Kẻ thù ta

Tôi còn nhớ là trong thời gian vận động hòa bình (khoảng 1963-1973), tôi cứ bị buộc tội là kêu gọi hòa bình chung chung, không biết phân biệt bạn thù. Hồi đó tôi và các bạn tranh đấu cho hòa bình trên căn bản nhận thức kẻ thù ta không phải là người mà là cuồng tín, hận thù, tham vọng và bạo động (1). Lập trường hòa bình ấy bị cả hai phía lâm chiến lên án. Cái tội lớn nhất của chúng tôi là đã xem con người của cả hai bên là anh em, dù họ thuộc phía cộng sản hay thuộc phía chống cộng. Tập thơ Chắp Tay Nguyện Cầu Cho Bồ Câu Trắng Hiện in chui ở Saigon năm 1964 bị cả hai phía lâm chiến chống đối, một bên tịch thu và một bên lên án trên đài phát thanh .

Mặt trời xanh

Lập trường ngày xưa, bây giờ tôi vẫn còn giữ nhưng nay tôi lại đã đi xa hơn. Ngày xưa tôi nói Kẻ thù ta là tham vọng, hận thù, kỳ thị và bạo độngnhưng trong mấy chục năm sau nầy, tôi cũng không muốn gọi những tâm hành tiêu cực kia là kẻ thù cần phải tiêu diệt nữa mà lại thấy rằng chúng có thể được chuyển hóa thành những tâm hành tích cực như thương yêu và hiểu biết, cũng nhưngười làm vườn có thể biến rác thành phân xanh, và dùng phân xanh nầy làm ra trở lại hoa lá và rau trái. Gần ba mươi năm nay tôi thực tập và giảng dạy đạo Bụt tại Tây Phương trên cơ sở nhận thức ấy, gọi là tuệ giác tương tức , được diễn bày trong kinh Hoa Nghiêm . Danh từ tương tức được dịch ra tiếng Anh là Interbeing , tiếng Pháp là Interêtre , và tiếng Đức là Intersein . Các bạn Tây Phương học hỏi và hành trì theo tuệ giác này đã được chuyển hóa rất nhiều và đã đạt được rất nhiều hạnh phúc.

Muốn có được tuệ giác tương tức chỉ cần nhìn vào rổ rau tươi xanh rờn mà ta vừa hái vào. Nhìn cho sâu, ta sẽ thấy trong rau có mặt trời, có đám mây, có phân rác, có người làm vườn và hàng vạn yếu tố khác. Rau không thể một mình có mặt, rau phải cùng có mặt với mặt trời, đám mây, đại địa, v ..v … Lấy mặt trời ra khỏi rổ rau thì rổ rau biến mất. Lấy đám mây ra thì cũng vậy. Ta lấy một ví dụ khác. Hãy thử nhìn vào tổ chức Phật Giáo hợp pháp duy nhất tại quê hương mà người ta thường gọi bông đùa là Giáo Hội Nhà Nước. Nhìn vào nó thì ta thấy những yếu tố đã tạo ra nó, tích cực và tiêu cực. Trong số những yếu tố ấy, ta thấy sự có mặt của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mà đại diện phía chiều nổi là các vị như Huyền Quang, Quảng Độ, Đức Nhuận, Tuệ Sỹ, Không Tánh, v.v… Vì các vị này đã tranh đấu ráo riết cho nên các thầy khác trong Giáo Hội Nhà Nước như Thiện Siêu, Minh Châu, Trí Tịnh, Trí Quảng… mới được phép nhà nước cho dịch sách, in kinh, tổ chức trường Cơ Bản Phật Học v.v… Các thầy bên phía Giáo Hội Thống Nhất càng tranh đấu, càng vào tù ra khám chừng nào thì các thầy bên phía Giáo Hội Nhà Nước càng có thêm không gian để làm việc chừng ấy. Vậy là các thầy bên Giáo Hội Thống Nhất là những vị đã và đang yểm trợ Giáo Hội Nhà Nước một cách tích cực nhất. Nói họ chống Giáo Hội Nhà Nước là chưa thấy được sự thực sâu sắc về bên trong và chưa có được tuệ giác tương tức . Các thầy Huyền Quang, Quảng Độ, Đức Nhuận nhìn vào các Học Viện Phật Giáo, Viện Nghiên Cứu Phật Học, công trình dịch thuật Đại Tạng Kinh Việt Nam v.v… có thể mỉm cười và nói: Quý vị đừng tưởng đó là công trình riêng của quý vị. Chúng tôi đã góp sức với quý vị làm ra những thứ ấy. Chúng ta đã làm chung với nhau. Các thầy như Thiện Siêu, Minh Châu nhìn vào các hoạt động tranh đấu của các thầy Giáo Hội Thống Nhất cũng có thể mỉm cười biết ơn và nói: Nhờ quý vị tranh đấu như thế cho nên Nhà Nước mới nới tay cho phép chúng tôi làm được một ít Phật sự. Chúng tôi sẽ không còn ngây thơ mà nói: Quý vị chống đối mà có làm được gì đâu trong mấy chục năm nay? Chính chúng tôi, những người không chống đối mới làm được từng ấy việc đấy chứ! Với tuệ giác tương tức , các thầy của hai Giáo Hội có thể nhìn nhau bằng con mắt hiểu biết và thương yêu, không ai còn buộc tội trách móc ai, vì ai cũng có thể thấy rằng người của cả hai phía đều là những vị bồ tát thị hiện, ai cũng làm việc cho lý tưởng và dân tộc cả, và cả hai bên đều có hạnh phúc, vì trong lòng của cả hai bên không còn có sự hiềm khích và kỳ thị. Nếu còn trách nhau và giận nhau thì mình còn là nạn nhân của những kẻ bên ngoài muốn chia để trị. Mình có tuệ giác tương tức thì kẻ kia sẽ không chia rẽ được mình, tạo ra tình trạng gà một nhà bôi mặt đá nhau, một bên bôi màu Thống Nhất, một bên bôi màu Nhà Nước. Bôi mặt đá nhau là không thông minh, là không có tuệ giác tương tức. Từ ba chục năm nay, tôi không bao giờ không nhìn tất cả các thầy là anh em của tôi, dù họ ở trong Giáo Hội Nhà Nước hay trong Giáo Hội Thống Nhất.

Giáo Hội chẳng qua chỉ là một hình thái tổ chức. Chúng ta là tăng đoàn của Bụt, có từ gần 2600 năm nay, chúng ta không nhất thiết cần phải có một hình thái tổ chức Giáo Hội, hợp pháp hay không hợp pháp, mới có thể tồn tại. Tôi không muốn giam tôi vào hình thức của một Giáo Hội, của bất cứ Giáo Hội nào. Tôi có thể ôm được vừa thầy Quảng Độ vừa thầy Thiện Siêu mà không thấy cấn cái chút nào. Và vì ôm được cả hai cho nên tôi có thể có cơ hội chia sẻ tuệ giác và kinh nghiệm của tôi cho cả hai vị, để chúng tôi biết nên làm gì và không nên làm gì để cho thế hệ con em chúng tôi có thêm niềm tin và hạnh phúc.

Vua nước Sở mất cung

Ba chục năm nay, có một số người trong nước cũng như ngoài nước cứ trách cứ tôi là quá thân với người Cơ Đốc và người Cộng Sản. Họ chỉ muốn tôi thân với người Phật Tử và người Chống Cộng mà thôi. Tôi đã cố gắng nhắc cho họ nhớ là tôi chỉ có thể hành động trên cơ bản nhận thức. Kẻ thù ta không phải là con người- tôi muốn tất cả đều có cơ hội được sống và có quyền sống hạnh phúc – nhưng không phải ai cũng đã chấp nhận được dễ dàng điều đó cho tôi.

Phép thực tập của tôi là ôm lấy được cả những người Cộng Sản và những người Công Giáo, vì tôi không thể chỉ ôm người Phật tử và người Chống Cộng. Không phải chỉ trong giới Công giáo và giới Cộng Sản mới có những người có thái độ hẹp hòi, cuồng tín và cố chấp. Trong giới Phật tử, tôi cũng thấy nhiều người hẹp hòi, cuồng tín và cố chấp, gây khổ đau cho bản thân, cho gia đình và cho kẻ khác không ít. Có những người xưng là Phật tử, kể cả giới xuất gia, mà tham nhũng, tàn ác và cố chấp đến mức con cái hoặc đệ tử họ cũng không chịu đựng được họ nữa là kẻ khác. Họ phá giới, phạm trai, vọng ngữ, tà dâm, sát sinh v .. v …gây tổn thương cho bản thân và cho xã hội không ít. Có những người Tin Lành, có những người Công giáo, có những người Cộng Sản tốt hơn họ nhiều, lành hơn họ nhiều và gần với đạo Bụt hơn họ nhiều. Vậy cho nên thực tập theo tinh thần đạo Bụt, tôi muốn ôm lấy và thương yêu tất cả mọi người, không chừa ai, kể cả những người đã làm cho tôi đau khổ và dân tộc tôi đau khổ. Ôm lấy người ta không có nghĩa là chấp nhận luôn cả cái thái độ hẹp hòi, cố chấp và cuồng tín của người ta. Thiếu bao dung, thiếu từ bi, thiếu sự quán chiếu, con người dễ trở thành hẹp hòi, cố chấp và cuồng tín. Bổn phận của người hành đạo là giúp con người tháo bỏ thái độ hẹp hòi, cố chấp và cuồng tín đó, giúp họ trở thành hiểu biết, bao dung và từ bi, chứ không phải là lấy súng bắn vào họ, tiêu diệt họ. Trong đạo Bụt tôi được dạy phải thương theo nguyên tắc Từ, Bi, Hỷ và Xả. Xả có nghĩa là không kỳ thị (non-discrimination). Tình thương chân thật là tình thương bao dung, ôm lấy được tất cả mọi người và mọi loài đang đau khổ. Hễ thấy người ta khổ thì mình thương, mình không kỳ thị rằng đó không phải là người Phật tử, đó là người chống Phật giáo, đó là người Cộng Sản, đó là người Công giáo. Thực tập theo tinh thần đó, tôi đã từng viết những lời đối thoại với người Công Giáo và người Cộng Sản bằng ngôn từ của Hỷ, Xả và Từ Bi. Tôi không bao giờ sử dụng ngôn ngữ trách phạt, lên án và chửi mắng. Những cuốn sách có mục đích đối thoại với những người Cơ Đốc Giáo như Living Buddha, Living Christ hay Going Home, Buddha and Jesus as brothers , mà tôi viết, đã sử dụng ngôn ngữ ấy mà đạo Bụt gọi là ái ngữ và đã giúp cho hằng trăm ngàn người Cơ Đốc hiểu được Đạo Bụt, thấy được chân tinh thần của Giáo lý Ky Tô và buông bỏ được thái độ hẹp hòi và cố chấp. Người Công Giáo, trong đó kể cả các linh mục và nữ tu Công giáo, viết thư và cám ơn tôi nhiều lắm. Với giới Công Giáo Việt Nam tôi cũng đã dùng ngôn ngữ ấy. Trong sách Hoa Sen Trong Biển Lửa (1966) tôi nói rất rõ ràng là nếu các bạn Công Giáo Việt Nam đi theo đường hướng Công Giáo dân tộc và nguyện sống hài hòa với các thành phần khác của dân tộc thì không có lý do gì mà đất nước lại không dang rộng hai tay ra để đón quý vị vào lòng dân tộc. Với những người Cộng Sản Việt Nam tôi cũng đã dùng ngôn ngữ ấy, nhất là trong sách Đối Thoại Cánh Cửa Hòa Bình (1967). Hồi đó ít người Cộng Sản chịu lắng nghe tôi, nhưng bây giờ tôi nghĩ là đã có rất nhiều người Cộng Sản đọc sách tôi và lắng nghe tôi. Tôi biết có rất nhiều vị cán bộ và công an đã có cơ duyên đọc sách và nghe băng giảng của tôi và đã chuyển hóa được nhiều nỗi khổ niềm đau trong lòng. Có khi tôi thấy được tâm tư của người cán bộ và công an, nhất là những công an văn hóa và công an tôn giáo. Chính sách từ trên đưa xuống là không cho phổ biến sách và băng giảng của thầy Nhất Hạnh, và vì vậy cho nên hễ sách và băng giảng của tôi về đến Sài Gòn hay Hà Nội là bị tịch thu. Gửi về qua ngã bưu điện cũng bị tịch thu . Tôi bảo các bạn bên này: Đừng buồn, vì người tịch thu sách và băng giảng cũng sẽ có cơ hội đọc sách và nghe băng. Đó là suy nghĩ theo tinh thần vua nước Sở mất cung thì người nước Sở được cung, không mất đi đâu hết. Lâu lâu, công an đi ruồng và tịch thu sách và băng giảng của tôi, được in chui và sang chui ở khắp nơi trong nước. Sự thực là đã có những vị công an sau khi tịch thu băng sách hay kiểm duyệt băng sách (mà không trả lại cho người đáng lý là có quyền nhận) đã ngồi đọc và nghe suốt đêm, thấy những bài giảng này rất có lợi lạc, có thể chuyển hóa rất nhiều những nỗi khổ niềm đau trong họ. Tuy nhiên, sau khi kiểm duyệt sách và băng giảng, các vị vẫn không đem trả lại cho người có quyền nhận. Có khi họ cũng đem trả băng, nhưng trước khi trả, họ đã xóa hết hình ảnh và âm thanh trong băng. Họ đã có sang lại những băng nầy rồi, một bản gởi cho bộ Nội Vụ, một bản giữ lại để thỉnh thoảng được nghe. Tôi hiểu và thương họ. Vì họ sợ cấp trên khiển trách, và sợ mất việc. Có những vị công an sau khi đọc sách và nghe băng, được hỏi: Tại sao những sách và băng này không được lưu hành? Quý vị thấy trong sách và trong băng có tư tưởng nào hại nước hại dân hay chống chính quyền không?Họ đã trả lời:Tất cả những gì thầy Nhất Hạnh giảng trong sách trong băng đều rất hay, mầu nhiệm, hợp với đạo lý, rất có lợi cho thế đạo và nhân tâm. Sở dĩ chúng tôi không cho sách và băng này lưu hành là tại chúng tôi không biết đằng sau sự giảng dạy và hành đạo này của Thầy có còn được che dấu một âm mưu chánh trị gì khác hay không mà thôi. Quý vị ấy đã nói lên được sự thật trong tâm: sự có mặt của sợ hãi và nghi kỵ . Sự sợ hãi và nghi kỵ này không phải chỉ là của họ, mà là của cấp trên họ. Những vị cán bộ và công an này, tuy nhiên thỉnh thoảng cũng biểu lộ được tuệ giác và từ bi của mình: họ làm lơ cho sự phát hành chui của một số sách và một số băng giảng. Họ làm như thế vì họ biết những sách và băng đó có tác dụng tốt cho người dân vào thời điểm này của sự sống đất nước và dân tộc. Họ dư biết rằng tệ nạn xã hội hiện thời đang đầy dẫy: tham nhũng, ma túy, đĩ điếm, hận thù, con từ cha, lứa đôi tan vỡ, ly dị, gia đình nứt rạn, phim ảnh và sách báo khiêu dâm tràn ngập. Trong lúc các nhà chánh trị và giáo dục gần như bó tay không làm được gì để quét dọn những núi rác khổng lồ đó, thì những băng giảng, những cuốn sách của thầy Nhất Hạnh khuyên người tu tỉnh, hòa giải, trở về nếp sống thuần lương lại bị cấm cản và tịch thu. Quý vị bắt buộc phải cấm cản và tịch thu, nhưng trong thâm tâm quý vị có sự dằng co. Quý vị không thấy an ổn chút nào với chánh sách đó, cũng vì vậy cho nên có khi quý vị đã làm lơ cho việc in chui và sang chui những sản phẩm văn hóa và đạo đức nọ. Các thầy, các sư cô và các Phật tử mỗi khi đi cứu trợ nạn nhân bão lụt hay nghèo đói thường xếp vào các gói quà một bài tụng hay một cuốn kinh mỏng, nghĩ rằng quà tặng có thể làm vơi bớt sự nghèo khó một vài tuần, nhưng bài kinh có thể làm cho nhẹ bớt sự buồn đau lâu dài hơn. Có những vị công an hẹp hòi, kỳ thị, nhất định không cho phép, nói đó là truyền đơn. Nhưng có những vị công an thì lại hoan hỷ, làm ngơ và cũng có người còn thích thú. Thiện căn ở tại lòng ta, nếu ta được chấp nhận và đối xử một cách thân thiện thì hạt giống từ bi và bao dung trong ta được tưới tẩm. Còn nếu ta cứ bị khinh ghét và chống báng thì ta không có được cơ hội ấy. Cho nên dù các vị công an văn hóa và tôn giáo có khắt khe khó chịu đến mức nào thì các thầy, các sư cô và các đạo hữu biết đạo cũng vẫn ngọt ngào và kiên nhẫn với họ. Một ngày kia , với cách đối xử ấy, họ cũng sẽ có cơ hội chuyển hóa. Có một vị công an ở Huế nói: Thầy Nhất Hạnh ở xa, tôi không làm gì được ông ấy. Nhưng anh ở đây, nghĩa là ở trong tay tôi. Tôi có thể bóp nát anh bất cứ lúc nào. Tôi nghe như vậy mà thương người công an quá. Người ta chỉ muốn đi làm công việc xã hội để giúp đồng bào người ta thôi, tại sao mình phải bóp nát người ta?

Đổi mới thật sự

Con em của ta, dù là con cháu của người Phật tử, con cháu của người Ky Tô, con cháu của người Cộng Sản hay con cháu của người chống Cộng cũng thế, đều là những người con của đất nước, đều là con em của ta cả. Hễ người nào đau khổ và cần tới sự giúp đỡ là ta phải giúp. Có như vậy ta mới thực sự biết thương theo tinh thần Bụt dạy.

