Kệ truyền đăng

Các bài kệ phú pháp truyền đăng của Tổ đình Từ Hiếu qua nhiều thế hệ

Tổ Sư Nhất Định, khai sơn Tổ đình Từ Hiếu, đã phú pháp cho mười lăm vị đệ tử xuất gia của Ngài. Vị Đại sư được phú pháp đầu tiên là Tổ Hải Chiếu, pháp tự là Đoan Trang. Trong bài kệ phú pháp này, Tổ Nhất Định có sử dụng danh từ truyền đăng. Câu thứ tư của bài kệ là “nhất đăng truyền chiếu bách thiên đăng” có nghĩa là một cây đèn truyền xuống sẽ trở thành trăm ngàn cây đèn. Vì vậy, phú pháp (trao gửi pháp) cũng là truyền đăng (trao truyền đèn). Và người nhận pháp được gọi là đắc pháp, hoặc người nối pháp (pháp tự).

Sau Tổ Nhất Định, các Tổ khác cũng sử dụng danh từ truyền đăng. Tổ Hải Thiệu trong bài kệ phú pháp trao cho Tổ Thanh Đăng cũng nói “truyền đăng phụng tổ tông” nghĩa là trao truyền ngọn đèn chánh pháp là để phụng sự tổ tiên và tông phái. Trong bài kệ phú pháp trao cho Tổ Thanh Tịnh cũng có câu “tục diệm truyền phú chúc, minh đăng phụng tổ tông” nghĩa là “ngọn lửa được trao gửi lại, làm cho cây đèn sáng lên mà phụng sự chư tổ và tông môn” . Trong bài kệ phú pháp trao cho Tổ Thanh Bản, cũng có câu “chân đăng kim phú nhữ, hồi quang vạn pháp linh”, nghĩa là “ngọn đèn chân lý bây giờ trao lại cho thầy, đem ánh sáng soi trở lại sẽ thấy vạn pháp đều linh ứng”. Tổ Hải Thiệu đã truyền đăng cho 30 vị. Tổ Tuệ Minh đã truyền đăng cho 11 vị, trong đó có Tổ Thanh Quý. Trong bài phú pháp mà Tổ Thanh Quý trao cho Thiền sư Nhất Hạnh cũng có câu “tâm đăng nhược chiếu kỳ nguyên thể, diệu pháp đông tây khả tự thành” có nghĩa là “nếu đem được ánh sáng của ngọn đèn tâm mà chiếu vào bản tính uyên nguyên, thì sự trao truyền giáo pháp mầu nhiệm sẽ được thành tựu ở cả đông phương và tây phương”.

Tại Mai Thôn Đạo Tràng, phó pháp truyền đăng là một, và để cho cụ thể, các vị giáo thọ đắc pháp đều được nhận một cây đèn trong lễ đắc pháp. Vì vậy ta đã quen nghe danh từ “truyền đăng đắc pháp”.

I

Đây là những bài kệ phú pháp của Sư tổ Tánh Thiên Nhất Định
trao cho các vị Đại sư được đắc pháp với Ngài

 

1. Trao cho Đại sư Hải Chiếu, pháp tự Đoan Trang:

Đoan trang học địa tịnh đồng băng
Tham cứu thiền cơ liễu thượng thằng
Kiên cố tín tâm vô dị biệt
Nhất đăng truyền chiếu bách thiên đăng.

Bản tiếng Việt do Thầy Làng Mai dịch:

Đoan trang giới hạnh sạch làu làu
Tham cứu thiền cơ thấy thật sâu
Niềm tin vững chãi không phân biệt
Đèn nay truyền lại vạn đèn sau.

Bản tiếng Hán:

付海炤字端莊偈曰
端莊學地淨同冰, 參究禪機了上乘,
堅固信心無異別, 一燈傳照百千燈.

2. Trao cho Đại sư Hải Trạch, pháp tự Thiều Hoa:

Thiều hoa chính phát sắc phương hưng
Dụng lực tài bồi nhật nhật tân
Tăng tiến bồ đề vô thoái chuyển
Xuân lai kết quả khí phương phân.

付海擇字韶華偈曰
韶華正發色方興, 用力栽培日日新,
增進菩提無退轉, 春來結果氣芳芬.

3. Trao cho Đại sư Hải Thuận, pháp tự Lương Duyên:
(Trú trì chùa Báo Quốc)

Lương duyên hội ngộ giới châm đầu
Đạo hợp tâm truyền xứng sở cầu
Phúc tuệ song tu vô gián đoạn
Quang dương tổ ấn vĩnh trường lưu.

付海順字良緣偈曰(報國寺住持)
良緣會遇芥針投, 道合心傳稱所求,
福慧雙修無間斷, 光揚祖印永長流.

4. Trao cho Đại sư Hải Phong, pháp tự Vĩnh Mậu:

Vĩnh mậu sum la vạn cổ hằng
Như như bản tính đoạn trần căn
Duy vân cựu các nhàn điền địa
Nhất độ dinh lai đạo nhật tăng.

付海豐字永茂偈曰
永茂森羅萬古恆, 如如本性斷塵根,
雖云舊閣閑田地, 一度營來道日增.

5. Trao cho Đại sư Hải Trường, pháp tự Pháp Lữ:

Pháp lữ đồng vi xứ xứ hoan
Vô tâm vật lũy tiện khinh an
Chân tu nhật dạ thường tinh tiến
Bảo sở cao đăng dã bất nan.

付海長字法侶偈曰 (聖緣寺住持)
法侶同為處處歡, 無心物累便輕安,
真修日夜常精進, 寶所高登也不難.

