Từ điển Làng Mai – Đ

Đã về đã tới (thuật ngữ, bài hát, lễ lược, tháp miếu)
1. Pháp ấn của Làng Mai. Các phép tu của Làng Mai dựa trên giáo lý Hiện Pháp Lạc Trú, không nhắm mục đích tìm cầu hạnh phúc trong tương lai, mà giúp hành giả sống sâu sắc và hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Những giáo lý và phương pháp thực tập nào đi ngược với nguyên tắc này đều không phải là những giáo lý và phương pháp đích thực của Làng Mai, vì vậy nên nói rằng ‘đã về đã tới’ là pháp ấn của Làng Mai. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi động tác, mỗi tư duy hay mỗi lời nói đều có khả năng đưa hành giả trở về với giây phút hiện tại. Địa chỉ đích thực của sự sống là ‘bây giờ và ở đây’. Hạnh phúc, tịnh độ, tổ tiên, niết bàn, giải thoát và chuyển hóa đều phải được tìm kiếm ngay trong giây phút hiện tại. ‘Ngồi thiền trong bản môn, giây nào cũng thành đạo, cội nào cũng bồ đề, tòa nào cũng Đa Bảo’ – (Thơ Từng Ôm Và Mặt Trời Từng Hạt)
2. Bài kệ Đã Về Đã Tới có thể được sử dụng trong khi ngồi, khi đi, khi làm việc, đã được Thầy Làng Mai phổ nhạc: Đã về, đã tới. Bây giờ, ở đây. Vững chãi, thảnh thơi. Quay về, nương tựa. Nay tôi đã về, nay tôi đã tới. An trú bây giờ, an trú ở đây. Vững chãi như núi xanh, thảnh thơi dường mây trắng. Cửa vô sinh mở rồi, trạm nhiên và bất động.
3. Tên một đại giới đàn diễn ra từ ngày 7 đến ngày 15 tháng 1 năm 2003 tại Làng Mai trong khóa An Cư Kiết Đông 2002 – 2003.
4. Một tháp chuông thuộc Chùa Pháp Vân, Xóm Thượng.

Đài Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1985, tập sự xuất gia năm 2006 (21 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Thanh Liên, pháp tự Chân Đài Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trầm Hương. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại chùa Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Nhận truyền đăng năm 2016 tại tu viện Mộc Lan với bài kề truyền đăng:
Chân trời mở rộng đường mây
Đài sen thị hiện ngàn tay giúp đời
Uy nghiêm nếp sống thảnh thơi
Thiên thu cất tiếng, nhạc trời đồng thanh.
Là đệ tử thứ 421 của Thầy Làng Mai, sư cô Đài Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đại Ẩn (Trời Đại Ẩn) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1984, thọ giới Sa Di ngày 12 tháng 5 năm 2016 (32 tuổi) tại Từ viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Hải Đăng, pháp tự Chân Trời Đại Ẩn. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Hoàng Yến. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 tại Tu viện Vườn Ươm trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây. Là đệ tử thứ 947 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Ẩn thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đại Ẩn Sơn, Lộc Uyển Tự (chữ viết) Tên chữ của tu viện Lộc Uyển, Hoa Kỳ.

Đại Dụng (Trời Đại Dụng) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai, người gốc Trung Quốc, quốc tịch Malaysia. Sinh năm 1990, tập sự xuất gia năm 2014 (24 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 2 tháng 7 năm 2014 tại Làng Mai Pháp, pháp danh Mindful Awakening of the Heart, pháp tự Chân Trời Đại Dụng, trong gia đình xuất gia Cây Trắc Bá. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2017 trong đại giới đàn Tánh Thiên tại Tu viện Vườn Ươm. Là đệ tử thứ 848 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Dụng thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đại Dương (Trăng Đại Dương) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1993, thọ giới Sa Di Ni ngày 1 tháng 12 năm 2015 (22 tuổi), pháp danh Tâm Lưu Nhuận, pháp tự Chân Trăng Đại Dương. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Đan Mộc. Thọ giới lớn ngày 3 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 942 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Đại Dương thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đại Đạo (Trời Đại Đạo) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Anh, sinh năm 1969, tập sự xuất gia năm 2014 (45 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 2 tháng 7 năm 2014, pháp danh Loving Kindness of the Heart, pháp tự Chân Trời Đại Đạo. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Trắc Bá. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2017 trong đại giới đàn Tánh Thiên tại Tu viện Vườn Ươm. Là đệ tử thứ 845 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Đạo thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đại Địa (Trời Đại Địa) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Mỹ, thọ giới Sa Di ngày 18 tháng 12 năm 2014, pháp danh Comcompassion Awakening of the Heart, pháp tự Chân Trời Đại Địa. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Sồi Đỏ. Là đệ tử thứ 890 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Đại Địa thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đại Định (Trời Đại Định) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Indonesia, sinh năm 1983, thọ giới Sa Di ngày 30 tháng 1 năm 2012 (29 tuổi), pháp tự Chân Trời Đại Định. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Cúc Đại Đóa. Thọ giới lớn ngày 23 tháng 3 năm 2016 trong đại giới đàn Ân Nghĩa. Là đệ tử thứ 735 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Định thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đại Đồng 
1. (điện đường) Một thiền đường thuộc tu viện Bích Nham, được sử dụng cho cả hai xóm Tùng Xanh và Hạc Trắng, có khả năng chứa được một ngàn người. Thiền đường do thầy Pháp Dung thiết kế và hoàn thành mùa xuân 2008.
2. (tổ chức) Một tổ chức vận động bảo hộ môi trường ra đời rất sớm, vào năm 1969, do Thầy Làng Mai và một số thân hữu thành lập với sự bảo trợ của tổ chức FOR (Fellowship of Reconciliation – tiếng Việt là Hội Thân hữu Hòa giải), trụ sở đặt tại Nyack, New York, Hoa Kỳ. Tổ chức bắt đầu bằng một buổi họp tại thành phố Menton, miền Nam nước Pháp, vào tháng 5 năm 1970 của sáu nhà khoa học, trong đó có Conrad A. Istock (Hoa Kỳ), Donald J. Kuenen (Hòa Lan), Pierre Lepine (Pháp), Klaus Meyer-Abich (Đức), Cao Ngọc Phượng (tức Sư cô Chân Không – Việt Nam) và Lawrence Slobodkin (Hoa Kỳ). Thành quả của buổi họp (kéo dài trong bốn ngày) là một bản tuyên cáo về tình trạng môi trường của trái đất, gọi là The Menton Statement, do sáu nhà khoa học kể trên ký tên. Tổ chức FOR do Alfred Hassler lãnh đạo đã gửi bản tuyên cáo này cho các nhà khoa học trên thế giới và sau đó tiếp thu được chữ ký của gần 4000 nhà khoa học từ 29 quốc gia. Một phái đoàn đại diện các nhà khoa học ấy cùng với đại diện tổ chức Đại Đồng đã có một buổi gặp gỡ với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc khi ấy là ngài U Thant để đệ trình bản tuyên cáo này. Năm 1972, Liên Hợp Quốc tổ chức một đại hội về môi trường tại thành phố Stockholm. Cùng thời gian đó, Đại Đồng (tiếng Anh là The Community of Men) cũng tổ chức một đại hội về môi trường song song với đại hội của Liên Hợp Quốc để cung cấp một diễn dàn tự do hơn. Đại hội Đại Đồng ở Stockholm khai mạc hôm 1.6.1972 và chấm dứt hôm 6.6.1972, có 31 đại biểu của 24 quốc gia tham dự, trong đó có những nhà khoa học nổi tiếng. Chủ tịch Đại hội là giáo sư Hannes de Graaf của Hòa Lan. Thầy Làng Mai đã có tên trong ban tổ chức Đại hội và đã tham dự với tư cách đại biểu cho Việt Nam. Đại hội này đã ra một Tuyên cáo Độc lập về Môi trường (An Independent Declaration on the Environment) nhằm ảnh hưởng tới đại hội của Liên Hợp Quốc được tổ chức từ ngày 5.6.1972 đến 17.6.1972. Sau đây là nguyên văn của bản tuyên cáo Menton và bản Tuyên cáo Độc lập về Môi trường của Đại Hội Đại Đồng tại Stockholm. Tuy Đại Đồng có tên tiếng Anh là The Community of Men nhưng các bạn trong ban tổ chức chỉ sử dụng danh từ Đại Đồng bằng tiếng Việt bởi vì tư tưởng Đại đồng Thế giới bắt nguồn từ tuệ giác châu Á.

Tuyên bố Mentonnguyên văn bài đăng trên tạp chí Unesco Courier số tháng 7 năm 1971.

Một thông điệp cho 3,5 tỷ người hàng xóm của chúng ta trên hành tinh trái đất từ 2.200 nhà khoa học môi trường

Một thông điệp có chữ ký của 2.200 nhà khoa học từ 23 quốc gia, gửi đến “ba tỷ rưỡi nước láng giềng trên hành tinh trái đất”, cảnh báo về “mối nguy hiểm chung chưa từng có” mà nhân loại phải đối mặt, đã được trao cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc U Thant tại một buổi lễ đơn giản ở New York vào ngày 11 tháng 1971 năm <>.

Đối với sáu nhà khoa học nổi tiếng đã trình bày thông điệp (được sao chép đầy đủ trên các trang này), Tổng thư ký tuyên bố:

Tôi tin rằng nhân loại cuối cùng cũng nhận thức được thực tế rằng có một sự cân bằng mong manh của các hiện tượng vật lý và sinh học trên và xung quanh trái đất mà không thể bị xáo trộn một cách thiếu suy nghĩ khi chúng ta chạy đua trên con đường phát triển công nghệ. Mối quan tâm toàn cầu này khi đối mặt với một mối nguy hiểm chung nghiêm trọng, vốn mang mầm mống tuyệt chủng cho loài người, cũng có thể chứng tỏ là lực lượng khó nắm bắt có thể ràng buộc con người lại với nhau. Cuộc chiến sinh tồn của con người chỉ có thể giành chiến thắng bởi tất cả các quốc gia tham gia cùng nhau trong một nỗ lực phối hợp để bảo tồn sự sống trên hành tinh này.

Kể từ khi nó được soạn thảo ban đầu, tại một cuộc họp tại Menton, Pháp, “Thông điệp Menton”, như nó đã được biết đến, đã được lưu hành giữa các nhà sinh vật học và các nhà khoa học môi trường ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ.

Cuộc họp được triệu tập bởi một phong trào hòa bình xuyên quốc gia mới, tự nguyện, phi chính phủ, được gọi là “Đại Đồng”. Theo nghĩa đen, cái tên này có nghĩa là “một thế giới của sự đoàn kết vĩ đại”, một khái niệm bắt nguồn từ Trung Quốc thời tiền Nho giáo hơn 2.500 năm trước.

Trong số 2.200 người ký Thông điệp Menton có bốn người đoạt giải Nobel (Salvador Luria, Jacques Monod, Albert Szent-Gyorgyi và George Wald), và những cái tên nổi tiếng từ thế giới khoa học như Jean Rostand, Sir Julian Huxley, Thor Heyerdahl, Paul Ehrlich, Margaret Mead, Rene Dumont, Lord Ritchie-Calder, Shutaro Yamamoto, Gerardo Budowski, Enrique Beltran và Mohamed Zaki Barakat.

Mặc dù chúng ta bị chia cắt rộng rãi về mặt địa lý, với các nền văn hóa, ngôn ngữ, thái độ, lòng trung thành chính trị và tôn giáo rất khác nhau, chúng ta được hợp nhất trong thời đại của chúng ta bởi một mối nguy hiểm chung chưa từng có. Mối nguy hiểm này, với bản chất và mức độ mà con người chưa bao giờ phải đối mặt, được sinh ra từ sự hợp lưu của một số hiện tượng. Mỗi người trong số họ sẽ đưa ra cho chúng ta những vấn đề gần như không thể kiểm soát được: cùng nhau chúng không chỉ trình bày xác suất gia tăng lớn về sự đau khổ của con người trong tương lai gần, mà còn là khả năng tuyệt chủng, hoặc tuyệt chủng ảo, của sự sống con người trên trái đất.

Là các nhà khoa học sinh học và môi trường khác, chúng tôi không nói về tính khả thi của các giải pháp cụ thể cho những vấn đề này, nhưng vì niềm tin của chúng tôi rằng các vấn đề tồn tại, mang tính toàn cầu và liên quan đến nhau, và các giải pháp chỉ có thể được tìm thấy nếu chúng ta từ bỏ những lợi ích ích kỷ hạn để thực hiện một nhu cầu chung.

CÁC VẤN ĐỀ

. Suy thoái môi trường. Chất lượng môi trường của chúng ta đang xấu đi với tốc độ chưa từng có. Nó rõ ràng hơn ở một số nơi trên thế giới so với những nơi khác, và ở những khu vực đó, báo động công cộng đã bắt đầu thể hiện, trong khi ở các khu vực khác, suy thoái môi trường dường như là một hiện tượng xa xôi và không liên quan.

Nhưng chỉ có một môi trường; Điều gì xảy ra với một phần ảnh hưởng đến toàn bộ. Ví dụ được công nhận rộng rãi nhất của quá trình này là sự xâm nhập vào chuỗi thức ăn trên toàn thế giới của các chất độc hại như thủy ngân, chì, cadmium, DDT và các hợp chất hữu cơ clo hóa khác, được tìm thấy trong các mô của chim và các động vật khác cách xa nguồn gốc của chất độc.

Sự cố tràn dầu, rác thải công nghiệp và nước thải các loại đã ảnh hưởng xấu đến gần như tất cả các vùng nước ngọt và ven bờ trên khắp thế giới, cũng như nước thải và chất thải hữu cơ được thải ra với số lượng quá lớn để được chăm sóc bởi các quy trình tái chế thông thường của tự nhiên. Các thành phố bị bao phủ bởi những đám mây khói nặng, và các chất ô nhiễm trong không khí đã giết chết cây cách nguồn của chúng hàng trăm dặm.

Thậm chí đáng báo động hơn nữa là chúng ta tiếp tục mạo hiểm liều lĩnh vào các quy trình và dự án công nghệ mới (ví dụ như vận chuyển siêu thanh và kế hoạch phổ biến các nhà máy điện hạt nhân) mà không tạm dừng để xem xét các tác động lâu dài có thể có của chúng đối với môi trường.

. cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.

Mặc dù Trái đất và các nguồn tài nguyên của nó là hữu hạn và một phần cạn kiệt, xã hội công nghiệp đang sử dụng hết nhiều tài nguyên không thể tái tạo và quản lý sai các tài nguyên có khả năng tái tạo, và nó khai thác tài nguyên của các quốc gia khác mà không quan tâm đến sự thiếu thốn của dân số hiện tại hoặc nhu cầu của các thế hệ tương lai.

Trái đất đã bắt đầu thiếu một số vật liệu có tầm quan trọng quan trọng đối với một xã hội công nghệ và các kế hoạch đang được thực hiện để khai thác khoáng sản từ bên dưới các đại dương. Nhưng những nỗ lực như vậy không chỉ đòi hỏi chi phí lớn về tiền bạc và năng lượng (và nhiên liệu sản xuất năng lượng của chúng ta bị hạn chế), mà còn không nên được thực hiện trước khi các nghiên cứu cẩn thận được thực hiện về tác động có thể xảy ra của chúng đối với động vật và thực vật biển, cũng là một phần tài nguyên thiên nhiên của chúng ta và là nguồn thực phẩm giàu protein.

Hầu như tất cả đất nông nghiệp màu mỡ, được tưới nước tốt trên thế giới đã được sử dụng. Tuy nhiên, mỗi năm, đặc biệt là ở các quốc gia công nghiệp hóa, hàng triệu mẫu đất này được lấy ra khỏi canh tác để sử dụng làm khu công nghiệp, đường xá, bãi đậu xe, v.v. Phá rừng, xây đập trên sông, canh tác một vụ, sử dụng thuốc trừ sâu và chất làm rụng lá không kiểm soát, khai thác dải và các hoạt động thiển cận hoặc không hiệu quả khác đã góp phần vào sự mất cân bằng sinh thái đã có tác động thảm khốc ở một số khu vực và trong một thời gian dài có thể ảnh hưởng xấu đến năng suất của các khu vực rộng lớn trên thế giới.

Ngay cả trong hoàn cảnh tốt nhất, Trái đất không thể cung cấp tài nguyên với số lượng đủ để cho phép tất cả mọi người sống ở mức tiêu dùng mà đa số trong các xã hội công nghiệp được hưởng, và sự tương phản giữa lối sống được quyết định bởi nghèo đói cùng cực và những lối sống được cho phép bởi sự giàu có sẽ tiếp tục là nguồn gốc của xung đột và cách mạng.

. Dân số, quá đông đúc và đói. Dân số hiện tại của Trái đất ước tính khoảng 3.500 triệu người, và các tính toán, dựa trên thành công của các chương trình kiểm soát dân số hiện tại, đưa ra con số 6.500 triệu vào năm 2000. Đã có một số dự đoán lạc quan rằng tài nguyên thiên nhiên và công nghệ có thể được phát triển để nuôi, mặc quần áo và chứa dân số lớn hơn nhiều so với điều này.

Tuy nhiên, thực tế trước mắt là có tới hai phần ba dân số thế giới hiện nay đang bị suy dinh dưỡng và mối đe dọa của nạn đói quy mô lớn vẫn còn với chúng ta mặc dù có một số tiến bộ về dinh dưỡng. Ô nhiễm và gián đoạn sinh thái đã ảnh hưởng đến một số nguồn thực phẩm, và thường xuyên những nỗ lực nâng cao tiêu chuẩn dinh dưỡng tự gây ô nhiễm.

Hơn nữa, số liệu dân số là sai lệch, vì họ không tính đến yếu tố tiêu dùng. Người ta ước tính rằng một đứa trẻ sinh ra ở Hoa Kỳ ngày nay sẽ tiêu thụ trong suốt cuộc đời của mình ít nhất hai mươi lần so với một đứa trẻ sinh ra ở Ấn Độ, và đóng góp khoảng năm mươi lần ô nhiễm môi trường. Do đó, về tác động môi trường, các nước công nghiệp hóa nhất cũng là nơi đông dân nhất.