Trong chúng ta ai cũng từng có khi lầm lỡ – người Phật tử, người Công giáo, người Cộng Sản, Đảng và Nhà Nước cũng thế. Vì quá tin ở nhận thức mình, vì cuồng tín và cố chấp, ta đã có thể gây ra những vết thương đau nhức trên thân hình dân tộc, nhưng nếu ta biết thức tỉnh, biết thật sự đổi mới (2) thì ta có thể học được bài học thương đau của quá khứ. Có những người công an và cán bộ đã từng làm ta điêu đứng, nhưng với tình thương của Bụt, ta vẫn muốn cho họ có một cơ hội để đổi mới, để chuyển rác thành hoa, để chế tác hiểu biết và thương yêu cho đời họ bớt khổ và cho ta có nhiều không gian hơn mà sống. Quá tin vào chủ nghĩa và nhân danh, ta có thể đã gây ra thảm trạng cho dân tộc và đất nước: đã có hàng triệu người chết oan. Ngày xưa (1964, khi xuất bản tập thơ Chắp Tay Nguyện Cầu Cho Bồ Câu Trắng Hiện) tôi đã từng nói: Chủ nghĩa và nhân danh, những sợi dây nghiệp báo ai đem về ràng buộc lấy thân hình dân tộc (3) Trần Mạnh Hảo nói hay hơn tôi: Những con đường như những lằn roi lịch sử quất lên mình đất nước( 4). Giác ngộ, thấy được những lầm lỡ, quyết tâm đi theo con đường Từ Bi bao giờ cũng là điều đáng mừng.

Trong thời gian xa nước, tôi có cái hạnh phúc là vẫn được tiếp tục viết sách cho đồng bào tôi đọc. Từ 1966, sách tôi tuy còn được xuất bản tại Miền Nam , nhưng sách phải được ký bằng bút hiệu khác vì tôi có tội đã dám lên tiếng kêu gọi hòa bình. Từ 1975 trở đi, sách tôi chỉ được chép tay , và sau đó in ấn và phát hành chui. Chính tôi cũng không biết là ai đã tổ chức in và phát hành như thế. Vì nhu yếu cần học, cần tu của đồng bào, nên có những người, hoặc những nhóm người, liều lĩnh cho in và cho phát hành những sách kia . Thêm vào đó lại có băng giảng audio (băng nghe) và sau đó lại có băng giảng video (băng hình). Chính cựu Thủ Tướng Phạm Văn Đồng cũng đã đọc mấy cuốn Phật Giáo Sử Luận của tôi và đã tỏ ý hâm mộ. Trong Bộ Nội Vụ và Bộ Ngoại Giao cũng có nhiều người đọc sách của tôi, nhất là trong bộ Nội Vụ. Các Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Tây Phương cũng có đọc sách tôi. Tôi biết chắc có rất nhiều người Cộng Sản đọc sách của tôi và rất thích. Có những ông tướng và những đảng viên lớn tuổi đọc những sách như Đường Xưa Mây Trắng, Về Việt Nam , Từng Bước Chân Thảnh Thơi… thấy ưa thích quá chừng, giống như tìm lại được lý tưởng trong sáng thời còn trai trẻ. Tôi có cảm tưởng là hầu hết những người ngày xưa say mê chủ nghĩa Mác Xít mà bây giờ không còn niềm tin nơi chủ nghĩa ấy nữa là những người có hạnh phúc nhiều nhất trong khi đọc sách tôi. Biết bao nhiêu người đã theo Đạo hay theo Đảng với một trái tim trinh nguyên và tất cả bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ mình. Nhưng sau mấy mươi năm trời theo Đạo hoặc theo Đảng, họ đã thấy mình mất mát quá nhiều, bởi vì họ đã quá đau khổ vì Đạo hay vì Đảng. Những người ấy là những người dễ đến với pháp môn Từ , Bi, Hỷ và Xả của đạo Bụt nhiều nhất. Họ cũng là những người tìm được hạnh phúc nhiều nhất khi đọc sách và nghe băng. Họ rất im lặng, họ rất sung sướng mỗi khi gặp được những vị chân tu, nhưng họ cũng rất buồn khi thấy những người xuất gia hư hỏng, đang đi trên con đường danh lợi và hưởng thụ, không biết là mình đang phản bội lại lý tưởng xuất gia của mình. Trong số những người trẻ con cháu của giới chánh quyền và cán bộ, sống trong nước, hay đã ra nước ngoài, có rất nhiều người cũng ham đọc sách tôi. Cũng như ở tòa thánh Vatican , có nhiều vị Giám Mục đã đọc sách tôi. Đồng ý hay không đồng ý với những điều tôi viết, điều đó tôi không quan tâm mấy; tôi chỉ quan tâm đến chỗ các vị ấy có chịu đọc hay không mà thôi . Có những vị bắt đầu đọc để khám xét và kiểm duyệt, nhưng sau đó lại thích, vì trong khi đọc thấy có lợi lạc, thấy khoẻ và nhẹ trong người ra.

Con đường thương yêu

Học và thực tập theo giáo nghĩa tương tức , tôi không còn thấy ai là kẻ thù của tôi nữa, và tâm tôi nhẹ thênh thang. Kể cả những người đã làm cho tôi điêu đứng, và làm cho dân tộc tôi điêu đứng, tôi cũng không còn thấy thù ghét họ bởi vì tôi đã biết nhìn họ bằng con mắt hiểu và thương. Bạn sẽ hỏi: Như vậy là thầy sẽ để cho bọn cuồng bạo, cuồng tín, cướp bóc và sát nhân ấy tự do tiếp tục gây đổ vỡ và tang thương mà không làm gì để ngăn cản họ hay sao ? Không ! Chúng ta phải làm đủ mọi cách để ngăn chận họ chứ, không thể để cho họ tiếp tục tàn sát, bóc lột, đè nén và phá hoại, nhưng hành động của ta sẽ không bao giờ được thúc đẩy bằng hận thù. Ta phải chận đứng họ lại, không thể để cho họ làm mưa làm gió. Nếu cần ta có thể trói họ lại, nhốt họ vào tù , nhưng hành động ấy phải được hướng dẫn bằng trái tim bồ tát và trong khi hành động như thế ta vẫn duy trì được niềm thương, mong muốn cho họ có được cơ hội tự tỉnh và cải hóa. Hành động trên căn bản Từ, Bi, Hỷ và Xả, ta tự nhiên chọn con đường bất bạo động, cố gắng bảo vệ sinh mạng của mọi loài tới mức tối đa. Cố nhiên là không thể có hành động bất bạo động tuyệt đối. Cũng như đĩa rau luộc của tôi không thể là 100% chay tịnh, vì trong khi luộc rau, có rất nhiều vi khuẩn đã chết trong rau. Nhưng hành động theo hướng bất bạo động, ta vẫn có thể tiết kiệm xương máu, bảo vệ sinh mạng mọi loài tới mức tối đa. Trong một cuộc tranh đấu chống ngoại xâm, các hoạt động trong những lãnh vực thông tin, văn hóa, giáo dục để cố kết niềm tin, đoàn kết toàn dân, thực thi chính sách bất hợp tác với kẻ xâm lược, v.v… tất cả những hoạt động ấy có thể được hoàn toàn lãnh đạo trên tinh thần cởi mở, khoan dung và bất bạo động. Nếu thành công ở các lãnh vực ấy thì yếu tố quân sự chỉ cần đóng một vai trò nhỏ thôi. Dù phải dùng tới quân lực, ta vẫn có thể đi theo tinh thần bất bạo động, tiết kiệm xương máu tới mức tối đa, xương máu của ta cũng như xương máu của những người đi xâm lược. Nhà quân sự cũng có thể tu tập theo hướng từ bi như nhà đạo đức, nhà chính trị và nhà nhân bản. Chiến thắng lớn lao của nhà Trần đối với cuộc xâm lược nhà Nguyên một phần lớn là do công trình của đạo đức, chính trị và văn hóa đời Trần. Yếu tố quân sự không phải là yếu tố duy nhất đưa tới sự thành công. Cuộc vận động của Phật tử cho nhân quyền dưới thời Ông Ngô Đình Diệm cũng thế, quân đội chỉ đóng vai trò kết thúc, một vai trò tuy cần thiết nhưng rất nhỏ. Đất nước và dân tộc ta có vượt thoát được giai đoạn khó khăn nầy để đi lên hay không, điều này là do chúng ta có biết tu tập để phá bỏ kỳ thị và hận thù hay không. Kêu gọi đoàn kết mà vẫn tiếp tục kỳ thị nhau, hận thù nhau và loại trừ nhau thì bao giờ có được đoàn kết thực sự ? Nhìn cho kỹ để thấy được kẻ kia cũng là người anh em của mình, đừng tìm cách loại bỏ người ấy ra khỏi sự sống hằng ngày, đó là sự thực tập tu học của tất cả chúng ta, Phật tử hay không phải Phật tử. Có những người dễ thương, có những người khó thương và có những người rất rất khó thương. Nhưng đã là Phật tử, chúng ta phải cố gắng để có thể thương được tất cả mọi người theo nguyên tắc kẻ thù ta không phải là người. Kẻ thù ta không phải là kẻ thù của ta (5). Ta không có kẻ thù. Nếu thấy được như thế, làm được như thế thì khi nằm xuống, nhắm mắt, ta sẽ có thể mỉm cười được.


(1) Chiến tranh, Chắp tay Nguyện Cầu Cho Bồ Câu Trắng Hiện, nhà xuất bản Lá Bối, 1964, Sài Gòn

(2) Ngày xưa gọi là Sửa Sai, từ ngữ đạo Bụt là Sám Hối, là Làm Mới

(3) Sài Gòn ơi, đập tan đi ảo ảnh – sách vừa dẫn

(4) Ly Thân – nhà xuất bản Đồng Nai, 1989

(5) Nói khác hơn: “Người thù ghét ta, không phải là người ta thù ghét.”

Nguồn: Lá Thư Làng Mai số 23, ra ngày 25.1.2000

Tinh thần cứu thế của thanh niên tăng

Bài giảng của Pháp Sư Diễn Bồi – người Trung Quốc
Tại chùa Ấn Quang, ngày 13 tháng Chạp năm Canh Tý, tức ngày 29/1/1961
Nhất Hạnh dịch


Thưa quý vị Thượng Tọa, Pháp Sư, các Pháp hữu,

Chúng tôi đã hai lần đến quý quốc để hoằng pháp. Từ trước đến nay, hoặc thuyết pháp với các giáo hữu quý quốc, hoặc khai thị cho kiều bào chúng tôi tại đây, nhưng lần nào thính chúng cũng chỉ là cư sĩ. Hôm nay lần đầu tiên tôi lại được đối diện với toàn các vị xuất gia đồng đạo, nhất là với một số đông đảo các vị thanh niên xuất gia như thế này, cùng hội họp lại đây để cùng luận thuyết giáo pháp thâm yếu của Đức Phật. Thật là một điều làm cho chúng tôi sung sướng và cảm động.

chùa Án Quang Tuy rằng chúng tôi đã ở trong biển Pháp đã trên hai chục năm, nhưng đối với Phật Pháp, thực ra chưa có được một kiến thức sâu rộng. Hôm nay, nhận sự thỉnh cầu của ban Liên Lạc Văn Hóa Học Tăng toàn quốc, chúng tôi đến đây để đàm luận Phật Pháp với các thanh niên học tăng đáng yêu đáng kính, nghĩ rằng chẳng có giáo lý gì thâm uyên để làm tác Pháp cúng dường chư vị, nên rất lấy làm hổ thẹn! May mắn hôm nay vì được gặp chư vị ở đây đều là các thanh niên ưu tú của Phật Giáo, nên chúng tôi xin trình bày đề tài: “Phật Giáo thanh niên ưng hữu vị thế, vị nhân đích bi nguyện”. Trong đề mục này, chúng tôi mong có thể cùng với các pháp hữu kính ái của chúng tôi đàm luận về bi nguyện và đại hạnh thực tiễn đối với công cuộc vị thế vị nhân để cứu khổ cứu nạn cho nhân loại và thế giới, xương minh bản hoài xuất thế của Đức Thế Tôn.

Hai quốc gia Việt Nam và Trung Hoa đều phụng hành đại thừa Phật Giáo, cho nên đối với cá nhân chúng tôi, chúng tôi rất cảm xúc sâu xa: trong thế giới gần gũi với sự hủy diệt hôm nay, Đại Thừa Phật Giáo cần thiết như thế nào! Các vị ở đây ai cũng là các bậc đại tâm đại sĩ. Đối với bi nguyện của Bồ tát, cố nhiên các vị đã thể nhận được ý nghĩa, tôi lẽ ra không cần nhắc lại làm chi, bất quá nghĩ rằng một lần đề khởi lại là một lần phát kiến thêm một cái gì mới. Có bi nguyện rồi, chúng ta lại làm cho bi nguyện được bồi đắp tăng tiến, chưa có bi nguyện thì chúng ta nhân đó mà làm phát sinh, cho nên thiết tưởng chúng ta cũng cần phải lập lại ý nghĩa của bi nguyện độ sinh kia.

Nhưng trước khi đề cập vấn đề, chúng tôi thiết tưởng nên đề cập đến những mỹ đức đặc biệt của người thanh niên và phong trào tân vận động thanh niên Phật Giáo đối với nền Phật Giáo hiện hữu.

Những mỹ đức đặc biệt đầy đủ của thanh niên

Trong một năm, thời gian tươi đẹp nhất vốn là mùa xuân, bởi vì một khi mùa xuân đến, tất cả thiên nhiên đều tươi sáng, gió xuân phơ phất, trăm hoa đua nở, muôn chim ca hát, đâu đâu cũng tràn đầy nhựa xuân. Xưa nay đã có biết bao nhiêu thi văn của các văn gia, thi sĩ dụng tâm ca ngợi mùa xuân. Trong một đời người, giai đoạn quý báu nhất là giai đoạn tuổi xanh. Bởi vì khi con người bước đến ngưỡng của thanh xuân thì cả thân lẫn tâm đều tràn đầy nhiệt huyết, khí sắc tươi nhuận và hùng tráng, do đó phát xuất một ý chí hùng mạnh làm cho người thanh niên mạnh dạn hướng về tương lai mà tiến bước.

Thanh niên bất chấp rằng trên bước đường mình đi qua sẽ có bao nhiêu gian lao hiểm trở, cũng không nghĩ rằng giữa đường có thể bị đình đốn và quay đầu bước lui, cho nên xưa nay các bậc thánh hiền hào kiệt đều ngợi khen người tuổi trẻ. Đức Christ ở Tây Phương, cũng như Đức Lão ở Đông Phương cũng đã từng ca ngợi tuổi trẻ. Mạnh Tử của Nho gia cũng đã từng nói: “Đừng làm mất lòng con đỏ”. Đến như Phật Giáo, đặc biệt nhất là Đại thừa Phật Giáo lại càng tán dương tuổi trẻ. Điều đó, ta có thể tìm thấy trong kinh điển Đại Thừa. Do đây có người đã nói: “Thanh niên là mùa xuân của đời người”.

Được ca ngợi dường ấy, vì người thanh niên đã có những mỹ đức nào? Chúng ta nên tìm hiểu. Nói đến mỹ đức của thanh niên thì nhiều lắm, ở đây chúng ta chỉ lược đàm một vài điểm:

1. Chính nghĩa cao độ: Bất luận thời nào, ở đâu có phát sinh những sự tình trái chống với chính nghĩa nhân loại thì bao giờ thanh niên cũng đứng lên trước để phấn đấu cho chính nghĩa. Tinh thần thanh niên hiện hữu ở đâu thì ở đó chính nghĩa phải hiện hữu. Người thanh niên chỉ biết vì nhân loại mà bảo vệ chính nghĩa, mà ít nghĩ đến sự lợi hại của cá nhân mình. Điểm đáng quý nhất của thanh niên là ở tại đó.

2. Tình cảm phong phú: Con người là một loài động vật có nhiều tình cảm, nhưng cảm tình của người thanh niên lại càng nhiệt liệt một cách đặc biệt. Danh từ “hữu tình” của Phật Giáo, theo Phạn ngữ là tát-đỏa. Tát-đỏa là tượng trưng tình cảm, quang minh, hoạt động. Người là loài có tinh thần và hoạt động, và đó chính là nguyên động lực của sinh mạng. Trong Kinh Bát Nhã, có những danh từ “Đại tâm”, “Khoái tâm”, “Dũng tâm”, “Kim cương tâm” để giải thích chữ “hữu tình”, để biểu thị rằng loài hữu tình có một thứ nhiệt tình nồng hậu vô hạn, thứ nhiệt tình ấy được biểu lộ một cách hết sức rõ rệt nơi người thanh niên. Chính vì người thanh niên có được bầu nhiệt huyết đó cho nên mới có thể nỗ lực bênh vực cho chính nghĩa.

3. Lý tưởng cao đẹp: Ai cũng phải có lý tưởng, nếu không có lý tưởng thì cuộc sống trở thành vô nghĩa, và đời sống không còn giá trị. Nhưng lý tưởng ở người thanh niên lại có một sức dụ cảm hết sức vĩ đại. Cho nên, thanh niên phần nhiều thường hoài bão những lý tưởng quang minh vô hạn. Để thực hiện lý tưởng ấy, họ không kể chi gian lao nguy khổ.
4. Thiện chân rõ ràng: Thanh niên rất thành thực, cần cười thì cười, cần khóc thì khóc, vì thế cái cười cái khóc rất là chân thật, không lẫn một tí gì giả dối. Ý nghĩa của con người chính là ở chỗ ấy. Nếu con người mà sống giả dối, cười giả dối, khóc giả dối thì thật là thương tâm không biết mấy mà nói.

    Vì thanh niên có đủ những mỹ đức như vậy, cho nên có rất nhiều người lớn tiếng bảo rằng “Tuổi thanh niên là đáng quý nhất”. Thậm chí có người nói rằng “Ở đâu có thanh niên thì ở đấy có sức sống”. Hiện tại ở các nước trên thế giới, không nước nào là không có phong trào trọng thị thanh niên và tranh thủ cho thanh niên. Thanh niên là cốt cán của quốc gia, là sức sống của dân tộc. Nếu không có mặt thanh niên, dân tộc sẽ thiếu sinh khí, và quốc gia sẽ không có thể hùng cường trên thế giới!

    Ở quốc gia đã vậy, thì ở tôn giáo cũng thế. Một tôn giáo được phát triển liên tục là một tôn giáo nhiếp thủ được giới thanh niên. Thanh niên tham gia vào một tôn giáo nào thì tôn giáo ấy tự nhiên phát khởi sinh lực, và được quảng đại nhân dân tín phục. Nếu không, tôn giáo ấy sẽ bị nhân quần bỏ rơi, bị bỏ rơi tức phải tiêu diệt.

    Phật Giáo là một tôn giáo, một tôn giáo hợp nhất Đức tin và Lý trí, một tôn giáo Tri Hành Hợp Nhất, thì rất xứng hợp cho giới thanh niên trí thức tiến phụng. Chúng ta cần nhiếp thủ giới thanh niên đầy bầu nhiệt huyết làm tín đồ trung thật của Phật Giáo, làm cho Phật Giáo trở thành Phật Giáo của thanh niên, làm cho Phật Giáo thành thanh niên và thanh niên thành Phật Giáo.

