Từ điển Làng Mai – M

Mai Hoa Thôn Cam Lộ Tự (chữ viết)  Tên chữ của chùa Cam Lộ, Xóm Hạ.

Mai Điền (Trăng Mai Điền) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Nhật Bản, sinh năm 1981, thọ giới Sa Di Ni ngày 14 tháng 12 năm 2016 tại Làng Mai Pháp (35 tuổi), pháp danh Flowing Gratitude of the Heart, pháp tự Chân Trăng Mai Điền. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 3 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 975 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mai Điền thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mai Lâm (Trăng Mai Lâm) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Pháp, sinh năm 1970, thọ giới Sa Di Ni ngày 14 tháng 12 năm 2016 (46 tuổi) tại Làng Mai Pháp, pháp danh Tâm An Lương, pháp tự Chân Trăng Mai Lâm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Mai Vàng. Là đệ tử thứ 968 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mai Lâm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Mai Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Pháp, sinh năm 1984, tập sự xuất gia năm 2002 (18 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 26 tháng 5 năm 2002  tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm Hỷ Hướng, pháp tự Chân Mai Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Xoan. Thọ giới lớn ngày 14 tháng 1 năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp. Nhận truyền đăng năm 2010 trong đại giới đàn Thuỷ Tiên tại Đạo tràng Mai Thôn với bài kệ:
Đất Pháp hoa Mai nở.
Nghiêm tịnh xuân đạo tràng.
Phương tây là tịnh độ.
Tâm giới rộng thênh thang
và:
Pháp quốc hiện mai hình.
Nghiêm tịnh chiếu quang minh.
Tây phương hữu Phật độ.
Diệu Pháp Mai Hoa Kinh.
Là đệ tử thứ 161 của Thầy Làng Mai, sư cô Mai Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Mai Phương (Trăng Mai Phương) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1991, thọ giới Sa Di Ni ngày 14 tháng 12 năm 2016 tại Làng Mai Pháp (25 tuổi), pháp danh Tâm Thiện Đạt, pháp tự Chân Trăng Mai Phương. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 3 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 985 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mai Phương thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mai Sơn (Trăng Mai Sơn) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1979, thọ giới Sa Di Ni ngày 14 tháng 12 năm 2016 tại Làng Mai Pháp (35 tuổi), pháp danh Tâm Diệu Hương, pháp tự Chân Trăng Mai Sơn. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Là đệ tử thứ 970 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mai Sơn thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Mai Thôn (Trăng Mai Thôn) (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Úc, sinh năm 1965, thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 7 năm 2011 (46 tuổi), pháp danh Tâm Trì Địa pháp tự Chân Trăng Mai Thôn. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trúc Tím. Thọ giới lớn ngày 24 tháng 5 năm 2014 trong đại giới đàn  Cam Lộ Vị tại Làng Mai Pháp. Nhận truyền đăng năm 2020 trong khóa tu xuất sĩ tại Viện Phật học Ứng dụng Châu Âu với bài kệ truyền đăng:
Trăng sáng vườn mai lòng đã nhẹ
Đường về thôn cũ bước thong dong
Gươm báu trao tay người nghệ sĩ 
Bừng lên đầu núi ánh mây hồng.
Là đệ tử thứ 726 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mai Thôn thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mai Thôn Đạo Tràng (chữ viết)
Tên chữ của Làng Mai. (xem Làng Mai).

Mai Trang (Trăng Mai Trang) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Hoa Kỳ, sinh năm 1975, thọ giới Sa Di Ni ngày 14 tháng 12 năm 2016 tại Làng Mai Pháp (41 tuổi), pháp danh Tâm Trung Nguyện, pháp tự Chân Trăng Mai Trang. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 3 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 973 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mai Trang thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mai Viên (Trăng Mai Viên) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Hoa Kỳ, sinh năm 1977, thọ giới Sa Di Ni ngày 14 tháng 12 năm 2016 tại Làng Mai Pháp (39 tuổi), pháp danh Tâm Thiện Từ, pháp tự Chân Trăng Mai Viên. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 3 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 974 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mai Viên thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mãn Chí (tên gọi) Một vị xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1993, thọ giới Sadi ngày 8 tháng 6 năm 2008, pháp danh Tâm Đồng, pháp tự Thích Mãn Chí, trong gia đình xuất gia Cây Ngô Đồng. Thọ giới lớn năm 2014 trong đại giới đàn Cam Lộ Vị tại Tu viện Vườn Ươm. Là đệ tử của Hòa thượng Thích Chí Mậu, thầy Mãn Chí thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện đang sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Mãn Chiếu (Trăng Mãn Chiếu) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1997, thọ giới Sa Di Ni ngày 14 tháng 12 năm 2016 (19 tuổi), pháp danh Tâm Lưu Hương, pháp tự Chân Trăng Mãn Chiếu, trong gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Là đệ tử thứ 1001 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mãn Chiếu thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Mãn Khai (Trăng Mãn Khai) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1994, tập sự xuất gia năm 2013 (19 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 8 tháng 12 năm 2013, pháp danh Tâm Diệu Hòa, pháp tự Chân Trăng Mãn Khai. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Đoàn. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2017 tại Tu viện Vườn Ươm trong đại giới đàn Tánh Thiên. Là đệ tử thứ 835 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mãn Khai thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mãn Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1962, tập sự xuất gia năm 2005 (43 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 8 năm 2005 tại Chùa Pháp Vân – Làng Mai, pháp danh Tâm Nhuận Thiện, pháp tự Chân Mãn Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Hướng Dương. Là đệ tử thứ 242 của Thầy Làng Mai, sư cô Mãn Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Mạnh Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Thọ giới Sa Di Ni ngày 20 tháng 10 năm 2009 tại tu viện Bích Nham, thuộc gia đình xuất gia Cây Mướp Hương. Là đệ tử thứ 637 của Thầy Làng Mai, sư cô Mạnh Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Mặc Chiếu (Trăng Mặc Chiếu) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1988, thọ giới Sa Di Ni ngày 18 tháng 12 năm 2014 (26 tuổi), pháp danh Tâm Hoằng Mỹ, pháp tự Chân Trăng Mặc Chiếu. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sồi Đỏ. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 tại Tu viện Vườn Ươm trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây. Là đệ tử thứ 875 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mặc Chiếu thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mặc Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1983, tập sự xuất gia năm 2004 (21 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 1 tháng 2 năm 2005 tại chùa Hoằng Pháp, Việt Nam, pháp danh Tâm Nguyên Hiếu, pháp tự Chân Mặc Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Vú Sữa. Thọ giới lớn ngày 5 tháng 1 năm 2008 tại tu viện Bát Nhã trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Nhận truyền đăng ngày 1  tháng 3  năm 2012 trong đại giới đàn Tình Huynh Đệ tại Làng Mai với bài kệ:
Hơi thở nhẹ nhàng tâm tĩnh mặc
Thế ngồi vững chãi tướng đoan nghiêm
Uy nghi từng bước sen hồng nở
Đi với tăng thân vẹn ước nguyền.
Là đệ tử thứ 224 của Thầy Làng Mai, sư cô Mặc Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mắt tăng (thuật ngữ)
Con mắt của tăng thân, của đoàn thể tu học. Một danh từ được Làng Mai chế tác. Trước đó chỉ có ngũ nhãn là mắt thịt (nhục nhãn), mắt trời (thiên nhãn), mắt tuệ (tuệ nhãn), mắt pháp (pháp nhãn), và mắt Bụt (Phật nhãn). Mắt tăng (tăng nhãn – có thể dịch ra tiếng Phạn là sangha-caksus) là cái thấy của tăng thân, bao giờ cũng sáng suốt hơn là cái thấy của một cá nhân. Ở Làng Mai, hành giả được tăng thân soi sáng và dìu dắt trên con đường thực tập. Hành động soi sáng và dìu dắt này được căn cứ trên cái thấy của tăng thân về mình. Cái thấy ấy là tăng nhãn. Hành giả nên tập sử dụng tăng nhãn để nhìn tự thân và nhìn sự việc.