Nhu cầu của con người về không gian và mức độ cô độc, mặc dù khó nói một cách chính xác, là có thật và có thể quan sát được. Chúng ta không chỉ sống bằng bánh mì. Ngay cả khi công nghệ có thể sản xuất đủ thực phẩm tổng hợp cho tất cả mọi người, tình trạng quá tải do dân số ngày càng tăng có thể gây ra thảm họa xã hội và sinh thái

. Chiến tranh. Trong suốt lịch sử, không có hoạt động nào của con người bị lên án phổ biến và được thực hiện phổ biến như chiến tranh, và nghiên cứu về vũ khí và phương pháp chiến tranh hủy diệt hơn bao giờ hết là không ngừng.

Bây giờ chúng ta đã đạt được vũ khí tối thượng và nhìn thấy tiềm năng của nó, chúng ta đã rút lui khỏi việc sử dụng thêm, nhưng nỗi sợ hãi của chúng ta đã không ngăn cản chúng ta lấp đầy kho vũ khí của mình với đủ đầu đạn hạt nhân để quét sạch tất cả sự sống trên trái đất nhiều lần, hoặc từ các thí nghiệm mù quáng và không chú ý, cả trong phòng thí nghiệm và trên chiến trường, với vũ khí sinh học và hóa học. Nó cũng không ngăn cản chúng ta tham gia vào các cuộc chiến tranh “nhỏ” hoặc các hành động gây hấn có thể dẫn đến chiến tranh hạt nhân.

Ngay cả khi tránh được một cuộc chiến tranh lớn cuối cùng, việc chuẩn bị cho nó sử dụng hết các nguồn lực vật chất và con người đáng lẽ phải được chi tiêu trong nỗ lực tìm cách nuôi sống và cung cấp nhà ở cho những người thiếu thốn trên thế giới và cứu và cải thiện môi trường.

Rõ ràng là không đủ để gán chiến tranh cho sự hiếu chiến tự nhiên của nhân loại khi con người trên thực tế đã thành công trong việc thiết lập tại một số điểm xã hội ổn định và tương đối hòa bình trong các khu vực địa lý hạn chế. Trong thời đại của chúng ta, rõ ràng là sự nguy hiểm của chiến tranh toàn cầu tập trung vào hai điểm:

sự bất bình đẳng tồn tại giữa các khu vực công nghiệp hóa và phi công nghiệp hóa trên thế giới, và quyết tâm của hàng triệu người nghèo khó để cải thiện số phận của họ;

Sự cạnh tranh quyền lực và lợi thế kinh tế giữa các quốc gia vô chính phủ không sẵn sàng từ bỏ lợi ích ích kỷ để tạo ra một xã hội bình đẳng hơn.

Nói như vậy, vấn đề dường như gần như không thể giải quyết. Tuy nhiên, nhân loại đã chứng minh các nguồn lực không thể tưởng tượng được về khả năng thích ứng và khả năng phục hồi trong quá khứ và có lẽ phải đối mặt với những gì có thể là thách thức cuối cùng đối với sự sống còn của nó, nó sẽ làm bối rối nỗi sợ hãi của chúng ta một lần nữa.

CÓ THỂ LÀM GÌ?

Phần trên chỉ là một phần liệt kê các vấn đề mà chúng ta phải đối mặt và hầu như không có bất kỳ nỗ lực nào để mô tả nguyên nhân của chúng. Chúng ta thực sự không biết các khía cạnh đầy đủ của các vấn đề của chúng ta hoặc các giải pháp của chúng. Chúng ta biết rằng Trái đất và tất cả cư dân của nó đang gặp rắc rối và các vấn đề của chúng ta sẽ nhân lên nếu chúng ta không quan tâm đến chúng.

Vào những năm 1940, khi quyết định phát triển bom nguyên tử, Hoa Kỳ đã chiếm đoạt 2.000 triệu đô la và đưa các chuyên gia từ khắp nơi trên thế giới đến thực hiện công việc này trong hai năm. Vào những năm 1960, bận tâm với cuộc đua lên mặt trăng, Hoa Kỳ đã chi từ 20.000 đến 40.000 triệu đô la để giành chiến thắng trong cuộc đua, và cả Liên Xô và Hoa Kỳ tiếp tục chi hàng ngàn triệu đô la cho việc thám hiểm không gian.

Chắc chắn nghiên cứu khổng lồ về các vấn đề đe dọa sự tồn tại của nhân loại xứng đáng được ưu tiên cao hơn nghiên cứu nguyên tử hoặc không gian. Nó nên được bắt đầu ngay lập tức trên một quy mô tương tự và với một cảm giác cấp bách thậm chí còn lớn hơn. Nghiên cứu như vậy nên được trả tiền bởi các quốc gia công nghiệp, những quốc gia không chỉ có khả năng tài chính tốt nhất để mang gánh nặng đó, mà chính họ còn là những người sử dụng chính các nguồn tài nguyên và những người gây ô nhiễm chính, mà nó phải được thực hiện bởi những người có trình độ từ tất cả các quốc gia và các ngành nghề khác nhau, không bị trói buộc bởi các chính sách dân tộc chủ nghĩa hạn chế.

Tuy nhiên, vì cuộc khủng hoảng rất cấp bách, chúng tôi kêu gọi thực hiện các hành động sau đây ngay cả khi nghiên cứu đang diễn ra. Chúng tôi không cung cấp những thứ này như thuốc chữa bách bệnh, mà là giữ các hành động để giữ cho tình hình của chúng tôi không xấu đi qua điểm không thể quay trở lại:

Một lệnh cấm đổi mới công nghệ, những tác động mà chúng ta không thể nói trước và không cần thiết cho sự sống còn của con người. Điều này sẽ bao gồm các hệ thống vũ khí mới, vận chuyển sang trọng, thuốc trừ sâu mới và chưa được thử nghiệm, sản xuất nhựa mới, thành lập các dự án điện hạt nhân mới rộng lớn, v.v. Nó cũng sẽ bao gồm các dự án kỹ thuật chưa được nghiên cứu về mặt sinh thái – xây đập trên các con sông lớn, ‘cải tạo’ đất rừng, các dự án khai thác dưới biển, v.v.

Việc áp dụng công nghệ kiểm soát ô nhiễm hiện có để sản xuất năng lượng và cho ngành công nghiệp nói chung, tái chế vật liệu quy mô lớn để làm chậm sự cạn kiệt tài nguyên và thiết lập nhanh chóng các thỏa thuận quốc tế về chất lượng môi trường, có thể được xem xét khi nhu cầu môi trường được biết đến đầy đủ hơn.

Các chương trình tăng cường ở tất cả các khu vực trên thế giới để kiềm chế sự gia tăng dân số, với sự quan tâm đầy đủ đến sự cần thiết phải thực hiện điều này mà không bãi bỏ các quyền dân sự. Điều quan trọng là các chương trình này phải đi kèm với việc giảm mức tiêu thụ của các tầng lớp đặc quyền, và sự phân phối công bằng hơn về thực phẩm và các hàng hóa khác giữa tất cả mọi người phải được phát triển.

Bất kể khó khăn trong việc đạt được thỏa thuận, các quốc gia phải tìm cách xóa bỏ chiến tranh, tháo ngòi nổ vũ khí hạt nhân và phá hủy vũ khí hóa học và sinh học của họ. Hậu quả của một cuộc chiến tranh toàn cầu sẽ là ngay lập tức và không thể đảo ngược, và do đó cũng có trách nhiệm của các cá nhân và nhóm từ chối tham gia vào nghiên cứu hoặc các quá trình có thể, nếu được sử dụng, dẫn đến sự hủy diệt loài người.

Trái đất, dường như rất lớn, bây giờ phải được nhìn thấy trong sự nhỏ bé của nó. Chúng ta sống trong một hệ thống khép kín, hoàn toàn phụ thuộc vào Trái đất và vào nhau cho cuộc sống của chúng ta và của các thế hệ tiếp theo. Do đó, nhiều điều chia rẽ chúng ta ít quan trọng hơn sự phụ thuộc lẫn nhau và nguy hiểm liên kết chúng ta.

Chúng tôi tin rằng đúng theo nghĩa đen là chỉ bằng cách vượt qua sự chia rẽ của chúng tôi, con người mới có thể giữ Trái đất là nhà của họ. Các giải pháp cho các vấn đề thực tế về ô nhiễm, đói khát, quá tải dân số và chiến tranh có thể đơn giản hơn để tìm ra công thức cho nỗ lực chung mà qua đó việc tìm kiếm các giải pháp phải xảy ra, nhưng chúng ta phải bắt đầu.

Các nhà khoa học Menton

CONRAD A. ISTOCK, HOA KỲ
Giáo sư Sinh học – Đại học Rochester
DONALD J. KUENEN, Hà Lan
Giáo sư Động vật học và Cựu Hiệu trưởng
Đại học Leiden
PIERRE LEPINE, Pháp
Chef de Service a L’Institut Pasteur
Membre de l’Académie des Sciences
KLAUS MEYER-ABICH, Đức
Nhà vật lý, Max-Planck-Institut zur Erforschung der Lebensbedingungen der Wissenschaftlich-technischen Welt
CAO NGỌC PHƯƠNG, Việt Nam (lưu vong)
Giáo sư Sinh học – Đại học Sài Gòn và Huế
LAWRENCE SLOBODKIN,
Giáo sư Sinh học – Đại học Bang New York
tại Stoney Brook

Tuyên cáo Độc lập về Môi trường

TUYÊN BỐ ĐỘC LẬP VỀ MÔI TRƯỜNG

Trong khi các đại biểu từ 114 quốc gia tranh luận về việc liệu họ có nên thảo luận về dự thảo Tuyên bố về Môi trường Con người được chuẩn bị cho hội nghị Liên Hợp Quốc của họ tại Stockholm (5-17 tháng 1972 năm 1), Hội nghị Độc lập về Môi trường của Đại Đồng, cũng tại Stockholm (6-24 tháng 9) đã đưa ra tuyên bố của riêng mình. Ba mươi mốt người tham gia từ <> quốc gia, hầu hết trong số họ là các nhà khoa học nổi tiếng, đã đưa ra tuyên bố độc lập, trong đó Stockholm Eco đã viết: “Tuyên bố quan trọng này được đưa ra trong khi các đại biểu Liên Hợp Quốc đang tẻ nhạt trong chương trình nghị sự vô tận của họ …” Nó đã được lưu hành rất rộng rãi trên báo chí, đài phát thanh và truyền hình, và đã được đọc bởi giám đốc của Dai Dong, Alfred Hassler, tại một phiên họp toàn thể của Hội nghị Liên Hợp Quốc vào ngày <> tháng Sáu.

Con người sống như một phần của một hệ thống tự nhiên phức tạp với các khía cạnh của sự phụ thuộc lẫn nhau mà chỉ mới trở nên rõ ràng gần đây. Chúng cũng là một phần của các hệ thống xã hội, kinh tế và chính trị phức tạp mà chính chúng đã tạo ra, thường không đánh giá cao những tác động không thể đoán trước và đôi khi tai hại của các hệ thống như vậy đối với khả năng mang lại sự sống của tự nhiên. Hơn nữa, các hệ thống này chứa đựng những lỗi lầm và mất cân bằng ngăn cản chúng đáp ứng bình đẳng với nhu cầu của tất cả mọi người, nhưng cung cấp cho một thiểu số hàng hóa dồi dào, trong khi khiến phần lớn người dân thế giới rơi vào cảnh nghèo đói và tuyệt vọng.

Sự tương tác giữa các hệ thống xã hội và tự nhiên trên hành tinh này trong thời đại chúng ta đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng môi trường, mặc dù nó có thể bắt nguồn phần lớn từ các hoạt động kinh tế của các quốc gia công nghiệp, ảnh hưởng đến mọi người trên trái đất. Nhận thức về cuộc khủng hoảng môi trường đã đến vào thời điểm khi các quốc gia bị tước đoạt và người nghèo và thiếu thốn ở tất cả các quốc gia đang đấu tranh giành quyền lực để kiểm soát vận mệnh của chính họ và khẳng định quyền tham gia đầy đủ vào các vấn đề quốc gia và thế giới. Sự tồn tại của nhân loại đòi hỏi rằng điều kiện của môi trường tự nhiên và nhu cầu của con người phải được coi là những phần liên quan đến nhau của cùng một vấn đề. Điều này sẽ đòi hỏi những thay đổi sâu sắc trong cấu trúc chính trị, kinh tế và xã hội của chúng ta một mặt và mặt khác là lối sống cá nhân của chúng ta, với mục đích không chỉ là sinh tồn, mà còn là sự sống còn với khả năng hoàn thành tối đa của con người. Nó cũng sẽ đòi hỏi các chương trình giáo dục lớn để cho phép mọi người hiểu được sự liên quan lẫn nhau của các vấn đề của thế giới và các loại thay đổi cần được thực hiện. Trong những nỗ lực như vậy, một số nguyên tắc hướng dẫn nhất định phải được tuân theo.

1. Sự sống còn của con người phụ thuộc vào các hoạt động sống của hàng ngàn loài thực vật, động vật và vi sinh vật, và vào các phản ứng vật lý và hóa học phức tạp trong khí quyển, đại dương, nước ngọt và trên đất liền.

Sự bao la và phức tạp của sự phụ thuộc lẫn nhau này gần đây đã trở nên rõ ràng với sự can thiệp ngày càng tăng của con người vào các quá trình mang lại sự sống của hành tinh chúng ta. Tất cả sự sống phụ thuộc vào sự tương tác của vật chất và năng lượng được thực hiện trong hệ sinh thái của trái đất. Đó là những tương tác mà chúng ta đang thay đổi, ngay cả trước khi chúng ta hiểu đầy đủ chúng. Con người trên thế giới phải hiểu chúng, bảo tồn chúng và, khi thay đổi chúng, để làm điều đó với sự cẩn thận và khôn ngoan.

2. Có một xung đột cơ bản giữa các khái niệm truyền thống về tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường.

Trong thế kỷ qua, sự tăng trưởng liên tục không kiểm soát được trong sản xuất công nghiệp các chất và sản phẩm có hại cho môi trường ở một số khu vực trên thế giới đã tạo ra lượng ô nhiễm nguy hiểm và chịu trách nhiệm cho sự lãng phí tài nguyên quá mức. Đồng thời, và sự tập trung ngày càng tăng của quyền lực kinh tế và hoạt động công nghiệp đã dẫn đến sự tập trung hóa trong một số quốc gia về lợi ích từ việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của trái đất và ảnh hưởng chính trị quốc tế bắt nguồn từ việc kiểm soát các tài nguyên này. Rõ ràng là một sự phân phối năng lượng công nghiệp hợp lý hơn là cần thiết nếu các vấn đề toàn cầu về môi trường và xã hội được giải quyết. Sự tái phân phối như vậy sẽ đồng thời đạt được sự phân bổ công bằng hơn về lợi ích kinh tế và chính trị giữa các quốc gia và cá nhân.

3. Việc khai thác tài nguyên quốc gia và khu vực của Thế giới thứ ba bởi các tập đoàn nước ngoài, với hậu quả là dòng lợi nhuận từ các khu vực bị khai thác, đã dẫn đến sự chênh lệch kinh tế lớn và ngày càng tăng giữa các quốc gia và độc quyền của các nước công nghiệp phát triển về sản xuất, năng lượng, công nghệ, thông tin và quyền lực chính trị.

Bổ sung cho điều này là lũ lụt của các nước đang phát triển với hàng hóa và vốn dư thừa, với kết quả là sự bóp méo nền kinh tế của họ, và sự biến dạng của môi trường của họ thành độc canh vì lợi ích làm giàu hơn nữa cho các quốc gia công nghiệp. Đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế và thực tiễn công nghệ của các quốc gia công nghiệp đó phải được kiềm chế và thay đổi bởi yêu sách cơ bản của người dân trong khu vực để kiểm soát các nguồn tài nguyên của nó. Tuy nhiên, việc sử dụng các nguồn tài nguyên này không nên bị quyết định bởi các tai nạn về địa lý, nhưng phải được phân bổ theo những cách thức để phục vụ nhu cầu của người dân thế giới trong thế hệ này và các thế hệ tương lai. Thẩm quyền của người dân bất kỳ khu vực nào đối với tài nguyên và môi trường phải bao gồm nghĩa vụ thừa nhận rằng môi trường là một tổng thể không thể chia cắt, không chịu các rào cản chính trị. Môi trường phải được bảo vệ khỏi ô nhiễm, phá hủy và khai thác có thể tránh được từ mọi nguồn.

4. Rõ ràng là sự gia tăng dân số của con người không thể tiếp tục vô thời hạn trong một môi trường hữu hạn với tài nguyên hữu hạn. Đồng thời, dân số là một trong một số yếu tố, không ai trong số đó về lâu dài là quan trọng nhất hoặc quyết định nhất trong việc ảnh hưởng đến môi trường của con người.

Trên thực tế, câu hỏi về dân số về bản chất không thể tách rời khỏi câu hỏi tiếp cận tài nguyên. Một sự cải thiện thực sự trong điều kiện sống của người dân các nước đang phát triển sẽ đi xa hơn trong việc ổn định tăng trưởng dân số so với các chương trình kiểm soát dân số. Dân số không phải là một vấn đề đơn lẻ, mà là một vấn đề có mối tương quan phức tạp với môi trường xã hội, kinh tế và tự nhiên của con người. Quy mô dân số có thể quá nhỏ hoặc quá lớn tại bất kỳ thời điểm cụ thể nào tùy thuộc vào sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên và những căng thẳng đối với môi trường. Nguyên tắc sinh thái liên quan đến vai trò của dân số được áp dụng như nhau cho quần thể người và động vật. Tuy nhiên, trong dân số loài người, tổ chức xã hội là như vậy để thay đổi hoặc sửa đổi nguyên tắc này.

Trên phạm vi toàn cầu, các vấn đề dân số của các nước đang phát triển trùng hợp với sự bành trướng thuộc địa trong hai thế kỷ qua và loại trừ dân số Thế giới thứ ba khỏi quyền truy cập đầy đủ vào tài nguyên của chính họ. Quá trình khai thác kinh tế này vẫn tiếp tục bất chấp sự độc lập danh nghĩa của nhiều thuộc địa và phụ thuộc cũ khác nhau. Trong khi đó, liên minh giữa giới tinh hoa kinh tế ở các nước đang phát triển và lợi ích công nghiệp ở các nước đô thị khiến người dân Thế giới thứ ba không thể sử dụng tài nguyên của họ để đáp ứng nhu cầu của chính họ. Việc phân phối lại tài nguyên của chúng ta ở cấp độ toàn cầu là điều kiện tiên quyết vô điều kiện để sửa chữa quá trình lịch sử này.

