Tôi tu vì tôi là người tu

– Thường Minh –

Thiền hành trong rừng

Trong những khóa tu, tôi có nhiều cơ hội ngồi chơi với anh chị em cư sĩ.  Khi đủ thân một chút thì có người hỏi tôi: “Hỏi thiệt Thầy cái này nha! Tại sao Thầy đi tu vậy?  Thầy còn trẻ mà!  Bộ bị bồ đá rồi chán đời đi tu hả?

Tôi ngường ngượng, thầm nghĩ: “Bộ già hay thất tình mới đi tu sao?”  Nhưng rồi tôi cười trong bụng vì ngày xưa tôi cũng nghĩ như vậy.  Cuộc đời có biết bao nhiêu  cái để hưởng thụ, biết bao nhiêu nơi để chơi! Sống mà không tận hưởng thì hơi… khờ quá,  đó là tư tưởng trước đây của tôi. Ấy vậy mà ngày nay tôi ngồi đây, trong hình tướng của một người đầu trọc, khoác áo cà-sa, tay ôm bình bát.

Tôi nhớ lại ngày xưa khi còn là cư sĩ, tôi ghé qua chùa chỉ với mục đích là thắp vài cây nhang, cúng dường chút đỉnh để hồi hướng cho cô bạn đang bệnh của tôi. Có một lần tôi đến một tu viện và cũng định làm những việc như trước mỗi khi đến chùa, thắp hương, lạy Bụt.v.v. qua loa. Nhưng khi đến nơi, tôi không ngờ ở đó có cả trăm thầy và sư cô rất trẻ cùng với nhiều cư sĩ đang đi thiền hành như một dòng sông, tất cả đều  đi trong im lặng, nhẹ nhàng và thảnh thơi. Tôi bắt đầu hỏi thăm và tìm hiểu về đời sống của những người xuất gia nơi này. Sau đó tôi có cơ hội tham dự những khóa tu và thấy rõ nét đẹp của người xuất gia, nhất là lý tưởng phụng sự và dấn thân. Từ đó tôi rất mê đời sống của người xuất sĩ: từ ý tưởng đến cách đi, cách nói, từ chiếc áo nâu nắng phai đến đôi dép đơn giản. Đời sống thật phạm hạnh và tri túc. Thích quá nên khi về nhà tôi cứ kể tới kể lui với cô bạn. Trong một đêm tâm sự, sau khi lắng nghe tôi kể về  ước muốn đi xuất gia của tôi, bạn tôi nhẹ nhàng nói: “Anh cứ đi đi!” Tôi hơi ngạc nhiên với câu nói của cô bạn, nhưng rồi tôi trả lời: “Không sao đâu em! Anh có thể sống như bây giờ được. Mình cũng có thể bắt chước như Kim Trọng và Thúy Kiều, anh ở một phòng, em ở một phòng. Tu tại gia vẫn là tu mà!”

Huynh đệ bên nhau

Nghe tôi nói vậy cô bạn tôi cười khúc khích và phán: “Theo trong truyện Kiều, thì anh bây giờ không phải là Kim Trọng.” Bị cô bạn phán cho một câu xanh rờn tôi hơi quê quê làm mặt ngớ: “Êh!”. Nhưng như hiểu được tâm nguyện của tôi, cô bạn tôi động viên: “Anh còn sức khỏe.  Anh tu cho anh, cho gia đình, chuyển hóa nghiệp không tốt của anh và của gia đình. Em tự lo cho em được.” Nghe cô bạn động viên vậy, tôi rủ rê: “Vậy thì hai đứa mình đi tu luôn! Không có ai chăm sóc em, anh lo lắm.” Sau một vài phút im lặng, với ánh mắt buồn, cô bạn nói: “Thân em là thân bệnh. Em chỉ làm gánh nặng thôi.  Anh tu cho em, cho hai đứa mình.” Tôi biết cô bạn nói thật và yểm trợ cho tôi đi xuất gia, tôi cảm thấy mình đang có một người tri kỷ luôn luôn hiểu được những gì tôi muốn. Tôi mở lời khuyên cô bạn: “Em bệnh như vậy, cần có người  bên cạnh em để lỡ khi em có chuyện gì. Nếu anh đi tu thì em cứ lập gia đình đi.  Anh không buồn đâu.” “Sau khi quen anh rồi, em không còn tin tưởng một người đàn ông nào trên đời này nữa.” Cô bạn lại chọc tôi trong tiếng cười khúc khích. “Nhưng đi tu, anh phải tu cho đàng hoàng nha. Tu không được thì về với em, chứ đừng vô chùa mà phá. Đừng để em xách gậy vô chùa đập anh, tội lỗi lắm nha!” Trời! Tôi thầm nghĩ. Tôi đâu đến nỗi tệ như vậy.

Vậy đó, ước nguyện của tôi đã được cô bạn yểm trợ và tôi nhẹ nhàng ra đi mang theo sự biết ơn đối với cô bạn của tôi. Tôi biết, có rất nhiều chàng thanh niên khi nhận ra được hướng đi đích thực của đời mình nhưng khi đã dính vào chuyện tình cảm thì khó mà thoát ra được. Và không phải cô gái nào cũng như Da Du Đà La, như cô bạn của tôi, chịu hy sinh cho lý tưởng của người mình thương.

 

Tôi đi tu vì tôi yêu cuộc sống của người xuất gia nhưng phần lớn cũng vì cô bạn mến thương này. Bạn tôi rất muốn đi xuất gia nhưng vì bệnh nên không thể thực hiện được ước muốn của mình. Từ nhỏ đến lớn tôi không có diễm phúc sống cạnh ba mẹ, không có ai dạy cho tôi cách sống có đạo đức. Mười một tuổi tôi rời quê hương sang sống ở xứ Mỹ, xứ sở được mệnh danh là đất nước tự do. Tôi cứ tự do sống cho tôi, sống cuộc đời ăn chơi, thỏa mãn những gì tôi muốn: tiền, sắc, danh và bị bạn bè lôi kéo vào những nơi không nuôi dưỡng…  Tôi hầu như chưa biết thương là gì, ai chết kệ ai, ai khổ mặc kệ, không mắc mớ gì đến tôi. Nhưng cô bạn thì lại khác: luôn hy sinh cho người khác, luôn có tâm giúp người, thương loài vật, con kiến cũng không muốn giết. Khi quen được cô bạn đó, tôi đã hiểu được thế nào là “sống”. Từ nhỏ tôi sống thiếu tình cảm của ba mẹ và người thân, khi gặp được cô bạn này, tôi thấy lòng mình được sưởi ấm lại bằng tình thương, tình thương mà bấy lâu nay tôi chưa hề có được. Cho nên khi gặp được cô bạn đó, tôi mừng quá, cưới liền!

 

Chán thay cái thói quen tật xấu của tôi, có Giáng Kiều mà không biết trân quý. Cưới nhau được vài năm nhưng hai đứa sống không có hạnh phúc, cứ hai ba ngày là có chuyện gây lộn, đập bàn, đập tường. Sống làm sao nổi nên tức quá, tôi ly dị. Hồi đó tôi chưa gặp được tăng thân, chưa hề biết thực tập nuôi dưỡng hạnh phúc là gì nên mới có chuyện không hay xảy như vậy. Nhưng duyên chưa hết, hai đứa trở lại làm bạn sau hơn một năm chia tay. Mất rồi tôi mới biết quý, có lại tôi mới biết thương. Lúc đó tôi mới hiểu được tâm trạng của người bệnh. Ngồi kế bên cô bạn trong những cơn đau vì bệnh của thân, vô ra nhà thương cấp cứu hai ba lần trong tháng, tôi nếm được sự thật của vô thường. Lúc đó, tôi nhìn lại cuộc đời ăn chơi tiều tụy mà tôi đã dấn vào trước đó và giật mình tự hỏi: Tôi sống để làm gì?

 

Có nhiều người khuyên: “Vợ chồng ai không có sóng gió. Bây giờ hiểu nhau rồi thì sanh vài thằng nhóc cho vui.” Sống để sanh con à?  Có con là vui? Nhìn cô bạn đau đớn khi bệnh hành thân, không lẽ nào ép sanh con cho tôi nữa? Tôi biết đó là con đường mà nhiều người chọn, nhưng không phải là con đường mà tôi muốn đi.

 

Cũng vì bệnh mà cô bạn tôi hướng về con đường tâm linh và  nhờ vậy mà tôi được đi ké. Hình ảnh đoàn người với áo nâu đi như một dòng sông đã đánh thẳng vào tim tôi như tia sét, khơi dậy ngọn lửa “tánh Bụt” trong tôi mà tôi không ngờ là mình có được và có công năng phá tan ngọn núi ăn chơi dục lạc, mở một đường khác cho tôi đi. Chỉ mới nhìn hình tướng bên ngoài thôi mà đã khiến tôi “ mê mẫn” đến vậy đó. Đến khi tiếp xúc rồi thì không có một điều gì có thể cản trở ước muốn của tôi được. Phước đức của tôi vẫn còn.

 

Vào sống trong tu viện tôi như đi vào một thế giới khác. Năng lượng tu tập vững chãi của đại chúng như núi cao, tình thương như dòng suối mát. Sống trong chúng rất dễ cho tôi tu tập chuyển hóa những thói quen tật xấu. Đại chúng như tấm gương sáng cho tôi soi vào và nhìn thấy những vết dơ của tập khí, cho tôi pháp môn để chùi sạch những vết xấu ấy, giúp tôi làm đẹp thêm bằng uy nghi và giới luật. Tu cùng đại chúng, tôi thấy có nhiều cái lợi lắm, một trong những cái mà tôi quý khi sống trong tăng thân là giúp tôi chuyển hóa những tập khí lười biếng, thói quen biện hộ cho những tập khí xấu của mình hơn khi tu một mình.

 

Con người ta hay có thói quen bị lờn và tôi cũng vậy, vì những pháp môn thực tập đơn giản quá thành ra đôi khi tôi quên. Ai mà không biết thở! Ai mà không biết đi! Nhưng ai thật sự biết thở và ai thật sự biết đi đúng nghĩa? Vào tăng thân chưa được bao lâu và cũng chưa thấm tương chao lắm, ấy vậy mà tôi cứ tưởng mình biết mọi cái rồi, là thầy rồi, giỏi rồi nên lơ là thực tập các pháp môn căn bản mà Thầy đã hết lòng trao truyền. Ngày này qua tháng nọ, năm này đến năm kia, tôi không nắm được sự thực tập căn bản nên tôi bị vọng tưởng kéo đi. Cứ như vậy tôi sống trong bóng hình của hạnh phúc, nghĩ rằng chỉ cần trôi với dòng chảy của đại chúng thì cũng có ngày mình đi ra tới biển.

