều này.

Những bậc cha mẹ sắp có con nên cẩn trọng vì họ đang mang một hài nhi có thể trở thành một Ðức Bụt hay một Chúa Giêsu. Họ phải tỉnh táo biết những thứ gì họ đang ăn, uống, điều họ nghĩ, việc họ làm. Cách thức họ chăm sóc thân thể và cảm thọ của họ ảnh hưởng đến sự an lạc của đứa trẻ trong bụng mẹ. Cha mẹ chúng ta cho chúng ta được ra đời và hiện giờ vẫn tiếp tục ban sự sống cho chúng ta. Mỗi khi gặp khó khăn, tôi đều khấn cha mẹ tôi và lúc nào tôi cũng được phù hộ.

Các tổ tiên về tâm linh của chúng ta cũng ban cho chúng ta sự sống và cũng vẫn còn tiếp tục mãi. Ở nước tôi, chúng tôi thường nói một vị thầy đích thật có thể cho môn đệ sự sống. Nếu quý vị có đủ bản lãnh, quý vị sẽ tạo nên sự sống của những đứa con tinh thần, và qua sự tu tập và cuộc sống, quý vị sẽ tiếp tục ban sự sống cho nhiều người, cả sau khi đã qua đời. Chúng ta có thể nói các người con từ miệng Bụt ra đời vì Bụt đã ban cho họ các lời dạy, tức là Pháp. Có nhiều cách để mang Pháp tới cho cuộc sống tinh thần của một đứa trẻ sắp ra đời. Cách thông thường nhất là dùng lời nói. Mỗi ngày tôi vẫn tu tập để tiếp xúc với các tổ tiên huyết thống và các tổ tiên tâm linh của tôi. Mỗi khi tôi thấy mình yếu đuối, tôi lại kêu gọi họ phù trợ, và bao giờ các ngài cũng tới giúp.

Khổ và con đường dứt khổ

Ngay từ khi còn nhỏ, Tất Ðạt Ða và Guêsu đều nhận thấy đời nhiều nỗi khổ. Bụt đã thấy rất sớm nỗi khổ của mọi loài. Chúa Giêsu cũng phải nhìn thấy như vậy, vì các Ngài đều tìm đường giúp nhân loại dứt khổ đau. Chúng ta cũng phải tìm một lối sống giúp cho đời vơi khổ. Sự thật về khổ lúc nào cũng có mặt, ở chung quanh và ở trong ta, và chúng ta phải tìm đường giảm bớt nỗi khổ, biến khổ đau thành an lạc, hòa bình.

Chư tăng ni tu tập theo truyền thống của họ, đã tụng kinh, ngồi thiền, đi thiền hành, thọ trai trong yên lặng, và tu tập nhiều phương pháp khác để diệt khổ. Sống cuộc đời của một vị tăng hay ni, có thể ngồi im lặng quán chiếu về sự khổ và đường diệt khổ, là một điều quý báu hiếm có. Quý vị có thể ngồi quán chiếu sâu xa về thân và tâm của mình, như gà mẹ đang ấp trứng. Một ngày nào đó, trứng sẽ nở ra một gà con. Nếu quý vị không tôn quý những giờ thực tập, thì dù là tăng ni, quý vị cũng không cống hiến gì được cuộc đời.

Năm hai mươi chín tuổi Bụt xuất gia, tuổi tương đối còn trẻ, đến năm ba mươi lăm Ngài thành đạo. Chúc Giêsu cũng sống nhiều ngày một mình trong sa mạc. Chúng ta đều cần những giờ phút suy ngẫm và làm mới lại mình. Những người không phải tăng ni sẽ thấy khó kiếm được thì giờ thiền quán hay cầu nguyện, nhưng đó là một việc quan trọng phải làm. Trong những khóa tu, chúng ta tập sống ý thức về mỗi việc mình làm, rồi tiếp tục áp dụng điều đó trong cuộc sống hằng ngày. Thực hành như thế, chúng ta có thể quán chiếu sâu xa về bản chất của khổ và tìm ra đường thoát khổ. Ðó là bài giảng thứ nhất của Bụt tại Vườn Nai ở Sanarth: “Hãy quán chiếu sâu xa bản chất của khổ để tìm nguyên nhân gây ra khổ và con đường diệt khổ.” Người đi tu hay người tại gia đều có thể thực tập điều đó.