Chừng nào các nguồn tài nguyên còn bị lãng phí, như chúng rõ ràng là, thật là lừa dối khi mô tả sự gia tăng dân số như thể đây là nguồn gốc của mọi tệ nạn. Rõ ràng có một sự nhầm lẫn trong tâm trí của nhiều người giữa quá đông đúc và dân số, nhưng thực tế là một số khu vực đô thị phát triển như ung thư không nên là cái cớ để chuyển hướng sự chú ý khỏi nhiệm vụ thực sự của thế hệ chúng ta, đó là đạt được sự quản lý hợp lý tài nguyên và không gian. Những quốc gia chịu trách nhiệm chính về tình trạng này chắc chắn không có quyền đề xuất các chính sách ổn định dân số cho những người đói trên thế giới.

Cần lưu ý rằng, đối với các nước phát triển kinh tế, sự kết hợp giữa sự gia tăng tiêu dùng công nghiệp bình quân đầu người với dân số ổn định, hoặc tiêu dùng ổn định trên đầu người với dân số ngày càng tăng, sẽ dẫn đến cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm hơn nữa. Điều này không cần phải đúng nếu những thay đổi kinh tế xã hội thích hợp sẽ dẫn đến một mô hình sản xuất và tiêu dùng hợp lý về mặt sinh thái được thực hiện.

5. Phát triển kinh tế dưới bất kỳ hình thức nào sẽ đòi hỏi công nghệ.

Nhiều công nghệ thông thường và nhiều sản phẩm sinh sôi nảy nở của nó đã được chứng minh là có hại về mặt sinh thái. Chúng ta không thể từ chối công nghệ nhưng chúng ta phải tái cấu trúc và định hướng lại nó. Các công nghệ âm thanh sinh thái sẽ giảm thiểu căng thẳng cho môi trường. Một sự phát triển nhanh chóng của cách tiếp cận mới nên được bổ sung bởi một hệ thống giám sát và đánh giá công nghệ để đảm bảo rằng bất kỳ công nghệ mới nào cũng tương thích về mặt sinh thái và sẽ được sử dụng cho sự sống còn và hoàn thành của con người. Việc thêm các thiết bị chống ô nhiễm vào các công nghệ hiện có là không đủ, mặc dù đây có thể là giai đoạn ban đầu của việc loại bỏ các công nghệ gây ô nhiễm hiện tại.

6. Văn hóa của các quốc gia công nghiệp phản ánh hệ tư tưởng chính trị và kinh tế của họ, và dựa trên sự tích lũy ngày càng tăng của hàng hóa vật chất và sự phụ thuộc không phê phán vào công nghệ để giải quyết các vấn đề của nhân loại.

Hệ tư tưởng này, trong đó yếu tố đạo đức là một chiều kích bị lãng quên, đang lan rộng khắp thế giới; Sự chấp nhận của nó sẽ không chỉ gây ra sự thất vọng và thất vọng của cá nhân và quốc gia, mà còn làm cho các chính sách kinh tế và môi trường hợp lý không thể thực hiện được. Sự gia tăng phúc lợi kinh tế sẽ giúp các quốc gia thiếu thốn bảo tồn các di sản văn hóa và tinh thần của chính họ, nhưng nhiều người ở các nước công nghiệp, phải đối mặt với việc giảm tài sản vật chất, sẽ cần tìm ra những định nghĩa mới về tiến bộ trong các giá trị tương thích với phúc lợi môi trường và xã hội.

7. Trong số những vấn đề quan trọng nhất cấu thành và hiện hữu và mối đe dọa gia tăng đối với sự sống còn của con người là chiến tranh.

Ngay cả ngoài chi phí khổng lồ về sự đau khổ của con người mà tất cả các hình thức chiến tranh đòi hỏi, chi tiêu vũ khí đặt một gánh nặng kinh tế quá lớn lên các quốc gia giàu và nghèo, và một gánh nặng lớn như nhau đối với môi trường. Công nghệ quân sự, là một phần lớn của hoạt động công nghiệp, đặc biệt là ở các nước phát triển kinh tế, là nguyên nhân chính gây ô nhiễm toàn cầu và cạn kiệt tài nguyên. Do đó, chiến tranh và chuẩn bị cho chiến tranh đều liên quan trực tiếp đến các vấn đề môi trường. Với sự phổ biến vũ khí hạt nhân, cả dân sự và quân sự, mối nguy hiểm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng, kiểm soát vũ khí khó khăn hơn và chiến tranh hạt nhân có nhiều khả năng xảy ra hơn. Các khoản tiền khổng lồ được tiêu thụ trong chi tiêu quân sự phải được áp dụng trực tiếp cho nhiệm vụ tái phân phối toàn cầu và cải thiện môi trường. Chừng nào chúng ta còn chịu đựng sự lãng phí và sự tàn phá của chính chiến tranh, chúng ta không thể đạt được môi trường ổn định mà sự sống còn của tất cả chúng ta phụ thuộc vào.

Tuy nhiên, quyết tâm xóa bỏ chiến tranh phải đi kèm với sự thừa nhận quyền đấu tranh của các dân tộc, và sự chắc chắn rằng họ sẽ đấu tranh, để giải phóng mình khỏi các hệ thống quốc gia và quốc tế đàn áp họ. Những người tha thiết nhất tìm cách chấm dứt chiến tranh phải khẳng định tình liên đới của họ với đồng loại của họ tham gia vào một cuộc đấu tranh như vậy, đồng thời nhấn mạnh vào sự cần thiết phải phát triển các phương pháp bất bạo động hiệu quả để giải quyết các xung đột xã hội và quốc tế của một thế giới có nguy cơ chiến tranh hủy diệt.

* *

NHỮNG NGƯỜI THAM GIA
HỘI NGHỊ VÀ
NHỮNG NGƯỜI
TUYÊN BỐ
SAMIR AMIN, Giám đốc Senegal
, Viện Châu Phi de Développement Economique et de Planification, Dakar
MOHAMED ZAKI BARAKAT, U.A.R.
Khoa Y, Đại học Azhar
, Cairo
HEINRICH CARSTENS, Đức
Chủ tịch, Ủy ban Tư vấn
Thế giới
Bạn bè * DONALD ALFRED CHANT, Canada
Chủ tịch, Khoa
Động vật học,Đại học Toronto
MOHAMMED AHSEN CHAUDHRI,
Pakistan
Trưởng khoa, Khoa Quan hệ Quốc tế, Đại học Karachi DORA
OBI CHIZBA, Nigeria
Chủ tịch, Hiệp hội
Môi trường Châu Phi JERZY CHODAN, Ba Lan
Trưởng phòng, Cao đẳng Nông nghiệp, Olsztyn
* PURUSHOTTAM
JAIKRISHNA DEORAS, Ấn Độ
Giáo sư, Viện Haffkine, Bombay
PETER DOHRN, Ý
Thư ký, Hiệp hội Địa Trung Hải Sinh học-Hải dương học biển
YUSUF ALI BRAJ, Kenya
Cựu Chủ tịch, Hiệp hội
Kế hoạch hóa Gia đình
* M. TAGHI FARVAR, Trung tâm Sinh học Hệ thống Tự nhiên Iran
, Đại học
Washington, St. Louis
ANDRE FAUSSURIER, Pháp
Giám đốc, Centre de Reflexion et D’Etudes Scientifiques sure l’Environnement, Lyon
GONZALO FERNOS, Puerto Rico
Chủ tịch, Ủy ban Chất lượng Môi trường, Đại học Kiến trúc sư và Khảo
sát * NICHOLA
GEORGECU-ROEGEN, HOA KỲ

Giáo sư Kinh tế, Đại học VanderbiltTHIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH, Việt Nam (lưu vong)
Nhà sư, nhà thơ, nhà
giáo dục Phật giáo*BENGT HUBENDICK, Thụy Điển
Giám đốc, Naturhistoriska
Museet, Goteberg
*JAIME HURTUBIA, Chile
Giáo sư, Viện de Ecologia,Đại
học
Austral de
Chile CONRAD ALAN ISTOCK, Hoa Kỳ
Giáo sư, Khoa Sinh học, Đại học Rochester
* FRED HAROLD KNEIMAN, Giáo sư Canada
, Khoa Khoa
học Nhân văn, Đại học Sir George Williams, Montreal
SATISH KUMAR, Nhà văn Ấn Độ
. Người sáng lập Trường Bất bạo động
Luân Đôn*JURGEN SCHUTT MOGRO, Bolivia (lưu vong)
Cựu giáo sư, Đại học La Paz
JEAN MUSSARD, Thụy Sĩ
Nguyên Giám đốc, Hội nghị Liên Hợp Quốc
về Môi trường Con người

* Một số đại biểu đã bao gồm với sự ủng hộ của họ đối với Tuyên bố nói chung một số tiêu chuẩn cụ thể mà họ có tại một số điểm nhất định:

ĐIỂM IV. M.Taghi Farvar, Jurgen Schutt Mogro, Jurgenne Primavera, và Jaime Hurtubia đã ký Tuyên bố theo cách diễn đạt lại câu đầu tiên của Điểm IV như sau:

Dân số không phải là yếu tố quan trọng nhất hoặc quyết định nhất ảnh hưởng đến môi trường của con người, mặc dù rõ ràng là sự gia tăng dân số của con người không thể tiếp tục vô thời hạn trong một môi trường hữu hạn với tài nguyên hữu hạn.

ĐIỂM IV. Nicholas Georgescu-Roegen, P.J. Deoras, Bengt Hubendick, Donald A. Chant, Henry Regier và Fred Knelman đã ký Tuyên bố theo chú thích sau:

Trong một số phần của tài liệu này, các vấn đề môi trường đã trở nên phần lớn chìm trong các tuyên bố có liên quan hơn ở một trong một số hoặc cực ý thức hệ. Một cuộc tranh cãi hiện nay, liên quan đến thước đo định lượng có ý nghĩa được gắn vào thời điểm này với các khía cạnh khác nhau của ‘yếu tố dân số’ so với các yếu tố quan trọng khác, đã gây nhầm lẫn cho vấn đề. Những khác biệt gây ra cuộc tranh cãi khoa học tự chúng không liên quan trực tiếp đến điểm chúng ta đưa ra ở đây: Ở nhiều nơi và vào những thời điểm khác nhau, “vấn đề dân số” đã trở nên hoặc sẽ trở nên nghiêm trọng, đi trước hoặc theo sau kịp thời bởi các yếu tố quan trọng khác không liên quan chặt chẽ đến yếu tố dân số.

ĐIỂM VII. Nicholas Georgescu-Roegen, Donald A. Chant, và Henry Regier đã ký tên theo cách diễn đạt lại sau đây của đoạn cuối cùng của Điểm VII:

Những người tha thiết nhất tìm cách chấm dứt chiến tranh kêu gọi các quốc gia đang đàn áp hoặc trong tương lai có thể đàn áp các quốc gia hoặc khu vực khác về quân sự, kinh tế hoặc chính trị của họ từ bỏ các hành động như vậy. Họ cũng kêu gọi những người hiện tại hoặc trong tương lai sẽ là đối tượng áp bức kiềm chế bạo lực và hành động để vạch trần kẻ xâm lược và từ chối anh ta khả năng viện dẫn cái cớ tự vệ và, do đó, tiếp tục hoặc gây ra các cuộc chiến tranh mới.

3. (Trời Đại Đồng) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1983, tập sự xuất gia năm 2014 (31 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 2 tháng 7 năm 2014, pháp danh Tâm An Bình, pháp tự Chân Trời Đại Đồng. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Trắc Bá. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2017 trong đại giới đàn Tánh Thiên tại Tu viện Vườn Ươm. Là đệ tử thứ 846 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Đồng thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đại Giác (Trời Đại Giác) (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam của Làng Mai, người Thụy Sĩ. Sinh năm 1977, tập sự xuất gia năm 2011 (34 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 30 tháng 1 năm 2012 tại Làng Mai Pháp, pháp danh Great Decision of the Heart, pháp tự Chân Trời Đại Giác, trong gia đình xuất gia Cây Cúc Đại Đóa. Thọ giới lớn ngày 23 tháng 3 năm 2016 trong đại giới đàn Ân Nghĩa. Nhận truyền đăng năm 2022 trong khóa tu “Đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ” với bài kệ truyền đăng:
Trời tâm linh sáng bừng nét cọ
Thệ Nhật sơn đại giác nở hoa
Mười năm vườn tuệ siêng chăm sóc
Ân nghĩa bồi vun nếp lục hoà.
Là đệ tử thứ 732 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Giác thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đại Hòa (cơ sở, điện đường)
1. Khu nhà chính thuộc tu viện Bích Nham, là nơi sinh hoạt chung cho cả hai xóm Tùng Xanh và Hạc Trắng.2.Tên một thiền đường dành cho các sư cô tại xóm HạcWhite.

Đại Lão (Trời Đại Lão) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1996, thọ giới Sa Di ngày 2 tháng 7 năm 2017 (21 tuổi), pháp danh Tâm Thiện Phước, pháp tự Chân Trời Đại Lão, thuộc gia đình xuất gia Cây Giáng Hương. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1022 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Lão thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đại lễ Phật Đản (lễ lược) Tên đầy đủ là Đại lễ Phật đản Quốc tế Liên Hợp Quốc 2008 (tiếng Anh là Ngày Quốc tế Vesak 2008), diễn ra tại Hà Nội từ ngày 13 đến 17 tháng 5 năm 2008. Thầy Làng Mai được mời chia sẻ một trong ba bài phát biểu chính của Đại lễ. Phái đoàn Làng Mai ngoài 100 vị xuất sĩ còn có trên 400 vị cư sĩ tới từ Tây phương đã làm cho đại lễ trở thành một đại hội quốc tế thực sự. Các thành viên của phái đoàn Làng Mai tích cực tham dự, yểm trợ ban tổ chức trong việc chuẩn bị tài liệu, nhất là tài liệu bằng tiếng Anh, trả lời điện thư cho các đoàn đại biểu, sắp đặt chọn người hướng dẫn các buổi hội thảo trong Đại hội, chuẩn bị đầy đủ đầy đủ tài liệu thuyết trình cho cả 7 nhóm hội thảo có chủ đề khác nhau và giúp chia nhiều cụm thiền sinh đi vào từng nhóm hội thảo để đưa đạo Bụt đi vào các vấn đề thiết thực của sự tu học và hoằng pháp. Khoá tu cho người trẻ tại tu viện Bát Nhã và Chùa Bằng A – Hà Nội, khoá tu Đạo Phật dấn thân của thế kỷ 21 tại khách sạn Kim Liên – Hà Nội do tăng đoàn Làng Mai hướng dẫn là những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Đại lễ Phật đản này.

Đại Lực (Trời Đại Lực) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Mỹ, sinh năm 1975, thọ giới Sa Di ngày 18 tháng 5 năm 2019 (44 tuổi), pháp danh Tâm Hải An, pháp tự Chân Trời Đại Lực, thuộc gia đình xuất gia Cây Đầu Xuân. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1100 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Lực thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đại Lượng (Trời Đại Lượng) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người gốc Ukraine, quốc tịch Đức, sinh năm 1995, tập sự xuất gia năm 2014 (19 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 2 tháng 7 năm 2014, pháp danh Generous Mind of the Heart, pháp tự Chân Trời Đại Lượng. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Trắc Bá. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2017 trong đại giới đàn Tánh Thiên tại Tu viện Vườn Ươm. Là đệ tử thứ 859 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Lượng thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đại Nghĩa (Trời Đại Nghĩa) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Thụy Sĩ, sinh năm 1960, tập sự xuất gia năm 2014 (54 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 2 tháng 7 năm 2014, pháp danh Tâm Phước, pháp tự Chân Trời Đại Nghĩa. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Trắc Bá. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2017 trong đại giới đàn Tánh Thiên tại Tu viện Vườn Ươm. Là đệ tử thứ 841 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Nghĩa thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đại Nguyện (Trời Đại Nguyện) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2011 (20 tuổi). Thọ giới Sa Di ngày 30 tháng 1 năm 2012 tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Thiện Hành, pháp tự Chân Trời Đại Nguyện. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Cúc Đại Đóa. Thọ giới lớn ngày 27 tháng 3 năm 2016 trong đại giới đàn Ân Nghĩa. Là đệ tử thứ 744 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Nguyện thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đại Nhẫn (Trời Đại Nhẫn) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Pháp, thọ giới Sa Di ngày 3 tháng 7 năm 2011, pháp tự Chân Trời Đại Nhẫn. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Trúc Tím. Là đệ tử thứ 723 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Đại Nhẫn thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đại trai đàn bình đẳng giải oan (lễ lược) xem Phổ cáo Quốc dân.

Đại trượng phu (bài hát) Một bài hát do Thầy Làng Mai viết lời và phổ nhạc. Cửa tùng đôi cánh khép. Một mũi tên sáng loáng lìa dây cung. Lao vút tới. Mặt trời nổ tung. Đầy sân hoa cam rụng. Phảng phất bóng vô cùng.

Đại Tuệ (Trời Đại Tuệ) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Thụy Sĩ, thọ giới Sa Di ngày 30 tháng 1 năm 2012, pháp tự Chân Trời Đại Tuệ. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Cúc Đại Đóa. Thọ giới lớn ngày 23 tháng 3 năm 2016 trong đại giới đàn Ân Nghĩa. Là đệ tử thứ 733 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Tuệ thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đại Việt (Trời Đại Việt) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1990, thọ giới Sa Di ngày 18 tháng 12 năm 2014 (24 tuổi) tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Thuần Thiện, pháp tự Chân Trời Đại Việt, thuộc gia đình xuất gia Cây Sồi Đỏ. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 tại Tu viện Vườn Ươm trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây. Là đệ tử thứ 896 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đại Việt thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đam mê (thuật ngữ) Sự tham đắm, thèm khát và vướng mắc vào một trong những đối tượng của sáu giác quan.

Đám mây trong tờ giấy (thuật ngữ) Đây là một trong những hình ảnh mà Thầy Làng Mai hay sử dụng để nói về tự tính duyên khởi, tương tức và tương nhập của sự vật trong thế giới hiện tượng. Nhìn vào tờ giấy, ta thấy được đám mây, bởi vì nếu không có đám mây thì sẽ không có mưa, mà không có mưa thì cây rừng sẽ không mọc được, và sẽ không có bột gỗ để làm giấy. Thiền tập là nhìn sâu để thấy được sự có mặt của vạn pháp trong một pháp: tờ giấy là tờ giấy, nhưng tờ giấy cũng chứa đựng đám mây, cũng là đám mây. Nếu lấy đám mây ra khỏi tờ giấy thì tờ giấy không còn. Nhìn vào tờ giấy ta còn thấy nhiều yếu tố khác nữa như ánh sáng mặt trời, đất rừng, v.v… Nếu không có đất, nếu không có ánh sáng mặt trời thì cây cũng không mọc và không lớn lên được, và sẽ không có cây để làm giấy. Thời gian, không gian, tốc độ vận chuyển, tàng thức, v.v… tất cả đều có mặt trong tờ giấy.