    Tóm lại, thanh niên đầy đủ những mỹ đức là sức sống của quốc gia, của xã hội, của tập đoàn, của tôn giáo. Chúng ta thường nghe nói rằng “thanh niên là chủ nhân tương lai của quốc gia”, câu nói đó chứng tỏ sự quan trọng của thanh niên như thế nào. Phật Giáo đã thể nhận sự thực ấy, và đã đặt thanh niên vào địa vị quan trọng. Như thế Phật Giáo có thể nêu lên khẩu hiệu “Thanh niên là chủ nhân tương lai của Phật Giáo”. Cho nên những bậc hữu tâm với giáo lý Phật Đà không thể không lưu tâm và trọng thị thanh niên. Về phía thanh niên, chúng ta lại càng phải nhận thức sứ mạng trọng đại của chúng ta, những mỹ đức sẵn có của chúng ta để tích cực xây dựng hưng khởi Phật Giáo!

    Thanh niên Phật Giáo và cuộc vận động Tân Phật Giáo

    Ý niệm hai danh từ “Phật Giáo thanh niên” có vẻ như là mới, nhưng kỳ thực rất cũ. Sau khi Phật thành đạo, trong giới xuất gia rất nhiều vị thuộc vào hàng thanh niên đứng vào hàng ngũ vận động tùng sự đạo Phật. Như năm vị Tì kheo, như năm chục vị thanh niên (con các vị trưởng giả Gia Xá) đều thuộc về giới thanh niên tráng kiện. Đạo Phật chính là tôn giáo tượng trưng cho thanh niên, không còn nghi ngờ gì cả. Nói tới đây, tôi thấy cần phải phác họa lại bối cảnh phát sinh của thanh niên Phật Giáo.

    Trước kia, nhân dân Ấn Độ sùng phụng Bà La Môn Giáo nhất, tôn giáo này trọng thị tế tự, cho đó là vạn năng, và bị ràng buộc trong hình thức truyền thừa, phân biệt ra bốn giai cấp, cho nên dần dần không thể thích ứng với xu hướng tiến bộ của xã hội thời đại. Một số tín đồ Bà La Môn vô tri lợi dụng đặc quyền công giáo, không biết dẫn đạo nhân quần, chỉ biết lo vinh thân phì da, nên dần dần Bà La Môn giáo trở thành hủ bại. Thêm vào đó, giáo lý thần bí bất khả trắc nghiệm của chú thực đã đưa Bà La Môn Giáo đến chỗ không thể phóng xả được. Sự xuất hiện của Đức Thế Tôn là do ở chỗ phủ nhận Phệ Đà (hay Vệ Đà)  để mà hưng khởi, Ngài đã sáng lập Phật Pháp một cách rực rỡ trên lưu vực sông Hằng. Sự xuất hiện của Phật trong xã hội Bà La Môn Giáo rạng rỡ không khác nào khi trăng lên thì sao lặn. Nền Phật Giáo trẻ trung do Đức Phật sáng lập nhất định là chứa đầy sinh khí hoạt lực, một tôn giáo chứa đầy sức sống tươi mạnh.

    Trong lúc đầu, ngoài các bậc lớn tuổi gia nhập Tăng đoàn ở Balenai còn có các vị như Anan, Nan Đà, La Hầu La, v.v. là những thanh niên Phật tử kiện tráng. Nhưng đến khi ba vị Ca Diếp và Đầu Đà Ca Diếp gia nhập tăng đoàn thì phái khổ hạnh theo họ, vốn là những người đứng tuổi, gia nhập rất đông. Thời ấy Phật là nguồn sống chính, cho nên vấn đề già trẻ chưa quan trọng. Già trẻ đều ngang nhau. Đến lúc Phật nhập Niết Bàn, quyền hành nằm trong tay Thượng Tọa Bộ. Bộ này giữ mãi tính cách bảo thủ, hình thức giáo điều, theo đường lối của độc thiện chủ nghĩa. Do đó, các vị đã đánh mất dần dần sức sống cần thiết cho sự nhiếp hóa nhân quần thời đại.

    Một trăm năm sau khi Phật nhập diệt, Phật Giáo bắt đầu phân hóa. Nguyên nhân phân hóa tuy nhiều, nhưng nguyên nhân chính vốn là khuynh hướng bột phát của Đại Thừa nhập thế. Phương thức phân hóa tuy không giống nhau, nhưng căn bản vẫn là sự chống nhau giữa khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến.

    Ở Thượng Tọa Bộ, đại đa số là các vị Trưởng Lão, chỉ nhắm đến một hướng giải thoát sinh tử cho cá nhân, còn đối với những khổ đau hiện thực của nhân gian thì bỏ qua. Vì thái độ lãnh đạo như thế nên xa dần nhân quần, lạc hậu sau thời đại, và đã biến thành đạo lý xuất thế Tiểu thừa. Trong Đại chúng Bộ, phần nhiều là các vị Tì Kheo thanh niên, nhận thấy Phật Giáo càng ngày càng chìm mãi xuống, và sự thật Phật Giáo tiêu thất trong nhân gian, cho nên mới tập họp đại chúng thanh niên, nỗ lực xiểng dương giáo lý tự hành và hóa tha, có xu hướng trọng thị về thời đại và nhân tâm, tích cực đưa Phật Giáo Đồ từ độc thiện chủ nghĩa đến hiện thực chủ nghĩa. Hiện tượng đó khởi mở như một nguồn sinh lực vĩ đại mới mẻ, Đại Thừa giáo từ đó phát triển đến một con đường mới, và Phật Pháp được lưu hành rộng rãi trong nhân gian.

    Như vậy, trên cột cao chót vót của sinh lực thanh niên, lá cờ Phật Giáo phất phới tỏa rạng, và Phật Pháp mới được phát triển, cống hiến cho nhân loại những kho tàng văn hóa vĩ đại. Có thể nói rằng đưa Phật Giáo đến con đường tích cực tiến thủ thích ứng với thời đại, đó là công trạng của thanh niên. Giả thử nếu không có lớp thanh niên đầy nhiệt huyết và sức lực kia thì làm sao mà Đại Thừa Phật Giáo có thể xuất hiện? Đại Thừa Phật Giáo xuất hiện ở nhân gian là do lực lượng của thanh niên Phật Giáo vậy!

    Không những chỉ một trăm năm sau Phật nhập diệt mới có hiện tượng thanh niên phát huy Phật Giáo mà suốt trong 2500 năm lịch sử, luôn luôn ta thấy mỗi lần Phật Giáo hưng thịnh là mỗi lần có những cuộc vận động Phật Giáo trong hàng tăng thanh niên. Nay ta hãy lấy ví dụ về Phật Giáo Ấn Độ: sự phân phái của Phật Giáo ban đầu chia làm hai Đại Bộ tuy là động cơ cho nền Phật Giáo Đại Thừa mới phát sinh, tuy nhiên trong vòng 500 năm, Tiểu Thừa Phật Giáo vẫn còn thịnh hành. Trong thời đại đó, sở dĩ Đại Thừa chưa hưng thịnh là vì trong tăng giới chưa xuất hiện các bậc xuất gia Bồ Tát, mà mới chỉ có các bậc xuất gia Thinh Văn. Đến 600 năm sau khi Phật nhập diệt, Thánh Long Thọ xuất hiện trong giới Phật Giáo Ấn Độ, mới đường đường chính chính nêu cao lá cờ Đại Thừa Phật Giáo. Kinh sách trong thời đó, dưới sự hoằng dương của Ngài đã phát sinh không biết bao nhiêu biến chuyển quan trọng. Lý do là các học giả Đại thừa trước Ngài tuy đã có phát huy giáo lý Pháp Tính Không Tịch, nhưng vẫn không dám có những nhận thức và lý luận cách mệnh. Đến khi Long Thọ ra đời, Ngài sáng lập Quán Pháp Tinh Nghiêm và Miên Mật, phê bình tất cả các học giả Thanh Văn Nhị Thừa, xác lập giáo nghĩa tam thừa cộng học, tách rời một cách phân biệt với học giả Thinh Văn. Vì vậy học giả đại thừa ở Ấn Độ đều tôn Ngài làm Đại Thừa Tỵ Tổ. Ở Trung Quốc, người ta cũng xem Ngài như là Tổ chung của Tám Tôn Phái Đại Thừa.

    Truyện ký chép: Thánh Long Thọ có ý chí cách tân Phật Giáo, từ Tăng đoàn Thanh Văn truyền thống mà biệt lập thành một Tăng đoàn Bồ Tát của Đại Thừa. Xướng xuất cổ súy vận động Đại Thừa với một bầu nhiệt huyết như thế, đương nhiên không phải là việc mà một ông già có thể làm được. Cho nên chúng ta có thể nhận định rằng Long Thọ Bồ Tát làm đại diện gương mẫu cho một tầng lớp thanh niên Phật Giáo có ý chí dũng nhuệ. Nếu không có tinh thần và ý chí ấy, làm sao Ngài có thể hoằng dương được đạo lý Duyên Khởi Tính Không của Đại Thừa Giáo? Ta còn nghi ngờ gì nữa, mà không đồng ý với nhau rằng trang thanh niên anh tuấn là Long Thọ ấy chính là nguồn gốc phát triển của cả nền Đại Thừa Giáo huy hoàng của chúng ta ngày nay?

    Trở về với lịch sử Phật Giáo Trung Hoa, ta thấy từ lúc du nhập đến nay Phật Giáo Trung Hoa đã có những thời đại hưng thịnh huy hoàng. Hưng thịnh nhất là ở cuối đời Thanh, và đặc biệt lại là lúc khởi đầu của chính thể dân chủ. Trong thời đại đó, vị lãnh tụ của cuộc Tân Vận Động Phật Giáo Trung Quốc là Thái Hư Pháp Sư, chủ trương lấy tư thái anh dũng của thanh niên Phật Giáo làm động lực phát khởi cuộc vận động. Giới xuất gia thanh niên Phật Giáo Trung Hoa hưởng ứng lời hiệu triệu của Người, chịu ảnh hưởng giáo huấn của Ngài rất là sâu đậm, và đã thành lập được các tổ chức “Tân Phật Giáo thanh niên hội” và “Phật Giáo Tân Thanh Niên Hội”, v.v. ủng hộ Thái Hư Pháp Sư để thực hành phong trào: “Công trình của con người – cuộc vận động tân tăng hóa của nền Phật Giáo”.

    Trong 8 điều khoản do thanh niên Phật Giáo đề xướng, điều thứ nhất là “bài trừ những tập khí hủ bại tích lũy từ ngàn năm của nền Phật Giáo già nua đã mất hết sinh lực, và phát huy tinh thần chân chính của Phật Giáo, của thế giới mới”. Do điều khoản ấy, ta có thể thấy được tinh thần vận động của nền Tân Phật Giáo Trung Quốc mãnh liệt biết chừng nào. Kế đó, vỏ xương Phật Học Viện và học hội chính thức triển khai phong trào vận động thế hệ tăng già mới.

    Từ cuộc vận động tân tăng trở đi, khí lực của nền Phật Giáo mới phát triển tận hang cùng ngõ hẻm, làm cho cả nền Phật Giáo trầm trệ của Trung Quốc tỉnh dậy vươn lên với sắc thái mới. Cho nên khi nói đến công cuộc vận động của nền Tân Phật Giáo Trung Hoa từ hồi thành lập chế độ dân chủ đến nay, ta phải nhớ đến Thái Hư Đại Sư, vị lãnh tụ mà công đức vô biên, vô lượng đã cổ võ nên một tinh thần đại vô úy biểu hiện nơi một thế hệ thanh niên đầy sinh khí hùng lực. Công đức ấy, rất đáng cho chúng ta ca tụng! Cận đại, Phật Giáo trong tình trạng chính trị cách mạng của Trung Quốc, đã không được tiến triển theo đà mong muốn, nhưng hiện vẫn còn nhiều tăng tài đang nỗ lực hoằng dương Phật Pháp. Các tăng tài ấy là kết quả đẹp đẽ của cuộc vận động mới của Phật Giáo thanh niên!

    Đạo Phật trẻ trung cần phải có mặt của người Phật tử trẻ tuổi, thanh niên Phật Giáo phải nhận thức sứ mạng mình trong công cuộc vận động nền Phật Giáo mới. Điều này đã được chứng minh bằng những sự kiện trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ.

    Hiện nay, Phật Giáo không còn ở trong giai đoạn quốc gia mà đã đi đến giai đoạn trở thành Phật Giáo quốc tế, thanh niên Phật Giáo toàn thế giới phải cổ võ tinh thần cố hữu của thanh niên, tiến hành công cuộc vận động liên hợp, để xúc tiến sự thực hiện nền Phật Giáo nhân gian, cứu vãn tình trạng khẩn trương của nhân loại.

    Tới đây tôi xin phác họa lại hình bóng người thanh niên Tăng kiểu mẫu trong giới Phật Giáo Thanh niên Tăng già. Người thanh niên kiểu mẫu trong giới thanh niên Phật Giáo, theo ý chúng tôi, phải được nhận định qua gương mẫu người thanh niên hồi Phật tại thế. Hồi Phật còn tại thế, thanh niên Phật Giáo rất đông, ta hãy chỉ lấy Ngài Anan (Ananda) làm ví dụ. Anan là em Phật, sinh sau ngày Phật thành đạo ít lâu. Lúc lên 20 tuổi, nghĩa là lúc niên phú lực cường, đã đi xuất gia cùng với một nhóm thanh niên khác trong đó có A-Na-Luật (Aniruddha). Sự xuất gia của ông Anan, đối với Giáo đoàn đương thời, đối với Phật Giáo ngày nay, nhất định là có những ảnh hưởng rất thâm thiết.

    Trong Tăng đoàn, Anan tuổi nhỏ hơn hết, nhưng trí nhớ lại bền bỉ hơn hết, tướng mạo cũng rất khôi ngô tuấn tú. Đức Văn Thù tán thán Anan như sau: “Tướng như trăng tròn mùa thu, mắt như bông sen thanh sạch, Phật Pháp rộng như biển cả đều lưu nhập trong con người Anan”, như thế ta biết Anan là nhân vật thế nào! Sau Phật thành đạo chừng 22 năm, nghĩa là vào lúc Ngài trên 50 tuổi, Anan được làm thị giả thường trực của Đức Phật, và không có lúc nào không làm vừa ý Ngài, vì chí cầu đạo của Anan rất thâm thiết và tinh tấn, nhưng vì phải hầu Phật cho nên chậm trễ trong công việc đoạn hoặc chứng chân.

    Cho đến khi Phật nhập diệt, Ngài Đầu Đà Ca Diếp được giao quyền mới khai hội kết tập Kinh tạng. Ban đầu không muốn đưa Anan vào trong Hội đồng kết tập, nhưng sau vì đại chúng ủng hộ Ngài Anan quá, nên phải gắng gượng mời vào tham dự, nhưng sau đó lại trách Anan “lục đột kiết la”, nói rằng Anan “không thấy tội tướng, kính tiến Đại đức, nay phải hối hóa mới được”. Vì đại sự, vì công việc kết tập diệu pháp mà Anan làm thinh nhẫn thọ sự trách nạn đó của Thượng Tọa Bộ để mà tụng đọc hết Kinh tạng. Đức nhu hòa từ nhẫn của Anan thật ít người có thể sánh kịp.

    Theo Đại thừa kinh, Anan bị nạn Ma Đăng Già dâm nữ, Phật sai Văn Thù đến cứu về, liền đứng trước Phật phát đại nguyện “như nhất chúng sinh chưa thành Phật thì con sẽ không chứng Niết Bàn ở đây”. Tinh thần vị pháp vị nhân ấy, những kẻ có chí lợi hành mấy ai bì kịp? Tóm lại, công trình làm thị giả, công trình cống hiến cho nền văn hóa Phật Giáo chứng tỏ Anan có đầy đủ cái mỹ đức “nhu hòa từ nhẫn”. Đó chính là con người mô phạm cho giới thanh niên Phật Giáo.

    Người thứ hai mà tôi thấy cần nêu lên là Thiện Tài Đồng Tử. Theo như lời giới thiệu ở phẩm Nhập Pháp Giới trong kinh Hoa Nghiêm, thì Thiện Tài Đồng Tử là người Phước Thành, bên bờ biển Mạnh Gia Lạp Loan. Cha tên là Phước Đức, trưởng giả, nhà cửa giàu có, nhưng đã muộn mới sinh Thiện Tài Đồng Tử. Thiện Tài lớn rất mau, tráng kiện, thông tuệ hoạt bát, chân thành. Trưởng giả rất sung sướng, quý như vàng ngọc. Có một điều khác thường là Thiện Tài không muốn làm một thương gia mua bán như thế gian mà lại chỉ muốn làm người sưu tầm chân lý, tìm tòi sưu tập các thiện tài Pháp Bửu, để cung cấp cho kẻ ưa thích chân lý. Một hôm, Văn Thù Bồ Tát du hóa Nam Phương, đến Phước Thành, diễn thuyết Pháp Âm ở Đại Tháp Tự cho quần chúng nghe. Thiện Tài nghe xong, tiếp nhận lời sắc lệ của Đức Văn Thù, lập tức phát Đại Bồ Đề Tâm, hành đại hạnh thực tiễn của Đức Phổ Hiền. Đức Văn Thù biết đây không phải là một Pháp khí tầm thường, liền khen Thiện Tài rằng: “Thiện Tài! Phát được Bồ Đề Tâm thật là một điều khó! Theo học tập Đại hạnh của Bồ Tát để hoàn thành chí nguyện tối cao thật là cái khó trên tất cả các cái khó”.

    Nhờ sự tưởng lệ của Đức Văn Thù, Thiện Tài liền sung sướng yêu cầu Ngài khai thị tất cả hạnh nguyện Phổ Hiền. Văn Thù liền chỉ cho Thiện Tài theo đòi tham khảo các thiện tri thức. Thiện Tài tham phỏng đến 53 vị Đại thiện tri thức, “Ngũ Thập Tam tham”. Tham phỏng không có nghĩa là đi du sơn du thủy như chúng ta đi hành hương hỏi đạo ngày nay mà là trải qua muôn vạn gian khổ hiểm nguy. Nhất là khi Thiện Tài đến tham phỏng Thắng Nhiệt Bà La Môn, thấy ông và những bạn đồng hành qua lại trong lưới lửa mãnh liệt, đi trên đỉnh núi đao nhọn, v.v.