Mắt thương (thuật ngữ)
Con mắt từ bi, dịch chữ từ nhãn (“từ nhãn thị chúng sinh,” lấy con mắt thương nhìn mọi loài) trong phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa. Nhìn người khác bằng con mắt từ bi, hành giả sẽ không bao giờ đau khổ và người được nhìn cũng cảm thấy được chấp nhận và thương yêu. Thực tập bài kệ Thức dậy sẽ giúp nuôi dưỡng tinh thần ấy mỗi ngày:
Thức dậy miệng mỉm cười.
Hăm bốn giờ tinh khôi.
Xin nguyện sống trọn vẹn.
Mắt thương nhìn cuộc đời.

Mẫn Chiếu (Trăng Mẫn Chiếu) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 2003, tập sự xuất gia năm 2016 (13 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 15 tháng 12 năm 2016 tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Bình Quyết, pháp tự Chân Trăng Mẫn Chiếu. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Là đệ tử thứ 1017 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mẫn Chiếu thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mẫn Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người gốc Việt-Hoa, quốc tịch Mỹ, sinh năm 1986, tập sự xuất gia năm 1999 (12 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 04 tháng 12 năm 1999 tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Đức Luân, pháp tự Chân Mẫn Nghiêm. Là đệ tử thứ 102 của Thầy Làng Mai, sư cô là một trong những người xuất gia trẻ tuổi, được Thầy Làng Mai đặt danh hiệu Baby Nun và còn được biết tới với biệt danh Sư bé 101. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Anh Đào. Thọ giới lớn ngày 14 tháng 01 năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp. Nhận truyền đăng năm 2008 trong đại giới đàn Thanh Lương Địa với bài kệ truyền đăng:
Đóa sen linh Mẫn ngát hương thiền
Trang điểm trần gian cõi tịnh Nghiêm
Tám gió kêu gào tâm chẳng động
Trái tim hồng ngọc chiếu tây thiên.
Sư cô Mẫn Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mật Hạnh (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1990, thọ giới Sa Di Ni ngày 23 tháng 1 năm 2024 (34 tuổi), pháp danh Nguyên Tâm Liên Hoa, pháp tự Chân Mật Hạnh. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Bàng, là đệ tử thứ 58 của thế hệ thứ ba Tăng thân xuất sĩ Làng Mai. Sư cô Mật Hạnh thuộc thế hệ thứ 44 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 10 của phái Liễu Quán.

Mật Nghiêm(tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Canada, sinh năm 1985, tập sự xuất gia năm 2001 (16 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 28 tháng 6 năm 2001 tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm Hiền Thiện, pháp tự Chân Mật Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Dâu Tây. Thọ giới lớn ngày 10 tháng 11 năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ. Là một trong những đệ tử trẻ tuổi của Thầy Làng Mai được Thầy Làng Mai đặt danh hiệu Baby Nun. Nhận truyền đăng năm 2010 trong đại giới đàn Thủy Tiên với bài kệ truyền đăng:

Như lai Mật ý đã tâm truyền
Một hướng đi về cõi tịnh Nghiêm
Xanh biếc thông già nghe sóng biển
Trầm hùng phạm bối hải triều lên.
Là đệ tử thứ 128 của Thầy Làng Mai, sư cô Mật Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Mây Đầu Núi (cơ sở) Một xóm dành cho các sư cô thuộc tu viện Bát Nhã.

Mây Hồng (cơ sở) Một cư xá dành cho cư sĩ nam tại tu viện Bích Nham.

Mây Lành (Trăng Mây Lành) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1989, tập sự xuất gia năm 2017 (28 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 20 tháng 5 năm 2018 tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Huệ Hạnh, pháp tự Chân Trăng Mây Lành. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Ngọc Lan. Thọ giới lớn ngày 3 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1056 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mây Lành thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mây Thong Dong (điện đường, cơ sở)
1. Một thiền đường thuộc chùa Từ Nghiêm, Xóm Mới.
2. Một cư xá dành cho các sư cô ở Xóm Mới.

Mây Tím (cơ sở)
Một cư xá thuộc Xóm Hạ.

Mây Trắng (Trăng Mây Trắng) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 2003, tập sự xuất gia năm 2018 (15 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 16 tháng 6 năm 2019 tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Quảng Vân, pháp tự Chân Trăng Mây Trắng. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Nguyệt Quế. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 2 năm 2023 trong đại giới đàn Trừng Quang. Là đệ tử thứ 1118 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mây Trắng thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

MCorp Global (tên gọi)
Tên của một công ty do tiến sĩ Bhupendra Kumar Modi làm giám đốc. Công ty này đã quyết định bỏ ra 120 triệu Mỹ kim để thực hiện phim Buddha căn cứ vào tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng của Thầy Làng Mai.

Mẹ – Biểu hiện của tình thương (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, kể chuyện về sự tích Quan Âm Thị Kính và sự tích Quan Âm Hương Tích, do công ty An Lạc phát hành tại Việt Nam năm 2010.

Mì gói Giáng Kiều (thuật ngữ)
Câu chuyện Tú Uyên và Giáng Kiều trong Bích Câu Kỳ Ngộ của Đặng Trần Côn được Thầy Làng Mai hiện đại hóa để nói về nghệ thuật tái lập truyền thông. Tú Uyên thông minh, đẹp trai, nhưng không giữ năm giới, không có khả năng truyền thông. Nhờ thực tập đốt hương Giới, hương Định và hương Tuệ mà được đoàn tụ lại với Giáng Kiều. (Trích bài Pháp thoại Tìm Lại Giáng Kiều, sách Leo Đồi Thế Kỷ, Lá Bối xuất bản, từ trang 74 đến trang 89).

Michel Shane (tên gọi) Tên nhà sản xuất phim tại Hollywood có phận sự thực hiện cuốn phim Buddha dựa trên tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng của Thầy Làng Mai. Cuốn phim được tài trợ bởi công ty M Corp Global do tiến sĩ Bhupendra Kumar Modi làm giám đốc.

Mindfulness Bell (tạp chí) Tờ tạp chí về nghệ thuật sống chánh niệm theo truyền thống Làng Mai. Sư cô Chân Đức là cố vấn biên tập. Cô Janelle Combelic là chủ biên, và một ban cố vấn gồm một số các vị giáo thọ xuất sĩ và cư sĩ Làng Mai. Địa chỉ trang nhà: www.mindfulnessbell.org

Mindful Movements (sách) Một cuốn sách nguyên bản tiếng Anh giới thiệu về Mười động tác chánh niệm, có hình minh hoạ và kèm theo DVD. Nhà xuất bản Parallax Press ấn hành năm 2008.