Đàm Nguyện (tên gọi) Ni sư Đàm Nguyện. Một vị giáo thọ xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích với bài kệ truyền đăng như sau:
Đàm hoa thường nhuận sắc.
Nguyện hải cánh do thâm.
Giác tâm hương diệu khiết.
Vạn đại khả truyền đăng.
Ni sư Đàm Nguyện thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đảm Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2008 (17 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 20 tháng 09 năm 2008 tại Chùa Từ Hiếu, pháp danh Tâm Liên Hỉ, pháp tự Chân Đảm Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Là đệ tử thứ 583 của Thầy Làng Mai. Sư cô Đảm Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đạm Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1986, tập sự xuất gia năm 2007 (21 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 17 tháng 2 năm 2008 tại tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Quảng Pha, pháp tự Chân Đạm Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Lê. Thọ giới lớn năm 2011 trong đại giới đàn Lắng Nghe. Nhận truyền đăng trong đại giới đàn Tánh Thiên năm 2017 tại Tu viện Vườn Ươm với bài kệ truyền đăng:
Huyền Quang hiện áng mây thanh đạm
Hạt giống gieo trồng cõi tịnh nghiêm
Trái tim cam lộ nguyền tiếp nối

Giới tuệ chuyên cần tối chân nhân.
Là đệ tử thứ 495 của Thầy Làng Mai. Sư cô Đạm Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đan Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1980, tập sự xuất gia năm 2005 (25 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 8 tháng 1 năm 2006 tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Diệu Hòa, pháp tự Chân Đan Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Hồng Giòn. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Nhận truyền đăng năm 2016 trong đại giới đàn Ân Nghĩa diễn ra tại Tu viện Vườn Ươm với bài kệ truyền đăng:
Một hạt linh đan nghìn công tỉnh
Một tâm nghiêm tịnh đất trời bình
Đã sẵn trong tay kho bảo mật
Dạo bước vào đời vớt nhân sinh.
Là đệ tử thứ 328 của Thầy Làng Mai, sư cô Đan Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đán Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2005 (14 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 10 tháng 5 năm 2006 tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Quảng Bích, pháp tự Chân Đán Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Hải Đường. Thọ giới lớn năm 2011 trong đại giới đàn Lắng Nghe.
Nhận truyền đăng năm 2023 trong Đại giới đàn Trừng Quang tại Làng Mai Thái Lan với bài kệ truyền đăng:
Một trời xuân đán bình an 
Uy nghiêm vọng tiếng thâm ơn nghìn trùng 
Lối về có thủy có chung
Từ bi chiếu rạng khắp cùng thế gian.
Là đệ tử thứ 385 của Thầy Làng Mai. Sư cô Đán Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đàn Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt nam, quốc tịch Mỹ, sinh năm 1986, tập sự xuất gia năm 2001 (15 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 2 năm 2002 (16 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm Diệu Ân, pháp tự Chân Đàn Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Thốt Nốt. Thọ giới lớn ngày 18 tháng 12 năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp. Nhận truyền đăng năm 2009 trong đại giới đàn Mùa Sen Mới với bài kệ truyền đăng:
Hương xông pháp giới chiên Đàn.
Uy Nghiêm thần lực, hào quang rạng ngời.
Đóa sen phô cánh hồng tươi.
Nẻo về đã rạng chân trời thênh thang.
Là đệ tử thứ 148 của Thầy Làng Mai. Sư cô Đàn Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Là một trong những đệ tử trẻ tuổi của Thầy Làng Mai được Thầy Làng Mai đặt danh hiệu Baby Nun. Hiện không còn sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đáo Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1985, tập sự xuất gia năm 2005 (20 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 8 tháng 1 năm 2006  tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Nguyên Quang, pháp tự Chân Đáo Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Hồng Giòn. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Nhận truyền đăng năm 2014 trong đại giới đàn Cam Lộ Vị  tổ chức tại Tu viện Vườn Ươm với bài kệ truyền đăng:
Âm Hán Việt:
Bộ bộ, đáo bỉ ngản
Xứ xứ đắc hoa nghiêm
Hiện pháp thường an trú
Thử pháp thị chân thiền.
Nghĩa:
Mỗi bước đáo bỉ ngản
Cõi nào cũng hoa nghiêm
Hằng an trú hiện pháp
Đây mới thật chân thiền.
Là đệ tử thứ 329 của Thầy Làng Mai. Sư cô Đáo Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đào Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Pháp, sinh năm 1953, tập sự xuất gia năm 2003 (50 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 26 tháng 10 năm 2003 tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Transformation Liberatrice du Coeur, pháp tự Chân Đào Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Cẩm Lai. Thọ giới lớn ngày 18 tháng 12 năm 2006 trong đại giới đàn Văn Lang. Nhận truyền đăng năm 2011 trong đại giới đàn Lắng Nghe tại Đạo tràng Mai Thôn với bài kệ truyền đăng:
Hoa đào mỗi độ nở
Nghiêm tịnh bồ đề tâm
Đất trời cùng vận chuyển
Đem lại một mùa xuân.
Là đệ tử thứ 193 của Thầy Làng Mai, sư cô Đào Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đạo Bi (Trời Đạo Bi) (tên gọi) Một vị xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Indonesia, sinh năm 1991, thọ giới Sa Di năm 2015 (24 tuổi) tại chùa Wihara Ekayana Arama (Jakarta, Indonesia), pháp danh Bhadravarman. Thọ giới lớn năm 2019 tại Làng Mai Pháp trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây. Thầy được nhận tên mới là Chân Trời Đạo Bi. Hiện đang sinh hoạt cùng tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đạo Bụt Bắc Truyền (thuật ngữ) Danh từ để gọi Đạo Bụt Đại Thừa ở các nước miền Bắc, khác với Đạo Bụt Nam Truyền là Đạo Bụt nguyên thỉ (Tiểu Thừa) được thấy ở các nước miền Nam. Thật ra ở các nước theo Phật giáo đại thừa cũng có kinh điển về giáo lý nguyên thỉ, và Đạo Bụt Nam Truyền cũng có ảnh hưởng của Đạo Bụt Đại Thừa. Lịch sử Phật giáo có thể chia làm ba thời kỳ: Đạo Bụt Nguyên Thỉ, Đạo Bụt Bộ Phái và Đạo Bụt Đại Thừa. Đạo Bụt Bắc Truyền cũng như Đạo Bụt Nam Truyền đều phát xuất từ Đạo Bụt Nguyên Thỉ và Đạo Bụt Bộ Phái. Về Đạo Bụt Bộ Phái ta có thể tham khảo sách Dị Bộ Tông Luân Luận, và bộ băng Thầy Làng Mai dạy về lịch sử Phật Giáo.

Đạo Bụt Nam Truyền (thuật ngữ) Xem Đạo Bụt Bắc Truyền.

Đạo Bụt nhập thế (thuật ngữ) Đạo Bụt thực tập không phải chỉ trong chùa viện mà còn trong mọi lĩnh vực của sự sống: giáo dục, xã hội, chính trị, văn hóa, kinh tế… còn được gọi là đạo Bụt dấn thân (engaged Buddhism) hay đạo Bụt đi vào cuộc đời (socially engaged Buddhism). Danh từ Đạo Phật đi vào cuộc đời đã được dùng làm tựa đề một cuốn sách của Thầy Làng Mai do Lá Bối xuất bản ở Sài Gòn năm 1964. Sau đó các tổ chức Phật giáo như Buddhist Peace Fellowship ở Hoa Kỳ cũng bắt đầu sử dụng và áp dụng tinh thần này. Từ những năm 1930, các học giả như Nguyễn Trọng Thuật, Đồ Nan Tử trên tập san Phật Giáo Đuốc Tuệ đã bắt đầu xướng xuất Nhân Gian Phật Giáo. Đạo Bụt ở Việt Nam từ thời Lý Trần đã có khuynh hướng nhập thế, vua Trần Nhân Tông tức Trúc Lâm Đại Sĩ cũng đã hành động trong tinh thần ấy. Trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam (1954-1975) giáo lý và sự thực tập theo tinh thần đạo Bụt nhập thế được cụ thể hóa bằng phong trào Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội và những hoạt động tranh đấu cho hòa bình và hòa giải dân tộc. Tạp chí National Geographic số tháng 12 năm 2005 đã đăng một bài của ký giả Perry Garfinkel nói về phong trào Đạo Phật Nhập Thế trên thế giới. Ông viết: “Ngày nay một Đạo Phật mới đang hình thành và lan rộng trên thế giới. Giáo lý của Đạo Phật này gây cảm hứng cho nhiều phương pháp trị liệu thân tâm và mở đường cho những chính sách cải cách chính trị và bảo vệ sinh môi. Các nhà thể thao biết sử dụng các phép tu để thành công hơn trong các cuộc thi đấu, các nhân viên cảnh sát sử dụng để vượt thắng những hoàn cảnh chống đối khó khăn, các bệnh nhân bị bệnh nan y sử dụng để có thể chịu đựng được dễ dàng hơn tình trạng bức xúc của các cơn đau nhức…”. Đạo tràng Mai Thôn, các tu viện và các tăng thân liên hệ trong hai mươi lăm năm nay đã tổ chức nhiều khóa tu cho giới tâm lý trị liệu, cho giáo chức, cho giới cảnh sát và an ninh, cho các nhà tranh đấu bảo vệ sinh môi, cho giới cựu chiến binh, cho giới làm phim ảnh, cho giới văn nghệ sĩ, cho giới sinh viên học sinh, cho thiếu nhi và cho giới doanh thương, v.v… Trong bài pháp thoại gần đây nhất nói bằng tiếng Anh tại Xóm Hạ, vào ngày thứ năm 20 tháng 4 năm 2008, Thầy Làng Mai vẫn tiếp tục truyền đi nguồn cảm hứng về tinh thần nhập thế của Đạo Bụt hiện đại cho tứ chúng Làng Mai trong đó có rất nhiều quí thầy quí sư cô trẻ và các bạn thiền sinh Tây Phương. Toàn văn bài pháp thoại được đăng tải trên trang nhà Làng Mai www.langmai.org.

Đạo đức học qui định (thuật ngữ) (dịch chữ prescriptive ethics) Một chữ dùng trong khóa tu Con đường của Bụt – an cư kiết Đông 2008-2009.

Đạo đức học thuyết minh (thuật ngữ) (dịch chữ descriptive ethics) Một chữ dùng trong khóa tu Con đường của Bụt – an cư kiết Đông 2008-2009.

Đạo đức học tiêu chuẩn (thuật ngữ) (dịch chữ normative ethics) Một chữ dùng trong khóa tu Con đường của Bụt – an cư kiết Đông 2008-2009.

Đạo đức học ứng dụng (thuật ngữ) (dịch chữ applied ethics) Một chữ dùng trong khóa tu Con đường của Bụt – an cư kiết Đông 2008-2009.

Đạo Hành (Trời Đạo Hành) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hà Lan, sinh năm 1986, thọ giới Sa Di ngày 1 tháng 12 năm 2015 (29 tuổi) tại chùa Pháp Vân – Làng Mai Pháp, pháp danh Rising Sun Of The Heart, pháp tự Chân Trời Đạo Hành. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ – Ở Đây tại Làng Mai Pháp. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Đan Mộc. Là đệ tử thứ 930 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đạo Hành thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đạo Kiên (Trời Đạo Kiên) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Ireland, tập sự xuất gia năm 2015, thọ giới Sa Di ngày 1 tháng 12 năm 2015, pháp danh Steady Guide Of The Heart, pháp tự Chân Trời Đạo Kiên. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Đan Mộc. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây tại Làng Mai Pháp. Là đệ tử thứ 932 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đạo Kiên thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đạo Lực (Trời Đạo Lực) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1986, tập sự xuất gia năm 2015 (29 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 1 tháng 12 năm 2015, pháp danh Tâm Quảng Chính, pháp tự Chân Trời Đạo Lực. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Đan Mộc. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây tại Làng Mai Pháp. Là đệ tử thứ 929 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đạo Lực thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đạo Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Pháp. Thọ giới Sa Di Ni ngày 4 tháng 12 năm 1999 tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm An Lương, pháp tự Chân Đạo Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Anh Đào. Thọ giới lớn ngày 9 tháng 1 năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới. Là đệ tử thứ 94 của Thầy Làng Mai. Sư cô Đạo Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đạo Phật Áp Dụng Vào Đời Sống Hàng Ngày (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai viết chung với thầy Huyền Quang do Viện Hóa Đạo Sài Gòn xuất bản lần đầu năm 1973, được nhà xuất bản Lá Bối tái bản nhiều lần ở trong nước cũng như ở ngoài nước.

Đạo Phật của tuổi trẻ (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, tổng hợp các bài giảng cho Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ trong các khóa tu năm 1997, 1998, và 1999 tại chùa Vạn Hạnh, Cali và tại đạo tràng Thanh Sơn, tiểu bang Vermont. Sách do nhà Lá Bối, Hoa Kỳ xuất bản năm 2004.

Đạo Phật dấn thân của thế kỷ 21 (thuật ngữ) Chủ đề của một khoá tu tổ chức tại khách sạn Kim Liên – Hà Nội từ ngày 5 đến 11 tháng 5 năm 2008 cho người nước ngoài, nhất là thiền sinh Âu Mỹ trước ngày khai mạc Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội. Tiếng Anh là Engaged Buddhism in the 21st Century.

Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà Lá Bối ấn hành lần đầu năm 1964 tại Sài Gòn và đã được tái bản nhiều lần ở trong nước và ngoài nước. Đây là một trong những cuốn sách đã đưa tới phong trào đạo Bụt dấn thân (Engaged Buddhism) ở Việt Nam và trên thế giới, trong đó có Đạo Phật Ngày Nay, Đạo Phật Hiện Đại Hóa, Đạo Phật Ngày Mai, v.v…

Đạo Phật Hiện Đại Hóa (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà Lá Bối, Sài Gòn xuất bản năm 1965.

Đạo Phật Ngày Mai (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, ký bút hiệu Bsu Danglu (tên của một làng người Thượng ở B’lao, nơi tọa lạc Phương Bối Am) do nhà Lá Bối, Sài Gòn ấn hành năm 1970 (thời gian này, sách ký tên Nhất Hạnh không được phép xuất bản).

Đạo Phật Ngày Nay (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá Bối ấn hành lần đầu năm 1964 tại Paris và đã được tái bản nhiều lần ở trong nước và ngoài nước. Bản dịch tiếng Pháp tựa đề Aujourd’hui le Bouddhisme. Sách đã được Mục Sư Thomas Merton điểm và giới thiệu.

Đạo Phật Qua Nhận Thức Mới (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, ký bút hiệu Thạc Đức, do Hội Phật Học Nam Việt xuất bản năm 1957, họa sĩ Lữ Hồ trình bày bìa, cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền viết lời giới thiệu. Sách này tập hợp lại những bài viết của Thầy Làng Mai đã đăng trên các số báo ra năm 1955 của nhật báo Dân Chủ do ông Vũ Ngọc Các làm chủ nhiệm. Loạt bài được đăng ngay trang đầu các số báo với tựa bài lớn in mực đỏ và báo bán rất chạy vì đất nước vừa bị chia cắt và lòng người rất hoang mang muốn đi tìm một hướng đi tinh thần cho cả nước khi các ý thức hệ bên ngoài bắt đầu tranh chấp tại Việt Nam.

Đạo Phật Và Hướng Đi Nhân Bản Đích Thực (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà Lá Bối, Sài Gòn ấn hành năm 1966. Sách này tập hợp một số bài viết của Thầy Làng Mai trong tạp chí Hải Triều Âm,- cơ quan văn hóa và thông tin Của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.

Đạo Phương (Trời Đạo Phương) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai, người Italy. Sinh năm 1984, tập sự xuất gia năm 2015 (31 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 1 tháng 12 năm 2015 tại Làng Mai Pháp, pháp danh Generosity path of the Heart, pháp tự Chân Trời Đạo Phương, trong gia đình xuất gia Cây Đan Mộc. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ – Ở Đây tại Làng Mai Pháp. Là đệ tử thứ 928 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đạo Phương thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đạo Quang (Trời Đạo Quang) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Đức, sinh năm 1967, thọ giới Sa Di ngày 1 tháng 12 năm 2015 (48 tuổi) tại chùa Pháp Vân – Làng Mai Pháp, pháp danh Healing Transformation Of The Heart, pháp tự Chân Trời Đạo Quang. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ – Ở Đây tại Làng Mai Pháp. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Đan Mộc. Là đệ tử thứ 931 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đạo Quang thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đạo Quy (Trời Đạo Quy) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Úc, sinh năm 1992, tập sự xuất gia năm 2015 (23 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 1 tháng 12 năm 2015, pháp danh Grounded  Dwelling Of The Heart, pháp tự Chân Trời Đạo Quy. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Đan Mộc. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây tại Làng Mai Pháp. Là đệ tử thứ 938 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đạo Quy thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đạo Sinh (Trời Đạo Sinh) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Pháp, sinh năm 1987, tập sự xuất gia năm 2015 (28 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 1 tháng 12 năm 2015, pháp danh Terre de l’harmonie du Coeur, pháp tự Chân Trời Đạo Sinh. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Đan Mộc. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây tại Làng Mai Pháp. Là đệ tử thứ 937 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đạo Sinh thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đạo Sơn (Trời Đạo Sơn) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai, người Pháp. Sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2015 (31 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 1 tháng 12 năm 2015 tại Làng Mai Pháp, pháp danh Deepening Practice of the Heart, pháp tự Chân Trời Đạo Sơn, trong gia đình xuất gia Cây Đan Mộc. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ – Ở Đây tại Làng Mai Pháp. Là đệ tử thứ 936 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đạo Sơn thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đạo Tuệ (Trời Đạo Tuệ) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Ireland, sinh năm 1987, tập sự xuất gia năm 2015 (28 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 1 tháng 12 năm 2015, pháp danh Solid Faith Of The Heart, pháp tự Chân Trời Đạo Tuệ. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Đan Mộc. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây tại Làng Mai Pháp. Là đệ tử thứ 935 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đạo Tuệ thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đoàn thanh niên Phật tử (và Không Phật tử) phục vụ cho một xã hội lành mạnh và từ bi (tổ chức)
Xem Wake Up!