    Kẻ khác thấy thế hẳn tiêu ma ý chí. Nhưng Thiện Tài đã không phải là một thanh niên mới phát tâm, con nhà giàu sang quen sống yếu đuối trong nhung lụa. Thiện Tài đã hăng say nhảy vào cải hóa kẻ ác tri thức, xông vào núi lửa, núi đao. Đó thật là dũng khí tinh tiến của Đại Bồ Tát. Thực ra núi đao và núi lửa đâu có, chính chỉ là hóa hiện của Bồ Tát để thử thách người thanh niên đó. Sự phát tâm của Thiện Tài là một sự phát tâm chân thành, nên khi xâm nhập vào lưới lửa liền thấy mình bước vào lâu các của Đức Di Lặc, thấy được cảnh giới của Ngài Phổ Hiền. Một trong thanh niên như Ngài Thiện Tài há chẳng phải là một gương mẫu cho giới thanh niên Phật Giáo sao?

    Một lần nữa trở lại Phật Giáo sử Trung Hoa, chúng tôi xin giới thiệu với Quý Ngài một vị có công nhất của Phật Giáo Trung Hoa: Ngài Tam Tạng Pháp Sư, người rất đáng làm gương cho thanh niên Phật Giáo chúng ta. Ngài Huyền Trang xuất gia năm 13 tuổi. Tuy còn nhỏ mà chí nguyện rất lớn. Khi chưa du học ngoại quốc, Ngài đã lão thông tất cả kinh sách Phật Giáo đang lưu hành tại Trung Hoa. Tuy vậy, Ngài vẫn chưa thỏa mãn và thấy cần phải tìm học cho đầy đủ hơn. Ngài liền lập đại nguyện sang Ấn Độ cầu pháp.

    Năm 26 tuổi, Ngài du học Ấn Độ với một tinh thần hăng hái, đến nỗi Ngài coi thường mọi sự gian lao nguy hiểm. Đối với việc hoằng dương chánh pháp ở Đông Phương, Ngài có những câu nguyện súc tích vĩ đại như: “Xả ngã kỳ thùy”. Vì vậy, Ngài coi thường tất cả luật lệ mà chính phủ nghiêm cấm. Ngài không kể gì đến muôn ngàn nguy hiểm khi vượt biên thùy, miễn làm sao ra khỏi địa vức Trung Hoa là được. Ngài tập trung tất cả tinh lực trong việc phiên dịch tam tạng kinh điển. Sự nghiệp của Ngài không ngoài Phật Pháp. Ngài không để ý đến việc gì khác hơn là muốn cho Phật Giáo Trung Quốc được mở mang sáng tỏ, có một cơ đồ vĩ đại, vững chắc. Vì vậy Phật Giáo Trung Quốc mỗi ngày mỗi phong phú hơn lên. Trong công việc phiên dịch, Ngài tỏ ra rất chuyên cần, thường nhân chắc chắn không bao giờ làm được những chuyện vĩ đại như thế.

    Sách truyện ký còn cho chúng ta biết: mỗi đêm vào canh ba, Ngài đi ngủ và đến canh năm thì đã lo thức dậy dịch kinh. Khí hậu nóng lạnh có thay đổi nhưng sự tinh tấn của Ngài không bao giờ đổi thay. Ròng rã trong mười năm như một, Ngài không bao giờ bị mỏi mệt, chán nản, một lòng trung thành với nguyện lực của mình. Trong lịch sử Đông Tây xưa nay, thật chưa có người thứ hai nào như thế.

    Chẳng những như thế, đối với tất cả công danh phú quý ở thế gian không bao giờ làm cho Ngài bận tâm. Khi sang Ấn Độ, đi qua nước Cao Xương, Ngài bị vua nước ấy lưu lại tôn làm Quốc sư nhưng Ngài không mảy may ước muốn, Ngài lại cự tuyệt để tiếp tục cuộc hành trình. Trong thời gian ở Ấn Độ, có một vị vua danh tiếng là Vua Giới Nhựt khẩn thỉnh Ngài làm Quốc sư và tha thiết cầu Ngài ở lại truyền bá Phật Pháp cho dân Ấn lâu dài hơn. Nhưng Ngài chỉ thọ nạp sự cúng dường và lễ bái của Vua Giới Nhựt chứ không chịu ở lại. Ngài gấp rút trở về Trung Quốc để thực hiện công việc dịch kinh mà Ngài đã phát nguyện.

    Về đến Trung Quốc, vua Đường Thái Tôn, quần thần và dân chúng nghênh tiếp Ngài trùng điệp thành hàng 10 cây số và khuyên Ngài hoàn tục, làm tể tướng cho nhà Đường. Tưởng rằng Ngài sẽ nhận với tất cả sự vinh hạnh, nhưng Ngài cam chịu ở trong thất hẹp với ngọn đèn dầu trong cuộc sống đạm bạc. Lúc ở Ấn Độ, trong khi dân chúng có thiết lập những cuộc biện luận đại hội, Ngài đã đem thắng lợi về một cách vẻ vang. Vua 18 nước cúng dường cho Ngài vô lượng trân châu bảo vật nhưng Ngài không thọ nạp. Hành động của Ngài không vì cao vị và hậu lộc mà chịu nghèo khổ để giữ trọn chí đạo. Đông Tây sử xưa nay có ai sánh bằng?

    Các bạn! Chúng ta là thanh niên Phật Giáo và Phật Giáo ngày nay rất cần những bàn tay rắn chắc, những chí nguyện kiên hùng của tuổi thanh niên, của những người như Ngài Huyền Trang thuở trước. Do đó, chúng ta hãy theo gương tinh thần cầu pháp của Ngài Huyền Trang để răn nhắc khích lệ lấy mình luôn luôn hướng thượng. Phải theo gương nguyện lực hằng thường tinh tiến của Ngài Huyền Trang để bồi dưỡng đức tính kiên khổ của mình. Hãy theo gương sự không luyến nhiễm lợi lộc thế tục của Ngài Huyền Trang để trang nghiêm phẩm đức cao thượng của mình. Tóm lại, mỗi hành động, chúng ta hãy lấy Ngài Huyền Trang làm khuôn mẫu. Nghĩa là Ngài như thế nào chúng ta phải như thế ấy. Chỉ có tinh tiến không ngừng mới có thể nối gót Ngài Huyền Trang, mới có thể tự thực hiện nơi bản thân người thanh niên Phật Giáo của thời đại được.

    Theo gương các vị ấy, thanh niên Phật Giáo chúng ta cần phải có Đại Bi  Nguyện Lực

    Tôi từng nói: “Phàm là thanh niên Phật Giáo chân chánh, ai cũng phải để hết tâm ý vào việc hoằng truyền Phật Giáo mà rất hy vọng Phật Giáo được phổ biến khắp hang cùng ngõ hẻm trên thế giới, bằng cách mỗi người đều phải nhận lãnh nhiệm vụ của mình.

    Chúng ta phải thực hiện lý tưởng như thế nào? Phật Giáo ngày nay có thể có nơi không được phổ biến và phát triển vì các địa phương ấy ta thường gặp những trở ngại của ngoại đạo gây nên. Nếu không chống đỡ, chúng ta sẽ vô tình làm cho Phật Giáo suy đồi. Đối với tiền đồ Phật Giáo, là thanh niên chúng ta không nên thối chí nản lòng vì thanh niên Phật Giáo còn thì Phật Giáo sẽ có hy vọng phục hưng. Nghĩa là thanh niên Phật Giáo phải đảm đương gia nghiệp của Đức Như Lai, mà không bao giờ nhượng bộ trước ma lực. Nhưng làm thế nào để vượt khỏi những áp lực đang cố vươn lên để đè bẹp chúng ta? Đó là một vấn đề quan trọng. Tôi thiết tưởng vấn đề này rất trọng yếu.

    Thanh niên Tăng cần phải phát “Đại Bi Nguyện”. Muốn thế không gì hơn là phải thực hành những hạnh nguyện của các vị Bồ Tát. Là thanh niên Phật Giáo, nếu chẳng có hạnh nguyện thì những việc làm khó mà thành tựu. Bi là cứu khổ. Nguyện là mong cầu những gì cao đẹp. Cả hai chẳng khác hai bánh xe, nếu thiếu một thì không được. Trong kinh, Phật thường nhắc đến hai vị Bồ Tát. Đức Quan Âm và Đại Nguyện Địa Tạng tiêu biểu cho Bi và Nguyện. Mặc dù danh từ có hai nhưng trong tâm niệm mỗi Ngài đều có đủ hai đức ấy. Muốn rõ ràng hơn, chúng ta hãy tiếp tục phân tích và tìm hiểu. Bi nói cho đủ là “Từ Bi”, là căn bản của Phật pháp, là pháp môn trọng yếu nhất của đạo Phật. Nếu không có Bi Nguyện tất không có Phật và Bồ Tát. Và nếu chẳng có Phật và Bồ Tát thì không có Giáo Pháp. Trong kinh Phật có câu: “Đại Bi là trên hết” hoặc “Chư Phật đều dùng tâm niệm Đại Bi làm thể”

    Qua những chứng giải ấy ta thấy, từ bi được coi là yếu tố nòng cốt trong Đạo Phật. Hãy lấy Đức Giáo Chủ để làm tiêu chuẩn cho vấn đề. Khi còn làm Thái Tử, Ngài đã đi du hành và nhìn thấy tận mắt cái cảnh người vật xâu xé lẫn nhau, cảnh những nông phu đang lao mình vào công việc, phải tốn bao giọt mồ hôi để đổi lấy bát cơm. Ngài đã phát “Đại Bi Nguyện”, xuất gia tìm chân lý với một chí hướng cao đẹp là đưa mọi chúng sinh đến chỗ an lạc.

    Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là một vị đã thực hành triệt để Đức Đại Bi. Chẳng những Ngài đã tinh tấn thực hiện chí nguyện Đại Bi mà Ngài còn thực hiện công việc tự lợi, lợi tha một cách viên mãn. Đấy là khai thị chúng sinh thấu rõ chân lý. Đức tính Đại Bi cũng là hạnh nguyện duy nhất của Ngài. Tâm Đại Bi vốn sẵn có trong mọi người. Nhà Nho có câu: “Trắc cáp chi tâm nhân giai hữu chi”, câu nói này đã minh chứng được điều ấy. Tâm Đại Bi không phải do một ngoại duyên kích phát mà lại phát sinh tự lòng. Mục đích duy nhất của Đại Bi Tâm là giải tỏa mọi thống khổ của chúng sinh và đưa chúng sinh đến chỗ an lạc. Đấy là dùng Đại Bi Tâm để tu hạnh Bồ Tát.

    Khởi đầu của sự tu Đại Bi Hạnh thật ra không khó gì cho lắm, chẳng qua vì chúng ta chưa quen mà thôi. Khi chúng ta đã thấy một người bị tai nạn, không luận kẻ đó thân hay sơ, tâm thương xót của chúng ta tự nhiên sẽ bùng dậy trong cõi lòng một cách mãnh liệt. Chính trong phút tâm niệm chúng ta đã hoài mong người ấy thoát khỏi được cảnh khổ. Thường học hạnh đại bi như thế, tu tập trải qua một thời gian dài, tự nhiên ta thâm nhập pháp môn đại bi. Đến khi ấy, tâm đại bi đã ăn sâu vào cốt tủy thì chúng ta tự nhiên thấy cần phải vì sự khổ đau của nhân loại và nhất thiết chúng sinh mà sinh hoạt động. Kinh nói: “Đại Từ Bi Bồ Tát” tuy đối với tất cả được tự tại nhưng đối với Tâm Đại Bi không thể tự tại. Tâm Đại Bi khiến các người đến đâu thì quý vị phải đi đến nơi ấy, không thể để quý vị được tự do tự tại! Vì vậy chúng ta muốn vì người, vì đời, thì không thể không có lòng từ bi.

    Hiện tại, chúng ta đang ở trong thời kỳ khổ nạn; toàn thể nhân loại đang bị uy hiếp, tiêu diệt bởi bom nguyên tử. Đây chính là lúc những kẻ có bi tâm cần phải lo lắng, chính là lúc này thanh niên Phật Giáo chúng ta cần phải phát Đại Bi Tâm; nên chi tôi hy vọng toàn thể thanh niên Phật Giáo đều phát tâm Đại Bi, tu hành Đại Bi.

    Có Bi tâm chưa đủ, chúng ta lại cần phải có nguyện lực. Vì có bi mà không có nguyện thì không thể cứu khổ cho loài người được. Loài hữu tình trong địa ngục đang khổ, nhưng mà không nguyện xuống địa ngục để cứu rỗi họ thì “Bi” có ý nghĩa gì? Nên chi những thanh niên Phật Giáo phải phát Đại Bi Tâm, tiến lên một từng nữa, phải phát đại nguyện rộng như bể cả. Chúng tôi nghĩ rằng, nếu thanh niên Phật Giáo xem thường Đại Nguyện, cái gì cũng nghe theo tự nhiên, thì sẽ không làm nên việc gì cả! Người thanh niên không có chí nguyện cao cả thì không thể thành công, ngay trong những công việc trong thế gian này người ấy cũng không thể thực hiện được. Vì vậy một thanh niên Phật Giáo cần phải lập chí thệ nguyện.

    Ngài Ngẫu Ích nói rằng: “Xuất thế trượng phu, dĩ Phật Tổ vi kỳ, dĩ tử hoằng vi uyển, dĩ lục độ vạn hạnh, vi gia trà phạn (cơm nước) dĩ tự lợi, lợi tha vi mục đích”. Như vậy không có hoằng nguyện thì không thể thành! Đặc biệt nhất là ở trong thời đại này, những sự nghiệp vì người vì đời, rất cần đến tuổi thanh niên của quý vị đảm đương. Để cứu bạt nỗi khổ đau của nhân quần, ta phải củng cố nền Phật Giáo hiện tại, đem lại hòa bình cho thế giới ngày mai. Những công việc vĩ đại ấy đều rất cần đến tuổi thanh niên của quý vị.

    Là thanh niên Phật Giáo phải có các nguyện lực cứng rắn: phải nỗ lực, không e dè, không trốn tránh trước sự nguy hiểm. Là người thanh niên Phật Giáo, ta mang bầu nhiệt huyết đem lại vinh quang cho Phật Giáo nước nhà mai sau! Ngày mai, chỉ có hạng thanh niên phát thệ sâu rộng như bể cả ấy mới có thể đưa Phật Giáo đến một giai đoạn quang huy thiết thực! Như vậy, người thanh niên Phật Giáo tuyệt đối không thể thiếu những nguyện lực kiên cố này!

    Đại thừa Phật Giáo nói đến các vị Đại Bồ Tát: các vị đều đã có đủ nguyện lực rộng lớn ấy. Sở dĩ các Ngài vào trong ác thú, không phải bị nghiệp lực dắt dẫn mà là do nguyện lực của các Ngài nguyện vào đó mà thôi. Đức Quan Âm Bồ Tát phát đại nguyện: “Phát Đại thanh tịnh nguyện, hoằng thệ thâm như hải…” Đức Địa Tạng Bồ Tát: “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, chúng sinh độ tận, phương chứng bồ đề”. Những đại nguyện trên đều là gương cho Phật Giáo thanh niên chúng ta! Thanh niên Phật Giáo muốn học Phật một cách đứng đắn, trước tiên phải học Bi Nguyện của các vị Bồ Tát, do tâm Đại Bi Nguyện này, mới ủng hộ Phật Giáo, mới cứu độ nổi khổ ải của chúng sinh! Đến đây xin kết luận:

    KẾT LUẬN:

    Lực lượng thanh niên thật vĩ đại. Lực lượng của thanh niên tăng già Phật Giáo lại càng vĩ đại hơn. Thanh niên Phật Giáo ôm một hoài bão, một Bi Nguyện lớn lao, đoàn kết, đại hùng vô úy, dũng mạnh tiến tới, nhẫn nại lao khổ, vì Phật Giáo, vì thế giới, vì nhân loại mà làm nên sự nghiệp sáng rỡ cho nền đạo lý. Nhất là đối với những ác ma phản lại tôn giáo, chúng ta lại càng phải kiên cường phấn đấu đến cùng. Phật và Ma không thể cùng đứng chung, tà chính không thể cộng tồn, chúng ta phải kế thừa sự nghiệp Long Thọ và hoằng dương Đại Thừa Tánh Không, theo tinh thần Vị Pháp vong thân của Đề Bà Bồ Tát. Như vậy, ta không nên sợ đầu sợ đuôi, không nên tổn hợp với thế lực tà ác. Chúng ta nhất định theo chính kiến Phật Pháp, biến phá nhất thiết tà kiến, nêu cao ngọn cờ chánh pháp. Phật Giáo ngày nay là Phật Giáo của thanh niên. Thanh niên Phật Giáo phải vì nền đạo đức trẻ trung của mình mà nỗ lực phấn đấu! Xin cám ơn các Thượng Tọa, các Pháp Sư và các bạn thanh niên nam nữ học tăng kính ái.

    Cắt đứt con đường ngôn ngữ

    Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.

    Vacchagotta tới thăm Bụt. Ông hỏi:
    – Này sa môn Gautama, có một linh hồn hay không?

    Bụt im lặng không trả lời.

    Lát sau Vacchagotta hỏi:
    – Như vậy là không có linh hồn phải không?

    Bụt cũng ngồi im lặng.

    Sau đó Vacchagotta đứng dậy chào và đi ra.

    Sau khi Vacchagotta đi rồi, Thầy A Nan hỏi Bụt:
    – Tại sao Thầy không trả lời cho Vacchagotta?

    Và Bụt bắt đầu cắt nghĩa…

    *

    *    *

    Trong truyền thống thiền cũng có những cuộc đối thoại tương tự.

    Có một thiền sinh tới tham vấn vị Thiền sư.

    Theo truyền thống, vị thiền sinh nào được vào tham vấn đều được vị thị giả mời một chén trà.

    Vị thiền sinh chắp tay hỏi:

    – Con chó có Phật tánh không?

    Vị Thiền sư nói:

    – Uống trà đi

    Sau đó có một vị thiền sinh khác đến tham vấn.
    Vị này chắp tay hỏi:

    – Bạch Thầy, như vậy là con chó không có Phật tánh, phải không?

    Vị Thiền sư nói:

    – Uống trà đi.

    Sau khi vị thiền sinh thứ hai này đi rồi, vị thị giả của thiền sư chắp tay hỏi:

    – Bạch Thầy, tại sao vậy? Tại sao hỏi con chó có Phật tánh hay không thì Thầy nói uống trà đi. Và khi hỏi con chó không có Phật tánh phải không thì Thầy cũng nói uống trà đi. Như vậy nghĩa là sao? Xin Thầy cắt nghĩa cho con.