Minh An (Trời Minh An) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1986, thọ giới Sa Di ngày 9 tháng 9 năm 2018 (32 tuổi), pháp danh Healing Voice of the Heart, pháp tự Chân Trời Minh An, thuộc gia đình xuất gia Cây Xô Thơm. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1071 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Minh An thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Minh Cảnh (tên gọi) Hòa thượng Minh Cảnh, trú trì tu viện Huệ Quang, Tp HCM, chủ biên bộ từ điển Phật Học Huệ Quang. Hòa thượng đã tới viếng thăm Làng Mai, chia sẻ kinh nghiệm tu học cho chúng xuất gia của Làng Mai trong đại giới đàn Mùa Sen Mới.

Minh Châu (tên gọi) Một vị xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng Mai, được Thầy Làng Mai đặt pháp tự là Chân Vân Nghiêm. Người Việt, xuất gia năm 1991 tại Việt Nam. Đến Làng Mai năm 2004. Sư cô Minh Châu thuộc thế hệ thứ 47 của tông Lâm Tế.

Minh Chí (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng Mai. Nhận truyền đăng năm 2012 với bài kệ truyền dăng:
Minh châu trong vạt áo nâu sồng
Chí nguyện từ xưa vẫn sáng trong
Đường sáng tăng thân cùng cất bước
Xưa nay thanh khí vẫn tương tầm.
Hiện đang sinh hoạt với tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Chiếu (Trăng Minh Chiếu) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1996, tập sự xuất gia năm 2016 (20 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 15 tháng 12 năm 2016 tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Quảng Như, pháp tự Chân Trăng Minh Chiếu. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 3 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 995 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Minh Chiếu thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Minh Dung (Trời Minh Dung) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1994, thọ giới Sa Di ngày 20 tháng 10 năm 2017 (23 tuổi), pháp danh Great Awareness of the Heart, pháp tự Chân Trời Minh Dung, thuộc gia đình xuất gia Cây Sơn Thù Du. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1028 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Minh Dung thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Địa (Trời Minh Địa) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1994, thọ giới Sa Di ngày 19 tháng 10 năm 2019 (25 tuổi), pháp danh Tâm Tuệ Hạnh, pháp tự Chân Trời Minh Địa. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Bạch Quả. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 2 năm 2023 trong đại giới đàn Trừng Quang. Là đệ tử thứ 1134 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Minh Địa thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Minh Định (Trời Minh Định) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1993, thọ giới Sa Di ngày 6 tháng 9 năm 2020 (27 tuổi), pháp danh Peaceful Source of the Heart, pháp tự Chân Trời Minh Định. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Xô Gai. Là đệ tử thứ 1151 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Minh Định thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Minh Đức (tên gọi)  Một vị giáo thọ xuất gia nam, được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1996 trong đại giới đàn Nến Ngọc với bài kệ truyền đăng như sau:
Minh nguyệt sơ đăng truyền pháp nhũ.
Đức sơn bất động phá trầm luân.
Thụy khởi thanh thiên vân tận khứ.
Đương chiêm tuệ nhật nhất phương hồng.
(Trăng sáng vừa lên cho sữa pháp.
Núi cao ngồi vững phá tâm trần.
Thức dậy trời xanh mây quét sạch.
Hồng hào tuệ nhật chiếu phương Đông.)

Minh Hóa (Trời Minh Hóa) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1995, thọ giới Sa Di ngày 23 tháng 10 năm 2015, pháp danh Mindful Observation of the Heart, pháp tự Chân Trời Minh Hóa. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Thế Kỷ. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 02 năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây tại Làng Mai Pháp. Là đệ tử thứ 925 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Minh Hóa thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Hội (Trời Minh Hội) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1992, thọ giới Sa Di ngày 19 tháng 10 năm 2019 (27 tuổi), pháp danh Sacred Garden of the Heart, pháp tự Chân Trời Minh Hội. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Bạch Quả. Là đệ tử thứ 1133 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Minh Hội thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Hương (tên gọi) Một vị xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng Mai, được Thầy Làng Mai đặt pháp tự là Chân Thạch Nghiêm. Người Việt Nam, xuất gia năm 1999 tại Việt Nam, Thọ giới lớn ngày 9 tháng 2 năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế. Tới Làng Mai năm 2003. Sư cô Minh Hương thuộc thế hệ thứ 47 của tông Lâm Tế.

Minh Hy (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, xuất gia năm 2001 tại Việt Nam. Thọ giới lớn ngày 15/5/2005. Đến Làng Mai năm 2009. Nhận Truyền đăng năm 2011 tại Làng Mai năm 2011 trong đại giới đàn Lắng Nghe:
Tam minh bảo vật hy cầu
Nghe trong hơi thở lắng sâu tuyệt vời
Bước chân an trú thảnh thơi
Thấy trong giây phút rạng ngời pháp thân.
Thầy Minh Hy thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện đang sinh hoạt với tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Lực (Trời Minh Lực) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1996, thọ giới Sa Di ngày 6 tháng 9 năm 2020 (24 tuổi), pháp danh Wake Up of the Heart , pháp tự Chân Trời Minh Lực. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Xô Gai. Là đệ tử thứ 1152 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Minh Lực thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Lượng (Trời Minh Lượng) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1994, thọ giới Sa Di ngày 9 tháng 9 năm 2018 (24 tuổi), pháp danh Infinite Light of the Heart, pháp tự Chân Trời Minh Lượng, thuộc gia đình xuất gia Cây Xô Thơm. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1072 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Minh Lượng thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Minh Lưu (Trời Minh Lưu) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Hoa Kỳ, sinh năm 1988, thọ giới Sa Di ngày 9 tháng 9 năm 2018 (30 tuổi), pháp danh Tâm Thông, pháp tự Chân Trời Minh Lưu. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Xô Thơm. Là đệ tử thứ 1073 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Minh Lưu thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Mẫn (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai, được Thầy Làng Mai đặt tên là Chân Pháp Thạnh. Người Việt Nam, xuất gia năm 1995 tại Việt Nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp với bài kệ truyền đăng như sau:
Không trung vầng nhật chiếu quang Minh.
Mẫn tiệp tâm khai chuyển khí tình.
Xuất thế công phu dòng thật quán.
Chân thừa pháp lực độ quần sinh.