May thay nhờ phước đức của ông bà nên tôi sớm nhận ra hướng đi của mình. Tôi còn nhớ chuyến đi hoằng pháp của Thầy ở Mã-Lai, trong một đêm khuya, trên đường trở về lại chùa sau buổi pháp thoại công cộng, xe chở chúng tôi dừng lại trước đèn đỏ gần cầu xa lộ. Tôi nhìn xuống đường và thấy rất nhiều người vô gia cư sống ở đó, đa số là đàn ông. Khuất dưới cột đèn, có một phụ nữ đang cho con bú. Áo cô rách tơi tả, người chỉ còn xương với da, ánh mắt không hồn. Cô đã mất hết tất cả hy vọng trong đời, có thể đứa bé đó là sợi giây duy nhất níu giữ mạng sống của cô.

 

Xe đã chạy lâu rồi nhưng hình ảnh người phụ nữ đó đã khắc sâu trong lòng tôi. Hình ảnh đó như một cái tát mạnh vào má tôi và tôi bàng hoàng tự hỏi: Tôi đi tu để làm gì?

 

Ngày xưa, tôi có thể giúp đỡ cho người phụ nữ này bằng cách tặng cho cô ta một ít tiền để mẹ con cô có thể sống qua ngày, không chỉ một cô mà tôi có thể giúp mười cô như vậy. Bây giờ tôi không có một xu dính túi. Tôi làm sao để giúp họ đây? Người ta nghèo tả tơi như vậy còn mình thì được mọi người lo cho từng bát cơm, chổ ngủ? Hình ảnh đó khiến mỗi lần bưng bát cơm trên tay, tâm hỗ thẹn trong tôi lại phát khởi, tôi tự hỏi mình có xứng đáng để thọ nhận bát cơm này không? Cả tuần như vậy, tôi ôm giữ câu hỏi này, vừa ăn vừa nuốt nước mắt. Mỗi muỗng cơm đưa lên, tôi lại thấy hình ảnh cô ta nhìn tôi với đôi mắt tuyệt vọng.

 

Có một lần, tôi có cơ hội ngồi chơi với Thầy. Hồi đó, tôi hơi phóng tâm một chút, lơ là chuyện tu tập nên được Thầy nhắc nhở: “Khi là người tu, con phải là người tu trọn vẹn 24/24 giờ. Con luôn giữ phạm hạnh của người tu sĩ, suy tư và hạnh động luôn là của người tu. Con đầu tư hết vô một chuyện thôi.” Thầy dạy thêm: “Thầy chỉ có một mong muốn nơi đệ tử của Thầy, dù xuất sĩ hay cư sĩ thì  tụi con phải sống có đạo đức.”

 

Những lời Thầy chỉ dạy cho tôi trước đây tôi đã lãng quên vì tập khí ham chơi của mình. Hôm ấy, nhờ bắt gặp hình ảnh người phụ nữ với đứa con không nhà không cửa, không đủ cơm ăn áo mặc ấy mà tôi nhớ lại lời Thầy, nhớ lại chí nguyện xuất gia ban đầu. Tôi không còn hỗ thẹn khi nâng bát cơm nữa. Tôi trân quý từng muỗng cơm, từng hạt gạo. Đôi khi tôi vẫn nuốt nước mắt khi ăn, nhưng nuốt vì lòng biết ơn.

 

Tôi trở lại với chính tôi, trở lại với những pháp môn căn bản. Tôi ngồi yên và nương vào hơi thở để trở về, nối lại nhịp cầu giữa thân và tâm. Ngồi yên như thế, tôi cảm được nguồn năng lượng vững chãi của đại chúng và của chính tôi. Với mỗi hơi thở ra vào tôi tập dừng lại. Dừng lại có mặt đích thực mỗi khi có tiếng chuông thỉnh hay cho dù không có một hiệu lệnh nào, tôi cũng tự nhắc nhở mình là phải bám vào hơi thở. Tôi thở và gửi năng lượng bình an và vững chãi đó cho tất cả. Năng lượng đi theo như làn sóng, tôi gửi đến mọi loài, đến những nơi u tối để nguyện cầu cho tất cả đều được bình yên như tôi.

 

Khi lạy sám hối, tôi biết tôi và Đất Mẹ là một. Hình hài tôi có mặt từ Đất Mẹ, được nuôi lớn, và một ngày nào đó tôi cũng sẽ trở về với Đất Mẹ. Người phụ nữ và đứa bé vô gia cư kia cũng là một với Đất Mẹ. Tôi và cô không phải là hai. Nỗi khổ niềm đau của cô cũng là của tôi. Niềm an lạc và vững chãi thảnh thơi của tôi cũng là của cô. Khi tôi lạy xuống, tôi lạy xuống với mẹ con người phụ nữ ấy, tôi lạy xuống với cô bạn thương mến của tôi, tôi lạy xuống với ông bà tổ tiên trong và ngoài tôi, tôi lạy xuống với tất cả.

 

Là người tu, tôi chỉ có một việc để làm thôi: “Tu!” Tôi rất biết ơn những điều kiện mà tôi đang có để tiếp tục là người xuất sĩ trọn đời. Mỗi ngày tôi là một con người mới. Chí nguyện của tôi cũng thay đổi, mỗi ngày một vững mạnh hơn và tôi luôn hướng về Tam Bảo. Ngày xưa tôi tu vì em.  Ngày nay, tôi tu vì tôi là người tu.

Trích từ Lá thơ làng mai số 35

 

 

Đạo Bụt trong lòng người trẻ

 

Làng Mai năm nay tròn 30 tuổi và đang bước vào một giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian qua, Làng Mai đã cho ra đời nhiều pháp môn mới và tạo cơ hội để đưa đạo Bụt đến với nhiều người trong xã hội. Đặc biệt, Làng Mai đã mở ra một con đường cho các bạn trẻ mong ước được tu tập và phụng sự thông qua phong trào Wake Up cũng như chương trình đào tạo năm năm. Làng Mai cũng là nơi “sản sinh” ra một thế hệ tu sĩ mới. Có thể bạn sẽ thắc mắc rằng: Vì sao Làng Mai lại thu hút được nhiều người trẻ xuất gia như vậy? Có điều gì hấp dẫn những người trẻ để họ có thể chấp nhận cạo sạch mái tóc và sống một nếp sống giản dị của người tu? Có lẽ câu chuyện của tôi sẽ phần nào giải đáp cho bạn những câu hỏi đó.

Tôi năm nay hai mươi bốn tuổi, là một người tu trẻ và hạnh phúc. Tôi biết đến pháp môn tu tập của Làng Mai từ khi còn rất nhỏ. Có thể tôi không giống với mẫu người tu theo kiểu truyền thống như bạn từng biết. Tôi là một trong những người tu trẻ của thế hệ mới. Tôi không xuất gia vì thất tình hay vì không biết làm gì với cuộc đời mình; tôi cũng không chán ghét cuộc đời và tìm cách trốn chạy như cách suy nghĩ thông thường của hầu hết những người lớn tuổi mà tôi có duyên được gặp. Tôi cũng không giống  những thầy tu mà các bạn nhìn thấy trên phim ảnh. Tôi thực sự rất hạnh phúc với đời sống xuất gia của mình tại Làng Mai.

Tôi là một trong những người tu trẻ của thế hệ mới, được rèn luyện và lớn lên trong một trung tâm tu học có tên là Làng Mai. Ở nơi đây, chúng tôi được vui đùa, chơi thể thao, ca hát, có thể hát cả nhạc rap và được giao lưu, gặp gỡ với rất nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ. Nếu bạn tình cờ thấy tôi cùng với các thầy, các sư cô Làng Mai đang tắm biển hay đang đi chơi picnic trên núi, có khi vừa chơi đàn guitar vừa hát thì chắc là bạn sẽ tự hỏi: “liệu những người này có thực sự là những người tu không nhỉ?”. Khi đó tôi sẽ trả lời với bạn rằng: “chúng tôi đích thực là những người tu, chỉ có điều chúng tôi thuộc một thế hệ mới, chỉ đơn giản vậy thôi!”.

Tôi lớn lên tại Canada, trong một gia đình theo đạo Bụt. Trong nhà chúng tôi có một bàn thờ ở phòng khách, trên đó cha mẹ tôi có đặt một tượng Bụt cùng với nhang, đèn và những đồ thờ cúng theo kiểu truyền thống. Tôi được cha mẹ dạy thắp hương lên bàn thờ Bụt mỗi sáng trước khi đi học. Ban đầu tôi cũng vâng lời và làm theo, nhưng thú thật là đối với một cậu bé đang tuổi mới lớn thì việc làm này chẳng có gì hứng thú hết, vì vậy mà sau một thời gian thì tôi không làm nữa. Ở thành phố Toronto nơi tôi lớn lên có rất nhiều ngôi chùa nhỏ. Cha mẹ thường dẫn tôi và chị gái đến các ngôi chùa này vào những dịp Tết, lễ Vu Lan, Trung thu và nhiều dịp lễ khác. Mặc dù những dịp như vậy cũng khá vui nhưng sao tôi vẫn cảm thấy chán, chỉ muốn đi về nhà để xem tivi hay chơi điện tử Nintendo. Đến bây giờ, tôi vẫn còn thấy nhiều bạn trẻ cũng có thái độ giống tôi, không hứng thú gì với những sinh hoạt ở chùa.

Khi đến những ngôi chùa ở Canada hay Việt Nam, lúc nào tôi cũng chỉ thấy những nghi lễ tụng kinh và cầu nguyện. Đôi khi đó là một buổi cầu siêu cho người đã chết hay là việc cúng bái theo kiểu sùng tín. Tôi chưa bao giờ cảm thấy những điều này có gì liên hệ tới cuộc sống của tôi hết. Mặc dù trong gia đình tôi, mọi người vẫn thường đến chùa tụng kinh và nghe pháp nhưng sao tôi vẫn thấy họ khổ đau và làm cho những người mình thương khổ đau. Vì vậy tôi chưa hiểu được ý nghĩa và sự lợi ích của việc đi chùa. Khi đến chùa, nhìn lên những tượng Bụt và Bồ tát, tôi không có cảm giác có sự liên hệ hay gần gũi nào. Đối với tôi, những bức tượng đó không có vẻ gì là giống con người cả. Có nhiều người trong chúng ta vốn không tin rằng có Thượng đế. Phải chăng Bụt và Bồ tát cũng là những Thượng đế của người Á Đông? Có thể lúc đầu chúng ta nghĩ rằng đúng vậy, đó là Thượng đế của chúng ta, theo kiểu Á Đông. Và rồi khi lớn lên, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng đó chỉ là những bức tượng được làm rất đẹp để chúng ta thờ cúng. Trong nhiều ngôi chùa, ta có thể nhìn thấy những câu có nội dung như: Nam Mô Đức Phật A Di Đà, con nguyện sẽ sinh về Tây phương Tịnh độ (Tây phương cực lạc). Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng những người Phật tử không muốn sống trên hành tinh xinh đẹp này nữa sao? Tại sao phải đợi cho đến khi chết đi mới sang được Tịnh độ? Đây không phải là điều mà những người trẻ ước muốn. Mặc dù tôi rất tôn trọng và cũng hiểu đôi chút về những sinh hoạt tín ngưỡng và lòng mộ đạo, nhưng tôi thấy những sinh hoạt này không hấp dẫn được những người trẻ ngày nay. Bởi vì sau một thời gian cầu nguyện, họ không cảm thấy những lời cầu nguyện của họ được đáp lại. Nhiều khi họ nghĩ rằng đạo Bụt không dành cho những người trẻ như họ mà chỉ dành cho những người lớn tuổi và cho người chết mà thôi. Từ đó  họ bắt đầu nghi ngờ, rồi dần xa rời đạo Bụt.