    Vị Thiền sư nhìn vị thị giả và nói:
    – Uống trà đi.
    *

    *     *

    Phương pháp của Thiền là cắt đứt con đường nói năng và dập tắt khung trời khái niệm trong đó ý thức cứ tiếp tục tư duy và đi tìm kiếm những ý niệm để cố gắng tìm hiểu thực tại (ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt).

    Ngôn ngữ đạo đoạn là cắt đứt con đường ngôn ngữ.

    Tâm hành xứ diệt nghĩa là dập tắt vùng trời của sự suy tư bằng khái niệm, đừng để tâm ý đi tìm những ý niệm: có-không, sanh-diệt,… đi tìm những ý niệm đó để mong cắt nghĩa sự thật.

    Cho nên những câu: “Uống trà đi, uống trà đi, uống trà đi” lặp lại ba lần cho ba người, có nghĩa là:”Hãy chấm dứt con đường suy tư đi, hãy dập tắt vùng trời khái niệm đi thì mới có cơ hội tiếp xúc với sự thật”.

    Trong câu chuyện của vị Thiền sư này, câu nói “uống trà đi” không những giúp cho hai vị thiền sinh cắt đứt được con đường suy tư và dập tắt được khung trời khái niệm, mà cũng giúp được cho cả vị thị giả làm được chuyện đó.

    *

    *      *

    Tôi nghĩ câu chuyện gặp gỡ trong kinh Vacchagotta cũng như vậy, và câu chuyện ấy đã có thể đã bị cắt đứt mất một đoạn.

    Khi thầy A Nan hỏi: “Đức Thế Tôn, tại sao đức Thế Tôn không trả lời ông ta?”, thì có lẽ lúc đó đức Thế Tôn cũng đã im lặng, không trả lời thầy A Nan. Cái đó mới đúng, cái đó mới thiệt là Thiền.

    Có thể người ghi chép kinh đã sơ sót không ghi vào chi tiết này và bắt đức Thế Tôn phải bắt đầu cắt nghĩa. Cho nên mình có thể phục hồi lại được câu chuyện giữa Bụt và Vacchagotta, một câu chuyện rất Thiền như sau.

    Sau khi giữ im lặng hai lần đối với Vacchagotta thì Bụt cũng giữ im lặng với thầy Ananda.

    Bụt có ý nói: “Này em Ananda, em cũng nên tìm cách chấm dứt con đường của sự nói năng và dập tắt khung trời khái niệm thì mới có cơ hội tiếp cận với sự thật”. Lần này thì trong kinh đã nói rõ là Bụt phải cắt nghĩa cho A Nan, tại sao Ngài đã giữ hai lần im lặng?

    *

    *      *

    Mấy câu đầu của sự cắt nghĩa nghe cũng được, không đến nỗi nào, cũng có khả năng nói đúng với ý của Bụt. Đó là câu: “Này Ananda, khi Vacchagotta hỏi là có ngã hay không, nếu  tôi nói có ngã như vậy thì tôi đâu khác gì những vị Sa môn và Bà la môn đang chủ trương thuyết thường tại? Khi Vacchagotta hỏi: “Vậy thì không có ngã phải không?” Nếu tôi trả lời là không có cái ta thì tôi lại đồng ý với những vị Sa môn và Bà la môn đang chủ trương thuyết đoạn diệt. Một bên là cái thấy Thường tại, một bên là cái thấy Đoạn diệt. Cả hai đều là tà kiến.”

    Cắt nghĩa như vậy có thể là đúng với ý của Bụt.

    Nhưng đoạn kinh này thì chẳng hay chút nào:

    “Lại nữa A Nan, khi Vacchagotta hỏi: Có Ngã hay không? Nếu tôi trả lời là có Ngã thì điều đó đi ngược lại với những giáo lý tôi đã dạy lâu nay về Vô ngã. A Nan, khi Vacchagotta nói: Như vậy là không có ngã phải không? Mà nếu tôi trả lời là không có Ngã thì điều đó càng làm cho tâm trí Vacchagotta càng lộn xộn thêm lên. Tại vì ông ta sẽ nói: khổ chưa, lâu nay mình tin là có một cái Ngã mà bây giờ lại không có cái Ngã đó.”

    *

    *     *

    đồi BụtBây giờ ta hãy thử thiết lập lại sự thật để thấy rằng cuộc đối thoại giữa Bụt và Vacchagotta đã thực sự là một cuộc đối thoại rất Thiền, theo tinh thần: ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt.

    Giả sử ta ghi chép như thế này:
    – Sa môn Gautama, có Ngã hay không?

    Bụt im lặng.

    – Sa môn Gautama, vậy thì không có Ngã hả?

    Bụt im lặng.

    Sau đó thì Vacchagotta đứng dậy chào Bụt và từ giã.

    Sau khi du sĩ khổ hạnh Vacchagotta đi khỏi rồi, Ananda hỏi Bụt:
    – Tại sao Thầy không trả lời Vacchagotta?

    Đức Thế Tôn cũng giữ im lặng.

     

    *

    *     *

    Điều này có nghĩa là đức Thế Tôn cũng đã muốn dạy thầy A Nan nên chấm dứt con đường của sự nói năng và dập tắt vùng trời của khái niệm. Kể chuyện như thế là hay nhất và đúng nhất.

    Còn muốn giải thích cho đúng ý của Bụt thì có thể dùng câu Bụt nói trong kinh Ca Chiên Diên (Kātyāyana) là chắc ăn nhất:

    – “Này A Nan, phần lớn người đời đều bị kẹt vào ý niệm có và ý niệm không. Nếu tôi nói có Ngã thì đó là một tà kiến và nếu tôi nói không có Ngã thì đó cũng là một tà kiến khác. Cho nên sự im lặng của tôi là một cơ hội cho Vacchagotta cắt đứt được con đường ngôn ngữ và dập tắt được vùng trời khái niệm, cho nên tôi đã im lặng như vậy. Em cũng thế, em cũng không nên hỏi. Cho nên tôi đã im lặng sau khi em hỏi.”

    Trả lời như vậy chắc chắn đúng ý của Bụt. Vì đó chính là lời Bụt nói trong kinh Kātyāyana. Không ai có thể nói rằng mình đã đặt vào miệng Bụt những câu mà Ngài chưa từng nói.

    Viết tại Nội viện Phương Khê ngày 28 tháng 9 năm 2014.

    Nhất Hạnh

    Hạt dưa đỏ

     

    Những dòng chữ này có lẽ sẽ đến tay Nguyên Hưng vào những ngày cuối năm, trong khi ở các chợ Saigon thiên hạ đang tấp nập mua bán. Tôi có thể tưởng tượng được những núi dưa hấu cao ngất, những trái dưa hình thật tròn, da thật xanh và ruột đỏ thắm. Mùa này, ở đây, không sao tìm ra được một trái dưa hấu. Nếu có thì chắc chắn thế nào tôi cũng mua một vài trái rồi gọt thành những cái đèn dưa thật đẹp rồi.

    Hôm qua tôi có nhận được từ bên nhà gởi qua một gói quà tết, trong đó có mấy miếng trầm, mấy cây đèn bạch lạp, một hộp trà, một ít mức gừng, một ít mức trái tắc, và hạt dưa… Tôi mừng lắm. Tối qua, như một người rất nhàn rỗi, tôi đun nước pha trà, thắp bạch lạp và ngồi cắn hạt dưa một mình. Steve không chịu cắn hạt dưa, nói cho đúng là không biết cắn hạt dưa. Steve cũng không thể ăn mứt gừng; chú ta có nếm một tí và nhăn mặt kêu cay quá. Cậu chỉ uống được trà và nhắm nháp ít trái tắc.

    Steve hỏi tôi ăn cái thứ hạt dưa ấy thì có ích lợi gì. Tôi nói: có nhiều cái lợi lắm chứ. Ở đây tuy người ta ăn rất nhiều trong các cuộc lễ, lễ giáng sinh, lễ tạ ơn vân vân… nhưng người ta không nói đến tiếng ăn. Còn bên xứ chúng tôi người ta nói thẳng thắn là ăn. Ăn Tết, ăn lễ sinh nhật, ăn cưới, ăn hỏi, ăn khảm tháng, ăn ngũ tuần, ăn lục tuần, ăn thượng thọ, ăn giỗ, vân vân… Mà Tết thì kéo dài những ba ngày; trong ba ngày liền phải ăn luôn miệng. Đi đâu, gặp ai mời, cũng ăn, cũng phải ăn. Mà thức ăn cũng mau no, chỉ có hạt dưa là ăn mãi không no. Như vậy cái lợi thứ nhất là ăn mãi mà không sợ phải no.

    Cái lợi thứ hai là ăn hoài mà không sợ hại cho sức khỏe. Ăn cái gì nhiều cũng có thể đau bụng, đau gan, trúng thực nhưng mà ăn hột dưa thì không sao; vì tuy cái miệng ăn hoài mà cái dạ dày không bao giờ đầy. Cái lợi thứ ba là đỡ phải nói chuyện nhất là khi ta không biết chuyện gì mà nói. Dù sao thì cái miệng của tôi cũng đang làm việc mà: Tôi ít nói vì cái miệng tôi đang ăn hạt dưa, chứ không phải làtôi không biết nói chuyện. Cái lợi thứ tư là tránh được cái hại đa ngôn đa quá. Hạt dưa dạy người ta ít nói, dạy người ta im lặng để suy nghĩ về những điều mình muốn nói, dạy người ta biết nghe những người khác. Từ đứa trẻ năm tuổi cho đến ông già tám mươi ai cũng có thể dạy cho ta được nhiều điều bằng các câu chuyện của họ – người ta thường là thế.

    Hạt dưa khiến cho ta chín chắn hơn, và giúp ta tránh được những câu nói vô ích, lầm lỡ, nhất là câu tuyên bố bừa bãi không dựa trên căn bản suy tư và nhận xét nào cả. Trong trường hợp này, biết thì thưa thốt, không biết thì “cắn hạt dưa” mà nghe. Khỏi phải dựa cột. Steve cười ngất khi nghe tôi nói như vậy và bảo rằng tôi có thể viết những ý đó thành bài nói về cái triết học của hạt dưa đỏ.

    Ở nơi Nguyên Hưng ở, bây giờ đã bớt rét chưa? Bên này cố nhiên là trời còn rét lắm. Còn độ hai tháng nữa mùa đông mới qua. Tôi chắc ở chùa Từ Hiếu, các đồi thông đã bắt đầu xanh mướt rồi. Các đọt thông ở đấy vào mùa Xuân sao mà thẳng mà đẹp đến thế. Tôi biết thế nào Nguyên Hưng cũng để rất nhìêu thì giờ đi giữa những cây thông xanh mướt. Tôi chưa bao giờ nỡ bẻ một cành thông, thế nhưng tôi biết những đồi thông mang nhiều thương tích vào những ngày đầu Xuân khi thiên hạ đi hái lộc. Một cái vườn chùa đẹp đến mấy mà sau bữa hái lộc cũng trở thành xác xơ. Tôi nhớ có một năm nọ, chùa Xá Lợi phải trồng một ít cành thông để cho tín đồ hái lộc, như vậy đỡ hại cho những cây cảnh mà chùa phải săn sóc hết hơi mới có lên được.

    Tôi không biết cái gì đã xảy ra vào tối giao thừa. Không lý chùa phải yết thị rằng hái lộc thì chỉ được hái những cây thông còn các cây khác thì chừa ra. Nếu thế thì sẽ không ai hiểu tại sao. Mà nếu hiểu tại sao thì người ta sẽ không hái lộc nữa, bởi vì người ta nghĩ những cành thông kia không phải thực sự hút nhựa từ đất Phật, không thật sự mọc lên từ đất Phật.

    Cái tục hái lộc thì thật đẹp nhưng mà đông người hái lộc quá thì không còn đẹp nữa. Tôi nghĩ đến những buổi cầu nguyện đông đảo những buổi thuyết pháp đông đảo và tôi ao ước chúng ta còn có thể duy trì được những cảnh chùa thật thanh tịnh, những buổi gặp mặt truyền tâm giữa một thầy và một trò. Tôi ưa đi vào một chánh điện thanh tịnh và nhỏ bé, một chính điện dành cho sự đối thoại cá nhân giữa con người và đức Phật. Sự đối thoại ấy mới dễ trở thành một sự đối thoại tâm linh của chính mình.

    Chùa chiền và giáo đường bây giờ có khuynh hướng xây cất cho sự cầu nguyện tập thể. Đó là nhu yếu. Tôi cũng khát khao sự truyền tâm giữa một thầy một trò trong đó trò biết là tất cả con người của thầy đang hướng về mình, kêu gọi sự thức tỉnh và đáp ứng nơi mình, và thầy cũng biết là trước mặt mình cũng chỉ có một trò với tất cả con người trọn vẹn và đặc thù của nó.

    Trong đại hội Linh Sơn, khi Phật đưa cành hoa lên thì chỉ có Ca Diếp mỉm cười. Đột nhiên đại hội Linh Sơn biến mất, sự có mặt của mọi người trở nên không có. Chỉ có hai người: Phật và Ca Diếp là những người thật sư có mặt. Đám đông Nguyên Hưng ơi, trong những trường hợp như thế, chỉ là một con số không.

    Có một buổi chiều đi bộ từ Nam Giao lên chùa tôi gặp một đoàn thiếu niên thiếu nữ Phật tử đi cắm trại từ các đồi thông Từ Hiếu về. Họ đi rải rác, người đi bộ, kẻ đi xe đạp. Người đầu tôi gặp cầm trên tay một cành thông. Người thứ hai cũng vậy. Rồi người thứ ba cũng vậy. Rồi đến cả đoàn.

    Tôi thấy xót ruột và đau xót cho những đồi thông. Có lẽ ngày Tết cơ sự cũng xẩy ra tương tợ như thế. Tết nầy Nguyên Hưng nhớ “bảo vệ” giúp các đồi thông nhé.

    (Trích: Nẻo về của ý – Thầy Làng Mai)

    Chân dung

    “Đất quê hương, tôi đang đếm bằng những bước chân… Lời cầu nguyện cho những khu vườn xanh, có trúc đào, có xương rồng trước ngõ. Chắp tay tôi nhận chịu lửa đỏ như một lời cầu nguyện. Cho tôi thấy phố thấy nhà lần chót. Cho tôi thấy trăng thấy sao. Cho tôi thấy người, thấy đồng bào cười nói. Cho tôi ôm tất cả vào hai vòng tay nhỏ. Tôi đã tìm thấy. Anh chị em ơi, tôi đi nhưng tôi còn ở lại. Sáng mai mặt trời mọc, thơ tôi sẽ tới với người.” Thạch Đức”

     

    Buổi sáng có mặt trời, ơi vũ trụ, ta muốn ôm người vào hai tay. Buổi sáng có chim hót và chị bán xôi đi ngang ngõ trúc, ơi quê hương, ta muốn ôm ngươi vào hai tay. Buổi sáng có chợ họp, ôi thế gian, ta muốn ôm ngươi vào hai tay. Chỉ còn hai mươi giờ nữa thôi, tôi đã không còn có mặt ở đây. Tôi sẽ giao tôi cho lửa.

    Buổi sáng có mặt trời, ôi quê hương, ôi thế gian, ôi vũ trụ. Hiện hữu đẹp vô ngần. Tôi luyến tiếc ngươi, tôi yêu dấu ngươi. Tôi nhớ thương ngươi. Tôi sẽ không mang theo được một lá cây nào, một hạt sõi nào. Mỗi lá cây đều quý hoá vô ngần. Mỗi hạt sỏi đều quý hoá vô ngần.

    Buổi sáng thức dậy, ô hay, mình đã ngủ, mình đã ngủ an lành. Buồn cười chưa, tôi như một trẻ thơ, ngủ ngon như người vô sự. Bàn tay ơi, có phải trách vụ ngươi là đúng sáng ngày hôm ấy sẽ gọi lửa về? Bàn tay áp lên má tôi. Bàn tay ơi, ngươi là người cọng sự trung thành. Bàn tay kẹo bánh. Bàn tay bút phấn. Bàn tay tơ lụa. Bàn tay mái tóc cô nhi.

    Buổi sáng thức dậy, ôi tôi muốn sống. Tôi muốn sống mãi, sống hoài. Mỗi buổi mai hồng, mỗi buổi mai sáng trong, mỗi buổi mai mở đầu cho một ngày đầy như
    một trang giấy trắng tinh đợi chờ chữ nghĩa. Tại sao vũ trụ đẹp lên kỳ diệu vô cùng? Tại vì tôi sắp chết? Tại vì tôi mở mắt? Ôi những vì sao xa ơi, những vì sao xa.

    Buổi mai thức dậy, da mặt tôi, bàn tay tôi và thau nước trong. Tôi muốn bơi trong dòng nước pha lê. Tôi muốn là con cá nhỏ. Buổi mai thức dậy, cửa sổ mở ra
    trên không gian thơm mát khi trời trinh nguyên. Tôi muốn tung bay nói hư không. Tôi muốn là con chim nhỏ.

    Buổi mai thức dậy, trời ơi, có lũ học trò qua ngõ, tíu tít như đàn chim. Các em hãy đi tới, hãy đi tới, hãy hướng về chân trời an lành nơi đó không có đau thương, không giết chóc. Phía sau này tôi lao mình và ngăn, lửa máu. Đi mau về phía trước, các em ơi. Phía sau này, núi đá, trưởng thành, rừng cây tuôn ra ngăn lửa máu.

    Có một chị, có một anh, phía trước kia đang chờ. Lớp học sẽ thỉnh thoảng có chim bướm lạc vào, sẽ có hoa hồng treo cửa sổ đem hương theo quyến rũ. Kẹo bánh chuyền nhau dưới gậm bàn, anh biết vẫn mỉm cười, chị biết vẫn làm lơ. Bài chính tả đọc bằng giọng miền Nam, hỏi ngã mỗi khi viết sai thì chỉ tính bằng nửa lỗi. Tôi thương những mái tóc, tôi thương những cặp mắt, tôi thương cả những vét mực trên áo, trên mặt, cả những dòng mũi chảy thò lò.

