Đi học “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” giữa lòng nước Mỹ

Radiovietnam- Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có những chia sẻ ý nghĩa trong buổi nói chuyện có chủ đề “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” tại Khách sạn Boston Park Plaza (Mỹ) ngày 12/9 vừa qua.

 

Buổi nói chuyện của thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn

 

Làm thế nào để chế ngự được những âu lo, sợ hãi? Bằng cách nào để chuyển hóa được những nỗi khổ, niềm đau? Con đường nào đưa ta đến cuộc sống thảnh thơi, an lạc, ngập tràn hạnh phúc và tình yêu thương? Chỉ có một con đường duy nhất, đó là nghệ thuật chánh niệm, là ý thức hơi thở, là nghệ thuật lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ ái ngữ…

Với thiền sư Thích Nhất Hạnh, đó chính là những phương pháp chánh niệm có công năng trị liệu đặc biệt, mang lại cho chúng ta tuệ giác và tình yêu thương đối với chính bản thân mình và đối với mọi người, mọi loài mà thiền sư đã chia sẻ trong buổi nói chuyện về chủ đề “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” tại Khách sạn Boston Park Plaza (Mỹ) ngày 12 tháng 9 vừa qua…

Ý thức hơi thở – Hạnh phúc hiện ra ngay bây giờ và ở đây.

Buổi nói chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh do trường Đại học danh tiếng hàng đầu nước Mỹ Harvard tổ chức tại tiền sảnh của Khách sạn Boston Park Plaza đã thu hút đông đảo giới mộ điệu nước Mỹ, trong đó, phần lớn là giới trí thức, thượng lưu, doanh nhân, chính trị gia, trong đó, có cả gia đình cố Tổng thống Mỹ John F.Kennedy.

1.200 vé đã bán hết veo trong vòng 3 ngày với giá cao ngất ngưởng: 450 đô-la/vé đã chứng tỏ sức hút đặc biệt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Song điều đó cũng cho thấy phần nào tảng băng chìm trong đời sống tâm linh nước Mỹ.
Dường như người Mỹ cũng đang phải đối diện với những khổ đau, những căng thẳng, âu lo và sợ hãi. Dường như chính họ cũng đang bế tắc trong việc truy tìm bến bờ của hạnh phúc, của an lạc.

Một bác sĩ tâm lý trị liệu tham dự buổi nói chuyện tâm sự với tôi: “Tôi đã tư vấn, trị liệu thành công cho hàng ngàn bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm, u uất, đau khổ. Nhưng chính tôi nhiều lúc cũng bị căng thẳng, lo sợ, hoang mang. Tôi đến đây là để nghe một trong những vị thiền sư danh tiếng nhất thế giới nói về phương pháp chánh niệm để vận dụng trong công việc tâm lý trị liệu. Song trước tiên, tôi muốn trị liệu tâm lý cho chính tôi”.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Thiền sư Thích Nhất Hạnh ngồi an nhiên trong tư thế kiết già trên bục giảng sân khấu. Khuôn mặt thầy bình thản, đôi mắt sáng, tinh anh, giọng thầy nhỏ nhẹ, đều đều như hơi thở. Thầy bắt đầu câu chuyện bằng việc theo dõi hơi thở.

Mọi người ở dưới ồ lên. “Tưởng thiền là điều gì khó khăn ghê gớm chứ theo dõi hơi thở của mình thì đơn giản quá”. Thầy mỉm cười. Cái cười độ lượng, nhân từ. “Ta thở vào và theo sát hơi thở xuống dưới bụng. Trong khi thở, ta nhủ thầm “Con đã về”. Rồi ta theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến cuối trọn vẹn, thỏa mái, đồng thời nhủ thầm “Con đã tới”. Chỉ bằng một động thái đơn giản như thế, tâm ta lập tức sẽ trở về với thân, tiếp xúc với một sự thật màu nhiệm tuyệt vời là ta đang còn sống trong giây phút hiện tại và đây là giây phút hạnh phúc”. Thiền sư Thích Nhất Hạnh gọi đó là hơi thở có ý thức, hơi thở chánh niệm.

Mọi người ở dưới chậm rãi thực hành theo. Thân thể thả lỏng, mắt từ từ nhắm lại. Chậm rãi theo dõi hơi thở. Thở vào: “con đã về”. Thở ra: “con đã tới”. Và ngay lập tức, dường như mọi người đã nhanh chóng thoát ra khỏi những lo toan, ồn áo huyên náo trong đầu, và bước vào một trạng thái thức tỉnh khác lạ. Khuôn mặt ai cũng trở nên thư thái. Có lẽ, họ đã hiểu, thế nào là giây phút hiện tại.

Thiền sư giảng giải: “Chúng ta thường bị mắc kẹt trong những ưu sầu vì nuối tiếc quá khứ và lo lắng, sợ hãi cho tương lai. Chúng ta cho rằng hạnh phúc chưa thể có trong hiện tại và chúng ta cần phải có nhiều điều kiện hơn nữa mới thực sự có hạnh phúc. Đó chính là lý do khiến chúng ta khổ. Theo lời dạy của Đức Thế Tôn, tất cả những gì chúng ta đang cần tìm đều có mặt trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta biết thực tập hơi thở ý thức và định tâm thì chúng ta có thể đi ra khỏi những khổ đau này và chạm tay vào những màu nhiệm của sự sống ngay trong giây phút này. Quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới, chỉ có duy nhất giây phút mà ta có thể thực sự sống. Đó là giây phút hiện tại.

Trong Kinh quán niệm hơi thở, Bụt đã chỉ dạy cho chúng ta những bài tập cụ thể để tạo dựng niềm vui, hạnh phúc, an lạc. Đó là một giáo pháp rất rõ ràng và sâu sắc. Nếu chúng ta biết cách tạo ra năng lượng niệm và định thì chúng ta có thể tiếp xúc với vô vàn hạnh phúc đang có mặt với ta ở đây, ngay bây giờ.

Chẳng hạn như chúng ta tiếp xúc với hai mắt. “Tôi đang thở vào và ý thức về hai mắt của tôi. Tôi đang thở ra và mỉm cười với hai mắt của tôi”. Khi ta thực tập như vậy thì tuệ giác sẽ nảy sinh. Chỉ trong hai, ba giây là ta có thể nhận thấy rằng: đôi mắt của mình vẫn còn sáng. Một thiên đường của màu sắc, hình ảnh đang hiện ra trước mặt. Đối với những người bị khiếm thị, thiên đường ấy, chưa một lần họ nhìn thấy. Vì vậy mà đôi mắt là một trong những điều kiện căn bản để có hạnh phúc. Ta chỉ cần thở vào thể thắp sáng ý thức rằng, mình đang có một đôi mắt sáng.

Buổi nói chuyện đã thu hút đông đảo giới mộ điệu nước Mỹ.


Ta cũng có thể thực tập tiếp xúc với trái tim mình: “Tôi đang thở vào và ý thức về trái tim của tôi. Tôi đang thở ra và tiếp xúc với trái tim của tôi”. Khi chúng ta sử dụng năng lượng chánh niệm, chúng ta sẽ khám phá ra rằng: trái tim mình đang đập bình thường trong khi biết bao người bị hở van tim, rối loạn động mạch vành. Họ có thể bị đột quỵ bất cứ lúc nào. Nếu ta cứ tiếp tục thực tập như vậy thì ta sẽ tiếp xúc được với vô vàn hạnh phúc đang có mặt trong ta, quanh ta. Đó là tập chánh niệm, nghĩa là đem tâm trở về với thân và an trú trong giây phút hiện tại.

Nếu mình hoàn toàn có mặt trong giây phút này, mình có thể nhìn sâu hơn để bước một bước chân ý thức trên hành tinh đẹp đẽ này hay thở vào một hơi để ý thức là ta đang sống trong cõi niết bàn, tịnh độ. Và khi ta ở trong cõi thiên đàng thanh tịnh đó rồi thì ta đâu cần phải mệt nhọc chạy theo những danh tiếng, tiền tài, địa vị hay những dục lạc khác. Bình an, niềm vui, hạnh phúc có thể đạt tới ngay. Và sự thực tập này đủ đơn giản cho tất cả mọi người”.

Không có bùn, không có sen và nghệ thuật chuyển hóa khổ đau

Sảnh khách sạn đông nghẹt người mà im phăng phắc. Có thể nghe thấy tiếng thở chánh niệm đều đều của những người ngồi kề bên. Trên bục giảng, thiền sư Thích Nhất Hạnh vẫn thuyết pháp với giọng điệu nhẹ nhàng, thong dong.
Những lời giảng của ngài như những giọt sương trong vắt cứ nhẹ nhàng rơi, nhẹ nhàng thấm từng giọt, từng giọt vào những tâm hồn cằn khô vì lo toan, phiền muộn, sầu khổ. “Ai trong chúng ta cũng chẳng có ít nhiều khổ đau. Nhiều người thường sợ phải đối diện và chìm đắm trong biển khổ đau của mình nên tìm mọi cách trốn chạy. Đọc sách báo, xem ti vi, uống rượu, hút thuốc phiện… hoặc vùi đầu trong công việc chồng chất.

Chúng ta không biết làm cách nào để đối diện và chuyển hóa những khổ đau ấy. Chính vì điều này mà trong Kinh quán niệm hơi thở, Bụt khuyên chúng ta trở về và nhận diện những khổ đau trong ta.

Nếu chúng ta biết cách thực tập hơi thở có ý thức, thực tập đi chánh niệm, lái xe chánh niệm và ăn chánh niệm mỗi ngày thì năng lượng chánh niệm trong ta sẽ đủ mạnh để giúp ta trở về, ôm ấp, vuốt ve những lo lắng, sợ hãi, buồn khổ trong lòng và chỉ vài phút sau, những niềm đau, nỗi khổ sẽ vơi đi nhiều. Giống như một bà mẹ bỗng nghe tiếng con khóc. Bà sẽ chạy đến, ôm đứa con vào lòng với tất cả sự trìu mến. Bà mẹ chưa biết chuyện gì xảy ra với đứa bé nhưng cử chỉ yêu thương ấy sẽ làm cho nó hết khóc, hết khổ ngay lập tức. Năng lượng chánh niệm cũng vậy. Chúng ta chưa biết gốc rễ của những niềm đau, nỗi khổ trong ta nhưng nếu ta ôm lấy niềm đau ấy một cách dịu dàng với năng lượng chánh niệm, ta có thể làm dịu đi nhanh chóng cơn đau nhức ấy.

 

Trong Kinh về Bốn sự thật mầu nhiệm (Tứ Diệu Đế), Bụt đã chỉ cho ra cho ta sự thật thứ nhất là khổ. Sự thật thứ hai là bản chất của khổ. Nếu chúng ta biết cách lắng nghe sâu những khổ đau trong chính mình và nhìn sâu vào bên trong với năng lượng của chánh niệm và chánh định thì chúng ta sẽ hiểu được những gốc rễ đưa tới khổ đau đó và thoát khỏi nó. Cái hiểu sẽ làm phát khởi tình thương ngay trong trái tim ta.

Nếu ai đó hỏi tôi rằng: “Làm thế nào để chế tác tình thương yêu?”. Tôi sẽ nói rằng: Chỉ có một cách duy nhất là hãy nhìn sâu vào niềm đau, nỗi khổ của chính mình và tìm cách hiểu chúng. Nếu không, ta không thể hiểu được những khổ đau của người khác và không thể thương yêu ai được”.

Trong các phương pháp tu tập mà Bụt chỉ dạy, có một phương pháp gọi là lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái. Lắng nghe với tâm từ bi có thể giúp nối lại sự truyền thông.

Nhiều người trong chúng ta luôn tìm cách trốn chạy khỏi chính mình, bởi vì chúng ta không biết cách lắng nghe nỗi khổ của chính mình. Khi chúng ta bắt đầu hiểu được niềm đau của chính mình thì chúng ta có thể truyền thông được với chính mình dễ dàng hơn, nhờ đó, chúng ta sẽ dễ dàng truyền thông với người khác.

Ta có thể nói với người vợ đang khổ đau của ta rằng: “Em ơi! Anh biết em đã chịu nhiều đau khổ. Vậy mà, nhiều năm qua, anh đã làm những điều không phải khiến em khổ thêm bởi anh đã không hiểu được những khổ đau của chính anh và cả của em nữa. Hãy giúp anh em nhé! Hãy nói cho anh biết tất cả những khó khăn của em. Ạnh không muốn tiếp tục phạm phải những sai lầm trước đây và làm cho em khổ thêm nữa”. Nếu mình có thể nói với người thương của mình bằng ngôn ngữ như vậy thì người đó có cơ hội mở lòng mình ra. Khi đó ta có thể áp dụng phương pháp lắng nghe với tâm từ bi. Người thương của ta sẽ bớt khổ liền.

Khi ta đau khổ, ta có xu hướng nghĩ rằng khổ đau của ta là do một người khác gây ra. Chúng ta muốn trừng phạt người đó bởi vì họ đã làm cho ta khổ. Nhưng khi chúng ta thực tập hơi thở có ý thức và nhìn sâu vào nỗi khổ, niềm đau của người đó thì ta sẽ thấy rằng người đó cũng chỉ là nạn nhân của chính khổ đau trong lòng họ nên họ cần được giúp đỡ chứ không đáng bị trừng phạt.

Hoa sen không thể mọc và tỏa hương nếu không có bùn. Hạnh phúc và khổ đau cũng vậy, chúng nương vào nhau. Chúng ta không thể thấy được hạnh phúc ngọt ngào nếu như chưa nếm trải vị cay đắng của khổ đau. Nếu ta chưa bao giờ bị đói, ta sẽ không biết trân quý món ăn. Nếu ta chưa bao giờ thấy chiến tranh, ta sẽ không thấy được giá trị của hòa bình. Nếu chúng ta biết áp dụng sự thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày thì chúng ta có thể tạo ra hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Năng lượng chánh niệm là suối nguồn của hạnh phúc nhưng năng lượng đó không thể mua được trong siêu thị mà chỉ có thể do chính bản thân ta tự chế tác ra”.

Hơn ngàn quan khách đồng loạt đứng dậy vỗ tay tán thưởng. Khuôn mặt ai cũng ngời lên niềm xúc động, hạnh phúc, hoan hỉ. Trên bục giảng, thiền sư Thích Nhất Hạnh nở nụ cười rạng rỡ.

Ngài giơ đôi bàn tay lên vẫy vẫy – cách tán thưởng của ngài, trông đôi tay như hoa nở. Cả ngàn người bên dưới cũng giơ tay lên vẫy theo trông như một rừng hoa. Rồi ngài chậm rãi bước xuống, hướng dẫn mọi người đi bộ trong chánh niệm. Ngài đi trước, bước từng bước chậm rãi, thảnh thơi. Hàng ngàn người thong thả bước theo. Họ đi trong im lặng. Mỗi bước chân là một niệm cho an lạc, hòa bình, hạnh phúc, thương yêu.

Những bước đi thong dong, an nhiên như sen nở đưa dòng người chảy ra đường, hướng đến công viên Boston. Xe ô tô đang rầm rập chạy trên đường bỗng dừng lại. Những hành khách đang hối hả sải bước trên hè cũng dừng lại, nhường đường cho dòng người thiền hành trong im lặng chuyên chở biết bao năng lượng yên bình, hạnh phúc…

H.A.S.



Nguồn: http://radiovietnam.vn

Thiền sư Thích Nhất Hạnh thăm World Bank

Thiền sư Thích Nhất Hạnh thăm World Bank

Sư Ông trong buổi trò chuyện tại World Bank

Có lẽ Chủ tịch Jim Young Kim thấy nhân viên của World Bank (WB) đang bị sức ép thay đổi đè nặng lên vai nên đã đích thân mời Thiền sư Thích Nhất Hạnh tới thăm và nói chuyện.

Anh Nguyễn Anh Tuấn, cựu Tổng Biên Tập của VietnamNet, hiện là Tổng Biên Tập Diễn đàn toàn cầu Boston, đã gọi điện nhắc nhở tôi tham dự vì ngài là một người Việt ở Làng Mai (Pháp) nổi tiếng khắp thế giới, tựa như Dalai Lama của Tây Tạng. Buổi nói chuyện kéo dài gần 2 tiếng, người dự đông nghịt, dù là đầu tuần. Ngày mai, Thiền sư sẽ có buổi giảng trực tiếp về thiền cho những người đăng ký.

Theo thông báo của ban tổ chức, người muốn dự khá đông và chỗ thì có hạn. Nhân viên phải xin phép nghỉ trọn một ngày để nghe giảng và thực tập về thiền.

Đi theo Thiền sư, tăng đoàn Làng Mai có tới mấy chục thành viên từ khắp thế giới, từ Pháp, Việt Nam, New York, California… Lần đầu mình thấy người phương Tây trong trang phục người xuất gia, chứng tỏ ảnh hưởng của Làng Mai trên thế giới là khá lớn.

Trong lúc đợi, thấy một vị ngồi trên hàng ghế đầu, mình tiến tới làm quen. Không biết xưng hô nên cứ gọi là sư thầy và xưng con. Mãi sau mới biết đây là sư cô Chân Không. Tự giới thiệu và bắt chuyện một lúc, mình cũng nói, ngoài làm việc ở WB, còn là Blogger Hiệu Minh. Sư cô mỉm cười thân thiện, anh Nguyễn Anh Tuấn đã giới thiệu từ trước rồi.

Mình cực kỳ lúng túng, chẳng biết xưng hô thế nào cho phải đạo, vì lần đầu tiếp xúc với người xuất gia. May quá, sư cô Chân Không giải thích cặn kẽ, người xuất gia có nhiều thứ bậc, khá phức tạp. Để cho tiện, Thiền sư Thích Nhất Hạnh được gọi là Sư Ông. Còn cô là nữ nên gọi là sư cô, chắc là tu khá lâu rồi. Sư cô Chân Không gọi mình là “em” nên thấy thoải mái hơn, bắt chuyện dễ dàng.

Sư cô Chân Không (phải) và sư cô Chỉ Nghiêm

Sư cô kể, mỗi người chúng ta đều có một phần tinh hoa của cha, của mẹ từng tế bào. Giỏi giang, tài ba, không phải do người đó tự có, mà do cha mẹ kết mà thành. Có một anh rất giỏi toán, chỉ cần đưa ra ví dụ ngày 22-2-2014, thì anh có thể nói ngay đó là thứ 7. Đầu óc điện tử của anh không phải do anh tạo nên mà nhờ vào phần tinh túy của cha và mẹ. Anh giỏi thì phải cảm ơn cha mẹ. Hiệu là Chân Không – không có ta riêng biệt – một kiểu tu đã đắc đạo.

Có lẽ đến WB, một nơi chuyên xóa đói, giảm nghèo cho thế giới, nên Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể về thời thơ ấu của mình, sống trong nghèo khó. Những năm 1960, chiến tranh liên miên, sống ở miền Trung, ngay cạnh vĩ tuyến 17 bom đạn, nhưng Sư Ông đã cùng phật tử lo giúp người nghèo.

Chuyện đơn giản như cái nhà vệ sinh cho nông dân cũng phải làm mẫu, giúp cho họ hiểu “công nghệ” rồi nhân rộng. Đôi khi, lớp học bắt đầu dưới gốc cây đầu làng. Trẻ em đến đông hơn, rồi bị mưa gió nên phải vào nhà tạm.

Chờ đợi chính phủ chắc còn lâu nên các vị sư đi vận động đóng góp. Người góp cây tre, người góp vài gánh tranh, người góp công, giầu hơn thì đóng tiền. Cứ như thế, việc làm từ thiện được nhân rộng. Muốn xóa đói giảm nghèo, ta hãy bắt đầu từ chính bản thân trước. Nội lực sẽ giúp cho người nghèo vượt lên.

Đôi lúc kể về những ngày đã qua, Thiền sư như lặng đi, hội trường im phắc khi nhắc đến chiến tranh, bom đạn và mất mát.

Sư Ông kể cuộc gặp Martin Luther King (MLK) trong một bữa sáng. MLK từng đề cử Thiền sư vào giải Nobel Hòa Bình. Cả hai trao đổi về cuộc chiến phi nghĩa và đồng ý cần có những bước đi nhằm thay đổi tư duy bom đạn bằng hòa bình. Rất tiếc, sau đó MLK bị ám sát, giấc mơ của hai người theo đuổi đấu tranh bất bạo động dang dở.

Tháng 4 năm 1965, đoàn sinh viên Vạn Hạnh, trường đại học do Sư Ông sáng lập, đưa ra thông điệp vì hoà bình “Đã đến lúc hai miền Bắc-Nam của Việt Nam họp lại để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho mọi người Việt Nam cuộc sống hoà bình với lòng tôn trọng lẫn nhau.”

