Giấc mơ của một người tu trẻ

Phương Khê Nội Viện, mùa xuân 2009
Thân gửi các con của thầy, gần và xa!

Buổi công phu sáng trong sách Thiền Môn Nhật Tụng có một bài văn sám mà ngày xưa khi còn làm sa di thầy rất thích tụng. Văn của bài sám rất hay, nội dung của bài sám có công năng nuôi dưỡng chí nguyện của người tu. Mỗi lần tụng đọc bài sám, chú Phùng Xuân thường để cho lời kinh ôm ấp thấm sâu vào từng huyết quản, từng tế bào của cơ thể. Bài sám văn này là một giấc mơ thật đẹp của người tu, và thầy rất biết ơn thiền sư Di Sơn đã viết ra bài sám văn ấy. Các con cũng đã biết bài ấy rồi, đó là bài Sám Quy Mạng. Tên của nó là Phát Nguyện Văn. Tác giả bài Sám Quy Mạng (Phát Nguyện Văn) này là thiền sư Kiểu Nhiên đời Đường, văn chương rất lỗi lạc. Những văn bia về các thiền sư sơ kỳ Thiền Tông đều do một tay Ngài viết. Di Sơn là tên núi; vì kính quý ngài nên dân chúng gọi thiền sư là Di Sơn thay vì Kiểu Nhiên. Thiền sư họ Tạ, tự là Thanh Trú. Tác phẩm để lại cho đời là Trữ Sơn Tập, mười cuốn.

Trong sách Nhị Khóa Hợp Giải, thiền sư Quán Nguyệt có nói: “Nếu bạn không thích bài Sám Quy Mạng này thì có thể thay vào bằng một bài khác như bài Khế Thủ, bài Thập Phương Tam Thế Phật, hay bài Nhất Tâm Quy Mạng”. Nhưng ai lại không thích bài Sám Quy Mạng này? Thầy nghĩ là đã có biết bao nhiêu thế hệ người trẻ xuất gia đã được bài Sám này nuôi dưỡng, vỗ về và an ủi. Hồi chưa tới tuổi hai mươi, thầy đã có ước mơ dịch bài này ra quốc văn. Và giấc mơ ấy đã được thành tựu khi thầy còn là một vị giáo thọ trẻ tuổi giảng dạy tại Phật Học Đường Nam Việt. Thầy đã dịch bài Sám Quy Mạng ra tiếng Việt trong thể thơ lục bát. Nhiều vị học tăng và học ni thời ấy của Phật Học Đường Nam Việt (Chùa Ấn Quang) đã học thuộc lòng. Và bài Sám ấy hiện đang có mặt trong sách Nhật Tụng Thiền Môn 2010 của chúng ta.

Phần lớn những câu văn trong bài Sám đều là những câu bốn chữ hay sáu chữ, xen lẫn với nhau rất khéo léo, thành ra âm điệu bài tụng có lúc thì êm dịu, có lúc thật trầm hùng.

“ Kiếp sau, nhờ hạt giống trí tuệ linh thiêng gieo trồng trong kiếp này, con xin được sinh trở lại trong một môi trường có văn hóa, lớn lên được gặp một vị thầy sáng và được xuất gia từ hồi còn là thiếu nhi. Sáu căn của con đều sẽ  được thông lợi và ba nghiệp của con cũng sẽ được thuần hòa. Con sẽ không bị thói đời làm ô nhiễm và con sẽ sống một cuộc đời phạm hạnh thanh cao. Con sẽ hành trì các giới luật một cách nghiêm minh. Không vướng vào duyên nghiệp thế gian,con sẽ thực tập các uy nghi một cách nghiêm túc và con sẽ biết bảo hộ cho tất cả mọi loài chúng sanh, bắt đầu từ những sinh vật rất nhỏ bé “…”. Con sẽ tu tập theo chánh pháp và liễu ngộ được giáo pháp Đại Thừa, nhờ vậy mà con sẽ khai mở được cánh cửa hành động của lục độ và thành tựu được những gì mà các vị hành giả khác phải trải qua ba a tăng kỳ kiềp mới thành tựu được”

Đọc những đoạn vừa qua các con có thấy đó là một giấc mơ vĩ đại không? Nếu không có hạt giống của bồ đề tâm, nếu không có hạt giống của hạnh nguyện bồ tát thì làm sao làm phát khởi được một ước muốn vĩ đại như thế?

Các con hãy cùng thầy đọc tiếp:

“Con sẽ thiết lập được đạo tràng tu học khắp nơi khắp chốn, con sẽ phá tan được muôn trùng mạng lưới của sự nghi ngờ. Con sẽ hàng phục được mọi ma chướng và sẽ truyền lại ngọn đèn chánh pháp để cho ba ngôi tam bảo sẽ  mãi mãi tiếp tục ngời sáng trong tương lai. Con sẽ phụ tá cho chư Bụt mười phương mà không bao giờ cảm thấy mệt mỏi; con sẽ tu tập thành tựu được tất cả các pháp môn. Con sẽ thực tập trên cả hai bình diện xã hội và trí tuệ để làm lợi ích cho chúng sanh khắp nơi. Con sẽ đạt tới sáu phép thần thông và sẽ thành tựu được quả vị Phật đà ngay trong một kiếp”.

“Sau đó con sẽ không xa lìa pháp giới; trái lại con sẽ đi vào và có mặt trong vạn nẻo trần gian. Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của bồ tát Phổ Hiền”

“Ngay trong cõi này và ở các cõi khác, con sẽ ứng hiện thành những sắc thân khác nhau để tuyên dương diệu pháp”

“Nơi những nẻo đường địa ngục và quỷ đói, con sẽ hoặc phóng ra những đạo hào quang lớn, hoặc tự mình hiện thần biến tướng : bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều có khả năng phát tâm bồ đề và  lập tức vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi”

“Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa, hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm”

“Vào những thời mà tật dịch bệnh khổ lan tràn, con sẽ hóa hiện ra vô số dược thảo thuốc men, chữa lành được cả những chứng bệnh trầm kha, gặp khi nạn đói hoành hành, con sẽ hóa hiện ra gạo lúa dồi dào để giảm nghèo cứu đói”

“Không có công tác nào làm lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan”

“Sau đó, con sẽ giúp cho tất cả mọi người, trong đó có kẻ thân và người thù trong nhiều kiếp, cùng với bà con quyến thuộc đời này, để ai cũng có thể buông bỏ được những sợi dây ái nhiễm ràng buộc, để cùng với tất cả chúng sinh thực hiện được đạo giác ngộ.”

“Hư không kia còn có thể có giới hạn, nhưng nguyện ước con thì không có chỗ cùng . Con nguyện cho tất cả các loài, hữu tình và vô tình, đều đạt tới quả vị nhất thiết chủng trí.”

Những lời kinh trong Sám văn ngày xưa đã  tưới tẩm hạt giống bồ đề của chú sa di nhỏ vào mỗi buổi sáng công phu. Không biết vì lý do gì  mà chú cứ tin là giấc mơ kia sẽ có thể thành tựu, dù chung quanh chú chưa có dấu hiệu nào chứng tỏ được điều đó, và chưa thấy ai đang làm được điều đó.

Lời kinh quá đẹp khiến sau này thầy đã lấy chữ trong ấy để đặt pháp hiệu cho các vị thọ giới tại Làng Mai. Ví dụ pháp tự Chân Hương Lâm của Sư thầy Đàm Nguyện ở Hà Nội. Hương lâm là những khu rừng thơm. “Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm – hỏa hoạch băng hà chi địa biến tác hương lâm.”

Thật là vừa nên thơ vừa hợp với ý hướng bảo hộ sinh môi. Lời kinh quá hùng tráng thành thử mình có cảm tưởng mình không còn là một tín đồ đang cầu xin ơn phước, mà là một vị đại sĩ có thần  lực độ đời rất vĩ đại: “Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện bồ tát Phổ Hiền – đẳng Quan Âm chi từ tâm, hành Phổ Hiền chi nguyện hải -” Người trì tụng Sám văn không còn mặc cảm thua kém nữa, và thấy mình cũng có thể làm được những gì mà các vị bồ tát lớn đang làm. Những lời kinh như thế làm chấn động cả tâm can của người hành giả. “Bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi – phàm hữu kiến ngã tướng, nãi chí văn ngã danh, giai phát bồ đề tâm,vĩnh xuất luân giao hồi khổ”.  Và như thế thì con cũng sẽ không thua bất cứ một vị Phật nào hay một vị bồ tát lớn nào trong quá trình hành đạo.

Giấc mơ của bài sám Quy Mạng chỉ là giấc mơ suông hay một giấc mơ có thể biến thành hiện thực?

Nhiều thế hệ hành giả, trong đó có các con, đã từng tụng đọc sám văn này, và đã có thể từng đặt câu hỏi ấy. Ngày xưa, thầy không đặt câu hỏi ấy. Tuy là chung quanh mình chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ giấc mơ kia có thể trở thành sự thực, nhưng thầy vẫn ôm ấp giấc mơ đó và tin rằng nó sẽ trở thành hiện thực. Những thập niên  bốn mươi và năm mươi là những thập niên của đói kém của chiến tranh. Giới xuất gia tìm đủ mọi cách để duy trì sự thực tập trong phạm vi chùa viện của mình nhưng cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn. Ngay những người trẻ trong giới xuất gia cũng bị tù đày, thủ tiêu và áp bức. Là một thầy tu trẻ thầy đã từng đọc lịch sử Lý Trần và đã thấy rằng nếu đạo Bụt đã có khả năng giúp cho đất nước hùng mạnh và thái bình trong những triều đại ấy thì đạo Bụt cũng có thể làm được như thế trong thời đại hiện tại. Tại sao không? Đó là câu hỏi của thầy, dù đạo Bụt vào những thập niên ấy vẫn chưa thoát ra được trạng thái suy đồi cần phải vượt thoát. Có lẽ cái thấy ấy về đạo Bụt Lý Trần đã cho Thầy một niềm tin rằng giấc mơ của sám Quy Mạng không phải chỉ là một giấc mơ suông mà là một giấc mơ có thể trở thành hiện thực.

Hồi còn là vị giáo thọ trẻ ở Ấn Quang, thầy đã dịch sám Quy Mạng với một ngôn ngữ khiêm cung. Nguyên văn: “Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng  lượng từ bi của bồ tát Quán Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của bồ tát Phổ Hiền” đã được Thầy dịch là “mưa từ rưới khắp nhân thiên, mênh mông biển hạnh lời nguyền độ tha”. Nguyên văn “Bất cứ ai thấy được dung mạo của con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi” đã được thầy dịch là : “Chỉ cần thấy dạng nghe danh, muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau”. Mấy mươi năm ở hải ngoại không có cơ hội ôn lại bản dịch ấy, thầy chỉ còn nhớ được một vài đoạn. May quá, Hòa thượng Như Huệ viện chủ chùa Pháp Hoa (ở Úc Đại Lợi) trong dịp về chứng minh đại giới đàn Nến Ngọc tổ chức ở Làng Mai mùa Hè 1996 đã đọc lại cho Thầy chép xuống toàn bài. Hòa thượng Như Huệ đã từng là học tăng trong Phật Học Đường Nam Việt, và đã học thuộc lòng bản dịch của Sám văn Quy Mạng. Nhờ đó mà bản dịch ngày nay còn được giữ lại trong sách Nhật Tụng Thiền Môn. Thầy nghĩ là thầy trò chúng ta cần đọc tụng sám văn Quy Mạng ít nhất mỗi tuần một lần, để tâm bồ đề được tiếp tục nuôi dưỡng. Tâm bồ đề là nguyện ước, là giấc mơ của người hành giả chân chính. Tâm bồ đề bị soi mòn thì chúng ta không còn năng lượng để đi tới mà thực hiện giấc mơ.

Khuya nay trong giờ thiền tọa chúng ta hãy cùng nhau quán chiếu để thấy rằng giấc mơ kia đang từ từ biến thành hiện thực.

“Kiếp sau xin được làm người , sinh ra gặp pháp sống đời chân tu, dắt dìu nhờ bậc minh sư” điều này ta đã thực hiện được.

“Sáu căn ba nghiệp thuần hòa, không vương tục lụy theo đà thế nhân, một lòng tấn đạo nghiêm thân, giữ gìn phạm hạnh nghiệp trần lánh xa”, đó là sự thực tập hành trì giới luật và uy nghi hàng ngày của chúng ta.

“Đạo tràng dựng khắp nơi nơi, lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không”, đó là những gì mà thầy trò chúng ta đang nổ lực thực hiện. Tăng thân hiện giờ đang có mặt khắp nơi, mỗi quốc gia trên thế giới đều có hàng chục hoặc hàng trăm đoàn thể tu học theo pháp môn chánh niệm, gọi là tăng thân chánh niệm (communities of mindful living). Những thành phố lớn như Nữu Ước, Luân Đôn, Los Angeles, Paris, Amsterdam, Berlin, đều đã có nhiều tăng thân. Những khóa tu tổ chức khắp nơi, những tác phẩm viết về đạo Bụt đi vào cuộc đời đã trở thành một mạng lưới chánh pháp có mặt khắp nơi, đang nổ lực phá tan được những ngộ nhận và nghi ngờ đối với đạo Bụt, cho thế giới thấy rằng đạo Bụt là một nền nhân bản có tính khoa học, không phải là tôn giáo thần quyền, mê tín dị đoan, tiêu cực yếu đuối. “ Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không” là như thế.

“Truyền đăng Phật pháp nối dòng vô chung” Chúng ta đã đào tạo được khá nhiều các vị giáo thọ và giáo thọ tập sự, xuất gia và tại gia, số người tiếp nhận truyền đăng cho đến nay đã lên tới trên 300 vị.

“Thuốc thang cứu giúp cho đời, áo cơm cứu giúp cho người bần dân,bao nhiêu lợi ích hưng sùng, an vui thực hiện trong vòng trầm luân”. Đây là công tác xã hội, đây là một phần của đạo Phật ứng dụng, của đạo Phật đi vào cuộc đời.

Chúng ta đã lập được Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đào tạo trên 600 tác viên và và hàng ngàn trợ tác viên và cảm tình viên (làm việc công quả mà không nhận phụ phí), thành lập các Làng Hoa Tiêu và  Làng Tự Nguyện để nâng cao phẩm chất sự sống ở nông thôn về cả bốn mặt giáo dục, y tế, kinh tế và tổ chức. Các tác viên xã hội đã làm việc cứu trợ nạn nhân chiến tranh, chăm sóc các trại tị nạn, có trại lên đến 11.000 người, thành lập các trung tâm định cư trên những vùng đất mới, tái thiết lại những làng bị bom đạn tàn phá. Chúng ta có Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển Xã Hội, làm việc với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (1972-1975). Chúng ta đã có chương trình bảo trợ trên 10.000 trẻ em mồ côi vì chiến tranh. Chúng ta đã có chương trình Máu Chảy Ruột Mềm cứu trợ thuyền nhân trên  biển. Chúng ta đã thành lập tổ chức Pour les Enfants du Vietnam, rồi Partage avec les Enfants du Monde , cứu giúp cho trẻ em  17 nước trong đó có Việt Nam. Chúng ta đã có chương trình Hiểu và Thương, để cứu trợ lũ lụt, giúp trẻ em nghèo thiếu ăn và thất học, mở lớp dạy nghề, xây cầu, đào giếng nước ngọt, mở những lớp học bán trú ở các vùng sâu vùng xa, trả lương một ngàn cô giáo và bảo mẫu (*)

Cái hay là ở chỗ trong khi làm công tác xã hội, các thành phần trong tăng thân vẫn giữ được sự thực tập giới luật, thiền ngồi, thiền đi,  xây dựng tình huynh đệ và học đi như một dòng sông…

“Không có công việc nào lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan – đản hữu lợi ích vô bất hưng sùng – đó là hạnh nguyện của chúng ta.

Các vị giáo thọ của chúng ta, trong đó có rất nhiều vị còn ở tuổi thanh xuân, đang thực sự mang đạo Bụt đi vào cuộc đời, một đạo Bụt nhập thế. Chúng ta đã mở những khóa tu đặc biệt để giúp cho mọi giới, những khóa tu dành cho giới làm công tác xã hội, giới văn nghệ sĩ, diễn viên điện ảnh,… có khóa tu đông đến 2000 người như khóa tại Washington DC cho các nhà tâm lý học và tâm lý trị liệu, những khóa tu dành cho giới giáo chức, dành cho giới thương gia, dành cho giới y sĩ và y tá, dành cho các nhà chính trị và dân biểu quốc hội, dành cho giới cảnh sát và nhân viên công lực, giới tranh đấu cho hòa bình và nhân quyền, giới bảo hộ sinh môi….Chúng ta đã đi vào các bệnh viện và các nhà tù để giúp tổ chức tu tập và chuyển hóa…

Từ đạo Bụt nhập thế chúng ta đi vào đạo Bụt ứng dụng. Chúng ta mở phong trào Wake Up cho các bạn trẻ khắp nơi trên thế giới, những đoàn thể tu tập theo chánh pháp để phục vụ cho một xã hội lành mạnh và có từ bi. Chúng ta lập Viện Phật Học Ứng Dụng, cung cấp các khóa tu cho giới phụ huynh có khó khăn với con cái, cho giới thanh niên thiếu nữ đang có khó khăn với bố mẹ, cho những ai vừa khám phá ra là mình bị bệnh nan y, cho những ai có người thân mới mất. Ai cũng có thể đến để ghi tên học hỏi và thực tập mà không cần phải quy y. Chúng ta cống hiến đạo Bụt cho thế giới không phải  một tôn giáo mà  một nghệ thuật sống với những phương pháp chuyển hóa và trị liệu…Chúng ta đang nỗ lực thực tập để bảo hộ môi trường, tự mình thực tập và kêu gọi mọi người thực tập sống như thế nào để có thể có được một tương lai cho trái đất, để chuyển ngược được quá trình hâm nóng địa cầu. Tu viện Lộc Uyển  của chúng ta hiện giờ đã hoàn toàn chỉ sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời. Tất cả các đạo tràng và các tăng thân của chúng ta trên thế giới  đang thực tập tiêu thụ trong chánh niệm, mỗi tuần có một ngày không sử dụng xe hơi, xe gắn máy…, tất cả những điều này chứng tỏ là chúng ta đang quyết tâm thực hiện giấc mơ mà không phải chỉ ngồi đó để quán tưởng và để cho bài Sám ru chúng ta trong một giấc mơ thật đẹp.

Trong những năm gần đây, đạo Bụt với sự thực tập chánh niệm đã dần dần đi vào các lĩnh vực luật học, khoa học, y học và xã hội. Tinh thần bất nhị và bao dung không kẹt vào giáo điều của đạo Bụt bắt đầu được thế giới nhận biết, và trên bước đường toàn cầu hóa đạo Bụt có thể góp phần quan trọng trong việc chế tác một nền tâm linh đạo đức toàn cầu. Chúng ta biết giấc mơ có thể và đang trở thành hiện thực. Nếu chúng ta không bị vướng vào địa vị, tiền bạc, tiếng khen, và những chức vụ v.v. nếu chúng ta biết đi với tăng thân như một dòng sông mà không phải như một giọt nước riêng lẻ thì chúng ta sẽ có cơ hội nhiều hơn để thực hiện được giấc mơ. Có phải thế không các con ? Thầy mong các con đọc xong thư này thì góp ý với thầy.

Thầy của các con
Nhất Hạnh

(*) Chúng ta đã có những công tác tại các Xóm Nghèo Mã Lạng Quốc Thanh, Cầu Bông Bàn Cờ, và các lớp trung học miễn phí đêm (bắt đầu từ năm 1961, của Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn với các sinh viên Phật tử như Huê Dương, Chiểu, Khanh, Chi, Nhiên, và Phượng). Chúng ta bắt đầu lập Làng Tình Thương với Sư Anh Nhất Trí của các con, và các chú Tâm Quang và Tâm Thái với  hơn 100 sinh viên Phật tử  trong đó có các chị Phượng, Thảo, Thanh, Uyên và Tuyết, các anh Quyền, Trâm, Nguyên, Tích, Thanh và Tài (1964-1965). Chúng ta đã tổ chức những đoàn sinh viên đi lạc quyên để cứu lụt và cứu đói sau trận Hồng Thủy năm Giáp Thìn dọc theo hai bờ sông Thu Bồn lên đến thượng nguồn. Chúng ta đã lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (từ 1965 đến 1975), Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển VN (từ 1971 đến 1975 dưới sự lãnh đạo của Hòa Thượng Thiện Hòa . Các thầy Thanh Văn và Châu Toàn, Từ Mẫn, sư chú  Phạm Phước… là những cánh tay bồ tát điều động hàng ngàn tác viên, trợ tác viên và cảm trình viên xã hội đã thực hiện được bao nhiêu công tác giúp cho hàng chục ngàn đồng bào nạn nhân chiến cuộc. Trong công tác, mười bảy người trong chúng ta đã thiệt mạng trong đó có Liên ,Vui, Thơ, Tuấn, Hy, Lành và Sư  Anh Nhất Trí của các con. Cô Bùi Thị Hương bị mất một đoạn chân và anh Lê văn Vinh phải suốt đời ngồi xe lăn. Chị Nhất Chi Mai (chị Cả trong 6 người Tiếp Hiện đầu tiên của các con)  đã đem thân làm đuốc, để kêu gọi hai bên lâm chiến ngưng chém giết nhau (16.07.1967 . Trong chương trình Máu Chảy Ruột Mềm trên biển Nam Hải, Sư Cô Chân Không,  anh Luke  Fogarty , chị Trang Fogarty, chi Kirsten Roep và chị Mobi Warren đã điều động vớt được 606 thuyền nhân trên biển (1976). Tiếp đó là chương trình thầm lặng cứu người bằng ghe đánh cá trên Vịnh Thái Lan do sư cô Chân Không tiếp tục điều động (1976-1978). Sau đó chúng ta đã thành lập chương trình giúp thuyền nhân ở các trại tị nạn, an ủi và gửi phẩm vật cứu trợ, sách học tiếng Anh và tiếng Pháp, kinh Nhật Tụng cho các trại tị nạn như  Songklha, Trad,  Sikkhiu, Chonburi .. Chúng ta đã thành lập Chương trình Cứu Trợ Xã Hội Hiểu và Thương và hoạt động  âm thầm  từ  năm 1975 tới bây giờ (2009). Tại hải ngoại, đã có chương trình Hiểu và Thương ấy, hoạt động ở  Hà Lan (cùng với chị Kirsten Roep và bà Hebe Kohbrugge), ở  Pháp có ba chương trình Pour les Enfants du Viet Nam, Partage avec les enfants du Monde, và Partage ( cùng với anh Pierre Marchand ) . Trong hai chương trình sau, chúng ta đã hoạt động  để giúp  trẻ em đói trong 17 nước nghèo trên thế giới trong đó có Bangla Desh, Ấn Độ, Liban, Thái Lan, Brésil, Colombie…Chúng ta cũng có chương trình Từ Thị (Maitreya Fonds) tại Đức do anh Chân Pháp Nhãn Karl Schmied  và chị Chân Diệu chủ trương và đang được tiếp nối bởi anh Chân Giác Lưu Christian Kaulf. Tăng thân Thụy Sĩ với chị Margrit Witwer và tăng thân Ý Đại Lợi đã yễm trợ cho chương trình Hiểu và Thương. Tăng thân Thuyền Từ  của chị Chân Ý  và anh Chân Trí đã hỗ trợ hơn  600 trẻ em đói kém của chương trình Hiểu và Thương ở Quảng Trị và Thừa Thiên. Tăng thân Hoa Tuyết (Snow Flower Sangha)  bảo trợ cho hàng chục giếng nước ngọt cho các gia đình đông con  ở xa các vùng sâu vùng xa không có điện có nước.  Anh Minh và chị Liên với chương trình Mắt Thương Nhìn Cuộc Đời năm nào cũng hợp tác với tăng thân Toronto  hỗ trợ rất nhiều  nạn nhân lũ lụt đói kém. Tổ chức Hussman Foundation ở Hoa Kỳ  đã bảo trợ 57 cô giáo và bảo mẫu và hơn 700 trẻ em thiếu ăn vùng Bảo Lâm, Di Linh… cúng dường xây cất Thiền Đường ở Bát Nhã. Chị Lilian Cheung đóng góp xây dựng Ni Viện Diệu Nghiêm và Diệu Trạm.