Minh Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1978, tập sự xuất gia năm 2006 (28 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Niệm Phương, pháp tự Chân Minh Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trầm Hương. Là đệ tử thứ 407 của Thầy Làng Mai, sư cô Minh Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Nguyên (Trời Minh Nguyên) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Hoa Kỳ, sinh năm 1996, thọ giới Sa Di ngày 23 tháng 10 năm 2015 (19 tuổi), pháp danh Tâm An Định, pháp tự Chân Trời Minh Nguyên. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Thế Kỷ. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 02 năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây. Là đệ tử thứ 926 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Minh Nguyên thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Nhân (Trời Minh Nhân) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1995, thọ giới Sa Di ngày 9 tháng 9 năm 2018 (23 tuổi), pháp danh Peaceful Transformation of the Heart, pháp tự Chân Trời Minh Nhân, thuộc gia đình xuất gia Cây Xô Thơm. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1075 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Minh Nhân thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Minh Niệm (Trời Minh Niệm) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1987, thọ giới Sa Di ngày 6 tháng 9 năm 2020 (33 tuổi), pháp danh Open Mind of the Heart , pháp tự Chân Trời Minh Niệm, thuộc gia đình xuất gia Cây Xô Gai. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 2 năm 2023 trong đại giới đàn Trừng Quang. Là đệ tử thứ 1150 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Minh Niệm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Minh Phương (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng Mai, được Thầy Làng Mai đặt pháp tự là Chân Thủy Nghiêm. Người Việt Nam, sinh năm 1983, xuất gia năm 2001, thọ giới lớn ngày 10 tháng 11 năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ. Tới Làng Mai năm 2003. Sư cô Minh Phương thuộc thế hệ thứ 47 của tông Lâm Tế. Nhận truyền đăng năm 2011 trong đại giới đàn Lắng Nghe tại Đạo tràng Mai Thôn với bài kệ truyền đăng:
Tú sơn lệ thủy lộ chân hình
Nghiêm hộ uy nghi tuệ đắc minh
Siêu việt lưỡng nguyên chân cự điểu
Hành vô hành hạnh chứng vô sinh.
Hiện đang sinh hoạt với tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh San (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai, được Thầy Làng Mai đặt pháp tự là Chân Pháp Tuyền. Người Việt Nam, xuất gia năm 1997, thọ sadi năm 1999, Thọ giới lớn năm 2002 tại Việt Nam. Nhận truyền Đăng năm 2011 trong đại giới đàn với bài kệ:
Đã lời thệ hải minh san,
Nắng mưa bao quản, cơ hàn sá chi
Nước kia dù tới dù đi
Triền xưa xanh tốt, non thì cứ vui.
Hiện đang sinh hoạt với tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Tánh (tên gọi)
1. Thượng tọa Thích Minh Tánh. Một vị giáo thọ xuất gia nam, trụ trì chùa Thiên Đức, TPHCM. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1996 trong đại giới đàn Nến Ngọc với bài kệ truyền đăng như sau:
Minh thấy vô minh nở nụ cười.
Tánh soi vô tánh sạch trần ai.
Trượng phu một quyết lên đường lớn.
Gươm báu trao truyền hãy vững tay.
2. Ni sư Chân Minh Tánh. Một vị giáo thọ xuất gia nữ. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế với bài kệ truyền đăng như sau:
Minh tâm kiến tánh quyết lên đường.
Tám vạn trần lao nguyện thả buông.
Cơ nghiệp tổ tiên gây dựng lại.
Xuân về đâu chẳng một mùa xuân.

Minh Tâm (tên gọi)
1. Một vị xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1992, thọ giới Sadi năm 2008 (16 tuổi), pháp danh Tâm Viên. Thọ giới lớn tháng 10 năm 2014. Hiện đang sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

2. (Trời Minh Tâm) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1973, thọ giới Sa Di ngày 23 tháng 10 năm 2015 (42 tuổi), pháp danh Awakening Love of the Heart, pháp tự Chân Trời Minh Tâm. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Thế Kỷ. Là đệ tử thứ 924 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Minh Tâm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Thắng (Trời Minh Thắng) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1998, thọ giới Sa Di ngày 9 tháng 9 năm 2018 (20 tuổi), pháp danh Joyful Compassion of the Heart, pháp tự Chân Trời Minh Thắng. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Xô Thơm. Là đệ tử thứ 1076 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Minh Thắng thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Thiện (Trời Minh Thiện) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Sinh năm 1966, thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016 (50 tuổi), pháp danh Joyful Ocean of the Heart, pháp tự Chân Trời Minh Thiện. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Là đệ tử thứ 972 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Minh Thiện thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Minh Tuấn (tên gọi) Thượng tọa Minh Tuấn. Một vị giáo thọ xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1951, xuất gia tại Việt Nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp với bài kệ truyền đăng:
Thông Minh Tuấn tú bậc anh tài.
Nương thuyền Tăng bảo vượt trần ai.
Sương thu cành huệ xòe hoa trắng.
Một hướng ngàn năm vững bảo đài.
Đến Làng Mai từ năm 2001. Thượng tọa Minh Tuấn thuộc thế hệ thứ 42 tông Lâm Tế chánh tông Chúc Thánh Quảng Nam.

Moon Bamboo (sách)  Tập truyện ngắn tiếng Anh dịch từ nguyên tác tiếng Việt các chuyện Tố, Hồng, Bưởi và Thiều do nhà Parallax xuất bản năm 1989 tại Hoa Kỳ. Được dịch và xuất bản ở nhiều nước trên thế giới.

Mỗi bước chân đi vào tịnh độ (thuật ngữ) Mỗi bước chân của hành giả khi thực tập thiền đi đều đưa hành giả vào tịnh độ. Khi tâm hành giả có năng lượng của niệm và định, hành giả thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, không bị quá khứ và tương lai lôi kéo, và hành giả tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống ngay trong giây phút hiện tại, những mầu nhiệm của cõi Tịnh Độ được nói đến trong kinh A Di Đà bỗng nhiên có mặt và vì vậy hành giả tiếp xúc được với tịnh độ trong lúc thực tập đi thiền. Tịnh độ không phải ở phương Tây hay ở tương lai, mà là tịnh độ bây giờ và ở đây. Đó gọi là hiện pháp tịnh độ, hay tịnh độ hiện tiền. Đi đâu hành giả cũng tiếp xúc với tịnh độ, đi đâu hành giả cũng mang tịnh độ theo, vì vậy tịnh độ còn được gọi là tịnh độ cầm tay (tiếng Anh là the portable pure land). Nắm tay Bụt để đi trong tịnh độ mỗi ngày, đó là phép thực tập thiền đi, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu.

Mỗi hơi thở mỗi nụ cười (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh Each breath a smile. Sách do Phan Book phát hành tại Việt Nam năm 2018.

Một Bó Hoa Đồng (sách) Một tập truyện ngắn nhiều tác giả do nhà Lá Bối, Paris xuất bản năm 1977. Các truyện của Thầy ký bút hiệu Nhất Hạnh.

Một lá ngô đồng rơi – người vẫn cùng ta leo đồi thế kỷ. Ngàn hoa thủy tiên hé – đất cứ theo trời hát khúc vô sinh (chữ viết)
Câu đối do Thầy Làng Mai tặng thầy Giác Thanh – đệ nhất trụ trì tu viện Lộc Uyển, được khắc trên tháp Phù Vân, núi Yên Tử, tu viện Lộc Uyển.

Một Phương (Trăng Một Phương) (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1991, thọ giới Sa Di Ni ngày 23 tháng 3 năm 2011 tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Thanh Trì, pháp tự Chân Trăng Một Phương. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trúc Xanh. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2014 tại Tu viện Vườn Ươm. Thọ giới lớn ngày 24 tháng 5 năm 2014 trong đại giới đàn Cam Lộ Vị. Nhận truyền đăng trong năm 2020 với bài kệ truyền đăng:
Trăng về một hướng rạng mười phương
Đại địa thanh lương khắp nẻo đường
Ngàn hoa tung cánh rền âm pháp 
Diễn xướng lời kinh hiểu với thương.
Là đệ tử thứ 707 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Một Phương thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mở Thêm Rộng Lớn Con Đường (bài hát)
Một bài hát, lời của Thầy Làng Mai, viết tặng sư cô Chân Không nhân ngày sư cô xuất gia. Tịnh Thủy (sư cô Quy Nghiêm) phổ nhạc.
Mái tóc vốn màu gỗ quý.
Nay dâng thành khối trầm thơm.
Nét đẹp đi về vĩnh cửu.
Vi diệu thay ý vô thường.
Đã thấy đời cơn huyễn mộng.
Chân tâm một quyết lên đường.
Nghe hải triều lên mấy độ.
Nguyện phát túc về siêu phương.
Gió reo trên triền núi Thứu.
Lòng này thôi hết vấn vương.
Bài ca sáng ngời diệu lý.
Bao la ngát đạo chân thường.
Ngày xưa nước bồ kết gội.
Chiều về buông xõa tóc hương.
Sáng nay cam lồ tịnh thủy.
Tâm bồ đề lộ kiên cường.
Bàn tay tập bài từ ái.
Chia vui nếp sống tịnh thường.
Mấy mươi năm trời cần mẫn.
Thủy chung vẫn một niềm thương.
Sáng nay cạo sạch mái tóc.
Mở thêm rộng lớn con đường.
Phiền não vô biên nguyện đoạn.
Một tâm mà động mười phương.