Phải 10 năm sau, với bao nhiêu máu đổ của cả hai bên, hòa bình mới có, nhưng di chứng sau gần 40 năm vẫn còn đó. Thiền sư có nhắc đến vụ tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức tại Sài Gòn năm 1963. Sư Ông cho rằng đây là tín hiệu gửi cho cả thế giới, vì muốn mọi người hãy lắng nghe tâm tư của những người khốn khổ. Việc tự thiêu hoàn toàn không liên quan đến cổ vũ cho bạo lực.

Sau đó Thiền sư có nói về triết lý thiền. Có lẽ người đã đạt đến đỉnh cao về tu nhân tích đức nên có thể gói gọn trong vài câu đơn giản nhưng trở thành nổi tiếng.

“Lắng nghe và thấu hiểu những đau khổ trong nội tâm sẽ giúp chúng ta giải quyết được hầu hết các vấn đề ta gặp phải.”

“Muốn chữa lành cho người khác, trước tiên ta cần tự chữa lành cho chính mình. Để làm được điều đó, ta phải biết cách giải quyết những vấn đề của bản thân. Tuy nhiên, hầu hết mọi người không biết lắng nghe và thấu hiểu những nỗi khổ của chính mình.”

Do cuộc sống hiện đại với công nghệ thay đổi chóng mặt, thế hệ trẻ có xu hướng không muốn đối mặt với nguồn gốc của những khó khăn, thách thức, kể cả khổ đau, mà lại tìm cách giải tỏa bằng vật chất.

Sư Ông khuyên “Suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta là những điều gây ra sự tức giận, sợ hãi và nghi ngờ cho người khác. Bởi vậy, chúng ta không thể đổ lỗi cho họ mà nên sử dụng ngôn ngữ để hiểu nhau hơn, cũng không nên chỉ trích, buộc tội khi đang lắng nghe họ nói”.

“Người mắc tội với ta thì bản thân họ đã tự chuốc lấy đau khổ vào người.” Có lẽ thế mà đúng thật. Tổng thống Assad từng gây tội ác chống dân tộc mình nên ông đang chuốc lấy hậu họa.

Một người nghe hỏi về công nghệ IT hiện có làm thay đổi cách truyền đạo thiền không, Thiền sư đùa vui, nói rằng dù dùng telephone lần cuối cách đây 30 năm và cho đến thời điểm này, cách truyền thông của người vẫn thấy ổn. Cả hội trường cười ồ.

Thiền sư biết làm cho người nghe không chán về đạo thiền, có vẻ mới tại WB. Có người hỏi làm sao tránh được stress, bị công việc thúc đẩy đúng hẹn. Dường như Thiền sư đã nắm chắc triết lý hạnh phúc là tại tâm, đỉnh cao là ước vọng khó mang tính định lượng, người ta chỉ có thể chọn một trong hai, hoặc hạnh phúc hoặc là số 1.

Sư Ông nhắc đến triết lý, hôm qua là quá khứ, không thể kéo lại được, ngày mai là tương lai chưa chắc chắn. Vì thế cuộc sống hiện tại mới quan trọng. Thiền sư nói có sở hữu chiếc đồng hồ không có số 1, 2, .. 12 như thường lệ, mà chỉ có chữ now, now, now (hiện tại), để nhắc nhở về thời ta đang sống.  Người nghe thán phục sự uyên bác của diễn giả.

Sau này đọc thêm, tôi mới biết, Thiền sư hiện 87 tuổi, không thể tin vào mắt mình. Ông rất nhanh nhẹn và uyên bác, nhà hoạt động toàn cầu về giáo phái thiền, được yêu mến và kính trọng trên khắp thế giới. Thiền sư từng đến Quốc hội Mỹ, Anh, Ấn độ, UNESCO và gần đây sang Hàn Quốc giảng về thiền, về hòa bình, chống chiến tranh. Theo ngài, các chính trị gia cần biết lắng nghe, hiểu Phật giáo thì sẽ biết hòa giải và yêu thương.

Mấy hôm trước, viết về hai người Hàn Quốc là Jim Young Kim, chủ tịch WB, và Ban Ki Mon, Tổng thư ký UN, tôi mơ người Việt tới WB nói chuyện và được người nghe chăm chú. Hôm nay, một phần của giấc mơ đã thành sự thực.

Tiếng Anh của Thiền sư trôi chảy, từ body language (ngôn ngữ cơ thể), đến nội dung chuyển tải rất rõ ràng, chẳng cần một chút giấy tờ. Mọi thứ cứ như tuôn như suối từ trong tim và khối óc của người nói. Gần 2 tiếng mà người nghe vẫn muốn cuộc nói chuyện tiếp, đông người xếp hàng đợi hỏi nhưng thời gian có hạn nên đành thôi.

Nơi đây thường mời chính khách như Bill Clinton, Hillary Clinton, Tony Blair, Al Gore, Ban Ki Mon và nhiều nhà kinh tế, khoa học được giải Nobel…tới đàm đạo. Hôm nay Thiền sư xuất hiện, hẳn nhiều người Việt tại tổ chức quốc tế này cảm thấy tự hào.

Có một câu hỏi của đồng nghiệp đọng mãi trong tôi. Anh nói, sức mạnh mềm của Việt Nam là văn hóa thiền, còn tìm đâu xa. Tại sao ngài Thích Nhất Hạnh và Làng Mai, một cái tên thuần Việt, được cả thế giới ngưỡng mộ về kiến thức và kính trọng về nhân cách, lại ngụ cư ở nước Pháp xa xôi?

 

Sư Ông và tăng đoàn Làng Mai niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm bằng tiếng Phạn (Namo Avalokiteshvara)

Quốc gia nào cũng có người xuất chúng. Vấn đề là sử dụng chất xám, sức mạnh mềm và nền văn hóa như thế nào trong phát triển. Lãnh đạo biết triết lý của đạo thiền, biết sống tại tâm, biết hướng tới Chân Không như vị sư nữ, biết tự hỏi mình như Thiền sư và các đồng môn Làng Mai, thì dân sẽ noi theo và đất nước đó sẽ vượt lên.

Bài và ảnh: HM. 9-9-2013

Nguồn: http://hieuminh.org/2013/09/09/thien-su-thich-nhat-hanh-tham-world-bank/

Một số hình ảnh tại World Bank

Tăng đoàn Làng Mai đến từ khắp nơi

Khoảnh khắc

Tăng đoàn Làng Mai trong thính đường

Sư Ông đang trả lời câu hỏi từ khán giả


Giây phúc vui vẻ

Khoảnh khắc tự tại

Harvard vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh


-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình-

-Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-


Trong chuyến đi giảng dạy và hướng dẫn thực tập ở Bắc Mỹ năm 2013 của tăng thân Làng Mai, trường Đại Học Harvard đã tổ chức một khóa học hai ngày trong chương trình giáo dục thường xuyên (continuing medical education) dành cho các nhà tâm lý trị liệu. Các bác sĩ phải trả 475 đô-la Mỹ để tham dự khóa học hai ngày này; đối với các giới khác như các nhà tâm lý học, giáo chức, nhà văn, tác giả, khảo cứu gia, v.v. thì chỉ cần trả 395 đô-la Mỹ. Số người ghi tên tham dự lên tới 1100 người cho nên khoá học đã được tổ chức tại thính đường lớn của Boston Park Plaza Hotel, vào các ngày 11 và 12 tháng 9 năm 2013. Các giáo sư Christopher Germer, Judy Reiner Platt và Ronald D. Siegel là những vị phụ trách đứng ra tổ chức. Ban giảng huấn gồm có 14 vị: Thiền Sư Nhất Hạnh, Lilian Cheung, Alice Domar, Elissa Ely, Christopher Germer, Devon E. Hinton, Judith V. Jordan, Jon Kabat-Zinn, David Leisner, Judy Reiner Platt, Susan M. Pollak, Ronal Siegal, David A. Sieberweig và Barent Walsh. Chủ đề của khoá học là Thiền Tập và Tâm Lý Trị Liệu (Meditation and Psychotherapy). Trường Đại Học Y Harvard (Harvard Medical School) đã đứng ra tổ chức khoá tu với sự cộng tác của tổ chức Cambridge Health Alliance Physicians.

Ngày đầu, 11-09-2013, học viên được nghe các giáo sư thuyết trình; ngày thứ hai, 12-09-2013, là một ngày thực tập do tăng đoàn Làng Mai hướng dẫn, trong đó có thiền toạ, thiền hành, pháp thoại, động tác chánh niệm, ăn cơm chánh niệm, buông thư và vấn đáp.

Sáng ngày 12-09-2013, lúc 8:30 trước giờ pháp thoại, cả lớp được thực tập thiền hướng dẫn. Trước giờ pháp thoại, giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa Sức khỏe Cộng đồng của trường Đại Học Harvard đã lên giới thiệu Thầy Nhất Hạnh.

Tiếp đó Giáo sư Julio Frenk – đại diện trường Đại Học Y Khoa Harvard và tổ chức Cambridge Health Alliance đã trao tặng Thầy tấm biển đồng danh dự, công nhận Thầy là một người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình (to the most Venerable Thich Nhat Hanh for your pioneering and tireless efforts in cultivating compassion, wisdom and peace). Tấm biển đồng được ký tên bởi hai vị: Giáo sư Caroline Shields Walker, Trưởng khoa Y (Faculty of Medicine), và Giáo sư Jack D. Burke, Trưởng khoa Tâm Lý Trị Liệu của trường Đại Học Y Harvard.

 

Biểu đồng danh dự Caroline và Jack D tặng.JPG

Biển đồng danh dự do đại học Harvard kính tặng

 

Trong lời đáp từ, Thầy đã nói: “Cảm ơn sự tin tưởng và thương yêu của quý vị. Chúng tôi, tăng thân Làng Mai, luôn luôn học hỏi, thực tập và phụng sự như một đoàn thể, một cộng đồng, một tăng thân, nên sự tin tưởng, niềm thương yêu và vinh dự này là dành cho tất cả mọi thành phần của tăng thân, trong đó có hàng trăm vị đang ngồi trong thính chúng.”

Cũng vào ngày hôm đó, Giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa trường Đại học Y tế Công cộng Harvard (Harvard School of Public Health) cũng trao tặng cho Thầy một chứng thư công nhận Thầy là một nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng (Harvard School of Public Health hereby recognizes Zen Master Thich Nhat Hanh as a global leader for peace, human rights, and health). Chứng thư có nội dung như sau:

Trường Đại học Sức khỏe Cộng đồng Harvard bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thiền Sư Thích Nhất Hạnh về những lời dạy và pháp môn thực tập của Thiền sư nhằm thúc đẩy một hướng đi chánh niệm phục vụ cho sức khỏe và hạnh phúc của cộng đồng; cũng như về những đóng góp nhiều mặt của Thiền Sư với tư cách một học giả và một nhà hoạt động vì hòa bình cho thế giới.”

Ngày thực tập chánh niệm đã diễn ra thật tốt đẹp, và năng lượng của chánh niệm, của niềm vui sống và của tình huynh đệ được chế tác rất hùng hậu.

Chứng thư do giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa của Đại học Sức khỏe Cộng đồng Harvard trao tặng

Julio Frenk tặng Thầy tấm biển đồng danh dự

 

Sau đây là một vài hình ảnh của khoá học do trường Đại Học Harvard tổ chức:

Đại chúng tụng Namo.JPG

Đại chúng niệm danh hiệu Bồ Tát Avalokiteshvara

Jon Kabat Zinn đặt câu hỏi với Thầy.JPG

Jon Kabat Zinn đặt câu hỏi với Thầy

Thầy thỉnh chuông.JPG

Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe, tiếng chuông huyền diệu đưa về quê hương

Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề

Thiền hành.JPG

Đi trong chánh niệm

Đại học Hồng Kông vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Le trao bang Tien si.2

Sáng ngày 13/3/2014, tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng Làng Mai,  Giáo sư Lap-Chee Tsui, Viện Trưởng (Vice Chancellor and President) Trường Đại Học Hồng Kông đã trao bằng Tiến sĩ Danh Dự trong lĩnh vực khoa học xã hội cho Thầy Làng Mai – Thiền sư Thích Nhất Hạnh để vinh danh những đóng góp của Thầy cho nền hòa bình thế giới.

Trong bài diễn văn tại buổi lễ, Giáo sư Michael Wilkinson thay mặt Ban Giám học của Trường đã phát biểu rằng: “Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã dành trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp nhân đạo và hòa bình trên thế giới.  Thầy thực sự là một bậc thầy lỗi lạc và là nguồn cảm hứng lớn lao cho chúng ta (“Zen Master Thich Nhat Hanh  has dedicated his life to humanitarian work and world peace. He is a truly remarkable and inspirational man”).

Đại học Hồng Kông đã gửi thư mời Thầy sang Hồng Kông để nhận bằng Tiến sĩ Danh dự nhân Đại hội lần thứ 190 của trường (được tổ chức vào ngày 18/3/2014). Tuy nhiên, do thời gian này ở Làng Mai đang có khóa tu mùa xuân nên Thầy không sang được. Vì vậy mà đoàn đại biểu của Trường (gồm 7 người) đã bay từ Hồng Kông sang để trao tặng Thầy tấm bằng danh dự này.

Đại học Hồng Kông là một trong những trường đại học hàng đầu châu Á và xếp thứ 26 trên bảng tổng sắp các trường đại học danh tiếng trên thế giới (theo đánh giá của Quacquarelli Symonds World University Rankings năm 2013). Bằng Tiến sĩ Danh dự là học vị cao quý nhất mà Đại học Hồng Kông trao tặng để vinh danh các cá nhân có những đóng góp to lớn cho nhân loại và cho thế giới. Tổng tống Bill Clinton, Mẹ Teresa, Tổng thống Nelson Mandela, Giáo sư Hồ Thích (Trung Quốc), Cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, và Vua Edward VIII (nước Anh) là những người đã được Đại học Hồng Kông trao tặng học vị cao quý này.

Le trao bang Tien si.1

Thông điệp dành cho các bạn trẻ

Trong bầu không khí ấm áp, thân tình, với sự có mặt của tứ chúng Làng Mai, Thầy đã có lời chia sẻ với đoàn đại biểu của Đại học Hồng Kông cũng như với các sinh viên của trường (được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh):

“Chúng tôi rất cảm kích và biết ơn trường Đại học Hồng Kông đã dành cho chúng tôi vinh dự này. Cảm ơn quý vị đã trân quý và tin tưởng chúng tôi. Chúng tôi xin đón nhận tấm bằng danh dự này như một nghĩa cử của tình huynh đệ, lòng từ bi và nhân ái của quý vị. Chắc quý vị cũng biết Làng Mai không chỉ ở nước Pháp mà còn có mặt ở khắp nơi. Chúng tôi đã giúp thành lập hàng ngàn tăng thân thực tập chánh niệm trên thế giới. Ở Hồng Kông cũng đã có trung tâm tu học của Làng Mai. Chúng tôi không hoạt động như một cá nhân mà luôn hoạt động như một Tăng thân. Vì vậy, vinh dự lớn lao này cũng thuộc về mọi thành phần của tăng thân.

Trong đạo Bụt, chúng tôi thực tập tuệ giác vô ngã. Nếu chúng tôi có thể làm được  điều gì để giúp thế giới này thì đó là nhờ có tăng thân. Nếu không có tăng thân, chúng tôi không thể làm được gì cả. Đức Bụt sau khi thành đạo đã nhận ra điều này, vì vậy mà việc đầu tiên Ngài làm là đi tìm những thành phần để xây dựng tăng thân. Bụt là một bậc thầy về xây dựng tăng thân. Bụt biết rằng nếu không có một tăng thân thì Bụt khó có thể thực hiện được ước nguyện giúp đời của mình. Vì vậy mà Bụt đã dành rất nhiều thời gian để xây dựng tăng thân. Ngay trong năm đầu tiên sau khi thành đạo, Bụt đã thành lập được tăng đoàn với 1250 xuất sĩ và tăng đoàn đó không ngừng lớn mạnh. Lần cuối cùng gặp Bụt, Vua Ba Tư Nặc đã thưa với Bụt là mỗi khi nhìn thấy tăng đoàn là vua lại có thêm niềm tin lớn nơi Bụt.

Khi tôi gặp mục sư Martin Luther King lần đầu tiên tại Chicago năm 1966, chúng tôi đã cùng nhau chia sẻ về việc xây dựng tăng thân, bởi vì Mục sư Luther King cũng biết rằng nếu không có một tăng thân thì chúng tôi không thể nào thực hiện được giấc mơ của mình. Thay vì sử dụng từ “tăng thân” (Sangha), Mục sư Luther King dùng từ “cộng đồng yêu quý” (beloved community). Lần thứ hai gặp nhau tại Geneva, chúng tôi cũng tiếp tục thảo luận về chủ đề này. Tôi đã nói với Mục sư Luther King là người Việt Nam xem Mục sư như một vị đại Bồ tát, một người suốt đời tranh đấu cho nhân quyền, cho công bằng xã hội. Tôi rất vui vì đã nói được điều đó với Mục sư Luther King, vì chỉ ba tháng sau đó thì Mục sư bị ám sát và không còn có thể tiếp tục sự nghiệp xây dựng tăng thân được nữa. Tôi đang ở New York thì nghe tin về vụ ám sát. Chuyện này làm cho tôi bị ốm một thời gian. Và tôi tự hứa với mình rằng tôi phải tiếp tục sự nghiệp xây dựng tăng thân, không chỉ cho tôi, cho chúng ta mà còn cho cả Mục sư Luther King nữa.

Điều mà tôi muốn nhắn gửi đến các bạn trẻ là: nếu các bạn có một giấc mơ lớn và muốn cho giấc mơ đó thành tựu thì các bạn cần có một tăng thân. Tăng thân là một đoàn thể mà ở đó có tình huynh đệ và sự hòa hợp. Muốn xây dựng được tăng thân, các bạn phải đầu tư rất nhiều thời gian và tâm sức mới có thể làm được. Gia đình cũng có thể là một tăng thân, trường học của các bạn cũng có thể là một tăng thân. Nếu có tình huynh đệ, có hiểu và thương thì chúng ta có thể thực hiện được giấc mơ của mình. Đó là lý do vì sao việc xây dựng tăng thân là dành cho tất cả mọi người. Dù anh là giám đốc của một công ty, anh cũng có thể biến công ty của mình thành một tăng thân – một đoàn thể mà ở đó mọi người có cơ hội học cách xây dựng tình huynh đệ, chế tác hiểu biết và thương yêu, chứ không phải chỉ là nơi để tìm kiếm lợi nhuận mà thôi. Chúng ta cần những nhà doanh nghiệp tham gia vào sự nghiệp xây dựng tăng thân để làm cho thế giới của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn.

Làng Mai chúng tôi cũng là một trường học. Những gì chúng tôi học ở đây là làm thế nào để chế tác năng lượng bình an, chế tác niềm vui và hạnh phúc trong thân tâm. Chúng tôi cũng học cách xử lý những khổ đau trong tự thân. Bởi vì chúng tôi biết rằng nếu chúng tôi có thể làm được điều đó cho chính mình thì chúng tôi cũng sẽ giúp được cho những người khác. Vì vậy ở Làng Mai, thầy và trò cùng học với nhau, chúng tôi muốn xây dựng một tăng thân, một môi trường lành mạnh nơi mọi người có thể được nuôi dưỡng và chuyển hóa. Chúng tôi cùng nhau tổ chức những ngày quán niệm, những khóa tu để giúp cho mọi người đến tu học, thực tập và chuyển hóa, để có thể vơi bớt khổ đau trong lòng và tìm lại được niềm vui sống. Các khóa tu kéo dài trong một tuần, hoặc  2 – 3 tuần, hoặc 3 tháng. Chúng tôi luôn chứng kiến những chuyển hóa và trị liệu xảy ra trong các khóa tu.

Sự thực tập chế tác bình an, niềm vui và hạnh phúc trong đời sống hàng ngày cũng như thực tập xử lý khổ đau, sử dụng chất liệu khổ đau để chế tác hạnh phúc, đó chính là nguồn thức ăn rất lành mạnh nuôi dưỡng chúng tôi.  Sử dụng bùn để trồng sen là nội dung học hỏi và thực tập của chúng tôi ở đây. Vì vậy mà việc học ở trong lớp chỉ là một phần nhỏ trong sự thực tập của chúng tôi. Chúng tôi còn học cách làm việc chung với nhau, học chơi đá banh, chơi bóng rổ với nhau, học nấu ăn hay tổ chức khóa tu cùng nhau. Trong khi làm việc hay chơi cùng nhau, chúng tôi chế tác tình huynh đệ, sự hòa hợp và bình an. Chính điều này nuôi dưỡng chúng tôi và nuôi dưỡng cả những người đến và thực tập cùng với chúng tôi.