Trong giây phút này có thể bạn nghĩ rằng tôi đang phán xét và chỉ trích đạo Bụt. Sự thật thì tôi không hề có ý định đó, tôi chỉ muốn chia sẻ cảm giác của một người trẻ cũng như quan điểm của người trẻ về đạo Bụt ngày nay. Tôi nhận thấy đạo Bụt có vai trò và tầm quan trọng rất lớn trong việc giúp những người trẻ của thế hệ mới trở về để tiếp xúc với kho tàng tuệ giác mà tổ tiên huyết thống và tâm linh đã trao truyền. Tuy nhiên, muốn làm được như vậy thì đạo Bụt phải thay đổi để thích ứng với thế kỷ mới, thế kỷ 21.

Là những người trẻ, khi đến thăm một ngôi chùa, thiền viện hay một trung tâm tu học, chúng ta mong muốn hiểu được lời kinh, tiếng kệ mà quý thầy, quý sư cô đang tụng niệm cũng như những lời chỉ dạy từ quý thầy, quý sư cô. Chúng ta muốn học hỏi một phương pháp thực tập có thể áp dụng ngay trong đời sống hàng ngày và có tác dụng ngay khi thực tập. Chúng ta muốn có một nơi để trở về nương tựa, để làm lớn mạnh khía cạnh tâm linh trong đời sống của mình và tiếp xúc với chiếc nôi truyền thống.

Bố tôi dẫn tôi và chị gái đến Làng Mai năm 1996. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ là khi chúng tôi mới đến, tôi nghĩ trong đầu rằng nơi này chắc cũng chẳng khác gì những ngôi chùa mà tôi từng biết. Điều làm tôi ấn tượng đầu tiên là hình ảnh một vị thầy trẻ chào đón chúng tôi với nụ cười thân thiện. Nhìn vị thầy đó thật bình an, hạnh phúc và gần gũi. Sự ấm áp và chu đáo của vị thầy đó làm cho tôi cảm thấy ở nơi này có một cái gì đó không giống với những ngôi chùa mà tôi đã đến và vị thầy tôi gặp là người mà tôi có thể đến chơi một cách thoải mái, dễ dàng. Tôi đã được gặp rất nhiều thầy và sư cô trẻ khác trong thời gian ở Làng. Tôi cũng học được rất nhiều từ cách sống hàng ngày của các thầy, các sư cô nơi đây. Tôi thấy được sự quan tâm, chăm sóc giữa những người tu với nhau đầy tình thương như thế nào. Tôi cũng thấy được các thầy, các sư cô làm việc rất nhiều để phụng sự nhưng sao trên môi các vị vẫn nở được những nụ cười tươi. Những nụ cười đó không có vẻ gì là xã giao mà lại rất thật, phát sinh từ sự thực tập chánh niệm hàng ngày. Năng lượng chánh niệm đã giúp cho các thầy, các sư cô tiếp xúc được với những điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong mình và xung quanh mình ngay trong giờ phút hiện tại. Năng lượng đó cũng giúp cho các vị nuôi lớn tâm thương yêu đối với mọi người, ngay cả đối với những người chưa dễ thương với mình.

Làng Mai được bao bọc bởi khung cảnh thiên nhiên xung quanh. Ở đây mọi người không được phép chơi các trò chơi điện tử. Điều này tạo cơ hội cho những người trẻ như tôi có cơ hội chơi và tiếp xúc với các bạn trẻ cũng như các em nhỏ đến Làng từ nhiều quốc gia khác nhau. Và nhờ vậy mà tình bạn giữa chúng tôi được hình thành nhanh chóng. Chúng tôi nhận ra rằng hạnh phúc là một cái gì có thật mà không cần phải có nhiều tiền bạc và danh tiếng. Chúng tôi không bị phụ thuộc vào máy tính, tivi, những trò chơi điện tử hay Facebook, Twitters cũng như các hình thức giải trí trên mạng để có hạnh phúc. Cái thấy này có thể giúp thế hệ trẻ không bị cuốn hút vào thế giới công nghệ như hiện nay.

Tôi thích cách diễn bày đạo Bụt theo phương pháp của Làng Mai, tôi không cảm thấy đạo Bụt là một tôn giáo mà chính là một nếp sống. Bụt đã dạy rất rõ rằng hạnh phúc và sự bình an chân thực có thể được tìm thấy ngay bây giờ và ở đây. Chỉ với một hơi thở vào, tôi có thể tiếp xúc được với tất cả những điều kiện hạnh phúc mà tôi đang có, chẳng hạn như tôi đang có một cơ thể khỏe mạnh, một gia đình hạnh phúc, những người bạn dễ thương, v.v. Sự thật là có rất nhiều những điều kiện hạnh phúc đang có mặt cho chúng ta nhưng chúng ta thường bị cuốn đi bởi nhịp sống hối hả của xã hội mà quên đi điều đó. Tôi nhận ra rằng tương lai của mình đang được làm bởi những hành động trong giây phút hiện tại. Và ý thức đó đã cho tôi sức mạnh để quyết định lựa chọn cho mình một hướng đi. Tôi biết tương lai của tôi có tốt đẹp hay không, tất cả đều do chính tôi lựa chọn. Sự “vui tươi” và “trẻ trung” của pháp môn Làng Mai đã thực sự thu hút tôi cũng như rất nhiều các bạn trẻ khác đến Làng. Kinh nghiệm này đã giúp tôi thay đổi cái nhìn của mình đối với nếp sống ở chùa, đối với người tu và đối với đạo Bụt nói chung.

Tôi quyết định xuất gia ở tuổi 13, bởi vì tôi muốn sống một nếp sống như ở Làng Mai. Tình huynh đệ là một cái gì rất sống động ở Làng Mai đã thu hút tôi như… đường thu hút kiến. Tôi nhận thấy ở ngoài xã hội, chúng ta được đào tạo để trở thành những cá nhân xuất sắc, nhưng tại Làng Mai thì chúng ta phải học nhìn mọi thứ bằng con mắt tương tức, dù đó là công việc hay là vấn đề hạnh phúc hoặc khổ đau. Tôi biết điều này là một sự thực tập không hề dễ dàng đối với bất kỳ ai, đặc biệt là những người trẻ lớn lên ở Tây phương như tôi. Ở Làng Mai, tất cả các thầy cùng sống chung với nhau trong một khu tăng xá và các sư cô cũng sống chung trong cùng một ni xá. Chúng tôi đến từ nhiều quốc gia, từ nhiều nền văn hóa khác nhau và có trình độ học vấn cũng như nền tảng gia đình khác nhau. Vì vậy mà chúng tôi có cách nhìn và quan điểm không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn thực tập sống chung an lạc với nhau. Mỗi ngày chúng tôi thực tập buông bỏ cái tôi riêng biệt và nuôi dưỡng tuệ giác tương tức bằng cách tập nhìn các sư anh, sư chị, sư em của mình là một tế bào của cùng một tăng thân.

Tôi nhớ có một lần khi làm thị giả cho Thầy, tôi may mắn được trực tiếp nghe Thầy dạy các đệ tử của mình về điều này. Lúc đó có một số quý thầy, quý sư cô đang chuẩn bị cho chuyến đi giảng dạy ở xa; trước khi đi, quý vị ấy đến chào Thầy và xin Thầy chỉ dạy. Trong nhóm này có nhiều vị rất trẻ, tài giỏi và có đủ khả năng thuyết pháp và hướng dẫn tu tập cho thiền sinh. Tuy nhiên, đôi khi có quá nhiều người tài giỏi ở trong cùng một nhóm cũng khá nguy hiểm bởi vì sẽ không ai chịu lắng nghe ai! Hôm đó, các thầy, các sư cô trẻ trong nhóm cùng ăn cơm trưa với Thầy và sau bữa ăn, các vị chia sẻ với Thầy về chương trình cũng như những ước muốn của mình trong chuyến đi. Sau khi lắng nghe các học trò của mình, Thầy dạy rằng: “Tất cả các con phải tập nhìn các sư anh, sư chị, sư em là một với mình. Hãy nhìn những ngón tay của các con. Các con có thấy mỗi ngón tay có hình dáng khác nhau không? Ngón cái thì ngắn và bụ bẫm nhưng lại rất khỏe, ngón trỏ là ngón chỉ phương hướng, ngón giữa là ngón dài nhất, kế đó là ngón đeo nhẫn rồi đến ngón út, ngón này tuy nhỏ nhưng lại rất hữu dụng. Các ngón tay biết rằng mỗi ngón đều rất khác biệt nhưng chúng cũng đồng thời ý thức rằng chúng cùng thuộc một bàn tay. Nhờ khác nhau như vậy mà các ngón tay có thể cùng nhau tạo thành một quả đấm. Nếu các ngón tay đều y như nhau thì chúng không thể hợp lại thành một quả đấm được. Các con phải tập nhìn sư anh, sư chị, sư em mình như vậy. Tất cả chúng ta đều khác nhau, mỗi người đều có điểm mạnh và điểm yếu, nhưng nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta là những ngón tay của cùng một bàn tay thì chúng ta sẽ vượt thoát cái nhìn phân biệt, kỳ thị và chúng ta có thể phối hợp hài hòa với nhau để tạo nên sức mạnh như một quả đấm”. Các thầy, các sư cô trẻ rất vui mừng được nghe lời chỉ dạy của Thầy và hứa sẽ thực tập điều đó. Đây chính là tinh thần mà chúng tôi luôn thực tập cùng nhau tại Làng Mai.

Được sống và lớn lên trong Tăng thân, tôi nhận diện được rất nhiều tâm hành trong tự thân và biết cách chăm sóc những tâm hành đó mỗi khi chúng phát khởi. Tôi nhận ra  mình có nhiều đức tính và phẩm chất tốt được trao truyền từ ông bà tổ tiên, nhưng đồng thời cũng có không ít những tập khí chưa dễ thương cần được chuyển hóa. Đảm đương những trách nhiệm trong tăng thân đã cho tôi cơ hội tốt nhất để thực tập điều đó. Tôi được Tăng thân giao phó chức vụ trụ trì của chùa Pháp Vân, Xóm Thượng sau khi Thầy Pháp Đôn – nguyên trụ trì của chùa Pháp Vân chuyển sang tu viện Lộc Uyển, Mỹ để tiếp tục tu tập cùng đại chúng bên đó. Mặc dù trách nhiệm này có vẻ rất quan trọng và nhiều khó khăn nhưng tôi vẫn hoan hỷ chấp nhận. Tôi thực sự thấy rằng tôi đã cắm rễ sâu vào mảnh đất Tăng thân, nơi tôi có nhiều thương yêu, vì vậy khi được Tăng thân giao phó trách nhiệm đó, tôi chấp nhận một cách rất tự nhiên.