Mới Lên (Trăng Mới Lên) (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Indonesia, sinh năm 1979, thọ giới Sa Di Ni ngày 27 tháng 5 năm 2010 (31 tuổi), pháp danh Tâm Hướng Quang, pháp tự Chân Trăng Mới Lên. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Xanh. Thọ giới lớn ngày 23 tháng 3 năm 2016 trong đại giới đàn Ân Nghĩa. Nhận truyền đăng năm 2023 trong khóa tu xuất sĩ “Vững một niềm tin” tổ chức tại Làng Mai với bài kệ truyền đăng:
Out of darkness the moon has just risen
Its guiding light illuminates our steps.

In this pure land of mindfulness and joy
I offer my service to all beings.
Là đệ tử thứ 687 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mới Lên thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Mùa Sen Mới (lễ lược) Tên một đại giới đàn diễn ra từ ngày 10 đến ngày 16 tháng 1 năm 2009 tại Làng Mai trong khóa An Cư Kiết Đông 2008 – 2009 và từ ngày 10 đến 12 tháng 1 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu. Các lễ truyền giới Thức xoa ma na, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni được truyền từ Làng Mai về Việt Nam qua mạng Internet.

Muốn an được an (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh Being peace. Sách do Thái Hà Book phát hành tại Việt Nam năm 2014.

Mười bốn bài kệ Chỉ Quán (thi kệ)
Những bài thi kệ do Thầy Làng Mai sáng tác để giúp hành giả thực tập chỉ và quán.
1. Như chim có hai cánh. Thiền tập có chỉ, quán. Hai cánh chim nương nhau. Chỉ và Quán song hành.
2. Chỉ là tập dừng lại. Để nhận diện, tiếp xúc. Nuôi dưỡng và trị liệu. Lắng dịu và chú tâm.
3. Quán là tập nhìn sâu. Vào bản chất năm uẩn. Làm phát khởi tuệ giác. Chuyển hóa mọi sầu đau.
4. Hơi thở và bước chân. Chế tác nguồn chánh niệm. Để nhận diện, tiếp xúc. Với sự sống màu nhiệm.
5. Làm lắng dịu thân, tâm. Nuôi dưỡng và trị liệu. Hộ trì được sáu căn. Và duy trì chánh định.
6. Nhìn sâu vào thực tại. Thấy tự tính các pháp. Quán giúp ta buông bỏ. Mọi tìm cầu sợ hãi.
7. An trú trong hiện tại. Chuyển hóa các tập khí. Làm phát sinh tuệ giác. Giải thoát mọi não phiền.
8. Vô thường là vô ngã. Vô ngã là duyên sinh. Là không, là giả danh. Là trung đạo, tương tức.
9. Không, vô tướng, vô tác. Giải tỏa mọi sầu đau. Trong nhật dụng công phu. Không kẹt vào lý giải.
10. Niết Bàn là vô đắc. Đốn, tiệm không phải hai. Chứng đạt sống thảnh thơi. Ngay trong giờ hiện tại.
11. Các thiền kinh căn bản. Như An Ban, Niệm Xứ. Chỉ đường đi nước bước. Chuyển hóa thân và tâm.
12. Các kinh luận đại thừa. Mở thêm nhiều cửa lớn. Giúp ta thấy chiều sâu. Của dòng thiền Nguyên Thỉ.
13. Như Lai và Tổ Sư. Thiền chẳng nên cách biệt. Bốn đế phải nương nhau. Làm nền tảng truyền thừa.
14. Có Tăng thân yểm trợ. Thực tập dễ thành công. Chí nguyện lớn độ sinh. Lên đường mau thành tựu.