Ngay những năm đầu 1975-1990, trong khi việc  đi cứu đói còn rất  khó khăn,  chúng ta vẫn len lỏi mang được những món quà đến các trại cải tạo như trại  Hàm Tân (Ni Sư Tịnh Nguyện và chị Thuần) đến các trại học tập khó đến như Hà Nam Ninh, Vĩnh Phú.  Chúng ta cũng đã liên lạc được và  bày tỏ lòng ưu ái với những nhà văn không còn hứng khởi sáng tác (trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội ) và  tỏ bày niềm tin yêu đến cho họ để họ có cảm hứng sáng tác trở lại. Chúng ta cũng có dịp đem quà đến các vùng Kinh Tế Mới đói kém, qua bàn tay nhân ái và cương cường của Ni Sư Trí Hải và các đệ tử với chiếc ô tô chất đầy những thuốc men, gạo đường, áo quần và… những bài thuyết pháp bỏ túi tại chỗ. Qua các cánh tay của anh Chân Thể Hòa và chị Thuần chúng ta gửi được gạo tiền cho đồng bào đói kém  những vùng sâu vùng xa của đất nước trong những năm mà tình trạng còn rất khó khăn. Bằng cánh tay của các bạn  Chân Dụng Hòa, Chân Hỷ Căn,  A, và Viễn chúng ta đã chăm sóc cho những người khuyết tật, hiến tặng thủy tinh thể cho người  mắt không còn sáng,  yểm trợ cho các bô lão cô đơn, thành lập các lớp bán trú, gây quỹ trả lương cho hàng trăm cô giáo và thầy giáo, để đối phó với nạn thiếu dinh dưỡng của trẻ em, để làm sao cho mỗi đứa bé ở các miền sâu miền xa có được ít nhất là một ly sữa đậu mỗi ngày, mỗi bữa cơm có đủ chất dinh dưỡng.

Ngày xưa trước 1975, các ni sư  lớn như Cát Tường, Thể Quán  (Thừa Thiên), Thể Thanh (Cam Ranh), Như Huyền (Quảng Ngãi), Viên Minh (Nha Trang), quý thầy lớn như Chánh Trực (Quảng Trị, Như Vạn, Long  Trí…(Quảng Nam)   đều đã là những cánh tay Bồ tát vươn ra rất xa để cứu độ nhân gian, ngày nay các thầy như Hải Ấn ở Huế, các  ni sư Đàm Nguyện (Hà Nội), Như Minh , Diệu Đạt, Minh Tánh,  (Huế), Hạnh Toàn, (Quảng Ngãi), Ni Sư Giới Minh, thầy Pháp Lộ, sư cô Y Nghiêm, các anh Chân Giác Hạnh, Chân Hương Trí, Chân Hỷ Tịnh, anh Chân Hương Niệm , anh Chân Hỷ Căn, anh Chân Tướng Hòa , anh Việt, anh Tân,  chú Dũng, cô Mai, cô Xuân, cô Tuyết, cô Thân, chị Chân Đoan…. đều còn là những cánh tay hữu hiệu hiện đang còn tiếp tục công  việc ấy. Cánh tay của Tăng thân dài lắm, dang duỗi ra và với tới những vùng sâu vùng xa, không những trong quê hương mà ở cả những vùng khác trên trái đất như Bangla Desh, Ấn Độ, Israel, Palestine…

Ngồi yên như núi

Thân gửi các con của Thầy ở Bát Nhã, Từ Hiếu, và khắp nơi,

Thầy đang ngồi ở thất Ngồi Yên, xóm Thượng, Làng Mai, viết cho các con. Khoá tu mùa Hè ở Mai Thôn rất vui và rất thanh tịnh. Tuy có khó khăn kinh tế trên thế giới, nhưng số người về Làng tu tập trong bốn tuần lễ cũng rất đông, và có thể đông hơn mọi năm. Trẻ em đông đã đành, mà các em thiếu niên (teenagers) từ 12 đến 17 cũng đông lắm. Số lượng những người thanh niên (young adults) từ 18 đến 25 cũng khá đông, và từng lứa tuổi được sinh hoạt chung, pháp đàm chung và ăn cơm chiều chung để có cơ hội trao đổi kinh nghiệm tu học và xây dựng tình bằng hữu. Phong trào Wake Up (Tỉnh Dậy Đi Thôi, Các Bạn Trẻ) cho người trẻ Tây phương đang đi lên một cách mau chóng. Các con có thấy cái áo thun Wake Up chưa? Có rất nhiều em đã về Làng đều đều mỗi năm, đã quen với nếp sống và thực tập ở Làng cho nên đã giúp được rất nhiều cho những em mới được tới lần đầu. Sáng hôm 16.7.09, sư chú Pháp Triển đã bày bán tại xóm Mới lần đầu tiên những chiếc đồng hồ đeo tay có dấu hiệu giây phút hiện tại. Đồng hồ này đã được thầy và các vị xuất gia trẻ ở xóm Thượng vẽ kiểu (design), có nét chữ của thầy: It’s now. Đưa đồng hồ lên xem thì bất cứ lúc nào đồng hồ cũng cho mình biết đây là giây phút hiện tại. Có đồng hồ kiểu nam giới và đồng hồ kiểu nữ giới. Chỉ nội trong ngày hôm ấy, đã có 150 người tới quán sách để thỉnh đồng hồ đeo tay. Có một thiền sinh tắc lưỡi nói: “Đây thật là một ý tưởng tuyệt vời (This is really a brilliant idea).” Ta có thể gọi đồng hồ này là đồng hồ giây phút hiện tại. Sư chú Pháp Triển là một trong hai người xuất gia trẻ giúp thầy thiết kế cho chiếc đồng hồ này. Vị xuất gia trẻ thứ hai giúp thầy là thầy Pháp Chiếu, cũng còn rất trẻ, cuối năm nay sẽ được truyền đăng làm giáo thọ! Chiếc đồng hồ đeo tay It’s now này được sản xuất tại Hoa Kỳ.

Tuần thứ ba của khoá tu mùa Hè có tới trên 800 thiền sinh, đại diện khoảng 50 quốc gia trên thế giới. Kể cả chúng thường trú, thì hiện thời dân chúng bốn xóm lên tới trên một ngàn người. Vậy mà không khí rất thanh tịnh, êm ả. Mọi người có rất nhiều hạnh phúc khi đi thiền lên đồi xóm Mới, vào rừng xóm Hạ, hoặc ngồi thiền dưới những bóng cây sồi của lưng đồi xóm Thượng nhìn về phía chùa Sơn Hạ. Tịnh độ không còn là một ý niệm nữa mà đã trở thành một thực tại trong những giờ thiền đi và thiền ngồi ấy. Trẻ em cũng như người lớn đều có khả năng an trú trong giây phút hiện tại. Ngày hôm qua trong khi nói pháp thoại thầy thấy được cảnh tượng một bà mẹ vừa nghe pháp vừa cho con bú, hai mẹ con đều đang có hạnh phúc rõ ràng. Trong truyền thống Á Đông, sự kiện vừa nghe pháp vừa vạch áo cho con bú có thể là chưa được chấp nhận, bởi vì có người sẽ nghĩ rằng như thế thì chưa tỏ bày sự tôn kính đúng mức đối với chính pháp. Nhưng thầy nghĩ rằng đây là môi trường của Phật Học Ứng Dụng, và đứa trẻ trong khi bú sữa mẹ để có thức ăn bổ dưỡng cho cơ thể nó đồng thời cũng hưởng được không khí thanh tịnh an lạc của pháp đường như một thức ăn tinh thần. Thầy thấy hình ảnh ấy rất đẹp. Không biết vị phụ trách thu hình có cơ hội thu lại được hình ảnh ấy hay không? Trong suốt bốn tuần lễ, các vị xuất sĩ và cư sĩ thuộc chúng thường trú tuy phải để nhiều thì giờ và tâm lực để chăm sóc và hướng dẫn tu tập cho thiền sinh, nhưng ai cũng cảm thấy hạnh phúc vì cái hạnh phúc của thiền sinh. Sự tu tập chuyển hóa và niềm vui của thiền sinh chính là chất liệu nuôi dưỡng hạnh phúc cho chúng thường trú. Có cơ hội tạo hạnh phúc cho người, đó là mong muốn của những người tu, và thầy trò chúng ta đang có cơ hội ấy ở Mai Thôn, ở Lộc Uyển, ở Bích Nham và ở các nơi khác. Thầy thấy rất rõ là trong tương lai ở tại mỗi quốc gia phải có nhiều trung tâm tu tập như Làng Mai mới đủ cung cấp cho nhu yếu tu tập càng ngày càng lớn lên của dân chúng. Tại nhiều nước như Úc và Hà Lan, đạo Bụt đang lớn mạnh một cách rất mau chóng. Các vị giáo thọ mà chúng ta đang đào tạo sẽ có trách nhiệm thiết lập những trung tâm tu tập như thế trong tương lai ở khắp mọi nơi. Mục đích của chúng ta không phải là truyền giáo, không phải là đi tìm thêm tín đồ cho đạo Bụt; mục đích của chúng ta là tạo dựng những môi trường tu học để mọi người có cơ hội tới thực tập chuyển hóa khổ đau và học hỏi cách sống làm sao cho có thêm nhiều hạnh phúc. Chúng ta không bao giờ mong muốn thiền sinh từ bỏ gốc rễ văn hóa và tâm linh của họ, trái lại chúng ta luôn luôn khuyến khích họ trở về khai thông suối nguồn của những truyền thống ấy.

Chúng ta đã học hỏi được rất nhiều từ những gì đã xảy ra cho tu viện Bát Nhã trong những tháng vừa qua. Trong những tuần qua thầy đã nhận được rất nhiều lá thư của các con của thầy viết từ tu viện Bát Nhã. Các con kể thầy nghe đủ thứ chuyện, nhưng không có lá thư nào của các con mà không có câu: “Thầy ơi, thầy đừng có lo cho các con nghe thầy.” Câu nói ấy của các con có nghĩa: Thầy ơi, các con đang không lo cho chính các con, mà các con chỉ sợ thầy đang lo cho các con thôi. Nếu thầy lo thì thầy sẽ bệnh và như vậy thì hỏng hết. Và vì vậy thầy đã nhắn với các con: Thầy không đang lo lắng cho các con đâu, các con đừng lo lắng cho thầy. Đừng có “lo qua lo lại.” Mỗi bên chỉ cần hành xử cho hay về phía mình, như vậy là đủ rồi! Thông điệp như thế là đã rõ ràng chưa, hả các con? Thầy không lo lắng cho các con, nhưng điều đó không có nghĩa là thầy không lưu tâm. Thầy lưu tâm đến các con từng ngày, từng giờ, từng phút. Sở dĩ thầy không lo lắng vì thầy có niềm tin nơi các con. Thầy có niềm tin rằng các con có thể hành xử được như chánh pháp trong những hoàn cảnh thách thức và khó khăn. Và các con đã chứng tỏ làm được điều ấy. Và cũng do đó niềm tin của thầy nơi các con đã được tăng trưởng một cách mau chóng. Điều này đem lại nhiều hạnh phúc vừa cả cho thầy vừa cả cho các con.

Ngày xưa Sư Ông của các con, tổ Thanh Quý, không bao giờ nói với thầy rằng Sư Ông thương thầy và có niềm tin nơi thầy. Cái cách của các bậc tiền bối của chúng ta ngày xưa là như thế. Thương mà nói ra thì có cảm tưởng tình thương ấy mất bớt đi một chút gì linh thiêng. Nhưng thầy cảm nhận được tình thương ấy và niềm tin cậy ấy nơi Sư Ông. Và thầy có rất nhiều hạnh phúc. Không hạnh phúc nào lớn hơn cho một người đệ tử, khi người đệ tử ấy biết mình đang được thầy mình thương yêu và tin cậy. Suốt một đời tu của thầy, thầy được nuôi dưỡng bằng tình thương và lòng tin cậy thầm lặng đó của Sư Ông. Và thầy nghĩ rằng Sư Ông cũng có rất nhiều hạnh phúc khi Sư Ông có những người đệ tử mà Sư Ông có thể đặt hết tình thương và lòng tin cậy của mình vào. Thầy là một người có hạnh phúc lớn, vì thầy có niềm tin nơi các con. Tin vào các con tức là tin vào tương lai. Giả sử mình không tin vào tương lai thì mình có thể sống hạnh phúc được hay không?

Thầy tin là các con có đủ khả năng hiểu, thương và hành xử bất bạo động. Bất cứ trong hoàn cảnh khó khăn nào mà mình giữ được cái nhìn từ bi, và hành xử theo lòng từ ái thì mình sẽ được năng lượng lành che chở, đó là năng lượng của Tam Bảo. Không có sự che chở nào vững chãi và an toàn bằng năng lượng của Tam Bảo, của trí tuệ và từ bi. Cái ngày mà thầy nghe tin họ xông vào cư xá Rừng Phương Bối, quăng liệng đồ đạc và xô ngã những người họ gặp và đi lên lầu ba nơi các con đang ngồi thiền và trì niệm danh hiệu Quan Thế Âm trong tư thế bất động, không hề tìm cách chống trả và phản ứng, là thầy biết các con đã làm được như thầy trông đợi, và không có lý do gì nữa để cho thầy phải lo lắng cho các con.

Thầy không lo lắng cho các con, nhưng rất nhiều người đã lo lắng cho các con, trong nước cũng như ngoài nước, người đồng bào cũng như người nước ngoài, Phật tử cũng như không phải Phật tử. Ba mẹ và gia đình các con lo lắng cho các con đã đành, mà bốn chúng, có trách nhiệm hay không có trách nhiệm trong cơ cấu Giáo Hội cũng lo lắng cho các con. Các sư anh, sư chị và sư em của các con ở mọi đạo tràng trong nước và ngoài nước cũng đều lo lắng cho các con. Và cũng như các con, mọi người cũng đồng thời lo lắng cho thầy. Họ lo rằng thầy đang lo. Mà nếu thầy lo nhiều thì thầy sẽ bệnh. Cứ nói ngay tại đạo tràng Mai Thôn. Các sư anh và sư chị của các con đều nghĩ rằng thầy đang lo lắng rất nhiều cho các con, nhất là trong những ngày dầu sôi lửa bỏng nhất. Những ngày như thế thầy hay ngồi thiền hoặc đi thiền để gửi thêm năng lượng cho các con. Và cũng vào một trong những ngày dầu sôi lửa bỏng nhất ở Bát Nhã thì tất cả các vị xuất gia bốn xóm đã trở về nội viện Phương Khê để dự ngày xuất sĩ. Thấy thầy ngồi bên bờ suối Phương Khê, nét mặt tươi tỉnh, không tỏ vẻ lo lắng gì, họ rất ngạc nhiên và mừng rỡ. Thì ra là mọi người vừa lo cho các con, vừa lo cho thầy. Tội nghiệp quá. Thầy nghe thuật lại vào khuya hôm ấy có mưa giông rất lớn ở Bát Nhã. Ai cũng mừng. Mưa to gió lớn như thế thì người ta không có cơ hội tới hành hung các con được. Mưa to như thế thì ít nhất các con cũng hứng được một ít nước mưa để cầm cự qua ngày. Có một vị thân hữu kể lại cho thầy nghe là vào một trong những ngày dầu sôi lửa bỏng như thế, điện thoại về Bát Nhã vị ấy đã được nghe tiếng cười của các thầy, các sư chú và các sư cô, điều đó làm cho vị thân hữu này rất yên tâm. Thầy nghĩ rằng nếu không có tình huynh đệ, nếu không biết hướng đi và cách hành xử trong những trường hợp khó khăn, nếu không có niềm tin vào con đường của tình thương thì không thể nào duy trì được niềm vui sống và tiếng cười ấy.

Những khó khăn xảy ra cho Bát Nhã không những đã làm lớn lên đức tin của thầy nơi các con mà cũng đã mở mắt được cho biết bao nhiêu người. Sự Thật nhờ những khó khăn ấy mà được bung ra từ từ. Lâu nay, người ta cứ muốn nói rằng chuyện Bát Nhã là một chuyện nhỏ nhen xảy ra trong nội bộ của một ngôi chùa, không đáng để thông tin, không đáng để người trong nước và ngoài nước lưu tâm đến. Hơn ai hết, trong chúng ta ai cũng biết ngay là tự lúc đầu đây không phải là một vụ tranh chấp chùa viện nội bộ, mà là hậu quả của một giả tưởng: họ nói sự có mặt của Bát Nhã có thể là một đe dọa cho an ninh quốc gia, vì những người tu ở Bát Nhã, tức là các con, là những người có ý hướng làm chính trị. Đài truyền hình Lâm Đồng đã chẳng hai lần gợi ý ấy hay sao? Có một nhân sĩ điện thoại tới hỏi thăm, tìm cách giúp đỡ Bát Nhã, đã được trả lời: Đây là vấn đề an ninh quốc gia, ông không nên động tới. Nhưng những diễn tiến của sự việc Bát Nhã đã chứng minh rằng những vẽ vời ấy hoàn toàn sai với sự thật. Giả tưởng như thế, đặt điều như thế thì cũng như trong kinh nói vẽ một bức tranh trên hư không, không có khung vải, không có nền giấy, không bao giờ có thể vẽ thành được! Bây giờ đây thì trong nước và ngoài nước ai cũng thấy được điều đó, nghĩa là các thầy, các sư chú, các sư cô và các vị tập sự ở Bát Nhã chỉ làm có một việc: tu học thuần túy và hướng dẫn người khác tu học với mình. Mục đích của người tu là tu tập để tự mình chuyển hóa và giúp phục hồi những giá trị đạo đức và văn hóa đã và đang bị từ từ phá sản, để giúp ngăn chặn những tệ nạn xã hội đang lan tràn, như bạo hành, ma túy, đĩ điếm, tự tử, gia đình tan vỡ, tham nhũng và lạm dụng quyền hành, và đồng thời giúp cho người trong xã hội có một hướng đi tâm linh lành mạnh. Sau những bão táp đã xảy ra, ai cũng thấy được các con là những người chân tu, tuy tuổi còn trẻ nhưng chí nguyện độ đời rất lớn, và niềm tin của các con nơi nền đạo đức dân tộc không thể nào lay chuyển được. Các con đã tới Bát Nhã không phải để tìm cầu danh lợi, địa vị, tài sản, đất đai, mà để tìm cầu một lý tưởng, lý tưởng tu tập để độ đời. Một số người sau khi bị xách động đã tới Bát Nhã để đe dọa và xua đuổi các con, nhưng nhờ cách hành xử hòa ái và bất bạo động của các con, họ đã nhận ra được rằng các con là những người chân tu, thấy rằng các con là con, là em, là đồng đạo của họ cho nên họ đã khóc và đã bỏ về. Các con có nhớ những buổi tuần hành người ta tổ chức để xua đuổi các con, khi nghe tiếng trì tụng Nam Mô Bồ Tát Quan Thế Âm, nhiều người trong đoàn của họ đã chắp tay lại hướng lên từng lầu của cư xá Mây Đầu Núi, Bếp Lửa Hồng và Rừng Phương Bối và sau đó đã bỏ về, không tham dự các cuộc tuần hành ấy nữa hay không? Chính cách hành xử hòa ái và bất bạo động của các con đã giúp họ thấy được là họ đã nghe những điều thất thiệt, và hình ảnh các con trước mặt họ quả thật là hình ảnh của người trẻ chân tu. Thầy tin rằng có rất nhiều vị sĩ quan công an và nhân viên công an sau nhiều tháng nhiều ngày tiếp xúc với các con qua những buổi xét hỏi giấy tờ, hộ khẩu và qua những lần chứng kiến đe dọa khiêu khích và chửi mắng được liên tiếp tổ chức ở Bát Nhã cũng đã thấy được rằng các con là những người chân tu, những người hoàn toàn không tha thiết gì đến vấn đề chính trị. Chắc chắn là đã có những vị công an về nhà và khóc một mình trong đêm tối, không hiểu tại sao mình phải đi làm những việc mà thực sự mình không muốn làm, và đặt câu hỏi tại sao sự có mặt an hòa của những người tu như thế mà lại có nguy hại cho nền an ninh quốc gia như người ta đã nói với họ?

Chắc chắn Thượng Tọa Đức Nghi cũng biết rất rõ rằng các con là những người xuất gia chân tu, hành trì giới luật và uy nghi vững chãi. Thầy Đức Nghi cũng có những nỗi khổ tâm của thầy, một mặt muốn thấy những ước vọng riêng của mình và những hứa hẹn của người ta với mình trở nên sự thật, một mặt lại cảm thấy khổ đau ray rứt vì phải hành xử không dễ thương với những người huynh đệ trong đạo của mình. Thầy nghe nói rằng không đêm nào mà thầy Đức Nghi không khóc. Tội nghiệp lắm. Sư phụ Đức Nghi đã nhiều lần nói với các sư anh của các con là sư phụ bị áp lực rất nặng từ bên ngoài. Các vị đệ tử của sư phụ Đức Nghi cũng biết rằng các con là những người hành trì giới luật và uy nghi vững chãi, rằng các con chỉ muốn được tu chứ không hề muốn làm chính trị hoặc chiếm dụng tài sản của ai, nhưng một khi đã lỡ bị guồng máy cuốn đi, các vị ấy đã không thể nào dừng lại được. Các thầy Đồng cũng có những nỗi khổ tâm của họ, chắc chắn quý vị ấy ngủ cũng không ngon mà ăn cũng không ngon. Thầy nghe nói rằng các con luôn luôn đối xử với các thầy Đồng rất lễ phép, không hề chê bai và trách móc, mỗi khi gặp đều chắp tay búp sen, thầy rất mừng. Pháp môn căn bản của mình là đừng để tan vỡ tình huynh đệ và phải chuẩn bị để một ngày mai có thể có sự hàn gắn dễ dàng.

Chân tu không phải chỉ là sự thực tập giới luật và uy nghi trên phương diện hình thức. Nếu không biết quán chiếu, nếu không có những pháp môn tu tập hữu hiệu thì không xử lý được những năng lượng bạo động, sợ hãi, hèn nhát và hận thù trong ta, và khi những năng lượng ấy làm chủ thân tâm thì ta không thể giả bộ trầm tĩnh và bất bạo động được. Thầy đã nghe câu chuyện một sư em trai mới tu chưa được một năm, có học về nghề võ, và năm ngoái vào ngày xảy ra vụ một số thanh niên tới nhà Tâm Ban Đầu khiêng liệng giường chiếu và vật liệu ra ngoài một cách thách thức, đã chịu không nỗi cảnh tượng khiêu khích bạo động kia. Sư chú đang cầm máy quay phim để ghi lại sự việc đang xảy ra thì đã bị một người trong đám thanh niên kia cầm gậy đánh lén từ phía sau lưng và nếu không tránh kịp chắc đã bị vỡ đầu. Sư chú đã lên thưa với vị y chỉ sư: “Xin phép thầy cho con thôi tu. Con không chịu nỗi nữa. Con chỉ cần 15 phút là có thể đánh ngã được tất cả bọn côn đồ ấy. Rồi sau đó nếu cần đi ở tù sáu tháng hay một năm con sẽ đi ở tù. Và ở tù xong, con sẽ đi tu trở lại.” Vị y chỉ sư kia là một vị giáo thọ trẻ, tuổi chưa đến 30, đã nói với sư em của mình: “Này em, đừng gọi những người trẻ kia là bọn côn đồ. Họ cũng là những thanh niên như em, nhưng vì bị thông tin sai lạc nên đang hành xử như thế. Họ nghĩ rằng chúng ta là một bọn côn đồ đã tới đây để chiếm dụng nhà cửa và đất đai. Họ là nạn nhân của những thông tin sai lạc, họ cần được giúp đỡ hơn là bị trừng phạt. Họ không phải là kẻ thù của em đâu. Kẻ thù của em là cơn giận đang chiếm cứ em. Em hãy ngồi xuống đây và bắt đầu thở những hơi thở thật sâu, thật dài, ôm lấy cái giận trong em, nhìn sâu vào bản chất của nó. Nếu em điều phục được cơn giận trong em, nếu em làm phát khởi được cái hiểu và cái thương, em sẽ trở thành tươi mát và trong tương lai em có thể giúp cho nhóm người ấy thấy được rằng những thông tin mà người ta đem tới cho họ là những thông tin sai lạc và họ sẽ không còn hành xử như họ đang hành xử. Bụt đã làm như thế, thầy đã làm như thế và bây giờ em cũng phải làm như thế. Ngồi xuống, ngồi xuống ngay đây và thực tập đi em.” Sư chú đã ngồi xuống thực tập. Những hơi thở đầu lớn như bò rống, rất nặng nề khó khăn, nhưng từ từ sư chú đã dịu xuống và cuối cùng sư chú đã điều phục được tâm của mình. Sau đó mấy hôm sư chú đã nói: “Hú hồn. Nếu hôm ấy con không thực tập, nếu hôm ấy con đã sử dụng bạo động để đáp lại bạo động thì con đã làm hư hoại tấm gương sáng của Bụt và của Thầy, bởi vì Bụt và Thầy không bao giờ hành xử như thế.”