Đạt Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Đức. Sinh năm 1976, thọ giới Sa Di Ni ngày 18 tháng 05 năm 2000 (24 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp tự Chân Đạt Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Bông Sứ. Thọ giới lớn năm 2003. Là đệ tử thứ 108 của Thầy Làng Mai. Sư cô Đạt Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đạt Nguyện (Trời Đạt Nguyện) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1988, thọ giới Sa Di ngày 8 tháng 12 năm 2013 (25 tuổi) tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Anh Minh, pháp tự Chân Trời Đạt Nguyện. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Đoàn. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2017 tại Tu viện Vườn Ươm trong đại giới đàn Tánh Thiên. Là đệ tử thứ 821 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đạt Nguyện thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đắc Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Mỹ, sinh năm 1949, tập sự xuất gia năm 2003 (54 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 13 tháng 12 năm 2003 tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm Cao, pháp tự Chân Đắc Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Quế. Thọ giới lớn ngày 18 tháng 12 năm 2006 trong đại giới đàn Văn Lang. Nhận truyền đăng năm 2011 trong đại giới đàn Lắng Nghe tại Đạo tràng Mai Thôn với bài kệ truyền đăng:
Đóa hoa chứng đắc nở trang nghiêm
Nguyện ước xưa nay vốn vững bền
Gió mát trăng trong còn có đó
An lành mỗi bước dựng Tây thiên.
Sư cô là mẹ của thầy Pháp Uyển. Là đệ tử thứ 197 của Thầy Làng Mai, sư cô Đắc Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đăng Hạnh (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Hoa Kỳ gốc Hàn Quốc, sinh năm 1991, thọ giới Sa Di Ni ngày 5 tháng 11 năm 2023 (32 tuổi), pháp danh Fruitful Envisioning of the Heart, pháp tự Chân Đăng Hạnh. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Hoa Thủy Tiên, là đệ tử thứ 40 của thế hệ thứ ba Tăng thân xuất sĩ Làng Mai. Sư cô Đăng Hạnh thuộc thế hệ thứ 44 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 10 của phái Liễu Quán.

Đăng Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1990, tập sự xuất gia năm 2006 (16 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Thanh Nguyện, pháp tự Chân Đăng Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trầm Hương. Thọ giới lớn ngày 18 tháng 10 năm 2010 trong đại giới đàn Lắng Nghe tại Tu viện Vườn Ươm. Nhận truyền đăng năm 2016 trong đại giới đàn Ân Nghĩa diễn ra tại Đạo tràng Mai Thôn với bài kệ truyền đăng:
Chánh pháp tâm đăng sáng tỏ tường
Nghiêm thân trì giới bước uy nghi
Bồ đề lấp lánh ngàn ánh lửa
Tuổi trẻ từ bi đẹp xuân thì.
Là đệ tử thứ 453 của Thầy Làng Mai, sư cô Đăng Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đẳng Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Mỹ, sinh năm 1968, tập sự xuất gia năm 2000 (32 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 18 tháng 05 năm 2000 tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm Phụng Hỷ, pháp tự Chân Đẳng Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Bông Sứ. Thọ giới lớn ngày 9 tháng 1 năm 2003 trong đại giới đàn Đã Về Đã Tới. Nhận truyền đăng năm 2008 trong đại giới đàn Thanh Lương Địa với bài kệ truyền đăng:
Công phu nương sức đẳng trì
Giới thân nghiêm túc uy nghi vững vàng
Đạo mầu nhiếp phục tâm an
Hạt từ gieo khắp nhân gian độ đời.
Là đệ tử thứ 106 của Thầy Làng Mai, sư cô Đẳng Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đập vỡ vỏ hồ đào (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, giảng giải một số chương trong tác phẩm Trung Quán Luận của thầy Long Thọ, do Phương Nam Book phát hành tại Việt Nam năm 2012.

Đâu Suất (Trời Đâu Suất) (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1995, thọ giới Sa Di ngày 30 tháng 1 năm 2012 (17 tuổi), pháp danh Tâm Minh Đăng, pháp tự Chân Trời Đâu Suất. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Cúc Đại Đóa. Thọ giới lớn ngày 23 tháng 3 năm 2016 tại Tu viện Vườn Ươm trong đại giới đàn Ân Nghĩa. Nhận truyền đăng năm 2023 trong Đại giới đàn Trừng Quang tổ chức tại Làng Mai Thái Lan với bài kệ truyền đăng:
Mắt thương nhìn thấu cõi trần
Từ Trời Đâu Suất hiện thân giữa đời
Bồ đề chiếu rạng muôn nơi
Mở bày phương tiện độ người trầm luân.
Là đệ tử thứ 747 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đâu Suất thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đầu Hạ (Trăng Đầu Hạ) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Hoa Kỳ, sinh năm 1949, tập sự xuất gia năm 2009, thọ giới Sa Di Ni ngày 27 tháng 5 năm 2010 (61 tuổi), pháp danh Tâm Nghiêm Thu, pháp tự Chân Trăng Đầu Hạ. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Xanh. Sư cô là mẹ của sư cô Bích Nghiêm và sư cô Phú Nghiêm. Là đệ tử thứ 687 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Đầu Hạ thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đầu Non (Trăng Đầu Non) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2010 (18 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 23 tháng 3 năm 2011 tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm An Trú, pháp tự Chân Trăng Đầu Non. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trúc Xanh. Thọ giới lớn ngày 24 tháng 05 năm 2014 trong đại giới đàn Cam Lộ Vị. Là đệ tử thứ 710 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Đầu Non thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đây là tịnh độ (thuật ngữ, bài hát)
1. Tịnh độ bây giờ và ở đây. Đây là giáo lý và thực tập của Làng Mai liên hệ đến Tịnh độ. Căn cứ trên giáo nghĩa Duy Tâm Tịnh Độ (Tịnh độ trong lòng), các vị tổ sư ngày xưa, trong đó có vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sỹ dạy rằng: đối với hạng có căn trí cao thì Bụt A Di Đà là tự tính của mỗi người, và cõi tịnh độ có sẵn trong tâm của mỗi người, do đó nếu có niệm, định và tuệ thì ta có thể thấy được tịnh độ hiện tiền, và mỗi bước chân ta đi đều dẫm lên tịnh độ (mỗi bước chân đi vào tịnh độ, mỗi cái nhìn thấy được pháp thân – Nhật Tụng Thiền Môn 2000). Nhận thức này đi đôi tuyệt hảo với giáo lý Hiện Pháp Lạc Trú và với phép tu chánh niệm ở Làng Mai.
2. Tên một bài hát, lời của Thầy Làng Mai, sư cô Chân Không phổ nhạc: Đây là tịnh độ, tịnh độ là đây. Mỉm cười chánh niệm, an trú hôm nay. Bụt là lá chín, pháp là mây bay, tăng thân khắp chốn, quê hương nơi này. Thở vào hoa nở, thở ra trúc lay. Tâm không ràng buộc, tiêu dao tháng ngày.

Đầu cành dương liễu (nhạc kinh) Một bài nhạc kinh do sư cô Chân Quy Nghiêm phổ nhạc. Bài này có trong sách Thiền Môn Nhật Tụng Năm 2000. Đầu cành dương liễu vương cam lộ. Một giọt mười phương rưới cũng đầy. Bao nhiêu trần lụy tiêu tan hết. Đàn tràng thanh tịnh ở ngay đây. Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa. Trí tuệ bừng lên đóa biện tài. Đứng yên trên sóng sạch trần ai. Cam Lộ chữa lành cơn khổ bệnh. Hào quang quét sạch buổi nguy tai. Liễu biếc phất bày muôn thế giới. Sen hồng nở hé vạn lâu đài. Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh. Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay. Nam Mô Bồ Tát Quan Thế Âm.

Đầu Thôn (cơ sở) Một cư xá thuộc Xóm Mới.

Đế Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1990, tập sự xuất gia năm 2008 (18 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 20 tháng 09 năm 2008 tại Chùa Từ Hiếu, pháp danh Tâm Diệu Chuyên, pháp tự Chân Đế Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Thọ giới lớn ngày 27 tháng 2 năm 2012 trong đại giới đàn Tình Huynh Đệ. Nhận truyền đăng năm 2023 trong Đại giới đàn Trừng Quang tổ chức tại Làng Mai Thái Lan với bài kệ truyền đăng:
Xuất lưu pháp bảo từ chân đế
Một dạ giữ nghiêm phép chỉ trì

Mỗi khi trời đất lên tiếng gọi
Hoa lòng thơm ngát giọt từ bi.
Là đệ tử thứ 580 của Thầy Làng Mai, sư cô Đế Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đế thính (thuật ngữ) Xem lắng nghe truyền thông.

Để Bụt Thở (thi kệ) Một bài thi kệ được Thầy Làng Mai sáng tác mùa xuân 2007, sử dụng trong khi thực tập đi thiền:
1. Để Bụt thở, để Bụt đi, mình khỏi thở, mình khỏi đi.
2. Bụt đang thở, Bụt đang đi, mình được thở, mình được đi.
3. Bụt là thở, Bụt là đi, mình là thở, mình là đi.
4. Chỉ có thở, chỉ có đi, không người thở, không người đi.
5. An khi thở, lạc khi đi, an là thở, lạc là đi.
Bài thực tập đi từ cái nhìn gần như nhị nguyên tới cái nhìn bất nhị. Ban đầu Bụt không phải là mình, kế đó Bụt là một phần của mình, kế đó nữa Bụt là mình bởi vì Bụt và mình cả hai đều vô ngã, và cuối cùng Bụt và mình đều là hơi thở và bước chân có tính cách an và lạc.

Để Có Một Tương Lai (sách) Một cuốn sách giảng về Năm giới của Thầy Làng Mai, nhà xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ ấn hành. Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn ấn hành năm 2006.

Để Hiểu Đạo Phật (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai, ký bút hiệu Phương Bối, do Phật Học Đường Trung Phần xuất bản năm 1959, họa sĩ Tạ Tỵ trình bày bìa.

Để Nuôi Lớn Hạnh Phúc Trong Thời Gian Ở Làng Mai (Cẩm nang tu học)
Một tập sách chỉ dẫn thiền sinh cách thực tập ở Làng Mai để thời gian cư trú tại Làng Mai đem tới được nhiều hạnh phúc, trị liệu và chuyển hóa. Tập sách này được ấn hành năm 1999, trong đó gồm có các mục: Thực Tập Chánh Niệm, Sử Dụng Thi Kệ, Thiền Đi, Thức Dậy Buổi Sáng, Im Lặng Hùng Tráng, Làm Mới, Thân Thứ Hai, Thiền Buông Thư, Động Tác Chánh Niệm, Soi Sáng Cho Nhau, Điều Phục Cơn Giận hay Nỗi Buồn, Nghe Pháp Thoại, Pháp Đàm, Thiền Trà, Thiền Lạy, Hải Đảo Tự Thân, Ngày Làm Biếng, Thiền Ôm, và Đem Làng Mai Về Nhà. Tập sách được các vị giáo thọ của Làng Mai biên soạn. Phần đầu nói về Đạo Tràng Mai Thôn như sau: “Làng Mai là một trung tâm thiền tập tọa lạc tại miền Tây Nam nước Pháp được hình thành vào đầu năm 1982. Những năm đầu, nhiều cây hồng ăn trái (persimon) đã được trồng ở đây cho nên trung tâm được gọi là Làng Hồng. Nhưng sau đó, 1250 cây mai thuộc loại Pruniers d’Agen, rất ngọt và đậm đà, đã được trồng bằng tiền túi của các thiếu nhi gốc Việt Nam về tu học, cho nên Làng Hồng đã đổi tên thành Làng Mai, tiếng Pháp là Village des pruniers, tiếng Anh là Plum Trees Village, gọi tắt là Plum Village. Tên chữ của Làng Mai là Đạo Tràng Mai Thôn. Mấy năm đầu thì Làng Mai chỉ có hai xóm: Xóm Thượng và Xóm Hạ. Nhưng vì nhu yếu càng ngày càng lớn của thiền sinh nên đến nay đã có năm Xóm là Xóm Thượng, Xóm Hạ, Xóm Mới, Xóm Trung, Xóm Đoài. Xóm Thượng đã trở thành chùa Pháp Vân, tên chữ là Thệ Nhật Sơn Pháp Vân Tự, Xóm Hạ trở thành chùa Cam Lộ, tên chữ là Mai Hoa Thôn Cam Lộ Tự. Xóm Mới trở thành chùa Từ Nghiêm, tên chữ là Thiên Ý Thôn Từ Nghiêm Tự. Hiện giờ Xóm Mới đã có thêm Xóm Mới Đầu Thôn và Xóm Mới Lưng Đồi để đủ cung ứng nơi cư trú cho thiền sinh tới thực tập càng lúc càng đông. Ngoài ra, Xóm Mới cũng có thêm một ngọn đồi và một con suối gọi là đồi Dương Xuân và suối Dương Xuân, một niềm vui lớn cho các vị thường trú. Chùa Pháp Vân là thiền viện cho các vị xuất gia nam, chùa Từ Nghiêm và chùa Cam Lộ là thiền viện của các vị xuất gia nữ. Trong số các thầy và các sư cô, có nhiều vị gốc Anh, gốc Pháp, gốc Hòa Lan, gốc Mỹ, gốc Ái Nhĩ Lan và Úc. Làng Mai cũng là trú xứ của Viện Cao Đẳng Phật Học, nơi đào tạo các vị giáo thọ xuất gia và tại gia. Số lượng các vị giáo thọ được đào tạo đã lên tới hơn hai trăm người, hiện đang có mặt giảng dạy và hướng dẫn các khóa tu trên thế giới, kể cả ở Việt Nam. Tại Đạo Tràng Mai Thôn, ngoài chúng xuất gia, cũng có chúng tại gia thường trú, tu học rất tinh chuyên. Tại Làng Mai có chương trình đào tạo các vị giáo thọ xuất gia và tại gia. Số lượng các vị xuất gia tại Làng Mai và tu viện Rừng Phong đã lên tới ba trăm vị. Có những khóa tu được tổ chức hàng năm: khóa mùa Đông (An Cư Kiết Đông) kéo dài ba tháng, bắt đầu từ giữa tháng mười một đến giữa tháng hai dương lịch; khóa mùa Hè kéo dài một tháng, từ giữa tháng bảy đến giữa tháng tám, giảng dạy bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp. Khóa này rất đông, thiền sinh từ khoảng 47 quốc gia tới, hè nào cũng trên bốn ngàn người, có khi cần đến trên 30 vị giáo thọ giảng dạy; lại có khóa bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày, giảng bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp. Ngoài ra, tuần nào cũng có hai ngày quán niệm (Chủ nhật và Thứ Năm), ta có thể đến tham dự pháp thoại, pháp đàm, thiền hành, thiền trà và ăn cơm chánh niệm. Để được tham dự các khóa tu, ta cần ghi danh trước”.

Đệ nhị thân (thuật ngữ, phép tu)
1. Thân thứ hai.
2. Tại Làng Mai, mỗi hành giả đều có thân thứ hai để chăm sóc gọi là đệ nhị thân. Người nào cũng có đệ nhị thân và người nào cũng là đệ nhị thân của một người khác. Hành giả phải chịu trách nhiệm về đệ nhị thân của mình, và nếu có ai hỏi về tình trạng của thân ấy, mình phải có khả năng cung cấp tin tức. Mình phải biết tình trạng sức khỏe, phẩm chất tu tập, những khả năng và những yếu kém của người ấy. Đến giờ ngồi thiền, đi thiền hoặc thọ trai, mình phải biết người ấy có mặt hay không, nếu không, mình phải biết lý do. Nếu người ấy bệnh, mình phải báo tin để người ấy được chăm sóc. Lên máy bay, xe buýt hoặc xe lửa, mình phải biết là người ấy đã có mặt trên máy bay hoặc trên xe chưa. Nếu mỗi người chăm sóc cho đệ nhị thân của mình thì cả tăng thân đều được chăm sóc.

Đi Gặp Mùa Xuân (sách) Một cuốn sách phiên tả từ băng giảng các bài pháp thoại của Thầy Làng Mai và các tin tức sinh hoạt của chùa Làng Mai. Nhà xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ ấn hành năm 1999.

Đi Như Một Dòng Sông (sách) Một cuốn sách trích đăng các bài viết của Thầy Làng Mai từ Lá Thư Làng Mai số 25, kỷ niệm 20 năm thành lập Làng Mai, xuất bản tại Việt Nam năm 2002.

Địa Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2007 (16 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 20 tháng 09 năm 2008 (17 tuổi) tại Chùa Từ Hiếu, pháp danh Tâm Phước Thắng, pháp tự Chân Địa Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Là đệ tử thứ 582 của Thầy Làng Mai, sư cô Địa Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Địa Xúc (Trời Địa Xúc) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1988, thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2017 (29 tuổi) tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Hải Nguyên, pháp tự Chân Trời Địa Xúc. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Bạch Dương. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1035 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Địa Xúc thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Điển Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1983, tập sự xuất gia năm 2005 (22 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 8 năm 2005 tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Ngọc Minh, pháp tự Chân Điển Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Hướng Dương. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Nhận truyền đăng ngày 29 tháng 4 năm 2013 tại Tu viện Vườn Ươm với bài kệ:
Kinh điển chất đầy nửa túi
Cõi lòng rộng mở tinh nghiêm
Sông Hằng có bao nhiêu cát
Bao nhiêu thao thức thệ nguyền.
Là đệ tử thứ 295 của Thầy Làng Mai, sư cô Điển Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Điều Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2007 (19 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 20 tháng 09 năm 2008 tại Chùa Từ Hiếu, pháp danh Tâm Diệu Huệ, pháp tự Chân Điều Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Thọ giới lớn ngày 27 tháng 2 năm 2012 trong đại giới đàn Tình Huynh Đệ. Là đệ tử thứ 574 của Thầy Làng Mai, sư cô Điều Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Điều Phục Cơn Giận (bài tụng) Một bài tụng được sử dụng trong các công phu sáng hoặc chiều tại các thiền viện, có thể dùng cho cả hai phái Thiền tông và Tịnh Độ tông. Đây là một trong những bài tụng mới nên chưa có trong sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 và Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn nhưng đã có trong sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2010, ấn bản Miền Bắc và Miền Nam.