Làm trụ trì ở Làng Mai rất khác so với làm trụ trì ở những chùa truyền thống. Tăng thân Làng Mai bây giờ đã phát triển khá lớn, vì vậy Thầy chúng tôi đã đưa ra một cách thức mới để tổ chức tăng thân. Cách thức này tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các thầy, các sư cô trẻ thể hiện tài năng của mình. Ở những chùa truyền thống, các vị trụ trì thường có quyền hành rất lớn và quyết định mọi việc trong chùa. Nhưng ở Làng Mai thì khác, Thầy đã cho chúng tôi một hướng đi mới. Thầy khuyến khích các sư anh, sư chị lớn đóng vai trò là những trụ cột của Tăng thân. Các vị lớn có mặt đó để lắng nghe các sư em mình chia sẻ về những khó khăn trong tu học, nâng đỡ, yểm trợ và đưa những lời chỉ dẫn khi cần thiết. Các vị cũng đóng góp tuệ giác và kinh nghiệm của mình đối với những công việc trong Tăng thân, nhưng sau khi đưa ra ý kiến của mình, các vị để cho các sư em tự quyết định và thực hiện công việc đó. Tuy nhiên, các vị luôn có mặt ở phía sau để yểm trợ các sư em của mình. Cách tổ chức mới này đã tạo động lực cho các thầy, các sư cô trẻ năng động hơn và điều này giúp cho những người trẻ như chúng tôi cảm thấy mình đang được góp sức vào sự phát triển của Tăng thân. Đó là lý do tại sao Xóm Thượng của Làng Mai lại có một vị trụ trì trẻ như vậy!

Là trụ trì ở Làng Mai, chúng tôi phải làm lớn mạnh kỹ năng truyền thông của mình với những thành phần khác trong Tăng thân. Chúng tôi phải tập lắng nghe các sư anh, sư chị, sư em của mình cũng như các bạn thiền sinh với một tấm lòng rộng mở mà không để bị cuốn đi bởi những cảm xúc của mình. Công việc của một trụ trì Làng Mai cần làm là: Khám phá tài năng của các thành phần trong chúng để giúp các anh chị em có cơ hội phát triển tài năng của mỗi người. Là một thành phần của Tăng thân Làng Mai, ai trong chúng tôi cũng được khuyến khích chia sẻ ý kiến và đóng góp cái thấy của mình cho đại chúng, nhưng một khi đã chia sẻ ra rồi thì chúng tôi nương tựa vào mắt Tăng và để cho Tăng thân dung hòa tất cả các ý kiến.

Cũng có những lúc tôi cảm thấy căng thẳng và đã để cho cảm xúc cuốn đi, khiến cho tôi có những lời phàn nàn, trách cứ Tăng thân, khiến cho tôi nghĩ rằng mình giỏi hơn những người khác và nếu không có tôi thì Tăng thân sẽ rất khó khăn. Thái độ này đã làm cho tôi trở nên xa cách với các sư anh, sư chị, sư em của mình. Nó cũng khiến cho tôi mất rất nhiều năng lượng và làm tổn hại đến tình huynh đệ trong Tăng thân. Những lúc như vậy, tôi luôn tìm cách trở về với những phương pháp thực tập căn bản, buông bỏ những nghĩ suy về các dự án, các cuộc họp trong đầu và nhắc cho mình nhớ rằng chính tôi đã tự nguyện xuất gia và tự nguyện trở thành một thành phần của Tăng thân. Cùng với sự thực tập này, tôi để cho tăng thân ôm ấp những khó khăn trong tôi và nhờ đó tôi có thể nối lại truyền thông với tăng thân của mình. Kinh nghiệm này cũng giúp cho tôi nhớ rằng tôi chỉ là một trong rất nhiều những thành phần tạo nên Tăng thân. Và nếu tôi không làm những dự án đó hoặc giả dụ nếu tôi không chủ tọa những buổi họp thì sẽ có một người khác làm thay tôi. Tôi tự nói với chính mình :“Pháp Hữu, anh không có gì đặc biệt lắm đâu! Anh cũng chỉ là một tế bào như tất cả những tế bào khác của tăng thân thôi”. Sự thực tập này đã cứu tôi rất nhiều lần và giúp cho tôi buông bỏ bản ngã của mình. Nó cũng đồng thời giúp tôi làm mới lại mình và nhắc nhở tôi rằng tôi là một người tu, rằng tôi còn rất trẻ và có nhiều điều cần phải học hỏi; và rằng tôi nên nuôi lớn tâm hiểu biết cũng như tình thương yêu nơi mình. Việc làm trụ trì đã thực sự rèn cho tôi mở lòng mình nhiều hơn và giúp tôi nuôi dưỡng tâm bình đẳng, không phân biệt nơi mình.

Tôi muốn nói với những người bạn trẻ rằng đạo Bụt vẫn còn rất tươi mới và thiết thực đối với thế hệ trẻ chúng ta. Đạo Bụt không chỉ dành cho người già và người đã chết, mà có thể trở nên sống động và tràn đầy sự sống. Đạo Bụt có thể dẫn dắt thế hệ mới của chúng ta hướng về một tương lai tươi sáng hơn. Là một người tu, tôi luôn hành trì theo giới luật và uy nghi để bảo hộ cho mình, nhưng không vì vậy mà tôi không được sống như một người trẻ! Tôi vẫn có thể chơi bóng rổ với các sư anh, sư chị, sư em của mình; tôi vẫn có thể hát nhạc rap với các bạn trẻ. Chỉ có điều, tôi làm những điều này với ý thức chánh niệm và với tinh thần xây dựng tình huynh đệ.

Tôi thấy mình thật may mắn được gặp Tăng thân và không đánh mất gốc rễ truyền thống của mình. Tôi mong ước mình sẽ là sự tiếp nối xứng đáng của Thầy và của Tăng thân. Tôi thấy lòng mình tràn đầy niềm biết ơn vì tôi được là một thành phần của Tăng thân Làng Mai, đặc biệt là khi Làng Mai tròn 30 tuổi. Tôi cầu mong cho mọi người trẻ trên thế giới này đều tìm thấy cho mình một nơi mà mình có thể trở về để tiếp xúc với gốc rễ của mình, và tiếp xúc với gia tài tâm linh mà tổ tiên đã trao truyền.

Thệ nguyện từ nay chỉ một đường

-“Cháu ra đời vậy cháu có ý định trở lại với Tăng thân, trở về xuất gia lại không?”, thầy Pháp Niệm hỏi với một hy vọng rằng rằng câu đáp sẽ là: -“Dạ, thưa có”.

Vào năm 1995, lúc đó tôi mười lăm tuổi, vào dịp nghỉ hè tôi được ba mẹ cho qua Làng Mai. Lúc bấy giờ, thầy Pháp Niệm (cậu ruột của tôi) mới xuất gia được một năm. Lần đầu tiên khi đặt chân vào khuôn viên Làng, tôi đã có ấn tượng. Làm sao mà có được một môi trường bình an như vậy nhỉ! Nhớ lại những lúc đi sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử (GĐPT) tôi không bao giờ có được cảm giác như vậy. Mỗi chủ nhật, tôi tự động khoác chiếc áo lam của GĐPT và lên đường đến chùa. Thỉnh thoảng tôi còn tự hỏi vì sao tôi đi chùa? Tập khí của tôi vẫn còn y nguyên đó, ai nói gì thì tôi nói lại, cứng đầu, bướng bỉnh, có sự so đo khi làm việc nhà với đứa em trai,… Khi Mẹ tôi hỏi một câu làm tôi bừng tỉnh mà không biết làm sao đáp lại: “Con đi chùa làm gì mà khi về nhà con vẫn như vậy?” Tôi đi GĐPT được học Phật Pháp, được sinh hoạt và tham dự vào những trò chơi, đố vui để học. Như khi  được hỏi “Tứ Diệu Đế là gì?”, tôi đáp như một cái máy: “Tứ Diệu Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo”, nhưng cuối cùng tôi vẫn không hiểu làm sao có thể áp dụng giáo lý đó vào đời sống hàng ngày. Tôi được đi chùa từ lúc tôi vượt biên và được bảo lãnh đến Toronto lúc tôi khoảng tám tuổi.

Mùa hè năm ấy tôi đến Làng với mục đích đi thăm thầy Pháp Niệm thôi, nhưng nhờ cơ hội đó mà tôi may mắn được tiếp xúc với Làng. Đó chính là “mối tình đầu” của tôi. Bước chân vào khuôn viên Làng, tự nhiên bao nhiêu lo phiền tan biến và chỉ còn lại không khí trong lành để tôi có thể cảm được sự bình an trong bản thân. Quý thầy và quý sư cô mà tôi được tiếp xúc tại Làng rất khác với những Thầy tôi quen biết trong những năm sinh hoạt trong GĐPT. Tôi thấy sao các thầy các sư cô ở đây có vẻ rất tự do, đi những bước chân rất khoan thai và tự tại. Khi ăn cơm, các vị nhai từng muỗng đến hơn ba mươi lần. Quý thầy, cô ở đây đích thực là biết sống và biết thưởng thức những mầu nhiệm của đất trời.Tôi khám phá ai ai cũng thương nhau như anh em ruột thịt và đôi lúc còn thương nhau hơn thế nữa, vì mỗi người trong đại chúng cùng chung một lý tưởng.

Tôi nhớ ngày tôi phải chuẩn bị rời Làng để về lại Toronto, tôi đã phải thức dậy rất sớm để đón chiếc tàu TGV từ Libourne đến Paris vào lúc 5h45 sáng. Ấy vậy mà có một sư cô đã thức dậy thật sớm để chuẩn bị thức ăn cho tôi đi tàu dù sư cô đó không quen biết gì nhiều đến tôi. Lúc tôi ngồi trên tàu, nhìn miếng bánh mì, tôi cảm được tình thương của sư cô. Tôi tự hỏi: “Tôi có khả năng để cống hiến tình thương như sư cô đã cống hiến cho tôi không? Dù đó là người mình không có quen biết?” Đó chính là hạt giống Bồ Đề trong tôi lần đầu được tưới tẩm, và tôi có ý muốn xuất gia. Vì tôi nghĩ chỉ có duy nhất con đường xuất gia mới trả lời được câu hỏi đó của tôi mà thôi.