Mười bốn giới tiếp hiện (pháp số, giới điều)
Những giới điều làm căn bản cho Dòng Tu Tiếp Hiện, một dòng tu do Thầy Làng Mai đề xướng và sáng lập tại chùa Pháp Vân Sài Gòn vào tháng 02 năm 1966. Mười bốn điều làm đường hướng, làm ý thức soi sáng cho từng giây từng phút của sự sống hàng ngày của những thành viên dòng tu Tiếp Hiện. Vì tôn chỉ của dòng Tiếp Hiện là hiện đại hóa đạo Bụt bằng cách nghiên cứu, thực nghiệm và áp dụng đạo Bụt một cách linh động và hữu hiệu vào đời sống mới của bản thân cũng như của xã hội, nên mười bốn giới Tiếp Hiện thể hiện rõ ràng tinh thần đó. Theo đạo Bụt, tâm là chủ, là họa sĩ vẽ ra tất cả các pháp, vì vậy giới Tiếp Hiện được bắt đầu bằng bảy giới về tâm ý. Hai giới tiếp theo dành cho lời nói (ngữ) và năm giới cuối cùng điều chỉnh thân. Giới Tiếp Hiện cũng phản ánh được bốn đặc tính quan trọng nhất của tư tưởng đạo Bụt Đại Thừa là tính phá chấp (vượt thoát ra ngoài mọi thành kiến, mọi cố chấp và giáo điều), tính khế cơ (có tính thực dụng và hữu hiệu, phù hợp với hoàn cảnh tâm lý và xã hội), tính thực chứng (tôn trọng thực nghiệm, không vướng vào các vấn đề siêu hình) và tính phương tiện (những pháp môn mới được sáng tạo ra để phù hợp với căn cơ mới, thời đại mới). Giới Tiếp hiện dành cho cả người xuất gia và tại gia. Bản chất và cách thức hành trì giới Tiếp Hiện gần với bản chất và cách hành trì của giới Bồ Tát.
1. Giới thứ nhất: Cởi mở và bao dung: Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng n và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để đừng bị vướng mắc o bất cứ một chủ nghĩa o, một lý thuyết o, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động.
2. Giới thứ hai: Cởi bỏ kiến chấp: Ý thức được những khổ đau do kiến chấp và vọng tưởng gây ra, con xin nguyện thực tập để phá bỏ thái độ hẹp i và cố chấp, để có thể cởi mở và đón nhận tuệ giác kinh nghiệm của người khác. Con biết rằng những kiến thức hiện giờ con đang không phải là những chân lý bất di bất dịch, và tuệ giác chân thực chỉ có thể đạt được do sự thực tập quán chiếu và lắng nghe, bằng sự buông bỏ tất cả mọi ý niệm không phải bằng sự chứa chấp kiến thức khái niệm. Con nguyện suốt đời là một người đi m học và thường trực sử dụng chánh niệm để quán chiếu sự sống trong con xung quanh con trong từng giây phút.
3. Giới thứ ba: Tự do nhận thức: Ý thức được những khổ đau do sự cưỡng bức kẻ khác vâng theo ý kiến của nh, con nguyện không ép buộc người khác, kể cả trẻ em, theo quan điểm của con, bằng bất cứ cách o: uy quyền, sự mua chuộc, sự dọa nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và sự tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên con biết con phải ng những phương tiện đối thoại từ bi và ái ngữ để giúp người khác cởi bỏ cuồng n và cố chấp.
4. Giới thứ tư: Ý thức về khổ đau: Ý thức rằng tiếp c và quán chiếu về bản chất của khổ đau có thể giúp con phát khởi tâm từ bi và thấy được con đường thoát khổ, con nguyện không trốn tránh thực tại khổ đau, nhắm mắt trước khổ đau và đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống. Con nguyện m tới với những kẻ khổ đau để hiểu biết được nh trạng của họ và để giúp đỡ họ. Bằng những phương tiện tiếp c, tường thuật, nh nh, âm thanh, con nguyện thường xuyên tự đánh thức nh và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những đau khổ hiện thực khắp nơi trên thế giới. Con biết rằng sự thật thứ là Đạo đế chỉ hiển lộ khi o con quán chiếu và thấy được tự tánh của sự thật thứ nhất là Khổ đế, con sẽ luôn luôn nhớ rằng mục đích của sự tu tập là chuyển a khổ đau trở thành an lạc.
5. Giới thứ năm: Sống nh mạnh và giản dị: Ý thức rằng hạnh phúc chân thực không thể đạt tới được bằng tiền i danh vọng mà chỉ thật sự có mặt khi o c yếu tố an n, vững chãi, thảnh thơi và từ bi có mặt, con nguyện không ch y tiền bạc và của cải trong khi nhiều người đang đói khổ, thiếu thốn, không đặt danh vọng, quyền nh và sự hưởng thụ dục lạc m mục tiêu của đời nh. Con nguyện tập sống giản dị và học chia sẻ thì giờ, khả năng và tài vật của nh với những kẻ thiếu thốn.
6. Giới thứ sáu: Đối xử với năng lượng sân hận: Ý thức được rằng sân hận và oán thù có tác dụng cắt đứt truyền thông giữa người với người và tạo ra nhiều đau khổ cho cả hai phía, con nguyện học hỏi phương pháp chăm c và đối xử với năng lượng sân hận và oán thù khi chúng phát khởi trên ý thức con phương pháp quán chiếu để nhận diện và chuyển a hạt giống của sân hận và oán thù trong chiều sâu tâm thức con. Con nguyện tập luyện để mỗi khi cơn giận hoặc sự bực tức phát khởi, con sẽ không i gì và làm gì cả mà chỉ thực tập hơi thở chánh niệm hoặc đi thiền nh ngoài trời để chăm c tâm niệm sân hận và oán thù của con bằng năng lượng chánh niệm và để nhìn sâu o bản chất của c tâm niệm sân hận và oán thù ấy. Con cũng nguyện sẽ học hỏi nhìn sâu o tự tánh của người con nghĩ đã gây nên tâm niệm sân hận và oán thù của con và để có thể nhìn được người y bằng con mắt từ bi.
7. Giới thứ bảy: An trú trong giây phút hiện tại: Ý thức được rằng sự sống chỉ có thể thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, ta chỉ có thể sống an lạc ngay trong giây phút y, con nguyện tập luyện để có thể sống sâu sắc từng giây phút trong cuộc sống ng ngày của con. Con nguyện không để cho những hối tiếc về quá khứ, những lo lắng về tương lai và những tham dục, giận hờn ganh tỵ đối với những đang xảy ra trong hiện tại lôi o con và làm cho con đánh mất sự sống mầu nhiệm. Con nguyện thực tập giáo lý hiện pháp lạc trú, sử dụng hơi thở và nụ cười chánh niệm để tiếp c với những gì mầu nhiệm, tươi t và lành mạnh trong con chung quanh con, để liên tục gieo trồng và tưới tẩm những hạt giống an nh, hiểu biết thương yêu trong con, m động lực chuyển a chiều sâu tâm thức đi tới trên đường thành tựu đạo nghiệp.
8. Giới thứ tám: Truyền thông hòa giải: Ý thức được rằng những khó khăn trong việc truyền thông giữa người với người luôn luôn đưa tới ngăn ch và khổ đau, con nguyện thực tập lắng nghe bằng tâm từ bi và nói năng bằng lời ái ngữ. Con nguyện học hạnh lắng nghe chăm chú mà không phán t và chỉ trích không i ra bất cứ một lời o có thể tạo nên sự bất a trong đoàn thể và có thể làm tan vỡ đoàn thể. Con nguyện tu tập để tái lập lại sự truyền thông giữa con và mọi người khác, và để giúp giải quyết mọi vụ bất a, dù lớn dù nhỏ.
9. Giới thứ chín: Lời i chân thật ái ngữ: Ý thức được rằng lời i có thể tạo ra khổ đau hay hạnh phúc, con xin nguyện luyện tập để chỉ nói những lời i chân thật có tác dụng a giải, gây niềm tin tưởng hy vọng. Con nguyện không i dối để mưu cầu i lợi và sự kính phục, không i những lời gây chia rẽ và căm thù, không loan truyền những tin con không biết chắc là có thật, không phê nh lên án những con không biết . Con nguyện can đảm i ra sự thật về những nh trạng bất công, dù hành động y có thể mang lại những đe dọa cho sự an thân của nh.
10. Giới thứ mười: Phòng hộ giáo đoàn: Ý thức rằng mục đích và bản chất của một đoàn thể tu học là sự thực hiện tuệ giác và từ bi, con nguyện không bao giờ lợi dụng đạo Bụt và các đoàn thể giáo hội o mục tiêu quyền nh, không biến c giáo đoàn thành những tổ chức hoạt động chính trị. Tuy nhiên, con nhận thức rằng c đoàn thể tu học phải có ý thức và thái độ rõ rệt về những nh trạng áp bức và bất công xã hội và có thể sử dụng nh hưởng của nh để chuyển đổi c nh trạng y không cần không nên dấn thân o những cuộc tranh chấp phe phái.
11. Giới thứ mười một: Chánh mạng: Ý thức rằng thiên nhiên và xã hội con người đã bị tàn phá trầm trọng vì bạo động và bất công, con nguyện thực tập chánh mạng, quyết tâm không sinh sống bằng những nghề nghiệp có thể gây n hại cho con người thiên nhiên, không đầu tư o những doanh nghiệp chuyên m lợi cho một nhóm người trong khi tước đoạt môi trường hội sinh sống của những nhóm người khác. Con nguyện chọn một nghề có thể giúp con thực hiện được lý tưởng từ bi và cứu khổ của đạo Bụt.
12. Giới thứ mười hai: Tôn trọng và bảo vệ sự sống: Ý thức được những khổ đau do chiến tranh và các cuộc xung đột tạo ra, con nguyện thực tập sống đời sống ng ngày của con theo tinh thần bất hại, hiểu biết thương yêu. Con nguyện p phần o công việc giáo dục a nh và thực tập a giải trong phạm vi gia đình, cộng đồng, quốc gia và quốc tế. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không n thành sự chém giết, và thường xuyên quán chiếu với tăng thân con để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ sinh mạng, ngăn chặn chiến tranh xây dựng a nh.
13. Giới thứ mười ba: Chí nguyện lợi tha: Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy m tư hữu bất cứ một của cải o không phải do nh tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng ng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một ch bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loài.
14. Giới thứ mười bốn: Bảo tồn năng lượng Tinh-Khí-Thần. Dành cho Tiếp Hiện tại gia: Ý thức được rằng sự tìm tới và phối hợp giữa hai cơ thể do sự thúc đẩy của dục nh không những đã không thể giải tỏa được nỗi cô đơn của con người mà còn tạo thêm nhiều khổ đau, chua cay xa ch, con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý thức được rằng nh động dâm sẽ gây ra khổ đau cho kẻ khác cho chính con trong hiện tại trong tương lai. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của nh và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những điều mà mình và kẻ khác đã cam kết. Con nguyện sẽ làm mọi ch có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của c gia đình và của đời sống đôi lứa. Con ý thức được trọn vẹn trách nhiệm của con về sự cho ra đời những sinh mạng mới và thường xuyên quán chiếu về môi trường sinh hoạt trong tương lai của những sinh mạng y. Dành cho Tiếp Hiện xuất gia: Ý thức được rằng lý tưởng xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ng buộc đối với ái dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh của con và hết ng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết cô đơn và khổ đau không thể nào được giải tỏa bằng dục nh mà chỉ có thể được chuyển a bằng sự thực tập hiểu biết thương yêu đích thực. Con biết nh động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con, m hại đến cuộc đời của kẻ khác không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sanh của nh. Con nguyện không ép uổng thân thể con, không đối xử với thân thể con một ch bạo động khinh xuất, không xem thân thể chỉ như là một dụng cụ. Con nguyện bảo trọng thân thể con, xem thân thể mình là đền thờ của tâm linh, là chiếc thuyền vượt biển, và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để có đủ năng lực nh đạo.