    Đường phố thiên hạ đầy người. Cô nghĩ chi, bác nghĩ chi? Anh lo gì chị buồn gì? Mỗi người một nỗi lo, mỗi người một tâm sự. Mọi người đi theo công việc mình buổi sáng. Tôi cũng đi lủi thủi một mình. Tôi đi dưới đất mà là đi trên cao. Tôi còn ở đây nhưng tôi đã đi rồi. Hai mươi giờ đồng hồ còn lại. Tôi không hé môi tâm sự với một người nào. Tôi không cô đơn, tôi không cô đơn. Bạn bè ơi, loài người ơi, anh chị ơi, tôi thương. Tôi thương trái đất chúng ta, và nước mắt tôi tuôn trào. Tôi cúi đầu dùng tay áo lau nước mắt. Tôi mỉm cười chữa thẹn. Tôi còn biết thẹn bởi vì tôi còn thương yêu, luyến tiếc. Một mình tôi, tôi đi.

    Bạn bè ơi, thôi cho tôi xin đi, đừng giận dỗi. Xin đừng tiến lại gần. Xin hãy tránh xa đi để tôi sống như điều tôi tâm nguyện. Tôi muốn ôm từng anh, từng chị, từng em mà khóc. Nhưng mà như thế thì hỏng hết, hỏng hết. Nước mắt sẽ làm tiêu tan hết chút ý chí cần thiết. Tha lỗi cho tôi, các bạn. Tha lỗi cho con, ba má nghe; tha lỗi cho em nghe, các anh chị; tha lỗi cho chị nhé, các em, các em mến yêu.

    Dòng sông ơi tôi còn nhớ câu chuyện dòng sông. Cho tôi làm người lái thuyền để mỗi sáng mỗi chiều nghe sông xanh nói chuyện. Cầu Ông Lãnh. Những chiếc thuyền chở khẵm nồi niêu đỏ chói. Những chiếc thuyền chở đầy những tỉn nước mắm. Những bà hàng bán cau môi đỏ như trầu, khăn rằng che tóc. Quê hương đẹp biết bao nhiêu. Ôi còn nào chùa, nào lũy tre, nào vườn cau, nào giàn trầu, nào bến sông quen thuộc. Tôi muốn quay trở lui. Nhưng quay trở lui cũng không tìm thấy quê hương.

    Đất quê hương, tôi đang đếm bằng những bước chân. Đất quê hương, bom đạn cày nát. Lời cầu nguyện cho những khu vườn xanh, có trúc đào, có xương rồng trước ngõ. Chắp tay tôi nhận chịu lửa đỏ như một lời cầu nguyện. Cho tôi thấy phố thấy nhà lần chót. Cho tôi thấy trăng thấy sao. Cho tôi thấy người, thấy đồng bào cười nói. Cho tôi ôm tất cả vào hai vòng tay nhỏ. Tôi đã tìm thấy. Anh chị em ơi, tôi đi nhưng tôi còn ở lại. Sáng mai mặt trời mọc, thơ tôi sẽ tới với người.

    Hạnh nguyện

                             Lễ xuất gia của Cây Đan Mộc

    Phương Khê nội viện, mùa xuân, ngày 31 tháng 05 năm 2009,

    Thân gửi các con của Thầy, gần và xa!

    Công phu sáng trong sách “Thiền môn nhật tụng” có một bài văn sám mà ngày xưa khi còn làm sa di Thầy rất thích tụng. Văn của bài sám rất hay, và nội dung của bài sám rất có công năng nuôi dưỡng chí nguyện của người tu. Mỗi lần tụng đọc bài sám, chú Phùng Xuân thường để cho lời kinh ôm ấp thấm sâu vào từng huyết quản, từng tế bào của cơ thể.

    Bài sám văn này là một giấc mơ thật đẹp của người tu, và Thầy rất biết ơn Thiền sư Di Sơn đã viết ra bài sám văn ấy. Các con cũng đã biết bài ấy rồi, đó là bài Sám Quy Mạng. Tên của nó là Phát Nguyện Văn. Tác giả bài Sám Quy Mạng (Phát Nguyện Văn) này là Thiền sư Kiểu Nhiên đời Đường, văn chương rất lỗi lạc. Những văn bia về các Thiền sư sơ kỳ Thiền Tông đều do một tay Ngài viết.

    Di Sơn là tên núi; vì kính quý Ngài nên dân chúng gọi Thiền sư là Di Sơn thay vì Kiểu Nhiên. Thiền sư họ Tạ, tự là Thanh Trú. Tác phẩm để lại cho đời là “Trữ sơn tập”, mười cuốn. Trong sách “Nhị khóa hợp giải”, Thiền sư Quán Nguyệt có nói: “Nếu bạn không thích bài Sám Quy Mạng này thì có thể thay vào bằng một bài khác như bài Khế Thủ, bài Thập Phương Tam Thế Phật, hay bài Nhất Tâm Quy Mạng”.

    Nhưng ai lại không thích bài Sám Quy Mạng này! Thầy nghĩ là đã có biết bao nhiêu thế hệ người trẻ xuất gia đã được bài Sám này nuôi dưỡng, vỗ về và an ủi. Hồi chưa tới tuổi hai mươi, Thầy đã có ước mơ dịch bài này ra quốc văn. Và giấc mơ ấy đã được thành tựu khi Thầy còn là một vị giáo thọ trẻ tuổi giảng dạy tại Phật Học Đường Nam Việt. Thầy đã dịch bài Sám Quy Mạng ra tiếng Việt trong thể thơ lục bát.

    Nhiều vị học tăng và học ni thời ấy của Phật Học Đường Nam Việt (Chùa Ấn Quang) đã học thuộc lòng. Và bài Sám ấy hiện đang có mặt trong sách “Nhật tụng thiền môn 2010” của chúng ta. Phần lớn những câu văn trong bài Sám đều là những câu bốn chữ hay sáu chữ, xen lẫn với nhau rất khéo léo, thành ra âm điệu bài tụng có lúc thì êm dịu, có lúc thật trầm hùng.

    “Kiếp sau, nhờ hạt giống trí tuệ linh thiêng gieo trồng trong kiếp này, con xin được sinh trở lại trong một môi trường có văn hóa, lớn lên được gặp một vị Thầy sáng và được xuất gia từ hồi còn là thiếu nhi. Sáu căn của con đều sẽ được thông lợi và ba nghiệp của con cũng sẽ được thuần hòa.Con sẽ không bị thói đời làm ô nhiễm và con sẽ sống một cuộc đời phạm hạnh thanh cao.

    Con sẽ hành trì các giới luật một cách nghiêm minh. Không vướng vào duyên nghiệp thế gian, con sẽ thực tập các uy nghi một cách nghiêm túc và con sẽ biết bảo hộ cho tất cả mọi loài chúng sanh, bắt đầu từ những sinh vật rất nhỏ bé”. “Con sẽ tu tập theo chánh pháp và liễu ngộ được giáo pháp Đại thừa, nhờ vậy mà con sẽ khai mở được cánh cửa hành động của lục độ và thành tựu được những gì mà các vị hành giả khác phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp mới thành tựu được”.

    Đọc những đoạn vừa qua các con có thấy đó là một giấc mơ vĩ đại không? Nếu không có hạt giống của bồ đề tâm, nếu không có hạt giống của hạnh nguyện Bồ tát thì làm sao làm phát khởi được một ước muốn vĩ đại như thế? Các con hãy cùng Thầy đọc tiếp:

    “Con sẽ thiết lập được đạo tràng tu học khắp nơi khắp chốn, con sẽ phá tan được muôn trùng mạng lưới của sự nghi ngờ. Con sẽ hàng phục được mọi ma chướng và sẽ truyền lại ngọn đèn chánh pháp để cho ba ngôi Tam Bảo sẽ mãi mãi tiếp tục ngời sáng trong tương lai.

    Con sẽ phụ tá cho chư Bụt mười phương mà không bao giờ cảm thấy mệt mỏi; con sẽ tu tập thành tựu được tất cả các pháp môn. Con sẽ thực tập trên cả hai bình diện xã hội và trí tuệ để làm lợi ích cho chúng sanh khắp nơi. Con sẽ đạt tới sáu phép thần thông và sẽ thành tựu được quả vị Phật đà ngay trong một kiếp”.

    “Sau đó con sẽ không xa lìa pháp giới; trái lại con sẽ đi vào và có mặt trong vạn nẻo trần gian. Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của Bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền”.

    “Ngay trong cõi này và ở các cõi khác, con sẽ ứng hiện thành những sắc thân khác nhau để tuyên dương diệu pháp”. “Nơi những nẻo đường địa ngục và quỷ đói, con sẽ hoặc phóng ra những đạo hào quang lớn, hoặc tự mình hiện thần biến tướng: bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều có khả năng phát tâm bồ đề và lập tức vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi”.

    “Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa, hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm”. “Vào những thời mà tật dịch bệnh khổ lan tràn, con sẽ hóa hiện ra vô số dược thảo thuốc men, chữa lành được cả những chứng bệnh trầm kha, gặp khi nạn đói hoành hành, con sẽ hóa hiện ra gạo lúa dồi dào để giảm nghèo cứu đói”. “Không có công tác nào làm lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan”.

    “Sau đó, con sẽ giúp cho tất cả mọi người, trong đó có kẻ thân và người thù trong nhiều kiếp, cùng với bà con quyến thuộc đời này, để ai cũng có thể buông bỏ được những sợi dây ái nhiễm ràng buộc, để cùng với tất cả chúng sinh thực hiện được đạo giác ngộ”. “Hư không kia còn có thể có giới hạn, nhưng nguyện ước con thì không có chỗ cùng.

    Con nguyện cho tất cả các loài, hữu tình và vô tình, đều đạt tới quả vị nhất thiết chủng trí”. Những lời kinh trong Sám văn ngày xưa đã tưới tẩm hạt giống Bồ đề của chú sa di nhỏ vào mỗi buổi sáng công phu. Không biết vì lý do gì mà chú cứ tin là giấc mơ kia sẽ có thể thành tựu, dù chung quanh chú chưa có dấu hiệu nào chứng tỏ được điều đó, và chưa thấy ai đang làm được điều đó.

    Lời kinh quá đẹp khiến sau này Thầy đã lấy chữ trong ấy để đặt pháp hiệu cho các vị thọ giới tại Làng Mai. Ví dụ pháp tự Chân Hương Lâm của Sư thầy Đàm Nguyện ở Hà Nội. Hương lâm là những khu rừng thơm. “Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm – hỏa hoạch băng hà chi địa biến tác hương lâm.” Thật là vừa nên thơ vừa hợp với ý hướng bảo hộ sinh môi. Lời kinh quá hùng tráng thành thử mình có cảm tưởng mình không còn là một tín đồ đang cầu xin ơn phước, mà là một vị đại sĩ có thần lực độ đời rất vĩ đại:

    “Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của Bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền – đẳng Quan Âm chi từ tâm, hành Phổ Hiền chi nguyện hải”. Người trì tụng Sám văn không còn mặc cảm thua kém nữa, và thấy mình cũng có thể làm được những gì mà các vị Bồ tát lớn đang làm. Những lời kinh như thế làm chấn động cả tâm can của người hành giả. “Bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm Bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi – phàm hữu kiến ngã tướng, nãi chí văn ngã danh, giai phát Bồ đề tâm, vĩnh xuất luân giao hồi khổ.”

    Và như thế thì con cũng sẽ không thua bất cứ một vị Phật nào hay một vị Bồ tát lớn nào trong quá trình hành đạo. Giấc mơ của bài Sám Quy Mạng chỉ là giấc mơ suông hay một giấc mơ có thể biến thành hiện thực? Nhiều thế hệ hành giả, trong đó có các con, đã từng tụng đọc Sám văn này, và đã có thể từng đặt câu hỏi ấy. Ngày xưa, Thầy không đặt câu hỏi ấy. Tuy là chung quanh mình chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ giấc mơ kia có thể trở thành sự thực, nhưng Thầy vẫn ôm ấp giấc mơ đó và tin rằng nó sẽ trở thành hiện thực. Những thập niên bốn mươi và năm mươi là những thập niên của đói kém của chiến tranh.

    Giới xuất gia tìm đủ mọi cách để duy trì sự thực tập trong phạm vi chùa viện của mình nhưng cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn. Ngay những người trẻ trong giới xuất gia cũng bị tù đày, thủ tiêu và áp bức. Là một thầy tu trẻ Thầy đã từng đọc lịch sử Lý Trần và đã thấy rằng nếu đạo Bụt đã có khả năng giúp cho đất nước hùng mạnh và thái bình trong những triều đại ấy thì đạo Bụt cũng có thể làm được như thế trong thời đại hiện tại. Tại sao không?

    Đó là câu hỏi của Thầy, dù đạo Bụt vào những thập niên ấy vẫn chưa thoát ra được trạng thái suy đồi cần phải vượt thoát. Có lẽ cái thấy ấy về đạo Bụt Lý Trần đã cho Thầy một niềm tin rằng giấc mơ của Sám Quy Mạng không phải chỉ là một giấc mơ suông mà là một giấc mơ có thể trở thành hiện thực.

    Hồi còn là vị giáo thọ trẻ ở Ấn Quang, Thầy đã dịch Sám Quy Mạng với một ngôn ngữ khiêm cung. Nguyên văn: “Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của Bồ tát Quán Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền” đã được Thầy dịch là “Mưa từ rưới khắp nhân thiên, mênh mông biển hạnh lời nguyền độ tha.”

    Nguyên văn: “Bất cứ ai thấy được dung mạo của con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi” đã được Thầy dịch là: Chỉ cần thấy dạng nghe danh, muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau.” Mấy mươi năm ở hải ngoại không có cơ hội ôn lại bản dịch ấy, Thầy chỉ còn nhớ được một vài đoạn.

    May quá, Hòa thượng Như Huệ, Viện chủ chùa Pháp Hoa (ở Úc Đại Lợi) trong dịp về chứng minh đại giới đàn Nến Ngọc tổ chức ở Làng Mai mùa hè 1996 đã đọc lại cho Thầy chép xuống toàn bài. Hòa thượng Như Huệ đã từng là học tăng trong Phật học đường Nam Việt, và đã học thuộc lòng bản dịch của Sám văn Quy Mạng. Nhờ đó mà bản dịch ngày nay còn được giữ lại trong sách Nhật Tụng Thiền Môn.

    Thầy nghĩ là Thầy trò chúng ta cần đọc tụng Sám văn Quy Mạng ít nhất mỗi tuần một lần, để tâm bồ đề được tiếp tục nuôi dưỡng. Tâm bồ đề là nguyện ước, là giấc mơ của người hành giả chân chính. Tâm bồ đề bị soi mòn thì chúng ta không còn năng lượng để đi tới mà thực hiện giấc mơ.

    Khuya nay, trong giờ thiền tọa, chúng ta hãy cùng nhau quán chiếu để thấy rằng giấc mơ kia đang từ từ biến thành hiện thực. “Kiếp sau xin được làm người, sinh ra gặp pháp sống đời chân tu, dắt dìu nhờ bậc minh sư”, điều này ta đã thực hiện được. “Sáu căn ba nghiệp thuần hòa, không vương tục lụy theo đà thế nhân, một lòng tấn đạo nghiêm thân, giữ gìn phạm hạnh nghiệp trần lánh xa”, đó là sự thực tập hành trì giới luật và uy nghi hàng ngày của chúng ta.

    “Đạo tràng dựng khắp nơi nơi, lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không”, đó là những gì mà Thầy trò chúng ta đang nỗ lực thực hiện. Tăng thân hiện giờ đang có mặt khắp nơi, mỗi quốc gia trên thế giới đều có hàng chục hoặc hàng trăm đoàn thể tu học theo pháp môn chánh niệm, gọi là Tăng thân chánh niệm (Communities of mindful living).

    Những thành phố lớn như: Nữu Ước, Luân Đôn, Los Angeles, Paris, Amsterdam, Berlin, đều đã có nhiều Tăng thân. Những khóa tu tổ chức khắp nơi, những tác phẩm viết về đạo Bụt đi vào cuộc đời đã trở thành một mạng lưới chánh pháp có mặt khắp nơi, đang nỗ lực phá tan được những ngộ nhận và nghi ngờ đối với đạo Bụt, cho thế giới thấy rằng đạo Bụt là một nền nhân bản có tính khoa học, không phải là tôn giáo thần quyền, mê tín dị đoan, tiêu cực yếu đuối. “Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không” là như thế.

    “Truyền đăng Phật pháp nối dòng vô chung”. Chúng ta đã đào tạo được khá nhiều các vị giáo thọ và giáo thọ tập sự, xuất gia và tại gia, số người tiếp nhận truyền đăng cho đến nay đã lên tới trên 300 vị. “Thuốc thang cứu giúp cho đời, áo cơm cứu giúp cho người bần dân, bao nhiêu lợi ích hưng sùng, an vui thực hiện trong vòng trầm luân”. Đây là công tác xã hội, đây là một phần của đạo Phật ứng dụng, của đạo Phật đi vào cuộc đời.

    Chúng ta đã lập được Trường Thanh niên Phụng sự xã hội đào tạo trên 600 tác viên và hàng ngàn trợ tác viên và cảm tình viên (làm việc công quả mà không nhận phụ phí), thành lập các làng Hoa Tiêu và làng Tự Nguyện để nâng cao phẩm chất sự sống ở nông thôn về cả bốn mặt giáo dục, y tế, kinh tế và tổ chức.

    Các tác viên xã hội đã làm việc cứu trợ nạn nhân chiến tranh, chăm sóc các trại tị nạn, có trại lên đến 11.000 người, thành lập các trung tâm định cư trên những vùng đất mới, tái thiết lại những làng bị bom đạn tàn phá. Chúng ta có Ủy ban Tái thiết và Phát triển xã hội, làm việc với Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (1972 – 1975). Chúng ta đã có chương trình bảo trợ trên 10.000 trẻ em mồ côi vì chiến tranh.

    Chúng ta đã có chương trình Máu Chảy Ruột Mềm cứu trợ thuyền nhân trên biển. Chúng ta đã thành lập tổ chức Pour les Enfants du Vietnam, rồi Partage avec les Enfants du Monde, cứu giúp cho trẻ em 17 nước trong đó có Việt Nam. Chúng ta đã có chương trình Hiểu và Thương, để cứu trợ lũ lụt, giúp trẻ em nghèo thiếu ăn và thất học, mở lớp dạy nghề, xây cầu, đào giếng nước ngọt, mở những lớp học bán trú ở các vùng sâu vùng xa, trả lương một ngàn cô giáo và bảo mẫu. (*) Cái hay là ở chỗ trong khi làm công tác xã hội, các thành phần trong Tăng thân vẫn giữ được sự thực tập giới luật, thiền ngồi, thiền đi, xây dựng tình huynh đệ và học đi như một dòng sông… “Không có công việc nào lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan – đản hữu lợi ích vô bất hưng sùng”, đó là hạnh nguyện của chúng ta.