Hiểu, thương và bất bạo động không phải là những đề tài để đàm luận mà là những bài tập để quán chiếu và thực hành. Có những người tu đã hai hoặc ba chục năm mà khi gặp những trường hợp bức xúc và khiêu khích đã không cưỡng lại được cơn giận dữ và sợ hãi và đã đáp ứng lại bằng những hành xử bạo động. Các con tuy có người mới tu có ba bốn năm, có người mới tu có sáu tháng mà đã hành xử được như thế, đó là nhờ các con có pháp môn tu tập cụ thể: nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa được tâm hành bất thiện của mình. Cho nên vì vậy mà các vị ấy mới nhận ra được rằng các con là những người chân tu, và pháp môn thực tập của các con không phải chỉ là “để dành cho kẻ sơ cơ”, hoặc chỉ là “thiền ngoài da” như một số người ưa phán xét. Đó là những pháp môn mà mình phải tin tưởng vào một trăm phần trăm, là chân lý tối hậu của đời mình, trực tiếp do Bụt chỉ dạy trong kinh An Ban Thủ Ý. Thầy thấy rất nhiều các vị tôn túc có chức vụ hay không có chức vụ trong Giáo Hội cũng đã thấy được các con là những người tu trẻ ham tu ham học, đã buông bỏ những ham muốn và lợi danh của cuộc đời để đi theo con đường của kẻ xuất gia chân chính. Các vị ấy biết các con là những người có hành trì giới luật và uy nghi nghiêm túc nên đã hết lòng bảo hộ cho các con, dù khả năng của liệt vị còn hạn hẹp. Thầy nhớ có lần quý vị đã nói rõ trong văn thư: Tu viện Bát Nhã là cơ sở trực thuộc của Giáo Hội, ai tu tập đàng hoàng thì được tiếp tục ở đó, ai phá phách và bạo động thì phải đi. Có lúc bằng văn thư, quý vị tôn túc cũng đã bảo trợ cho các con được an cư dưới sự che chở của các Ngài. Và gần đây, quý vị ấy cũng đã ra lệnh phải chấm dứt những hành vi bạo động, nối lại điện nước cho các con. Quý vị tôn túc làm như thế là đã nhiều lắm rồi, các con biết không? Nếu tình trạng không được như quý ngài mong muốn, đó là vì quyền hạn của các ngài cũng chỉ được giới hạn tới đó, ngoài ra còn phải có những điều kiện khác nữa. Nhưng một khi sự thực đã bung ra thì thiện duyên sẽ bắt đầu được nối kết. Vài ba năm nữa khi thấy sự có mặt của tu viện Bát Nhã không có một mảy may gì nguy hiểm cho an ninh quốc gia mà trái lại còn giúp chấn chỉnh và phục hồi được những giá trị đạo đức, luân lý và văn hoá cho đất nước thì cái ý tưởng kia, cái e sợ kia, cái nghi ngờ kia sẽ tan biến, và chúng ta sẽ được để yên để tiếp tục tu học, giúp đời. Những đạo tràng như Mai Thôn, Lộc Uyển, Bích Nham, Rừng Phong, Trúc Xanh, Sen Búp, Mộc Lan, Vô Ưu v.v… trên thế giới chỉ góp phần vào sự xây dựng đạo đức và an sinh xã hội cho các nước Tây Phương, có nguy hại gì đến an ninh quốc gia của các nước ấy đâu?

Các con có biết rằng bây giờ đây trong nước và trên thế giới ai cũng đã biết tới Bát Nhã và ý thức được những gì đã xảy ra không? Ai cũng thấy được cách hành xử bình tĩnh và bất bạo động của các con, và ai cũng cảm thấy hãnh diện vì các con. Bức hình các con ngồi yên trong tư thế thiền tọa giữa lúc có bạo động và khiêu khích, bức hình ấy đã được chuyền đi rộng rãi và được hàng triệu người xem, như bức hình của Hòa Thượng Quảng Đức năm 1963 không khác. Chúng ta đang được bao nhiêu người tri kỷ che chở và bảo hộ. Thầy biết các con của thầy không lo lắng, và các con biết là thầy cũng không lo lắng. Các con chỉ cần ngồi thật yên bên đó, cũng như thầy và các anh chị em chỉ cần ngồi thật yên bên này, thì thế nào sấm cũng lặng, mây cũng tan. Năng lượng im lặng của chúng ta là năng lượng của hiểu và thương, đây là thứ im lặng hùng tráng, đây cũng là thứ im lặng sấm sét. Trên hình thức, dù mai mốt có xảy ra chuyện thầy trò mình mỗi người ở một nơi, thì chúng ta cũng sẽ luôn luôn còn có nhau. Hạt giống kim cương đã có trong trái tim của mỗi các con; sau này mỗi các con sẽ trở thành một Phương Bối, mỗi các con sẽ trở thành một tu viện Bát Nhã. Sẽ có hàng trăm, hàng ngàn Bát Nhã ở quê nhà và trên thế giới. Điều này đang từ từ trở nên sự thật, có phải không các con? Chúng ta là một tăng thân, chúng ta không phải là một cơ sở vật chất. Để thầy chép xuống đây bài kệ của thiền Sư Tịnh Quang, một thiền Sư Việt Nam sống vào giữa thế kỷ thứ 12 để các con đọc. Bài kệ này nói lên được phong độ tự do và hào hùng của Thiền Sư. Đọc lên mình cảm thấy Thiền Sư cũng nói lên được cảm nghĩ của chính thầy trò mình:

Trên không manh ngói che
Dưới không đất cắm dùi
Người xách gậy tìm lại
Kẻ mặc áo lạ tới
Khi hành động xúc tiếp
Như rồng nhảy đớp mồi.

Các con nên nhớ “mồi” ở đây tức là trái nguyệt cầu mà những con rồng trên mái chùa đang đùa giỡn một cách rất tuyệt diệu.

Nguyên văn chữ Hán:

Thượng vô phiến ngỏa già
Hạ vô trác chùy địa
Hoặc dị phục trực nghệ
Hoặc sách trượng nhi chí
Động chuyển xúc xử gian
Như long dược thôn nhỉ.

Thôi đã đến giờ đi nói pháp thoại. Thầy sẽ viết tiếp cho các con sau.

Thầy của các con
Nhất Hạnh


Biển thanh lương

 

Tu viện Bích Nham, tiểu bang New York, Hoa Kỳ, ngày 8-8-2009
Các con của Thầy,

Thầy đến Bích Nham chiều hôm qua. Sáng nay được tin từ Tổ đình báo qua là Sư thúc Chí Mậu của các con mới viên tịch hồi 4:30 sáng. Thầy đã lên thiền đường Đại Đồng để thắp hương và cầu nguyện cho Sư Thúc. Sáng nay lúc 11 giờ, đại chúng ở Bích Nham sẽ vân tập tại thiền đường Đại Đồng để tụng kinh cho Sư Thúc. Thầy mới viết xong hai câu gửi về cho Tổ đình:

Thanh lương hải nguyệt sinh trừng tuệ,
chí nguyện sơn đầu thịnh mậu xuân.

Hai câu ấy có nghĩa: Mặt trăng trên biển thanh lương đã làm phát sinh trí tuệ lặng chiếu. Trên đỉnh núi chí nguyện một mùa xuân thịnh mậu của chánh pháp sẽ tới với chúng ta. Câu đầu có hai chữ Trừng Tuệ pháp danh của Sư Thúc, và câu nhì có hai chữ Chí Mậu. Thầy nhớ lại bài kệ truyền đăng trao cho Sư Thúc trong Đại giới đàn Đoàn Tụ ở Làng Mai năm 2004. Bài kệ ấy rất hay, nói lên được chí nguyện và sự thành đạt của Sư Thúc:

Công phu chí cả nuôi từ quán
Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân
Quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ
Đất thiêng rạng rỡ buớc siêu trần.

 

Việc Sư Thúc qua Làng Mai tu tập chắc chắn đã do chư Tổ sắp đặt. Sư Thúc tu tập trong suốt một mùa Đông rất tinh tiến, rất hạnh phúc và đạt được rất nhiều chuyển hóa và thong dong.  Ngày về lại Tổ đình, ai cũng thấy Sư Thúc là một con người mới. Sư Thúc không cần học mười năm ở Phật học viện mà vẫn đạt được những gì mà nhiều người khác dù có dùi mài trên mười năm đèn sách vẫn không đạt được. Sư Thúc thấy được những quý giá của sự sống. Đã ca tụng trời xanh, mây trắng, đã trân quý và sống sâu sắc những năm tháng còn lại của mình. Sư Thúc đã qua trở lại Làng Mai để tu học thêm nhiều tháng nữa, đã tháp tùng phái đoàn Làng Mai đi giảng dạy ở các nước Âu châu, và đã gửi những vị đệ tử lớn về Làng Mai tu học. Những ngày gần đây Sư Thúc đã rất hạnh phúc khi thấy những gì mà Sư Thúc đã thành tựu được, và luôn luôn ca ngợi vẻ đẹp của đất trời, của hoa lá quanh mình. Thầy rất mừng khi thấy Sư Thúc tiến bộ vượt bực như vậy.

Công phu chí cả nuôi từ quán là sự thực tập nhìn mọi người bằng con mắt thương yêu. Sư Thúc đã làm được, vì vậy cho nên Tổ đình bắt đầu khởi sắc: Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân. Sư Thúc đã thấy như thầy thấy rằng cái quý nhất trên đời không phải là địa vị, danh vọng và tiền bạc mà là tình huynh đệ, cho nên đã để thì giờ còn lại để thực tập điều đó: quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ. Các vị đệ tử của Sư Thúc đột nhiên cảm thấy rất gần gũi với Sư Thúc và sự truyền thông giữa thầy trò cũng như hạnh phúc giữa thầy trò với nhau tăng tiến rất mau chóng, như khi ta đi với một đôi hài bảy dặm. Đó là một phép lạ lớn, một thành tựu lớn mà ai cũng thấy. Vì vậy cho nên giải thoát không còn là một ước vọng hay một danh từ nữa mà đã trở nên một sự thực: Đất thiêng rạng rỡ bước siêu trần.

Như trong bức thư thầy viết cho Sư Thúc cách đây mười mấy hôm, trong đó thầy đã nói rằng ít ai thành tựu được những gì mà Sư Thúc đã thành tựu, hôm nay thầy thấy trong lòng ấm áp viết thư cho các con để nhắc các con rằng chừng nào mình còn có những người như Sư Thúc trong hàng ngũ của những người xuất gia, chừng đó mình vẫn còn may mắn và không lý do gì mà mình không can đảm tiếp nối con đường của mình.

Xin các con mỗi ngày đi, thở trong chánh niệm và gửi năng lượng về thêm cho Sư Thúc và cho Tổ đình.

Thầy của các con

 

 

 

Quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ


NHẤT TÂM CẦU NGUYỆN
NAM-MÔ TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NHỊ THẾ TỪ HIẾU TỔ ĐÌNH TRÚ TRÌ
HÚY thượng TRỪNG hạ HUỆ hiệu CHÍ MẬU PHẠM CÔNG HÒA THƯỢNG GIÁC LINH (1948-2009)

 

Tu Viện Bích Nham, tiểu bang New York, Hoa Kỳ
Ngày 8-8-2009

Các con của Thầy,
Thầy đến Bích Nham chiều hôm qua.  Sáng nay được tin từ Tổ Đình báo qua là Sư Thúc Chí Mậu của các con mới viên tịch hồi 4:30 sáng.  Thầy đã lên thiền đường Đại Đồng để thắp hương và cầu nguyện cho Sư Thúc.  Sáng nay lúc 11 giờ, đại chúng ở Bích Nham sẽ vân tập tại Thiền Đường Đại Đồng để tụng kinh cho Sư Thúc.

Thầy mới viết xong hai câu gửi về cho Tổ Đình:

Thanh lương hải nguyệt sinh trừng tuệ,
chí nguyện sơn đầu thịnh mậu xuân.

Hai câu ấy có nghĩa: Mặt trăng trên biển thanh lương đã làm phát sinh trí tuệ lặng chiếu.  Trên đỉnh núi chí nguyện một mùa xuân thịnh mậu của chánh pháp sẽ tới với chúng ta.  Câu đầu có hai chữ Trừng Tuệ pháp danh của Sư Thúc, và câu nhì có hai chữ Chí Mậu.  Thầy nhớ lại bài kệ truyền đăng trao cho Sư Thúc trong đại giới đàn Đoàn Tụ ở Làng Mai năm 2004.  Bài kệ ấy rất hay, nói lên được chí nguyện và sự thành đạt của Sư Thúc:

Công phu chí cả nuôi từ quán
Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân
Quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ
Đất thiêng rạng rỡ buớc siêu trần.

Việc Sư Thúc qua Làng Mai tu tập chắc chắn đã do chư Tổ sắp đặt.   Sư Thúc tu tập trong suốt một mùa Đông rất tinh tiến, rất hạnh phúc và đạt được rất nhiều chuyển hóa và thong dong.  Ngày về lại Tổ Đình, ai cũng thấy Sư Thúc là một con người mới.  Sư Thúc không cần học mười năm ở Phật học viện mà vẫn đạt được những gì mà nhiều người khác dù có dùi mài trên mười năm đèn sách vẫn không đạt được.  Sư Thúc thấy được những quý giá của sự sống.  Đã ca tụng trời xanh, mây trắng, đã trân quý và sống sâu sắc những năm tháng còn lại của mình.  Sư Thúc đã qua trở lại Làng Mai để tu học thêm nhiều tháng nữa, đã tháp tùng phái đoàn Làng Mai đi giảng dạy ở các nước Âu Châu, và đã gửi những vị đệ tử lớn về Làng Mai tu học.  Những ngày gần đây Sư Thúc đã rất hạnh phúc khi thấy những gì mà Sư Thúc đã thành tựu được, và luôn luôn ca ngợi vẻ đẹp của đất trời, của hoa lá quanh mình.  Thầy rất mừng khi thấy Sư Thúc tiến bộ vượt bực như vậy.

Công phu chí cả nuôi từ quán là sự thực tập nhìn mọi người bằng con mắt thương yêu.  Sư Thúc đã làm được, vì vậy cho nên Tổ Đình bắt đầu khởi sắc: Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân.   Sư Thúc đã thấy như thầy thấy rằng cái quý nhất trên đời không phải là địa vị, danh vọng và tiền bạc mà là tình huynh đệ, cho nên đã để thì giờ còn lại  để thực tập điều đó: Quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ.  Các vị đệ tử của Sư Thúc đột nhiên cảm thấy rất gần gũi với Sư Thúc và sự truyền thông giữa thầy trò cũng như hạnh phúc giữa thầy trò với nhau tăng tiến rất mau chóng, như khi ta đi với một đôi hài bảy dặm.  Đó là một phép lạ lớn, một thành tựu lớn mà ai cũng thấy.  Vì vậy cho nên giải thoát không còn là một ước vọng hay một danh từ nữa mà đã trở nên một sự thực:  Đất thiêng rạng rỡ bước siêu trần.

Như trong bức thư thầy viết cho Sư Thúc cách đây mười mấy hôm, trong đó thầy đã nói rằng ít ai thành tựu được những gì mà Sư Thúc đã thành tựu, hôm nay thầy thấy trong lòng ấm áp viết thư cho các con để nhắc các con rằng chừng nào mình còn có những người như Sư Thúc trong hàng ngũ của những người xuất gia, chừng đó mình vẫn còn may mắn và không lý do gì mà mình không can đảm tiếp nối con đường của mình.

Xin các con mỗi ngày đi, thở trong chánh niệm và gửi năng lượng về thêm cho Sư Thúc và cho Tổ Đình.

Thầy của các con,

Thầy trong Tăng thân

Thư gửi các bạn thiền sinh trong khóa tu “One Buddha Is Not Enough” tại Estes Park, tiểu bang Colorado, Hoa Kỳ.
(Bản dịch Lá Thư thứ hai của Thầy cho thiền sinh khóa tu “One Buddha Is Not Enough”, Thầy viết vào tháng 8 năm 2009)

 

Đây là lá thư thứ hai Thầy viết cho quý vị từ bệnh viện Massachusetts General Hospital. Tình trạng của Thầy đã khá sau bảy ngày trị liệu. Thầy cám ơn tất cả các thầy các sư cô và tất cả liệt vị đã gửi năng lượng thương yêu cho Thầy. Được biết tất cả đại chúng trong khóa tu, xuất gia cũng như tại gia, đã và đang thực tập hết lòng, Thầy rất hạnh phúc. Những thất vọng, lo lắng và buồn tủi được gây ra lúc đầu vì sự vắng mặt của Thầy đã được hoàn toàn chuyển hóa thành niềm vui, hy vọng và sự tin cậy. Tăng thân đã hướng dẫn và điều động khóa tu một cách tuyệt vời, khó có thể làm hay hơn được, dù không có mặt Thầy. Sự chuyển hóa và những niềm vui mà quý vị đang có đã nuôi dưỡng Thầy rất nhiều, cũng như đã và đang nuôi dưỡng tất cả mọi thành phần khác của Tăng thân. Hôm nay, gần hoàn mãn khóa tu, tất cả chúng ta đều đã thấy được tài năng, sự mầu nhiệm và phép lạ của Tăng thân, và ai cũng phải công nhận rằng Tăng thân đã thật sự tiếp nối được Thầy, và tiếp nối một cách rất đẹp đẽ, do đó ta không còn phải lo sợ gì cho tương lai của sự thực tập. Tăng thân chứng tỏ có khả năng tiếp nối được sự nghiệp của Bụt, của Tổ, của Thầy. Ngày xưa vua Ba Tư Nặc đã từng nói với Bụt rằng mỗi khi nhìn kỹ Tăng đoàn của Bụt, vua thấy được Bụt một cách rõ ràng hơn. Một trong những thành tựu lớn của khóa tu này là tất cả chúng ta đều thấy được Thầy trong Tăng thân, kể cả những vị mới đến với Tăng thân lần đầu.

Nhân dịp này Thầy muốn đề nghị biến khóa tu Colorado thành một khóa tu hằng năm trong truyền thống Làng Mai, và nếu điều kiện cho phép, tất cả chúng ta đều tới khóa tu với tư cách những thành phần trong Tăng thân để cho những người chưa có cơ hội tới với Tăng thân có thể tới mà thực tập giáo pháp mầu nhiệm này. Làm được như thế thì mỗi người trong quý vị sẽ trở thành sự tiếp nối của Thầy. Mỗi khi nghĩ rằng mình đã được tiếp nối đẹp đẽ bởi Tăng thân, bởi quý vị, Thầy lại cảm thấy trái tim mình rất ấm áp. Thầy có niềm tin vững chãi nơi Tăng thân, và tin chắc rằng Tăng thân của Thầy sẽ luôn luôn tạo được phép lạ của sự chuyển hóa và trị liệu mỗi khi có một khóa tu, dù Thầy có mặt hay không có mặt với sắc thân tứ đại này. Thầy rất mong được nghe kiến giải của quý vị về vấn đề ấy.

Một lần nữa Thầy xin cám ơn tất cả quý vị và mong ước được gặp lại quý vị sớm trong các khóa tu tới.

Thương và tin cậy,

Thầy,
Nhất Hạnh

Thầy nhớ tăng thân

(Bản dịch lá thư Thầy gửi cho các thiền sinh trong Khóa Tu Colorado)

Boston, tháng 08 ngày 21 năm 2009
Thân gửi các bạn thiền sinh trong khóa tu “ One Buddha is not enough” tại Estes Park, Colorado

Các bạn thiền sinh thân mến,
Thầy đang ngồi trong bệnh viện Massasuchetts General Hospital viết thư này cho quý vị. Thầy biết tăng thân đã vân tập đầy đủ chiều hôm nay tại Công Viên Estes Park để khai mạc khóa tu. Thầy rất buồn không có mặt hôm nay tại khóa tu với quý vị. Thầy nhớ khóa tu, nhớ khung cảnh tuyệt vời của khóa tu và nhất là nhớ tăng thân- nhớ quý vị. Được ngồi với tăng thân, được đi thiền hành với tăng thân, được thở với tăng thân, được chia sẻ với tăng thân, đối với thầy là một hạnh phúc lớn, bởi vì thực tập như thế với Tăng thân, ai cũng cảm thấy được nuôi dưỡng và trị liệu.

Thầy đang hết lòng chữa trị, bởi vì thầy biết chăm sóc cho bản thân cũng là một cách chăm sóc cho tăng thân. Các bác sĩ ở đây đã quyết định là thầy phải ở lại bệnh viện để chữa trị ít ra là trong 14 ngày. Thầy bị nhiễm trùng Pseudomonas aerigunosa trong phổi. Xin quý vị đừng lo lắng bởi vì đây là một chứng bệnh có thể chữa trị được. Tim thầy còn tốt, thận thầy còn tốt, gan thầy còn tốt, ruột thầy còn tốt. Cái gì cũng còn tốt cả. Các bác sĩ  ở đây đang chữa trị cho thầy bằng hai loại trụ sinh khá mạnh. Mỗi ngày phải chuyền thuốc tới bốn lần và các bác sĩ theo dõi rất kỹ càng quá trình của sự trị liệu. Thầy được phép mỗi ngày ra khỏi bệnh viện đi vào công viên một giờ đồng hồ để thiền hành. Thầy biết hiện giờ tại khóa tu có cả một ngàn thiền sinh tới tham dự, không khí của khóa tu chắc là hào sảng lắm. Vui quá đi! Thầy tin chắc là các vị giáo thọ của chúng ta, xuất gia cũng như tại gia, sẽ hướng dẫn khóa tu một cách xuất sắc, dù Thầy không có mặt. Nếu nhìn cho kỹ, quý vị sẽ thấy Thầy cũng đang có mặt trong khóa tu, thấy Thầy đang ngồi thiền với quý vị, đi thiền hành với quý vị, thở với quý vị. Thầy cảm thấy rất rõ là Thầy đang có mặt trong quý vị và quý vị cũng đang có mặt trong Thầy. Trong khóa tu này, quý vị sẽ có cơ hội nhận diện được tài năng và sự mầu nhiệm của Tăng thân, sẽ thấy được sự tiếp nối của Thầy nơi Tăng thân và thấy rằng sự có mặt của Tăng thân mang theo sự có mặt của Thầy. Quý vị hãy cho Thầy đi bằng hai chân mạnh khoẻ của quý vị, thở bằng hai lá phổi  lành mạnh của quý vị và cười bằng nụ cười tươi trẻ của quý vị.

Sau khóa tu tại trường đại học Stone Hill, một khóa tu đầy hào hứng và hạnh phúc, Thầy đã tới bệnh viện M.G.H. để kiểm tra sức khoẻ. Các bác sĩ nói Thầy phải ở lại bệnh viện để chữa trị ngay, không thể nào trì hoãn được. Vì vậy cho nên Thầy phải nghe lời. Thầy đang hết lòng chữa trị ở đây, biết rằng chữa trị cho Thầy cũng là chăm sóc cho quý vị, và Thầy biết quý vị cũng đang thực tập hết lòng ở bên đó để hồi hướng cho Thầy. Như vậy tuy cách xa nhau chúng ta vẫn không thấy có gì ngăn cách. Xin quý vị thực tập cho giỏi để Thầy có nhiều hạnh phúc và nhớ sau khi hoàn mãn khóa tu phải đem về nhà bộ băng giảng tại khoá Stone Hill để nghe, nhất là bài giảng cuối.

Hy vọng Thầy sẽ viết tiếp cho quý vị trong vài ngày tới, trước khi khóa tu hoàn mãn.

Thầy,
Thích Nhất Hạnh

Thân Kim Cương

Bích Nham ngày 07-10-2009
Thư gửi các con Bát Nhã của Thầy,


Sở dĩ Thầy viết “các con Bát Nhã của Thầy” mà không viết “các con của thầy ở Bát Nhã” như kỳ trước, tại vì tuy các con không còn cư trú ở Bát Nhã nữa, nhưng các con vẫn còn mang danh xưng tăng thân Bát Nhã.  Các con với Bát Nhã là một.  Đi đâu các con cũng mang Bát Nhã đi theo, và Bát Nhã đã trở thành một thân kim cương bất hoại.  Bài kệ mà chúng ta xướng tụng trước khi đọc kinh Kim cương có danh từ “thân kim cương” như sau:

Làm sao vượt sinh tử
Đạt được thân kim cương?
Tu tập theo lối nào
Quét được muôn huyễn tướng?
Xin Bụt đem lòng thương
Mở bày kho bí tạng
Vì tất cả chúng con
Đem pháp mầu diễn xướng!

Bát Nhã đã trở nên huyền thoại, đã trở thành thân kim cương, không ai có thể tiêu hủy được nữa.  Bát Nhã là một đóa sen ngát hương nở trên bùn lầy của vô minh, của sự sợ hãi, lo lắng, tham nhũng và lạm dụng quyền hành.  Bát Nhã đã đi vào lịch sử.  Và các con đã may mắn có cơ duyên góp phần làm phát hiện đóa sen Bát Nhã.  Bát Nhã đã trở thành một phần của gia sản văn hóa đất nước.