Khi tôi về lại môi trường xã hội, về lại gia đình, tôi thấy con người có khuynh hướng hay sống với bản ngã hơi nhiều. Chúng ta tìm đủ cách để cho mọi việc đều thuận lợi cho riêng mình. Chính xã hội cũng khuyến khích và tưới tẩm hạt giống đó. Không ít thì nhiều, tôi đã học được một số pháp môn của Làng, như là thiền đi, thiền trà và trở lại tiếp xúc với hơi thở. Sống trong xã hội, mỗi lần tôi đi học, tôi vẫn tiếp tục thực tập được năm bước hoặc mười bước đi trong chánh niệm. Thỉnh thoảng tôi may mắn thực tập được nhiều hơn. Đã có những lúc tôi xin phép được cô giáo dạy sinh học yểm trợ cho tôi có thể mở những lớp hướng dẫn thiền đi và thiền trà. Vì trong trường có thành lập một cái phòng “peace room” (Sư Ông gọi là phòng thở và có nhóm conflict resolution, những người học cách giải toả xích mích.) Tôi không thuộc trong nhóm đó vì đối với tôi, nhóm ấy học nghiên về lý thuyết hơi nhiều. May mắn là cô giáo chấp thuận và trong năm tôi được hướng dẫn một vài lớp. Đến năm tôi vào lớp 11, tôi được trường trao cho giải thưởng hòa bình. Mỗi năm trường trao giải hòa bình cho một thành viên trong nhóm conflict resolution. Đối với tôi, nhận được giải đó là một điều rất đỗi ngạc nhiên. Tôi vui mừng và chấp nhận. Vì có lẽ đó cũng là những nấc thang, giúp tôi giải đáp một phần nào đó câu hỏi trong chiếc tàu TGV.

Đến khi học xong trung học, tôi quyết định xin mẹ đi tu vì hạt giống Bồ Đề trong tôi đã được chín mùi và tôi không có cách nào có thể chịu đựng được nữa. Lúc đó tôi đang vừa xem vô tuyến truyền hình vừa cắt vải làm túi áo cho mẹ may. Tôi ngừng công việc và tắt máy. Bước lên cầu thang, tôi hơi run run vì sợ mẹ sẽ không cho đi. Nhưng tôi đã quyết tâm rồi. Đến phòng may thì thấy mẹ đang may. Tôi ngồi xuống và xin mẹ ngừng may và hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, nếu con quyết định đi tu thì mẹ nghĩ như thế nào?

Mẹ tôi trả lời với giọng nói có vẻ lo lắng nhưng lại vui mừng:

– Nếu con đã suy nghĩ kỹ rồi thì con có thể đi, nhưng con nên nhớ là có những người tu nửa chừng và ra đời.

Tôi nghĩ rằng tôi sẽ không thuộc những người đó và trả lời một cách rắn chắc.

-Dạ con biết.

-Vậy thì mẹ đi báo tin cho ba mừng.

Tháng hai năm 2001, tôi được xuất gia trong gia đình Cây Trà Mi. Gia đình có chín người và tôi được làm sư út của gia đình. Được làm sư út tôi mừng ghê vì ở nhà tôi là anh cả trong gia đình. Không ngờ, nhờ đi tu tôi mới được nhõng nhẽo! Mỗi ngày tôi được bao bọc bởi tình thương của Sư Ông và của toàn thể đại chúng. Tôi và mọi người nơi đây thật sự được sống như là những người tự do và không kỳ thị chủng tộc hoặc tôn giáo. Bất cứ lúc nào cũng có thể chế tác hạnh phúc và nuôi dưỡng bình an. Mỗi ngày, tôi cùng mọi người thực tập để trân quý hai mươi bốn giờ mà đất trời ban cho và cứ như vậy tôi nở nụ cười để tiếp nhận món quà đó. Tôi ý thức trong thế giới chung quanh có những người không được may mắn như tôi. Mỗi sáng thức dậy, tôi ý thức rằng tôi vẫn còn là một vị xuất gia, còn có thể thở được, nhìn được với đôi mắt sáng và mỉm cười được, chừng đó đã là kỳ diệu lắm rồi. Tôi không cần theo đuổi gì thêm. Dù cho làm tổng thống hay có quyền lợi, giàu sang trong xã hội chắc gì tôi có được hạnh phúc và tự do bằng nếp sống đơn giản và ăn chay nằm đất!

Nhưng có lẽ, tôi nằm trong thành phần những người xuất gia trẻ mà trong tâm thức vẫn còn những hạt giống đã được trao truyền từ ông bà tổ tiên. Dần dà tôi đã đánh mất đi sự thực tập căn bản của Làng, và thế vào đó những hạt giống thèm khát, muốn sống một nếp sống gia đình được khơi dậy trong tôi. Lúc ấy tôi xuất gia đã được chín năm. Chính vào hai năm cuối là thời điểm khó khăn nhất. Tôi đã vất vả nhiều với sự lựa chọn giữa con đường xuất gia và con đường hoàn tục. Nếu tôi chọn con đường ra đời, tôi sẽ phụ bạc tình thương của Sư Ông, của Tăng thân và của ba mẹ tôi. Nhất là với những lời dặn dò của mẹ ngày tôi xin đi xuất gia. Tôi đã chật vật rất nhiều với sự đắn đo ấy. Để rồi cuối cùng, tôi đã nhắm mắt trước tình thương to lớn mà tôi đã nhận từ Sư Ông và từ Tăng thân. Đồng thời tôi cũng chấp nhận, chính quyết định này là con đường mà tôi phải đi ngang thì mới lớn lên được. Vào hai năm cuối đó, tôi đã để hạt giống thèm khát trỗi dậy trong tâm thức rất nhiều và âm thầm muốn rủ người tôi thương cùng nhau ra đi. Thuở ban đầu chỉ là đơn phương, về sau trở thành song phương. Do vậy, tôi đã bám víu vào nó. Đã để dòng mơ tưởng lấn chiếm cả “mối tình đầu” của tôi với Tăng thân. Tôi nhớ trong những ngày tháng đó, tất cả những gì tôi làm chỉ là nuôi lớn hạt giống và năng lượng thèm khát đó trong tôi thôi. Tôi đã dại dột nghĩ rằng: “Đâu phải cặp vợ chồng nào cũng khổ đau, cũng có những cặp vợ chồng rất thành công trong sự thực tập và có thể giúp đỡ rất nhiều người bớt khổ”. Đến mức tôi nghĩ, tôi không có thể sống được trong Tăng thân nữa vì tôi không xứng đáng với tình thương của Sư Ông và của Tăng thân mỗi ngày đã dành cho tôi. Sư Ông và Tăng thân đã làm mọi cách để nâng đỡ và dạy tôi rất nhiều điều, nhưng tâm tôi đã khép kín rồi nên tôi không thể tiếp nhận được tình thương đó! Cuối năm 2010, tôi đã quyết định xin phép Sư Ông và tăng thân cho tôi xả giới. Tôi biết ơn tình thương của Sư Ông và đại chúng  luôn luôn dành cho tôi. Sống trong Tăng thân, tôi cảm được đây chính là nơi có tình huynh đệ, tình tỷ muội thật sự. Đi nhiều nơi trên thế giới, tôi chưa kiếm được thứ tình huynh đệ mà tôi đã cảm được trong suốt ngần mười năm xuất gia của tôi. Thầy Pháp Niệm cũng từng cố gắng để giúp tôi ra khỏi khó khăn này rất nhiều lần. Thầy hay chia sẻ: “Từ ngày cháu đi xuất gia đến giờ, cháu có thấy gia đình, họ hàng của mình đã chuyển hoá được biết bao không? Các em trẻ có ý thức hơn về sự thực tập và trở nên những người rất dễ thương.Thời gian mà Tony mất (em ruột của tôi mới 18 tuổi), cháu đã là cột trụ để làm nơi nương tựa cho ba mẹ cháu, và cho họ hàng…” Nhưng cuối cùng thầy Pháp Niệm cũng đành buộc lòng chấp nhận quyết định của tôi vì biết rằng tôi sẽ không còn đứng lưng chừng ở giữa ngã ba nữa. Nên khi thầy hỏi: “Cháu ra đời, vậy cháu có ý định trở lại với Tăng thân, trở về xuất gia lại không?” Tôi trả lời một cách chắc chắn: “Dạ không! Nếu cháu ra đi cách đây một năm thì cháu nghĩ sẽ có ngày trở lại. Giờ đây thì không.”

 

Ngày tôi về nhà, có lẽ là ngày khổ sở nhất trong cuộc đời của tôi, vì tôi đã cắt đi niềm tự hào của ba mẹ tôi đối với chuyện có người con đi xuất gia. Có đứa con đi tu là niềm hạnh phúc và tự hào nhất đối với những người Phật tử chất phác như ba mẹ tôi. Tôi đành phải nhắm mắt trước việc ấy và hy vọng có ngày ba mẹ sẽ hiểu. Nghỉ ngơi được vài ngày thì tôi đi làm cùng với ba mẹ và đứa em trai trong nghề home renovation (cải tiến, sửa chữa nhà cửa). Sau một ngày làm việc, mẹ tôi nói với giọng than và buồn khổ: “Sao thấy con mình đi làm khổ quá”. Tôi thấy mẹ buồn khổ quá nên quyết định không đi làm chung nữa và lên mạng tìm việc làm khác.Thấy tiệm Tim Hortons (tiệm café) đăng báo cần tìm người tính tiền (cashier) và làm café. Tôi liền tạo một cái lý lịch tóm tắt (résumé). Trong lý lịch ấy phần nhiều là kinh nghiệm từ thời gian tôi ở Làng và một ít từ thời trung học. Viết xong tôi gửi qua điện thư đến tiệm. Chỉ trong vài ngày sau, tôi may mắn đã được bà chủ tiệm gọi điện và hẹn ngày phỏng vấn để nhận công việc. Sau buổi phỏng vấn tôi được chấp nhận làm thành viên của Tim Hortons. Lúc đó tôi mừng lắm! Tôi không ngờ những kinh nghiệm mà tôi có được ở Làng, ghi vào lý lịch mà tiệm vẫn có thể chấp nhận được tôi. Có lẽ do đặc điểm lý lịch tôi viết là tôi có thể lắng nghe, nói những lời ái ngữ và luôn mỉm cười và có thể giúp được khách hàng khi họ có những lời than phiền, có thể đem niềm vui đến với những người cùng làm chung việc. Tôi nhớ trong hai tháng đầu, bà chủ tiệm rất thích cách tôi làm việc, rất hiệu quả và luôn vui tươi chấp nhận bất cứ việc làm gì, dù đó là quét nhà, lau nhà. Nhìn thấy cách tôi làm, cách tôi nói chuyện, và kể cả việc tôi ăn chay điều khiến cho bà chủ tiệm ngạc nhiên. Tuy rằng sống trong căn nhà của ba mẹ, tôi không phải lo về cơm nước, nhà cửa, tiền bạc, nhưng tôi vẫn thấy vất vả thật. Luôn luôn phải đi làm để kiếm chút tiền. Phải đua đòi với người ta để được bà chủ khen thưởng và mong có ngày để được lên chức. Nếu tôi ở riêng, chắc chắn bao nhiêu tiền tôi làm được chỉ đủ để trả tiền nhà, tiền điện, tiền nước, điện thoại, bảo hiểm,… và có thể không đủ nữa. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói là số tiền họ làm được là đủ để cho họ sống cả. Sống trong tu viện, tôi không cần lo đến chuyện tiền bạc hoặc ngủ đâu, ăn ra sao. Mỗi ngày đều có ba bữa cơm dọn sẵn trên bàn. Tôi biết rõ, ra đời không phải để tôi tìm kiếm những tiện nghi mà tôi không có trong tu viện. Mà nói cho đúng, sống trong tu viện chúng tôi thiếu tiện nghi nhưng cũng lại rất dư dả. Vì chính tình thương của Tăng thân chính là tiện nghi đích thực nhất. Dần dà tôi thiết kế phòng ngủ của tôi y như là cách sống của tôi ở trong tu viện. Chính nhờ cách sống mà tôi quen thuộc ở trong tu viện đã giúp tôi có thể trở về lại với sự thực tập, thở vào thở ra dễ dàng nhất. Tôi từ từ tạo cho mình có đủ thời gian và không gian để tôi có thể ngồi thật yên. Ngồi để nhìn lại những năm qua và trong hiện tại. Và tôi luôn luôn khơi dậy được trong tôi tình thương mà tôi đã tiếp nhận được từ Sư Ông và Tăng thân. Đích thực, tôi ra đây là để tìm kiếm nếp sống đôi lứa hay sao? Nếu vậy, người mà tôi mong đợi sẽ từ bỏ đời sống xuất gia của người đó có để sống với tôi không? Tôi đã vật lộn với câu hỏi đó trong tôi. Mãi đến sáu tháng sau tôi mới thấy rõ hơn. Đây có phải là thứ tình thương đích thực không? Tình thương mà tôi đang muốn tìm kiếm chính là tình thương có sự chiếm hữu. Một bông hoa đẹp ngoài sân tự dưng mình cắt đi đem vào nhà chưng để cho chỉ có mình thưởng thức thôi thì sớm muộn gì hoa cũng sẽ héo tàn. Sư cô đó đang sống một nếp sống cao thượng, có nhiều hạnh phúc và giúp đỡ được biết bao nhiêu người. Tôi có đem sư cô đó được về nhà thì cũng giống như việc tôi ngắt bông hoa ngoài sân kia thôi. Bông hoa có thể cống hiến cái đẹp cho nhiều người thì đó mới là bông hoa đẹp. Sư Ông thường xuyên dạy cho chúng tôi là chúng ta có quyền thương, nhưng thương như thế nào để không có vướng mắc, vẫn có giới luật và uy nghi hỗ trợ. Đó mới đích thực là thương. Chẳng lẽ tình thương của tôi hẹp hòi và ích kỷ vậy sao? Nhờ sống trong xã hội, tôi mới thực sự hiểu cái khó và cái khổ của những người phải đua đòi cho miếng cơm và chỗ ngủ. Cuối cùng, tôi bắt đầu thực tập để chuyển hóa cách nhìn của tôi về tình thương trong bản thân. Tôi bắt đầu muốn ủng hộ và yểm trợ sư cô đó tu tập cho đến nơi đến chốn, đem lợi lạc cho bản thân và cho mọi người.