Vì vậy mà điều đầu tiên tôi muốn nhắn gửi đến các bạn trẻ ngày nay là: nếu các bạn có một giấc mơ trong cuộc đời và muốn giấc mơ đó được thành tựu thì hãy xây dựng một tăng thân.

Điều thứ hai tôi muốn nhắn gửi đến các bạn trẻ là: hãy mở rộng tình thương của mình để ôm trọn cả hành tinh này, không nên giới hạn tình thương của mình chỉ với đất nước và dân tộc mình mà thôi. Chính tôi đã nhận ra rằng quê hương tôi là cả hành tinh này, cả trái đất này. Tôi không giới hạn tình thương của mình trong một dải đất ở châu Á có tên là Việt Nam mà thôi. Tôi đã được chuyển hóa và trị liệu rất nhiều nhờ vào cái thấy này. Có thể tình thương trong bạn còn quá nhỏ bé, bạn cần làm cho tình thương đó lớn rộng ra để bao trùm cả trái đất này. Đó là tình thương của một vị Bụt, tình thương của những bậc đại nhân như Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Mẹ Teresa, v.v. ”

Đối thoại về Tuổi trẻ Ngày nay
Nhân dịp này, Thầy Làng Mai và Giáo sư Lap-Chee Tsui, Viện Trưởng Trường Đại Học Hồng Kông đã có buổi đối thoại về chủ đề Tuổi trẻ Ngày nay. (Ban biên tập xin chia sẻ với các bạn trong một vài ngày tới. Xin các bạn đón đọc.)


 


Đối thoại về Tuổi trẻ ngày nay

Sáng ngày 13/3/2014, tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng Làng Mai,  Giáo sư Lap-Chee Tsui, Viện Trưởng Trường Đại Học Hồng Kông đã trao bằng Tiến sĩ Danh Dự trong lĩnh vực khoa học xã hội cho Thầy Làng Mai – Thiền sư Thích Nhất Hạnh để vinh danh những đóng góp của Thầy cho nền hòa bình thế giới. Nhân dịp này, Thầy Làng Mai và Giáo sư Lap-Chee Tsui, Viện Trưởng cùng Giáo sư Lee Chak Fan – Giám đốc Trường giáo dục chuyên môn thường xuyên (HKU SPACE) của Đại học  Hồng Kông đã có buổi đối thoại về chủ đề Tuổi trẻ ngày nay. (Ban biên tập xin được trích dẫn một số nội dung chính của buổi đối thoại – nội dung được chuyển ngữ từ tiếng Anh)

 

Viện trưởng: Trong những năm qua, Đại học Hồng Kông đã không ngừng đổi mới chương trình dạy và học, cải tiến cách thức giảng dạy và nâng cấp môi trường đào tạo, v.v. Theo Thiền sư, chúng tôi có thể làm gì hơn nữa để đem lại cho sinh viên một môi trường học tập tốt hơn?

Thầy: Tôi nghĩ chương trình của trường như vậy là đầy đủ rồi. Điều tôi muốn đề nghị với quý vị là làm sao để thực hiện các chương trình đó cho có hiệu quả hơn. Tôi muốn nói về những kỹ năng truyền thông (communication skills). Đúng là chúng ta hiện nay đang ở trong tình trạng bị quá tải thông tin. Thông tin thì tràn ngập nhưng sự hiểu biết thì lại thiếu. Có nhiều thông tin không có nghĩa là chúng ta có thể hiểu được chính mình và hiểu được thực tại. Để hiểu được, chúng ta cần phải biết cách lắng nghe và biết cách sử dụng ái ngữ. Vì vậy mà tôi đề nghị là quý vị có thể tổ chức những khóa học về kỹ năng truyền thông để chỉ dẫn cho mọi người cách thức sử dụng ái ngữ và lắng nghe.

Lắng nghe trước tiên là lắng nghe chính mình, bởi vì ai trong chúng ta cũng có những niềm đau, nỗi khổ trong tự thân. Vì vậy mà chúng ta phải lắng nghe những khổ đau trong chính mình, chúng ta phải có mặt và ôm ấp nỗi khổ, niềm đau đó. Lắng nghe để hiểu được khổ đau của chính mình. Khi đã hiểu được khổ đau của chính mình rồi, ta mới có thể hiểu được khổ đau của người khác. Người đó có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, thầy cô giáo hay học sinh của chúng ta. Đó là kinh nghiệm của chúng tôi ở Làng Mai.

Chúng ta cần phải học cách lắng nghe để hiểu khổ đau của chính mình. Bởi vì khổ đau của chúng ta có liên hệ mật thiết tới khổ đau của cha, của mẹ, của ông bà tổ tiên. Một khi đã hiểu được khổ đau của chính mình rồi, chúng ta sẽ hiểu được khổ đau của cha mẹ và ông bà tổ tiên. Khi đó chúng ta mới có thể thoát khỏi ngục tù của khổ đau.

Từ kinh nghiệm của mình, chúng ta có thể nhìn vào khổ đau của người khác, và ta có thể hiểu được nỗi khổ, niềm đau của người đó dễ dàng hơn. Một khi đã thấy và hiểu được khổ đau của người đó thì cơn giận trong lòng ta sẽ tan biến và tình thương trong ta ứa ra. Ta bắt đầu nhìn người đó bằng đôi mắt từ bi. Và người kia cũng sẽ bớt khổ liền khi đón nhận ánh mắt thương yêu đó. Sự truyền thông giữa ta và người kia có thể được nối lại một cách dễ dàng. Đó là sự thực tập chánh niệm về khổ đau, ý thức về khổ đau trong chính mình và khổ đau nơi người khác.

Khi đã hiểu được khổ đau nơi mình và nơi người thì tự nhiên giọng nói của ta cũng chứa đựng năng lượng từ bi. Cách nói của chúng ta cũng có thể giúp nối lại truyền thông, bởi vì giọng nói của ta không còn năng lượng trách móc, buộc tội nữa. Chỉ cần nửa giờ hoặc một giờ thôi là chúng ta có thể nối lại truyền thông và hàn gắn lại mối liên hệ của mình.

Tôi nghĩ người trẻ có thể học được điều này từ trường học, và khi trở về nhà, các em có thể hàn gắn lại mối liên hệ của mình với cha, với mẹ, với anh chị em trong gia đình mình. Kinh nghiệm ở Làng Mai cho thấy những người trẻ sau khi tham gia các khóa tu đều trở về hòa giải với cha mẹ và gia đình mình. Đây cũng là sự thực tập giới thứ tư trong Năm Giới mà Làng Mai chúng tôi đang hành trì – sự thực tập ái ngữ và lắng nghe.

Tôi nghĩ rằng thầy cô giáo cần phải dành thời gian để lắng nghe khổ đau của các sinh viên. Điều này rất cần thiết. Bởi vì nếu sinh viên có quá nhiều khổ đau thì thầy cô giáo cũng rất khó có thể truyền đạt kiến thức cho các em. Vì vậy mà việc giúp các em bớt khổ cũng giúp ích rất nhiều cho việc dạy và trao truyền kiến thức. Chúng ta có thể tổ chức như thế nào để thầy cô giáo có cơ hội lắng nghe học trò của mình.

Nếu thầy cô giáo biết cách lắng nghe và hiểu được khổ đau của chính mình thì cũng có thể lắng nghe và hiểu được những khổ đau của các học trò, có thể giúp cho các em bớt khổ liền chỉ sau một giờ thực tập lắng nghe. Khi thầy cô giáo có thể lắng nghe và hiểu được khổ đau của học trò mình thì học trò cũng sẽ lắng nghe khi thầy cô giáo có khổ đau trong lòng. Bởi vì thầy cô giáo cũng có rất nhiều nỗi khổ, niềm đau. Nếu các em đã thấy và đã hiểu được khổ đau của thầy cô giáo thì sự truyền thông sẽ trở nên dễ dàng, và như vậy việc dạy và học cũng sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Chúng tôi đã khám phá ra điều này nhờ vào kinh nghiệm có được khi đào tạo các giáo viên về chánh niệm. Vì vậy chúng tôi thấy rằng sự thực tập ái ngữ và lắng nghe giữa thầy cô giáo và học sinh, sinh viên có thể giúp làm thay đổi môi trường học đường, và giúp cho việc dạy và học trở nên tốt hơn. Tôi nghĩ quý vị có thể đưa sự thực tập này vào nội dung đào tạo dành cho các giáo viên của trường. Muốn tốt nghiệp khóa học này, các giáo viên không chỉ nắm lý thuyết mà còn phải thực tập lắng nghe khổ đau của chính mình và khổ đau của những người xung quanh. Đây là một sự thực tập rất hay. Và nó luôn luôn có hiệu quả. Có những người chỉ tham dự khóa tu với chúng tôi trong vòng năm ngày và khi về nhà, người đó đã có thể hòa giải với vợ/chồng hoặc con cái của mình. Phép lạ của sự hòa giải là điều luôn xảy ra trong các khóa tu ở Làng Mai.

Chúng tôi đã từng bảo trợ cho các nhóm người Palestine và Israel đến Làng để thực tập. Ban đầu họ không thể nào nhìn mặt nhau. Vì vậy trong những ngày đầu, mỗi nhóm được hướng dẫn thực tập riêng. Chúng tôi hướng dẫn cho họ thực tập thở và đi như thế nào để buông bỏ những căng thẳng trong thân tâm và tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống để được trị liệu. Nhiều ngày sau đó, chúng tôi sắp xếp cho hai nhóm ngồi lại với nhau và mời họ thực tập ái ngữ và lắng nghe nhau.

Một nhóm bắt đầu chia sẻ trước và họ được chúng tôi hướng dẫn cách sử dụng ái ngữ trong khi nói để giúp cho những người ở nhóm kia có thể hiểu được khổ đau của mình:

“Các bạn có quyền nói lên tất cả những khổ đau mà chính bạn cũng như con cái của bạn đã và đang trải qua trong cuộc xung đột, nhưng điều quan trọng là phải nói như thế nào để những người ở phía bên kia có thể dễ dàng tiếp nhận. Lời nói không nên có tính buộc tội, trách móc và thù hận, đó là ái ngữ.

Trong khi nhóm này chia sẻ thì nhóm kia thực tập lắng nghe và cố gắng không ngắt lời, không đính chính. Bởi vì nếu ngắt lời hoặc đính chính trong lúc này thì ta sẽ biến một buổi thực tập lắng nghe trở thành một cuộc tranh luận, và như vậy thì sẽ hỏng hết mọi chuyện.

Các bạn có thể tự nói với mình rằng: Mình đang thực tập lắng nghe với tâm từ bi. Mình chỉ lắng nghe thôi, bởi vì mình muốn cho người kia có cơ hội nói ra nỗi lòng của mình, nhờ vậy mà người kia bớt khổ. Nếu người đó có nói những điều không đúng với sự thật, nếu người đó đang có tri giác sai lầm hay buộc tội thì mình vẫn tiếp tục lắng nghe, bởi vì mục đích của mình là cho người đó có cơ hội nói ra để cho người đó bớt khổ.

Nếu ta có thể duy trì chánh niệm về lòng từ bi trong suốt thời gian nghe thì ta có thể ngồi nghe người đó chia sẻ trong một giờ đồng hồ. Lắng nghe như vậy giúp cho chúng ta chuyển hóa và trị liệu rất lớn, ta sẽ có thể nhìn những người ở phía bên kia với con mắt từ bi. Khi đã trị liệu được cho chính mình rồi, ta có thể giúp cho những người kia cũng làm được như vậy.

Có thể ngày mai đến lượt nhóm của bạn chia sẻ, bạn hãy cố gắng sử dụng ngôn ngữ hòa ái để nói lên những khổ đau của mình. Bạn nói không phải với mục đích trách móc hay buộc tội, mà chỉ với mục đích là để cho những người ở nhóm bên kia hiểu được những khổ đau của bạn mà thôi.”

Trong khi thực tập lắng nghe như vậy, nhóm này bắt đầu hiểu được những khổ đau của nhóm kia. Họ nhận ra rằng những người ở phía bên kia cũng là những con người như họ và cũng đã gánh chịu những khổ đau mà họ đã trải qua. Khi đã hiểu được khổ đau của nhau rồi thì họ không còn thù hận nhau được nữa.

Cuối cùng thì hai nhóm người Palestine và Israel đã đến được với nhau, họ cùng ăn cơm im lặng, cùng nắm tay nhau đi thiền hành. Sau khóa tu, họ cùng nhau đến chia sẻ với chúng tôi về kết quả thực tập của mình: họ đã được chuyển hóa và trị liệu. Trước khi trở về Trung Đông, họ hứa với chúng tôi rằng họ sẽ tiếp tục thực tập cùng nhau, và sẽ tổ chức cho những người Palestine và Israel khác được đến và học cách chuyển hóa khổ đau như họ. Do vậy, có thể nói rằng phép lạ của sự chuyển hóa và trị liệu là điều có thể xảy ra, cho dù có những tình huống rất khó khăn như trường hợp của người Palestine và Israel.

Vì vậy tôi nghĩ rằng nếu các trường đại học có những khóa đào tạo về ái ngữ và lắng nghe thì sự chuyển hóa và trị liệu sẽ xảy ra ngay trong trường. Khi đã thành công ở trường học, chúng ta có thể mở rộng ra và đem sự thực tập đến với gia đình và toàn xã hội. Đó là mong ước của chúng tôi. Cũng vì lý do này mà các vị giáo thọ của Làng Mai đã và đang tổ chức rất nhiều khóa đào tạo cho thầy cô giáo và các bậc phụ huynh với mong muốn đem sự thực tập đến với mọi người, mọi thành phần trong xã hội.

Le trao bang Tien si.5

Viện trưởng: Hiện nay trên thế giới đang xảy ra tình trạng những người trẻ sau khi tốt nghiệp không tìm được việc làm. Điều này khiến cho giới trẻ luôn sống trong trạng thái bất an và nhiều buồn giận. Xin Thầy chia sẻ tuệ giác của mình để giúp cho người trẻ có thể đối diện với hoàn cảnh khó khăn hiện nay và tìm lại được niềm vui sống.

Thầy: Những người không có việc làm chắc chắn là khổ rồi, nhưng tôi thấy ngay cả những người có việc làm cũng vẫn khổ như thường. Vì vậy đây không phải là vấn đề của những người không có việc làm mà thôi.

Như quý vị đã thấy, trong tăng thân chúng tôi, nhiều người đã từng có công ăn việc làm rất tốt nhưng họ đã từ bỏ những công việc đó để trở thành “thất nghiệp”. Tôi nghĩ chúng ta phải nói với người trẻ về hạnh phúc chân thực là gì. Bởi vì nhiều người nghĩ rằng hạnh phúc được làm bởi tiền tài, danh vọng, địa vị, sắc dục, v.v. Và nếu không đạt được những thứ đó thì họ khổ. Nhưng chúng ta thử nhìn xem, trong xã hội có nhiều người đã có đầy đủ những thứ đó nhưng vẫn tiếp tục khổ đau, thậm chí có nhiều người còn đi đến chỗ tự tử.

Vì vậy, theo tôi, hạnh phúc chân thực chỉ có được khi ta được hiểu, được thương, và ta có khả năng hiểu và thương những người khác. Chúng ta hoàn toàn có thể sống hạnh phúc mà không cần có nhiều tiền bạc. Ở Làng Mai, chúng tôi đang chứng minh cho điều đó. Ở đây các thành viên trong tăng thân không ai có nhà riêng, xe riêng, tài khoản riêng và cũng không có lương hàng tháng. Nhưng chúng tôi đâu có khổ, chúng tôi rất hạnh phúc, các bạn có thể thấy chúng tôi vui cười cả ngày. Đó là bởi vì chúng tôi sống trong sự hòa hợp và biết cách chế tác tình huynh đệ. Ngoài ra, chúng tôi thấy mình sống có ích và giúp được cho nhiều người bớt khổ. Chúng tôi thấy rằng hạnh phúc chân thực được làm bởi lòng từ bi và tình thương chân thực. Vì vậy mà dù ta sống rất giản dị và tiêu thụ rất ít thì ta vẫn có thể hạnh phúc như thường.

Tôi nhớ trong một buổi nói chuyện với các học giả, các nhà lý luận theo chủ nghĩa Mác-xít tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tại Hà Nội, tôi có chia sẻ với họ về nếp sống ở Làng Mai: chúng tôi không ai có tài khoản riêng, nhà riêng, thậm chí không có điện thoại riêng, máy vi tính riêng, cũng không có lương hàng tháng, và tôi nói rằng: “chúng tôi mới là những người cộng sản thứ thiệt!”. Tất cả mọi người có mặt ở đó đều cười lớn. Bởi vì đó là sự thật mà ai cũng có thể thấy.

Vì vậy theo tôi, điều quan trọng là chúng ta cần thay đổi quan niệm về hạnh phúc. Mỗi người trong chúng ta đều có một ý niệm về hạnh phúc và ý niệm đó có thể là trở ngại chính ngăn chúng ta tiếp xúc với hạnh phúc chân thực. Nếu chúng ta chưa tìm được việc làm thì chúng ta vẫn có thể sống một cách đơn giản, tiêu thụ ít lại nhưng vẫn có thể hạnh phúc hơn nhiều người đang có rất nhiều tiền bạc, địa vị và quyền lực trong xã hội.

Đó là lý do vì sao công tác giáo dục đóng vai trò rất quan trọng. Chúng ta cần đưa những nội dung như nghệ thuật xử lý khổ đau và chế tác hạnh phúc vào giảng dạy tại trường học. Điều này rất quan trọng. Tôi nghĩ các thầy cô giáo là những người cần phải nắm cho được nghệ thuật chế tác hạnh phúc và xử lý khổ đau, rồi sau đó mới trao truyền lại cho các sinh viên của mình. Chúng ta cần phải bắt đầu với các giáo viên trước. Thầy cô giáo hạnh phúc thì học trò cũng sẽ hạnh phúc và thế giới này cũng nhờ đó mà trở nên tốt đẹp hơn.

Giáo sư Lee Chak Fan: Chúng tôi vô cùng biết ơn Thầy vì đã dành cho chúng tôi những lời chia sẻ rất quý báu. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị của Thầy: điều cần làm trước tiên là phải đào tạo để có những thầy cô giáo hạnh phúc. Làng Mai là một điển hình để chúng tôi học theo. Quý vị ở đây có một vị thầy lỗi lạc và biết sống hạnh phúc, nhờ vậy mà tạo ra được một môi trường đầy an lạc như Làng Mai ngày nay. Đây có lẽ là điều mà chúng tôi cần học hỏi từ Thầy để áp dụng cho Đại học Hồng Kông. Một điều nữa mà chúng tôi thấy có thể làm được, đó là gửi những người trẻ của trường đến Làng Mai để học về chánh niệm (chúng tôi rất vui khi được biết trong số quý thầy, quý sư cô Làng Mai có một sư cô đã từng là sinh viên của Đại học Hồng Kông).

Kết thúc buổi đối thoại, Thầy Làng Mai tặng quà lưu niệm cho Đoàn đại biểu của Đại học Hồng Kông bằng bức thư pháp “Happy teachers will change the world” (Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới). Mặc dù chỉ thăm Làng Mai được một ngày thôi nhưng đoàn đại học Hồng Kông đã có cơ hội thưởng thức rất nhiều “đặc sản” của Làng như thiền hành, thiền tọa, thiền trà, ăn cơm im lặng,…và đặc biệt hơn cả là không khí đầm ấm của một gia đình tâm linh. Có lẽ đây là lần đầu tiên các thành viên trong đoàn được chứng kiến một buổi lễ trao bằng Tiến sĩ danh dự trong không khí ấm áp và thân tình đến vậy. Đúng như lời của Thầy Làng Mai: “Chúng tôi không hoạt động như một cá nhân mà luôn hoạt động như một Tăng thân. Vì vậy, vinh dự lớn lao này cũng thuộc về mọi thành phần của tăng thân”.

Le trao bang Tien si.6

Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói về Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Nhân dịp nhà báo Hoàng Anh Sướng ra mắt bạn đọc cuốn sách “Hạnh phúc đích thực” – tập hợp những bài viết của anh về cuộc đối thoại thú vị với Thiền sư Thích Nhất Hạnh về hạnh phúc, được đăng trên báo Tuổi trẻ & Đời sống, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã chia sẻ với các thính giả của Đài tiếng nói Việt Nam (VOV) về Thiền sư Thích Nhất Hạnh và về cuốn sách này. BBT xin được trích đăng dưới đây:

Có lẽ với đông đảo người đọc, Thiền sư Thích Nhất Hạnh không còn xa lạ. Ông là một trong những đại Thiền sư nổi tiếng nhất thế giới, người được các Phật tử xem như là một vị Phật sống tái thế. Những cuốn sách của ông, những bài thuyết pháp của ông được lưu truyền trên khắp hành tinh. Từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước, ông đã là ứng cử viên của Giải Nobel hòa bình. Tôi biết ông có phần muộn hơn, nhưng cũng trước Hoàng Anh Sướng đến cả hàng chục năm.