Các con Bát Nhã của thầy hiện giờ không phải chỉ đang tỵ nạn ở chùa Phước Huệ mà cũng đang có mặt ở nhiều nơi khác, trong nước và ngoài nước.  Ở đâu các con cũng có đóa sen Bát Nhã trong lòng.  Đó là chí nguyện tu tập và độ đời, đó là trái tim ban đầu, đó là tâm bồ đề.  Đó là nguồn năng lượng giúp cho chúng ta còn là chúng ta, giúp cho chúng ta không bị tha hóa, mua chuộc, và bỏ cuộc.

Thầy đang có hạnh phúc vì thầy đang viết thư tâm sự với các con.  Dưới bút hiệu Nguyễn Lang thầy đã viết cho Chủ Tịch Nước và cho các bậc nhân sĩ trí thức Việt Nam trong và ngoài nước để nhờ các vị ấy lên tiếng can thiệp về vụ Bát Nhã.  Và đây là thư thầy viết cho các con.

Trước hết, thầy muốn kể cho các con nghe là chùa Phước Huệ nơi mà một số các con đang tá túc là nơi thầy đã từng cư trú trong nhiều năm.   Đó là những năm trong thập niên 50.   Hồi ấy thầy còn trẻ lắm, và chùa Phước Huệ còn đơn sơ chứ không đồ sộ như ngày nay.  Phía sau chùa là một vườn chè có cả ngàn cây.  Thầy có một cái am nhỏ mái lá vách đất ngay giữa vườn chè.  Thầy ở đó một mình, trong am chỉ vẻn vẹn có một cái giường ngủ và một cái bàn viết.  Thượng Tọa Thái Thuận chắc có thể chỉ cho các con thấy địa điểm của chiếc am lá ngày xưa ấy.  Một đêm thầy nằm mơ thấy mẹ thầy, dung nhan không khác gì ngày xưa với mái tóc dài óng mượt.  Đang được ngồi nói chuyện với mẹ với rất nhiều hạnh phúc thì bỗng nhiên thầy thức dậy.  Và thầy nhớ ra rằng mẹ thầy đã mất trước đó mấy năm.  Thầy trỗi dậy, mở cửa đi ra ngoài.  Trong am không có nhà vệ sinh, và vì làng Công Hinh (tên ngôi Làng trong đó có chùa Phước Huệ) là một miền núi quê, chung quanh am này toàn là cây chè nên mình có thể ngồi đi tiểu giữa những cây chè.  Vừa bước ra khỏi am thì thầy tiếp xúc được với ánh trăng vằng vặc bao phủ cả đồi chè.  Trăng đêm ấy là trăng hạ tuần, sáng đẹp và hiền hòa vô cùng.  Đất trời rất thanh tịnh.  Và thầy có cảm tưởng là thầy đang được mẹ ôm vào lòng, tình mẹ dịu như ánh trăng khuya.  Bỗng nhiên thầy giác ngộ ra rằng mẹ của thầy chưa bao giờ mất, mẹ của thầy luôn luôn còn đó cho thầy, và bản chất của mẹ là vô sinh bất diệt.   Những đau buồn thương nhớ trong mấy năm mất mẹ vừa qua đột nhiên tan biến, và thầy đã mỉm cười trong ánh trăng khuya.  Thầy nhớ là thầy đã ghi câu chuyện này ở đâu đó, có thể là trong tác phẩm Nẻo Về Của ý.

Thầy biết là đồi chè bây giờ không còn nữa, chiếc am lá cũng không còn, nhưng nếu các con có dịp đi thiền hành bên ngoài trong khung viên chùa Phước Huệ vào một ban đêm có trăng, thì các con có thể hình dung lại cái đêm mầu nhiệm ấy, và nhìn lên mặt trăng các con sẽ thấy thầy và mẹ thầy đang mỉm cười với các con.

Trong chuyến đi hoàng pháp mùa Thu 2009 này ở Hoa Kỳ đã xảy ra một sự kiện mầu nhiệm, đó là khóa tu tổ chức tại công viên Estes ở tiểu bang Colorado.  Khóa tu này có 980 thiền sinh từ các tiểu bang đến tham dự, bắt đầu từ ngày 21 đến ngày 26 tháng 8 năm 2009.  Trong số các thiền sinh ấy có khoảng 50 phần trăm những người chưa bao giờ gặp thầy, nghe thầy giảng hoặc tới tham dự một khóa tu với thầy.  Họ chỉ biết thầy qua những cuốn sách do thầy viết, xuất bản tại Hoa Kỳ.  Họ đến khóa tu mục đích là để trực tiếp nghe thầy giảng dạy và hướng dẫn tu tập.  Có rất nhiều vị đã phải đi máy bay nhiều tiếng đồng hồ mới tới được thành phố Denver rồi thuê xe lên núi dự khóa tu.  Đúng rồi, công viên Estes là nơi có cơ sở của tổ chức YMCA (Young Men Christian Association), có khả năng cung cấp chỗ cư trú, thức ăn và tiện nghi vệ sinh cho khoảng 1000 người; cao hơn mặt biển tới gần 1000 thước, nên rất mát và lạnh, cảnh vật núi rừng vĩ đại xanh tươi và mầu nhiệm.  Cứ mỗi hai năm một lần là thầy đến để hướng dẫn khóa tu, mà khóa nào cũng đông người tham dự.

Nhưng kỳ này vì bệnh cho nên thầy không thể tới tham dự và hướng dẫn khóa tu được.  Các bác sĩ tại bệnh viện Massachusetts General Hospital (MGH) sau khi chẩn bệnh cho thầy đã đề nghị thầy nên bỏ khóa tu tại trường Đại Học Stonehill ở tiểu bang Massachusetts thầy đang hướng dẫn nửa chừng, và bỏ luôn khóa tu ở YMCA nơi công viên Estes tại tiểu bang Colorado để điều trị bệnh nhiễm trùng phổi của thầy.  Các bác sĩ nói ít nhất thầy phải ở lại 14 ngày trong bệnh viện thì mới điều trị được.  Bác sĩ Sicilian, vị y sĩ trưởng nổi tiếng về cách điều trị bệnh nhiễm trùng phổi do vi khuẩn pseudomonas aeruginosa cũng là người chịu trách nhiệm về khu điều trị đặc biệt trên tầng lầu thứ 12 của bệnh viện đã khuyên thầy nên ở lại ngay bệnh viện đêm hôm ấy để bắt đầu điều trị.  Nhưng sau đó thầy đã quyết định về lại trường đại học Stonehill để hoàn tất khóa tu ở đấy trước khi trở lại nhập viện.  Khóa tu tại Stonehill có chủ đề là Be Peace, Be Joy, Be Hope (Bình An, Hạnh Phúc và Hy Vọng), khởi đầu từ ngày 11-08-09, và vào năm giờ chiều ngày 13-08-2009 thầy đã có được chút thì giờ để đi kiểm điểm lại sức khỏe.  Mấy tuần lễ trước đó, chứng bệnh nhiễm trùng đã trở nặng và thầy thấy thỉnh thoảng trong đàm khạc ra có chất máu đỏ tươi hoặc tím đen.  Sau bảy giờ đồng hồ chờ đợi và thử nghiệm, các bác sĩ đã khuyên thầy nên bắt đầu điều trị ngay, không được trì hoãn.

Thầy về tới trường Đại Học lúc 12 giờ khuya, và sáng hôm sau thầy cũng đã đi ngồi thiền với đại chúng, vẫn nói pháp thoại và đi thiền hành như không có chuyện gì xảy ra.  Không ai biết là thầy đang có bệnh.  Những bài pháp thoại trong ba ngày chót của khóa tu, ai cũng nói là rất hào hùng.  Thầy Pháp Đệ đã nói: trong khi nói các bài pháp thoại ấy, thầy rạng rỡ như có hào quang (you were luminous during these dharma talks).  Chỉ có các sư anh sư chị lớn của các con mới biết là thầy đang bệnh, và sẽ đi vào bệnh viện ngay sau khi chấm dứt khóa tu.  Chiều ngày 14-08-09 có một buổi họp đặc biệt của hội đồng giáo thọ, trong đó có các anh chị lớn được báo tin là thầy sẽ vào bệnh viện vào ngày thứ hai 17-08-09 và thầy sẽ không bay với tăng thân về Denver để cùng hướng dẫn khóa tu.  Trong buổi họp, hội đồng giáo thọ đã phân công và nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn khóa tu thay thầy, ai cũng có tinh thần tự nguyện rất cao, không cần có sự mời thỉnh.  Khóa tu ở Stonehill cũng rất đông, có khoảng gần một ngàn thiền sinh.  Ngoài các vị giáo thọ xuất gia, chưa ai biết là thầy sẽ không đi dự khóa tu ở YMCA, Estes Park, kể cả các thầy các sư cô.  Và khi gần đến giờ lên xe buýt đi ra phi trường, các thầy và các sư cô trong tăng thân mới biết là thầy sẽ không cùng bay với các vị ấy.   Đây là lần đầu tiên một sự kiện như thế đã xảy ra: thầy bỏ một khóa tu và tăng thân phải thay thầy hướng dẫn khóa tu.  Ban tổ chức biết thì giờ đã cận kề, không đủ thời gian để hoãn lại khóa tu, bởi vì tất cả đều đã được chuẩn bị: đặt phòng ốc, mua thực phẩm, xin nghỉ chép, mua giấy máy bay, hoặc đã lên đường về khóa tu bằng xe hơi hay xe buýt từ những tiểu bang khác rồi.

Chắc chắn là sẽ có rất nhiều vị thiền sinh buồn chán bất mãn và thất vọng vào ngày khóa tu khai mạc, khi biết rằng thầy không đến được.  Có những vị đã từng đọc sách thầy trong bao nhiêu năm, và đây là cơ hội đầu để có thể gặp thầy và tu tập với thầy.  Có những vị đã hứa với bạn bè và người thân sau khóa tu sẽ trở về thuật lại những kinh nghiệm gặp gỡ và tu tập với thầy.  Hy vọng và chờ đợi càng nhiều thì sự thất vọng buồn chán sẽ càng lớn.  Các thầy các sư cô lên đường bay về Denver với ý thức ấy, nhưng ai cũng có đủ can đảm để nhận chịu trách nhiệm: đây là cơ hội để chứng tỏ mình xứng đáng với sự trong cậy của Bụt, của chư Tổ và của Thầy.  Cơ hội là lúc này chứ không bao giờ nữa.  Cho nên ai nấy đều quyết tâm và hợp lực hướng dẫn khóa tu với tất cả tâm chí của mình.  Năng lượng cũng như tình huynh đệ trong tăng thân chưa bao giờ vững mạnh như trong những ngày ấy.

Trong khi đó thì thầy đã bắt đầu được trị liệu tại bênh viện MGH, một bệnh viện lớn nhất và có uy tín nhất trong vùng Đông Bắc Hoa Kỳ.  Nhập viện ngày 17-08-2009 thì đến sáng ngày 21-08-2009 thầy viết cho thiền sinh của khóa tu tại YMCA, Estes Park, Colorado một lá thư.  Tại bệnh viện, thầy nghe tin là tối hôm đó, khi nghe đọc lá thư của thầy, nhiều người đã khóc, xuất gia cũng như tại gia.  Tối hôm ấy sau khi đọc lá thư, các thầy và các sư cô đã trì tụng danh hiệu Quan Thế Âm và sau đó đã đưa ra những chỉ dẫn tổng quát về sự thực tập (orientation) cho trọn khóa tu.  Và tiếp theo thì toàn thể khóa tu thực tập im lặng hùng tráng cho đến giờ pháp đàm chiều hôm sau.  Sự thực tập im lặng hùng tráng này đã giúp cho khóa tu rất nhiều.  Rất nhiều người trong khi thực tập im lặng đã có cơ hội nhận diện và ôm ấp những bất mãn và thất vọng của mình, những tâm hành đã phát khởi khi nghe tin thầy không có mặt trong khóa tu.  Buổi thiền hành sáng ngày hôm sau, giờ ăn sáng im lặng và buổi pháp thoại đầu đã giúp cho nhiều vị thiền sinh ôm ấp và chuyển hóa được những tâm hành thất vọng, lo lắng và bất mãn của họ. 

Tại bệnh viện MGH thầy được nghe tin tức về khóa tu mỗi ngày hai lần.  Thầy được biết là các sư anh sư chị giáo thọ đã nói những bài pháp thoại rất hay và rất thực tế.  Thầy được biết là các thầy và các sư cô, không ai bảo ai, không ai cần sách tấn ai, tất cả đã có mặt rất đúng giờ trong các buổi sinh hoạt tu tập, và làm gương mẫu cho đại chúng một cách hết lòng và tất cả các thiền sinh đều cảm được điều ấy, do đó ai cũng nỗ lực tu tập.  Đến ngày thứ ba thì tất cả đều được chuyển hóa.  Trong buổi be-in (có mặt cho nhau) vào ngày thứ năm, có nhiều vị đã phát biểu rằng khóa tu “One Buddha Is Not Enough” này là khóa tu trong ấy họ được chuyển hóa nhiều nhất, và tuy thầy không có mặt với hình hài thầy, tất cả đều cảm thấy sự có mặt của thầy trong khóa tu, trong các thầy các sư cô và trong chính họ.  Sáng hôm ngày 25-08-09 thầy viết cho đại chúng khóa tu một lá thư thứ hai, và lá thư này đã được đọc trong đầu buổi sinh hoạt be-in này.  Trong lá thư thầy đề nghị rằng khóa tu tại YMCA ở công viên Estes nên được tổ chức hàng năm, dù thầy có mặt hay không có mặt, và mọi thiền sinh kể cả những vị mới tới lần đầu trong khóa tu này nên ghi danh đến tu tập và góp phần tổ chức khóa tu cho những người khác cũng có cơ hội đến tu tập.  Sau khi sư chị Đẳng Nghiêm đọc lá thư ấy và đặt câu hỏi là ai đồng ý với thầy để đến tu tập cùng nhau mỗi năm một lần ở đây, thì tất cả đều đưa tay lên tự nguyện.

Khóa tu đông tới 980 người mà chỉ có 15 người bỏ về vì lý do thầy không có mặt, còn tất cả đều ở lại để quyết tâm thực tập.  Vì thầy không có mặt nên tất cả đều nổ lực tu trì cho nên khóa tu đem lại rất nhiều chuyển hóa và an lạc.  Có nhiều người nói: khóa tu này tuy không có thầy, nhưng tôi thấy nó là khóa tu hay nhất từ trước đến giờ (it was the best retreat I have attended.)  Nghe kể lại như thế thầy rất hạnh phúc.  Thầy thấy là thầy đã được tiếp nối đầy đủ bởi tăng thân của thầy, thầy thấy thầy đã được các con của thầy tiếp nối thầy một cách đẹp đẽ.  Nếu thầy không bị bệnh và không vắng mặt trong khóa tu thì mọi người đã không có cơ hội chế tác được sức tự lực tự cường dũng mãnh như thế.  Cho nên trong cái rủi lại có cái may.

Cả thầy và cả tăng thân đều đã thấy rằng thầy đã được tiếp nối, và dù sắc thân này của thầy đang còn hay đã tàn hoại thì tăng thân vẫn tiếp tục lớn mạnh và sự thực tập sẽ mãi mãi được duy trì về sau.  Một vị thiền sinh sau khóa tu đã viết cho thầy, “Chúng con đã nhận được thông điệp của thầy:  One Buddha Is Not Enough.  Con hiểu: one Thầy is not enough.  Mỗi người trong chúng con phải thay thế được cho thầy.  Và khóa tu YMCA 2009 đã chứng thực được điều đó.”

Tây phương có câu ngạn ngữ: từ đống tro tàn, con chim Phượng Hoàng đã bay lên.  Từ cái Rủi, cái May đã được thoát hình.  Khóa tu YMCA 2009 là một con chim Phượng Hoàng tuyệt đẹp, nó đem lại cho chúng ta rất nhiều niềm tin và hạnh phúc.  Đóa sen Bát Nhã cũng là một con chim Phượng Hoàng khác thoát hình từ đống tro tàn của tham nhũng, lạm dụng quyền hành, u mê, sợ hãi và dối gạt.  Nhờ những bùn đất ấy mà đóa sen đã nở.  Các con của thầy, nhờ được trui luyện trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, đã học hỏi được rất mau chóng, đã chuyển hóa được rất mau chóng, đã tiếp nhận được sự trao truyền một cách mau chóng, đã đứng vững được như một tăng thân có hùng lực và từ bi, đã chứng tỏ được rằng vô úy, từ bi, hùng lực và hành xử bất bạo động là những gì có thực chứ không phải là những điều chỉ có trên đầu môi chót lưỡi.  Các con đã cứu chuộc (redempt) cho cả một cộng đồng Phật giáo trong nước cũng như ngoài nước.  Các con đã tỏ ra không thù oán gì thầy Đức Nghi và các thầy Đồng.   Các con đã tỏ ra không thù oán ngay những người đã tới đập phá Bát Nhã và trục xuất các con, trong đó có những chú công an.  Các con đã thấy được kẻ thù ta không phải là con người mà là vô minh, hận thù, bạo động, tham nhũng, hèn nhát, và dối gạt đang cần được chuyển hóa trong ta và chung quanh ta.  Một vị công an tại Dam’bri đã xin lỗi thầy Pháp Tụ khi thầy ấy điện thoại tới thăm hỏi và nói rằng sở dĩ ông ta đã hành xử như thế cũng là tại vì cấp trên ra lệnh.  Các con cũng đã thấy được cái khổ của người công an.

Trong giờ vấn đáp hôm qua tại khóa tu Enlightenment Is Now Or Never (Giác Ngộ là bây giờ hoặc không bao giờ hết) tại tu viện Bích Nham, một thiền sinh Tây Phương đã hỏi thầy, “Bạch thầy con rất muốn có từ bi đối với những người đã gây ra khổ đau cho nhiều người khác, nhưng sao con thấy khó thương được họ quá.”  Thầy đã trả lời: Quý vị đừng tưởng từ bi là một cái gì tiêu cực.  Từ bi là một năng lượng rất hùng tráng. Từ bi không có nghĩa là ngồi đó để người kia muốn làm gì thì làm. Có từ bi thì mình phải tìm cách chuyển hóa người đó.  Nếu cần tranh đấu thì phải tranh đấu, tạo áp lực quần chúng buộc người ấy phải chấm dứt hành động đàn áp hại nước hại dân của người ấy.  Làm như thế mà không có tâm niệm hận thù và ghét bỏ người ấy, cái đó mới đích thực là từ bi.  Từ bi phải đi chung với hùng lực.   Bài tựa Chú Lăng Nghiêm có câu: đại hùng, đại lực, đại từ bi. Các con của thầy nhờ đang có được một ít năng lượng của hùng lực và từ bi ấy cho nên đã đánh động được lương tâm thế giới, trong nước cũng như ngoài nước và gây niềm tin nơi pháp môn thực tập mà đức Thế Tôn chỉ dạy.  Chúng ta không lặp lại những giáo lý của Bụt như những con vẹt.  Chúng ta thực tình muốn ứng dụng giáo lý ấy vào cuộc đời.  Nếu tất cả các điều kiện đều thuận lợi hết, nếu không có khó khăn đến từ bên trong và bên ngoài thì các con đã không làm được những gì mà các con làm. Thầy cũng vậy, nhờ đã trải qua những khó khăn và tủi nhục nên thầy đã chế tác được năng lượng hiểu và thương và làm được như lời Bụt dạy trong Kinh Pháp Hoa: lấy mắt thương nhìn cuộc đời (từ nhãn thị chúng sanh).

Thư còn dài thầy sẽ gửi tiếp cho các con sau.


Âm thanh huyền diệu chiếc hồ cầm

Thầy đang viết tiếp cho các con từ thất Thạch Lang ở tu viện Bích Nham. Hôm nay là ngày 13 tháng 10, 2009. Thầy vừa đi New York về. Ở New York, Thầy và Tăng thân đã hướng dẫn hai ngày tu tập cho khoảng trên 2000 thiền sinh Hoa Kỳ thuộc Tăng thân miền Đông Bắc. Địa điểm là nhà hát Beacon ở đường Broadway, và đề tài của hai ngày thực tập là Xây Dựng một Xã Hội An Bình và Từ Bi (Building a Peaceful and Compassionate Society). Vào lúc 12g30 ngày 10.10.09, trên hai ngàn người đã được đi thiền hành ở đại lộ Broadway để gởi năng lượng về cho các con Bát Nhã của Thầy đang an trú ở Phước Huệ.

Thầy nhớ thời gian ở Phước Huệ, Thầy đã cư trú với hai vị huynh đệ của Thầy là thầy Tâm Cát và thầy Đức Trạm, cũng suýt soát tuổi Thầy. Cả ba người trong những năm 1940 đã từng học chung ở Phật Học Đường Báo Quốc, Huế. Thầy Tâm Cát tên đời là Huyền Tôn Viễn Lâu, thầy Đức Trạm là một trong các vị đệ tử lớn của Hòa Thượng Trí Thủ ở chùa Ba La Mật. Ba anh em ở đó tu học với nhau và hướng dẫn Phật tử cùng tu học. Chiều nào ba người cũng ra chơi bóng đá ở một khu đất rộng phía sau chùa. Hồi đó, chưa có ai trong giới xuất gia biết chơi bóng đá. Hòa Thượng Thiện Minh (tức là thầy Trí Nghiễm) hồi đó còn trẻ, tuổi khoảng 25, là người xuất gia đầu tiên chịu chơi bóng đá trước nhất, cùng với các chú sa di ở chùa Linh Sơn, Đà Lạt. Những năm sau đó thì có các thầy Như Trạm, Trí Không, Long Nguyệt và một số các vị học tăng khác từ Phật Học Đường Ấn Quang cùng lên Phước Huệ tu học với Thầy. Tại chùa Phước Huệ, Thầy cũng đã mở các lớp tiểu học và trung học cho trẻ em trong làng. Sư anh Nhất Trí của các con đã được xuống tóc ở đấy. Và cùng một ngày, một cậu bé khác cũng đã được xuống tóc và thọ ba giới. Cậu chỉ được thọ ba giới, bởi vì cậu còn bé quá, mới sáu hoặc bảy tuổi gì đó. Cậu bé sau này đã trở thành Hòa Thượng Nguyên Hạnh hiện giờ là Viện Chủ chùa Việt Nam ở Houston, một ngôi chùa thuộc hạng lớn nhất ở Hoa Kỳ. Sư anh Nhất Trí của các con có nét chữ viết tay giống hệt nét chữ của Thầy, cũng giống như sư chị Lương Nghiêm khi viết bút pháp thì nét chữ cũng rất giống nét chữ của Thầy. Sư anh Nhất Trí của con là một trong những người đi đầu trong phong trào Thanh Niêm Phụng Sự Xã Hội, và đã góp công xây dựng hai làng Tình Thương đầu tiên của phong trào này là làng Cầu Kinh và làng Thảo Điền. Chính Hòa Thượng Châu Đức đã mang sư anh từ Quảng Nam vào và gởi gắm cho Thầy. Những học sinh theo các lớp tiểu học hoặc trung học thời đó ở Bảo Lộc bây giờ đây đều đã trên sáu mươi hoặc bảy mươi, đa số đều đã trở thành ông nội hoặc bà ngoại… Các con hãy mỉm cười đi. Các con còn rất trẻ, hãy tập sống sâu sắc trong giây phút hiện tại, hãy cười bằng những nụ cười rất tươi và rất thật, hãy nhìn bằng con mắt thật hiền và thật sáng, hãy học thương yêu và tha thứ ngay trong giờ phút hiện tại, hãy chế tác những giây phút hạnh phúc với sự thực tập chánh niệm… để đừng trở thành những bậc đại lão hòa thượng sớm quá. Sư Ông của các con, Tổ Thanh Quý Chân Thật, đã giữ được tâm hồn trẻ thơ trong trắng của Ngài cho đến tuổi 80. Đó là nhờ Sư Ông đã nuôi nấng được Tâm Ban Đầu nguyên vẹn. Sư thúc Chí Mậu đã kể rằng vào giờ thị tịch, Sư Ông đã nằm trong tư thế sư tử tọa với hai bàn tay chắp lại thành búp sen. Thầy trò mình cũng mong ước thực tập được như Sư Ông, giữ gìn chí nguyện và Tâm Ban Đầu cho nguyên vẹn trong suốt một đời tu. Năng lượng của Tâm Ban Đầu đem lại cho chúng ta và cho những người thương của chúng ta rất nhiều hạnh phúc. Mà Tâm Ban Đầu là loại thực phẩm quý giá nhất của một người tu.