Ta là con đường

Ðạo Bụt trong truyền thống Theravada (Nam Tông) nhấn mạnh vào các bài giảng của vị Bụt lịch sử, vị Bụt đã sống và đã qua đời. Sau nầy ý niệm về Bụt sinh động phát triển trong truyền thống Mahayana (Bắc Tông). Khi Bụt sắp nhập diệt, nhiều vị đệ tử buồn rầu vì sắp phải xa Ngài. Ngài đã trấn an họ rằng: “Nhục thân của ta sẽ không còn nữa, nhưng Pháp thân của ta vẫn luôn luôn ở bên các con. Hãy quy y Pháp để làm hòn đảo cho các con nương tựa.” Lời Bụt dạy rất rõ ràng. Giáo Pháp của Ngài là hải đảo cho chúng ta nương tựa, là bó đuốc soi đường cho chúng ta. Khi Giáo Pháp còn tồn tại, thì chúng ta không cần phải lo buồn. Một vị sa môn lúc đó đang bệnh, ngỏ ý tiếc không thể đến gặp Bụt, Bụt nhắn với thầy đó rằng: “Nhục thân của Ta không quan trọng. Nếu thầy có Pháp thân với thầy, nếu thầy tin Pháp, thực tập Giáo Pháp, thì ta luôn luôn ở bên thầy.” Chúa Giêsu cũng từng nói: “Khi có hai, hay ba người họp nhau trong tên ta, ta ở đó cùng họ.”

Ta luôn luôn ở đó cùng người

Sau khi Bụt nhập diệt, người ta yêu và sùng kính Ngài quá nên ý niệm Pháp thân vốn bắt đầu là các giáo lý đã biến thành một vị Bụt huy hoàng, bất diệt, lúc nào cũng giảng Giáo Pháp. Trong truyền thống Bắc Tông, Bụt lúc nào cũng còn sống, vẫn tiếp tục giảng Giáo Pháp. Nếu quý vị chú ý lắng nghe, quý vị có thể nghe tiếng nói của Pháp từ một hòn sỏi, một lá cây, một đám mây bay. Ðức Bụt thường tồn đã trở thành Bụt sống, vị Bụt của niềm tin. Cũng giống như Chúa Ki Tô của đức tin, Chúa Ki Tô sống. Nhà thần học Paul Tillich mô tả Thiên Chúa như là nền tảng của hiện hữu. Người ta cũng có khi mô tả Bụt như vậy.

Thấy Ðạo là thấy ta

Gặp một vị minh sư cũng có giá trị như học ngài hàng thế kỷ, vì trong ngài chúng ta thấy tấm gương sống của sự giác ngộ. Làm sao chúng ta được gặp Bụt hay Chúa? Ðiều đó tùy thuộc chính ta. Nhiều người nhìn vào mắt Bụt hay Chúa mà không thấy. Có một thầy kia hối hả đi tìm gặp Bụt, vội quá đến nỗi dọc đường nhìn mà không thấy một người đàn bà đang đau khổ cần giúp đỡ. Khi vị đó tới tu viện gặp Bụt, ông ta cũng không nhìn thấy Bụt. Quý vị thấy Bụt hay không là do quý vị đang sống trong trạng thái nào.