Dịp ấy đang độ xuân. Như mọi người dân Việt, tôi đưa vợ con đi lễ chùa Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội). Ngôi chùa này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn Làng Mai đã từng đến thuyết pháp. Thế rồi, trong lúc chờ vợ hóa vàng, tôi dắt con gái đi dạo chơi vãn cảnh chùa. Tôi thực sự ngạc nhiên khi nhìn thấy trong cửa hàng bán Kinh Phật cùng sách Tử vi bói toán, có rất nhiều đĩa CD thuyết pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, cả đĩa hình, đĩa tiếng, nhưng đều bán đồng loạt một giá như nhau, và bán rất rẻ, chỉ có hai ngàn đồng một đĩa. Số tiền ấy không đủ mua một gói kẹo lạc hay một mớ rau muống. Nhưng nhờ với giá rẻ như thế mà một em bé đánh giầy lang thang cơ nhỡ hay một bà hành khất cũng dễ dàng có được cả một buổi thuyết pháp của một vị Thiền sư lừng danh thế giới. 

Tôi mua một vài đĩa về nhà nghe thử. Nghe cũng vì tò mò. Nhưng nghe rồi, tôi bắt đầu mê các bài thuyết pháp của ông. Tôi rất kinh ngạc khi trong các bài pháp thoại của vị Thiền sư nổi tiếng thế giới mà lại không thấy chùa, không thấy Kinh, không thấy cả Phật nữa, chỉ toàn những chuyện đời thường của mình, của gia đình mình, của những người thân. Nó vô cùng giản dị như muôn mặt của đời sống. Thiền sư hướng dẫn giúp ta làm sao có được sự an lạc, thảnh thơi giữa đời sống bộn bề những lo toan, hờn trách. Làm thế nào để có thể đứng vững trước bao nhiêu bão táp, mưa giông, bon chen, đố kỵ. Rồi cách ứng xử để lập truyền thông với bố mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, để có tình yêu thương đích thực, để được hiểu và được thương. Đặc biệt, ta cần phải làm gì khi người thân mất? 

Người mất thì họ đi về đâu? Tôi rất thích lối diễn giải của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ông bắt đầu câu chuyện từ một giọt mưa. Giọt mưa rơi xuống phiến đá. Ta nhìn thấy rõ giọt nước ấy. Nó long lanh sáng. Rồi nó thẫm dần như một chấm nâu. Ta nhắp đi, ngoảnh lại, không còn thấy nó nữa. Lại nghĩ, giọt mưa đã chết. Nó đã biến khỏi mặt đất. Nhưng không! Giọt mưa không chết. Nó cũng không biến đi. Nó vẫn đang tồn tại. Nhưng tồn tại trong một hình dạng khác. Nó đã thành một đám mây che mát trên đầu ta. Rồi từ mây, nó hóa tiếp cơn mưa, tưới mát lành cả mặt đất. 

Cũng tương tự như thế, khi bố mẹ ta chết, bố mẹ cũng có mất đâu. Bố mẹ vẫn tồn tại, nhưng tồn tại ở một dạng khác. Bố mẹ vẫn luôn ở trong ta, trong từng tế bào cơ thể ta. Không cần phải xét nghiệm ADN, ta chỉ đứng trước gương. Thấp thoáng sau gương mặt ta là gương mặt bố mẹ, gương mặt của ông bà, và xa hơn nữa là các cụ kỵ, tổ tiên ta. Tổ tiên vẫn luôn hiện hữu ở ngay trong ta. Vậy thì ta phải sống thế nào, tu thế nào để gương mặt ta luôn sáng đẹp. Gương mặt ta sáng đẹp, tâm hồn ta sáng đẹp, thì gương mặt bố mẹ, ông bà, tổ tiên cũng sáng đẹp.

Bàn được đến thế là sâu sắc lắm!

Tôi cũng rất ám ảnh bởi câu chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về một người lính Mỹ. Anh tham trận ở Việt Nam. Trong một trận càn, anh đã giết một đứa trẻ con. Đứa trẻ hoàn toàn vô tội. Vì thế, anh ân hận, dằn vặt và đau khổ. Nhiều người lính khác cũng thế. Đó là những người tốt. Chỉ những người tốt mới biết ân hận. Trở về Mỹ, họ mắc một căn bệnh – bệnh hội chứng chiến tranh Việt Nam. Có người bị tâm thần, không còn sống được bình thường, cũng không có bệnh viện nào chữa khỏi. Họ tìm đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh, học một khóa tu của Ngài. 

Thiền sư bảo, dẫu sao anh cũng đã giết người. Bây giờ, anh có dằn vặt, ân hận hay đổi cả mạng sống của mình thì đứa trẻ ấy cũng không thể sống lại được nữa. Tội của anh rất nặng. Nhưng anh vẫn có thể thoát được nghiệp chướng. Đứa trẻ không sống lại được, nhưng vẫn còn rất nhiều những đứa trẻ khác đang nguy kịch. Chúng đang đói khát và tật bệnh. Chúng sẽ chết nếu như không được cứu. Vậy thì anh hãy cứu chúng đi. Anh cứu được một đứa trẻ thoát khỏi cái chết là anh đã giải được nghiệp rồi. Anh cứu được đứa thứ hai, thứ ba, thứ tư…, anh sẽ thành vị Bồ Tát. Và như thế, ngay cả những kẻ tội đồ cũng có thể thành được Bồ Tát, nếu biết tu tập. 

Người lính ấy bỗng như được giải thoát. Anh đã khỏi hẳn bệnh. Đã khỏe mạnh trở về được với đời sống thường ngày. Rồi anh đi làm việc thiện. Không phải anh cứu được một đứa trẻ thoát khỏi cái chết mà anh cứu được hàng trăm đứa trẻ bất hạnh ở Việt Nam và ở khắp nơi trên thế giới.

Tôi tìm mua các cuốn sách về Phật, các bài Kinh, rồi các bài giảng của các Đại đức, Hòa thượng khác. Nhưng phải nói thật, khi đã nghe Thiền sư Thích Nhất Hạnh thuyết pháp rồi thì rất khó nghe các vị sư khác. Nhiều khi, tôi còn thấy dị ứng. Có vị sư giảng Phật pháp mà mắt cứ long lên sòng sọc, giọng vỏng vót, gắt gỏng, đầy sân hận. Có vị vừa giảng vừa trêu ghẹo mấy nữ Phật tử ngồi dưới. Có vị lại còn tạo sự hấp dẫn bằng cách kể những câu chuyện tiếu lâm rất tục tĩu, bợm trợn, kể cả chuyện Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa. Giảng Phật pháp, hướng người ta đến với đạo Phật, lại mang chùa mang sư ra diễu thì ai còn tin Phật, tin sư nữa đây?

Tôi lại phải trở về với Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Lại sưu tầm các đĩa ghi hình những bài pháp thoại của ông. Rồi tôi lọ mọ chuyển các đĩa CD, VCD bài giảng của ông ra MP4, MP3. Tôi đưa vào các Ipod, Ipad rồi tặng bạn bè và người thân của mình. Nhà báo Hoàng Anh Sướng là người đầu tiên tôi tặng món quà quý đó. Tôi biết anh là nhà báo có tài. Anh cũng rất giỏi thuyết giảng. Nhiều bài viết, bài nói của Hoàng Anh Sướng về Trà đạo, về tâm linh, ngoại cảm rất hay, rất hấp dẫn. Bản thân tôi cũng đã viết bài giới thiệu tập sách “Bùa ngải xứ Mường” của anh. Tôi bảo Sướng: “Chú nghe đi. Trong này có hàng ngàn bài hát. Hàng chục cuốn tiểu thuyết đặc sắc của thế giới phát trong chương trình Đọc chuyện đêm khuya của Đài Tiếng nói Việt Nam. Nhưng trước hết, chú hãy nghe phần của Thầy Nhất Hạnh. Nhiều lắm. Nghe các bài thuyết pháp trước rồi nghe các truyện dài của thầy sau”.

Lúc bấy giờ, Hoàng Anh Sướng đang say mê nghiên cứu các nhà ngoại cảm. Anh lầm lụi vượt rừng, vượt núi cùng họ đi tìm mộ liệt sĩ, rồi nghiên cứu các cuộc gọi hồn. Trông anh lúc nào cũng tất tả, bận rộn. Người lúc nóng, lúc lạnh, lúc vui, lúc buồn. Có lúc cũng đau khổ vì sự hục hặc của các nhà ngoại cảm với nhau. Tôi hỏi : “Chú đã nghe chưa? Nghe Thầy Nhất Hạnh thuyết pháp chưa?”. “Em nghe rồi. Nhưng cứ nửa chừng lại bỏ. Ông cụ ề à quá. Cứ tháng Năm một câu, tháng Mười một câu. Oải vô cùng!”. 

Tôi biết mình thật vô duyên. Muốn hướng người thân đến với Phật pháp. Nhưng mặt mình trông cứ gian gian. Làm sao người đời tin được. Người nhẹ dạ còn chả tin thì làm sao thuyết phục được một cây bút sắc lẹm như Hoàng Anh Sướng!

Câu chuyện bỏ lửng đó. Tôi và Hoàng Anh Sướng vẫn gặp nhau thường xuyên nhưng không bàn đến chuyện ấy nữa. Anh cũng quẳng cái Ipod 160 GB tôi tặng ở xó xỉnh nào mất rồi. Tôi không hỏi mà anh cũng chẳng quan tâm.

Thế rồi mùa hè năm 2013, đột ngột anh khoe với tôi: “Thiền sư Thích Nhất Hạnh mời em sang Mỹ ba tháng tham dự những khóa tu và buổi thuyết pháp của thầy dọc nước Mỹ”. “Thế thì chú đi ngay” – Tôi bảo Sướng. “Tuyệt lắm đấy. Bận gì cũng hãy bỏ hết. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Chú phải đi ngay!”.

Quả như sự tiên đoán của tôi. Chuyến đi ấy vô cùng thú vị. Cuộc gặp gỡ giữa nhà báo Hoàng Anh Sướng với Thiền sư Thích Nhất Hạnh như có sự dẫn dắt, sắp đặt của Trời, Phật. Anh có rất nhiều tư liệu quý về Thiền sư Thích Nhất Hạnh do tôi cung cấp trước đó, nhưng vì không chịu nghe nên đến khi tiếp xúc với Thiền sư tại Mỹ, anh vẫn là kẻ tay không. Anh hoàn toàn tinh khiết như một trang giấy trắng. Và rồi, suốt ba tháng theo chân Thiền sư Thích Nhất Hạnh dọc nước Mỹ, anh đã tự khám phá tầm vóc lồng lộng của Thiền sư.

Anh kinh ngạc khi thấy người dân khắp nơi trên hành tinh đổ về nước Mỹ nghe Thiền sư thuyết giảng Phật pháp. Trong số hàng ngàn người nghe đó có những nhà chính trị nổi tiếng, những nhà khoa học lỗi lạc từng được trao giải Nobel. Trình độ, địa vị xã hội và số phận của mỗi người cũng rất khác nhau nhưng họ đều sùng kính Thiền sư, coi Thiền sư như một vị Phật sống. Anh cũng ngạc nhiên khi biết mỗi giờ thuyết giảng của Thiền sư được trả rất nhiều tiền. Nhưng Thiền sư sống vô cùng đạm bạc. Tài sản và vật dụng của Thiền sư chẳng có gì đáng giá. Số tiền khổng lồ ấy, Thiền sư dùng để nuôi hàng ngàn đệ tử trong Tăng đoàn, rồi làm từ thiện cho những người bất hạnh ở khắp nơi trên thế giới. 

Ở Việt Nam, những năm bao cấp, rất nhiều nghệ sĩ nghèo khổ đã nhận được sự giúp đỡ của ngài. Một trong số họ là thi sĩ Hoàng Cầm. Sau này, qua cuốn hồi ký của sư cô Chân Không, tôi mới biết được bí mật ấy. Hoàng Cầm nhận được tiền qua sư cô Chân Không gửi. Và ông cứ tưởng Chân Không là một nhà doanh nghiệp hay một tiểu thư khuê các, một mệnh phụ phu nhân giàu có và lãng mạn, rất yêu những bài thơ tình của ông. Ông hoàn toàn không biết đó là một Ni sư. Và tiền ông nhận là tiền của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Cái tài đặc biệt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là ông đã hiện đại hóa đạo Phật, đưa đạo Phật vào cuộc sống của mọi tầng lớp người, trong đó, có những người Tây phương đã từng theo nhiều tôn giáo khác nhau. Cũng nhờ có ông mà đạo Phật ở phương Tây phát triển rất nhanh và mạnh, đặc biệt được giới trẻ và trí thức hâm mộ. Ông mở nhiều khóa tu tập riêng cho giới doanh nhân, giới bảo hộ môi trường, giới giáo chức, cựu chiến binh, văn nghệ sĩ. Ông cũng mở cả khóa tu cho giới diễn viên Hollywood, các nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ, rồi những khóa tu cho cả cảnh sát, an ninh, và người coi tù. Người dự khóa tu không cần phải quy y nhưng có thể thừa hưởng kho tàng tuệ giác của đạo Phật để tháo gỡ khó khăn trong đời sống nội tâm, tái lập lại truyền thông với những người khác, trong đó có gia đình, đồng nghiệp, đem lại hạnh phúc trong đời sống hàng ngày. 

Điều đáng kinh ngạc là những người tham gia khóa tu của Thiền sư, có người từng là linh mục, là mục sư, như mục sư Robert Schaibly  ở Houston, Texas. Vị mục sư này đã xin thụ trì 5 giới, quy y Tam bảo mà không thấy có sự mâu thuẫn nào giữa đức tin Cơ đốc giáo của bản thân với tuệ giác đạo Phật. Sau đó, ông còn đến Làng Mai của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Pháp để tiếp tục tu học cho đến khi thành một vị giáo thọ của làng Mai, tức là người có khả năng mở những khóa tu theo giáo lý đạo Phật. Vị mục sư này cũng đã viết thư cho bề trên, đề xuất nguyện vọng muốn được vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ đạo Phật. Sáng chủ nhật ông giảng bài cho con chiên, chiều hướng dẫn thiền tập cho mọi người, trong đó có cả những con chiên ở trong nhà thờ…

Ai sinh ra cũng mong mình được hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên, trong Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn đến hạnh phúc. Người dẫn cả tuyên ngôn của nước Mỹ, trong đó khẳng định, con người ai sinh ra cũng có quyền bình đẳng. Đó là quyền bất khả xâm phạm. Trong số những quyền ấy, có quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong tiêu chí của một Quốc gia mà chúng ta luôn vươn tới, cũng là “Độc lập” – “Tự do” và “Hạnh phúc”. Nhưng nói như một nhà thơ: “Hạnh phúc là gì? Bao lần ta lúng túng – Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi vẫn không ra?”. Chúng ta đi tìm hạnh phúc, nhưng sao chỉ gặp những khổ đau. Có lẽ vì quan niệm “Hạnh phúc là đấu tranh” thì làm sao mà hết khổ đau được.

Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, không thể có hạnh phúc từ những cuộc tranh giành. Sự thành công của mình không thể lại phải trả giá bằng sự thất bại của người khác. Tại sao người kia phải thất bại thì mình mới thành công? Tại sao người khác cứ phải đau khổ thì mình mới hạnh phúc? Đó là câu hỏi quan trọng. Làm thế nào để tôi thành công và anh cũng thành công, thì hạnh phúc của ta sẽ lớn hơn, trọn vẹn hơn vì không ai phải đau khổ vì sự thành công của chúng ta hết. Hạnh phúc của chúng ta đâu phải chỉ là quyền lực, danh vọng, tiền bạc. Hạnh phúc là khi chúng ta có tình yêu thương và sự hiểu biết. 

Với đạo Phật, phần lớn chúng ta mới thực tập tín mộ, tín ngưỡng, chứ ít người sử dụng được tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ những khó khăn. Cầu nguyện cũng phần nào đem lại sự an lạc, vì giúp lắng dịu những khổ đau, lo lắng. Nhưng muốn giải quyết tận gốc vấn đề thì phải có tuệ giác, mà tuệ giác phải do tu tập mới có được. Hạnh phúc là an lạc, không có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, thân không an thì tâm làm sao mà an được? Trong khi đó tâm có những cảm giác, cảm xúc như giận hờn, tuyệt vọng, bạo động, nếu không có phương pháp cụ thể thì làm sao nhận diện và chuyển hóa được những bất an của tâm? Trong Kinh Niệm xứ hay Kinh Quán niệm hơi thở, Đức Thế Tôn đã dạy những phương pháp cụ thể để làm lắng dịu những căng thẳng trong thân, trong tâm, rồi nhìn sâu để xem tận gốc rễ của những khổ đau phiền não đó do đâu, từ đó mới bắt đầu chuyển hóa được đau khổ, mới có được hạnh phúc.

Cũng theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đạo Phật ngày xưa giúp đất nước nhiều lắm. Học giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng, đạo Phật giúp đời Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử, khi từ vua quan tới thường dân đều thực tập đạo Phật. Đời Trần cũng vậy. Sau khi chiến thắng Nguyên Mông, quan quân có đệ trình lên một hòm tài liệu của một số viên chức chính quyền liên lạc với giặc. Nhưng Vua Trần Thánh Tông đã đem hòm tài liệu đó đốt trước mặt bá quan để yên tâm trăm họ, bởi chúng ta đã giành được độc lập, đẩy lui được quân thù thì cần nhất bây giờ là đoàn kết quốc gia. Đó là hành động phát sinh từ tuệ giác của đạo Phật. Hiện giờ, ta có thể học theo những hành động như thế. Cố nhiên là trong chiến tranh chúng ta bị chia rẽ, có những ý thức hệ đối chọi nhau, có những nhận thức khác nhau về chính trị, có cách thức yêu nước khác nhau. Giờ phải làm thế nào để buông bỏ thái độ đã trở nên không còn phù hợp với thực tiễn. Đừng cho rằng chỉ có lý thuyết của mình là duy nhất đúng, còn mọi lý thuyết khác đều sai lầm. Thái độ bám vào một chủ thuyết, không bao dung đó sẽ tiếp tục làm cho dân ta khổ.

“Trong giới luật Tiếp hiện của chúng tôi có đưa ra tinh thần đạo Phật là không thờ phụng bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, kể cả đó là lý thuyết Phật giáo. Đạo Phật đưa ra những phương tiện để tu tập, để học hỏi, để chuyển hóa bản thân chứ không phải là những lý thuyết để thờ phụng, để phải phát động những cuộc chiến đẫm máu. Tôi nghĩ thái độ đó rất cần thiết. Vua A Dục ca ngày xưa sau khi thống nhất đất nước đã đi tu, yểm trợ cho các tôn giáo để các tôn giáo thống nhất nhân tâm. Vì thế, vua A Dục ca thống nhất được nhân tâm sau khi thống nhất lãnh thổ. Chúng ta nên học bài học đó. Chúng ta thống nhất Nam Bắc nhưng chưa thống nhất được lòng người, vẫn có sự tị hiềm, hận thù, đau khổ trong lòng mỗi chúng ta. Áp dụng đạo Phật là để buông bỏ những hận thù trong quá khứ. Đó là một trong những thực tập mà ta có thể thực hiện ngay, để thống nhất lòng người, ôm lấy nhau mà sống…”

Cái tài của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là thế. Ông giảng Phật pháp mà không thấy chùa, cũng không thấy Kinh, không thấy Phật, chỉ thấy đời sống, thấy những chuyện nóng hổi của đất nước, của xã hội, của gia đình mình và của chính mình. Đến với Phật không phải trông chờ vào phép mầu nhiệm của Phật trong cõi huyền bí nào đó. Điều quan trọng là chúng ta phải vững tin. Tin vào chính mình. Nghĩa là ta phải tự biến ta thành Phật, để tự giải thoát cho mình. Nhiều khi chỉ thay một quan niệm, chúng ta đã thoát được khổ đau, đã tìm thấy hạnh phúc đích thực. Bởi nhiều khi chính ý niệm về hạnh phúc lại là chướng ngại của hạnh phúc. Ta bị mắc kẹt, bị cầm tù bởi chính ý niệm của mình. Không phá được cái nhà tù tự mình dựng lên để giam hãm mình thì làm sao có được hạnh phúc.