Trong chuyến đi này ở Bắc Mỹ, khi giảng dạy về Bốn Nguồn Thực Phẩm, Thầy đã đề cập tới Tư Niệm Thực trước, rồi mới nói tới Thức Thực, Xúc Thực và Đoàn Thực. Cách giảng dạy này được áp dụng bắt đầu từ khóa tu dành cho người xuất sĩ tổ chức ở Tu viện Lộc Uyển. Thầy mong các con Thầy khắp nơi có dịp được nghe ba bài pháp thoại của khóa tu ấy. Tâm Ban Đầu cũng gọi là Sơ Tâm hay Bồ Đề Tâm, là nguồn thực phẩm cần thiết nhất của chúng ta. Nó thuộc về nguồn thực phẩm thứ nhất là tư niệm thực. Ở ngoài đời, người ta gọi nó là lý tưởng, là chí hướng, là ước muốn sâu sắc nhất của một đời người. Có cái lý tưởng đó thì tự khắc ta có một nguồn năng lượng lớn giúp ta đi tới, vượt thắng được mọi chướng ngại, thực hiện được những mơ ước và đạt được nhiều hạnh phúc. Người không có lý tưởng và chí hướng là người không có sức sống. Đối với chúng ta, những người tu, lý tưởng ấy là chuyển hóa khổ đau trong ta và giúp đời chuyển hóa. Chúng ta đã đến với nhau vì lý tưởng ấy chứ không phải vì tìm cầu danh lợi, quyền hành và sắc dục. Và vì biết rằng danh lợi, quyền hành và sắc dục là thứ tư niệm thực có thể mang lại nhiều hoạn nạn và khổ đau cho thân tâm cho nên chúng ta đã quyết tâm từ bỏ chúng để đi tìm một nguồn tư niệm thực lành mạnh hơn, đó là tâm bồ đề. Tâm bồ đề lúc ban đầu mạnh lắm, nó giúp ta cắt đứt và buông bỏ hệ lụy một cách dễ dàng. Trong suốt một đời tu, ta phải biết nuôi dưỡng tâm ấy, đừng để nó bị soi mòn. Và do đó ta phải có nguồn thực phẩm thứ hai, đó là thức thực, nghĩa là tâm thức cộng đồng của một Tăng thân. Tăng thân là một đoàn thể của những người có cùng một chí hướng. Mọi người trong Tăng thân đều có nguồn năng lượng của tâm bồ đề, ai cũng muốn thực tập để chuyển hóa tự thân và để đóng góp vào sự nghiệp độ đời. Tăng thân trong khi sống đời sống lục hòa cọng trú, chế tác được năng lượng tập thể của Niệm, của Định và của Tuệ. Chính năng lượng này giúp nuôi dưỡng tâm bồ đề của mỗi thành phần trong Tăng thân. Sở dĩ các con của Thầy yêu mến Tăng thân, không muốn rời Tăng thân, tìm mọi cách để xây dựng Tăng thân, đó là vì các con có nhu yếu được nuôi dưỡng bởi năng lượng tập thể này. Cho nên khi người ta muốn giải tán Tăng thân thì các con đã tìm mọi cách để bảo hộ Tăng thân, không để cho Tăng thân tan rã.

Ở ngoài đời, những người đi làm cách mạng cũng có tâm bồ đề của họ. Họ có lý tưởng, họ có chí nguyện cứu nước, cứu dân, đánh đuổi quân xâm lược, tranh đấu cho nền độc lập của đất nước. Tư niệm thực của người đi làm cách mạng cũng lớn không kém tâm bồ đề của người tu. Và người làm cách mạng cũng cần đến một Tăng thân để nuôi dưỡng chí nguyện ấy, đó là tổ chức cách mạng của họ. Nếu trong Tăng thân chúng ta có tình đồng đạo, thì trong tổ chức cách mạng cũng có tình đồng chí. Chính cái tình đồng chí ấy là nguồn tư niệm thực nuôi dưỡng được chí khí và hành động của người cách mạng. Xây dựng tổ chức cách mạng phải có đạo đức cách mạng: liêm khiết và chính trực là hai đức tính căn bản của một tổ chức cách mạng. Cũng như giới, định và tuệ là bản chất của một Tăng thân. Nếu ta không thực tập giới luật, uy nghi và chánh niệm thì ta không nuôi dưỡng được năng lượng của Tăng thân. Nếu người cách mạng không thực tập liêm khiết và chính trực thì không nuôi dưỡng được tổ chức cách mạng và ngọn lửa cách mạng sẽ tàn lụi. Một Tăng thân cũng thế, nếu không có sự thực tập lục hòa cọng trú với năng lượng của niệm, định và tuệ thì Tăng thân sẽ không còn sức sống, bề ngoài thì giống như một đoàn thể tu học nhưng bên trong thì chỉ có những cá nhân đi tìm cầu tiện nghi vật chất và tình cảm cho một cuộc sống không lý tưởng. Giáo Hội là Tăng thân của mọi Tăng thân, nếu Giáo Hội được làm bằng những Tăng thân có sức sống lý tưởng của bồ đề tâm thì năng lượng của Giáo Hội sẽ hùng hậu và Giáo Hội sẽ trở thành nguồn năng lượng tư niệm thực cho cả hai chúng xuất gia và tại gia. Nếu không thì Giáo Hội chỉ là nơi người ta tới tìm cầu chức vị và quyền lợi. Nếu ngọn lửa thiêng cách mạng đã tàn lụi, thì tổ chức chính trị không còn sức sống, và những người xin gia nhập không còn là những người mang lý tưởng và chí nguyện cứu nước cứu dân nữa, mà chỉ là những người đi tìm cầu địa vị và quyền lợi mà thôi.

Khi các Cha của Dòng Chúa Cứu Thế lên tiếng để che chở cho Tăng thân Bát Nhã, Thầy thấy dòng tu này đang bảo trì được sức sống của một Tăng thân nên mới có đủ hùng lực để lên tiếng như thế. Khi Ban Trị Sự Tỉnh Giáo Hội Lâm Đồng lên tiếng che chở và bảo hộ cho Tăng thân Bát Nhã thì Thầy thấy Ban Trị Sự Tỉnh Giáo Hội còn bảo trì được sức sống của một Tăng thân nên mới có được đủ can đảm và tình yêu thương ấy. Mà sở dĩ các vị lên tiếng bảo vệ và che chở cho các con là vì Tăng thân Bát Nhã là một Tăng thân còn được nuôi dưỡng bởi Tâm Bồ Đề, không ai muốn chạy theo danh vọng, quyền hành và sắc dục, tất cả đều chỉ muốn tu tập và độ đời. Hồi tháng Tư năm nay, tại Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu bên Đức, Thầy đã nói một bài pháp thoại ngắn về Tăng thân và về cơ sở: cái quan trọng nhất là sự có mặt của một Tăng thân đẹp, còn cơ sở là vấn đề phụ thuộc. Có một trái đào thật đẹp thì mình mới đi tìm một cái đĩa hay một cái khay để đặt trái đào lên. Nếu không có trái đào thì cái đĩa hoặc cái khay ấy dùng để làm gì? Nếu không có cơ sở Bát Nhã này thì có cơ sở Bát Nhã khác, điều quan trọng nhất là phải xây dựng một Tăng thân đẹp. Hành động đầu tiên của Đức Thế Tôn sau khi giác ngộ dưới cây Bồ Đề là đi tìm các bạn tu mà thành lập một Tăng thân. Dựng Tăng là sự nghiệp của các vị Bụt. Dựng Tăng cũng là sự nghiệp của bất cứ người tu nào. Cũng như người làm cách mạng thì phải xây dựng tổ chức đoàn thể cách mạng. Nếu không có Tăng thân thì sự nghiệp của một vị Bụt không thể nào thành tựu. Nếu không có tổ chức cách mạng thì sự nghiệp của người làm cách mạng không thành. Trong sáu mươi năm qua, Thầy của các con không có lúc nào bỏ lơi sự thực tập xây dựng Tăng thân. Thầy đã giúp dựng lên hàng ngàn Tăng thân trên thế giới, và mỗi Tăng thân như thế đã trở thành nơi nương tựa cho nhiều hành giả địa phương. Martin Luther King là người Thầy rất thân quen, đã nói tới Tăng thân như những “beloved communities” nghĩa là những “Tăng thân yêu quý”. Tăng thân Bát Nhã cũng là một trong những “Tăng thân yêu quý” này.

Ngày xưa khi còn là một người xuất gia trẻ, trong thời gian cách mạng chống Pháp, Thầy đã từng tìm cách che chở cho những chiến sĩ cách mạng gặp bước nguy nan tìm cách tỵ nạn trong chùa. Đây là một trong những việc làm nguy hiểm nhất: lính Pháp có thể bắn chết mình vì mình đã dám che chở cho quân kháng chiến. Các thầy Trí Thuyên, Tâm Thường và bao nhiêu vị xuất gia trẻ khác trong nước đồng lứa tuổi với Thầy đã bị bắn vì làm những công việc ấy. Hàng ngàn chiến sĩ cách mạng đã từng tìm đến ẩn náu tại các ngôi chùa, và các thầy các sư cô đã luôn luôn tìm cách bảo bọc và che chở họ. Đó là vì chúng ta ai cũng có tâm yêu nước, và vì yêu nước nên mới muốn bảo hộ cho các chiến sĩ. Trong lá thư gởi cho Chủ Tịch Nước ngày 30.09.09, Thầy đã nhắc lại chuyện này. Thầy chắc rằng Chủ Tịch Nước hồi còn làm một chiến sĩ cách mạng, cùng với bao nhiêu chiến sĩ khác mà bây giờ đã trở thành những bậc cách mạng lão thành, đã từng trải qua những gian nan hiểm nguy như thế và không thể nào quên được tình quân dân cá nước ngày xưa. Và cũng vì vậy cho nên trong lá thư ấy, Thầy cũng viết rằng những vị công an, cảnh sát nào và những người nào đã ra lệnh cho họ sử dụng mọi cách để đánh bật các con ra khỏi Bát Nhã “chắc hẳn không phải là con cháu của cách mạng”. Hành động ấy là một hành động vô ân, bất nghĩa, phản bội, không phải là hành động của truyền thống cách mạng. Và Thầy đã lên tiếng xin Chủ Tịch Nước ngăn chận lại hành động trái chống với đạo đức cách mạng, và với truyền thống luân thường đạo lý của đất nước ta. Tại sao những người công an này hành xử như thế, sử dụng những biện pháp bá đạo như thế? Tại sao họ không tiếp nối được truyền thống liêm khiết và chính trực của cách mạng? Tại sao họ không phải là con cháu của cách mạng? Tại sao tham nhũng và lạm dụng quyền hành lan tràn? Chỉ có một câu trả lời đích xác: tại vì ngọn lửa cách mạng đang tàn lụi, đạo đức cách mạng không còn và vì nguồn tư niệm thực là lý tưởng cách mạng không còn. Khi chúng ta không còn giữ được tâm bồ đề, thì ta không còn là “đạo hữu” của nhau, không còn là “đồng đạo” của nhau nữa, dù ta vẫn còn mang danh Phật tử. Khi chí nguyện cách mạng không còn, khi ta bị tham nhũng và lạm dụng quyền hành lũng đoạn thì ta cũng không thật sự còn là “đồng chí” của nhau, dù trên giao tiếp ta vẫn gọi người kia là đồng chí. Có lý tưởng, có tâm bồ đề và có tình huynh đệ rồi thì chúng ta đã có đủ hạnh phúc, chúng ta không cần đi tìm hạnh phúc về phía tiền bạc, danh vọng quyền hành và sắc dục nữa. Chúng ta sống với nhau một nếp sống lành mạnh và đơn giản. Thầy đã ngồi thiền với các con, ăn cơm chánh niệm với các con, thở với các con, nghe chuông với các con, đi thiền hành và chấp tác với các con, tổ chức các khóa tu với các con và tìm thấy hạnh phúc trong những giây phút sống chung ấy. Thì các chiến sĩ cách mạng cũng thế, họ sống với nhau hạnh phúc vì họ có lý tưởng, có khả năng buông bỏ những gì mang tới hệ lụy. Họ chiến đấu bên nhau, chịu đựng sương gió bên nhau, tại vì họ có tình đồng chí, tại vì họ được sưởi ấm bởi lửa thiêng cách mạng.

Nói như vậy không có nghĩa là ngày nay ta không khơi dậy lại được ngọn lửa của Tâm Bồ Đề đã tàn lụi trong ta, không có nghĩa là ta không làm sống dậy được ngọn lửa thiêng cách mạng đang tàn lụi trong ta. Khi các con đến với Tăng thân, ngọn lửa của bồ đề tâm trong các con đã được khơi dậy. Biết bao nhiêu người xuất gia trẻ sau khi đọc tác phẩm “Nói Với Người Xuất Gia Trẻ” và tiếp xúc với Tăng thân đã khôi phục lại được tâm bồ đề của họ. Và chúng ta đã bắt đầu sống với nhau rất thật, rất hạnh phúc, bởi vì trong chúng ta ngọn lửa của chí nguyện đang bốc cháy. Người trẻ đến với chúng ta càng ngày càng đông. Và đây là điều làm cho kẻ khác sợ. Họ đã gửi người tới trà trộn với chúng ta ở Làng Mai, ở Lộc Uyển, ở Từ Hiếu, ở Bát Nhã, ở khắp nơi, để xem chúng ta thực sự đang làm gì và tại sao chúng ta hấp dẫn được những thành phần trẻ mau chóng như thế? Chúng ta có bí quyết gì không? Chúng ta không có bí quyết gì cả! Nếu có một cái gọi là bí quyết thì đó là vì ta biết sống thật với nhau trong tình huynh đệ, chúng ta biết buông bỏ những đeo đuổi nào có thể mang tới hệ lụy, chúng ta có lý tưởng tu tập, giúp người và độ đời. Và chúng ta sống từng phút giây với lý tưởng ấy. Vì vậy cho nên khi người trẻ tiếp xúc với chúng ta cũng thấy trái tim họ được thắp lên bởi lý tưởng độ đời ấy. Chuyện này chắc chắn cũng có thể được thực hiện trong một đoàn thể hay một tổ chức cách mạng: nếu người ta sống thực với nhau, nếu người ta khơi dậy được ngọn lửa lý tưởng cách mạng, nếu người ta có năng lượng của lý tưởng thì nạn tham nhũng và sự lạm dụng quyền hành sẽ bị đánh bại, và những người tới với tổ chức không còn là những người vụ lợi, những người cơ hội chủ nghĩa nữa.

Nếu những người đến dò xét ta thấy được sự thực này thì “cả hai bên cùng có lợi”: ta được an ổn tu hành còn họ học được cách vực dậy niềm tin nơi lý tưởng. Đằng này họ không thấy được cho nên họ nghi ngờ. Và từ nghi ngờ đi tới sợ hãi. Vì sợ hãi họ đã sử dụng những biện pháp phi đạo đức để giải tán một đoàn thể những người trẻ mà họ có cảm tưởng không kiểm soát được. Sự thực: có cần phải kiểm soát sự nuôi dưỡng đạo đức hay không?

Có một ông vua rất hiếu kỳ muốn tìm hiểu tại sao một chiếc hồ cầm có thể phát ra những âm thanh kỳ diệu như thế và đã ra lệnh chẻ chiếc hồ cầm ra để tìm bí quyết. Chẻ chiếc đàn ra thành hàng trăm mảnh mà không tìm ra được gốc gác của những âm thanh kỳ diệu đã nghe. Phải ngồi quán sát cây đàn và cách đánh đàn, chứ không thể chẻ cây đàn ra được. Tăng thân cũng như một cây đàn, cứ tham dự và quán sát, thì sẽ thấy được phép lạ của Tăng thân, tại sao phải chẻ Tăng thân ra thành nhiều mảnh, gửi mỗi mảnh về quê quán của mình để mất đi cơ hội học hỏi? Các bậc cách mạng lão thành, và tất cả những ai trong chúng ta còn giữ được chút lửa hồng của cách mạng trong lòng, nhờ sự thực bung ra từ pháp nạn Bát Nhã, đều có cơ hội quán chiếu để làm cháy lên trở lại ngọn lửa huyền diệu ngày xưa.

(thơ còn dài, Thầy sẽ gửi tiếp sau)

Sống mỗi ngày cho đẹp,
Thầy

Khơi dậy ngọn lửa thiêng

Tu Viện Bích Nham

Hôm qua tại thiền đường Đại Đồng của tu viện Bích Nham đã có lễ xuất gia cho hai người trẻ tuổi, một người đã tốt nghiệp Nha Khoa và một người đã tốt nghiệp Kinh Doanh. Đó là hai sư cô Chân Lân Nghiêm và Chân Mạnh Nghiêm. Hai người này đã có cơ hội được thầy chỉ dạy về giới luật và uy nghi trong suốt một tuần lễ trước ngày xuất gia. Các vị này đã được chấp nhận thường trú ở xóm Hạc Trắng của Tu viện Bích Nham.

Thầy nhớ khi xuống tóc cho các sư em thầy đã nhất tâm hộ niệm để các em giữ mãi được tâm ban đầu trong suốt một đời tu. Giữ được tâm ban đầu thì thế nào tu tập cũng thành công. Có những người tu thành công, và có những người tu không thành công. Nếu người tu không biết cách thực tập thì có thể bị hư hỏng trong khi tiếp nhận sự cung kính và cúng dường từ người tại gia. Cho nên mỗi khi có một đợt người trẻ xuất gia, điều đầu tiên thầy căn dặn họ là phải rất cẩn thận trước sự cung kính và cúng dường của người cư sĩ.

Khi mặc vào chiếc áo tu, mình trở thành biểu tượng của Tam bảo là Bụt, Pháp và Tăng. Mình đại diện cho Tăng Bảo. Trong Tăng Bảo có Pháp Bảo và Phật Bảo. Vì vậy thấy hình dáng của một vị xuất gia, người cư sĩ có khuynh hướng muốn tỏ bày niềm cung kính. Và cách thức tỏ bày niềm quy kính ấy là lễ lạy và cúng dường.

Một người mới xuất gia phải thực tập như thế nào khi có người tới lễ lạy? Ta có khuynh hướng muốn nói: xin đừng lạy tôi, tại vì tôi mới xuất gia, chưa có đức độ gì để quý vị lễ lạy. Nhưng nếu ta từ khước như thế  thì vị cư sĩ kia mất đi một cơ hội để tỏ bày niềm quy kính Tam Bảo của người ấy. Cho nên ta phải ngồi thật yên, theo dõi hơi thở và quán chiếu: người cư sĩ kia đang tỏ bày niềm quy kính đối với Tam Bảo chứ không phải đang tôn sùng cái ngã của mình. Mình phải ngồi thật yên cho người ấy lạy. Họ lạy Tam Bảo chứ không phải lạy mình. Và như thế mình sẽ được an toàn, và đức khiêm cung của mình sẽ được bảo vệ. Nếu không thì mình sẽ hư hỏng. Hư hỏng vì mình tưởng mình là đối tượng của sự cung kính. Cũng như lá cờ quốc gia.  Lá cờ ấy chỉ là một mảnh vải. Người ta chào cờ là người ta chào một quốc gia chứ không phải chào một mảnh vải. Nếu mảnh vải nghĩ nó là đối tượng của sự kính trọng kia thì mảnh vải đã lầm.

Bản thân thầy vốn không thích để ai lễ lạy. Nhưng mà thầy phải tập ngồi để người ta lễ lạy. Lễ lạy là một phép thực tập quan trọng của người tại gia. Mình phải ngồi với chánh niệm để đại diện cho Tam Bảo. Nếu thực tập được như thế thì người lễ lạy nuôi dưỡng được niềm tôn kính Tam Bảo, còn mình cũng nuôi dưỡng được đức khiêm cung. Nếu không thực tập thì mình trở thành nạn nhân của sự cung kính và đời tu của mình sẽ thất bại.

Sư Ông của các con, tổ Thanh Quý, là một người có đức khiêm cung rất lớn. Bản tính của Sư Ông là không thích ai lễ lạy mình, nhưng vì là một vị thầy nên Sư Ông phải để cho người ta lễ lạy. Khi đại sư Chí Niệm xây tháp cho Sư Ông, Sư Ông dặn là phải an trí trên chóp tháp một tượng đức Bổn Sư, như vậy sau này có ai đến lễ lạy ở tháp, Sư Ông  muốn đó là họ đang lễ lạy đức Bổn Sư chứ không phải là lễ lạy Sư Ông. Ở chùa tổ Từ Hiếu ai cũng biết chuyện đó. Thầy trò chúng ta phải học cho được thái độ khiêm cung ấy của Tổ Thanh Quý. Đức khiêm cung đó sẽ có thể giữ cho chúng ta mãi mãi còn là chúng ta. Chúng ta thấy cả trong hai truyền thống Bắc Tông và Nam Tông đều có những vị xuất gia hư hỏng vì thiếu sự thực tập này; các vị ấy thấy người ta lễ lạy mình thì cứ tưởng là người ta đang khâm phục cái ta của mình. Trong khi đó ai cũng biết rằng cái ta là cái đáng ghét nhất. Trong truyền thống đạo Bụt, cái ta chỉ là một ảo tưởng.

Khi lạy xuống, ta có cơ hội buông bỏ ảo tưởng về cái ta. Năm vóc sát đất, ta mở rộng hai bàn tay. Ta quán chiếu: “Lạy đức Thế Tôn, lạy chư vị tổ sư tâm linh và huyết thống, con không có gì để tự hào cả. Những gì con đang có như một chút ít tài năng, một chút thông minh, tất cả đều do đức Thế Tôn và liệt vị trao truyền. Con chỉ là sự tiếp nối của liệt vị.” Khi quán chiếu như thế ta thấy trong con người của ta có rất nhiều không gian, có rất nhiều tự do, và ta buông bỏ được mọi mặc cảm tự tôn. Nếu ta có mặc cảm tự ti, ta cũng quán chiếu như thế: “Lạy đức Thế Tôn, lạy chư vị tổ sư tâm linh và huyết thống, con có những yếu kém, những yếu kém này cũng không phải là con mà đã được trao truyền lại. Là sự tiếp nối của liệt vị, con nguyện sẽ thực tập để chuyển hóa những yếu kém ấy trong con, và đáp ứng được sự trông đợi của liệt vị.”

Đời sống của người xuất gia phải vừa khiêm cung vừa giản dị. Mười giới sa di và sa di ni mà ta tiếp nhận ngày ta được gia nhập đoàn thể của những người xuất gia là những giới pháp đẹp tuyệt vời. Giới thứ sáu là không sử dụng các loại mỹ phẩm và các đồ trang sức, giới thứ bảy là không vướng mắc vào các lối tiêu khiển trần tục, giới thứ tám là không sống đời vật chất sang trọng và xa hoa. “Ý thức được rằng sống trong những điều kiện vật chất và xa hoa, người xuất gia sẽ khởi tâm ái dục và tự hào, con nguyện suốt đời chỉ sống một nếp sống giản dị, thiểu dục và tri túc. Con nguyện không ngồi và không nằm trên những chiếc ghế và chiếc giường lộng lẫy, không sử dụng lụa là, gấm vóc, xe cộ bóng loáng và nhà cửa cao sang.” Cái đẹp của người xuất gia được làm bằng đức khiêm cung và nếp sống đơn giản. Cho nên khi tiếp nhận phẩm vật cúng dường, người xuất gia không giữ phẩm vật ấy cho mình mà phải chuyển lại cho đại chúng, nghĩa là cho đoàn thể của người xuất gia. Những phẩm vật cúng dường này là để dành cho những vị nào đang thực sự thiếu thốn. Đời sống xuất gia thì phải “tam thường bất túc” nghĩa là trong ba cái ăn, mặc và ở thì đừng có cái nào quá đầy đủ. Phải thiếu một chút thì mới đúng. Ví dụ ăn thì không nên ăn quá no. Mặc thì không nên mặc quá ấm, đừng nói là quá đẹp. Ở thì không nên ở quá tiện nghi, đừng nói là quá sang. Theo tiêu chuẩn ấy mà xét, ta có thể thấy được ai là người chân tu, ai không phải là  người chân tu. Khoác áo người xuất gia, ta có tư cách để tiếp nhận sự cung kính và cúng dường. Nếu ta không thực tập, thì ta sẽ lạm dụng sự cung kính và cúng dường ấy và đánh mất pháp thân của ta. Pháp thân là đời sống tâm linh đích thực.