    Các vị giáo thọ của chúng ta, trong đó có rất nhiều vị còn ở tuổi thanh xuân, đang thực sự mang đạo Bụt đi vào cuộc đời, một đạo Bụt nhập thế. Chúng ta đã mở những khóa tu đặc biệt để giúp cho mọi giới, những khóa tu dành cho giới làm công tác xã hội, giới văn nghệ sĩ, tài tử điện ảnh… có khóa tu đông đến 2.000 người như khóa tại Washington DC cho các nhà tâm lý học và tâm lý trị liệu, những khóa tu dành cho giới giáo chức, dành cho giới thương gia, dành cho giới y sĩ và y tá, dành cho các nhà chính trị và dân biểu quốc hội, dành cho giới cảnh sát và nhân viên công lực, giới tranh đấu cho hòa bình và nhân quyền, giới bảo hộ sinh môi… Chúng ta đã đi vào các bệnh viện và các nhà tù để giúp tổ chức tu tập và chuyển hóa…

    Từ đạo Bụt nhập thế chúng ta đi vào đạo Bụt ứng dụng. Chúng ta mở phong trào Wake Up cho các bạn trẻ khắp nơi trên thế giới, những đoàn thể tu tập theo chánh pháp để phục vụ cho một xã hội lành mạnh và có từ bi. Chúng ta lập Viện Phật học Ứng dụng, cung cấp các khóa tu cho giới phụ huynh có khó khăn với con cái, cho giới thanh niên thiếu nữ đang có khó khăn với bố mẹ, cho những ai vừa khám phá ra là mình bị bệnh nan y, cho những ai có người thân mới mất.

    Ai cũng có thể đến để ghi tên học hỏi và thực tập mà không cần phải quy y. Chúng ta cống hiến đạo Bụt cho thế giới không phải một tôn giáo mà một nghệ thuật sống với những phương pháp chuyển hóa và trị liệu… Chúng ta đang nỗ lực thực tập để bảo hộ sinh môi, tự mình thực tập và kêu gọi mọi người thực tập sống như thế nào để có thể có được một tương lai cho trái đất, để chuyển ngược được quá trình hâm nóng địa cầu.

    Tu viện Lộc Uyển của chúng ta hiện giờ đã hoàn toàn chỉ sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời. Tất cả các đạo tràng và các Tăng thân của chúng ta trên thế giới đang thực tập tiêu thụ trong chánh niệm, mỗi tuần có một ngày không sử dụng xe hơi, xe gắn máy… Tất cả những điều này chứng tỏ là chúng ta đang quyết tâm thực hiện giấc mơ mà không phải chỉ ngồi đó để quán tưởng và để cho bài Sám ru chúng ta trong một giấc mơ thật đẹp.

    Trong những năm gần đây, đạo Bụt với sự thực tập chánh niệm đã dần dần đi vào các lĩnh vực y học, khoa học, luật học và xã hội học. Tinh thần bất nhị và bao dung, không kẹt vào giáo điều của đạo Bụt bắt đầu được thế giới nhận biết, và trên bước đường toàn cầu hóa đạo Bụt có thể góp phần quan trọng trong việc chế tác một nền tâm linh đạo đức toàn cầu. Chúng ta biết giấc mơ có thể và đang trở thành hiện thực.

    Nếu chúng ta không bị vướng vào địa vị, tiền bạc, tiếng khen, chức vụ, v.v.., nếu chúng ta biết đi với Tăng thân như một dòng sông mà không phải như một giọt nước riêng lẻ thì chúng ta sẽ có cơ hội nhiều hơn để thực hiện được giấc mơ. Có phải thế không các con? Thầy mong các con đọc xong thư này thì góp ý với Thầy.

    Thầy của các con,

    Nhất Hạnh

    Ông già Noel

    Ngày lễ Giáng Sinh, trẻ con rất thích ông già Noel. Vấn đề đặt ra là ‘ông già Noel có thật hay không?’ Nhu yếu của cuộc sống bắt buộc phải có ông già Noel. Nếu không có ông già Noel, chắc chắn cũng sẽ có một ông già khác. Đây không phải là vấn đề tôn giáo mà là văn hóa. Trong văn hóa Tây phương, nếu không có ông già Noel thì sẽ thiếu vắng rất nhiều. Vì vậy cho nên có ông già Noel hay không có ông già Noel như một nhân vật lịch sử không phải là vấn đề then chốt.

    Khái niệm của trẻ em về ông già Noel rất dễ thương, rất ngây thơ: ‘Ông già Noel thường mặc áo đỏ, đội nón đỏ có cái chuôi dài, đi đôi hia cao cổ (tại vì đi trên tuyết), và một bộ râu dài bạc phơ. Phương tiện chuyển vận của ông không phải là xe taxi, mà là một chiếc xe trượt tuyết có những con nai kéo. Khi tới nhà mình, ông không vào bằng cánh cửa chính (tại vì cửa đã được đóng vào giờ ấy), mà chui từ trên ống khói xuống, và ông chui rất hay, thành thử ra áo quần của ông không bị dính lọ nghẹ. Ông không bị đốt nóng, dù lúc đó củi vẫn còn cháy. Ở chỗ bếp lửa đêm hôm ấy, bọn trẻ con đã treo những chiếc vớ của chúng trước khi đi ngủ. Chúng tin rằng vào nửa đêm ông già Noel sẽ tới và sẽ bỏ vào vớ những món quà chúng thích.’ Chúng thật sự tin như vậy. Nếu chúng ta lấy mất niềm tin đó của bọn trẻ con, thì tội nghiệp chúng quá. Nếu một đứa bé bốn tuổi, năm tuổi nghe nói ông già Noel không có thật thì nó sẽ buồn biết mấy.

     

     

    Vì vậy, chắc chắn phải có ông già Noel cho bọn trẻ con. Ông già Noel nghe được ước vọng của bọn trẻ con. Bọn trẻ con muốn cái gì ông cũng biết và ông cho ngay cái đó. Ước vọng của bọn trẻ con là một cái gì có thật. Những người nghe và hiểu được cái ước vọng đó cũng là những người có thật. Đó là những ông già Noel đích thực. Ông già Noel đích thực không cần phải có râu dài màu trắng, không cần phải mặc áo đỏ, không cần phải đi hia đỏ. Nếu chúng ta kẹt vào tướng của ông già Noel, thì chúng ta không thấy được ông già Noel. Vậy thì có ông già Noel, hay không có ông già Noel? Đó không phải là vấn đề. Chúng ta phải nhìn ông già Noel bằng con mắt vô tướng. Nếu trong quá khứ ta đã từng có một quan niệm về ông già Noel, thì quan niệm đó có thể là quan niệm ngây thơ của một em bé. Một mai ta bừng tỉnh, ta mỉm cười, biết rằng mình đã vượt thoát ý niệm ngây thơ về ông già Noel. Vượt thoát rồi, nhưng ta vẫn duy trì hình ảnh ông già Noel cho thế hệ tương lai.

    Bụt cũng vậy, Chúa cũng vậy, đều là những ông già Noel cả. Nhưng nếu ta cho rằng những hình ảnh đó là những sản phẩm hoàn toàn của tưởng tượng thì cũng không đúng. Tại vì ông già Noel cần thiết cho cuộc đời. Bụt, Chúa, các vị Bồ-tát cần thiết cho cuộc đời. Tuy vậy, nếu ta muốn lớn lên, không phải về mặt tuổi tác mà về đời sống tâm linh, ta muốn tiếp xúc được với sự thật thì ta phải có khả năng buông bỏ những ý niệm, những hình ảnh trẻ thơ của ta. Ta từng có quan niệm về Bụt, về Chúa, và ta đã sống với quan niệm đó từ thời ấu thơ. Khi được học hỏi, thực tập, từ từ ta có khả năng buông bỏ những quan niệm trẻ thơ ấy về Bụt và về Chúa.

    Thầy Thanh Văn hồi còn năm, sáu tuổi, có ý nghĩ rằng Bụt rất ưa ăn chuối, tại vì ai tới chùa cũng cúng chuối. Bụt đợi cho đến khi chùa vắng lặng hoàn toàn, mới đưa cánh tay ra bẻ một trái chuối mà ăn. Đến khi thầy lớn lên thì cái thấy đó về Bụt không còn nữa, nó được thay thế bằng những cái thấy khác. Vì vậy, ta phải buông bỏ những cái tướng để sự thật có thể hiển bày ra được. Nếu chúng ta không buông bỏ cái tướng ông già Noel, thì làm sao ta thấy được ước mơ của bọn trẻ con và lòng thương yêu của những bậc cha mẹ? Ông già Noel có mặt trong những em bé, và có mặt trong những người cha, những người mẹ. Ông già Noel là một phẩm vật sáng tạo của tâm thức. Là sáng tạo phẩm thì nó phải có thật chứ sao không có thật được? Sáng tạo phẩm đó được nhận thức qua một hình thái trong văn hóa do con người vẽ ra. Người ta vẽ ra hình Bụt, người ta vẽ ra hình Chúa, người ta vẽ ra hình Bồ-tát, người ta vẽ ra hình ông già Noel.

     

     

    Nhưng rốt cuộc ta cũng phải lớn lên trong đời sống tâm linh của ta. Ta phải phá tan những hình ảnh mà con người đã vẽ ra để có thể tiếp xúc với sự thật. Không phải Bụt không có, Chúa không có, tình yêu không có, bác ái không có. Đó là những thực tại, nhưng không phải là những đối tượng mong cầu đang có mặt ở ngoài ta. Nó không phải là cái gì khác (the other, l’autre), nó không phải là một thực thể độc lập có ngoài tâm thức ta, ngoài con người ta, ngoài sự sống của ta. Khi thấy được như vậy, thì ta không còn tìm cầu, không còn theo đuổi nữa. Ta không đánh mất bản thân của ta, không lâm vào cái mặc cảm ta là con số không. Lưỡi gươm trí tuệ là lưỡi gươm có thể chặt đứt được tất cả những khái niệm đó, những ảo ảnh đó, những tướng trạng đó, những hình thức đó.

     

    (Trích tác phẩm Người Vô Sự)

    Thủ bút của NS. Lê Thương

    HOÀN CẢNH SÁNG TÁC TRƯỜNG CA HÒN VỌNG PHU

    (Lá thư cuối cùng của nhạc sĩ Lê Thương viết cho sư cô Chân Không)

    Lê Thương.1

    Lê Thương.2

    Lê Thương.4

    Lê Thương.3

    Lê Thương.5

    Lê Thương.6

    Lê Thương.7

    Lê Thương.8

    Lê Thương.9

    Lê Thương.10

    Trường ca Hòn vọng phu của nhạc sĩ Lê Thương

    HOÀN CẢNH SÁNG TÁC TRƯỜNG CA HÒN VỌNG PHU
    (Lá thư cuối cùng của nhạc sĩ Lê Thương viết cho sư cô Chân Không)

    Lời giới thiệu:

    Trước khi Làng Mai được thành lập, đã có Phương Vân Am (Tiếng Pháp là Les Patates Douce) – một trung tâm thực tập chánh niệm do Thầy Làng Mai tạo dựng từ năm 1970, tọa lạc ở rừng Othes thuộc làng F.10190. Fontvannes-Aube gần thành phố Troyes, cách Paris về phía đông nam 150 cây số. Phương Vân Am được thành lập năm 1970, là nơi mỗi cuối tuần các nhân  viên trong phái đoàn Phật Giáo Việt Nam tại hội nghị Paris về tu ngày quán niệm. Văn phòng của phái đoàn Phật giáo Việt Nam trước đặt ở 8 Rue de la Goutle d’Or, Paris 16 e, sau dời về Sceaux.

    Lê ThươngNgày chế độ miền nam sụp đổ, tất cả tăng thân làm việc tại Sceaux đã dời về Phương Vân Am để tu tập và tìm cách tiếp tục yểm trợ Phật sự bên nhà. Trong các hoạt động của Phương Vân Am, có nhà xuất bản Lá Bối, nhà in, chương trình cứu trợ thuyền nhân và chương trình giúp văn nghệ sĩ đang ở vào tình trạng khó khăn. Chương trình giúp văn nghệ sĩ được sư cô Chân Không phụ trách với sự giúp sức của nhiều thành phần khác của tăng thân. Phương thức là gởi những gói quà về cho các văn nghệ sĩ, trong đó chỉ có thuốc tây, rất hiếm ở Việt Nam hồi đó. Những thuốc ấy có thể được sử dụng hoặc được bán đổi. Tên người gửi quà thường thường cùng một họ với tên người được nhận, như đối với học giả Đào Duy Anh thì người gởi là Đào Thị Mây, tự xưng là cháu của học giả.

    Người gởi quà cho Lê Thương là bác sĩ Phương Hương. Những lá thư của Lê Thương gửi cho Phương Hương còn được giữ lại nguyên vẹn. Một số những lá thư này sẽ được công bố trong tập ba của tác phẩm 52 năm theo Thầy Học Đạo của sư cô Chân Không.

    Trang nhà Làng Mai xin đăng nguyên văn lá thư này để các bạn thân hữu biết Lê Thương sáng tác trường ca Hòn Vọng Phu trong hoàn cảnh nào và những tâm tư của nhạc sĩ trong hoàn cảnh khó khăn của giới văn nghệ sĩ Việt Nam thời ấy.

     

    Bưu Thiếp – post card
    Dấu bưu điện TP HCM 11.4.87

    Mến gửi B/S Phương Hương
    1 Route de Troyes
    Fontvannes 10190 Estissac France

    PH thân mến,

    Trước tết năm Mẹo đã lãnh được quà của PH. Nay, mặc dầu sự nín lặng “vô lý” của tôi quà vẫn tới nơi rồi (sẽ lãnh ngày 13/4) Thật là diễm phúc cho một kẻ sống sót của bộ lạc Mohicans. Sức khỏe và tinh thần của tôi vẫn vững. Đời có sôi nổi đôi khi nhưng cứ ở hiền gặp lành, tin tưởng vào Th.Đế và giữ sức khỏe tối đa là có hi vọng màu xanh của bưu thiếp này sẽ chiếu lên đồng ruộng và non sông đất nước đang sôi sục về đổi mới tư duy và bầu cử QH, chống tiêu cực đủ các loại.

    Tôi nín lặng vì được “ưu ái” của công an hỏi han trên 10  lần. Nay tôi cảm thấy như yên tĩnh mới biên thư ngắn rồi dài để cám ơn PH không quên an ủi giúp đỡ tôi và gia đình tôi mặc dầu gió mưa. Hình ảnh một PH áo tím tóc xõa, mắt nhìn quả quyết mà từ bi, đã thành một biểu hiện nhạc cảm tin đời, có ngày tôi sẽ tặng cho các trẻ thơ.

    LT

     

    T.p Ho Chi Minh 1-8-1987 đến 21- 10-87

    PH thân mến!

    Một chuyện “Sóng nổi đất bằng” từ tháng 10-86 đến giữa tháng 1-87 đã đặt tôi vào cuộc “kiểm tra tư tưởng” kéo dài đến 16 lần lên C.A thành phố.

    Thẩm vấn có lễ phép và nể nang tuổi tác nhưng cũng soi mói khá nhiều làm tôi cụt hứng viết thư đến nay. Vì đến khoảng 5 lần có sự hỏi han về PH và quà tặng đều đều từ trước đến nay. Các bạn lãnh quà hầu hết đã chết hay ra đi nên không còn ai mà hỏi. Họ cho tôi coi qua 1 cái hình vợ chồng Nguyễn trước một hàng cờ bên đó nhưng lấy lại ngay khi tôi tính lật mặt sau để xem hình gởi cho ai. Họ cũng đưa tôi một hình đen trắng phóng đại và bảo tôi ký đằng sau là “giống PH”. Tôi không ký vì không biết rõ. Anh cũng có hỏi tôi đưa hình PH nhưng tôi nói là con cháu trong nhà tôi làm lạc mất rồi.

    Họ nói là HH Thủy khai là PH chính là CN Phượng đã thường dùng nhiều tên khác nhau để liên lạc với văn thi sĩ – và cho coi xa xa một số đáy thùng có chữ viết gì đó.

    Tôi nói không đúng và cho họ coi một lá thư có en-tête  Dr P.H mà tôi đã lãnh được từ lâu và chung qui họ muốn dồn tôi vào một thế bí thuộc loại “cấu kết với bên ngoài để hoạt động gì đó”, nhưng không đủ bằng chứng, và cũng không hề có như PH biết, nên cuối cùng đã để tôi yên. Tôi có hỏi như vậy họ không muốn tôi lãnh quà nữa sao? Thì sau vài phút họ nói là không có ý đó, nhưng tôi tự kết luận là nhiều thơ của tôi đã bị đọc và có lẽ có thư mất đi – Như thơ gởi cho tôi cũng có cái lạc mất. Hình vợ chồng Nguyễn chắc cũng số phận đó.

    Gần một năm nay tại VN có cuộc báo chí hưởng ứng tinh thần đổi mới của Goocbachấp (Gorbachev) và nêu ra công khai nhiều chuyện bê bối của cán bộ, gọi là những “tiêu cực” của các cán bộ nhiều cơ quan.

    Đọc nhiều mục như “nói thẳng nói thật” cũng thấy giới lãnh đạo, nhất là ở miền Nam cố gắng làm sạch sẽ chính quyền địa phương – từ bấy lâu nay quen hoành hành một mình một chợ và đã làm mất lòng dân.

    Cuộc phấn đấu để “đổi mới tư duy”, thúc đẩy tiềm năng kinh tế, chọn người mới thích ứng được với tình thế khó khăn ngày một trầm trọng chắc sẽ lâu dài và có phần gay go. Dân chúng có hưởng ứng nhưng vẫn chờ xem.

    Xã hội Sài Gòn không ngớt sôi động về mọi mặt, tìm tiền để sống, tìm hàng mua đi bán lại, ăn xài khi kiếm ra tiền, chờ tin tức giật gân để đọc, cho xe chạy đôn đáo, tìm các phương tiện kiếm ra tiền mong theo kịp với thời giá cứ lên cao bất thường mà không biết có thể kịp thời giá đó không?

    Kinh tế vẫn điều động chính trị. Các giáo điều được theo bấy lâu nay về quản lý nhân dân đang được cởi mở dần dần: từ cách thả lỏng cho hàng hóa di chuyển tự do, đến các việc trì trệ hành chánh các kiểm soát quá kỹ trong đời sống người dân…đều được ông tổng bí thư Đảng N V Linh ra chỉ thị nới rộng, thả lỏng, giảm thiểu. Mọi sự đều theo gương Liên Xô cho tháo gỡ các chướng ngại, thường hạn chế lợi tức để người dân dễ sống hơn phần nào.