Mười động tác chánh niệm (thuật ngữ) Mười động tác thể thao thường được sử dụng ở Làng Mai để giúp làm thư giãn gân cốt sau những buổi sinh hoạt ngồi, hoặc giữa những buổi thiền đi. Những động tác này giúp cho tất cả các bộ phận của cơ thể được dịp vận động, mỗi động tác làm ba lần và làm trong chánh niệm, thường được thực tập chung toàn chúng. Trong mười động tác chánh niệm, ta thực tập phối hợp hơi thở vào hoặc hơi thở ra với từng động tác của thân thể. Trước tiên ta hãy đứng cho thoải mái, hai tay buông xuôi và để hết tâm ý ta vào hơi thở đang đi vào, đi ra ở nơi chóp mũi. Ta cũng có thể đặt tay ta trên bụng để ý thức về hơi thở vào, hơi thở ra đang làm cho bụng ta phồng lên và xẹp xuống. Ta thở một hồi, cho đến khi ta thấy tâm mình đã hoàn toàn trở về được với thân thì mới bắt đầu bằng động tác thứ nhất. Nên nhớ hơi thở của ta phải tự nhiên và động tác của ta cần chậm rãi, khoan thai. Sau mỗi động tác, ta có thể đứng yên, quay trở về với hơi thở trước khi thực tập động tác kế tiếp. Trong khi tập, ta nhớ giữ một nụ cười hàm tiếu trên môi. Sau khi tập xong mười động tác chánh niệm, ta lại đứng yên, theo dõi hơi thở vài lần trước khi xá chào, chấm dứt. (xem hình minh họa ở phần cuối mục M)

Mười giới sa di (pháp số, giới điều) Mười giới dành cho các vị xuất gia nam và nữ trong những năm đầu của cuộc sống xuất gia và là nền tảng của giới lớn Ba La Đề Mộc Xoa sau này. Có trong sách Bước Tới Thảnh Thơi, là kim chỉ nam thực tập cho các vị sa di và sa di ni. Hành tướng mười giới được trình bày rất cụ thể, rõ ràng và rất hiện đại. Mười giới sa di đúng là tiêu chuẩn của đời sống một người xuất gia, dù vị xuất gia này đã thọ giới lớn. Chỉ cần đọc mười giới này cũng đủ thấy đời sống và lý tưởng của người xuất gia là cao viễn, thảnh thơi và đẹp đẽ. Sống đúng theo mười giới này, vị sa di chứng tỏ mình đã ly khai con đường trần lụy của thế gian và đang bước trên con đường thương yêu của các vị Bụt và Bồ Tát. Bảo tồn nguyên vẹn tinh thần của các giới luật Nguyên thỉ, Hội đồng Giáo thọ của đạo tràng Mai Thôn đã biên soạn lại để mười giới sa di phản ánh được bản chất chánh niệm của giới, đồng thời cũng thỏa mãn được nhu yếu về lý tưởng thương yêu và hiểu biết của những người xuất gia trong thời đại mới.

  1. Giới thứ nhất là bảo vệ sinh mạng: Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không n thành sự giết chóc không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong ch sống ng ngày của con.
  2. Giới thứ hai tôn trọng quyền tư hữu: Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia sẻ thì giờ và năng lực của con với những kẻ thiếu thốn. Con nguyện không lấy m của riêng bất cứ một i vật o của thường trú hoặc của bất cứ ai. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, và cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một ch bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.
  3. Giới thứ ba là bảo vệ tiết hạnh: Ý thức được rằng lý tưởng của người xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ng buộc đối với ái dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh của con và hết ng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết nh động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con, m hại đến cuộc đời của kẻ khác, không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sanh của nh.
  4. Giới thứ là thực tập chánh ngữ và lắng nghe: Ý thức được những khổ đau do lời i thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo c hạnh chánh ngữ và lắng nghe để có thể dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời i có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không i những điều sai với sự thật, những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin con không biết chắc là có thật, không phê nh lên án những điều con không biết . Con nguyện thực tập lắng nghe với tâm từ bi, để có thể hiểu được những khổ đau và khó khăn của kẻ khác và để làm vơi đi những khổ đau của họ. Con nguyện không i những điều có thể tạo nên sự bất a trong đoàn thể tu học của con, những điều có thể gây nên chia rẽ và làm tan vỡ đoàn thể tu học của con. Con nguyện không i những lỗi lầm của bất cứ một vị xuất gia o ngoài tăng thân con và bất cứ về một đạo tràng o, dù có khi con nghĩ là những lỗi lầm y có thật, trừ khi con được yêu cầu làm việc này trong những buổi thực tập soi sáng có mặt đương sự.
  5. Giới thứ năm là bảo vệ và nuôi dưỡng thân tâm, không sử dụng rượu, c chất ma y tiêu thụ những sản phẩm có độc tố: Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng rượu, c chất ma y và các độc tố gây ra, con nguyện chỉ tiêu thụ những thức ăn thức uống không có độc tố và không có tác dụng gây nên sự say sưa, nh trạng mất tự chủ của thân tâm và tình trạng nặng nề và ốm đau của thân thể cũng như của tâm hồn. Con nguyện thực tập chánh niệm trong việc ăn uống tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng c chất ma y, không ăn uống tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có cả những sản phẩm ch o phim nh có chứa đựng bạo động, sợ hãi, thèm khát và hận thù.
  6. Giới thứ sáu không sử dụng mỹ phẩm và đồ trang sức: Ý thức được i đẹp đích thực của người xuất gia là tính chất vững chãi và thảnh thơi, con nguyện mỗi ngày m đẹp cho con cho tăng thân con bằng sự thực tập chánh niệm, cụ thể qua sự hành trì giới luật và các uy nghi trong đời sống ng ngày. Con biết c loại mỹ phẩm trang sức mà người đời sử dụng chỉ có thể đem lại sự hào nhoáng giả tạo bên ngoài, và chỉ có tác dụng gây ra sự chìm đắm và vướng mắc, cho nên con nguyện sống giản dị, gọn ng và sạch sẽ trong ch ăn mặc của con. Con nguyện không sử dụng c loại nước hoa, phấn, p, c loại mỹ phẩm và các thức trang sức khác.
  7. Giới thứ bảy không vướng mắc o c lối tiêu khiển trần tục: Ý thức được những ca khúc, phim truyện, ch o và các trò giải trí của thế gian có thể có tác dụng độc hại cho thân tâm người xuất gia và làm mất thì giờ cho công phu tu học của nh, con nguyện không để bị chìm đắm theo những sản phẩm y. Con nguyện không đọc tiểu thuyết, xem phim nh và sách o trần tục, không m sự tiêu khiển bằng ch ca t và thưởng thức những i t nh sầu, ch động và đứt ruột, không đánh mất thì giờ tu học của con bằng những trò chơi điện tử và bài bạc.
  8. Giới thứ tám không sống đời sống vật chất sang trọng xa hoa: Ý thức được rằng sống trong những điều kiện vật chất sang trọng xa hoa, người xuất gia sẽ khởi tâm ái dục và tự hào, con nguyện suốt đời chỉ sống một nếp sống giản dị, thiểu dục tri c. Con nguyện không ngồi không nằm trên những chiếc ghế và chiếc giường lộng lẫy, không sử dụng lụa , gấm c, xe cộ bóng loáng và nhà cửa cao sang.
  9. Giới thứ chín không ăn mặn không ăn ngoài những bữa ăn của đại chúng: Ý thức được nhu yếu giữ gìn sức khỏe, sống a hợp với tăng thân nuôi dưỡng ng từ bi, con nguyện suốt đời ăn chay không ăn ngoài những bữa ăn của đại chúng, trừ trường hợp có bệnh.
  10. Giới thứ mười không ch y tiền bạc và của cải: Ý thức được rằng hạnh phúc của người xuất gia được m bằng c chất liệu vững chãi và thảnh thơi, con nguyện không để cho tiền bạc và của cải m vướng bận đường tu của con. Con nguyện không ch y tiền bạc và của cải, không đi m hạnh phúc trong sự chất chứa tiền bạc và của cải, không nghĩ rằng tiền bạc, châu u và của cải có thể bảo đảm cho sự an ninh của con.