Thầy có cái may mắn là tới tuổi này rồi mà thầy vẫn còn cảm thấy e thẹn khi có một vị cư sĩ cúng dường. Các con biết đó, thầy cũng sống đơn giản như các con, và mỗi khi có ai cúng dường thầy chẳng bao giờ giữ lấy cho riêng thầy. Đạo tràng nào của chúng ta cũng có chương trình Hiểu và Thương, và chúng ta luôn luôn biết cắt bớt sự tiêu thụ để chia sẻ những tài vật đang có với những người thiếu thốn: những bé cô nhi, những bô lão cô đơn, những trẻ em thiếu học hành và dinh dưỡng, những nạn nhân của nghèo đói, bệnh tật và thiên tai.  Chúng ta nuôi dưỡng từ bi bằng những chương trình cứu trợ ấy. Và ta có biết bao nhiêu sư anh sư chị và các thân hữu cư sĩ đã và đang hết lòng giúp chúng ta làm việc này. Đó là một trong những hạnh phúc lớn của người xuất gia. Đó là sự thực tập giới thứ hai: chia sẻ thì giờ, năng lực và tài vật với những kẻ thiếu thốn. Hạnh phúc của chúng ta được làm bằng chất liệu lý tưởng và tình huynh đệ chứ không phải là làm bằng khả năng tiêu thụ. Sở dĩ những người trẻ tới đông đảo với chúng ta vì họ thấy được cái hạnh phúc đó. Đến với chúng ta, họ thực tập buông bỏ được những hệ lụy và khổ đau của họ, và họ nếm được chất liệu hạnh phúc do lý tưởng và tình huynh đệ đem lại. Hai vị mới được xuất gia ngày hôm qua đều là con nhà đại gia, có học vị cao, có dư điều kiện sống một đời sống vật chất dư dã và xa hoa, nhưng các vị ấy đã buông bỏ hết để được xuất gia.  Mắt họ long lanh khi tiếp nhận giới pháp, điều này chứng tỏ họ đang có hạnh phúc lớn, và hạnh phúc ấy được làm bằng chất liệu lý tưởng và tình huynh đệ.

Thầy thấy người đi làm cách mạng cũng có chí hướng tương tợ như chí hướng của những người xuất gia. Hành động của Siddharta Gotama khi bỏ ngai vàng để đi xuất gia cũng là một thứ hành động cách mạng. Sở dĩ ta buông bỏ được là tại vì ta có chí nguyện lớn.  Người làm cách mạng phải là người có chí nguyện lớn, nếu không thì người ấy cũng không buông bỏ được nếp sống phù hoa để đi theo con đường phụng sự đất nước. Và cũng như người xuất gia, người cách mạng cũng phải sống một nếp sống đơn giản không nặng nề danh vọng và lợi lộc. Một nhà cách mạng chân chính cũng sống một nếp sống đơn giản như một người xuất gia, và cũng có cái hạnh phúc tương tợ như cái hạnh phúc của người xuất gia, nghĩa là có chất liệu lý tưởng và có tình huynh đệ, có tình đồng chí. “Áo anh rách vai, quần tôi có hai miếng vá.  Miệng còn cười, chân giá buốt không giày.  Yêu nhau tay nắm lấy bàn tay.” Theo tinh thần này, thì một người công an cũng là một chiến sĩ cách mạng. Người công an cũng có thể sống có hạnh phúc với lý tưởng cách mạng và với tình đồng chí như người xuất gia.

Trong số các vị đệ tử thọ giới Tiếp Hiện tại Hoa Kỳ, có một đại úy công an tên là Cheri Maples. Vị này đã tu tập rất giỏi theo pháp môn Làng Mai, ban đầu thì thọ Năm Giới, nhưng sau đó nhiều năm đã thọ giới Tiếp Hiện, và năm 2008 đã được nhận lễ Truyền Đăng làm giáo thọ cư sĩ. Thật ra Cheri Maples trong hơn mười năm qua đã làm trách vụ giáo thọ cư sĩ một cách xuất sắc rồi, và quần chúng mà vị này hướng dẫn tu tập phần lớn đã thuộc về giới những người có nhiệm vụ giữ gìn an ninh cho xã hội, trong đó có giới cảnh sát, công an, thẩm phán, luật sư và ban quản giáo các nhà tù, các trung tâm cải huấn. Cheri Maples đã ở trong ngành cảnh sát 20 năm, đã từng giữ trách vụ đào tạo cảnh sát công an, có nhiệm vụ bổ dụng và cất chức những vị này.

Trong 20 năm phục vụ ở ngành Cảnh Sát, Cheri Maples đã thực tập theo pháp môn Làng Mai được 14 năm. Sự thực tập này đã giúp cho Cheri chuyển hóa rất nhiều và đã giúp cho Cheri thành công lớn trong việc đào tạo phân phối và bổ nhiệm nhân viên Cảnh Sát. Do sự thành công lớn lao đó mà Cheri đã được đưa lên một chức vị cao trong cục Cải Huấn và Tư Pháp. Trong nhiệm vụ mới này, Cheri đã huấn luyện hơn 1500 nhân viên, trong đó có các luật sư, chánh án, sĩ quan công an và quan chức nhà nước, huấn luyện bằng cách sử dụng những pháp môn mà Cheri đã học được từ Làng Mai. Trong hiện tại, Cheri đang áp dụng những pháp môn (gọi là kỹ thuật tu tập) ấy để giúp cho những nhân viên quản trị các trại giam và ngay cho những người bị giam giữ trong các trại tù ấy.

Năm 2003, Cheri đã tổ chức một khóa tu tại Madison, Wisconsin cho trên 650 người, trong đó phần lớn là các nhân viên Cảnh Sát, Công An, và các viên chức trong ngành Tư Pháp. Thầy và tăng thân Làng Mai đã được mời tới hướng dẫn khóa tu này. Trong khóa tu này, không có đốt hương, không có tụng niệm, không có lễ nghi, chỉ có sự thực tập để làm lắng dịu và chuyển hóa thân tâm, làm sống dậy và nuôi dưỡng chất liệu lý tưởng và tình huynh đệ, đem một chiều hướng tâm linh vào đời sống chuyên nghiệp, để có thể thành công hơn trong nghiệp vụ và để có thêm niềm vui trong đời sống hàng ngày. Khóa tu thành công lắm. Các con hãy tưởng tượng những chú cảnh sát Hoa Kỳ to con đang tập đi thiền hành với những bước chân thảnh thơi, đang tập ngồi thiền với những hơi thở lắng dịu, đang tập hạnh lắng nghe và ái ngữ với một thế ngồi bình an. Giới cảnh sát công an và các viên chức làm trong ngành Tư Pháp có một đời sống rất căng thẳng và nhiều khổ đau. Các con có biết là mỗi năm ở Hoa Kỳ có khoảng 300 cảnh sát viên tự tử bằng súng của chính họ không? Hành động này gọi là ăn súng của chính mình (eating their own gun). Số lượng các vị cảnh sát tự tử bằng súng của mình đông bằng hai lần số lượng cảnh sát bị côn đồ và tội đồ bắn chết.  Giới viên chức quản trị các trại giam cũng có rất nhiều căng thẳng vì phải đối diện thường xuyên với năng lượng bạo động trong trại giam và ngay trong chính bản thân. Người ta cho biết là sau 20 năm phục vụ trong ngành này, phần lớn các nhân viên chỉ có tuổi thọ trung bình là 58 tuổi.

Những nhân viên cảnh sát và công an đã từng tới Bát Nhã và đã gây khó khăn cho các con Bát Nhã của thầy chắc chắn cũng có nhiều căng thẳng và khổ đau trong bản thân. Họ là viên chức nhà nước và phải tuân theo mệnh lệnh của cấp trên, nhiều khi buộc phải làm những điều khiến cho họ cảm thấy bứt rứt trong thân tâm họ. Các baby monks của thầy khi viết thư cho các chú công an đã thấy được điều này, cho nên thầy đã thầm khen các con khi thầy được đọc lá thư ấy. Lương bổng của người công an không đủ sống, thầy biết như vậy, và một số những người công an đã phải sử dụng quyền hành và chức vụ của mình để kiếm thêm tiền, do đó cũng dần dần đánh mất lý tưởng phục vụ đất nước của họ.

Cheri Maples nói rằng năm 1984, khi đi vào ngành Cảnh Sát, nguyện ước sâu sắc nhất của cô là phục vụ cho hòa bình, chấm dứt bạo động và bất công xã hội. Đó là chất liệu lý tưởng. Cheri viết trong bài tựa một cuốn sách của thầy những dòng sau đây: “Mỗi đêm, tôi đều trăn trở với những khổ đau do nghèo đói, kỳ thị chủng tộc, bất công xã hội, trộm cắp, lạm dụng tình dục, bạo hành trong gia đình, tiêu thụ bừa bãi và áp bức xã hội gây nên. Tôi khao khát bình an, nhưng tôi không biết rằng cái bình an ấy phải tới từ trái tim của mình trước. Tôi bị tràn ngập bởi những khổ đau mà tôi chứng kiến được trong xã hội, bởi những hiểu lầm, và bởi chính cái chính sách của nha Cảnh Sát Công An của tôi. Cái bất bình giận dữ của kẻ khác đã thắp cháy lên cái bất bình giận dữ trong tôi. Và tôi bắt đầu thực hành nhiệm vụ của tôi một cách máy móc. Tôi bắt đầu uống rượu. Tôi bị chứng trầm cảm.  Và tôi đã tạo ra khổ đau cho tôi, cho những người thân, và cho cả những người khác.” Sau khi được tiếp xúc với Pháp Môn Làng Mai, được biết rằng có thể mang bên hông một khẩu súng với chánh niệm thì Cheri mới bắt đầu được chuyển hóa, và đã làm sống dậy được lý tưởng của mình. Cuối cùng Cheri đã phục vụ được thật nhiều cho đất nước và dân tộc của Cheri. Hạnh phúc của Cheri tăng tiến rất nhiều, đó là nhờ công phu tu tập. Nghe tin các con bị trục xuất khỏi Bát Nhã và đang bị bao vây tại Phước Huệ, Cheri đã viết thư cho Chủ Tịch Nước và Ông Bộ Trưởng Bộ Công An để nhờ can thiệp cho các con được trở về tu tập an ổn tại nơi các con đã được xuất gia, và Cheri đã gửi cho thầy một bản sao của lá thư ấy. 

Nếu Cheri đã tu tập thành công, đã làm sống dậy được lý tưởng phụng sự đất nước, đã tìm được niềm vui trong đời sống phục vụ quốc gia, nhờ vào công phu tu tập, thì các chú công an của mình cũng có thể làm như thế được, phải không các con, nhất là khi ta biết rằng nhiều vị sĩ quan và nhân viên công an cũng là con nhà Phật tử.  Trong lá thư gửi cho Chủ Tịch Nước và Ông Bộ Trưởng Bộ Công An, Cheri đã nói lên ước vọng là trong tương lai sẽ có những khóa tu tổ chức cho giới cảnh sát và công an tại Việt Nam như khóa tu đã từng được tổ chức ở tiểu bang Wisconsin, và có thể có khả năng là các vị cảnh sát và công an Hoa Kỳ cũng được đi Việt Nam thực tập chung với các vị cảnh sát và công an Việt Nam. Khóa tu ở Wisconsin thành công lớn lắm, tuy không phải là một khóa tu dễ dàng. Khổ đau và thành kiến lúc ban đầu rất lớn, đã được từ từ chuyển hóa trong khóa tu.   Khóa tu ấy có chủ đề là “Canh Giữ Cho Hòa Bình” (Keeping the Peace). Chủ đề này làm thầy nhớ bài hát của thiếu nhi Việt Nam ở ngoài Bắc “Chú bộ đội, chúng cháu yêu chú lắm, súng vác trên vai, chú canh giữ cho hòa bình.” Những thực tập trong khóa tu đã giúp cho mọi người thực hiện thêm được rất nhiều bình an trong lòng người nhân viên công an và trong các cộng đồng xã hội mà những vị ấy phục vụ. Cheri đã viết trong lá thư: “Nhờ sự giáo huấn của Thầy, cả Cục Cảnh Sát trong đó có tôi đã được chuyển hóa. Từ những nhân viên chỉ biết sử dụng quyền hành, chúng tôi đã trở nên những chiến sĩ hòa bình có liên hệ tốt đẹp với quần chúng.”

Các khóa tu tổ chức cho giới cảnh sát công an, cũng như các khóa tu tổ chức cho giới dân biểu và quan chức nhà nước đều được tổ chức dưới hình thức không tôn giáo (non sectarian) vì vậy cho nên trong các khóa tu ấy không có sự thực tập nghi lễ và tín mộ, bởi vì luật lệ của các nước dân chủ Tây phương là như thế: “Không được trộn lẫn giáo quyền và chính quyền.” Thầy và Tăng thân đã tôn trọng nguyên tắc ấy, và các khóa tu kia không có mục tiêu khuyên người ta trở thành Phật tử mà chỉ muốn giúp cho người thực tập chuyển hóa khổ đau và khó khăn nội tâm, tìm lại được niềm tin nơi lý tưởng và tình huynh đệ. Cái học trong các Phật học đường của chúng ta có tính lý thuyết nhiều hơn thực tập, và vì thế những pháp môn thực tập này cần phải được đưa vào các trường cơ bản, trung cấp và cao cấp Phật học, để cho đạo Phật thật sự có thể được ứng dụng thực tế vào đời sống hàng ngày. Có sự thực tập này, người tu mới phục hồi và giữ vững được lý tưởng của người xuất gia, không bị lợi và danh ràng buộc. Sự thực tập này cũng rất có ích lợi cho các trường Trung Cấp Công An Nhân Dân, các trường Đại Học Cảnh Sát Nhân Dân và các Học Viện An Ninh Nhân Dân. Nó có thể được giảng dạy như một môn học và thực tập không có màu sắc tôn giáo, giống như trong khóa tu Wisconsin. Thầy nghĩ rằng vị Vụ Trưởng Vụ Hợp Tác Quốc Tế của ngành Công An có thể trao đổi với Giáo Thọ Cheri Maples để có thêm kiến giải về vấn đề này và các vị giáo thọ của chúng ta cũng sẽ có thể góp phần trong việc giảng dạy và thực tập trong các cơ sở đào tạo nhân viên Công An và Cảnh Sát ấy. Làm được công việc ích nước lợi dân thì dù có bị chụp mũ là cộng sản cũng không sao, miễn là nhờ đó mà dân chúng bớt khổ. Công an khổ thì dân chúng cũng khổ theo.  Công an có những khổ đau trong lòng mà không giải tỏa được thì sẽ trút lên đầu gia đình và trên đầu dân chúng. Công an mà tham nhũng và lạm quyền thì không những tội cho công an  mà còn tội cho chánh quyền và nhất là cho dân chúng. Giáo dục làm sao mà những chánh sách của các Tổng Cục và của các Cục có thể đáp lại nhu yếu đích thực của người dân thì đó mới là một nền giáo dục thật sự hữu ích. 

Này các con của thầy, trong lịch sử, cứ thỉnh thoảng lại có một vị đại đạo sư xuất hiện để thanh lọc và làm mới lại truyền thống Phật giáo. Các vị như Long Thọ, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Trần Na, Huyền Trang, Huệ Năng, Lâm Tế, Trí Giả, Tăng Hội v.v. đều là những nhà cách mạng có khả năng làm cho đạo Bụt trẻ lại, để có thể phục vụ hữu hiệu hơn trong những hoàn cảnh xã hội đã thay đổi. Đạo sư Thái Hư trong những năm 30 của thế kỷ trước đã kêu gọi “Cách  mạng giáo lý! Cách mạng giáo chế! Cách mạng giáo sản!”; rất nhiều người trong giới xuất gia nước ta đã lắng nghe những lời kêu gọi ấy và đã nỗ lực tìm cách chấn hưng đạo Phật. Suốt một cuộc đời thầy, thầy cũng chỉ tìm cách làm những việc ấy. Nếu không cách mệnh giáo lý thì khó có thể ứng dụng giáo lý vào đời sống mới, vì vậy từ đạo Bụt nhập thế mình đã có đạo Bụt ứng dụng. Nếu không cách mạng giáo chế thì giới luật và uy nghi truyền thống không đủ để đối phó với những vấn nạn lớn của thời đại và những băng hoại trong xã hội nhiều tệ nạn ngày nay. Vì vậy mà mình đã có Năm Giới tân tu, Mười Giới tân tu, dòng Tiếp Hiện, và giới Khất Sĩ tân tu. Nếu không cách mệnh giáo sản mà cứ bám vào chế độ cúng dường thì làm sao có đủ tự do để thực hiện cách mạng giáo lý và cách mạng giáo chế và để đóng góp được vào công tác thanh lọc và xây dựng một xã  hội công bình và lành mạnh? Không có cách mạng giáo lý, giáo chế và giáo sản thì đạo Phật sẽ trở nên già nua, hư hỏng, thiếu sự sống, không tiếp tục được nữa sứ mạng của mình, và sẽ bị đào thải. Một tổ chức chính trị cũng vậy, nếu không có ngọn lửa cách mạng nuôi dưỡng thì sẽ trở nên già nua, hư hỏng, đi ngược lại với bản hoài của mình lúc ban đầu, và những người tìm cách gia nhập tổ chức cũng chỉ vì lợi lộc mà không phải vì lý tưởng.

Trong chuyến về nước năm 2007 thầy đã có dịp một mình ghé vào một ngôi chùa ở Hà Nội để quan sát. Trong chính điện, ở tổ đường, ngoài sân chùa, hễ nơi nào có tượng Phật, tượng Bồ Tát, La Hán, Tổ Sư, Hộ Pháp, Thánh Mẫu v.v. thì đều có tiền cúng dường trên tay các bức tượng. Thầy có cảm tưởng là tất cả các vị Bụt, Bồ Tát, La Hán, Tổ Sư, v.v. đều trở thành những người ăn hối lộ, và các vị đều là những vị thần linh chỉ phù hộ cho những ai biết đút lót cho mình mà thôi.  Hình ảnh này cho ta thấy thế giới thần linh chỉ phản ảnh thế giới nhân sự:  ai không chấp nhận tham nhũng thì sẽ không thành công, và sẽ không làm gì được. Thầy đặt câu hỏi: có phải vì Bát Nhã không chịu theo cái quy luật ấy cho nên Bát Nhã đã không thể tồn tại? Có người đã nói: nước trong quá thì cá sẽ không sống được. Có phải đây là sự thực hay không?

Không, thầy không muốn tin đó là sự thực. Chúng ta đang có những vị chân tu trên đất nước, không bị danh vọng và tiền tài mua chuộc.  Và các con của thầy đang nối gót theo các vị ấy, dù quanh ta có nhiều người xuất gia đã đánh mất tâm ban đầu và chỉ đang đi tìm những tiện nghi vật chất và tình cảm để sống cho hết một cuộc sống thiếu lý tưởng và thiếu tình huynh đệ của họ.

Trong giới trí thức, nhân bản và chính trị cũng thế, chung quanh ta còn có những người liêm khiết, chính trực, thà chịu nghèo chứ không để tán tận lương tâm. Ông thân sinh của sư anh Pháp Hội là một cán bộ rất liêm khiết và chính trực; bác ấy đã chịu sống nghèo trong suốt cả một đời để nuôi các đức liêm khiết và chính trực của mình cho nên ngày nay ta mới có một sư anh Pháp Hội. Và có bao nhiêu người khác nữa, nhờ có niềm tin nơi truyền thống đạo nghĩa của đất nước mà vẫn giữ được nếp sống liêm chính của mình.

Những hạt giống Phật pháp, những hạt giống của Pháp môn gieo trồng trong những năm qua đã bắt đầu nẩy mầm. Tiếp xúc với Pháp môn, tiếp xúc với Tăng thân, những hạt giống tốt của lý tưởng và của hạnh phúc có sẵn nơi người trẻ đã bắt đầu mọc lên tươi tốt. Người trẻ xuất gia cũng như người trẻ tại gia thấy được một con đường tâm linh đẹp có thể mở ra một chân trời mới của tình huynh đệ và của lý tưởng độ đời. Những Cheri Maples của Việt Nam cũng đã bắt đầu xuất hiện. Có những sĩ quan công an và cảnh sát trẻ đã tới với chúng ta để thực tập và bắt đầu được chuyển hóa. Các con đã có dịp làm quen với các vị ấy.  Một vị đã tâm sự: khi tâm ta bất an thì ta không có khả năng đem lại sự an bình trong xã hội, và vì những bất an trong tâm ấy mà ta có thể làm cho tình trạng xấu thêm. Đó cũng là cái chân lý mà chính Cheri Maples đã tìm ra. Vụ việc đau thương của Bát Nhã là chứng tích của sự bất an trong lòng người. Vì lo sợ, vì oán trách, vì nhận thức sai lầm mà những người có trách vụ an ninh đã tạo ra những bất an trong xã hội và làm xấu đi hình ảnh của đất nước trên vũ đài quốc tế. Một trong những vị Cheri Maples của Việt Nam ấy cũng đã ngỏ ý muốn xin được xuất gia.

Cách đây chỉ mới mấy hôm, một vị tập sự nữ ở xóm Mây Đầu Núi tên là T.M.T. đã viết một lá thư làm cho chúng ta rúng động và đã cho ta thấy được rằng ngọn lửa thiêng của lý tưởng và của tình huynh đệ có thể được dễ dàng khơi cháy lại nơi tâm hồn những người trẻ.  Vị tập sự nữ ký tên T.M.T. trong lá thư ấy (Đằng Sau Ánh Hào Quang) đã chứng tỏ có khả năng buông bỏ mọi ràng buộc, giàu sang và quyền thế đang có để được xuất gia, sống đời đạm bạc mà hạnh phúc với lý tưởng độ đời và giúp người.  Cả đại gia đình của T.M.T. đều chống đối việc này và ai cũng cho T.M.T. là điên. Các con nghĩ sao?  Nếu T.M.T. có điên thì cái điên ấy cũng không khác gì cái điên của thái tử Sĩ Đạt Đa khi bỏ ngai vàng mà đi xuất gia. Sĩ Đạt Đa là ai? Sĩ Đạt Đa là một người trẻ có khả năng buông bỏ tất cả để tìm cầu một lý tưởng đẹp.  Sĩ Đạt Đa có ngọn lửa cách mạng trong lòng nên mới có đủ năng lượng dứt bỏ tất cả mọi đặc ân và mọi tiện nghi. Sĩ Đạt Đa là ai? Sĩ Đạt Đa chính là T.M.T. của ngày hôm nay đó. Chúng ta là những người trẻ đi tìm một lý tưởng đẹp. Chúng ta là sự tiếp nối của Sĩ Đạt Đa. Sĩ Đạt Đa đang có mặt trên quê hương cho nên ta có quyền hy vọng. Những thanh niên đi xuất gia có tâm ban đầu rất mạnh, cũng như những thanh niên đi làm cách mạng có tâm ban đầu rất mạnh.  Phải giữ cho được tâm ban đầu thì ta mới thành công. Có tâm ban đầu thì ta không bị ràng buộc bởi lợi danh. Còn tâm ban đầu thì còn tự do và giải thoát. Phương pháp của đức Thế Tôn là tưới tẩm những hạt giống ân nghĩa, từ bi, trí tuệ và dũng cảm nơi ta. Những đau thương của Bát Nhã đã đánh động được trái tim của bao nhiêu người trong nước và ngoài nước và giúp cho ngọn lửa lý tưởng và chất liệu can trường nơi họ sống dậy. Nhà thơ Hoàng Hưng đã viết trong bài Bốn Trăm Quả Chuông Bát Nhã rằng Lá Thư Thỉnh Nguyện mà ông khởi xướng để kêu gọi sự che chở cho Tăng thân Bát Nhã đã có được chữ ký của những tên tuổi lớn trong giới khoa học và văn nghệ, những người “chưa bao giờ từng tham dự vào bất cứ một cuộc bày tỏ tập thể nào trước chánh quyền.” Như vậy có nghĩa là hạt giống của từ bi và dũng cảm nơi các vị ấy đã được tưới tẩm, do đó các vị ấy đã không ngần ngại ký tên vào Lá Thư Thỉnh Nguyện. Có một vị đã tâm sự: “Trước đây tôi rất sợ dính vào những chuyện như thế này, nhưng lần này tôi thấy mình không lên tiếng thì hèn quá, sẽ tự mình không chịu nổi chính mình.” Và cố nhiên là ký xong thì vị ấy có ngay được cái hạnh phúc của một người biết rằng mình đang có chất liệu liêm trực trong trái tim. Công phu thực tập của các con Bát Nhã của thầy đã tưới tẩm được hạt giống tốt trong lòng người, Phật tử cũng như không Phật tử, trong nước cũng như ngoài nước, người đồng bào cũng như người nước ngoài. Đó là những hạt giống của niềm tin, hạt giống của thương yêu và của sự  quả cảm. Cách hành xử bất bạo động và không hận thù của các con đã khơi dậy niềm tin nơi một hướng đi nhân bản thuần hậu của nhân loại trong tương lai, đã đánh động lòng yêu thương nơi mọi người và làm sống dậy nơi mọi người đức vô úy sẵn có của họ. Các vị tôn túc đã lên tiếng.  Học tăng đã lên tiếng. Sinh viên đã lên tiếng. Giới nhân sĩ và trí thức đã lên tiếng. Giới tiểu thương đã lên tiếng. Giới cán bộ và đảng viên đã lên tiếng. Bằng hữu của các tôn giáo bạn đã lên tiếng. Thế giới đã lên tiếng. Bát Nhã như một đóa sen ngát hương đã làm sống dậy biết bao nhiêu tình cảm đẹp đẽ của con người. Pháp môn “tưới tẩm hạt giống tốt” của chúng ta có thể đem lại hoa trái thương yêu và hạnh phúc rất mau chóng.