Nhà báo Hoàng Anh Sướng trong buổi ra mắt sách “Hạnh phúc đích thực” tại Hà Nội. Ảnh: Vnexpress

Nguồn:

http://radiovietnam.vn/nhan-vat/2015/04/nha-tho-tran-dang-khoa-chuyen-doi-thuong–nhan-ngay-quoc-te-hanh-phuc-doc-nhanh-phuc-dich-thucn-p1/

http://radiovietnam.vn/nhan-vat/2015/04/nha-tho-tran-dang-khoa-chuyen-doi-thuong–nhan-ngay-quoc-te-hanh-phuc-doc-nhanh-phuc-dich-thucn-p2/


Google tìm cầu tuệ giác của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

 

Các tập đoàn công nghệ toàn cầu đang tìm cách ứng dụng sự thực tập chánh niệm và thiền định vào hoạt động của mình để có được hạnh phúc và sự phát triển bền vững.

 

 

Tại sao nhiều tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới, trong đó có Google, lại dành sự quan tâm đặc biệt đối với một vị Thiền sư Phật giáo người Việt đã 87 tuổi?

Câu trả lời là tất cả các tập đoàn này đều mong muốn tìm hiểu: làm thế nào những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – thường được hàng trăm ngàn đệ tử trên khắp thế giới gọi một cách thương kính là Thầy – có thể giúp cho tổ chức của họ có thể hoạt động một cách hiệu quả hơn và mang lại nhiều hạnh phúc hơn.

Thầy Nhất Hạnh được mời hướng dẫn một ngày thực tập chánh niệm tại trụ sở chính của Google tại California vào cuối tháng này – đây là một dấu hiệu cho thấy sự thực tập chánh niệm đang bắt đầu trở nên phổ biến trong xã hội hiện nay. Thầy – tác giả của hơn 2 triệu cuốn sách được bán ra ở Mỹ – sẽ có một buổi gặp gỡ với hơn 20 Giám đốc điều hành (CEO) của các tập đoàn công nghệ có trụ sở ở Mỹ tại Silicon Valley để chia sẻ tuệ giác của Thầy về nghệ thuật an trú trong hiện tại.

Trong buổi gặp gỡ này, Thầy dự định sẽ thảo luận với các Giám đốc điều hành của các tập đoàn công nghệ về cách thức làm thế nào để họ có được một sự hiểu biết sâu sắc về bản chất gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa mọi người và mọi loài. Với hiểu biết đó, họ có thể hiến tặng những công cụ thực tiễn để đưa sự thực tập chánh niệm trở thành một phần thiết yếu trong công việc hàng ngày của họ, trong những sản phẩm mà họ chế tạo ra cũng như trong chiến lược mà họ vạch định để khoa học công nghệ có thể mang lại sự thay đổi cho thế giới này. Buổi gặp gỡ này sẽ kết thúc bằng sự thực tập thiền hành.

Những nỗ lực của Thầy trong hơn 50 năm qua đã được nhiều nhà lãnh đạo thế giới ghi nhận. Giám đốc Ngân hàng thế giới Jim Yong Kim đã nói rằng phương pháp thực tập của Thầy Nhất Hạnh là phương pháp “giúp cho chúng ta có thể cảm thông và thương yêu một cách sâu sắc đối với những người đang khổ đau”. Thầy cũng đã từng được Mục sư Martin Luther King đề cử cho Giải Nobel Hòa bình vào năm 1967 vì những nỗ lực của Thầy trong việc kêu gọi hòa bình và chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam.

Mục sư Luther King nói rằng việc trao giải Nobel Hòa bình cho Thầy Nhất Hạnh “sẽ một lần nữa làm cho nhân loại thức tỉnh trước bài học lớn về cái đẹp và tình yêu được tìm thấy trong hòa bình. Nó làm sống dậy niềm hy vọng về một trật tự mới mang tính công bằng và hòa hợp cho thế giới này.”

Thầy Nhất Hạnh xuất gia đã được 71 năm. Mặc dù tuổi đã cao, Thầy vẫn liên tục đi hoằng pháp khắp nơi trên thế giới. Thầy hiện đang trong chuyến đi hoằng pháp ba tháng tại Bắc Mỹ với lịch trình khá nặng. Trước đó, Thầy đã có chuyến đi hoằng pháp tại châu Á cũng trong 3 tháng.

Tăng thân xuất sĩ của Thầy Nhất Hạnh được đánh giá là tăng thân có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Vé tham dự những khóa tu do Thầy hướng dẫn trong 1 tuần tại Toronto, Canada hay tại New York, Mississippi và California – mỗi khóa tu đều có hơn 1000 tham dự – đều được bán hết chỉ trong vài ngày.

Nền kinh tế chạy theo ham muốn

Thầy Nhất Hạnh cảnh báo rằng nền văn minh của chúng ta đang có nguy cơ sụp đổ trước những thiệt hại nghiêm trọng về xã hội cũng như môi trường sinh thái do nền kinh tế chạy theo ham muốn gây nên. Thầy cũng đồng thời chỉ ra cho chúng ta một hướng đi mới, đó là xây dựng một nền kinh tế lấy hạnh phúc chân thực làm mục tiêu, thay vì hy sinh hạnh phúc của mình để thờ phụng chủ nghĩa vật chất như bấy lâu nay chúng ta vẫn làm.

Những lời dạy của Thầy tập trung chủ yếu vào sự thực tập chuyển hóa khổ đau bằng cách buông bỏ những ưu sầu của quá khứ cũng như những lo lắng về tương lai, thông qua thiền định và nếp sống chánh niệm.

Thầy đã chỉ ra rằng tình trạng đam mê tiêu thụ hiện nay là dấu hiệu cho thấy chúng ta đang cố gắng khỏa lấp khổ đau trong chính mình. Và Thầy đề nghị chúng ta nên đi theo hướng ngược lại, đó là trở về để tiếp xúc trực tiếp với nỗi khổ, niềm đau trong ta để có thể vượt thoát những khổ đau đó.

Thầy cho rằng để các doanh nghiệp có thể đóng vai trò quan trọng trong việc chận lại con tàu tư bản đang chạy trật đường ray thì trước tiên các nhà lãnh đạo tập đoàn cần phải nhận ra sai lầm căn bản của mình, đó là cách tư duy hạn hẹp, lấy lợi nhuận làm thước đo duy nhất cho sự thành công của tập đoàn.

Cần có sự thay đổi căn bản trong nhận thức của các doanh nghiệp

Các doanh nghiệp cần phải trải qua một quá trình chuyển đổi căn bản về nhận thức. Họ cần phải nhận ra tầm quan trọng của việc đưa những giá trị tâm linh vào trong đời sống hàng ngày.

Trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Guardian vào cuối khóa tu tuần trước tại Catskill Mountains về nghệ thuật chuyển hóa khổ đau, Thầy chia sẻ rằng: “Chúng ta cần phải xem lại quan niệm của chúng ta về hạnh phúc. Chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có được khi nào chúng ta giành thắng lợi, khi chúng ta giành được vị trí đứng đầu. Tuy nhiên, sự thực thì không cần thiết phải như vậy. Bởi vì ngay cả khi chúng ta kiếm được nhiều tiền hơn, chúng ta vẫn khổ đau như thường. Chúng ta cạnh tranh bởi vì chúng ta không hạnh phúc. Thiền tập có thể giúp cho chúng ta bớt khổ hơn”.

“Nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi nào chúng ta vượt lên trên những người khác, khi nào chúng ta trở thành nhân vật số 1. Sự thực là chúng ta không cần phải trở thành “number one” mới có thể hạnh phúc.

“Chúng ta cần phải có một hướng đi tâm linh trong đời sống của mình cũng như trong công việc kinh doanh, nếu không chúng ta không thể nào có thể xử lý những khổ đau do công việc và đời sống hàng ngày tạo ra.”

Các kỹ sư Google trao đổi và thực hành thiền

Những cuộc gặp gỡ với Mục sư Martin Luther King

Nhớ lại những lần gặp gỡ với Mục sư Luther King – những cuộc gặp gỡ này có ảnh hưởng rất quan trọng đến quyết định đấu tranh cho hòa bình và chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam của nhà tranh đấu cho dân quyền nổi tiếng thế giới này, Thầy Nhất Hạnh nói rằng Tổng thống Obama đã bỏ sót một yếu tố quan trọng trong bài phát biểu của mình vào tuần trước, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Mục sư Martin Luther King đọc bài diễn văn bất hủ có tựa đề “Tôi có một giấc mơ”   (I have a dream).

Khi Tổng thống Obama kêu gọi hãy để cho tự do được vang tiếng bay xa (let freedom ring), Tổng thống chỉ nói về tự do đến từ bên ngoài như tự do chính trị, tự do xã hội, nhưng thực tế là ngay cả khi chúng ta có rất nhiều tự do về tổ chức, về ngôn luận, về báo chí, v.v. chúng ta vẫn có thể khổ đau như thường bởi vì chúng ta không có tự do ở bên trong chúng ta, đó là sự tự do khỏi những giận hờn và sợ hãi”, Thầy chia sẻ.

Một trong những điều tâm huyết của Mục sư Luther King là xây dựng những cộng đồng, những đoàn thể sống hạnh phúc mà ông gọi là Beloved Community (tạm dịch là Tăng thân yêu quý). Cũng với mong ước đó, Thầy Nhất Hạnh đã dành hết tâm lực của mình cho việc xây dựng hơn một ngàn tăng thân cư sĩ trên khắp thế giới.

Tuy nhiên, liệu các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thể tạo ra một sự thay đổi tích cực hơn thông qua việc xây dựng tinh thần tăng thân, xây dựng văn hóa tập thể trong doanh nghiệp của mình?

Chánh niệm và thiền tập tại công sở

Thầy Nhất Hạnh cho rằng phương pháp thực tập chánh niệm và thiền tập nếu được áp dụng vào các doanh nghiệp sẽ giúp cho họ thay đổi được cách sống, cách làm việc có tính tiêu cực, đồng thời giúp họ nhận ra được bản chất tương tức và phụ thuộc lẫn nhau giữa mọi người và mọi loài.

“Thiền tập có thể giúp cho các thành viên trong doanh nghiệp vơi bớt khổ đau,” Thầy nói. “Chỉ riêng điều này thôi cũng đủ hữu ích rồi, bởi vì nếu nhân viên của một doanh nghiệp có đủ hạnh phúc thì doanh nghiệp đó sẽ làm ăn hiệu quả hơn.”

“Trong trường hợp công ty của anh đang có những hoạt động gây tổn hại môi trường, và bởi vì anh đã thực tập thiền nên anh có thể có được một cái thấy, cái thấy này sẽ giúp anh tìm ra cách thức điều hành công ty của mình theo hướng làm giảm nhẹ những tổn hại đối với môi trường.

“Thiền tập có tác dụng làm lắng dịu nỗi khổ, niềm đau trong ta, đồng thời mang lại cho ta nhiều tuệ giác và một cái thấy chân thực (chánh kiến) về chính bản thân mình và về thế giới. Và nếu ta có được tuệ giác của một tập thể thì chắc chắn là ta sẽ tổ chức và điều hành hoạt động của doanh nghiệp mình theo hướng làm cho thế giới này vơi bớt khổ đau.”

Theo Thầy, đem chánh niệm vào công sở, vào các doanh nghiệp còn có tác dụng giúp cho các nhân viên  tránh được tình trạng bị quá tải bởi công việc, tuy nhiên để làm được điều này thì các chủ doanh nghiệp, các giám đốc công ty cần phải làm gương trước.

 

Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần phải biết chăm sóc chính mình trước tiên

Thầy cho rằng nhiều lãnh đạo cao cấp của các tập đoàn đã bắt đầu đề cập đến tầm quan trọng của sự phát triển bền vững, tuy nhiên rất ít người trong số đó thấy được mối liên hệ giữa sự phát triển bền vững của một doanh nghiệp với văn hóa bên trong của doanh nghiệp mà họ đang điều hành.

“Nếu người giám đốc doanh nghiệp dành toàn bộ thời gian của mình cho công việc của doanh nghiệp, người đó sẽ không còn thời gian để chăm sóc cho chính mình hay cho gia đình của mình. Người giám đốc đó cần phải nhận ra rằng doanh nghiệp của mình sẽ hoạt động hiệu quả hơn nếu người đó trở nên lắng dịu, tươi mát hơn, có khả năng cảm thông và thương yêu nhiều hơn” Thầy nói.

Trong điều kiện hiện nay khi mà máy tính trở nên quá phổ biến và tiện dụng với tốc độ xử lý ngày càng nhanh thì các giám đốc doanh nghiệp lại càng khó có được thời gian cho riêng mình, thời gian để nhìn lại bản thân và tìm niềm cảm hứng cho cuộc đời mình.

Sức mạnh của Vô tác

Thầy chia sẻ về tầm quan trọng của sự thực tập vô tác (aimlessness), tức là không chờ đợi kết quả, không mong cầu gì hết khi hành động, không có đối tượng nào để chạy theo. Thông thường chúng ta hay có thói quen chạy theo hết dự án này đến dự án khác, không ngừng nghỉ.

“Chúng ta thường cho rằng hạnh phúc nằm ở tương lai, vì vậy sự thực tập vô tác là dừng lại, không đuổi theo một đối tượng nào nữa cả và tìm hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây”, Thầy nói.

“Hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có bình an. Nếu ta cứ mãi đuổi theo một đối tượng nào đó thì làm sao ta có thể có bình an. Ta cứ chạy hoài, chạy mãi, ngay cả trong giấc mơ chúng ta vẫn còn chạy. Đó là thực trạng của nền văn minh chúng ta”.

“Chúng ta phải đi ngược lại xu hướng này. Chúng ta phải trở về với chính mình, trở về với những người thân yêu, trở về với thiên nhiên. Lâu nay chúng ta để cho các thiết bị điện tử kéo chúng ta ra khỏi chính mình. Chúng ta đánh mất mình trong Internet, trong các dự án, các kế hoạch kinh doanh, vì vậy mà chúng ta không có thời gian cho chính mình. Chúng ta không có thời gian để chăm sóc những người mà ta thương yêu và cũng đồng thời không để cho Đất Mẹ có cơ hội trị liệu cho chúng ta. Chúng ta luôn có xu hướng trốn chạy khỏi chính mình, khỏi gia đình và khỏi thiên nhiên xung quanh.”.

Hầu hết các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đều khó nói ra những áp lực mà họ đang phải gánh chịu. Tuy nhiên gần đây một số giám đốc điều hành của những tập đoàn nổi tiếng đã can đảm chia sẻ với công chúng về những áp lực trong công việc của mình, tương tự như những lo ngại của Thầy Nhất Hạnh.

Từ chức một vài tháng trước khi tập đoàn của mình bị phá sản, Erin Callan, cựu Giám đốc Tài chính của tập đoàn Lehman Brothers, đã can đảm viết lại những trải nghiệm của mình khi bị công việc lôi kéo hoàn toàn và chia sẻ điều đó với công chúng vào đầu năm nay.

“Khi quyết định nghỉ việc ở công ty, tôi cảm thấy suy sụp và buồn khổ vô cùng”, Erin Callan chia sẻ trên tờ New York Times. “Tôi không thể nào lấy lại sức lực và đi tiếp được nữa. Tôi không biết phải dựa vào đâu để khẳng định chính mình nếu không có công việc.”

“Vào ngày nghỉ cuối tuần, nếu không phải làm thêm việc của công ty thì tôi cũng dành thời gian để sạc lại năng lượng cho một tuần làm việc kế tiếp. Nói chung, đối với tôi lúc đó, công việc luôn chiếm vị trí ưu tiên số 1, trên cả gia đình, bạn bè và cả việc hôn nhân – chuyện hôn nhân của tôi cũng chỉ kéo dài được một vài năm.”

Bản chất lưỡng nguyên của công nghệ

Mặc dù lo ngại về những tác dụng tiêu cực của công nghệ, Thầy vẫn nhận thấy bản chất lưỡng nguyên của công nghệ, nghĩa là bên cạnh những tác dụng tiêu cực, công nghệ cũng có tác dụng rất hữu ích. Đó là lý do vì sao trong cuộc gặp gỡ sắp tới, Thầy sẽ kêu gọi các Giám đốc điều  hành của các tập đoàn công nghệ tập trung phát triển các phần mềm ứng dụng và những thiết bị công nghệ khác để giúp đưa mọi người trở về với một cuộc sống cân bằng.

“Chúng ta cần phải có sự tỉnh thức. Khi nói chuyện với Google và các tập đoàn công nghệ khác, tôi sẽ đề nghị họ sử dụng trí tuệ và thiện chí của mình để tạo ra những phương tiện, những công cụ có khả năng giúp cho mọi người trở về với chính mình, để trị liệu cho chính mình” Thầy nói. ” Chúng ta không loại trừ hay vứt bỏ tất cả các thiết bị công nghệ này, mà chúng ta có thể hoàn toàn tận dụng được những tiến bộ của công nghệ.”

Thầy gợi ý về việc phát triển những phần mềm ứng dụng có khả năng giúp mọi người lắng dịu cơn giận khi nó phát khởi. Thầy cũng đề cập đến loại đồng hồ Now Watch được Thầy thiết kế với mục đích giúp mọi người trở về với phút giây hiện tại: trên mặt đồng hồ, mỗi giờ được đánh dấu bằng chữ “Now” (nghĩa là Bây giờ) thay vì số giờ như thông thường.

Google đã mời Thầy chia sẻ về những nội dung như: xây dựng mục tiêu trong công việc, sự sáng tạo và tuệ giác. Thầy nói rằng chúng ta đều có thể đạt được những điều này thông qua sự thực tập chánh niệm.

Thầy đã được mời đến thăm tập đoàn Google vào năm 2011 và kể từ đó, sự thực tập chánh niệm đã được áp dụng nhanh chóng tại tập đoàn công nghệ hàng đầu này. Số lượng người tham gia vào chương trình “Tìm kiếm trong tự thân” (Search Inside Yourself) – chương trình thiền tập chính thức của Google – ngày càng tăng. Các phòng dành cho thiền tập cũng đã được thiết kế bên trong nhiều tòa nhà làm việc của Google.

Thầy nói rằng: “Cũng như mọi người, các nhân viên của Google cũng mong muốn học hỏi cách thức chuyển hóa khổ đau của chính mình”.

“Đa số các nhân viên ở đây đều còn rất trẻ và tài năng, vì vậy mà họ có thể hiểu và thực tập những điều Thầy dạy một cách nhanh chóng. Họ còn có đủ phương tiện để đem sự thực tập này đến được với rất nhiều người.”

“Sẽ rất hữu ích nếu họ biết rằng ai trong chúng ta cũng có ước mong làm những điều đẹp và lành, bởi vì mỗi người trong chúng ta đều có tính Bụt. Khi nhìn vào con đường bất thiện, không chân chính, chúng ta có thể tìm thấy trong đó một con đường ngược lại. Cũng như nhìn vào khổ đau, chúng ta sẽ thấy được con đường đưa tới hạnh phúc. Đây là giáo lý Tứ Diệu Đế trong đạo Bụt, nhưng chúng ta không cần phải là một Phật tử mới có thể hiểu được điều đó.

“Xã hội của chúng ta đang cần một sự tỉnh thức tập thể để có thể cứu chúng ta ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Vì vậy chúng ta cần phải thực tập để chế tác năng lượng tỉnh thức trong từng bước chân và từng hơi thở. Nếu ta có được sự tỉnh thức thì cũng có nghĩa là ta đang đi trên con đường hạnh phúc, ta có thể chuyển hóa được khổ đau trong ta. Và khi đó ta có thể giúp những người khác làm được tương tự.”

 

Nghe Tổng thống Mỹ nói chuyện, nhớ về Thiền sư Nhất Hạnh

Tổng thống Mỹ Obama đến Việt Nam là câu chuyện được bàn tán khắp nơi trong những ngày này. Người dân Việt Nam muốn được tận mắt gặp gỡ và chứng kiến sự hiện diện của “người đàn ông quyền lực nhất thế giới”. Và mỗi người ấn tượng về ông một cách khác nhau.

Cá nhân tôi rất xúc động khi được nghe Tổng thống Obama trực tiếp nhắc đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh, vị thầy mà tôi luôn thương kính: "…Hai nước đã học được bài học như Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng nói: đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi…" ("We learned a lesson taught by the venerable Thich Nhat Hanh, who said, “In true dialogue, both sides are willing to change.*). Những lời thú vị này được người đứng đầu nước Mỹ nói ra hôm nay tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia trong buổi nói chuyện với giới trí thức và học sinh, sinh viên Thủ đô Hà Nội.