Điều phục tâm nh (phép tu) Là phương pháp thực tập sử dụng hơi thở và bước chân chánh niệm để chăm sóc và chuyển hóa những tâm hành trong ta. Có 51 loại tâm hành. Mỗi khi một tâm hành phát hiện, ta dùng năng lượng chánh niệm được chế tác bằng hơi thở và bước chân để nhận diện nó, trước hết là sự nhận diện đơn thuần. Buồn thì biết mình đang buồn, dùng ánh sáng ý thức để soi rõ và nhận diện nỗi buồn. Ta không nên đè nén cơn giận hay nỗi buồn. Ta phải cho phép chúng có mặt và ôm ngay lấy chúng bằng năng lượng chánh niệm. Có chánh niệm là có Bụt bảo hộ, ta đã được đặt vào một khung cảnh an toàn rồi. Chỉ thực tập thở và đi trong chánh niệm thôi, ta không nói hay không làm bất cứ một điều gì để phản ứng lại khi nỗi buồn hay cơn giận còn đó, bởi vì nếu ta phản ứng thì sẽ có thể gây đổ vỡ trong ta và người đối diện. Tiếp tục thở và đi trong chánh niệm, ta nhìn sâu vào tự tánh của niềm đau, nghĩa là những nguyên nhân xa gần đã làm nó phát khởi. Khi thấy được hạt giống giận hờn và tập khí hay nổi nóng trong ta, và khi thấy được rằng người kia cũng đang có nhiều khổ đau và tập khí, ta sẽ hết giận và thấy rằng chỉ có sự thực tập hiểu và thương mới giúp được cho ta và cho cả người kia. Trừng phạt không phải là giải pháp, dù sự trừng phạt ấy được thực hiện bằng lời nói hay bằng hành động. Khuynh hướng muốn trừng phạt người kia, làm cho người kia đau khổ để cho mình bớt khổ là khuynh hướng bạo động trong ta, ta phải thấy được điều này trong khi thực tập hơi thở và bước chân ý thức. Khi vui thì biết là mình đang vui, dùng năng lượng chánh niệm nhận diện niềm vui, thấy được nguyên nhân sâu xa của niềm vui trong ta để tiếp tục duy trì và phát triển niềm vui đó. Biết chăm sóc các tâm hành, ta sẽ chuyển hóa được những tâm hành bất thiện và nuôi dưỡng được những tâm hành thiện.

Đính Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1979, thọ giới Sa Di Ni ngày 21 tháng 11 năm 2009 (30 tuổi), pháp danh Tâm Quảng Bảo, pháp tự Chân Đính Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Hồng. Thọ giới lớn ngày 25 tháng 5 năm 2014 trong đại giới đàn Cam Lộ Vị. Là đệ tử thứ 653 của Thầy Làng Mai, sư cô Đính Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Định Chiếu (Trăng Định Chiếu) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1991, tập sự xuất gia năm 2016 (25 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 15 tháng 12 năm 2016 tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Nguyên Hồng, pháp tự Chân Trăng Định Chiếu. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 3 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 984 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Định Chiếu thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Định đề giáo lý Làng Mai (khóa giảng) Nội dung các bài giảng của Thầy Làng Mai trong các khóa mùa Xuân 2006, khóa mùa thu 2006 và An Cư Kiết Đông 2006-2007). Xem thêm Bốn mươi định đề  giáo lý Làng Mai.

Định Hướng (Trời Định Hướng) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1994, thọ giới Sa Di ngày 8 tháng 12 năm 2013 (19 tuổi) tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Nguyên Vinh, pháp tự Chân Trời Định Hướng. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Đoàn. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2017 tại Tu viện Vườn Ươm trong đại giới đàn Tánh Thiên. Là đệ tử thứ 837 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Định Hướng thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Định Lực (Trời Định Lực) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1989, thọ giới Sa Di ngày 8 tháng 12 năm 2013 (24 tuổi), pháp danh Tâm Thiện Thuận, pháp tự Chân Trời Định Lực. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Đoàn. Thọ giới lớn ngày 22 tháng 2 năm 2017 trong đại giới đàn Tánh Thiên tại Tu viện Vườn Ươm. Là đệ tử thứ 829 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Định Lực thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Định Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Pháp, sinh năm 1969, tập sự xuất gia năm 1993 (24 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 11 tháng 12 năm 1993 tại chùa Cam Lộ – Làng Mai, pháp danh Tâm Diệu Thu, pháp tự Chân Định Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Con Cá. Thọ giới lớn năm 1996 trong đại giới đàn Nến Ngọc. Nhận truyền đăng năm 1999  với bài kệ truyền đăng:
Định hướng thuyền đi trong vững chãi
Nghiêm trang lòng đất nở hoa trời
Đường xưa mây trắng còn nguyên vẹn
Âm điệu hòa chung khúc thảnh thơi.
Là đệ tử thứ 21 của Thầy Làng Mai, sư cô Định Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Định Tâm (Trời Định Tâm) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hoa Kỳ, sinh năm 1981, thọ giới Sa Di ngày 26 tháng 1 năm 2022 (41 tuổi) tại tu viện Bích Nham, pháp danh Awakening Bright Joy of the Heart, pháp tự Chân Trời Định Tâm. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Mimosa. Là đệ tử thứ 1185 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Định Tâm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Định Thành (Trời Định Thành) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Pháp, sinh năm 1977, thọ giới Sa Di ngày 25 tháng 1 năm 2022 (45 tuổi) tại Làng Mai, pháp danh Power of the Heart, pháp tự Chân Trời Định Thành. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Mimosa. Là đệ tử thứ 1180 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Định Thành thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Định Thường (Trời Định Thường) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Đức, sinh năm 1986, thọ giới Sa Di ngày 25 tháng 1 năm 2022 (36 tuổi) tại Làng Mai, pháp danh Silent Call of the Heart, pháp tự Chân Trời Định Thường. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Mimosa. Là đệ tử thứ 1182 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Định Thường thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Định Tín (Trời Định Tín) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Bỉ, sinh năm 1997, thọ giới Sa Di ngày 25 tháng 1 năm 2022 (25 tuổi) tại Làng Mai, pháp danh Flourishing Awakening of the Heart, pháp tự Chân Trời Định Tín. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Mimosa. Là đệ tử thứ 1184 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Định Tín thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Định Túc (Trời Định Túc) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Ý, sinh năm 1988, thọ giới Sa Di ngày 25 tháng 1 năm 2022 (34 tuổi) tại Làng Mai, pháp danh Awakening of the Heart, pháp tự Chân Trời Định Túc. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Mimosa. Là đệ tử thứ 1183 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Định Túc thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đóa Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1980, tập sự xuất gia năm 2005 (25 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 10 tháng 5 năm 2006 tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Bối Từ, pháp tự Chân Đóa Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Hải Đường. Thọ giới lớn năm 2010. Nhận truyền đăng năm 2016 trong đại giới đàn Ân Nghĩa diễn ra tại Tu viện Vườn Ươm với bài kệ truyền đăng:
Thiền tâm nở đóa giới hương
Nghiêm lòng nếp cũ gởi nương thượng thừa
Công phu gầy dựng thuở xưa
Sẵn thuyền Bát nhã đón đưa người về.
Là đệ tử thứ 364 của Thầy Làng Mai, sư cô Đóa Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đoan Hạnh (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1999, thọ giới Sa Di Ni ngày 23 tháng 1 năm 2024 (25 tuổi), pháp danh Nguyên Dũng, pháp tự Chân Đoan Hạnh. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Bàng, là đệ tử thứ 64 của thế hệ thứ ba Tăng thân xuất sĩ Làng Mai. Sư cô Đoan Hạnh thuộc thế hệ thứ 44 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 10 của phái Liễu Quán.

Đoan Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Anh, sinh năm 1962, tập sự xuất gia năm 1989 (27 tuổi), thọ giới Sa Di Ni tháng 08 năm 1990 tại chùa Cam Lộ – Làng Mai, pháp danh Tâm Hy Hữu, pháp tự Chân Đoan Nghiêm. Thọ giới lớn năm 1994 trong đại giới đàn Hương Tích. Nhận truyền đăng năm 1996 trong đại giới đàn Nến Ngọc với bài kệ truyền đăng:
Chân giác vun trồng miền tuệ uyển
Đoan Nghiêm thuyền cập bến thong dong
Công phu nở đóa sen ngàn cánh
Quê cũ vui chơi thỏa nguyện lòng.
Là đệ tử thứ 6 của Thầy Làng Mai, sư cô Đoan Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đoàn Tụ
1. (lễ lược) Tên một đại giới đàn diễn ra từ ngày 8 đến ngày 15 tháng 11 năm 2004 tại Làng Mai trong khóa An Cư Kiết Đông 2004-2005
2. (Trăng Đoàn Tụ) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1956, thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 7 năm 2011 (55 tuổi), pháp tự Chân Trăng Đoàn Tụ. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trúc Tím. Thọ giới lớn ngày 24 tháng 5 năm 2014 trong đại giới đàn Cam Lộ Vị. Sư cô là mẹ của sư cô Doãn Nghiêm. Là đệ tử thứ 716 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Đoàn Tụ thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không sinh hoạt trong tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Độ Lượng (Trời Độ Lượng) (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1978, thọ giới Sa Di ngày 27 tháng 5 năm 2010 (32 tuổi), pháp danh Tâm Chân Lạc, pháp tự Chân Trời Độ Lượng. Thầy thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Xanh. Thọ giới lớn ngày 25 tháng 05 năm 2014 trong đại giới đàn Cam Lộ Vị tại Tu viện Vườn Ươm. Nhận truyền đăng năm 2020 với bài kệ truyền đăng:
Cảm ân thế độ tròn sau trước
Lượng cả từ dung vẹn nghĩa tình 
Dựa lưng gốc đại rừng Yên Tử 
Sơ tâm sống dậy khí hùng linh.
Là đệ tử thứ 671 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Độ Lượng thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Độ Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Nga, thọ giới Sa Di Ni ngày 4 tháng 12 năm 1999 tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp tự Chân Độ Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Anh Đào. Là đệ tử thứ 92 của Thầy Làng Mai, sư cô Độ Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đội luân phiên (thuật ngữ) Tại mỗi xóm của Làng Mai, các vị xuất sĩ và cư sĩ thường trú được chia đều thành các đội luân phiên để giúp làm những công việc trực nhật như nấu ăn, dọn dẹp, rửa nồi, thỉnh chuông, chấp tác. Tùy thuộc vào số lượng các vị thường trú mà mỗi xóm tổ chức số lượng đội luân phiên cũng như công việc cho từng luân phiên. Càng nhiều đội thì vòng luân phiên càng dài. Tiếng Anh là rotation team.

Đôi mắt Của Bụt (khóa tu) Tên một khóa tu 21 ngày được tổ chức tại Làng Mai tháng 6 năm 2000. Tiếng Anh là The Eyes of Buddha.

Đối Thoại-Cánh Cửa Hòa Bình (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai in chui tại Việt Nam năm 1967.

Đồi Mận (cơ sở) Một cư xá thuộc Xóm Hạ.

Đôn Hạnh (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Tây Ban Nha, sinh năm 1981, thọ giới Sa Di Ni ngày 5 tháng 11 năm 2023 (42 tuổi), pháp danh Paix Intérieure de la Source, pháp tự Chân Đôn Hạnh. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Hoa Thủy Tiên, là đệ tử thứ 34 của thế hệ thứ ba Tăng thân xuất sĩ Làng Mai. Sư cô Đôn Hạnh thuộc thế hệ thứ 44 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 10 của phái Liễu Quán.

Đôn Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1992, tập sự xuất gia năm 2008 (16 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 20 tháng 09 năm 2008 tại Chùa Từ Hiếu, pháp danh Tâm Liên Hương, pháp tự Chân Đôn Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Trắng. Thọ giới lớn năm 2012 trong đại giới đàn Tình Huynh Đệ. Nhận truyền đăng trong đại giới đàn Bây Giờ ở Đây năm 2019 tại Làng Mai Pháp với bài kề truyền đăng:
Xuất gia tuổi nhỏ
Tâm tánh thuần đôn
Trang nghiêm trú xứ
Gìn giữ tông môn.
Là đệ tử thứ 588 của Thầy Làng Mai, sư cô Đôn Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đông Hải (Trăng Đông Hải) (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Trung Quốc, thọ giới Sa Di Ni ngày 30 tháng 1 năm 2012, pháp tự Chân Trăng Đông Hải. Thọ giới lớn ngày 23 tháng 3 năm 2016 trong đại giới đàn Ân Nghĩa. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Cúc Đại Đóa. Nhận truyền đăng năm 2023 trong Đại giới đàn Trừng Quang tổ chức tại Làng Mai Thái Lan với bài kệ truyền đăng:
Trăng toả sáng bầu trời Đông Hải
Biển trần gian phản ánh não phiền
Đem tay tế độ bao người khổ
Sóng bước bên Ngài Quán Thế Âm.
Là đệ tử thứ 731 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Đông Hải thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đông hùng tráng, xuân kiện hành (thuật ngữ) Tên của khóa An Cư Kiết Đông từ ngày 4.1.2004 đến 28.3.2004 tại tu viện Lộc Uyển, Escondido, tiểu bang California, Hoa Kỳ, có 238 vị xuất gia tham dự. Các vị xuất gia tại đạo tràng Mai Thôn và tu viện Rừng Phong đều quy tụ về đây để dự khóa an cư. Đại giới đàn Lâm Tế đã được tổ chức trong khóa an cư này.

Đông Phương Luận Lý Học (sách) Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Hương Quê, Sài Gòn ấn hành năm 1950, họa sĩ Lê Văn Vinh trình bày bìa. Sách trình bày một môn luân lý học Phật giáo là Nhân Minh Học.

Đồng Châu (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp với bài kệ truyền đăng như sau:
Chuông sớm ngân nga tiếng đại Đồng
Giọt vàng Châu báu điểm thinh không
Non cao sương tuyết lòng an định
Đường về Phương Bối bước thong dong.

Đồng Đạo (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế với bài kệ truyền đăng như sau:
Đồng bang đồng Đạo lại đồng tâm
Ngàn miệng muôn lời xướng Phạm âm
Đường vui sương tuyết không ngần ngại
Trái đất cùng ca khúc đại đồng.

Đồng Đoan (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ thực tập theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1977, thọ giới Sa Di Ni ngày 27 tháng 10 năm 1999 (22 tuổi), thọ giới lớn ngày 23 tháng 10 năm 2005. Nhận truyền đăng năm 2013 với bài kệ truyền đăng:
Hướng theo chân nghĩa đại Đồng
Đoan trang gót ngọc, sen hồng nở hoa
Tăng thân muôn dặm một nhà
Nắm tay hợp xướng khúc ca chân thường.

Đồng Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2005 (17 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 8 năm 2005 tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Nhật Thanh, pháp tự Chân Đồng Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Hướng Dương. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 01 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Nhận truyền đăng ngày 29 tháng 4 năm 2013 tại Tu viện Vườn Ươm với bài kệ:
Hài hòa hai chữ đồng tâm
Nghiêm trì tịnh giới, pháp thân rạng ngời
Con đường tịnh lạc thảnh thơi
Đất lành chim đậu, một trời vô ưu.
Là đệ tử thứ 304 của Thầy Làng Mai, sư cô Đồng Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đồng Phúc (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ với bài kệ truyền đăng như sau:
Bên nhau hát khúc Đồng tâm.
Chồi non lộc mới Phúc phần tổ tiên.
Đồi xuân nắng gọi chân truyền.
Một nhà xum họp Tịnh Thiền không hai.

Đồng Thời Tương Ứng (thuật ngữ) Chủ đề của khóa An Cư Kiết Đông diễn ra từ ngày 14.11. 2007 đến ngày 15.2.2008 tại Đạo Tràng Mai Thôn. Xem thêm Sư Tử Vàng.

Đồng Trí (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1983, xuất gia thọ giới Sa Di ngày 15 tháng 07 năm 1997 tại chùa Thiền Lâm, Ninh Thuận, Việt Nam năm 14 tuổi, Pháp danh Đồng Trí, Pháp tự Thích Thông Huyền. Thọ giới Lớn ngày 04 tháng 12 năm 2006 trong đại giới đàn Thiện Hoà tại Đại Tùng Lâm, Bà Rịa, Vũng Tàu. Thầy đến Làng Mai năm 2014, nhận truyền đăng tại Làng Mai năm 2019 trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây với bài kệ truyền đăng:
Trăng núi ngàn năm một chữ đồng
Cam lồ ươm trí nhuận non sông
Viên thông trong cõi huyền hoa tạng
Mỗi bước thêm ngời nếp tổ tông.
Hiện đang sinh hoạt với tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đồng Trung (tên gọi) Một vị xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai, Người Việt Nam, xuất gia năm 1996 tại Việt Nam. Đến Làng Mai từ năm 2005. Thầy Đồng Trung thuộc thế hệ thứ 43 tông Lâm Tế và thế hệ thứ 10 phái Chúc Thánh.

Đồng Từ (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1967, xuất gia năm 1997 tại Việt Nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2009 trong đại giới đàn Mùa Sen Mới với bài kệ truyền đăng như sau:
Huynh đệ xưa nay một thể đồng
Đem tâm từ ái dựng tăng thân
Công phu đền đáp ơn sâu nặng
Cành mai nở sáng giữa đêm Đông.
Đến Làng Mai từ năm 2005. Thầy Đồng Từ thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 10 của phái Chúc Thánh.

Động tác chánh niệm (thuật ngữ) xem Mười động tác chánh niệm

Đời Của Phật (sách) Một cuốn sách về cuộc đời đức Phật của Thầy Làng Mai do Phật Học Đường Nam Việt xuất bản năm 1958.

Đời Sống Tâm Linh (sách) Một cuốn sách trích đăng các bài viết của Thầy Làng Mai từ Lá Thư Làng Mai số 27, in tại Việt Nam năm 2003.