6. Trao cho Đại sư Hải Hồng, pháp tự Giác Mãn:

Giác mãn công viên đức hạnh toàn
Hứa đa trần sự khởi tương can?
Tâm không cập đệ chân thường lạc
Nhất đạo thần quang vạn cảnh nhàn

付海洪字覺滿偈曰
覺滿功圓德行全, 許多塵事豈相干,
心空及第真常樂, 一道神光萬境閑.

7. Trao cho Đại sư Hải Trạm, pháp tự Diên Miên:

Diên miên tổ đạo trấn gia phong
Bộ bộ cao đăng hướng thượng tông
Liễu ngộ tức tâm, tâm thị Phật
Tương thừa tục diệm vĩnh xương long

付海湛字延綿偈曰 (靈佑寺住持)
延綿祖道振家風, 步步高登向上尊,
了悟即心心是佛, 相承續燄永昌隆.

8. Trao cho Đại sư Hải Tuệ, pháp tự Phúc Ẩn: (Trú trì chùa Linh Hựu)

Phúc ẩn do như ngọc uẩn vi
Y trung hệ bảo kỷ thùy tri
Thân nhân chỉ thị thiêm điêu trác
Kế thế phong lưu dã bất khuy

付海慧字福隱偈曰 (靈佑寺住持)
福隱猶如玊蘊微, 衣中繫寶幾誰知,
親人指示添琱琢, 繼世風流也不虧.

9. Trao cho Đại sư Hải Hoạt, pháp tự Trừng Thanh:

Trừng thanh tính hải khí an nhiên
Xử thế tùy cơ liễu mục tiền
Đạo niệm tinh tu, tình niệm đoạn
Như kim phú pháp vĩnh lưu truyền

付海活字澄清偈曰
澄清性海氣安然, 處世隨機了目前,
道念精修情念斷, 如今付法永流傳.

10. Trao cho Đại sư Hải Hoa, pháp tự Phát Đạt:

Phát đạt thiền cơ đại đạo hành
Cần tu tiến bộ thượng vân trình
Siêu nhiên vật ngoại hồn nhàn tịnh
Liễu đắc tâm không pháp bất sinh

付海華字發達偈曰
發達禪關大道行, 勤修進步上雲程,
超然物外渾閑淨, 了得心空法不空(生).

11. Trao cho Đại sư Hải Ngộ, pháp tự Tâm Thành:

Vạn linh chỉ tại nhất tâm thành
Giải thoát trần căn pháp tánh sinh
Tảo giác mê vân lung hạo nguyệt
Tuệ phong xuy tán kiến quang minh

付海悟字心誠偈曰
萬靈只在一心誠, 解脫塵根法性生,
早覺迷雲籠皓月, 慧風吹散見光明.

12. Trao cho Đại sư Hải Nhu, pháp tự Tín Nhiệm:
(Tăng cang chùa Linh Mụ)

Tín nhiệm vô nghi pháp tự thành
Trần căn tịch tịnh thiện căn sinh
Hoa tâm khai phát phong tư mỵ
Xuy lãnh tai phong giải uẩn tình

付海儒字信任偈曰 (靈姥寺僧綱)
信任無疑法自成, 塵根寂淨善根生,
花心開發丰姿媚, 吹領在風解慍情.

13. Trao cho Đại sư Hải Bạch, pháp tự Thanh Huyền:

Thanh huyền trạm trạm tịch hư linh
Đạo pháp hà tằng hữu tượng hình
Tổ thọ tôn thừa truyền thế thế
Bồ đề lộ thượng bộ khinh khinh

付海白字清玄偈曰
清玄湛湛寂虛靈, 道法何曾有像形,
祖授孫承傳世世, 菩提路上步輕輕.

14. Trao cho Đại sư Hải Nguyệt, pháp tự Trí Viên:

Trí viên nguyệt mãn lưỡng đồng viên
Yên tán vân phi nhất sắc thiên
Phật pháp bất ly ư thế pháp
Hòa quang vô nhiễm tính vi nhiên

付海月字智圓偈曰
智圓月滿兩同圓, 煙散雲飛一色天,
佛法不離於世法, 和光無染性為然.

15. Trao cho Đại sư Hải Thiệu, pháp tự Cương Kỷ:
(Trú trì chùa Từ Hiếu)

Cương kỷ kinh quyền bất chấp phương
Tùy cơ ứng dụng thiện tư lương
Triêu triêu tương thức nan tầm tích
Nhật nhật xuyên y nghiết phạn thường

Bản tiếng Việt do Thầy Làng Mai dịch:

Cương kỷ biết thời không cố chấp
Cơ duyên ứng dụng khéo tư lường
Sáng sáng tìm nhau không dấu vết
Mặc áo ăn cơm giữ chuyện thường.

Bản tiếng Hán:

付海紹字綱紀偈曰 (慈孝寺住持)
綱紀經權不執方, 隨機應用善思量,
朝朝相識難尋跡, 日日穿衣契飯常.

 

Bị chú:
Sư tổ Nhất Định có 41 vị đệ tử xuất gia, vị thứ hai pháp danh Hải Đức, pháp tự Trinh Tường, sau này được đắc pháp truyền đăng với Tổ Bản Giác, chùa Linh Mụ với pháp danh mới là Liễu Tâm và pháp tự mới Viên Cơ. Đây là bài kệ phó pháp do Tổ Bản Giác trao cho Tổ Hải Đức:

Pháp pháp chân như pháp
Tâm tâm cơ dạng thì
Liễu tâm phi nội ngoại
Hướng thượng thị viên ky

法法真如法, 心心機 時,
了心非內外, 向上是圓機.