Được nghe những lời nói này từ Tổng thống Obama hôm nay, tôi thật sự xúc động. Trong bài nói chuyện được chuẩn bị rất công phu, ông đã nhắc đến cả Lý Thường Kiệt lẫn Bà Trưng, Bà Triệu, cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp lẫn nhà thơ Nguyễn Du, cả chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh đến nhạc sĩ Văn Cao, cả nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và giáo sư Ngô Bảo Châu. Tuy nhiên Thiền sư Thích Nhất Hạnh được ông nhắc đến ngay từ đầu.

Đạo Phật luôn chủ trương bất bạo động. Thiền sư Thích Nhất Hạnh bao năm dành tâm huyết, trí tuệ, thời gian, công sức để vận động cho hòa bình. Thầy Nhất Hạnh đã cùng với mục sư Martin Luther King kêu gọi chống chiến tranh Việt Nam. Thầy Nhất Hạnh đã có rất nhiều buổi nói chuyện và thuyết giảng về hòa bình. Và hôm nay, ngồi nghe Tổng thống Obama nói chuyện tại Hà Nội, tai tôi như ngấm rất sâu câu nói “In true dialogue both sides are willing to change.” (đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi).

Thầy và Tăng thân thiền hành quanh Hồ Hoàn Kiếm trong chuyến về Việt Nam năm 2005

Tôi nhớ về lần gặp Thiền sư Thích Nhất Hạnh vào năm 2005, cách đây đã 11 năm. Tôi nhớ về những lần được nghe Thầy giảng và trực tiếp hướng dẫn thiền trong các năm 2005, 2007, 2008 tại Việt Nam và 2013 tại Thái Lan. Tôi nhớ lắm hình ảnh Thầy rất hiền từ và thân mật. Và thật khó quên rằng Thầy đã từng được Mục sư Luther King đề cử cho Giải Nobel Hòa bình. Và hôm nay, câu nói của Thầy đã được Tổng thống Obama trích dẫn làm cho tôi thấy kính yêu thầy quá đỗi.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh luôn dạy học trò chúng tôi thực hành chánh niệm. Tôi luôn nhắc mình chánh niệm mọi lúc, mọi nơi. Và hôm nay, tại trung tâm Hội nghị Quốc gia, từ mindfulness, tức chánh niệm, được Tổng thống Obama nhắc đến hai lần trong bài nói chuyện. Ngồi nghe Tổng thống nói mà tôi thấy hạnh phúc vô cùng.

Tôi nghĩ và quán chiếu về từ “truyền thông” mà thiền sư Thích Nhất Hạnh hay dùng khi nói về các mối quan hệ trong gia đình, tại cơ quan, ngoài xã hội. Bài giảng về cách tái thiết lập truyền thông trong các mối quan hệ của Thầy vẫn đang nằm trong tâm tôi. Đúng là rất cần truyền thông. Quả là rất cần đối thoại chân thành. Hôm nay, khi nói đến quan hệ Việt – Mỹ, khi nhìn về quá khứ, Tổng thống Obama lại trích dẫn lời thiền sư, rằng “đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi”.

Tổng thống Mỹ không là Phật tử nhưng ông đã rước tượng Phật vào Nhà trắng. Ông không là con Phật nhưng lại có những câu nói mà hôm nay tôi và nhiều người thấy ấn tượng vô cùng. Phải có tâm Phật thì Tổng thống Obama mới khẳng định rằng trái tim có thể thay đổi khi ta từ chối làm tù nhân của quá khứ. Thật sâu sắc.

Tôi ngồi nghe và rất ấn tượng, rất ghi nhớ rất nhiều những câu nói của Tổng thống Obama, trong đó có:

"Việt Nam là đất nước đầy truyền thống. Trong lịch sử, nhiều lần các bạn không được tự quyết định số phận của mình".

"Câu chuyện hai nước là bài học cho cả thế giới, rằng trái tim có thể thay đổi, khi ta từ chối làm tù nhân của quá khứ, rằng hòa bình tốt hơn chiến tranh".

"Việt Nam là nước độc lập, có chủ quyền, không nước nào có thể áp đặt, quyết định số phận thay Việt Nam".

"Không nước nào là hoàn hảo, kể cả Mỹ".

Tôi nhớ đến Thiền sư Nhất Hạnh với những khóa thiền cho thiền sinh phương tây tại rất nhiều nước trên thế giới. Tôi nhớ đến những lần được ngồi bên Thầy, được đi thiền hành cùng Thầy. Tôi thấy tim mình rung động khó tả khi nhận thấy rất rõ tình yêu đất nước và dân tộc Việt Nam vô cùng lớn của Thiền sư.

Hôm nay, ngồi nghe những câu nói của Tổng thống Obama mà tôi cứ suy nghĩ mãi. Mà đáng nghĩ lắm khi người đứng đầu Nhà trắng nói những câu rất hay, rất sâu sắc. Chúng ta cùng đọc nhé:

“Tự do tôn giáo sẽ khiến người dân yêu thương nhau hơn”.

“Hai nước đã từng chiến tranh, giờ chúng ta lại cùng nhau gìn giữ hòa bình thế giới. Mọi việc không phải sau một đêm là có. Có những khó khăn, thụt lùi. Nhưng tôi đứng đây, trước các bạn, rất lạc quan về tương lai của hai nước”.

May thay Việt Nam chúng ta có một thiền sư nổi tiếng thế giới như Thiền sư Thích Nhất Hạnh. May thay, nhờ Tổng thống Obama mà thêm nhiều người dân Việt Nam và công dân toàn cầu biết đến và hiểu hơn về triết lý đối thoại của Thiền sư. May thay, trong ngày hôm nay, thêm thật nhiều người hiểu về giá trị của chánh niệm, của hòa bình, của bất bạo động. May thay câu nói “In true dialogue both sides are willing to change.” (đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi) của Thiền sư Nhất Hạnh đã, đang và sẽ vang đi khắp muôn nơi. May thay câu nói này được nói ra từ chính “người đàn ông quyền lực nhất thế giới” tại trung tâm hội nghị Quốc gia, thủ đô Hà Nội.

Tôi thấy hạnh phúc vô cùng. Tôi thấy bình an kỳ lạ. Tự nhiên tôi muốn bay ngay sang Pháp, đến Làng Mai để thăm Thầy, để được quỳ gối dưới chân Thầy và nói một từ biết ơn.

TS Nguyễn Mạnh Hùng

Chủ tịch công ty sách Thái Hà

*********************

(*) Câu nói: “In true dialogue, both sides are willing to change" (đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi…) được trích từ tác phẩm "Living Buddha, Living Christ" của Thiền sư Nhất Hạnh.

 

* Toàn văn bài phát biểu của Tổng thống Obama (chuyển ngữ từ tiếng Anh):

 

Xin chào!

Xin chào Việt Nam!

Xin cảm ơn!

Xin cảm ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam về sự đón tiếp nồng hậu và sự hiếu khách mà quý vị đã dành cho tôi trong chuyến thăm này. Xin cám ơn các bạn vì đã có mặt tại đây ngày hôm nay.

Có rất nhiều các bạn trẻ từ khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam đã có mặt tại đây, họ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam. Trong chuyến thăm này, tình cảm chân thành của người dân Việt Nam đã chạm đến trái tim tôi. Có rất nhiều người đã xuống đường vẫy tay và tươi cười với tôi để thể hiện tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Tối qua, tôi đã đi thăm khu phố cổ Hà Nội và được ăn những món ăn Việt Nam rất ngon. Tôi đã ăn bún chả và uống bia Hà Nội. Tôi phải nói thật rằng, đường phố của các bạn rất nhộn nhịp và cả đời mình tôi chưa từng thấy nhiều xe máy đến vậy. Tôi chưa thử tìm cách sang đường nhưng có lẽ khi tôi quay trở lại, các bạn sẽ giúp tôi làm điều này.

Tôi không phải là Tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Việt Nam trong thời gian qua, nhưng tôi là Tổng thống đầu tiên, cũng như nhiều bạn có mặt tại đây đã lớn lên sau chiến tranh.

Khi binh sĩ Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, tôi mới 13 tuổi. Chính vì thế, ấn tượng của tôi về Việt Nam chỉ có khi tôi ở Hawaii thông qua Cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Nhưng cũng vào thời điểm đó, có rất nhiều người Việt Nam thậm trí còn trẻ hơn tôi rất nhiều. Giống như 2 con gái của tôi, các bạn khi sinh ra chỉ biết đến hòa bình và khi Mỹ và Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ.

Khi tôi đến đây, tôi nhận thức rõ về những khó khăn trong quá khứ nhưng lại muốn tập trung hoàn toàn vào tương lai vào sự thịnh vượng, an ninh và phẩm giá con người mà chúng ta cùng nhau vun đắp.

Tôi đến đây với tất cả sự tôn trọng dành cho lịch sử lâu đời của Việt Nam. Từ hàng nghìn năm qua, những người nông dân đã canh tác trên mảnh đất này. Lịch sử của mảnh đất này được hé lộ từ những hoa văn trên Trống đồng Đông Sơn và Hà Nội đã đứng vững bên dòng sông Hồng từ hơn 1.000 năm qua. Thế giới rất coi trọng sản phẩm lụa và các bức tranh của Việt Nam. Văn Miếu của các bạn đã trường tồn cùng thời gian như một bằng chứng rõ ràng về sự hiếu học của người Việt.

Hàng trăm năm qua, vận mệnh của Việt Nam đã bị nhiều nước khác can thiệp và mảnh đất này đã có lúc bị xâm chiếm. Tuy nhiên, cũng giống như cây tre, tinh thần bất khuất của các bạn được thể hiện rõ qua câu thơ thần của danh tướng Lý Thường Kiệt:

“Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời”.

Ngày hôm nay, chúng ta cùng nhìn lại lịch sử lâu đời giữa Mỹ và Việt Nam với rất nhiều sự giao thoa. Hơn 200 năm trước, khi người cha lập quốc của nước Mỹ Thomas Jefferson tìm cách mua lúa để trồng trong các trang trại của mình, ông đã tìm đến lúa của Việt Nam, loại lúa gạo mà theo ông là trắng nhất, ngon nhất và năng suất nhất.

Trong Thế chiến thứ 2, người Mỹ cũng đã giúp Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ. Khi máy bay của các phi công Mỹ bị bắn rơi, người Việt Nam đã tìm cách cứu họ.

Vào ngày Việt Nam tuyên bố giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Lẽ ra, cuộc chiến nhằm lật đổ chế độ thực dân đã khiến nhân dân hai nước nhanh chóng đoàn kết với nhau hơn. Tuy nhiên, thay vì thế, nỗi sợ hãi chủ nghĩa Cộng sản, Chiến tranh Lạnh, và sự thù địch đã đẩy chúng ta vào một cuộc chiến. Từ các cuộc xung đột trong lịch sử thế giới, chúng ta hiểu ra được một sự thật đau đớn rằng, chiến tranh, dù vì lý do gì cũng mang đến thương đau và bi kịch.

Các nghĩa trang liệt sĩ và bàn thờ tại các gia đình Việt Nam nhắc nhở chúng ta rằng, có hơn 3 triệu binh sĩ và dân thường của Việt Nam đã mất trong chiến tranh.

Tại Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam tại Washington, chúng ta có thể chạm tay vào tên của hơn 58.315 binh sĩ Mỹ chết trong Chiến tranh Việt Nam. Ở cả Mỹ và Việt Nam, nhiều cựu chiến binh và cả những thân nhân của các liệt sĩ vẫn rất đau đớn trước sự ra đi của những người thân yêu nhất.

Tại Mỹ, có một câu nói như thế này: “Dù chúng ta có bất đồng gì về cuộc chiến đó, chúng ta vẫn phải tôn trọng những người đã phục vụ trong quân ngũ và chào đón họ về với những nghi thức mà họ xứng đáng được hưởng”. Ngày hôm nay, Việt Nam và Mỹ đã hàn gắn với nhau và nhận thức rõ nỗi đau và sự hy sinh mà cả hai phía đã phải trải qua.

Trong 2 thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể và ngày hôm nay, thế giới phải công nhận những gì mà các bạn đã đạt được. Thông qua việc cải cách kinh tế và các thỏa thuận thương mại với các nước, trong đó có Mỹ, Việt Nam đã tham gia vào nền kinh tế toàn cầu và xuất khẩu hàng hóa đi khắp thế giới. Các khoản đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày một nhiều hơn.

Với tư cách là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất châu Á, Việt Nam giờ đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình trên thế giới. Chúng ta có thể nhận thấy sự phát triển của Việt Nam thông qua những tòa nhà cao tầng chọc trời, các trung tâm mua sắm tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị vệ tinh.

Chúng ta đã thấy Việt Nam phóng vệ tinh vào vụ trũ và một thế hệ người Việt mới tham gia nhiều hơn vào các hoạt động trực tuyến, khởi nghiệp và điều hành các quỹ đầu tư mạo hiểm.

Chúng ta nhận thấy hàng triệu người Việt Nam đã kết nối với Facebook và có tài khoản Instagram và các bạn không chỉ chụp ảnh selfie (dù tôi được nghe là các bạn làm điều này rất thường xuyên và cho đến thời điểm này đã có rất nhiều bạn đề nghị chụp ảnh selfie với tôi), mà còn lên tiếng về những gì mà các bạn quan tâm như bảo vệ những cây cổ thụ ở Hà Nội.

Sự năng động này đã mang đến những đổi thay thực sự trong đời sống của người dân. Tại Việt Nam, các bạn đã thành công trong việc xóa đói giảm nghèo và tăng thu nhập cho các gia đình và khiến hàng triệu người trong xã hội nhanh chóng gia nhập tầng lớp trung lưu.

Đói nghèo, bệnh tật, tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ em đều đã giảm. Số người được tiếp cận nước sạch và điện cũng như số trẻ em nam và nữ đến trường cùng tỉ lệ người được xóa mù chữ đã gia tăng. Đó là một bước tiến đáng kinh ngạc mà các bạn đã đạt được trong một thời gian rất ngắn. Việt Nam đã chuyển mình và mối quan hệ giữa hai quốc gia cũng đã được cải thiện.

Chúng ta đã học được một bài học từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đã nói rằng: đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi". Theo cách đó, cuộc chiến đã chia cắt chúng ta lại trở thành nguồn cảm hứng để hàn gắn những vết thương. Điều đó cho phép chúng tôi tìm kiếm những người lính mất tích trong chiến tranh và đưa họ về nhà, cho phép chúng tôi hỗ trợ rà phá bom mìn và các vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh để không đứa trẻ nào bị thiệt mạng khi vui chơi ngoài trời.

Ngay cả khi đang hỗ trợ những người tàn tật ở Việt Nam, trong đó có trẻ em, chúng tôi cũng tham gia vào việc tẩy rửa chất độc Da cam, dioxin để Việt Nam có thêm nhiều mảnh đất an toàn. Chúng tôi đã thực hiện việc này ở Đà Nẵng và sẽ tiếp tục hỗ trợ tại Biên Hòa.

Chúng ta cũng đừng quên rằng, quá trình hòa giải giữa hai nước cũng được tiến hành nhờ các cựu binh từng đối mặt nhau trên chiến trường. Khi Thượng Nghị sĩ John McCain, người từng là tù nhân chiến tranh ở Việt Nam trong nhiều năm, đã đến gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nói rằng: “Hai nước chúng ta không nên là kẻ thù, hãy là bạn”.

Hãy nghĩ đến tất cả các cựu binh Mỹ và Việt Nam, những người đã giúp hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng mối quan hệ mới giữa hai nước. Ít có ai có thể làm được điều này trong vài năm qua như Trung úy Hải quân giờ đã là Ngoại trưởng Mỹ John Kerry, người cũng có mặt tại đây.

Chính nhờ sự mở lối của các cựu binh, nhờ sự dũng cảm theo đuổi hòa bình của các chiến binh ấy, người dân hai nước chúng ta đã xích lại gần nhau hơn bao giờ hết. Thương mại song phương đã gia tăng.

Các sinh viên và học giả hai nước có điều kiện học hỏi lẫn nhau. Chúng tôi đón chào sinh viên Việt Nam đến học tại Mỹ nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác tại Đông Nam Á và hàng năm, các bạn lại đón thêm nhiều du khách Mỹ, trong đó có những khách du lịch ba lô thăm thú 36 phố phường Hà Nội, phố cổ Hội An và cố đô Huế.

Cả người dân Việt Nam và người dân Mỹ đều có thể viện dẫn lời bài hát của nhạc sĩ Văn Cao: “Từ đây người biết thương người, từ đây người biết yêu người”.

Là Tổng thống Mỹ, tôi muốn góp phần thúc đẩy mối quan hệ song phương. Với mối quan hệ đối tác toàn diện mới, Chính phủ hai nước đang hợp tác chặt chẽ hơn bao giờ hết. Và thông qua chuyến thăm này, chúng ta đã tạo dựng nền móng vững chắc hơn cho những thập kỷ tới.

Với việc mối quan hệ lâu dài giữa hai nước từ thời Tổng thống Thomas Jefferson 200 năm trước và đã trải qua rất nhiều nỗ lực để có ngày hôm nay, thời điểm chúng ta có thể nói những điều tưởng như không thể tưởng tượng nổi.

Hiện tại, Mỹ và Việt Nam đã trở thành đối tác và tôi tin rằng, kinh nghiệm của chúng ta sẽ trở thành bài học cho toàn thế giới tại một thời điểm mà các cuộc xung đột dường như không thể giải quyết và không bao giờ chấm dứt. Chúng ta đã cho thấy, trái tim có thể thay đổi và một tương lai khác hoàn toàn có thể đạt được nếu chúng ta từ chối trở thành “tù nhân” của quá khứ.

Chúng ta cho thấy, hòa bình tốt hơn là chiến tranh và những tiến bộ trong việc tôn trọng phẩm giá con người sẽ được thúc đẩy tốt nhất thông qua hợp tác chứ không phải đối đầu. Đó là những điều mà Việt Nam và Mỹ có thể cho thế giới thấy.

Mối quan hệ đối tác mới giữa Mỹ và Việt Nam được bắt nguồn từ niềm tin cốt lõi rằng Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự chủ và không một quốc gia nào có thể áp đặt ý chí của họ lên các bạn hoặc quyết định số phận của các bạn.

Mỹ có lợi ích tại đây, Mỹ có lợi ích của mình nếu Việt Nam thành công, nhưng mối quan hệ đối tác toàn diện của chúng ta mới ở giai đoạn khởi đầu, và trong những phút còn lại, tôi muốn cho các bạn thấy một tầm nhìn mà tôi tin rằng có thể dẫn lối cho chúng ta trong những thập niên tới.

Đầu tiên, hãy hợp tác cùng nhau để tạo dựng cơ hội thực sự và sự thịnh vượng cho người dân của chúng ta. Chúng ta đều biết công thức để thành công trong nền kinh tế toàn cầu trong thế kỷ 21 đó chính là, các nguồn đầu tư và dòng tiền sẽ chảy vào những nơi mà luật pháp được tôn trọng bởi không ai muốn phải đút lót để có thể bắt đầu kinh doanh.

Không ai muốn bán hàng hoặc đi học nếu họ không biết họ được đối xử ra sao. Trong nền kinh tế dựa vào tri thức như hiện nay, việc làm sẽ chỉ có tại những nơi mà con người được quyền tự do suy nghĩ cho bản thân, trao đổi ý tưởng và sáng tạo.

Mối quan hệ đối tác kinh tế thực sự không phải là một nước chỉ chăm chăm khai thác tài nguyên của nước khác. Mối quan hệ này dựa trên việc đầu tư vào nguồn tài nguyên vĩ đại nhất của chúng ta, đó chính là con người, kỹ năng và tài năng của họ dù họ sống ở thành thị hay nông thôn. Đó chính là hình thức đối tác mà Mỹ có thể đem lại.

Như tôi đã tuyên bố hôm 23/5, Tổ chức Hòa bình Mỹ sẽ lần đầu tiên đến Việt Nam và tập trung vào việc giảng dạy tiếng Anh. Sau hàng thế hệ khi người Mỹ đến đây để chiến đấu, lại có một thế hệ người Mỹ mới đến Việt Nam để giảng dạy và tạo dựng mối quan hệ sâu sắc hơn giữa hai nước.

Một vài tập đoàn công nghệ và học viện hàng đầu của Mỹ đã đến Việt Nam nhằm hỗ trợ các trường đại học đào tạo về khoa học, công nghệ, cơ khí, toán học và dược, bởi ngay cả khi đã chào đón rất nhiều sinh viên Việt Nam đến Mỹ, chúng tôi vẫn tin rằng, các bạn trẻ xứng đáng được hưởng nền giáo dục đẳng cấp thế giới ngay tại Việt Nam.