Vào tháng 10 và đến đầu tháng 11, Sư Ông và Tăng thân hướng dẫn khoá tu tại Tu viện Bích Nham, New York, Mỹ. Tôi lấy dịp đó để dự khoá tu năm ngày, với tựa đề là: “Stepping into Freedom, Savoring Life”(Bước tới thảnh thơi). Khi tôi đến tu viện, các thầy các sư cô vẫn tiếp đãi tôi như là huynh đệ trước đây.Vẫn thương tôi như huynh đệ trước đây. Có những thầy những sư cô vẫn gọi tôi là “Pháp Duệ” vì luôn có niềm tin vững chắc là sẽ có ngày tôi trở lại với Tăng thân. Tôi được quý thầy ưu đãi cho ngủ chung trong Tăng xá. Tôi thật sự rất ngạc nhiên, vì trước giờ những vị ra đời sau này khi trở lại Làng thì họ đều ở nơi cư xá của những người khách thôi mà không có cùng ở trong tăng xá. Vậy mà các thầy vẫn cho tôi ngủ trong tăng xá và có những buổi trà đàm mà cư sĩ bình thường ít ai may mắn được tham dự. Tôi có mặt đó giống như là một vị xuất sĩ. Vì bất cứ chuyện gì các thầy các sư chú đều có thể cùng nhau chia sẻ cả, dù có tôi ngồi đó, các thầy cũng không có nhu cầu phải che dấu gì cả. Trở về lại Bích Nham, tắm mình trong dòng nước từ bi và yêu thương của quý thầy đã khiến khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tình thương của tôi đối với Sư Ông và với Tăng thân. Và đó chính là “mối tình thứ hai” của tôi.

Đến lần thứ ba tôi đến Bích Nham, tôi cùng đi với Ba Mẹ tôi và thầy Pháp Niệm. Tôi ngủ lại một đêm và ngày sau Sư Ông và đại chúng làm lễ an vị Phật. Sau buổi lễ an vị Phật, thì Sư Ông nói: “Pháp Duệ đâu rồi, đem đầu ra mà cạo cho rồi!” Tôi quá là ngạc nhiên và hầu như không chỉ tôi thôi mà cả đại chúng đều rất ngạc nhiên. Mẹ tôi liền tức thời qùy lên và đáp:”Dạ, xin Sư Ông cạo đầu cho!”. Lúc ấy, trong đầu tôi giống như có một cuộn phim đang quay bằng tốc độ nhanh gấp cả ngàn lần, và tôi tỏ vẻ hơi phân vân. Nhưng liền tức khắc tôi biết Sư Ông chỉ có thể nói như vậy khi Sư Ông có tình thương đích thực, và mối liên hệ tình thầy trò với nhiều cảm thông. Và Sư Ông cũng biết rõ trong chúng ai ai cũng muốn và hy vọng có ngày tôi trở lại làm người tu sĩ. Nếu tôi không có đáp ứng tình thương mà Sư Ông đã luôn luôn dành cho tôi và cho gia đình dòng họ thì tôi tỏ ra phụ bạc quá. Tôi cũng biết rõ thời điểm này cũng có thể là thời điểm duy nhất mà tôi có thể trở lại xuất gia, nếu tôi không nắm bắt cơ hội này thì tôi có thể không còn dịp khác nữa. Tôi liền lập tức qùy lên và xin Sư Ông: “nếu con cạo đầu thì xin cho con làm lại Sa di”. Sư Ông đáp với nụ cười vui: “Trước mắt là con cạo đầu đã, sau đó tùy theo Tăng thân.” Tôi đã đến trước Sư Ông và lạy xuống ba lạy, sau đó được Sư Ông và đại chúng chứng minh và thầy Pháp Niệm đại diện cắt tóc. Ngày tôi rời chúng ra đi đã có nhiều nước mắt, bây giờ ngày tôi xuống tóc trở lại thì có nhiều nước mắt của hạnh phúc. Kỳ thực “mối tình đầu” của tôi, “mối tình thứ nhì” của tôi, tình thương tôi dành cho sư cô ấy không khác nhau, rốt cuộc chỉ là một mà thôi. Tôi ngỡ là tôi thương một cá nhân, nhưng phải chăng sư cô ấy là một hình thức của Bồ Đề Tâm vốn nằm vỏn vẹn trong tôi, nhưng vì theo khuynh hướng con người mà tôi đã tìm kiếm bên ngoài, thay vì trở về với nội tâm tôi?

Cuộc đời tôi đã không là một kết thúc của một thất bại, của sự thụt lùi. Nhờ hồng ân Tam Bảo, nhờ đại bi tâm của Sư Ông và Tăng thân mà tôi được thêm một cơ hội nữa để sống nếp sống xuất gia cao thượng, trong sáng này. Tôi xin hướng về Tam Bảo, hướng về Sư Ông và Tăng thân mà thành tâm chắp tay đọc câu trong bài kệ tôi từng trình lên chư Tổ:

“Sơn kia đứng vững trong bão tố.

Thệ nguyện từ nay chỉ một đường.”

-Chân Pháp Duệ-

Chuyện của sư bé

Phải đọc chuyện của Bé mới biết Sư Bé là ai, nhưng cũng chưa đủ vì Sư Bé bây giờ khác xưa nhiều lắm. Sư Bé là một bông sen trắng thơm ngát và trong sáng hồn nhiên, biểu hiện cùng với rất nhiều bông sen khác trong gia đình xuất gia Sen Trắng. Hiện giờ, Sư bé đang có những tháng ngày rất hạnh phúc và bình yên ở Xóm Mới,  bên cạnh Thầy và Tăng thân yêu quý.

Sư bé Đôn Nghiêm

 

ơi, con mun đi tu!

“Má ơi! Con muốn đi tu. Má cho con vô ở với quý sư cô trong Bát Nhã nhé!”