Đức An (Trời Đức An) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Pháp, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2016 (28 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016, pháp danh Heureux Rivage du Coeur, pháp tự Chân Trời Đức An, thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Là đệ tử thứ 981 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Đức An thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đức Bản (Trời Đức Bản) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Nhật Bản, sinh năm 1985, tập sự xuất gia năm 2016 (31 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016, pháp danh True Transmission of the Heart, pháp tự Chân Trời Đức Bản, thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 979 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đức Bản thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đức Dũng (Trời Đức Dũng) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hà Lan, sinh năm 1989, tập sự xuất gia năm 2016 (27 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016 tại Làng Mai Pháp, pháp danh Clear Sky of the Heart, pháp tự Chân Trời Đức Dũng, trong gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Là đệ tử thứ 982 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Đức Dũng thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đức Định (Trời Đức Định) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai, người Pháp. Sinh năm 1984, tập sự xuất gia năm 2016 (32 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016 tại Làng Mai Pháp, pháp danh Merveilleux Sourire Du Coeur, pháp tự Chân Trời Đức Định, trong gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 977 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đức Định thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đức Hành (Trời Đức Hành) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Canada, sinh năm 1967, tập sự xuất gia năm 2016 (49 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016 tại Làng Mai Pháp, pháp danh Practicing Joy of the Heart, pháp tự Chân Trời Đức Hành, trong gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Là đệ tử thứ 969 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Đức Hành thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đức Hạnh (Trăng Đức Hạnh) (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1994, tập sự xuất gia năm 2018 (24 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 16 tháng 6 năm 2019 tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Đức Dung, pháp tự Chân Trăng Đức Hạnh. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Nguyệt Quế. Thọ giới lớn ngày 12 tháng 2 năm 2023 trong đại giới đàn Trừng Quang. Là đệ tử thứ 1112 của Thầy Làng Mai, sư cô Trăng Đức Hạnh thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đức Hiền (Trời Đức Hiền) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Pháp, sinh năm 1964, tập sự xuất gia năm 2016 (52 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016, pháp danh Ecoute Compatissante du Coeur, pháp tự Chân Trời Đức Hiền, thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 971 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đức Hiền thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

dav

Đức Khiêm (Trời Đức Khiêm) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người gốc Việt Nam, quốc tịch Hoa Kỳ, tập sự xuất gia năm 2016, thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016, pháp danh Awakened Aspiration of the Heart, pháp tự Chân Trời Đức Khiêm, thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1001 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đức Khiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đức Nghi (tên gọi) Thượng tọa Đức Nghi. Viện chủ tu viện Bát Nhã. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp với bài kệ truyền đăng như sau:
Kiếp kiếp trau dồi giới Đức
Đời đời nghiêm hộ uy Nghi
Khơi mở dòng thiêng cam lộ
Hậu lai diệu pháp vĩnh kỳ.

Đức Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Anh, sinh năm 1949. Xuất gia và thọ giới lớn ngày 15 tháng 11 năm 1988 (39 tuổi) tại núi Linh Thứu, Ấn Độ, pháp danh Tâm An, pháp tự Chân Đức Nghiêm. Thường gọi là sư cô Chân Đức hay sư cô Annabel. Nhận truyền đăng năm 1990 với bài kệ truyền đăng:
Chân như vằng vặc ánh trăng rằm
Đức độ cao dày nối tổ đăng
Chuyển hóa công phu trình thật tướng
Pháp mầu liên tục mãi tuyên dương.
Sư cô được Thầy Làng Mai tấn phong trụ trì Tu Viện Thanh Sơn năm 1998. Là đệ tử thứ 3 của Thầy Làng Mai, sư cô Chân Đức thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đức Nguyên (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, xuất gia năm 1992 tại Việt Nam. Thọ giới lớn năm 1998. Đến Làng Mai từ năm 2005. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2007 trong đại giới đàn Phương Bối với bài kệ truyền đăng như sau:
Nhật dụng hành trì nuôi thật Đức
Công phu thiền quán lộ chân Nguyên
Cơ duyên hóa độ trong gang tấc
Mỗi bước chân đi mãn thệ nguyền.
Hiện đang sinh hoạt với tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đức Niệm (tên gọi)
1. Một vị giáo thọ xuất gia nam, được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1996 trong đại giới đàn Nến Ngọc với bài kệ truyền đăng như sau:
Đức sáng nằm ngay trong đất tâm.
Niệm lành vun tưới đã lên mầm.
Bồ đề cây ấy sum xuê lắm.
Một sáng trần gian dậy tiếng tăm.

2. (Trời Đức Niệm) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Đức, sinh năm 1984, tập sự xuất gia năm 2016 (32 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016, pháp danh Perfect Realisation of the Heart, pháp tự Chân Trời Đức Niệm, thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 976 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đức Niệm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đức Phổ (Trời Đức Phổ) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Hà Lan, sinh năm 1985, tập sự xuất gia năm 2016 (31 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016, pháp danh Compassionate Awakening of the Heart, pháp tự Chân Trời Đức Phổ, thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 978 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đức Phổ thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đức Phương (tên gọi) Vị Hòa thượng trụ trì Diệu Đế Quốc Tự, Huế, nơi diễn ra Đại Trai Đàn Chẩn Tế Bình Đẳng Giải Oan từ ngày 2 – 4 tháng 4 năm 2007.

Đức Sơn (Trời Đức Sơn) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1986, thọ giới Sa Di ngày 15 tháng 12 năm 2019 (33 tuổi), pháp danh Tâm Sáng Tỏ, pháp tự Chân Trời Đức Sơn, thuộc gia đình xuất gia Cây Ngọc Am. Là đệ tử thứ 1138 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Đức Sơn thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đức Tạng (tên gọi) Một vị xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Canada, sinh năm 1988, tập sự xuất gia năm 2002 (14 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 26 tháng 3 năm 2004 (16 tuổi) tại tu viện Lộc Uyển, pháp danh Trung Lý, pháp tự Đức Tạng. Thọ giới lớn ngày 5 tháng 1 năm 2008 tại Làng Mai trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Nhận truyền đăng ngày 25 tháng 2 năm 2017 trong khoá tu xuất sĩ “Together we are one” tổ chức tại Đạo tràng Mai Thôn với bài kệ:
Giới đức vun bồi vô tận tạng
Ngàn năm thơm mãi vẫn còn vương
Mỗi phút chân trâu là vô giá
Chỉ quán trong tay mọi nẻo đường.
Là đệ tử của Thầy Pháp Hòa, gốc tu viện Trúc Lâm – Canada. Đến Làng Mai từ năm 2006. Thầy thuộc thế hệ 43 tông Lâm Tế chánh tông.

Đức Thành (tên gọi) Một vị xuất gia nam tu học tại Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Canada, xuất gia năm 2000 tại Việt Nam, pháp danh Tâm Minh Tuệ, pháp tự Đức Thành. Thầy là ba của thầy Pháp Hữu. Tới Làng Mai từ năm 1992.

Đức Trí (Trời Đức Trí) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Mexico, sinh năm 1985, tập sự xuất gia năm 2016 (31 tuổi), thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016, pháp danh Gentle Liberation of the Heart, pháp tự Chân Trời Đức Trí, thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 980 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đức Trí thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đức Trú (Trời Đức Trú) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Úc, sinh năm 1996, tập sự xuất gia năm 2016, thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016 (20 tuổi), pháp danh All Embracing Wisdom of the Heart, pháp tự Chân Trời Đức Trú, thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1002 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đức Trú thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đức Tuệ (Trời Đức Tuệ) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 2000, thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016 (16 tuổi), pháp danh Tâm Quảng Giác Từ, pháp tự Chân Trời Đức Tuệ, thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1016 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đức Tuệ thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đuốc Thiêng (Trời Đuốc Thiêng) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 2002, thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2017 (15 tuổi) tại Tu viện Vườn Ươm, pháp danh Tâm Tánh Đăng, pháp tự Chân Trời Đuốc Thiêng. Sư chú thuộc gia đình xuất gia Cây Bạch Dương. Là đệ tử thứ 1050 của Thầy Làng Mai, sư chú Trời Đuốc Thiêng thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Hiện không còn thuộc tăng thân xuất sĩ Làng Mai.

Đuốc Tuệ (Trời Đuốc Tuệ) (tên gọi) Một vị xuất gia nam của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 2000, thọ giới Sa Di ngày 14 tháng 12 năm 2016 (16 tuổi), pháp danh Tâm Quảng Nhân, pháp tự Chân Trời Đuốc Tuệ, thuộc gia đình xuất gia Cây Mai Vàng. Thọ giới lớn ngày 2 tháng 10 năm 2021 trong đại giới đàn Qua Bờ tổ chức tại tu viện Lộc Uyển. Là đệ tử thứ 1014 của Thầy Làng Mai, thầy Trời Đuốc Tuệ thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đừng bỏ gốc rễ (phát biểu) Ngày 30 tháng 04 năm 2007 nhân dịp Thầy và phái đoàn Làng Mai viếng thăm nhà thờ Phát Diệm ở Ninh Bình, Thầy Làng Mai đã có lời phát biểu sau đây về vấn đề gốc rễ, và sau đó là lời đáp của Linh Mục Phạm Ngọc Khuê.

Thầy Làng Mai: “Kính thưa các bạn, tôi đã từng có dịp đọc Phúc Âm với con mắt của một thiền sư. Chúng tôi đã từng có giao lưu với các linh mục và các vị mục sư. Chúng tôi đã từng sinh hoạt chung, những sinh hoạt này không phải chỉ là trao đổi ý kiến và kinh nghiệm mà còn là sống chung và tu tập chung. Chúng tôi xin phát biểu trên cơ bản đó. Chúng tôi cũng đã tham dự nhiều buổi họp, nhiều hội nghị đối thoại giữa đạo Phật, đạo Ki Tô và những đạo khác. Tôi nhớ ngày xưa có một thiền sư Việt Nam đã đọc kinh Dịch và đã trình bày kinh Dịch theo cái nhìn của một thiền sư. Ngày xưa tôi đã hứa với một số các bạn trẻ là sẽ trình bày Phúc Âm qua cái nhìn của thiền quán và may mắn là tôi đã làm được việc đó. Trong thời gian 40 năm ở nước ngoài, chúng tôi đã từng ngồi thiền với các vị linh mục và các vị mục sư. Chúng tôi đã cùng hoạt động cho hòa bình, và trong khi hoạt động cho hòa bình chúng tôi có cơ hội chia sẻ với nhau những tuệ giác của chúng tôi về truyền thống mình. Trong quá trình giao lưu, tôi có viết được những tác phẩm có tính cách đối thoại giữa những người theo Phật giáo và những người theo Ki Tô giáo. Cuốn sách đầu tiên mà chúng tôi xuất bản về đề tài này là “Living Buddha, Living Christ”. Bản Hoa Ngữ mang tên là “Sinh Sinh Ki Tô, Thế Thế Phật” dịch ra tiếng Việt là: “Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời”, nghĩa là “Bụt Bất Tử, Chúa Bất Tử.” Cuốn sách đó là kết quả của một khóa tu mà chúng tôi tổ chức tại Đức, trong đó có 50% là Phật tử và 50% là tín hữu Ki Tô giáo. Chúng tôi đã gom lại những bài thuyết giảng và làm thành cuốn sách Living Buddha, Living Christ. Cuốn sách này đã đi rất xa, đã đi vào các tu viện kín và chúng tôi cũng đã nhận được rất nhiều thư của các Cha và các Sơ từ các tu viện kín. Cuốn sách đó giúp cho người Phật Tử hiểu thêm đạo Ki Tô và giúp người Ki Tô hiểu thêm về đạo Phật. Công đức của sách này rất lớn. Ban đầu người ta đọc chỉ vì tò mò thôi, nhưng nhờ sự tò mò đó mà có cơ hội hiểu được một nền đạo đức mà lâu nay mình chỉ có một ý niệm mơ hồ. Sau cuốn Living Buddha, Living Christ thì chúng tôi có cuốn Going Home, Buddha and Jesus as Brother. (Chúng ta hãy về nhà đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em). Sách này cũng được đón nhận một cách rất nồng nhiệt ở trong giới độc giả Tây Phương, Phật Tử cũng như Cơ Đốc giáo. Ở Mai Thôn Đạo Tràng tại Pháp, mỗi năm đến ngày giáng sinh, chúng tôi luôn luôn tổ chức lễ Giáng Sinh rất long trọng, tại vì đa số các thiền sinh đều có nguồn gốc Ki Tô giáo. Ngày giáng sinh rất nhiều thiền sinh Tây phương về Đạo Tràng Mai Thôn như con cháu về nhà tổ phụ. Vì vậy vào đêm Giáng Sinh tôi luôn luôn giảng một bài về Phật và về Chúa. Tôi nhớ có một linh mục tên là Thomas Kwan người Hồng Kông đã được nghe một bài như vậy và vị linh mục này thấy rất tiếc, vì hôm đó chỉ có 600 người được nghe. Linh mục nói: “Tất cả các tín hữu Cơ Đốc giáo trên thế giới phải được nghe bài này. Để có thể thấy rõ Chúa và con đường của mình hơn”. Tôi đã sưu tập được 10 bài giảng Giáng Sinh như thế, làm được cuốn sách thứ hai gọi là “Chúng ta hãy về nhà đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em”. Rất tiếc là hai cuốn nói trên chưa được dịch ra tiếng Việt. Những người đến với chúng tôi trong các khóa tu tại Mỹ Châu và Âu Châu, đại đa số là những người tín đồ Công giáo, Tin Lành và Do Thái giáo. Chúng tôi khuyên họ không nên bỏ đạo gốc của mình. Chúng tôi biết do kinh nghiệm khi một con người mất gốc thì người đó không bao giờ có hạnh phúc thật sự được. Vì vậy khi họ tới thực tập theo pháp môn của đạo Phật chúng tôi yêu cầu họ đừng bỏ gốc rễ của họ và khuyên họ sau khi tu tập thành công rồi, khi đã chuyển hóa được những bức xúc, khó khăn và giận hờn rồi thì hãy về với truyền thống của mình và hãy giúp truyền thống mình làm mới lại. Thanh niên bây giờ thấy được là giáo đường, nhà thờ chưa cung cấp được những giáo lý và những thực tập có thể đáp ứng được những khổ đau, những bức xúc của họ. Vì vậy không chỉ đạo Phật phải làm mới mà đạo Ki Tô cũng phải làm mới thì mới đáp ứng được những nhu yếu của người trẻ hôm nay. Giới trẻ hôm nay bỏ nhà thờ mà đi rất đông. Điều tôi nói cũng rất trung thực với giáo lý của Phật tại vì Phật giáo luôn luôn có thái độ rất cởi mở, phá chấp. Mình không nên bám víu một giáo điều cho đó là chân lý tuyệt đối và để rồi xem các giáo lý khác là tà đạo. Vì vậy thái độ của người Phật Tử là giang tay ra ôm lấy tất cả mọi người. Tình yêu trong đạo Phật là “Từ, Bi, Hỷ, Xả.” Xả có nghĩa là inclusiveness, không loại trừ bất cứ người nào ra khỏi tình thương của mình, dù người đó không phải là đồng bào của mình, không phải theo tôn giáo của mình. Tiếng pháp dịch là équanimité. Tôi quyết hành động theo tinh thần này tại vì hồi xưa các giáo sĩ tới Việt Nam truyền đạo đã bắt người Việt mình phải bỏ đi tôn giáo gốc của mình và điều đó đã gây đau khổ kkhông ít. Những người có gốc gác Cơ Đốc giáo tới tu tập với chúng tôi rất hạnh phúc vì họ có cảm tưởng là họ được công nhận 100%, họ không cần phải từ bỏ niềm tin của họ, gốc gác văn hóa của họ. Sau một thời gian thực tập, họ có thể thấy, khám phá ra được những châu báu trong truyền thống của họ mà trước đây họ chưa thấy. Nhờ tiếp xúc với đạo Phật mà họ trở về và khám phá ra những châu báu trong các gia sản tâm linh ở Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo. Điều đó làm chúng tôi rất vui mừng. Chúng tôi thường hay nói với các bạn Cơ Đốc giáo là cõi Tịnh Độ hay cõi Niết Bàn có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta có trái tim tinh khiết, trái tim có năng lượng của niệm, định và tuệ, nếu chúng ta có mặt đích thực trong giây phút hiện tại thì chúng ta có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của thế giới Cực Lạc, của Tịnh Độ có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Chúng ta không cần phải chết đi mới sinh về Tịnh Độ, mà có thể đi vào trong Tịnh Độ bằng mỗi bước chân, ngay bây giờ và ở đây. Giáo lý ấy được thực tập tại Mai Thôn Đạo Tràng, và chúng tôi cũng đã chia sẻ cho các bạn Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo. Chúng tôi nói rằng các bạn không cần phải chết đi mới đi về nước Chúa. Nếu các bạn có tình thương, có ý thức sáng tỏ, có tâm rộng mở thì mỗi hơi thở và mỗi bước chân có thể đưa các bạn vào nước Chúa trong giây phút hiện tại. Thiên Quốc có mặt trong giây phút hiện tại. Trong đạo Phật các vị tổ có nói rằng Tịnh độ và Phật nằm trong trái tim của mình. Phúc Âm cũng nói như thế, Thiên Quốc nằm trong trái tim của mình và vì vậy mình đi tìm thiên quốc hay tịnh độ nơi khác và thời khác thì có thể sai. Khoa học lượng tử bây giờ bắt đầu dùng danh từ phi cục bộ, tiếng Anh là “non-local”. Cái thực tại lượng tử là phi cục bộ, chúng ta không thể nào xác định vị trí của một lượng tử trong thời gian hoặc không gian. Bản chất của lượng tử là phi cục bộ. Chúng tôi nghĩ rằng ngôn ngữ ấy chúng ta có thể áp dụng cho Phật Độ và cho Thiên Quốc. Thượng Đế hay Thiên Quốc là những thực tại phi cục bộ, chúng ta không thể xác định vị trí của nó trong không gian và thời gian, tại vì nó nằm trong trái tim của mình. Khi trái tim của mình đã sẵn sàng rồi thì là mình đang ở trong Thiên Quốc, đang ở với Thượng Đế, không cần phải trông chờ điều đó trong tương lai. Chúng ta tu như thế nào, thực tập như thế nào để Thiên Quốc có mặt trong giây phút hiện tại. Chúng ta tu như thế nào, thực tập thế nào để tịnh độ có mặt trong giây phút hiện tại. Và hạnh phúc không cần chờ đến tương lai. Hiện pháp lạc trú là một giáo lý Phật giáo. Nhà văn André Gide có nói một câu làm tôi rất thích. Ông nói Thượng Đế tức là hạnh phúc (Dieu est bonheur). Và ông nói thêm một câu nữa: “Thượng Đế có mặt cho chúng ta 24 giờ một ngày …”. Những câu nói đó rất phù hợp với giáo lý đạo Phật. Nếu chúng ta đi sâu vào Phúc Âm, chúng ta cũng thấy chân lý đó, nghĩa là nếu chúng ta đem tâm trở về với thân mà nhận diện được tất cả những cái mầu nhiệm đang có mặt trong ta và xung quanh ta thì lúc đó ta đang ở trong Thiên Quốc và ta đang tiếp xúc sâu sắc với Thượng Đế. Nếu nhà thờ và nhà chùa có thể cung cấp được những giáo lý đó và đưa ra những phương pháp thực tập để con người có thể sống an lạc và hạnh phúc trong giây phút hiện tại thì người ta sẽ không cần đi tìm hạnh phúc ở sắc dục, tiền tài và danh vọng. Trong Phúc Âm có câu chuyện một bác nông phu khám phá ra được một kho tàng chôn giấu ở trong một đám ruộng và sau đó đi về và bán đi những khu ruộng khác để chỉ mua một đám ruộng đó. Khi chúng ta đã tu và tiếp xúc được với nước Chúa và Chúa rồi thì chúng ta đâu cần những cái khác nữa, chúng ta đâu cần danh, không cần lợi, không cần sắc dục, không cần quyền lực, vì chúng ta đã hạnh phúc chán. Vì vậy cái giáo lý nào và sự thực tập nào giúp cho ta tiếp xúc được với Thiên Chúa trong giây phút hiện tại thì đó là kho tàng châu báu của chúng ta. Hạnh phúc ấy chúng ta có thể đạt được trong giây phút hiện tại, không cần phải chết đi mới có. Nói chuyện với các bạn Do Thái giáo và Ki Tô giáo chúng tôi cũng chia sẻ cách thực tập, mỗi hơi thở mỗi bước chân của mình có thể đưa mình vào Thiên Quốc mà đừng trông chờ Thiên Quốc ở tương lai. Tôi nhớ có một lần thăm viếng Đại Hàn tôi được tham dự vào một buổi giao lưu giữa người Ki Tô giáo và người Phật tử: đó là lần đầu tiên mà người Phật tử và người Cơ Đốc giáo tới với nhau. Tôi có đưa ra vấn đề có những thanh niên thiếu nữ khác tôn giáo yêu nhau. Bên này bắt bên kia phải bỏ đạo, phải chọn lựa. Đó là một vấn đề còn tồn tại ở nhiều nước và ngay trong nước Việt Nam chúng ta. Và biết bao nhiêu cặp thanh niên thiếu nữ đã đau khổ tại vì thế. Tôi nghĩ rằng một người có thể rất hạnh phúc khi có hai gốc rễ, một gốc rễ Cơ Đốc giáo và một gốc rễ Phật giáo. Hai cái đó không nhất thiết phải loại trừ nhau. Tại vì mình hẹp hòi cho nên mình mới thấy hai cái khác nhau chống đối nhau. Nhưng nếu mình vượt lên, thấy được hai truyền thống có thể bổ túc cho nhau thì mình sẽ có một thái độ cởi mở hơn. Trong số các đệ tử của tôi có rất nhiều các thầy các sư cô có gốc Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo, nhưng họ hạnh phúc vô cùng khi được tu tập và ôm ấp luôn cả hai truyền thống. Ngay trong phái đoàn của chúng tôi có mặt hôm nay có một vị đại đức ngày xưa đã từng làm linh mục. Vị linh mục đó tới với đạo Phật và khám phá ra những phương pháp thực tập rất thiết thực có thể thực hiện được lý tưởng của Cơ Đốc giáo. Chúng ta thấy có hai gốc rễ đôi khi lại hay hơn có một gốc rễ và vì vậy ngay trong đại hội đó tôi đã đề nghị khi hai thanh niên yêu nhau, một người thuộc về Cơ Đốc giáo, một người thuộc về Phật giáo thì cả hai gia đình nên cho họ cưới nhau với điều kiện hai bên công nhận truyền thống của người bên kia và nếu người con trai là Cơ Đốc giáo và người con gái là Phật giáo thì người con gái phải học thêm Cơ Đốc giáo và người con trai phải học thêm Phật giáo. Và đến ngày chủ nhật thì hai người cùng đi nhà thờ, đến ngày mồng một và ngày rằm thì hai người cùng đi Chùa. Và điều đó là điều chúng tôi đã thực hiện được ở Tây phương. Tại sao chúng ta phải để cho các bạn trẻ tiếp tục đau khổ năm này qua năm khác? Và đó là tinh thần cởi mở mà chúng tôi đã thấy được rõ ràng khi đọc kinh Phật và kinh Thánh. Hôm nay tôi xin nói ra vài cái thấy của tôi cũng như một món quà hiến tặng quý vị có mặt ở đây”. Sư cô Chân Không hỏi: Như Thầy Làng Mai đề nghị tức là khi một người Công giáo và một người Phật giáo thương yêu nhau thì người Phật tử nên học hỏi những gì tinh ba nơi Công giáo và gia đình phải đi nhà thờ vào những ngày chủ nhật và đi chùa vào mồng một và ngày rằm. Con xin hỏi là quý vị linh mục có chấp nhận được như vậy không? Hay là người Phật tử chỉ phải theo đạo của người chồng, phải làm lễ rửa tội và phải từ bỏ đạo Phật? Con xin hướng câu hỏi này về cho các vị tôn đức bên phía Công giáo. Cha Phạm Ngọc Khuê trả lời: “Đây là một câu hỏi có thể nói là thật sự rất tế nhị và rất thời sự. Trước hết tôi xin được nêu lên nguyên tắc về giáo luật và kinh thánh. Thiên chúa không bao giờ ngăn cản con người tự nguyện, nhất là trong việc hôn nhân gia đình thì không có bao giờ ngăn cản hai người thương yêu nhau. Giáo hội không bao giờ chặn ngăn hai người nam nữ yêu thương và tiến tới hôn nhân với nhau, điều đó là chắc chắn thuộc về giáo luật, không ai có quyền ngăn cản tình yêu của họ, vì đó là tuyệt đối. Nhưng tại sao lại giữa nam nữ tín đồ các tôn giáo khác nhau lại xảy ra những vấn đề mà người ta chưa đi đến chỗ kết hôn với nhau thì do đâu? Trong thực hành việc phục phụ hôn phối, đối với anh em trong Công giáo chúng tôi, đối với danh Chúa, đối với người tín đồ Công giáo cũng như giáo hội thì chúng tôi không bao giờ đặt vấn đề là phải trở thành người Công giáo thì mới có thể cưới (nhau) về phía Công giáo của mình (trở thành vợ chồng). Không bao giờ có vấn đề đó, chúng tôi luôn luôn tôn trọng tình yêu của họ. Và tôi nói với người nam hoặc người nữ là tình yêu của các anh chị là tình yêu tuyệt đối và chúng tôi tôn trọng. Tuy nhiên khi hai người quyết định yêu thương nhau thì đức tin của người tín đồ Ki Tô giáo cũng như Phật giáo phải được tôn trọng bởi sự tự do của họ. Cũng như Thầy Thích Nhất Hạnh đã nói là họ phải sống cội rễ của họ thì họ mới thấy hạnh phúc. Và cái việc họ được chịu phép rửa tội là hoàn toàn tự do. Cho nên giáo hội chỉ nói một điều này. Khi tiến tới hôn nhân thì hai người phải hứa là tôn trọng quyền lợi của nhau và niềm tin của mỗi người, và không được vi phạm. Vì vậy về phía tín đồ tôn giáo khác phải cam đoan, có thể nói là tuyên thệ tôn trọng niềm tin vì đó là lãnh vực thiêng liêng và tự do tôn giáo, không ai được can thiệp. Tôn trọng niềm tin của tín đồ thiên chúa giáo, không được ngăn cản. Nếu họ giữ được như thế thì cuộc hôn phối đó được tốt đẹp và thành sự trước mặt Chúa và trước luật pháp. Luật thì như vậy, nhưng trong thực tế thì không luôn luôn được xảy ra như vậy. Hoàn cảnh của Việt Nam thì khác nữa, nghĩa là trong hoàn cảnh rơi rớt của chế độ phong kiến vẫn còn nhiều cho nên quý vị biết rõ là ở Việt Nam người nam có quyền hơn người phụ nữ. Mặc dù họ hứa như vậy, nhưng khi về nhà mà hai vợ chồng không hòa thuận với nhau, cơm không lành, canh không ngọt khi họ sống chung với nhau và nếu như có chiến tranh trong gia đình thì họ đổ lỗi trên đầu tín đồ của mình, hoặc người Ki Tô giáo hoặc người Phật giáo, tôi không nói là về phía này hay phía kia. Nếu người chồng có quyền thì sẽ buộc người vợ không theo tín đồ của mình, theo tôn giáo của mình nữa, và có thể gây khó khăn trong gia đình. Chính vì vậy mà Giáo Hội đặt ra điều kiện là nếu một người tín đồ tôn giáo khác lấy một người Công giáo, rồi sau đó người tín đồ tôn giáo khác đó không giữ lời tuyên thệ trung thành thì người tín hữu Công giáo có thể trình lên thẩm quyền nguồn Thánh, có thể tháo cái hôn phối mà người ta đã cam kết chỉ vì nếu nó đe dọa đến niềm tin tự do của tín đồ thì giáo hội phải bảo vệ con cái của mình. Quý vị phải hiểu đây không phải là bắt buộc phải làm. Các gia đình đó là do truyền thống của gia đình, hoàn cảnh của gia đình muốn con cái của mình giòng sớ, cũng như quý cô, quý ông bà cũng như quý vị muốn cho gia đình mình cùng một chiều cho dễ, để việc đó cho dễ hơn. Về phía giáo hội thì không đứng ra ngăn cản việc hôn nhân của họ. Xin quý vị hiểu rõ là về luật giáo không ép buộc người ta bỏ tôn giáo của mình mà ngược lại là buộc một trong hai người phải tôn trọng tôn giáo của nhau. Phải dành ưu tiên nhất cho người bạn đời theo tôn giáo đó để thực hành niềm tin tôn giáo mà không ngăn cản họ giữ đức tin riêng của họ.