Một lý do khiến chúng tôi rất vui mừng là trường Đại học Fulbright sẽ chính thức mở cửa vào mùa Thu năm nay ở thành phố Hồ Chí Minh. Đây là trường đại học phi lợi nhuận độc lập đầu tiên tại Việt Nam, nơi sẽ mang đến quyền tự do học thuật và cấp học bổng toàn phần cho những người thực sự cần.

Các sinh viên, học giả và các nhà nghiên cứu sẽ tập trung vào nghiên cứu chính sách công, quản trị kinh doanh, cơ khí, máy tính, khoa học, nghệ thuật tự do, bao gồm tất cả các lĩnh vực, từ thơ ca Nguyễn Du, từ triết lý của Phan Chu Trinh đến toán học của Ngô Bảo Châu.

Tôi sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ đối tác với những thanh niên và doanh nhân trẻ bởi chúng tôi tin rằng, nếu các bạn có thể tiếp cận với những kỹ năng, công nghệ và nguồn vốn cần thiết thì không gì có thể cản đường các bạn. Điều đó cũng đúng với những phụ nữ tài năng của Việt Nam.

Chúng tôi tin rằng, bình đẳng giới là một nguyên tắc rất quan trọng. Từ thế hệ Hai Bà Trưng đến nay, những phụ nữ tài năng và mạnh mẽ đã luôn giúp Việt Nam tiến lên phía trước. Điều này là quá rõ ràng.

Tôi muốn nói rằng, bất kỳ nơi nào tôi đặt chân đến trên trái đất này, mỗi gia đình, cộng đồng và một quốc gia chỉ có thể thành công nếu người phụ nữ được trao cơ hội bình đẳng với nam giới để thành công trong học tập, trong công việc và trong Chính phủ. Điều này đúng ở mọi nơi và đúng cả ở Việt Nam.

Chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ để nền kinh tế Việt Nam có thể phát huy hết tiềm năng của mình thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tại Việt Nam, TPP sẽ giúp các bạn xuất khẩu được nhiều hàng hóa hơn ra thế giới và giúp thu hút thêm nhiều đầu tư. TPP sẽ đòi hỏi các bạn phải thay đổi để bảo vệ người lao động cũng như tôn trọng các quy định về bản quyền sở hữu trí tuệ và Mỹ luôn sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam thực thi đầy đủ cam kết của mình.

Tôi muốn các bạn hiểu rằng, với cương vị Tổng thống Mỹ, tôi ủng hộ mạnh mẽ TPP bởi điều này cũng đồng nghĩa với việc các bạn có thể mua được nhiều hàng hóa sản xuất tại Mỹ.

Hơn thế nữa, tôi ủng hộ TPP bởi nó mang lại những lợi ích chiến lược cho Việt Nam và giúp Việt Nam giảm sự phụ thuộc vào một đối tác thương mại cụ thể nào đó và có thể mở rộng mối quan hệ với nhiều đối tác khác, trong đó có Mỹ.

TPP sẽ giúp tăng cường hợp tác trong khu vực, giải quyết sự bất bình đẳng về kinh tế và cải thiện quyền lợi của người lao động nhờ tiền lương cao hơn và được làm việc trong môi trường an toàn hơn. Lần đầu tiên, Việt Nam cho phép thành lập các liên đoàn lao động và cấm mọi hình thức cưỡng ép lao động hoặc lao động trẻ em.

Ngoài ra, TPP cũng đã đặt ra những tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường và chống tham nhũng cao nhất từ trước đến nay và đó là tương lai mà TPP có thể mang đến cho tất cả chúng ta. Bởi chúng ta, Mỹ, Việt Nam và các nước tham gia ký kết TPP sẽ phải tuân theo các quy định mà chúng ta đã đặt ra.

Đó là tương lai rộng mở cho tất cả chúng ta và chúng ta cần phải hoàn tất việc thông qua TPP để đảm bảo sự thịnh vượng về kinh tế và an ninh quốc gia.

Điều này đưa tôi đến lĩnh vực thứ hai mà chúng ta có thể hợp tác với nhau để đảm bảo an ninh chung. Thông qua chuyến thăm này, chúng ta đã nâng tầm hợp tác về an ninh và xây dựng thêm lòng tin giữa nhân dân hai nước. Chúng tôi sẽ tiếp tục huấn luyện và cung cấp trang thiết bị cho lực lượng Cảnh sát Biển của các bạn để tăng cường năng lực hàng hải của Việt Nam. Chúng tôi sẽ cung cấp viện trợ nếu xảy ra thiên tai.

Với tuyên bố mà tôi đưa ra ngày hôm qua rằng Mỹ quyết định dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vũ khí đối với Việt Nam, Việt Nam giờ đã có thể tiếp cận mọi trang thiết bị cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia. Thông qua đó, Mỹ cũng muốn thể hiện cam kết của mình trong việc hoàn tất bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.

Các cuộc chiến tranh trong thế kỷ 20 đã dạy cho tất cả chúng ta, trong đó có Mỹ và Việt Nam, một bài học rằng, trật tự thế giới quyết định mối quan hệ an ninh chung của chúng ta được bắt nguồn từ các nguyên tắc và chuẩn mực nhất định.

Mọi quốc gia đều có chủ quyền và dù là nước lớn hay nước nhỏ, chủ quyền của quốc gia đó cần phải được tôn trọng và không được xâm phạm lãnh thổ của họ. Các nước lớn không nên chèn ép các nước nhỏ và các tranh chấp cần phải cần được giải quyết hòa bình.

Các thiết chế trong khu vực như ASEAN và Hội nghị Cấp cao Đông Á cần phải được củng cố. Đó là điều mà tôi tin tưởng, đó là điều mà nước Mỹ tin tưởng và đó cũng chính là mối quan hệ đối tác mà Mỹ muốn hướng tới trong khu vực. Vào cuối năm nay, tôi sẽ là Tổng thống Mỹ đầu tiên đến Lào.

Liên quan đến vấn đề Biển Đông, dù không phải là nước có tranh chấp trực tiếp nhưng chúng tôi sẽ kề vai sát cánh với các đối tác trong việc tuân thủ những nguyên tắc cốt lõi như tự do hàng hải và tự do đi lại. Giao thương hợp pháp không được bị cản trở, các tranh chấp cần phải được giải quyết thông qua các quy định của luật pháp quốc tế. Mỹ sẽ tiếp tục điều tàu và máy bay hoạt động tại bất kỳ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép, và chúng tôi sẽ hỗ trợ mọi quốc gia làm điều tương tự.

Ngay cả khi đã hợp tác chặt chẽ trong các lĩnh vực nói trên, mối quan hệ đối tác còn bao gồm cả những vấn đề mà Chính phủ hai nước vẫn còn bất đồng, bao gồm nhân quyền và tôi nói điều này không phải để ám chỉ riêng Việt Nam bởi không có quốc gia nào là hoàn hảo cả.

Hơn 200 năm đã trôi qua và nước Mỹ vẫn tiếp tục nỗ lực để theo đuổi những tư tưởng sơ khởi nhất. Chúng tôi vẫn phải đối mặt với những hạn chế của mình như có quá nhiều tiền đổ vào chính trị, bất bình đẳng về kinh tế cũng như sự phân biệt chủng tộc trong hệ thống pháp luật hình sự, phụ nữ không được trả tiền như nam giới dù làm cùng một công việc.

Chúng tôi vẫn có những vấn đề riêng của mình và chúng tôi không “miễn nhiễm” với những lời chỉ trích. Tôi khẳng định với các bạn rằng tôi nghe những lời chỉ trích ấy hàng ngày. Nhưng chính những thiếu sót ấy lại mở lối cho những cuộc tranh luận cởi mở và tạo điều kiện cho mọi người có thể cất lên tiếng nói của mình. Điều này giúp chúng tôi ngày càng lớn mạnh, thịnh vượng và công bằng hơn.

Như tôi từng nói trước đây, Mỹ không hề có ý định áp đặt mô hình Chính phủ của mình lên Việt Nam. Những quyền mà tôi nói ở trên không chỉ là những giá trị được coi trọng ở Mỹ mà tôi cho rằng, đó là những giá trị mang tính toàn cầu được viết trong Bản Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế.

Những giá trị này được ghi trong Hiến pháp Việt Nam trong đó nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Đó chính là những vấn đề chung đối với tất cả chúng ta, mỗi nước đều muốn theo đuổi những nguyên tắc nói trên và đảm bảo rằng, những người làm việc trong Chính phủ như chúng tôi phải thực sự tôn trọng những nguyên tắc đó.

Trong vài năm qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ trong việc thực hiện các cam kết của mình trong việc đảm bảo rằng các bộ luật được thông qua đều theo đúng tinh thần của Hiến pháp và luật pháp quốc tế.

Theo một bộ luật mới được thông qua, Chính phủ Việt Nam sẽ công khai hơn các khoản chi tiêu ngân sách của mình và người dân sẽ được quyền tiếp cận thông tin nhiều hơn.

Như tôi đã nói ở trên, Việt Nam cũng đã đưa ra cam kết về cải cách kinh tế và lao động theo đúng tinh thần của TPP và đó là những bước đi tích cực và cuối cùng, tương lai của Việt Nam sẽ do chính người Việt quyết định. Mỗi quốc gia sẽ tự vạch ra con đường đi của mình.

Hai nước chúng ta có sự khác biệt về truyền thống, về thể chế chính trị và văn hóa, nhưng với tư cách là người bạn của Việt Nam, hãy cho phép tôi chia sẻ quan điểm của mình về việc tại sao một quốc gia lại trở nên thịnh vượng hơn khi những quyền cơ bản được tôn trọng.

Khi quyền tự do ngôn luận được tôn trọng và người dân có thể chia sẻ ý tưởng và được tiếp cận internet và mạng xã hội mà không bị hạn chế, nền kinh tế sẽ được “tiếp năng lượng và sự sáng tạo” để tiếp tục phá triển.

Đó là nơi những ý tưởng mới được sinh ra và đó cũng là nơi Facebook khởi nghiệp. Một số công ty lớn nhất của Mỹ được khai sinh là nhờ một ai đó có ý tưởng mới rất khác biệt và họ có thể chia sẻ với những người khác.

Khi quyền tự do báo chí được tôn trọng, khi các nhà báo và các bloggers có thể soi ánh sáng vào những nơi còn bất công và áp bức thì các quan chức sẽ buộc phải có trách nhiệm hơn. Điều này giúp tạo dựng niềm tin đối với người dân rằng hệ thống này đang làm việc hiệu quả.

Khi các ứng viên được quyền tranh cử tự do và cử tri được tự do lựa chọn người lãnh đạo mình trong các cuộc bầu cử tự do và công bằng, đất nước sẽ trở nên ổn định hơn bởi các công dân hiểu rằng, tiếng nói của họ được tôn trọng và sự thay đổi một cách hòa bình hoàn toàn có thể xảy ra nhằm tạo điều kiện cho những người mới hòa nhập vào hệ thống lãnh đạo.

Khi mà tự do tôn giáo không chỉ là cho phép người dân được bày tỏ sự thương yêu và thành kính, điều đã trở thành cốt lõi trong mọi tôn giáo, mà còn cho phép các nhóm tôn giáo phục vụ cộng đồng thông qua các trường học và bệnh viện cũng như chăm sóc cho những người nghèo khó và những người dễ bị tổn thương.

Và khi người dân được quyền tự do hội họp và lập hội và các tổ chức xã hội dân sự có thể giải quyết được những vấn đề mà bản thân Chính phủ cũng không giải quyết nổi.

Chính vì thế, quan điểm của tôi là, việc tôn trọng các quyền cơ bản đó sẽ không đe dọa gì đến sự ổn định, thay vào đó, nó sẽ giúp tăng cường sự ổn định và trở thành nền móng cho sự phát triển. Chính sự khát khao có được các quyền cơ bản đó đã thôi thúc người dân trên toàn thế giới, bao gồm Việt Nam lật đổ chế độ thực dân.

Tôi tin rằng, việc tôn trọng các quyền cơ bản này ở mức cao nhất cũng là thể hiện sự độc lập tự do mà rất nhiều người luôn ấp ủ, đặc biệt là ở một đất nước “của dân, do dân và vì dân”.

Việt Nam sẽ thực hiện điều này một cách hoàn toàn khác với Mỹ và mỗi nước sẽ thực thi một cách hoàn toàn khác với rất nhiều quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, có những nguyên tắc cơ bản mà tôi nghĩ rằng mọi quốc gia cần thực thi và cải thiện.

Tôi nói điều này với tư cách là người sắp rời khỏi nhiệm sở và tôi có điều kiện nắm quyền trong 8 năm để có thể nhìn lại những gì chúng tôi đã làm và hợp tác với các quốc gia khác trên toàn thế giới, những nước cũng luôn mong muốn cải thiện hệ thống của mình.

Cuối cùng, tôi cho rằng, mối quan hệ đối tác của chúng ta có thể giúp giải quyết các thách thức toàn cầu mà không một quốc gia nào có thể một mình tự giải quyết nổi.

Nếu chúng ta muốn đảm bảo sức khỏe cho người dân và gìn giữ vẻ đẹp của hành tinh này, chúng ta phải phát triển một cách bền vững. Những kỳ quan thiên nhiên như Vịnh Hạ Long hay hang Sơn Đoòng cần phải được gìn giữ cho thế hệ con cháu chúng ta.

Tình trạng nước biển dâng đang đe dọa bờ biển của Việt Nam. Với tư cách là đối tác trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, chúng ta cần thực thi đầy đủ các cam kết đã đưa ra tại Hội nghị Paris. Chúng ta cần hỗ trợ những người nông dân và các ngư dân thích nghi với biển đổi khí hậu và mang những nguồn năng lượng sạch đến những khu vực như Đồng bằng sông Cửu Long- vựa lúa của cả thế giới- mà chúng ta cần để nuôi sống thế hệ tương lai.

Chúng ta có thể giúp cứu sống những người nằm ngoài biên giới của chúng ta bằng cách hỗ trợ các nước khác. Bằng cách tăng cường hệ thống y tế của họ, chúng ta có thể ngăn chặn dịch bệnh bùng phát trở thành đại dịch đe dọa tất cả chúng ta.

Trong bối cảnh Việt Nam đang thực thi cam kết của mình trong việc gìn giữ hòa bình quốc tế, Mỹ rất tự hào được huấn luyện cho các binh sĩ gìn giữ hòa bình của Việt Nam.

Một điều rất đáng chú ý chính là, hai nước chúng ta, những quốc gia từng chiến đấu chống lại nhau trong quá khứ giờ lại sát cánh cùng nhau để hỗ trợ các nước khác giành lấy hòa bình. Bên cạnh hợp tác song phương, mối quan hệ đối tác giữa hai nước cũng giúp định hình môi trường toàn cầu theo hướng tích cực.

Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức được rằng, tầm nhìn mà tôi nêu ra ngày hôm nay không thể đạt được “chỉ sau một đêm” và không tránh khỏi những trở ngại hoặc khó khăn phía trước. Sẽ có những thời điểm xảy ra hiểu lầm. Điều này đòi hỏi một nỗ lực lâu dài và thiện chí đối thoại và cả hai bền đều phải tiếp tục thay đổi.

Mặc dù vậy, khi nhìn lại lịch sử đầy khó khăn và thách thức mà chúng ta đã trải qua, tôi đứng đây cùng các bạn ngày hôm nay và hoàn toàn lạc quan về tương lai chung của chúng ta.

Niềm tin của tôi bắt nguồn từ tình hữu nghị và khát vọng chung của hai dân tộc. Tôi nghĩ đến những người Mỹ gốc Việt đã vượt đại dương để đoàn tụ với gia đình lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ qua và những người như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết “nối vòng tay lớn” là mở tấm lòng của mình ra để thấu suốt trái tim mình.

Tôi đang nghĩ đến tất cả những người Mỹ gốc Việt thành công trong bất kỳ lĩnh vực nào: bác sĩ, nhà báo, thẩm phán hay viên chức. Một trong số họ đã viết thư cho tôi và nói rằng: “Nhờ ơn Chúa tôi đã thực hiện được Giấc mơ Mỹ của mình”.

Tôi rất tự hào được là người Mỹ nhưng cũng rất tự hào về những người Việt Nam như các bạn. Ngày hôm nay, các bạn có mặt tại đây, nơi quê cha đất tổ của mình, sứ mệnh của các bạn là giúp cải thiện cuộc sống của mọi người dân Việt Nam.

Tôi đã nghĩ đến một thế hệ thanh niên Việt Nam mới, những người như các bạn đang có mặt tại đây, những người luôn sẵn sàng tạo dấu ấn riêng của mình đối với thế giới.

Tôi muốn nói với tất cả các bạn trẻ tại đây: Tài năng, động lực và ước mơ của các bạn là tất cả những gì Việt Nam cần để có thể phát triển và số phận nằm trong tay các bạn. Đây là thời điểm của các bạn và khi các bạn theo đuổi tương lai của mình, tôi muốn các bạn hiểu rằng, nước Mỹ luôn ở bên các bạn với tư cách là một đối tác và là một người bạn.

Nhiều năm sau này, khi ngày càng có nhiều người Mỹ và người Việt Nam cùng học tập, sáng tạo và làm ăn với nhau cũng như cùng đứng lên để thúc đẩy nhân quyền và bảo vệ hành tinh của chúng ta.

Tôi mong các bạn nhớ đến khoảnh khắc này và có thêm hy vọng từ cái thấy mà tôi đã chia sẻ với các bạn ngày hôm nay. Hoặc, nói như trong truyện Kiều mà các bạn thuộc nằm lòng có câu:

"Rằng trăm năm cũng từ đây

Của tin gọi một chút này làm ghi"

Cảm ơn các bạn. Cảm ơn Việt Nam! 

(Nguồn: http://vov.vn/chinh-tri/toan-van-phat-bieu-tong-thong-obama-tai-trung-tam-hoi-nghi-quoc-gia-513962.vov)

Toàn văn bài phát biểu bằng tiếng Anh:

https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2016/05/24/remarks-president-obama-address-people-vietnam

 

 

 

 

 

Vị “anh hùng ẩn danh” đằng sau công cuộc chống biến đổi khí hậu trên thế giới

 
Một trong những động lực ở hậu trường dẫn dắt vòng đàm phán Paris và đem lại bản thỏa thuận lịch sử về biến đổi khí hậu là vị thiền sư 89 tuổi người Việt Nam.
 
Christina Figueres, kiến trúc sư trưởng của những cuộc đàm phán về biến đổi khí hậu tại Paris, đã thừa nhận vai trò then chốt của thiền sư Thích Nhất Hạnh trong việc giúp bà phát triển sức mạnh nội tâm, trí tuệ và lòng từ bi cần thiết để có thể thúc đẩy các bên liên quan đi đến Thỏa thuận Paris – một bản thỏa thuận toàn cầu đầu tiên về biến đổi khí hậu được sự thông qua của 196 quốc gia.
 
Figueres, Tổng thư ký điều hành Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCC) nói rằng những lời dạy của Thầy đến với bà một cách rất tình cờ khi bà đang trải qua một cuộc khủng hoảng cá nhân sâu sắc cách đây ba năm. (“Thầy” là cách gọi thân thương mà hàng trăm ngàn đệ tử trên thế giới dành cho Thiền sư Nhất Hạnh.)
 
Những giáo lý đạo Bụt qua cách diễn bày của Thầy – người hiện đang trong quá trình phục hồi sau một cơn xuất huyết não nghiêm trọng – đã giúp bà đối diện được với những khó khăn của chính mình trong giai đoạn đó, đồng thời giữ được sự định tâm trong các cuộc đàm phán về khí hậu.
 
“Tôi cần có một cái gì đó ngay đây, trong tầm tay, để nương vào nếu không tôi không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Một điều quá rõ ràng là lúc ấy tôi không thể có cơ hội để nghỉ ngơi, dù chỉ một ngày. Đó là một cuộc chạy đua kéo dài sáu năm không ngừng, tôi thực sự cần có một cái gì đó để nương tựa. Nếu không được dẫn dắt bởi những lời dạy của thiền sư Thích Nhất Hạnh, tôi đã không thể có được sức mạnh nội tâm, niềm lạc quan sâu sắc, sự tận tâm và niềm cảm hứng mạnh mẽ như vậy” – Figueres chia sẻ với tờ The Huffington Post trong thời gian diễn ra Diễn đàn Kinh tế Thế giới thường niên tại Davos, Thụy Sỹ.
 
Vậy, Thầy đã dạy cho người phụ nữ này điều gì?
 