    Kể ra thì đó là một gắng công, nhưng chắc lâu dài và khó khăn diệu vợi. Dân Sài Gòn thì vẫn có vẻ suy tư nhiều về thời thế và lo nghĩ trọn vẹn cho sự sống còn của gia đình, con cái. Người mắc bệnh lo âu thì lên tension mà chết, người thờ ơ với mưa gió dễ bị cảm cúm mà nằm ụ. Tang chay vẫn âm ỉ đó đây với tiếng kèn sáo bát âm và khói tại các lò thiêu tỏa mùi khét lẹt của các dịp hỏa táng. Bụi tro lại trở về với bụi tro.

    Năm tháng chạy vùn vụt nhanh hơn bao giờ hết. Không khí cuối đời của tuổi già trà trộn với tin tức sôi sục của trần gian chạy nhanh vào cuối thế kỷ. Nhiều ý nghĩ bế tắc chặn ngang cái cuống họng không cho nói ra được gì hơn là băng khoăn rối nùi không cách gì tránh được định mệnh.

    Cứ nghĩ yên bằng giấc ngủ mỗi đêm dài là lối giải thoát các lo nghĩ chằng chịt trong tâm não của các tuổi đời. Thanh niên lo hoạt động để tìm sống, người làm cha mẹ nhìn con cái với các thương mến và tội nghiệp chúng và tự hỏi: Đường hướng nào sẽ chiếm mất đám con tôi? Những lý tưởng xác xơ đang rách nát hay những ý niệm cũ càng của lòng ỷ lại vào an thân phì gia mặc thây cho thiên hạ quay cuồng?

    Quả thật là tâm tư vẫn chằng chịt những ý nghĩ dọc ngang bủa vây từng ngày, từng tuần lễ – làm cho thơ tín viết mãi không xong và cảm hứng cũng vừa chớm nở đã bị tắt ngòi để yên lặng.

    PH thân mến, tôi vừa bầy ra một can tràng rối rắm kéo dài gần một năm nay – nó làm cho tôi bặt tin đối với các bạn bè nơi xa.

    Nay may ra tôi tìm lại được sự an lòng và tin tưởng để viết cho “tạm xong” lá thơ lê thê gởi qua đứa cháu đến PH, mong PH lãnh được nó và cho tôi hay tin bằng một carte postale để tôi yên dạ nhé.

    Chào PH thân mến – L.T.

    Ở thành phố lúc này rất là đông đảo, cương máu, bứu cổ, cancer tử cung, vú đau, gan mật, xuyển v.v.. Tan chế cũng phổ biến trên báo hằng ngày nhưng đọc kỹ thì kỳ khôi là tuổi thọ có vẻ cao. Các cụ bà vượt bức tường 80 cũng không ít, còn tường 70, 60 thì khá đông cho cả nam lẫn nữ. Có lẽ thọ để chờ xem…

    Kinh tế có nhiều cải tiến. Hàng hóa bán ra theo tiêu chuẩn quy định trông đẹp và có chất lượng hơn xưa nhưng giá cả ôi là lên cao, vì mua bán qua quá nhiều trung gian – Nhà nước phải phấn đấu gay go với các thế lực “tiêu cực” không biết có thắng được hay không. Đó là hình ảnh bên ngoài xã hội. Còn phần nội tâm của dân TP về thời thế chung cuộc có lẽ là chờ sự thay đổi về cởi mở, về đời sống thoải mái hơn nữa.

    Bấy lâu nay báo chí vẫn bàn tán rất nhiều xong không hiểu tương lai thực sự sẽ ra sao, thôi mặc cho thời thế xoay vần. Trong tờ riêng kèm đây, theo ý muốn của PH, tôi lại kể lại diễn trình biên soạn 3 bài HVP (Hòn Vọng Phu).

    Văn kể có hổn độn, lối viết có vẻ không được minh bạch như trước đây một đôi năm – mà viết 2 mặt giấy cho đỡ nặng thơ – mong PH thân mến ráng đọc và bỏ qua cho cảnh luống tuổi trong tôi.

    Sự việc hơi chán chường là hoàng hôn của tuổi đời đang xâm lấn vài giác quan. May thay tinh thần vẫn còn minh bạch và lạc quan còn là thói không chừa được –  mặc dầu mây u ám vẫn lẫn quất chưa tan hẳn ở chân trời.

     

    HÒN VỌNG PHU

    Tháng Thu 87

    Lời kể của Lê Thương mến gửi Phương Hương thân mến.

    Cách đây 43 năm (1944-45), tại xứ Dừa tỉnh Kiến Hòa, lúc đó còn là cù lao An Hóa, tỉnh Mỹ Tho, tình trạng giao động của một tâm hồn ưu tư về thời cuộc (Nhật chiếm Lạng Sơn 1940 rồi tràn vào Hải Phòng Hà Nội, tôi vào nam 1941) hòa nhiễm nỗi lòng chinh phu trong văn thơ đưa tôi đến việc sáng tác lần hồi 3 bài Hòn Vọng Phu thành một truyền kỳ cảm động.

    Năm đó tôi tự cho là một kẻ phiêu lạc, đã từng ghé bến Quảng Châu Trung Hoa 4 tháng- ghi xong hơn 384 trang nhật ký, tiếc rằng nay đã mất hết ở Trà Vinh năm 1945 – mang nặng mối tình nước non đang xao xuyến, phân vân trước bao nhiêu nghi vấn của đời người, nên tôi gởi thác tâm tình vào để tài dân tộc là Tích Người Đàn Bà Hóa Đá.

    Tất cả luân lý đông phương hầu như căn cứ trên lẽ tiết trung của  Con Người các thế hệ, các giai cấp trong một nhân sinh quan sâu đậm Tình và Nghĩa.

    Người Mẹ ôm con đợi chồng rồi hóa đá quả là một truyện ly kỳ tuyệt đẹp. Thành đá đây là thành “chứng quả tình thâm, tình vợ chồng chưa toại lòng nhau đã cách biệt. Tình cha con chưa từng ôm ấp đã chia ly, tình đồng loại chưa sum vầy đã tan rã.”

    Nước ta có 3 đá Vọng Phu: một ở Lạng Sơn có nàng Tô Thị như trong câu “ Đồng đăng có phố Kỳ Lừa, có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”, hai là ở Phú Yên (nam trung việt ) có núi Vọng Phu, vùng Đèo Cả (tỉnh Phú Khánh), ba là ở Hà Tiên, có Vọng phu Thạch.

    Núi Vọng phu ở Phú Yên tại một vùng địa lý hơi man rợ, thâm u là đá đẹp nhất, xem từ biển nhìn vào làm cho tôi cảm mến.

    … Nhớ lại năm 1470 đầu niên hiệu Hồng Đức tại vùng này có “thạch bi sơn” làm biên giới Việt Nam và Chiêm Thành còn sót lại… Cảnh trí đường đèo quanh co, cây cỏ um tùm man rợ làm cho dân gian ghi tạc mấy câu vè siêu thực đầy tính bí hiểm: “Mưa Đồng Cộ, Gió Tu Hoa, Cọp ổ Gà, Ma Hòn Lớn”

    Lời sơ giải của dân gian kể là: Trên một cao nguyên nhỏ vùng đèo, thường có mây dày đặc chỉ cần gọi nhau trên đó là có mưa rớt xuống (còn nhiều di tích dân cổ Chiêm Thành trên đó)

    Đường lên ngọn cao nơi đó, sườn núi bị soi mòn, gió biển thổi qua các khúc quanh co, nghe như tiếng hú âm u. Đó là Mưa Đồng Cộ, gió Tu Hoa.

    Cọp thời xưa dạn dĩ đến nỗi sau những trận mưa chúng ra đường lộ phơi nắng cho khô, bộ áo rằn ri, xe hơi thời đó bóp kèn năn nỉ chúng cũng không thèm nhúc nhích (xe thời đầu Pháp thuộc có mui dựng lên để hai bên hông trống rỗng) nên xe phải dừng lại cho mấy “ông ba mươi” đi hết mới chạy qua, vừa lên tốc độ chối chết vừa la như giặc.

    Còn Hòn Lớn thì nghe như một cái đảo âm u ngang vùng Phan Rang gì đó, có rất nhiều “ma hồi” đêm cứ lập lòe nhát các ngư phủ ghé thuyền tránh gió đến đó qua đêm!

    Quang cảnh hú vía của thiên nhiên, trộn vào ảnh cảm địa lịch qua từng bước đường nam tiến vẫn ám ảnh tâm hồn tôi, một cậu trai giàu tưởng tượng để lúc sống bên bờ kinh Chẹc Xậy (tỉnh Bến Tre thân mến) phải thể hiện thành bài Hòn Vọng Phu 1.

    Lệnh vua hành quân trống kêu dồn…..(Hòn Vọng Phu 1)

    (Bài này đã xong và đưa anh Lưu Hữu Phước trước ngày 23/9/45 để anh đem ra Bắc)

    Ca sĩ Thái Thanh với Trường ca Hòn vọng phu – bản ghi âm trước 1975

    Bài Ai xuôi vạn lý ( Hòn Vọng Phu 2) là cuối năm 1945 sang 46, tôi theo kháng chiến tỉnh Mỹ Tho đi từ Cai Lậy, thuộc Nhiêu, Vĩnh Kim qua sông, đi với các em phần đông là học sinh Petrus Ký mà tôi là trưởng đoàn Ca Nhạc với những bài thanh niên lịch sử và riêng Hòn Vọng Phu  1 nghêu ngao qua các làng dừa từ Thành Triệu, An Khánh, Phú An Hòa, Quới Sơn, Giao Long, Giao Hòa, cho đến Dòng Sầm, gần Bình Đại…

    Bỗng Tây đem tàu tấn công 3 Cù Lao, Minh, Bảo, An Hóa. Tiếng Canon 75 bắn tủa vào các bờ sông có dừa, máy bay phun lửa “spitfire” từ trời bắn xuống. Đoàn phải tan rã các em trong đoàn chạy hầu hết về gia đình, chỉ còn tôi và người bạn Ánh (nay đã chết) trốn được vào vùng lá Dòng Sầm cách Bình Đại 4 cây số.

    Chúng tôi được vài gia đình người Cao Đài làm đầu tộc đạo nơi đó thương xót giấu trong bìa lá và giúp lương thực sống trong sự khủng khiếp hằng ngày vì tên Pháp lai Leroy và bọn lính Partisans đầu đỏ xục xạo làng xóm gieo khủng khiếp. Lúc đầu chúng tôi còn trốn vào sâu trong ruộng, đem gạo cơm đi ăn tối về nằm trong kho lúa. Sau vì còn thấy nguy hiểm nên anh tư- bà con với ông đầu tộc đạo dẫn chúng tôi vào bìa lá dòng Sầm dày 4,5 trăm thước sát cửa biển Bình Đại.

    Tại nơi yên tĩnh này chúng tôi được sống bên bờ rạch dày đặt lá dừa nước! May mà còn chiếc mùng “Tuin”(tulle) để tránh muỗi, đêm đêm nghe dế than, cá thòi lòi đập đuôi lạch bạch dưới sình và tâm hồn lo âu vô vọng. Tôi hay nghĩ đến sự chết thê thảm cô đơn và lẩn vẩn trong trí óc sự tiếc nuối mênh man như lòng người chinh phụ trong giang san Đèo Cả.

    “Thôi đứng đợi làm chi. Thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng kỳ. Những người mang mệnh biệt ly.”

    Nhờ cây viết máy Kao lo khô mực và nước rạch nhỏ vào cho ướt lại, tôi viết mấy ô nhịp trên.

    Tâm hồn rạo rực trong mỗi buổi chiều tà làm bốc lên những tiếng mới của bài Hòn Vọng Phu 2, tức Ai xuôi vạn lý, được ghi vội vã lộn xộn nhưng cuồng nhiệt như tâm hồn tôi ghì lấy sự sống.

    Ngày chót ở Dòng Sầm là ngày đại bố của tên Leroy. Hắn nghe tin có người lạ mặt trốn trong lá (vì có tên lính kín của hắn trà trộn trong đám người đi chặt lá bất ngờ gặp 2 chúng tôi).

    Tên này giả đò thương hai chúng tôi, hỏi vu vơ vài câu rồi ra lộ làng. Anh Tư người che chở chúng tôi thấy nó chạy vội xuống Bình Đại, anh hốt hoảng vào kêu chúng tôi thu xếp túi áo quần, xóa vết củi than rồi tìm chổ trốn càng sâu càng tốt- như ráng chui dưới đống lá mới chặt kẻo vào bụi rậm thì dễ bị chúng bắn bừa vào cho chết.

    Cả một ngày khủng khiếp tột độ kéo dài cho đến gần tối đêm, chúng tôi mới dám lần về nhà anh Tư, hỏi thăm nơi nào còn trốn được nữa. Anh dẫn đến nhà người bề trên trong dòng họ và cả trong đạo, năn nỉ xin giúp. Ông này chỉ lối cho chúng tôi ra một tha ma nhỏ có một mộ đào sẳn nhưng chưa chôn – Lấy rơm nơi gần đó trải đầy xuống đáy mộ, chúng tôi đành xuống đó nằm nghĩ qua đêm, yên lặng trong ngôi mộ như chờ lấp đất.

    Vòm trời sao hình chữ nhật tỏa xuống hai thằng người nửa sống nửa chết, tuy chưa chôn nhưng đang phó thác tâm hồn cho thượng đế với hai cái xác còn đầy sức sống cầu mong được thoát nạn. Sáng hôm sau lời nguyện đã được nghe từ thiên cao: Một em trong đoàn hát tìm được chúng tôi và dẫn qua đường làng đến Vang Quới, xuống đó may về được Mỹ Tho để ngồi tù…Rồi thoát nạn.

    SaiGon cuối 1947. Hòn Vọng Phu 2 với nổi lòng “người Vọng Phu” (qua) lúc gió mưa thành hình và trong nội năm 1948 nỗi lòng ấy vang dội trên các sân khấu Sài Thành với giọng ca điêu luyện của nhiều nam nữ ca sĩ trong đó có Ánh Mai, sau này thành vợ cũ của Huỳnh Văn Tiểng và vài người đẹp đã quên tên.

    Sống lại với nền tân nhạc giữa thời “khai sơn phá thạch” tôi không ngớt theo đuổi ý chí kể lại khúc chót của chuyện tích mặc dù mắc kẹt với bao sáng tác của năm 1948 một năm khởi sắc với 6 bài nhạc thời sự (Hòa Bình 48, Báo Thương, Liều Thuốc Độc Lập…Dao ca, tạp khúc ca, kịch ngắn v.v.) thâu âm đĩa hát, tìm nhà ở, tìm chổ dạy học lại.v.v.

    Người Chinh Phu về (HVP3) với tình nghĩa vợ chồng đổi sang tình nghĩa non sông, nhìn đứa con để trao cho nó thanh kiếm sơn hà. “Trao nó đi gây lại cơ đồ”. Linh tính làm người Việt Nam giữa thời khói lửa vẫn đinh ninh là Hạnh Phúc vẫn là mục tiêu không kỳ hạn mà dân tộc phải tìm lâu dài cho đến khi quân bình được những cảm tình trái ngược mà lẽ đời sôi động của cuối thế kỷ đã lôi cuốn bao lớp người vào lãng phí sinh mạng như vào hận tủi bi thiết của nhân sử nòi Việt.

    Đến đây nhân lúc mới khỏe lại về thân thể và tin đời, tôi gửi thác P Hương một điệp khúc tự sự của bài HVP 2.

    Có thơ xuôi vạn lý nhắn Phương Hương mấy lời
    Đá non sông tình ý vẫn trơ gan dưới đời
    Ghi nghĩa nặng tình sâu
    Và lòng thân tín với nhau
    Vững như đá tảng non đầu
    Vẫn chan chứa Tình Bể Dâu

    Lê Thương


    Tái bút :

    Nhớ lại những giọng Hoàng Oanh, nõn nà thùy mị, rồi mới đây giọng Mai Hương, đơn chuyên thẳng tắp sau những thổn thức của Thái Thanh trong các kỳ diễn lại Ai Xuôi Vạn Lý. Phải kể nhiều về giọng Long Xuyên Tinh Nghệ của Phạm Bá Phước ( đã khuất) của Thanh Hùng và nhất là giọng Duy Khánh thiết tha chải chuốt và mới đây giọng Hoài Trung diễn kể Người Chinh Phu về còn cảm tình gió Khơi Dĩ Vãng. Nhớ PH qua sự nín lặng lâu dài chỉ vì bất tiện chứ không mảy may gì khác.

    Mong Trời Phật giúp con người khả ái ấy giữ mãi được sức khỏe và tin tưởng về Mai Hậu. NB sẵn Noel, Nouvel An và tết mậu Thìn sắp tới xin chúc Phương Hương và gia đình toàn vẹn ở biệt thự Khoai Lang được tràn trề vui mừng sức khỏe và các cụ bà được sống lâu trăm tuổi để chờ ngày về thăm Bến Tre thân mến trong niềm vui an hòa của những năm xưa.

    Cả gia đình tôi cầu chúc- LT.

     

    Thủ bút của nhạc sĩ Lê Thương:

    Lê Thương.1

    Lê Thương.2

     

    Xem thêm các trang thư còn lại

    Hòn Vọng Phu – NS Lê Thương

    Trường ca Hòn vọng phu của nhạc sĩ Lê Thương
    “Cách đây 43 năm (1944 – 1945), tại xứ Dừa tỉnh Kiến Hòa, lúc đó còn là cù lao An Hóa, tỉnh Mỹ Tho, tình trạng giao động của một tâm hồn ưu tư về thời cuộc (Nhật chiếm Lạng Sơn 1940 rồi tràn vào Hải Phòng Hà Nội, tôi vào nam 1941) hòa nhiễm nỗi lòng chinh phu trong văn thơ đưa tôi đến việc sáng tác lần hồi 3 bài Hòn Vọng Phu thành một truyền kỳ cảm động…Mang nặng mối tình nước non đang xao xuyến, phân vân trước bao nhiêu nghi vấn của đời người nên tôi gởi thác tâm tình vào để tài dân tộc là Tích Người Đà Bà Hóa Đá…” – Nhạc sĩ Lê Thương.
    Thủ bút của NS. Lê Thương