Con nhớ cách đây một tháng thôi con đã rất buồn, thật sự buồn trước sự ra đi của ba người thân trong gia đình. Đầu tiên là Bà Nội. Con đã khóc rất nhiều. Một tuần sau anh con cũng theo Bà ra đi. Ui cha, con khóc nhiều hơn nữa. Nỗi buồn chưa nguôi thì mấy ngày sau ba con cũng từ giã cuộc đời. Con chưa kịp thấy mặt ba lần cuối… Còn nỗi đau nào hơn khi mất người thân? Lúc đó con chưa biết gì về vô thường, về tương tức để biết là ba có mặt trong con và con là sự tiếp nối của ba… Ba cái đám tang dồn dập tới nên nỗi buồn trong con cũng được nhân lên làm ba lần. Trong đám tang của ba con không khóc nữa. Con ngơ ngác quá đỗi như không thể tin vào mắt mình, vào tai mình. Con cứ đinh ninh rằng người nằm trong cái hòm lạnh lẽo kia không phải là ba con. Một ngày nào đó ba con sẽ trở về. Mau lắm thôi, ba sẽ ôm con vào lòng, con chìa tay ra xin kẹo và bỏ nhanh vào miệng, nhấm nháp hương vị ngọt của kẹo, của tình ba. Con thương bà Nội, thương anh và thương Ba lắm. Con không thể chấp nhận được sự ra đi vĩnh viễn của ba người thân trong gia đình. Con cứ nuôi hy vọng một ngày nào đó, Nội con sẽ trở về và con lại được nghe tiếng nhai trầu bỏm bẻm của Bà, được thỉnh thoảng giặt đồ cho anh hay để anh sai vặt. Có những lúc nhớ quá, con tự nói trong im lặng: “Anh Bi ơi! Anh tỉnh dậy đi, bây giờ anh bảo gì em cũng làm chớ không kì kèo bắt anh trả công bằng bánh kẹo hay cà rem nữa. Con cũng sẽ nhổ tóc bạc cho Nội, cho Ba miễn phí mà không tính tiền từng cọng năm trăm hay một ngàn nữa. Con sẽ đổi tất cả, bánh kẹo, những đồ chơi đẹp con đang có để được sự có mặt của Nội, của Ba và anh…” Con có đọc sách và được nghe Sư Ông nhắc tới câu thơ: “ Tôi thấy tôi mất mẹ, là mất cả bầu trời”. Còn con mất một lúc ba người nghĩa là con mất cả ba bầu trời, mất luôn cả mặt đất. Con còn quá nhỏ để hiểu được rằng những gì quý giá bên cạnh mình không chịu trân quý, đến lúc tuột khỏi tầm tay rồi mới nhận ra được giá trị của nó. Dù hối tiếc cũng muộn màng. May mắn thay bên con còn có Má và các anh chị em. Hơn ai hết, Má là người thương Nội, thương Ba và anh. Má đang đau khổ cực độ. Khuôn mặt Má phờ phạc quá. Nỗi đau buồn làm con quên mất  sự có mặt của Má và những người còn lại trong nhà. Con giật mình: “May mà Má còn đây cho con!” Con thương Má nên nỗi buồn trong con vơi lại, nó lặng lẽ rút về một góc nào đó trong tâm hồn. Con để ý tới Má và các anh chị em trong gia đình. Ngoài giờ đi học ở trường con ở nhà giúp đỡ Má những công việc lặt vặt. Ở trường, những sinh hoạt của Đoàn, Đội hay những phong trào văn nghệ con tham gia rất tích cực. Ở nhà, tối tối con lại rủ đám trẻ trong xóm chơi đủ trò, nào là chơi u, chơi trốn tìm, chơi keo, đá banh, đá cầu.v.v… Từ từ rồi mọi chuyện cũng qua, con dần vui trở lại. Con đi học đều đặn và cuối năm vẫn được học sinh giỏi. Con đặt phần thưởng lên bàn thờ, cười tươi rói khoe với Ba. Ba muốn con trở thành một cô giáo nên con ráng học để thực hiện mong ước của Ba. Và rồi kỳ nghỉ hè tới, anh trai con đi tu trở về thăm nhà. Anh lặng lẽ đứng trước bàn thờ của Ba, không nói câu gì. Sau mấy phút mật niệm anh mỉm cười thật tươi, từ từ quay lại với đôi mắt đỏ hoe: “ Cả nhà mình ngồi xuống đây chơi đi!” Con thấy sống mũi mình cay cay, xúc động quá. Rồi anh rủ con và hai đứa em gái nữa vô Bát Nhã chơi, coi như là phần thưởng vì đã được học sinh giỏi. Con vốn thích đi chơi nên cũng chẳng bận tâm Bát Nhã là chỗ nào, miễn đi chơi với anh, với chị, với em là vui rồi. Vậy là ba chị em con hí hưởng chuẩn bị đồ đạc để lên đường. Con ở xóm Bếp Lửa Hồng, hai em ở xóm Mây Đầu Núi. Ngày Quán Niệm ba chị em gặp nhau, thi nhau kể những chuyện kì lạ ở đây. Nào là ăn cơm im lặng, rồi ngồi im ru trong thiền đường, nghe chuông lại đứng im như bị điểm huyệt, rồi còn thở vô thở ra chi chi đó nữa… vừa kể vừa cười hí hí. Tóm lại cả ba cùng đồng ý là rất thích pháp môn thiền trà, vừa được ăn kẹo, vừa được uống trà và chia sẻ hạnh phúc. Pháp môn thiền buông thư tựa tựa như Má hay ru mình ngủ và những bài hát thiền ca cũng hết sức dễ thương. Lâu lâu quý sư cô cứ mua bánh kẹo cho ăn. Con thấy ở đây vui quá, sư cô nào cũng đẹp và hiền chi lạ, nói chuyện lại nhẹ nhàng và rất thương tụi con và thương những người sống quanh mình… Một tuần trôi qua thật nhanh, chị em con phải trở về nhà chuẩn bị sách vở, quần áo cho năm lớp 11. Hai em con cũng sắp vào lớp 9 và lớp 6. Trước khi đưa các em về, anh con có hỏi ba đứa: “Ở đây đẹp không mấy em?” Cả ba đồng thanh: “Dạ đẹp!” “Mấy em có thích nơi này không?” “Dạ thích lắm!” “Vậy có ai muốn đi tu giống anh và quý sư cô không?” Hai em con nhanh nhảu: “Dạ không! Đi tu mà cứ nghe pháp thoại, ngồi yên cả ngày rứa em buồn ngủ lắm. Đi tu mà không phải làm hai việc đó thì chúng em đi.” Anh con cười, cóc cho mỗi đứa một cái thật nhẹ trên đầu. Thấy con còn chần chừ anh hỏi: “Còn em?” Nghe anh hỏi con giật mình vì con còn háo hức với ý định về nhà gặp lại Má, các bạn ở trường, cùng học, cùng chơi và sau này làm giáo viên như đã hứa với Ba. Con đáp: “ Em cũng thích ở đây lắm nhưng…” Con chưa nói hết câu thì anh bảo: “Đi tu cho rồi, ở ngoài đời người ta lượm mất đó.” Con đỏ mặt tía tai:  “Anh cứ chọc em hoài, em còn nhỏ mà, ai lượm em cơ chứ?” Nói thiệt trong lớp con thuộc hạng ngơ nhất, chỉ có việc học, làm công việc của một bí thư chi đoàn, ngoài ra không biết gì về cái chuyện “lượm, rớt…” gì cả. Ai mà nhắc tới là con nghỉ chơi với người đó luôn. May là anh, người mà con thương và kính trọng nên con không muốn nghỉ chơi. Nghe con giãy nãy như vậy, anh cũng thôi không nhắc nữa, chỉ buông lửng một câu “Ừ, anh xin lỗi, để từ từ cũng được.” Vậy đó mà một tuần sau về lại nhà, con quyết định xin vô Bát Nhã tập sự xuất gia. Anh con hỏi lạ lùng: “Em bị cái chi rứa?” Con cười tươi rói: “Có răng mô anh, em bị tương tư… Bát Nhã rồi. Em nhớ quý sư cô và mọi người trong đó lắm, em nhớ những buổi đi thiền hành lên đồi rất đẹp, được nghe quý sư cô kể chuyện, nhớ những buổi ăn cơm im lặng, em nhớ ông Bụt màu cam cam ở trong thiền đường Cánh Đại Bàng nữa. Quý sư cô sống hòa hợp và thương yêu nhau, em chưa thấy quý sư cô giận hờn nói nặng với nhau điều gì… Sao lại có những con người tuyệt vời quá vậy anh? Em cũng muốn sống đẹp như vậy đó, bây giờ “ Bụt” lượm em rồi, anh cho em đi theo Bụt, theo chân anh đi!” Anh xoa đầu con cười nói: “Thôi, hay là em học xong lớp 12 rồi đi, đang học lỡ dở bỏ có được không?” Con reo lên: “ Sao lại không được, bỏ ba bỏ mẹ, bỏ nhà đi còn được, bỏ học đâu thấm thía gì hả anh?” “Ừ, nếu em đã quyết thì anh ủng hộ hai tay hai chân. À, mà em hỏi ý kiến má chưa, anh nghĩ chắc má vui lắm đó!” Từ trong nhà bếp má đã nghe hết, ánh mắt má sáng lên một niềm vui. “ Má đồng ý, việc gì chơ đi tu là má chịu liền. Má còn mong sao cho những đứa con của má có duyên với Phật, đi vào chùa tu hết. Đến lúc đó cho má theo vô làm dì vải luôn.” “ Ôi! Má của con thật là tuyệt vời!” Con ôm cổ má mừng rơn, cả nhà vui như thể có đám cưới vậy. Coi bộ xuất gia hạnh phúc hơn xuất giá nhiều. Chỉ ngay ngày hôm sau, con thu xếp đồ đạc, chào cả gia đình, ăn tô bún riêu Má nấu rồi lên xe anh chở vô lại Bát Nhã. Tới nơi quý sư cô ngạc nhiên và vui lắm. Trong vai một cô bé tập sự 16 tuổi với bộ đồ vạt hò rộng thùng thình của anh và cái áo tràng lam quý sư cô mua cho ở thư quán, con tung tăng đến từng ngõ ngách của tu viện, đến từng gốc cây bờ cỏ, miệng không ngừng reo vang: “ A ha, đây là nhà mới của mình, đây là cuộc sống mới của mình!” Con bắt đầu cuộc sống của người xuất gia như thế đó.

 

Lớp học mới

Xa lìa bạn bè, thầy cô, trường lớp và những thú vui của đời học sinh, con bắt đầu tiếp xúc được những điều mộc mạc nơi đây. Đi tu rồi tự nhiên con thấy mình có vô khối thời gian để tận hưởng thiên nhiên và tận hưởng cuộc đời. Một bông hoa dại cũng có nét đẹp lạ kỳ, tiếng chim hót mỗi sớm mai, tiếng suối chảy róc rách xem lẫn bài hát thì thào của những ngọn cây mỗi khi có gió xao nhẹ. Rồi có những đêm trăng sáng thật trong, ngàn sao chi chít, những buổi tinh sương khi rừng thông còn lặng chìm trong đám sương mờ, những người con Bụt ngồi thiền an tịnh thân tâm, hơi thở hòa theo tiếng chuông ngân vang. Ngồi trong lòng đại chúng thật ấm cúng, con mới nhận ra một điều: “Cuộc đời này vốn rất xinh đẹp vậy mà bao lâu nay mình cứ bị những bận rộn kéo đi và không nhận ra cuộc sống bình dị nhưng thật đẹp này.” Từ đó con bước vào ngày mới như một chuyến phiêu lưu, khám phá ra những điều mới lạ trong con và xung quanh con.

Trở thành một tập sự con ở trong nhóm y chỉ muội của sư cô Như Hiếu. Y chỉ muội ở trong chùa, con thấy giống học sinh ở trường, còn Y chỉ sư giống như thầy cô giáo. Vậy là ngày ngày, y chỉ sư dạy cho chúng con cách đi, đứng, nói cười, dạy từng li từng tí về cách ăn cơm, để dép, đến cả cách mặc áo và một việc hết sức đơn giản: Thở! Được sinh ra 16 năm rồi mà lần đầu tiên con mới biết thở một hơi thở có ý thức, cảm nhận được không khí trong lành tràn đầy hai lá phổi, một điều đơn giản nhưng quý giá vô cùng. Ở trường con là một học sinh xuất sắc, còn ở trong ngôi nhà mới này, con thấy mình ngơ ngơ như một em bé, cả bước chân cũng phải tập đi sao cho thảnh thơi. Các thầy và sư cô ở đây cũng thật hiền như Bụt, chẳng bao giờ đánh đập la mắng, phạt quỳ hay chấm điểm Zê rô cho chúng con. Còn nhiều và nhiều điều mà chúng con đã được học ở trong tăng thân. Đây đúng là ngôi trường đích thực, có dịp con sẽ kể cho hai em gái của con nghe về những lớp học thú vị này.