Figueres làm sáng tỏ điều đó qua câu chuyện về chuyến thăm của bà tại Viện Phật học Ứng dụng châu Âu (EIAB) do Thầy thành lập, tại Waldbroel, Đức. Nơi đây đã từng là bệnh viện tâm thần với 700 bệnh nhân cho tới khi Đức Quốc xã (Nazis) xuất hiện, thủ tiêu hoàn toàn những bệnh nhân này và biến nơi đây thành cơ sở cho Đảng thanh niên Hitler (Hitler Youth).  
 
Bà kể rằng Thầy đã chọn nơi này để thành lập tu viện vì “Thầy muốn chỉ ra rằng chuyển hóa niềm đau thành tình thương, nạn nhân thành người chiến thắng, hận thù thành thương yêu và tha thứ là điều có thể làm được. Thầy muốn điều đó được thực hiện ở ngay chính mảnh đất này, nơi đã từng xảy ra những hành động bạo tàn và phi nhân tính”.
 
“Việc làm đầu tiên của Thầy là viết thư cho cộng đồng Phật giáo. Trong thư Thầy nói rằng: Thầy muốn có những trái tim được khâu bằng tay, mỗi trái tim cho mỗi bệnh nhân bị thủ tiêu, để chúng ta có thể bắt đầu chuyển hóa tòa nhà này, không gian này và năng lượng nơi đây”- Figueres chia sẻ tiếp.
 
“Đó là một câu chuyện vô cùng chấn động đối với tôi. Bởi vì dưới nhiều góc độ, đây chính là hành trình mà chúng tôi đã đi qua để tới được với nhau trong những cuộc đàm phán về khí hậu. Đó là hành trình từ lên án, trách móc lẫn nhau đi tới hợp tác thật sự với nhau. Đó là hành trình từ cảm giác hoàn toàn tê liệt, bất lực, dễ tổn thương đi tới cảm giác thực sự thấy mình có khả năng cùng nhau hành động… Hành trình đó đồng thời đem đến cho tôi rất nhiều trị liệu. Bởi vì ngay chính trong tôi cũng còn có những khó khăn, khổ đau cần được chuyển hóa”. Bà nói thêm: “Chưa thể nói rằng tôi đã đi qua giai đoạn khó khăn của cá nhân mình, nhưng tôi sẽ chuyển hóa nó. Tôi cần làm điều đó cho chính mình.”
 
Bà tiếp tục chia sẻ: “Tôi cảm nhận đây chính là năng lượng mà những cuộc đàm phán về biến đổi khí hậu cần phải có. Tôi đã thực sự rất hứng khởi khi được nghe những lời chỉ dạy tuyệt vời như vậy”.
 
Lần đầu tiên tới cơ sở cũ của Đức Quốc xã, nơi có 400 phòng ở này, Thầy đã viết một bức thư cho những người đã bị giết hại. Lá thư được các thầy, các sư cô sống tại đây đọc lên mỗi ngày:
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

 
“Xin hương linh quý vị và các cháu lắng nghe và chứng giám. Bảy mươi năm về trước, người ta đã đối xử rất tệ hại với liệt vị. Nỗi khổ niềm đau rất lớn ấy ít ai thấy được.
 
Ngày nay Tăng thân đã tới, Tăng thân đã nghe và đã hiểu tất cả những khổ đau tủi nhục và uất ức ấy. Tăng thân đã đi thiền hành, đã ngồi thiền, đã thở trong chánh niệm, đã trì chú, tụng kinh, thí thực, để cầu ơn trên chư Bụt, chư vị Bồ tát, chư vị Tổ sư để quý Ngài hồi hướng công đức vĩ đại của quý ngài cho liệt vị và các cháu, để quý vị và các cháu có cơ hội chuyển hóa, tái sinh ra dưới những hình thức mới. Những người đã làm khổ quý vị, họ cũng đã gánh chịu nghiệp quả khổ đau, xin quý vị mở lòng từ bi mà tha thứ cho họ để họ cũng có cơ hội giải thoát và chuyển hóa.
 
Xin hộ trì cho Tăng thân và cho các thế hệ hành giả kế tiếp, để họ có thể biến nơi này thành một cơ sở thực tập chuyển hóa và trị liệu, không những cho thành phố Waldbroel mà cho cả nước Đức và cả toàn thế giới.”
 

 
Thầy được coi là cha đẻ của pháp môn thực tập chánh niệm ở phương Tây, là nhà hoạt động môi trường tích cực từ hơn hai thập kỷ qua. Người đã thành lập nhiều trung tâm thiền tập ở khắp nơi và xây dựng nên một tăng thân xuất sĩ có tốc độ phát triển nhanh nhất trên thế giới. Các nhà lãnh đạo lớn của Mỹ rất kính trọng vị thiền sư này.
 
Năm ngoái, Chủ tịch Ngân hàng thế giới Jim Yong Kim đã mời Thầy tới trụ sở của tổ chức này tại Washington để hướng dẫn một ngày chánh niệm cho các nhân viên của ông. Cuốn sách yêu thích nhất của ông Kim là cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức mà Thầy là tác giả. Ông Kim đã ca ngợi sự thực tập của Thầy- vị thiền sư “có sự cảm thông và lòng từ bi sâu sắc đối với những người đau khổ”.
 
Năm 2013, Google cũng mời Thầy tới thăm Silicon Valley và hướng dẫn một ngày thực tập chánh niệm cho các tổng giám đốc của 15 tập đoàn mạnh nhất trên thế giới trong lĩnh vực công nghệ cao. Marc Benioff, giám đốc điều hành của tập đoàn Salesforce – người khổng lồ của lĩnh vực điện toán đám mây (cloud computing) – đã và đang hỗ trợ rất tích cực quá trình hồi phục sức khỏe sau tai biến của Thầy.
 
Thầy sống một cuộc đời thật phi thường. Năm 1967, Martin Luther King đề cử Thầy cho giải Nobel hòa bình vì những cống hiến của Thầy giúp chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Trong lí do để cử của mình, Mục sư Luther King đã tuyên bố: “Tôi không thấy ai xứng đáng nhận giải thưởng Nobel hòa bình hơn vị thầy tu Việt Nam hiền lành này. Những tư tưởng vì hòa bình của ông, nếu được áp dụng, sẽ tạo nên một tượng đài của tinh thần đại đồng, tình huynh đệ và nhân bản”.
 
Nguồn:

Thiền sư trong mắt báo chí và danh nhân thế giới

“Among Buddhist leaders influential in the West, Thich Nhat Hanh ranks second only to the Dalai Lama.” —New York Times

“Trong số các nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn ở Tây phương, thiền sư Thích Nhất Hạnh được xếp vào vị trí thứ hai, chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma.” —New York Times

 

“Thich Nhat Hanh is a holy man, for he is humble and devout. He is a scholar of immense intellectual capacity. His ideas for peace, if applied, would build a monument to ecumenism, to world brotherhood, to humanity.” (Martin Luther King, Jr., in nominating Thich Nhat Hanh for the Nobel Peace Prize in 1967)

“Thích Nhất Hạnh là một con người thánh thiện, vì lòng khiêm cung và đức tin lớn. Ngài là một học giả thông tuệ. Những phát kiến cho hòa bình của Ngài, nếu được áp dụng, sẽ dựng nên một tượng đài của tinh thần đại đồng, tình huynh đệ và nhân bản.” (Mục sư Martin Luther King, Jr., trong lá thư đề cử thầy Nhất Hạnh cho giải Nobel Hòa bình năm 1967)

 

An Apostle of peace and nonviolence

 – Martin Luther King, Jr.

Một tông đồ của hòa bình và bất bạo động
 – Martin Luther King, Jr.

 

“He shows us the connection between personal, inner peace, and peace on earth.” – His Holiness the Dalai Lama

“Thầy Nhất Hạnh đã chỉ ra cho chúng ta mối liên hệ mật thiết giữa bình an trong tự thân với bình an trên Trái đất.” – Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

In his foreword to Thich Nhat Hanh's book, "Peace is Every Step", the Dalai Lama writes that Nhat Hanh "shows us how to use the benefits of mindfulness and concentration to transform and heal difficult psychological states. He shows us the connection between personal, inner peace and peace on Earth."

Trong lời tựa cho cuốn sách “An lạc từng bước chân” của thiền sư Nhất Hạnh, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã viết rằng thầy Nhất Hạnh "đã chỉ cho chúng ta phương pháp làm thế nào sử dụng những lợi ích của niệm và định để chuyển hóa và trị liệu những vấn đề tâm lý phức tạp. Thầy cũng chỉ ra cho chúng ta mối liên hệ mật thiết giữa bình an trong tự thân với bình an trên Trái đất.”

 

“Thich Nhat Hanh is a real poet.”

Robert Lowell, US Poet Laureate; Winner, Pulitzer Prize for Poetry

“Thích Nhất Hạnh là một nhà thơ thứ thiệt.”
Robert Lowell, nhà thơ lớn của Mỹ, được trao giải Pulitzer về thơ

 

“Thich Nhat Hanh writes with the voice of the Buddha.”

“Thich Nhat Hanh is one of the most important voices of our time, and we have never needed to listen to him more than now.”  – commending Thay's book Fear (2012)

Sogyal Rinpoche

“Thích Nhất Hạnh nói bằng tiếng nói của Bụt.”
“Thích Nhất Hạnh là một trong những tiếng nói quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Hơn bao giờ hết, đây là lúc chúng ta cần lắng nghe vị thầy này.”  — lời ca ngợi của Sogyal Rinpoche về cuốn sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh có tựa đề “Fear” (Nỗi sợ hãi) , xuất bản năm 2012.

 

“Thich Nhat Hanh is more my brother than many who are nearer to me in race and nationality, because he and I see things the exact same way.”

Thomas Merton

“Thầy Nhất Hạnh là người anh em của tôi, người mà tôi cảm thấy thân thiết hơn cả những người cùng chung quốc gia, dân tộc, bởi vì cả hai chúng tôi đều có cách nhìn rất giống nhau.”
Thomas Merton

 

Sister Stanislaus Kennedy, founder of the Sanctuary and Focus Ireland, describes him as the “father of mindfulness”… “He really wanted to modernise Buddhism and he promoted what’s called Engaged Buddhism which is using your insights to move out to relieve suffering. He’s awake and aware in a very keen way. He sees mindfulness as transcending religion yet he has enormous respect for different religions,” she says.

Stanislaus Kennedy, một nữ tu sĩ Thiên Chúa giáo, người sáng lập tổ chức Sanctuary and Focus Ireland, đã gọi Thầy là “người cha của chánh niệm”… “Thầy Nhất Hạnh thực sự mong muốn hiện đại hóa đạo Bụt và xiển dương một đạo Bụt nhập thế – theo tinh thần đem tuệ giác của đạo Bụt đi vào cuộc đời để làm vơi bớt khổ đau của con người. Thầy rất tỉnh thức và có cái thấy sáng tỏ. Thầy thấy sự thực tập chánh niệm có tính cách vượt thoát tôn giáo, nhưng Thầy cũng rất mực tôn trọng các truyền thống tôn giáo khác.” – Stanislaus Kennedy chia sẻ.

 

Alan Senauke, former executive director of the Buddhist Peace Fellowship:

“The scholarship is very well grounded without being obscure. He makes teachings that are hard to grasp accessible, and he makes them come alive. You can really see how to use them.”

Alan Senauke, nguyên Giám đốc điều hành của tổ chức Buddhist Peace Fellowship (Phật tử thân hữu tranh đấu cho hòa bình):  “Tư duy uyên bác của Thầy có căn bản thật vững chắc và sáng tỏ. Thầy có khả năng làm cho những giáo lý thâm sâu, ít người với tới được, trở nên dễ hiểu, dễ tiếp nhận và gần gũi với đời sống. Nhờ vậy, ta thật sự thấy rõ cách áp dụng những giáo lý ấy vào đời sống như thế nào.”

 

Jack Kornfield:

“Thich Nhat Hanh has the ability to express some of the most profound teachings of interdependence and emptiness I've ever heard. With the eloquence of a poet, he holds up a sheet of paper, and teaches us that the rain cloud and the tree and the logger who cut the tree down are all there in the paper. He's been one of the most significant carriers of the lamp of the dharma to the West”

Jack Kornfield:  “Thiền sư Nhất Hạnh có khả năng diễn bày những giáo lý thâm sâu nhất của đạo Bụt về tương tức và về không một cách vô cùng uyên áo mà đơn sơ, tôi chưa hề nghe ai trình bày được như thế. Thầy đưa lên một tờ giấy và với biện tài thật khéo của một thi sĩ, Thầy dạy chúng ta rằng mưa, mây, người đốn những cây rừng… đều đang có mặt trong tờ giấy. Thầy là một trong những vị đạo sư quan trọng nhất đã đưa ngọn đèn chánh pháp của Bụt về phương Tây.”

 

London Independent 2010

“The Zen Master Who Fills Stadiums”

TNH is a “Monk on a Mission”, a “green crusader”…. “His contemporary Western Buddhist doctrine incorporates a strong environmental strand that has made him an unlikely poster boy for the green movement.” His monastic order “is at the forefront of a grassroots green movement, attracting increasing numbers of people disaffected with modern living and looking for a greener, more sustainable future.”

Tờ nhật báo London Independent (năm 2010)
“Vị thiền sư mà mỗi lần thuyết giảng đều thu hút thính giả chật kín các khán đài” (The Zen Master Who Fills Stadiums)
Thiền sư Nhất Hạnh là “vị thầy mang sứ mệnh lớn lao”, là “người đi tiên phong cho phong trào bảo vệ sinh môi (hay còn gọi là phong trào xanh)”…. “Những pháp môn của đạo Bụt mà Thiền sư đã làm mới và đưa vào xã hội phương Tây đều có yếu tố bảo vệ sinh môi rất mạnh mẽ. Chính điều này đã làm cho Thiền sư trở thành một biểu tượng nổi bật của phong trào xanh.” Tăng thân xuất sĩ của Thiền sư “hiện đang ở tuyến đầu của phong trào quần chúng bảo vệ sinh môi (grassroots green movement), thu hút sự tham gia ngày càng đông của những người đã nhàm chán lối sống hiện đại và mong muốn xây dựng một tương lai xanh hơn, bền vững hơn”.

 

London Times 2010

“The Other Dalai Lama”

Nhật báo London Times 2010
“Thiền sư Nhất Hạnh được xem là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ hai”

 

Alice Walker (introducing Thay in Berkeley, CA on 13/09/2001)

“Often referred to as the most beloved Buddhist Teacher in the West”

Nữ thi hào Alice Walker (đã giới thiệu Thầy tại Berkeley, California vào ngày 13/09/2001)
“Thiền sư Nhất Hạnh thường được đánh giá là vị đạo sư Phật giáo được yêu quý nhất ở phương Tây”

 

America's Public Radio

“Thich Nhat Hanh is one of the most revered and beloved spiritual thinkers of our time.”

“Beloved by people of many faiths and none” (Krista Tippett, on Speaking of Faith, renamed On Being)

America's Public Radio  (Đài phát thanh Hoa Kỳ)
“Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những bậc thầy tâm linh được thương kính nhất của thời đại chúng ta.”
“Là vị thầy được những người thuộc các tôn giáo và truyền thống khác, kể cả những người không theo tôn giáo, thương kính” (Krista Tippett, trong chương trình phát thanh với chủ đề “Speaking of Faith – Bàn về đức tin”, hiện chương trình đã được đổi tên là “On Being”)

 

"One of the best known spiritual teachers in the West, the monk, scholar and author is a politically and spiritually inspirational figure to many," says the book Spiritual Leaders Who Changed the World (Skylight Paths) by Ira Rifkin.

" Thích Nhất Hạnh là một trong những vị đạo sư Phật giáo nổi tiếng nhất ở Tây phương. Vừa là thiền sư vừa là một học giả, một nhà văn, Người là nhân vật gây cảm hứng cho rất nhiều người trong lĩnh vực tâm linh cũng như lĩnh vực chính trị" – Ira Rifkin  chia sẻ trong tác phẩm Những nhà lãnh đạo tâm linh làm thay đổi thế giới.

 

American Buddhist Richard Baker-Roshi once described him as “a cross between a cloud, a snail, and a piece of heavy machinery – a true religious presence”.

Thiền sư Richard Baker-Roshi đã từng mô tả: “Thầy Nhất Hạnh là điểm gặp gỡ giữa một đám mây, một con ốc sên và một bộ phận cơ khí hạng nặng – đúng là một sự hiện diện đích thực của tâm linh.”

 

Lord Layard of Highgate (introducing Thay at the House of Lords)

“His influence has been very profound throughout the world, through his teachings, his writings, his poetry and through his campaigning.”

Thượng nghị sĩ Layard of Highgate (đã giới thiệu Thầy tại Thượng viện Anh)
“Thiền sư Nhất Hạnh đã tạo nên một ảnh hưởng sâu sắc trên khắp thế giới, thông qua những bài thuyết giảng, những tác phẩm thơ văn và nỗ lực kêu gọi cho hòa bình của Thầy.”

 

Pritam Singh

(Foreword to the Art of Power) – Thich Nhat Hanh is a determined revolutionary – not one who asks us to mount the ramparts in anger, but rather a revolutionary of the human spirit, a revolutionary of understanding and love.

[And other great quotes]

Pritam Singh
(Trong lời tựa cho cuốn sách “Quyền lực đích thực” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh) – Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người có tinh thần cách mạng và ý chí quật cường. Cuộc cách mạng mà Người kêu gọi không phải là hành động leo lên những chiến lũy với lòng hận thù, mà là một cuộc cách mạng tâm linh, một cuộc cách mạng của hiểu và thương. 

 

Larry Ward:

“Two things that particularly are inspiring to me of Thay's teachings: One is his ability to translate Buddhist practice as human spirituality, and secondly, to do that with great heart. And I think one of the contributions of the Vietnamese aspect of Thay is the great heart, the sense of poetry, metaphor that he brings with depth, intellectual clarity and scholarship. And so that combination is very appealing.”

“Thay's deep practice emerged in the midst of tremendous suffering of the war, and that's a part to me of his authenticity is if, as he's able to be peaceful and graceful and kind — and I know some of the things he experienced in the war because I also had family members in the war — but for him to be able to be that peaceful and that openhearted and that kind in the midst of the suffering he experienced without denying the suffering, I think that's a perfect model, pathway, through the African-American experience into the full human experience.”

 

Larry Ward (Chân Đại Âm):
“Trong số những điều Thầy trao truyền, có hai điều mà tôi đặc biệt có cảm hứng: thứ nhất là Thầy đã làm cho sự thực tập của đạo Bụt trở thành hướng đi tâm linh của nhân loại; và thứ hai là Thầy đã làm điều này với tất cả tấm lòng. Tôi cho rằng một trong những đóng góp của gốc rễ Việt Nam nơi Thầy là tấm lòng quảng đại, tính thơ ca, những ẩn dụ mà Thầy đã sử dụng thật tài tình, sự sáng tỏ và học thức uyên áo. Sự kết hợp đó thật là tuyệt vời.”
“Giữa những khổ đau chất ngất của chiến tranh, Thầy vẫn giữ được sự bình an, tươi mát và đầy tình thương. Thầy đúng là một bậc chân tu. Tôi có thể hiểu được phần nào những gì Thầy đã trải qua trong chiến tranh bởi vì tôi cũng có người thân tham gia vào cuộc chiến. Để giữ được sự bình an và tấm lòng rộng mở giữa bối cảnh khốc liệt của chiến tranh, Thầy đã chọn cách đối diện thay vì trốn chạy hay phủ nhận khổ đau. Đó là một tấm gương tuyệt vời, một con đường sáng cho những người Mỹ gốc Phi như tôi.”

 

Tony Bates (Ireland Mindfulness pioneer)

Mindfulness is easy to write or talk about, but you feel its power when you’re in the presence of people like Thay, who live this practice through thick and thin. [speaking at the House of Lords that night] The spirit of this slim, fragile 86-year-old man was fierce. His presence gave his message its power. I knew that when it came to dying, what would matter was whether I had managed, even for one day, to live with that kind of courage and integrity.

Tony Bates (Ireland Mindfulness pioneer)
Nói về chánh niệm, viết về chánh niệm thật dễ nhưng ta chỉ thấy được sức mạnh của nó khi đứng trước một người như Thầy. Một người thực sự sống nếp sống chánh niệm qua những thăng trầm lớn lao trong cuộc đời nhưng vẫn giữ được sự bình an.
Tinh thần của ông thầy tu 86 tuổi mảnh khảnh này thật dũng mãnh. Sự hiện diện của cả con người Thầy mới khiến cho thông điệp của Thầy trở thành một nguồn sức mạnh lớn lao. Tôi quyết định từ bây giờ cho đến ngày tôi chết, nhất định tôi phải sống cho bằng được, dù chỉ một giờ thôi, nếp sống can đảm và liêm khiết như Người.