Này các con, nếu nhìn cho kỹ thì các con sẽ thấy các vị có trách nhiệm giải thể Tăng thân Bát Nhã đã làm ngược lại với pháp môn.  Họ chỉ tưới tẩm những hạt giống xấu. Họ đe dọa và nói dối để tưới tẩm hạt giống sợ hãi nơi chúng ta. Họ nói Tăng thân Bát Nhã làm chính trị. Họ nói sự có mặt của Tăng thân Bát Nhã là một đe dọa cho nền an ninh quốc gia. Họ sơn phết để gán cho Bát Nhã danh từ phản động. Một vị thiếu tướng của Tổng Cục Xây Dựng Lực Lượng Công An Nhân Dân đã được gửi vào để “đối phó” với Bát Nhã như là một tập đoàn phản động. Trong khi đó thì các con là những người tu tập trong trắng, không tha thiết gì đến chính sự, rất mong muốn được tu tập an lành dưới sự che chở của Giáo Hội và của luật pháp đất nước.  Họ thuê những người nghèo khổ, thất học, không biết gì về Phật pháp, không phải là Phật tử đến để thay họ đánh phá và trục xuất các con ra khỏi tu viện; họ lừa dối những người này, nói rằng các con là những người đi chiếm chùa, các con là những người phản động, đi cõng rắn về cắn gà nhà, rằng các con là một mối đe dọa cho an ninh quốc gia, nói tóm lại là họ tưới tẩm những hạt giống hiểu lầm, nghi kỵ, hận thù nơi người đồng bào khác. Khi những người này mất hết bình an trong tâm thì họ mới có khả năng tới chửi rủa, đập phá và xâm phạm đến tài sản và nhân phẩm của những người đồng bào của họ. Làm gì có thứ Phật tử đốt kinh, đốt tượng, liệng phân thối vào các vị tôn đức, xé ca sa của các vị xuất gia, lôi xềnh xệch các vị ấy như những bao rác và xâm phạm vào chỗ kín của những vị này?  Thầy thấy cách hành động này rất nguy hiểm và những viên chức nào sử dụng những người như thế sau này cũng sẽ trở thành nạn nhân của chính những người này.

Nhìn lại cho kỹ ta thấy rằng không những Tăng thân Bát Nhã là nạn nhân của một chính sách sai lầm mà chính quyền và nhân dân địa phương cũng là nạn nhân của chính sách ấy.  Các chú công an cũng như những viên chức khác của chính quyền đã nhận được lệnh triệt tiêu Bát Nhã và đã phải làm tất cả những gì có thể làm để hoàn thành nhiệm vụ này, dù những điều mình làm có trái với luân thường đạo lý. Người ta nói vì Đảng, vì chế độ, vì an ninh quốc gia, ta phải buộc lòng làm những việc ấy. Ta cố trấn áp ta để tin rằng đó là việc làm vì nước vì dân.  Nhưng trong chiều sâu tâm thức ta, ta biết rằng đó là những việc làm thất đức, trái với luân thường đạo lý. Lương tâm ta cắn rứt. Những người trong gia đình ta nhìn ta bằng con mắt nghi ngờ, oán trách. Đồng bào ta nhìn ta với con mắt khinh khi, chê trách và ghét bỏ. Cái khổ của một viên chức chính quyền lương không đủ sống, đó là một cái khổ tương đối nhỏ. Cái khổ bị lương tâm cắn rứt, bị gia đình và đồng bào nhìn bằng con mắt oán trách mới là cái khổ thật sự. Mất đi sự bình an, mất đi sự tự trọng, cái ấy mới là cái khổ to lớn. Đó là một tổn thất lớn. Ra trận, thì phải có tổn thất. Đó là số người chết, số người bị thương và số người mất tích. Trận đánh nào cũng phải có tổn thất. Trong những trận đánh như Bát Nhã, tuy không có ai chết nhưng tổn thất rất trầm trọng.Đó là đứng về phương diện nhân phẩm, lương tri, lý tưởng, tình đồng bào và thể diện của đất nước trên trường quốc tế. Chúng ta đã không có công mà còn có tội với đất nước khi bị dồn vào thế phải đánh những trận thất đức như thế. Cho nên tất cả chúng ta, tu sinh, viên chức chính quyền hay công an đều đã trở thành nạn nhân.

Một chính sách ích nước lợi dân luôn luôn được dựa trên nền tảng của một cái thấy chính xác, trong đạo Bụt gọi là chánh kiến (right view). Nếu tâm ta bị tham dục, sợ hãi và ghi ngờ che lấp thì ta không có được chánh kiến, và cái thấy của ta bị méo mó, sai với sự thực. Cái thấy này gọi là tà kiến (wrong view). Thấy Bát Nhã là một đe dọa cho một nền an ninh quốc gia là một cái thấy sai lạc rất lớn. Một chuyện buồn cười như thế mà xảy ra được, điều này thật là khó hiểu. Vì cái tà kiến đó cho nên mới có loại tư duy sai trái: cần phải triệt tiêu Bát Nhã, bằng mọi cách. Đó là tà tư duy (wrong thinking). Tư duy sai trái thì ngôn ngữ và hành động cũng sẽ sai trái. Nói rằng Bát Nhã là một tranh chấp nội bộ, nói rằng chính quyền và công an không can thiệp vào Bát Nhã, nói rằng Bát Nhã làm chính trị, v.v. tất cả những lời nói ấy đều không phải là chánh ngữ mà là tà ngữ. Tiếp theo là loại hành động được gọi là hành động sai trái, tức là tà nghiệp (wrong action).  Đập phá, trục xuất, bắt bớ, xâm phạm vào nhân phẩm của người dân, đem lại khổ đau cho cộng đồng mà mình muốn phục vụ và đem lại khổ đau cho chính bản thân mình. Cái gốc của khổ đau xét cho cùng là ở cái thấy sai lạc. Vì cái thấy sai lạc ấy nên mới có những chính sách sai lầm có hại cho dân và cho nước.

Để vực dậy niềm tin và sức sống của cộng đồng Phật giáo, các vị chân tu phải tìm cách ngồi lại với nhau, nhất là các vị không còn giữ trách vụ trong tổ chức Phật giáo. Vì sợ hãi nghi ngờ cho nên người ta mới có chủ ý kiểm soát tổ chức Phật giáo. Mà cách thức kiểm soát lâu nay thường được sử dụng là đưa người của người ta vào để có thể giật dây. Một chức sắc Phật giáo mà có tỳ vết thì mới giật dây được. Nếu vị ấy liêm trực thì mình không thể giật dây. Đưa vào những người như thế trong tổ chức Phật giáo là làm hư tổ chức. Có những văn kiện của tổ chức đưa ra mà ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ đích thực của truyền thống Phật giáo. Ai cũng biết là các văn bản ấy đã được soạn thảo sẵn để viên chức Phật giáo ký tên. Như thế thì tổ chức Phật giáo làm sao thực sự đóng được vai trò lãnh đạo? Nếu một tổ chức tôn giáo mà bị kiểm soát đến mức tê liệt không dám lên tiếng để bảo vệ cho con em của chính mình thì tổ chức ấy không còn có đủ uy tín để lãnh đạo. Cho nên thầy nghĩ là các vị chân tu phải ngồi lại với nhau, phải lên tiếng để hướng dẫn cho tuổi trẻ Phật tử và chuyền năng lượng cần có cho tổ chức Phật giáo để tổ chức này có cơ duyên thức dậy và đi tới. Điều này cũng đúng với một tổ chức cách mạng. Các vị cách mạng lão thành liêm khiết phải ngồi lại với nhau và phải cùng lên tiếng. Lên tiếng để chỉ dẫn cho tuổi trẻ, để khơi dậy niềm tin nơi họ. Để giúp làm khơi dậy ngọn lửa thiêng của cách mạng đang thoi thóp trong tổ chức. Phải làm sao cho những người tới với tổ chức cách mạng là những người có lý tưởng, có bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, có khả năng buông bỏ quyền hành và danh vọng. Nếu không tổ chức sẽ chỉ quy tụ được những phần tử cơ hội chủ nghĩa, gia nhập vào tổ chức chỉ với mục đích là tìm cầu địa vị và quyền hành. Một tổ chức như thế không còn là một tổ chức cách mạng nữa, nhất là khi những bậc đàn anh trong tổ chức là những kẻ kẹt vào địa vị và quyền hành, sống một cuộc đời quá sung túc và xa hoa, có các bọc tiền khổng lồ chôn dấu tại các ngân hàng nước ngoài. Không có ngọn lửa cách mạng trong lòng, làm sao chúng ta gọi nhau là đồng chí mà không ngượng miệng?

Họ muốn tiêu diệt Bát Nhã nên mới đặt điều cho rằng các vị xuất gia ở Bát Nhã là những người làm chính trị, chống đối chế độ, chống đối giáo hội, và Bát Nhã phải được đối trị như một tổ chức phản động. Nước lã mà người ta muốn vã nên hồ. Trong lá thư của tập sự nữ T.M.T. có câu: muốn giết một con chó thì phải nói đó là một con chó điên. Đó là cái luật ngàn đời, chỉ có kẻ ngu mới không hiểu điều đó.  Tại sao con lại đi theo cái dòng Bát Nhã đó? Đó là con đường đi vào cửa tử. Người ta đã muốn triệt tiêu thì nó sẽ bị triệt tiêu thôi, dù sớm muộn nó cũng bị triệt tiêu.

Nhưng các con của thầy chắc cũng đã thấy rằng trường hợp Bát Nhã đã trở thành một trường hợp đặc biệt. Nhờ cách hành xử của các con, nhờ những dòng nước mắt trong veo không hận thù không bạo động của các con mà thiên hạ biết rằng đây không phải là một con chó điên, một con chó dại, và người ta có thể sẽ không bao giờ giết được con chó Bát Nhã. Hàng xóm của chúng ta, trong nước và ngoài nước, đã thấy được rằng đây là một con chó khôn, ta cần bảo tồn tính mạng cho nó, bởi lẽ một con chó khôn thì có khả năng giữ được cửa được nhà.

Các con nhớ thở thật nhẹ cho thầy và đi thiền hành thảnh thơi cho thầy. Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng thực tập xử lý ngày hôm nay cho thật hết lòng. Chúng ta cần tập sống cho thật, tập nhìn tất cả với con mắt từ bi. Ngày hôm nay là chất liệu để làm nên ngày mai. Vì vậy ta phải sống cho đẹp ngày hôm nay. Thầy có niềm tin lớn nơi các con. Năng lượng lành của Tam Bảo đang che chở cho chúng ta. Các con hãy chuyên cần thực tập bài thi kệ Quay Về Nương Tựa. Không nên đi tìm một nơi nương tựa khác ngoài hải đảo tự thân.  Đó là lời đức Thế Tôn căn dặn.

Về lại Mai Thôn, thầy sẽ có dịp viết tiếp cho các con.

Thầy của các con,
Nhất Hạnh

Hạt bồ đề bất diệt

Phương Khê Nội Viện
Những ngày cuối năm 2009

Thân gửi các con Bát Nhã của Thầy,

Thầy biết rằng trong giờ phút này các con phải đi tản mác nhiều nơi, không còn được ở chung tu tập như một Tăng thân nữa, nhưng Thầy tin rằng lá thư này của Thầy vẫn tới được với tất cả các con.

Ngày Chủ Nhật 20-12-2009 vừa rồi, đại chúng bốn chùa Làng Mai đã tập họp tại Xóm Thượng để làm ngày chánh niệm. Đã sáu tháng nay, chùa Pháp Vân Xóm Thượng vì không có thiền đường nên đã phải tổ chức các khóa tu và các ngày sinh hoạt chánh niệm ở ngoài trời. Hôm Chủ Nhật vừa qua, thiền đường Nước Tĩnh của Xóm Thượng đã được hoàn tất, cho nên đây là lần đầu tiên đại chúng được sử dụng thiền đường trở lại. Thiền đường mới rộng và đẹp lắm, rộng và đẹp hơn thiền đường cũ nhiều.

Các thầy, các sư chú và các cư sĩ ở Xóm Thượng đã cùng nhau tự thiết kế và xây dựng nên thiền đường này, đã làm việc như một Tăng thân, và trong suốt sáu tháng trời đã có cơ hội nuôi dưỡng và làm lớn lên tình huynh đệ. Nhìn vào thiền đường ai cũng thấy được Tăng thân và tình huynh đệ ấy. Mỗi viên gạch, mỗi tấm ngói, mỗi khung cửa đều mang dấu tích của những tiếng cười, những ánh mắt, những bàn tay và những giọt mồ hôi của mỗi người trong đại chúng. Các thầy các sư chú của chùa Sơn Hạ cũng như các sư cô của các chùa Từ Nghiêm Xóm Mới và Cam Lộ Xóm Hạ cũng thỉnh thoảng lên góp công chấp tác một ngày. Thiền đường rất đẹp, nhưng nếu nhìn thiền đường mà chưa thấy được tình huynh đệ của Tăng thân thì vẫn chưa thấy được cái đẹp đích thực của thiền đường.

Chủ đề của khóa tu mùa An Cư Kiết Đông năm nay là Nghệ Thuật Hạnh Phúc, và đại chúng đã học xong được kinh Cát Tường, Kinh Mâu Ni và bài kệ truyền thừa của Pháp Phái Liễu Quán. Đại chúng thực tập câu linh chú thứ năm rất chuyên cần và nhận diện được rất nhiều những giây phút hạnh phúc được sống và được thực tập bên nhau. Những ngày xuất sĩ tổ chức hàng tuần tại Nội Viện Phương Khê đem tới rất nhiều nuôi dưỡng và hạnh phúc cho đại chúng.

Câu linh chú thứ năm nếu ta nhớ thực tập sẽ có hiệu lực tức thời, ai cũng công nhận như thế. Chỉ cần trở về với giây phút hiện tại, thấy được rằng mình (tuy vậy mà) đang có rất nhiều may mắn (hơn nhiều người khác), là mình có thể mỉm cười và đọc lên câu: “Giây phút này là một giây phút hạnh phúc”, để cho những người đang có mặt cũng trở về được với giây phút hiện tại để được nuôi dưỡng bởi hạnh phúc như mình.

Thầy rất mong là dù ở đâu, các con của thầy cũng theo dõi được các bài pháp thoại của khóa an cư kiết đông và cùng thực tập theo những chỉ dẫn được đưa ra trong suốt khóa tu. Các con của thầy cần được nuôi dưỡng bằng pháp lạc và sự thực tập mới có thể đi qua được giai đoạn khó khăn này của Tăng thân Bát Nhã. Thầy có niềm tin lớn nơi các con. Các con đã lớn lên rất mau chóng nhờ những biến cố và khó khăn xảy ra cho chúng ta trong hơn một năm qua, và thầy rất hài lòng với cách thức hành xử từ hòa bất bạo động của các con, từ Bát Nhã tới Phước Huệ. Lịch sử đã ghi nhận rằng với cách hành xử từ hòa ấy các con đã gieo trồng và tưới tẩm được hạt giống niềm tin, hiểu biết và tình thương trong trái tim của rất nhiều người, trong số ấy có những người đã thuê hoặc đã được thuê tới quấy nhiễu và đàn áp chúng ta. Đó là sự thành công lớn nhất mà chúng ta đã đạt được, lớn lao hơn bất cứ công trình xây dựng chùa tháp nguy nga nào. Ngày 18 tháng 12 vừa qua, thầy Trung Hải, sư cô Giác Nghiêm và một số các thầy và các sư cô khác đã đại diện Tăng thân Bát Nhã đến điện Elysées trao một lá thư gửi cho tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, xin cho 400 vị của Tăng thân Bát Nhã được tạm thời nương náu ở Pháp Quốc để tiếp tục thực tập như một Tăng thân, cho đến khi nhà nước Việt Nam mở lòng cho phép Tăng thân Bát Nhã cũng được làm như thế ở ngay trên quê hương của mình. Thực ra, theo pháp luật hiện thời, chúng ta có quyền sống và tu tập bất cứ ở nơi nào trên quê hương mình, nhưng không biết vì sao chúng ta lại không được huởng cái quyền ấy khi mà chúng ta không vi phạm bất cứ một pháp luật nào, khi mà chúng ta chỉ muốn tu tập và hướng dẫn tu tập trong khuôn khổ của pháp luật và của truyền thống Phật giáo. Dư luận trong nước và trên thế giới, trong giới Phật tử cũng như trong giới không Phật tử, đang yểm trợ cho chúng ta một cách rõ rệt, vì vậy Thầy tin chắc là các con của Thầy sẽ không phải gánh chịu những khó khăn này dài lâu.

Có nhiều thân hữu đã hiểu được cái thiết yếu phải thực tập với một Tăng thân, cho nên đã không có hạnh phúc khi được tin là chúng ta phải phát tán đi mỗi người một ngả, mạnh ai người ấy thực tập. Truyền thống Phật giáo nói chung và truyền thống Làng Mai nói riêng không chấp nhận được sự bức ép đó. Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại. Đó là câu nói tự ngàn xưa: thực tập mà không có Tăng thân thì sự thực tập sẽ tàn lụi, cũng như chúa sơn lâm khi lìa bỏ rừng núi xuống tới đồng bằng thì sẽ bị con người giết chết và lột da. Truyền thống của chúng ta là phải đi như một dòng sông, không thể nào đi như một giọt nước. Giọt nước đi một mình thì trên đường về biển cả sẽ bị bốc hơi nửa chừng và không bao giờ tới biển. Trong chúng ta ai lại không thuộc bài hát “Xin nguyện làm dòng sông, không làm hạt nước nhỏ” của sư chị Hoa Nghiêm? Bởi vậy cho nên Tăng thân bị giải tán là tai nạn lớn nhất cho người tu. Người tu phải luôn luôn quy y Tăng bảo. Tăng là đoàn thể những người tu học, xây dựng Tăng đoàn có phúc đức bao nhiêu thì phá hoại Tăng đoàn cũng bị quả báo bấy nhiêu. Thầy rất sợ cho những người có ác ý muốn phá hòa hợp tăng. Đây là tội lớn nhất trong các tội. Nếu cho phép Tăng đoàn được cư trú tại Pháp, tổng thống Pháp sẽ có phước đức nhiều lắm, có phải không các con? Dù cho là cư trú tạm thời.

Mỗi người trong chúng ta đều có ba thân: Phật thân, Pháp thân và Tăng thân. Phật thân trong ta còn non yếu, phải được nuôi dưỡng bằng sự thực tập hằng ngày. Đó là hạt giống của trí tuệ và từ bi trong ta, đó là Phật tính. Pháp thân là công phu thực tập của ta, có công năng nuôi dưỡng và làm lớn Phật thân. Còn Tăng thân là đoàn thể mà ta đang nương tựa, sống chung để tu học. Đoàn thể của ta là thân thể của ta, đoàn thể tan rã thì Tăng thân không còn. Tăng thân chính là môi trường bảo hộ, nuôi dưỡng và soi sáng cho ta. Ta phải nương vào Tăng thân, phải xem Tăng thân là thân của chính ta, những gì đang xảy ra cho Tăng thân là đang xảy ra cho chính ta. Vì vậy cho nên người tu nguyện suốt đời nương tựa Tăng thân, không bao giờ ly khai Tăng thân, cũng như chúa sơn lâm không bao giờ rời bỏ núi rừng thâm u của mình. Mất Tăng thân là một tai họa lớn, vì vậy trong những năm tháng vừa qua, các con của thầy đã hết lòng hành xử bất bạo động để bảo hộ cho Tăng thân, để Tăng thân không bị tan rã. Những người đang có quyền bính trong tay cần phải hiểu biết điều này, và vì người ta chưa hiểu thì mình phải tìm cách giúp cho người ta hiểu. Đối kháng bất bạo động là biện pháp mà đức Thế Tôn đã sử dụng khi Tăng đoàn núi Thứu bị kỳ thị và đàn áp bởi vua A Xà Thế. Vua A Xà Thế đã cố tình chia rẽ Tăng đoàn, phá hòa hợp tăng, và những năm sau đó bị bệnh tâm thần, cuối cùng phải đến với đức Thế Tôn để cầu xin chữa trị. Đọc sách Đường Xưa Mây Trắng các con đã được biết chuyện này.

Mahatma Gandhi cũng đã từng sử dụng phương pháp đối kháng bất bạo động để tranh đấu cho chủ quyền độc lập của Ấn Độ. Ngài nói: “Đối kháng bất bạo động là một sức mạnh tâm linh,  một sức mạnh không có gì so sánh nổi. Sức mạnh của nó vượt lên trên cả sức mạnh của quân đội và vũ khí. Đó không phải là khí giới của kẻ yếu đâu.” (Passive resistance, that is, soul force, is matchless. It is superior to the force of arms. Not the weapon of the weak.)
Câu nói bất hủ đó của thánh Gandhi được nói ra hôm 29-04-1933 và ngài phát biểu tiếp rằng muốn thành công trong sự nghiệp phụng sự quê hương, người thực tập hành xử bất bạo động phải quyết tâm giữ giới, vì chính giới luật giúp cho ta làm chủ được thân tâm mình, và càng thực tập giới luật chừng nào thì ta càng thấy rõ được diện mục ta chừng đó. “To observe morality is to attain mastery over our mind and our passion. So doing, we know ourselves.”

Và thánh Gandhi đã chia sẻ kinh nghiệm thực tập và tranh đấu của ngài một cách cụ thể. Ngài nói: “Sau một thời gian có nhiều kinh nghiệm tranh đấu, tôi thấy rất rõ ràng rằng những ai muốn tranh đấu cho quê hương bằng phương pháp bất bạo động đều phải nên giữ trai giới cho vững chãi, sống phạm hạnh, buông bỏ dục tình một cách tuyệt đối, sống đơn giản, đi theo sự thật và nuôi dưỡng đức vô úy, không sợ hãi.” (After a great deal of experience, it seems to me that those who want to become passive resisters for the service of the country have to observe perfect chastity, adopt poverty, follow truth and cultivate fearlessness.)

Suốt trong thời gian tranh đấu, thánh Gandhi đã sống theo tinh thần này, đã ăn chay nằm đất, sống phạm hạnh, không gần gũi nữ nhân, nếp sống không khác gì với nếp sống của một nhà tu. Đội ngũ trong phong trào tranh đấu ấy đã có niềm tin rất lớn nơi con đường họ đi và cũng đã thực tập sống theo nếp sống khổ hạnh và chay tịnh ấy. Phong trào tranh đấu được gọi là Satyagraha, nghĩa là nắm lấy sự thực, bám vào sự thực. Giữ tâm hồn cho trong sáng, không sử dụng bất cứ một biện pháp nào trái với đạo lý, luôn luôn tôn trọng sự thực. Đối phương có thể lừa gạt, dối trá, tráo trở, đê tiện trong những phương cách của họ, nhưng bên phía những người tranh đấu bất bạo động, đạo đức và sự thật phải là chất liệu, là nền tảng cho tất cả mọi hành xử và hành động. Bất bạo động không phải chỉ là hình thức bên ngoài mà là nội dung chất liệu của lý tưởng bên trong. Phải nuôi dưỡng từ bi, không hận thù, và có khả năng nhận chịu những bạo động mà không đánh trả, đúng với bốn cách thức xử sự mà Bụt căn dặn các thầy thực tập, và mỗi nửa tháng các vị khất sĩ phải tụng đọc một lần:

Con nguyện suốt đời, khi bị người ta đùa diễu và khiêu khích thì không đùa diễu và khiêu khích trở lại.
Con nguyện suốt đời, khi bị người ta nhiếc mắng, nhục mạ thì không nhiếc mắng, nhục mạ  trở lại.
Con nguyện suốt đời, khi bị người ta đánh đập thì không đánh đập trở lại.
Con nguyện suốt đời, khi bị người ta giận thì không giận trở lại.