Đừng Quên, Xin Đừng Vội Quên (sách) Một tập sách mỏng của Thầy Làng Mai do Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh Sài Gòn ấn hành năm 1965, gây cảm hứng cho người trẻ tham dự vào hoạt động chấm dứt chiến tranh.

Đương Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1989, tập sự xuất gia năm 2008 (19 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 08 tháng 03 năm 2009 tại Chùa Từ Hiếu, pháp danh Tâm Diệu Thu, pháp tự Chân Đương Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Sen Vàng. Thọ giới lớn ngày 27 tháng 2 năm 2012 tại trong đại giới đàn Tình Huynh Đệ. Nhận truyền đăng trong đại giới đàn Bây Giờ Ở Đây với bài kệ truyền đăng:
Đương niệm làm nên muôn niệm
Tự nghiêm thế giới trang nghiêm
Thông điệp tình thương hợp tấu
Thuyền từ cập bến an nhiên.
Là đệ tử thứ 618 của Thầy Làng Mai, sư cô Đương Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Đường Chánh Niệm (địa danh) tiếng Anh là Mindfulness Road. Tên con đường chạy qua tu viện Bích Nham. Trước đó tên là Đường Khách sạn (Hotel Road), sau khi tu viện Bích Nham thành lập, thành phố đã cho phép đổi tên thành Đường Chánh Niệm.

Đường Hoa Thủy Tiên (sách) Một cuốn sách đăng các bài pháp thoại của Thầy Làng Mai, in tại Việt Nam vào khoảng năm 1991.

Đường Tùng (địa danh) Một con đường xuyên qua cánh rừng tùng im mát, rẽ nhánh từ con đường thiền hành trước mặt cốc Ngồi Yên ở Xóm Thượng dẫn xuống chùa Sơn Hạ. Thầy Làng Mai thường thích đưa thị giả, các đệ tử cũng như khách quý dạo chơi xuống chùa Sơn Hạ qua đường Tùng này.

Đường Về Vườn Nai (sách, cẩm nang tu tập)
1.
Một cuốn sách phiên tả từ băng các bài giảng của Thầy Làng Mai cho khóa tu Gia Đình Phật Tử tại Hoa Kỳ năm 1997, được in tại Việt Nam năm 2003.
2. Một tập sách mỏng (cẩm nang tu tập) chỉ dẫn thiền sinh cách thực tập ở Tu Viện Lộc Uyển, để thời gian cư trú tại Tu Viện đem tới được nhiều niềm vui, trị liệu và chuyển hóa. Tập sách do các thầy và các sư cô giáo thọ ở Tu Viện Lộc Uyển biên soạn, nội dung cũng tương tự như tập sách Để Nuôi Lớn Hạnh Phúc Trong Thời Gian ở Làng Mai. Đoạn đầu giới thiệu vài nét về Tu Viện Lộc Uyển như sau: “Deer Park là tên một thung lũng ẩn mình giữa những sườn đồi phía Tây Bắc thành phố Escondido, thuộc quận San Diego, tiểu bang California, với diện tích 434 mẫu Anh, có cảnh núi đồi hùng vĩ và những rừng cây cho nhiều bóng mát. Cách đây hơn hai ngàn sáu trăm năm, tại vườn Lộc Uyển, xứ Isipatana gần Benares (Ba La Nại), đức Bụt lần đầu tiên chuyển bánh xe pháp khai thị cho năm anh em ông Kiều Trần Như con đường đưa đến giác ngộ và giải thoát. Do một cơ duyên mầu nhiệm, hai ngàn sáu trăm năm sau, bánh xe pháp tiếp tục được luân chuyển tới một vùng đồi núi có cùng tên Lộc Uyển – Deer Park. Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn Tu Viện Lộc Uyển cùng với sự ủng hộ của tứ chúng ở khắp nơi đã xây dựng nên một trung tâm tu học nơi đây. Tu viện đã chính thức được thành lập vào tháng 06 năm 2000. Đây là một sự sắp xếp của chư Tổ và ông bà tổ tiên người Hoa Kỳ cũng như người Việt. Tu viện gồm có hai xóm: Xóm Vững Chãi (Solidity Hamlet) dành cho quý thầy, vùng đất nằm phía trên đỉnh đồi và Xóm Trong Sáng (Clarity Hamlet) dành cho quý sư cô, vùng đất dưới đồi xanh mát. Cơ sở tuy còn đơn sơ, phòng ốc còn thiếu tiện nghi, nhưng với những bàn tay và tấm lòng của quý thầy, quý sư cô và các vị thân hữu trong vùng, và với năng lượng tu tập hàng ngày, tu viện đã trở thành một nơi nương tựa cho tứ chúng về tu học. Với trên 30 vị xuất gia thường trú, tu viện đã thường xuyên tổ chức các khóa tu học hàng năm như khóa An Cư Kiết Đông từ tháng 12 đến cuối tháng 02 dương lịch, khóa Mùa Xuân từ tháng 03 đến tháng 07 dương lịch, trại Hè dành cho các em thanh thiếu niên (Teenage Mindfulness Camp) vào cuối tuần lễ Độc Lập của Mỹ (ngày 04 tháng 07), và khóa Mùa Thu dành cho người Việt vào tuần lễ đầu của tháng 09. Ngoài ra mỗi tuần tu viện còn cung cấp hai ngày quán niệm (Thứ Năm và Chủ Nhật) cho thiền sinh đến nghe pháp thoại, tham dự pháp đàm, thiền tọa, thiền hành, thiền trà và ăn cơm chánh niệm. Về đến Lộc Uyển là về tới nhà, ngôi nhà tâm linh của tất cả mọi người. Vào những buổi sáng sớm leo lên đỉnh núi, ngồi tọa thiền trên những phiến đá bằng phẳng, tiếp xúc với đất trời và không khí trong lành, chúng ta sẽ có cơ hội trở về với chính mình trong giây phút hiện tại. Xin chúc quý thân hữu xa gần về đây có được những ngày tu học thật an lạc và thảnh thơi”.

Đường Xưa Mây Trắng – theo gót chân Bụt (sách, kịch)
1. Một cuốn sách của Thầy Làng Mai do nhà xuất bản Lá Bối, Hoa Kỳ ấn hành lần đầu năm 1988, sau đó được dịch ra nhiều thứ tiếng và được tái bản nhiều lần ở các nước. Cuốn sách về cuộc đời của Bụt và hiện đang được công ty M Corp Global dựng thành phim. Bản dịch tiếng Anh tựa đề Old Path White Cloud; bản dịch tiếng Hoa tựa đề Cổ Đạo Bạch Vân. Sách này dựa trên các kinh và luật của Phật Giáo Nguyên Thỉ trong tạng Pali cũng như trong tạng Hán và mỗi chương đều có ghi xuất xứ của tài liệu sử dụng. Trong tư liệu là Nguyên Thỉ nhưng cái nhìn là cái nhìn phóng khoáng của Đại Thừa, vì thế độc giả của cả Phật giáo Bắc Tông và Nam Tông đều cảm thấy thoải mái khi đọc. Đọc xong về cuộc đời của Bụt thì ta cũng tiếp nhận xong được những giáo lý căn bản nhất của Bụt dạy. Ấn bản tiếng Pháp (Sur les traces de Siddhartha) có in câu ấy ngoài bìa: ‘‘Découvir l’enseignement du Buddha en cheminant à ses côtes.”
2. Tên vở kịch được đoàn kịch Biloxi 48 dàn dựng dựa trên nguyên tác Đường Xưa Mây Trắng – theo gót chân Bụt của Thầy Làng Mai. Kịch bản và đạo diễn: nghệ sỹ Christine Delmotte với sự cộng tác của người bạn đồng nghiệp tài danh giáo sư Paul Edmond. Nghệ sỹ Christine Delmotte đã làm việc miệt mài suốt ba năm để có thể hoàn thành vở kịch – ‘vở kịch nói về đạo Bụt mà cô vẫn từng ao ước được thực hiện’ – và để qua đó trình bày lên sân khấu tất cả cái đẹp về tuệ giác đạo Bụt thể hiện qua con người thái tử Tất Đạt Đa cũng như những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong cuộc đời Bụt như đức vua Tịnh Phạn, hoàng hậu Kiều Đàm Di, công chúa Da Du Đà La, đức vua Bimbisara, các đệ tử ưu tú Xá Lợi Phất, A Nan Đa, Angulimala, … Nhóm nghệ sỹ thực hiện vở kịch là những nghệ sỹ chuyên nghiệp, từng được đào tạo trong những trường kịch nghệ nổi tiếng của Bỉ và đã từng về Làng Mai tu học, trong đó có một phụ nữ Việt Nam là cô Lê Bá Thị Bạch Lan. Vở kịch được công diễn bằng tiếng Pháp trên sân khấu nhà hát lớn của Bruxelles – Theatre de la Place des Martyrs – từ ngày 18 tháng 4 đến ngày 31 tháng 5 năm 2008.