Ta là trí tuệ, là từ bi

Bụt tỏa ra hào quang cũng như các nhân vật siêu phàm khác. Khi chúng ta gặp các nhân vật đó chúng ta cảm thấy bình yên, tình thương, thấy sức mạnh nơi họ và trong chúng ta. Có câu ngạn ngữ Trung Hoa rằng: “Thánh hiền ở đâu thì nước suối ở đó trong hơn, cây cối ở đó cũng xanh hơn.” Câu đó mô tả không khí bao quanh bậc thánh nhân. Khi quý vị đến bên một hiền giả, quý vị cảm thấy bình an và sáng láng. Khi quý vị đến gần Chúa Giêsu và nhìn thẳng vào mắt Ngài – dù quý vị có thấy hay không – quý vị có nhiều hy vọng được cứu rỗi hơn là chỉ đọc lời nói của Ngài. Nhưng khi quý vị không thể đích thân gặp Chúa, thì còn những bài học của Chúa, đặc biệt là những bài học về cuộc đời của Ngài.

Thoát khỏi những khái niệm

Mỗi khi tôi đọc kinh điển, dù là kinh đạo Chúa hay đạo Bụt, tôi luôn luôn ghi nhớ rằng những điều các Ngài nói là nói cho một người hay một thính chúng nào đó, trong một hoàn cảnh nào đó. Tôi cố suy ngẫm sâu xa về khung cảnh của lời dạy để hiểu cho đúng hơn. Ðiều các Ngài nói có khi không quan trọng bằng cách nói. Khi chúng ta biết như vậy, chúng ta gần Chúa và Bụt hơn. Còn nếu như chúng ta phân tích kỹ lưỡng lời dạy của các Ngài mà không hiểu tương quan giữa người nói và người nghe thì có thể chúng ta đã hiểu lầm. Nhiều nhà thần học cũng có khi mắc lỗi nầy.

Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy sự can đảm vô cùng của Chúa Giêsu khi Ngài cố thay đổi xã hội chung quanh. Khi đọc kinh Phật, chúng ta cũng thấy Bụt có một nhân cách rất mạnh. Xã hội Ấn Ðộ thời Bụt không nhiều bạo lực bằng xã hội trong đó Chúa Giêsu sinh ra, cho nên chúng ta có cảm tưởng các phản ứng của Bụt không quyết liệt bằng, nhưng điều đó là vì trong xã hội của Bụt khả dĩ có thể tìm ra phương cách khác. Hãy xem phản ứng của Bụt đối với sự sa đọa của các tu sĩ theo phái Vệ Ðà chẳng hạn, cũng rất quyết liệt. Thí dụ khái niệm về Tự Ngã (Atman), một trọng điểm của giáo lý Vệ Ðà, là một nguyên nhân của tình trạng bất công xã hội thời đó – như hệ thống đẳng cấp, cách đối xử bất nhẫn với những người vô đẳng cấp, và sự độc quyền về giáo điều của những người không chắc có giá trị tinh thần nhưng lại hưởng những cuộc sống sung túc nhất. Phản ứng lại, Bụt đã nhấn mạnh đến giáo lý Vô Ngã. Ngài nói: “Mọi sự vật không có tự tánh riêng biệt, độc lập. Nhìn vào tự tánh của một bông hoa, quý vị thấy đó là sự trống rỗng.” Ðến khi các đồ đệ bắt đầu sùng bái giáo lý Vô Ngã, Ngài lại nói: “Thà rằng tin ở tự ngã của một bông hoa còn hơn là vướng mắc vào tính vô ngã của bông hoa.”

Bụt không trình bày một học thuyết có tính cách tuyệt đối. Ngài dạy về vô ngã để đối trị với vấn đề của thời đại đó. Ðó là một đề tài thiền quán. Nhưng nhiều Phật tử về sau bị vướng mắc vào ý niệm vô ngã. Họ lầm phương tiện với cứu cánh, lầm cái bè qua sông với bờ sông bên kia, lầm ngón tay chỉ mặt trăng với mặt trăng. Có điều quan trọng hơn cả thuyết vô ngã. Ðó là sự giải thoát khỏi khái niệm về Ngã và về Vô Ngã. Một người theo đạo Bụt mà để bị vướng mắc vào một lý thuyết, dù là lý thuyết Phật giáo, là làm ngược lời Bụt dạy. Lời nói và khái niệm không quan trọng. Ðiều quan trọng là sự khai ngộ của chính chúng ta về bản chất của sự vật và cách thức chúngta đối trị với sự thật đó. Nếu Bụt sinh ra ở xã hội mà chúa Giêsu đã sinh ra, tôi nghĩ chắc Ngài cũng bị đóng đinh trên thập tự.