Bốn cách xử sự này, các con của Thầy đã làm được trong những ngày bị côn đồ tấn công, và vì vậy cho nên các con đã có cơ hội giúp cho không biết bao nhiêu người cảm động và chuyển hóa. Các thầy Pháp Hội, Pháp Sỹ và Pháp Tụ đã bị lôi kéo, bóp cổ, liệng lên xe như những thùng rác, nghẹt thở, mặt bầm tím, cổ và vai chảy máu. Thầy Pháp Vinh bị đạp lăn lông lốc xuống lầu một, may mà thầy chưa bị gảy chân. Thầy Đồng Tịnh và em Bình Minh (bây giờ là sư chú trong cây Sen Hồng) bị đánh đến ngất xỉu mà không hề chống trả. Những côn đồ đến đánh phá bị mảnh kính làm đứt tay chảy máu đã  được các sư cô băng bó và chăm sóc. Tất cả những hình ảnh ấy mà nhiều cái đã được ghi lại trong phim ảnh, đã làm chấn động tâm can của bao nhiêu người.

Muốn có dân chủ và nhân quyền người dân phải biết tranh đấu, và cuộc tranh đấu có thể phải kéo dài trong nhiều thập niên. Chúng ta là những người tu, chúng ta không có mặt trong những phong trào tranh đấu chính trị mà chỉ tranh đấu trong phạm vi văn hóa và đạo đức. Ngày xưa Siddhartha cũng đã từ khước con đường chính trị để đi vào con đường tâm linh đạo đức. Và Siddhartha cũng đã gặp khó khăn. Chúng ta tu tập để vực dậy một nền văn hóa lành mạnh, một nếp sống có phẩm chất đạo đức và từ bi, và cách tranh đấu hay nhất của chúng ta là tu học và tổ chức tu học. Xã hội hiện giờ đầy dẫy tệ nạn: tham nhũng, lạm quyền, ma túy, bạo động, đĩ điếm, gia đình đổ vỡ, tự tử, thác loạn. Chúng ta tu tập và tổ chức cho người khác tu tập để đối phó, ngăn ngừa và gột sạch những tệ nạn ấy, và đó là cách thức yêu nước yêu dân của chúng ta. Chúng ta là công dân của một nước độc lập, có hiến pháp, có luật pháp, chúng ta phải có quyền làm việc ấy. Không ai có thể tước đoạt quyền công dân ấy của chúng ta.

Trong chuyến về quê đầu tiên của thầy năm 2005, thấy những cổng chào đề các dòng chữ “thôn văn hóa”, “ấp văn hóa”, “khu phố văn hóa” v.v. Thầy đã mừng thầm, nghĩ rằng đây là một chính sách thông minh và đúng lúc của nhà nước. Hỏi thăm, Thầy được biết là chính sách thành lập những thôn những ấp văn hóa ấy là để đối phó với các tệ nạn xã hội đang bắt đầu lan tràn như ma túy, đĩ điếm, cờ bạc, bạo hành v.v. Nhưng sau đó chừng hơn một tháng thầy đã được báo cáo rằng nhà nước đã không thành công gì mấy với các ấp văn hóa, các thôn văn hóa kia. Chỉ có danh từ mà không có sự thật. Những biện pháp kiểm soát và trừng phạt không đủ để bài trừ tệ nạn xã hội, nhất là khi những người đứng ra kiểm soát và trừng phạt cũng đang vướng vào các tệ nạn xã hội như tham nhũng, lạm quyền và dối trá. Lúc đó, Thầy thấy rất rõ ràng là chỉ có sự giáo huấn và hành trì của đạo đức thật sự mới có thể đối phó được với tình trạng. Các con đã biết là gia đình nào có hành trì năm giới là gia đình đó có hòa thuận, có hạnh phúc. Mà không ai có thể ép buộc mình hành trì năm giới nếu mình không có đức tin nơi giáo pháp và giới pháp. Cho nên trong khóa tu dành cho giới xuất gia tại tổ đình Từ Hiếu (từ ngày 07-03-2005 đến ngày 12-03-2005) thầy đã đưa ra mô thức một thôn xóm trong đó ngôi chùa đóng vai trò lãnh đạo tinh thần đạo đức; các thầy hoặc các sư cô trong ngôi chùa đó hành trì giới luật và uy nghi vững chãi, tổ chức những khóa tu cho người lớn và cho thanh thiếu niên, gây niềm tin nơi một con đường đạo đức tâm linh và khuyến khích sự tiếp nhận và hành trì năm giới, mỗi nửa tháng đến chùa tụng giới một lần và dự pháp đàm để kiểm điểm về công phu hành trì của mình. Đây không phải là một cái gì mới mẻ mà chỉ là công trình hiện đại hóa một truyền thống thực tập ngày xưa, và những người hướng dẫn thực tập phải có tư cách và khả năng hướng dẫn cho tuổi trẻ cũng như cho mọi giới kể cả giới trí thức, giới thương gia và chính trị. Mà muốn được như thế thì phải bắt đầu đào tạo một thế hệ người xuất gia mới. Đó là nội dung của khóa tu tại tổ đình Từ Hiếu có gần cả ngàn vị xuất gia trẻ tham dự và những bài pháp thoại này như các con đã biết đã được in lại thành sách dưới nhan đề Thông Điệp Tình Huynh Đệ. Trong óc Thầy, tu viện Bát Nhã lúc ấy đã được hình thành. Tu viện Bát Nhã là mẫu mực của một trong những trung tâm để đào tạo những người xuất gia mới như thế.

Giới luật và uy nghi không phải là những gì có tác dụng gò bó và làm mất bớt quyền tự do của con người. Giới luật và uy nghi, trái lại, có công năng bảo vệ tự do. Một người hành trì giới không uống rượu và không sử dụng ma túy có tự do gấp ngàn lần so với một người không trì giới ấy, vì người này khi bị vướng vào say sưa nghiện ngập thì không còn tự do nữa và sẽ sẵn sàng phạm vào các giới khác như nói dối, ăn cắp, giết người v.v. để có tiền mua ma túy.

Không giữ giới thì một gia đình ba bốn người cũng sinh ra lục đục, làm khổ cho nhau, ai cũng biết điều ấy. Có hành trì giới luật và uy nghi thì dù là một cộng đồng 400 người ở chung với nhau, chúng ta cũng vẫn sống được trong hòa thuận, tin yêu và hạnh phúc. Tăng thân Bát Nhã đã chứng thực được một cách hùng hồn như thế. Họ vu khống chúng ta, họ nói chúng ta không giữ giới, ăn nằm với nhau, để họ có cớ triệt hạ chúng ta. Thậm chí họ đem tài liệu khiêu dâm tới để vu cáo chúng ta. Đó là một trong những lối hành xử hèn hạ nhất. Ai cũng biết rằng không hành trì giới luật và uy nghi thì không thể nào tin nhau, sống với nhau, đoàn kết với nhau và thương yêu nhau như người ruột thịt như thế được.

Ngày xưa khi Bụt còn tại thế, một nhóm người ngoại đạo cũng đã từng vu oan cho giáo đoàn khất sĩ của Bụt như vậy. Trong khi các thầy đi vào thành Xá Vệ khất thực họ đã đem xác một người kỹ nữ chôn dấu vào đất tu viện Kỳ Viên và đi báo cảnh sát. Rồi họ tuyên truyền rằng các thầy ở tu viện không giữ giới. Vua Ba Tư Nặc và dân chúng trong thành Xá Vệ rất hoang mang. Nhiều thầy không dám đi khất thực. Bụt dạy các thầy: “Các vị đừng lo, sự thực sẽ được bung ra trong vòng mười hôm. Các vị hãy cứ đi vào thành khất thực như không có chuyện gì xảy ra.”

Hồi đó, thương gia Cấp Cô Độc đang có mặt. Ông đã nhờ thám tử đi dò hỏi và tìm ra được sự thật và cuối cùng cảnh sát đã bắt được những người chủ mưu. Họ khai rằng họ làm như thế bởi vì họ thấy giáo đoàn của Bụt nổi tiếng quá, dân chúng đi theo đông đảo quá và họ sợ sẽ mất chỗ đứng trong quần chúng. Vua Ba Tư Nặc, sau khi có được bằng chứng, đã trừng trị những người vu cáo một cách thích đáng.

Vụ Bát Nhã rắc rối hơn vụ Kỳ Viên, bởi vì trong vụ Bát Nhã và Phước Huệ, bọn côn đồ được thuê mướn và những nhà chức trách thuê mướn họ đã làm việc chung với nhau. Họ là hai mà họ cũng là một, trong khi vua Ba Tư Nặc là một người rất tôn quý đức Thế Tôn. Chúng ta cũng đã có những Cấp Cô Độc vô danh đã từng giúp ta làm bung ra sự thực, nhưng chúng ta hiện không có một vua Ba Tư Nặc để trừng phạt bọn lạm quyền và gian dối. Nhưng chúng ta cũng còn may mắn, vì quần chúng trong nước và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc với sự thực, và dư luận đã đứng về phía chúng ta để lên án những người vô đạo. Ba Tư Nặc ngày nay là dư luận quốc nội và quốc tế. Họ không thể nào che giấu hành động thấp hèn của họ được. Họ thuê côn đồ tới giả danh Phật tử để giăng biểu ngữ trước bàn Phật, để phá phách, đánh đập, khiêu khích, mong rằng các con sẽ phản ứng trở lại bằng bạo lực để họ có cớ bắt giam và lên án. Nhưng nhờ cách hành xử bất bạo động của các con, các nhà chức trách này đã thất bại hoàn toàn. Phật tử gì mà hành hung và chửi mắng các thầy, Phật tử gì mà mang giày dép vào chánh điện, Phật tử gì mà dám treo biểu ngữ ngay trước tượng Phật, Phật tử gì mà gọi các thầy là đồng chí, tại sao không về quê đi để sống cho gần cha, gần mẹ, gần vợ  Các thầy đã xuất gia làm gì có vợ  Tội nghiệp cho những người bị thuê làm côn đồ. Họ chỉ được thuê với giá 200.000 đồng một ngày và họ đã được Công An và Mặt Trận chỉ huy bằng những dấu hiệu và tiếng huýt gió.

Thật sự Thầy chưa bao giờ tưởng tượng được là những viên chức của một chính quyền lại có thể sử dụng những cách hành xử bá đạo như vậy. Tiền đâu để họ thuê côn đồ? Đó có phải là tiền thuế mà dân nạp cho họ để họ có lương bỗng để sống và để làm những việc thất đức như vậy? Tại sao lại giả danh Phật tử để đánh phá Phật tử, giả danh nhân dân để dối gạt và đàn áp nhân dân? Đạo đức cách mạng ở đâu? Tại sao mà đạo đức cách mạng lại bị phá sản tới mức tồi tệ đến thế?

Viết tới đây thầy thấy rất rõ nguyên nhân vì sao chính sách thôn ấp và khu phố văn hóa không thành công. Một chính sách mà do những viên chức thừa hành không có đạo đức phụ trách thì làm sao thành công được? Nếu các viên chức này tham nhũng, lạm quyền, khi mà gia đình của họ là nạn nhân của tệ nạn xã hội thì làm sao họ có thể thành công trong sự hướng dẫn và xây dựng những thôn ấp và khu phố văn hóa? Nếu chính quyền Ngô Đình Diệm đã thất bại với chính sách “ấp chiến lược” thì nhà nước hiện tại cũng đã không thành công với chính sách “thôn ấp, khu phố văn hóa.”

Thầy tự hỏi không biết vị nào đã quyết định sử dụng từ văn hóa thay vì từ đạo đức? Một ý thức hệ lên án tôn giáo, cho tôn giáo là thuốc phiện, thì sẽ cảm thấy không thoải mái khi sử dụng từ đạo đức. Nhưng tại sao trong những buổi đầu cách mạng, chúng ta đã nói tới đạo đức cách mạng? Có lẽ vì đạo đức cách mạng đã bị phá sản cho nên danh từ đạo đức đã không còn chuyên chở được gì nhiều nữa. Từ văn hóa có thể đi đôi với văn minh, cũng như từ culture có thể đi với từ civilization. Nó không chuyên chở được ý niệm luân thường, đạo đức. Nhưng tại sao lại không dùng từ phong hóa? Trong quá khứ tổ tiên chúng ta đã dựng nên một nếp sống đạo đức lành mạnh, với sự góp công của ba nền đạo học là Khổng học, Lão học và Phật học. Dựa vào truyền thống là đi ngược với chủ thuyết mới hay sao? Cái đẹp nhất của đạo Bụt là tinh thần bao dung, không giáo điều, không cố chấp, không có nhu yếu loại trừ những truyền thống khác. Đó là nghĩa chữ xả trong bốn đức từ, bi, hỷ và xả. Xả (upeksa) là sự không kỳ thị, là tinh thần bao dung. Đạo Bụt trong quá khứ đã góp phần vào sự tạo dựng tinh thần tam giáo tịnh lập, tam giáo đồng nguyên, để ba truyền thống Phật, Nho và Lão có thể đứng bên nhau mà xây dựng đất nước. Trong chuyến về năm 2005, tại buổi thuyết giảng tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ở Sài Gòn, có một vị thính giả đã đặt câu hỏi: Nếu quy y Tam Bảo rồi thì ta có quyền yêu Đảng và yêu Nước không? Câu hỏi tuy đơn sơ nhưng nói lên được tất cả những lo ngại của những người muốn trở về với con đường tâm linh mà tổ tiên ngày xưa đã dày công khai mở, nhưng còn chưa dám. Thầy đã trả lời bằng một câu hỏi khác: Nếu quy y mà mất tự do, không còn được yêu những gì mình muốn yêu thì quy y làm gì? Tiếng vỗ tay vang dậy hội trường. Giờ phút ấy đánh tan được bao nhiêu là băng giá. Quy y rồi thì ta sẽ yêu nước và yêu Đảng đúng hơn và hay hơn. Đất nước ta dân tộc ta đã từng được đạo Bụt giáo hóa, đã được hưởng cái hạnh phúc do tinh thần bao dung đưa lại. Tại sao ta không được trở về nguồn? Tại sao người ta lại sợ tinh thần bao dung? Tại sao người ta không thấy được rằng nếu tư duy được theo chiều hướng bất nhị, phá chấp và bao dung thì nhân loại sẽ tiết kiệm được biết bao nhiêu là máu xương và nước mắt?

Những lời thầy viết cho các con, thế nào các chú công an cũng sẽ tìm đọc. Điều này theo thầy cũng rất tốt vì thầy tin mọi người đều có Phật tính, nghĩa là có hạt giống của trí tuệ và từ bi. Tưới tẩm những hạt giống ấy thì rất có phước. Nhiều chú Công an đã được các con chuyển hóa. Còn nếu những dòng thầy đang viết đây lọt vào mắt của những vị trong ban chấp hành Trung Ương Đảng, trong ban Tuyên Giáo, trong các hội đồng cấp cao của nhà nước thì sao? Thầy nghĩ các vị ấy sẽ chau mày, sẽ nói rằng đây là những sai sót của cấp thừa hành, rằng con sâu làm rầu nồi canh. Nhưng sự thực là quý vị ấy đã để cho cấp thừa hành làm như thế rồi báo cáo lên không đúng sự thực và lôi cuốn luôn quý vị ấy đi theo. Như vậy thì quý vị ấy cũng không đổ trách nhiệm cho người khác được. Giới nhân sĩ trí thức trong nước đã đề nghị quý vị ấy mở một cuộc điều tra để làm sáng tỏ sự thật. Những sai lầm phạm phải trong những năm qua, những tham nhũng, lạm quyền, lừa gạt và dối trá ấy phải được đưa ra ánh sáng và phải có sự trừng phạt công minh thì họa may dân chúng trong nước mới có được niềm tin nơi guồng máy chính quyền, và chính quyền mới có thể tiếp tục “cai trị” được.

Trong chuyến về nước đầu vào năm 2005, sau ba mươi chín năm ở hải ngoại, thầy đã hết lòng thực tập lắng nghe mọi giới và đã có một cái thấy tương đối chính xác về tình trạng. Thầy đã nói: Trong chuyến về thăm này, tôi chỉ có một thông điệp, đó là không có gì cao quý hơn tình huynh đệ. Có thể nói rằng giờ phút hào sảng nhất trong chuyến đi đã xảy ra tại chùa tổ Từ Hiếu, ngày mà tất cả các thầy và các sư cô của hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn quy tụ lại để tụng giới chung với nhau sau hơn mười năm bị chia rẽ. Thầy nhớ rất rõ cái hôm sau buổi pháp thoại tại chùa Từ Đàm thầy báo tin là cả hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn sẽ quy tụ về Chùa Tổ để tụng giới chung, tất cả mọi người đều đã khóc vì sung sướng. Và những điểm thầy đề nghị sau đó với nhà nước liên hệ tới sự tách rời chính trị ra khỏi tôn giáo v.v. những điểm đề nghị này thật ra đã không được xuất phát từ thầy mà đã xuất phát từ các thầy khác trong Giáo Hội. Thầy đã lắng nghe các vị tôn túc, và đã ghi nhận nguyện vọng và nhận thức của các vị. Các vị không nói lên được, thì Thầy nói giùm cho các vị, thế thôi. Nếu Thầy có bị khó khăn vì đã dám nói lên, cái ấy cũng là vì tình huynh đệ. Cũng như thầy đã lên tiếng về vấn đề Tây Tạng. Mình là một dân tộc từng bị khổ đau nhiều lần vì sự xâm lấn của phương Bắc, bây giờ một dân tộc khác đang bị rơi vào tình trạng ấy, nỡ nào mình không lên tiếng? Thầy lên tiếng thay cho cả một dân tộc, để nói lên một sự thực, biết rằng lên tiếng thì sẽ gặp khó khăn mà vẫn phải lên tiếng. Đó là lương tâm, đó là tình huynh đệ. Có rất nhiều vị tôn túc trong giáo hội rất muốn che chở cho các con Bát Nhã của Thầy. Các vị ấy đã cố gắng lên tiếng nhiều lần, thậm chí đã đưa ra đề nghị bảo lãnh để cho các con có pháp lý tu học, nhưng vì giáo hội không có giáo quyền thật sự cho nên nhũng đề nghị ấy đã bị Công An và Ban Tôn Giáo nhà Nước bác bỏ. Đất nước chúng ta chưa thực sự có tự do tôn giáo, và nhà nước đang quản lý chặt chẽ guồng máy giáo hội, và giáo hội bất lực không che chở được ngay chính con em của mình. Đó là một sự thực ai cũng đã trông thấy. Làm sao che dấu được?

Công an, Chính quyền địa phương và ban Tôn giáo, bằng hành động và bằng các văn thư của họ đã và đang làm ngược lại với luật pháp, hiến chương và  với cả pháp lệnh tôn giáo, do đó chúng ta phải có bổn phận giúp cho quốc dân và các cơ quan lập pháp và hành pháp trung ương thấy được những sai trái đang gây đổ vỡ nặng nề trên đất nước và trong lòng dân.

Nhưng thầy không bi quan. Thầy tin chắc rằng tình trạng sẽ thay đổi. Lý do là các con đang có mặt đó. Tuổi trẻ Việt Nam đã bắt đầu thấy sự thật và biết là mình đang mong ước gì cho quê hương cho đất nước. Người thanh niên Việt Nam dù đang theo học trong nước hay đang du học ở nước ngoài đều đã thấy được rằng chúng ta cần có thêm dân chủ, có thêm dân quyền và nhân quyền thì người dân chúng ta mới có cơ hội đóng góp cho đất nước và đưa đất nước đi lên. Trong thời đại này đất nước không thể nào còn bế môn tỏa cảng được. Phải mở cửa và cộng tác với các quốc gia khác. Và phải tuân theo luật lệ quốc tế, trong đó có sự tôn trọng nhân quyền. Các con Bát Nhã của Thầy đã chọn con đường tranh đấu bất bạo động và đã đem hết niềm tin của tuổi trẻ để làm việc ấy. Trái tim không hận thù của các con, trái tim của tình huynh đệ ấy đã làm cảm động lòng người. Giới Phật tử trong và ngoài nước đang yểm trợ cho các con đã đành, mà tất cả các giới khác cũng thế. Các con không lẻ loi trên con đường của mình đâu. Con đường tuy khó khăn nhưng con đường rất đẹp. Thầy rất hạnh phúc khi thấy rằng thầy đã được các con tiếp nối. Dù trong số chúng ta còn có những người còn non yếu, nhưng trái tim của chúng ta luôn luôn trong sáng và hiền hậu. Chúng ta đi như một dòng sông, vừa đi lên vừa học hỏi và chúng ta cũng sẽ được tiếp nối bằng những thế hệ đi sau. Chúng ta có một con đường. Một con đường thật sáng mà tổ tiên đã khám phá.

Thầy đã đọc chăm chú tất cả các lá thư mà các con đã gửi cho Thầy. Đôn Nghiêm nói: “Bát Nhã ngày xưa, nay đã thành mưa, rơi xuống mặt đất, nảy hạt bồ đề.” Áo Nghiêm nói: “Trên con đường mình đi, con đã tìm được những người anh em cùng chí hướng. Dù có gì xảy ra cho con đi, nữa con vẫn không hổ thẹn với tổ tiên và với bạn bè năm châu.”

Hôm quý vị tôn túc Lâm Đồng về Bố tát tụng giới ở Phước Huệ, vì thương cảm cho tình cảnh các con, tất cả quý vị đã khóc, và tất cả các con đã có dịp cùng khóc với quý vị. Giờ phút đó rất đẹp. Đó là một cơn mưa cam lộ. Lịch sử đã ghi chép giờ phút ấy.

Đôn Nghiêm là một trong những đóa Sen Trắng, chưa đầy 18 tuổi. Bài thơ của sư em gửi Thầy có giá trị của một bài kệ kiến giải mà chính em cũng không biết. Bát Nhã đối với em đã là những năm tháng hạnh phúc vì ở đấy em đã được sống trong lý tưởng và tình huynh đệ. Bát Nhã cũng đã là những dòng nước mắt khổ đau, chảy dài trong những ngày bị đánh phá và áp bức. Bát Nhã đã trở thành huyền thoại, đã thành chuyện ngày xưa, nhưng Bát Nhã không mất mà chỉ trở thành mưa. Những trận mưa Bát Nhã đã rơi xuống mặt đất và đã làm nẩy lên hạt giống Bồ đề, hạt giống bồ đề trong trái tim của Đôn Nghiêm, trong trái tim của các con và trong trái tim của bao nhiêu người trẻ khác. Đó là những hạt giống Kim cương bất hoại, không có ngọn lửa nào có thể đốt cháy. Bát Nhã sẽ tái sinh trong những hình thức mới vì hạt giống Bồ đề của nó đang có mặt khắp nơi. Phải thấy Bát Nhã trong những hình thái vô tướng và đa tướng của nó. Đôn Nghiêm đã thấy được, nên Đôn Nghiêm không còn khổ đau, không còn lo sợ. Bát Nhã của Đôn Nghiêm sẽ còn mãi mãi. Với cái thấy ấy, những con người như Đôn Nghiêm sẽ không bao giờ chùn bước, sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Vì vậy thầy không hề bi quan. Thầy tin ở tuổi trẻ Việt Nam. Thầy không cần phải dặn dò các con phải làm cái này cái nọ. Ngay trong tình trạng của mình và của đất nước  các con tự biết là phải làm gì và  chắc chắn các con sẽ thực hiện được chí nguyện của mình. Đó là tại vì tâm bồ đề của các con đang có mặt. Vì vậy cho nên thầy có niềm tin nơi các con.

Ngày 06-12-2009 vừa qua, từ Mai Thôn thầy đã có dịp thuyết trình cho Hội Nghị Thượng Đỉnh Tôn Giáo ở Melbourne Úc Châu bằng phương tiện viễn thông. Thầy đã chia sẻ với các nhà lãnh đạo tôn giáo trên thế giới đang có mặt tại hội nghị về cái thấy của đạo Bụt về một nền tâm linh đạo đức toàn cầu. Thầy đã nói về năm giới tân tu của chúng ta như con đường mà nhân loại có thể sử dụng để ra khỏi tình trạng khó khăn, cứu vớt được hành tinh và đem lại hòa bình an lạc trên thế giới. Năm giới tân tu trong văn bản mới là hoa trái của công phu tu tập của Tăng thân trong hơn tám tháng trời. Đó là con đường do Bụt khai mở. Đó là đóng góp của đạo Bụt cho nhân loại, rất cần thiết cho giai đoạn toàn cầu hóa này. Chúng ta đã có con đường, chúng ta đã có niềm tin, chúng ta đã có nhau như một Tăng thân thì chúng ta không cần phải lo lắng nữa. Nói như sư chú Pháp Đại: “Chúng con biết ngoài việc tu tập thì chúng con không cần phải lo lắng gì thêm. Chúng con nguyện sẽ tu tập tốt hơn để không phụ lòng thầy tổ”. Nghe các con nói những câu như thế, thầy biết là thầy đang có niềm tin nơi các con.

Thầy Bát Nhã của các con, (như một số các con đã gọi Thầy!)