Mười hai nhân duyên (pháp số) Mười hai nhân duyên được Thầy Làng Mai nhìn từ khía cạnh tích cực. Thuyết Duyên sinh mà cả Bắc Tông và Nam Tông đều nói tới một cách kỹ lưỡng gồm 12 nhân duyên, từ Vô Minh cho tới Lão Tử. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của tuệ giác tương tức – trong hoa có rác, trong rác có hoa – tất cả những Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc… phải được chấp nhận và chuyển hoá thành 12 nhân duyên theo hướng tích cực:
1. Minh. Vì Bụt dạy “Vô minh diệt, Minh sinh”.
2. Đại Nguyện hay Bồ Đề Tâm. Vô Minh duyên Hành, nhưng khi hết vô minh, được Minh chiếu sáng thì ta thấy được khổ đau và nguồn gốc của khổ đau, thấy được con đường dẫn tới sự chuyển hoá khổ đau, dẫn tới an lạc. Tự nhiên cái Minh ấy tạo ra một ước muốn, một ý chí hành động do tâm từ bi thúc đẩy, để mang lại hạnh phúc và an lạc cho mình và người khác, gọi là Đại Nguyện hay Bồ Đề Tâm.
3. Trí. Vô Minh và Hành tạo ra Thức. Chính vì chứa tính sai lầm, chứa mầm mống khổ đau, chứa vô minh nên gọi là Thức, nếu có Minh thì ta gọi là Trí. Trí ở đây gồm Đại Viên Cảnh Trí – là thức thứ tám hay Tàng thức khi xoá được vô minh; Bình Đẳng Tánh Trí – là thức thứ bảy hay Mạt Na Thức sau khi được chuyển hoá; Diệu Quan Sát Trí – là thức thứ sáu hay Ý thức chuyển hoá thành; Thành Sở Tác Trí – là trí tuệ do sự chuyển hoá các Thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.
4. Thân Thị Hiện. Nếu Thức duyên Danh Sắc thì Trí duyên Thân Thị Hiện. Bụt và các vị Bồ Tát cũng cần có danh sắc, nghĩa là thân và tâm để làm công việc độ đời. Khi bất cứ một Danh Sắc nào có tác dụng tạo tác được từ bi, hiểu biết, hạnh phúc đều là Thân Thị Hiện của Bụt và các vị Bồ Tát.
5. Thân Thọ Dụng. Bất cứ một cái thân, một tập hợp nào của ngũ uẩn, có Danh Sắc nhưng không còn chất liệu của Vô Minh, mà lại có chất liệu của Minh, của Bồ Đề Tâm, của tứ Trí, thì đều là Thân Thọ Dụng, là phương tiện để hành đạo.
6. Xúc Thanh Tịnh. Xúc được phát hiện trong chánh niệm và tuệ giác nên nó là Xúc Thanh Tịnh.
7. Thọ Thanh Tịnh. Có Xúc thì cũng có Thọ nhưng là Thọ Thanh Tịnh vì không vướng mắc.
8. Từ, Bi và Hỷ. Vì Thọ thanh tịnh, có chánh niệm và không vướng mắc nên không tạo nên Ái mà tạo nên ba trong bốn Vô Lượng Tâm. Khi tiếp xúc, thấy người khổ đau ta phát sinh trong tâm năng lượng của Từ – muốn giúp họ có niềm vui chân thật, năng lượng của Bi – muốn làm cho họ tiêu tan nỗi khổ và tâm Hỷ – muốn làm cho họ có niềm vui, có hạnh phúc.
9. Vô Nguyện. Chính là Xả. Xả nghĩa là tâm không vướng mắc, không phải là sự dửng dưng mà là khả năng giữ tâm được tự do, không bị cuốn theo bên này hay bên khác. Xả là khả năng thấy được tính tương tức, cài này là cái kia. Xả là bất nhị. Có xả thì ta coi kẻ ghét người thương như nhau, không chạy trốn Vô Minh để đi tìm Minh.
10. Diệu Hữu Chân Không. Trong tinh thần của Vô Nguyện, tự do, không chạy chọt tìm cầu, cõi khổ đau sẽ trở thành Tịnh Độ. Ta thoát được Hữu vì ta đã biến Hữu của Hữu Vô, của thương ghét thành Diệu Hữu.
11. Vô Sinh. Cái nhìn của Bụt và các vị Bồ tát là Lão tử thì lão tử nhưng không có khổ đau, nếu quả thực đã có chất liệu của giác ngộ thì sinh cũng vậy mà tử cũng vậy, đều là thị hiện. Đứng về phương diện hiện tượng thì giống như là có Sinh, có Diệt, có Có, có Không, đứng về phương diện bản thể thì không có Sinh – Diệt, không có Có – Không, tất cả đều là thị hiện.
12. Hiện Pháp Niết Bàn. Niết bàn trong hiện tại.

Mười Sáu (Trăng Mười Sáu) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1993, tập sự xuất gia năm 2009 (15 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 27 tháng 5 năm 2010 tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Phương Tuyền, pháp tự Chân Trăng Mười Sáu. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Xanh. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2013 tại Lang Mai Thái. Thọ giới lớn ngày 24 tháng 5 năm 2014 trong đại giới đàn Cam Lộ Vị. Là đệ tử thứ 683 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Mười Sáu thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Mỹ Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1985 tập sự xuất gia năm 2004 (19 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 1 tháng 2 năm 2005 tại chùa Hoằng Pháp, Việt Nam, pháp danh Tâm Nguyên An, pháp tự Chân Mỹ Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Vú Sữa. Là đệ tử thứ 229 của Thầy Làng Mai. Sư cô Mỹ Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Đã thị tịch.