Thấy Ðạo, lên đường

Khi Chúa Giêsu nói: “Ta là con đường” Ngài muốn bảo nếu muốn gần Thiên Chúa chúng ta phải tu tập con đường của Ngài. Trong Tân Ước, ta thấy các người theo Thiên Chúa Giáo đầu tiên, như tả trong sách Tông Ðồ Mục Vụ, thường nói đến đức tin của họ như là “Con Ðường – Ðạo.” Tôi nghe câu nói “Ta là Con Ðường” hay hơn câu “Ta biết Con Ðường.” Ðây không phải là một con đường trải nhựa. Nhưng chúng ta phải phân biệt chữ “Ta” trong lời Chúa và chữ “Ta” mà người nghe vẫn nghĩ. Chúa nói “Ta” là nói về Ðời Sống, đời sống của Ngài, đó là Ðạo. Nếu quý vị không nhìn vào đời sống của Ngài, quý vị không thấy Ðạo của Ngài. Nếu quý vị chỉ ca ngợi một danh hiệu, dù là danh hiệu Chúa, đó chưa phải là tu học theo cuộc đời của Chúa. Nếu muốn sáng danh Chúa Giêsu chúng ta phải tập sống sâu xa, thương yêu và hành động bác ái. Ðạo, Con Ðường, chính là Chúa chứ không phải là một vài ý Chúa nói ra. Giáo lý đích thực có tính động. Ðó không phải là lời nói mà thôi nhưng là đời sống thật. Nhiều người không có đạo lẫn đời sống mà vẫn bắt ép mọi người theo cái mà họ tưởng là đạo. Nhưng đó chỉ là lời nói mà không dính dấp gì đến đời sống thật hay con đường thật.

Khi chúng ta hiểu và thực hành sâu xa cuộc đời và giáo pháp của Bụt, cuộc đời và tín lý của Chúa Giêsu, chúng ta bước được vào trong cánh cửa của căn nhà Bụt sống và Chúa sống, và đời sống hằng cửu sẽ đến với ta.

Thân ta là mình Chúa

Khi một vị mục sư nói tôi là người không biết ơn (vì không tạ ơn Chúa khi ăn cơm), ông đang nói một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ người theo đạo Bụt. Ông nghĩ tình thương yêu chỉ có thể biểu tượng vào một người. Vì vậy, sự Phục Sinh là một tín lý rất quan trọng trong Ki Tô Giáo. Nếu Giêsu chết đi rồi không phục sinh, ai sẽ mang tình yêu thương vĩnh cữu của Ngài tới cho chúng ta? Nhưng Thượng Ðế có cần phải biểu hiện thành một người không? Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo luôn luôn dùng hình ảnh của một người.

Trong đạo Bụt, chúng ta cũng hay diễn tả các điều thệ nguyện của mình bằng hình ảnh của một người, như sự tỉnh thức (Bụt Thích Ca), trí tuệ (Bồ tát Văn Thù Sư Lợi), và tình yêu (Bụt Di Lặc), nhưng ngay cả khi không có Thích Ca Mâu Ni, Văn Thù Sư Lợi, Di Lặc, chúng ta vẫn tiếp xúc được với tỉnh thức, trí tuệ và yêu thương. Ðệ tử Bụt là sự tiếp nối của Bụt. Chúng ta có thể biểu hiện tỉnh thức, trí tuệ và thương yêu qua các nhân vật thời đại của mình, ngay cả qua chính mình. Chúng ta không cần tin Bụt hay Bồ tát sẽ sống lại bằng sự thực hành tỉnh thức, trí tuệ và thương yêu trong chúng ta.

Chúa Ki Tô sống là Ðức Ki Tô của Tình Yêu, mỗi lúc đều tạo dựng nên tình yêu. Khi giáo hội biểu hiện sự hiểu biết, bao dung, và từ bi, Chúa Giêsu đang ở đó. Những tín đồ Thiên Chúa Giáo cần giúp thể hiện Chúa Giêsu trong đời sống của họ, cho những người chung quanh thấy rằng ta có thể đạt tới tình thương, sự hiểu biết và bao dung. Ðiều đó không thể làm đầy đủ qua sách vở và bài giảng. Phải thể hiện trong đời sống. Trong đạo Bụt cũng vậy, đức Bụt sống Ngài dạy chúng ta từ bi chỉ có thể thể hiện bằng cách chúng ta sống.

Nhờ công phu hành trì của nhiều thế hệ người theo đạo Bụt và đạo Chúa, sức mạnh từ Bụt và từ Chúa đã được truyền tới đời chúng ta. Nhờ thế chúng ta có thể tiếp xúc với Bụt sống và Chúa sống. Chúng ta biết ta là biến thân của thân Bụt và một phần của thân huyền nhiệm của Chúa. Chúng ta có cơ hội tuyệt vời làm cho Bụt và Chúa tiếp tục sống mãi. Nhờ thân thể và đời sống của chúng ta mà ta có thể tu tập. Nếu quý vị ghét thân thể của quý vị, nghĩ rằng đó là nguồn gốc của buồn phiền, nó chỉ chứa đựng các hạt giống của giận dữ, thù hận và tham lam, quý vị không hiểu rằng thân thể của quý vị cũng là thân Bụt, thân thể quý vị cũng là một phần thân Chúa.

Hãy vui hưởng sự sống

Thở và biết rằng mình sống thật là điều tuyệt vời. Vì ta còn sống, nên ta còn bao nhiêu chuyện có thể làm. Tăng thân, cộng đồng của những người tu tập có thể tiếp tục. Giáo hội có thể tiếp tục. Xin đừng phí một giây phút nào. Mỗi giây phút đều là dịp để thở sự sống vào Bụt, Pháp, và Tăng. Mỗi giây phút đều cho ta cơ hội để thể hiện Cha, Con, và Thánh Thần.

“Có một người sinh ra trên trái đất để mang lại bình an hạnh phúc cho muôn loài. Vị đó là ai vậy?” kinh Anguttara Nikaya hỏi câu đó. Ðối với người Phật tử, vị đó là Bụt. Ðối với tín hữu Thiên Chúa Giáo, vị đó là Chúa Giêsu. Bằng chính đời sống hằng ngày của quý vị, quý vị có thể giúp các Ngài tiếp tục sống. Quý vị chỉ cần đi trong tỉnh thức, bước từng bước an hòa và hạnh phúc trên hành tinh của chúng ta. Hãy thở thật sâu và vui hưởng hơi thở của quý vị. Hãy ý thức về bầu trời xanh và tiếng chim hót ngọt ngào. Hãy vui hưởng sự sống, quý vị sẽ giúp Ðức Chúa Ki Tô Sống và Ðức Bụt Sống tiếp tục lâu dài, mãi mãi.

Thích Nhất Hạnh (1995)

 

___________________

Chân Văn dịch từ Chương Bốn trong quyển “Living Buddha, Living Christ”, của Thích Nhất Hạnh, Riverheads Book xuất bản, 1995. Quyển sách gồm nhiều bài giảng bằng Anh ngữ của Thầy, được ghi âm, chép lại và nhuận sắc. Ðây là một quyển sách đã bán được rất nhiều trong loại sách về tôn giáo và tâm linh ở California, Hoa Kỳ. Theo lối quen dùng trong các sách Việt ngữ của Thầy, từ “Buddha” được dịch là “Bụt”, một từ trong tiếng Việt cổ dùng để phiên âm “Buddha” khi đạo Phật được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Về sau, từ khi người Việt dùng kinh sách chữ Hán, từ “Phật” hay “Phật Ðà” (tiếng Hán Việt) được dùng thay từ “Bụt”. Bài dịch nầy đã được đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, California, Hoa Kỳ, tháng 11-1995.