 

Con muốn giống thầy

Ba ơi, con đi tu rồi, ba có đồng ý không? Con học được nhiều cái lạ, cái mới lắm ba à. Con học được cách trở về với tự thân để chăm sóc cho mình thật tốt, nghĩa là con làm cho sự tiếp nối của ba trong con thật đẹp. Ba muốn con trở thành cô giáo, dạ thưa Ba, con thấy con đang đi trên đường mà Ba mong ước. Giáo dục không có giới hạn ở trường lớp mà rộng ra đến tất cả mọi nơi, trong từng giây phút của đời sống hằng ngày. Con đang sống có hạnh phúc, con muốn một ngày nào đó con cũng sẽ giống như Thầy, quý sư cha sư mẹ, biết đem hạnh phúc cho mình và hướng dẫn mọi người tìm được hạnh phúc. Ba ơi, Ba có hạnh phúc không, con xin gởi đến Ba nụ cười thật tươi thật lành của con.

 

Bữa cơm gia đình mừng cây Sen Trắng ra đời

sư cha trao “vòng hoa sư út cho sư Bé út Sen Trắng nè!

Ngày tháng hạnh phúc

Sau ba tháng tập sự con được xuống tóc, trở thành một “ baby nun” trong gia đình áo nâu. Những ngày tháng tiếp theo là những tháng ngày hạnh phúc và tràn đầy tiếng cười.

Con như con cá nhỏ tung tăng bơi lội trong dòng sông tăng thân, ngày ngày uống dòng sữa pháp từ Thầy, từ pháp môn. Con rất biết ơn cuộc đời đã đưa con tới gặp Thầy, gặp các sư anh, sư chị và sư em. Và từ đó, hơi thở tiếp nối bình an, bước chân tiếp nối thảnh thơi, nụ cười tiếp nối niềm vui.

Cho đến một ngày nọ má con đột ngột vô thăm. Con chưa kịp mừng rỡ thì má đòi dắt con về. Thì ra có mấy chú công an vô nhà thăm và bắt má phải vào đây dắt con về với lí do: “Ngày mai, người ta sẽ vô Bát Nhã biểu tình. Dắt con về là bảo vệ an toàn cho con và giữ gìn an ninh trật tự xã hội.” Con lo quá vì thấy má đang bị bắt ép. Làm sao để cho má hiểu là không đâu an toàn bằng sống trong tăng thân. May quá, các sư cô ra giải thích giùm cho con để má hiểu rõ tình hình. Có một bà mẹ của sư chị con cũng đang lên thăm con và tiếp tế lương thực cho quý sư cô. Hai người mẹ dắt nhau ra gốc mít ngồi hàn huyên tâm sự một hồi. Con đứng trong phòng niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, gởi năng lượng bình an cho hai bà mẹ, mong cho công tác tư tưởng thành công. Không biết bà mẹ của sư chị con đã to nhỏ những gì mà khi vào gặp con, má vừa khóc vừa cười và nói: “ Con ở lại tu ngoan và khỏe nhé, má về!” Con nhìn theo bước chân của má khuất sau đám trà xanh mà lòng thương má vô cùng. Chú công an đã đợi má sẳn ở đó từ lâu. Má thẳng thắn nói với chú: “ Cháu nó không chịu về, tôi bắt cũng không được. Anh giỏi thì vô bắt dùm tôi với!” Thế là chú ấy cam lòng ra về tay không. Con biết thế nào về tới nhà Má cũng bị mấy chú làm khó tiếp. Vậy mà một tuần sau, má con trở vô lại không phải với chú công an mà với một xe đầy rau củ cúng dường cho đại chúng. Con mừng quá trời, con ôm má trong vòng tay nhỏ: “ Đó, má thấy chưa, con vẫn còn đây, vẫn tròn trịa dễ thương như ngày nào, má đừng lo cho con má nhé. Con cảm ơn má nhiều nhiều lắm, đã yểm trợ cho con và quý thầy quý sư cô ở đây.”  Má thoa thoa cái đầu tròn của con và cười tươi: “Má biết rồi thưa sư cô bé nhỏ của má!”  Vậy là lần đó nhờ có tăng thân, nhờ có niềm tin nơi Tam Bảo của Má mà con còn được ở lại với tăng thân. Nhưng chuyện còn chưa hết, mấy tháng sau con về nhà làm hộ chiếu. Được gặp lại Má và các anh chị em. Cả nhà cùng ăn chay. Con tình nguyện nấu ăn, món gì cũng dở vậy mà ai cũng tấm tắc khen… méo mặt. Con mắc cỡ quá, tự hứa sau này sẽ học cách nấu ăn ngon hơn. Con mới về buổi sáng thì tối lại có chú thôn trưởng đến thăm liền. Con chưa kịp tránh nên phải đối diện. Chú hỏi: “ Đợt này về chắc ở luôn cô nhỉ? Bát Nhã không còn gì… thôi ở nhà với mẹ lấy chồng cho rồi, tu khổ lắm!” Con thở thật sâu, yên lặng không trả lời. Nếu nói thiệt thế nào con cũng bị họ giữ hết giấy tờ, đến lúc đó ra khỏi nhà còn không được, mơ gì đi qua Làng. Má con cười cười: “ Ừ, chú đừng lo, em nó ở chơi khuây khỏa vài tuần đã, chị cũng tính cho em nó học cái nghề gì đó!” Nghe vậy chú vui ra mặt, hớn hở đồng tình: “ Phải đó chị, học hành cho giỏi, sau này cháu sẽ đỡ đần giúp mẹ và xã hội được nhiều lắm.” Không ngờ từ “cô” con bị rớt xuống chức “cháu”. Chú nhìn con và tiếp: “Chú có đứa cháu trai, dễ thương và hiền lành lắm, chú sẽ giới thiệu cho!” Nghe tới đây con mắc cười quá nhưng rán nhịn lại.  Ngay khi đó con nghĩ tới tăng thân mình rất nhiều. Con mong tình thương của con cũng lớn như tình thương của Bụt, của tăng thân. Nếu bó buộc vào một người thì mình sẽ mất tự do và người đó cũng mất tự do rồi suốt ngày cứ phải lo chuyện chồng con cơm nước, rất là cực. Nghĩ tới đây con nhắm mắt lại và trở về với hơi thở, không để những tư tưởng đó lôi kéo nữa. Con cũng không thốt lên một lời nào để phản ứng lại, những lúc như thế này thở là khỏe nhất.

Khi chú về rồi cả nhà con cười rộ lên. Em con còn chọc: “ Chị ơi, mới 16 tuổi mà lấy chồng thì sớm quá, em chưa muốn có cháu!” Đứa khác chen vào: “ Một tay bế con, một tay đút cháo. Ôi, cực lắm chị ạ!” Con không dám nghĩ tới tương lai “ cực nhọc” đó nên hôm sau xin phép Má và cả nhà lẳng lặng ra đi trước khi chú ấy dẫn… cháu trai đến.

Bây giờ con đang thật sự ở Làng. Nhớ lại chuyện đó, con vừa thấy mắc cười vừa hú hồn. May mắn quá! Sau tất cả những gì xảy ra với bao nhiêu tiếng cười, bao giọt nước mắt, tăng thân mình cùng đứng bên nhau để vượt qua tất cả. Con hạnh phúc biết bao khi đang được sống ở Làng, được gặp Thầy, gặp tăng thân để rồi xúc động trước những điều Thầy dạy bấy lâu nay, cốt là để cho chúng con nhận ra được bản tâm thanh tịnh trong mình và an trú trong giây phút hiện tại. Con xin cúi đầu lạy tạ chư Bụt Tổ, Thầy, Ba má và tất cả mọi người, mọi loài đã cho con có được con đường tươi đẹp này.

“Thở vào tâm tĩnh lặng

Thở ra miệng mỉm cười

An trú trong hiện tại

Giây phút đẹp tuyệt vời”

Đến tận cùng vẫn là phút đầu tiên

Mới chiều qua, giọng mẹ tôi reo vui qua điện thoại: con biết không, cách đây mấy hôm, trong một buổi sáng ngồi uống trà, ba nói với mẹ là: “ba có tìm vé xem có rẻ không, rồi mình qua Làng thăm KN một chuyến, chắc là KN bất ngờ lắm.” Tôi cảm được niềm hạnh phúc của mẹ khi báo tin đó cho tôi. Tôi nghe mà như mơ. Dù ba mẹ có qua được hay không, thì tôi cũng đã mãn nguyện thật sự rồi. Bởi lẽ…

Trở về chín năm trước đây…

“Con mà đi tu, chắc chắn hạnh phúc gia đình sẽ đổ vỡ. Con liệu đó mà làm. Con là chị đầu đó, rồi ba đứa em con nó sẽ thế nào? Bao nhiêu kỳ vọng ba mẹ đặt vào con hết rồi bây chừ ra ri đây hả!”

– “Ba làm sao mà ăn nói với bà con và với mấy thầy cô trên trường đây. Cho ăn học đâu vào đó để rồi bỏ mà đi tu hả ?”

– “Được chỗ làm như con bây giờ ở Huế đâu phải ai muốn cũng được đâu? Dạy đại học chưa làm con đủ hạnh phúc sao?”

Tôi cúi đầu im lặng. Biết là ngôn ngữ không thể giúp tôi thuyết phục được ba trong lúc này. Tôi chỉ biết cầu nguyện và chờ đợi. Tôi kiên nhẫn đợi một dịp khác, canh hoài canh mãi xem ba thật sự vui thì mới dám hó hé. Lần này, ba càng dứt khoát hơn: “Muốn đi thì đi đi, không ba không con gì nữa hết. Đừng có mà nói nhiều.”

Và rồi, tôi quyết định “bỏ nhà đi bụi” để mong ba chuyển ý. Tôi viết thư để lại nói là ba mẹ đừng lo gì cho tôi hết, tôi chỉ muốn có thời gian thật sự cho cả ba và tôi cùng nhìn lại quyết định xin xuất gia của tôi mà thôi. Tôi cần không gian yên lắng cho quyết định của mình được chín chắn và tôi nghĩ ba cũng vậy. Tôi nói trong thư là chừng nào ba đồng ý thì tôi mới về lại nhà. Tôi đợi đến lúc cả nhà ngủ thật ngon, khoảng 2 giờ khuya, tôi vác một cái ba lô con trên vai, đi bộ ra đầu cầu An Cựu. Gặp may có một chú xe thồ ở đó. Tôi nhờ chú chở cho lên địa chỉ mà tôi cần tới. Nghĩ lại mới thấy mình quá ư là liều mạng, thân gái giữa khuya một mình trong thành phố! Sao lúc đó trong tôi không có một nỗi sợ nào. Có thể, chư vị hộ pháp đã có mặt cho tôi ngay những phút giây đầu tiên đó. Bảy ngày đó đến bây giờ vẫn còn là một bí mật. Tôi đã đi đâu? Đã làm gì? Ai đã “chứa chấp” tôi trong những ngày này?

Tắt nguồn máy di động, không liên lạc bất cứ một ai. Với tôi, những ngày đó quả thật đã un đúc mạnh mẽ hơn chí nguyện của mình. Nhưng còn ở nhà, một tai họa lớn đã xảy ra. Với một gia đình từ lâu nay được nhìn với cặp mắt gia giáo, mẫu mực, việc bỏ nhà đi của một đứa con gái là một chuyện không thể tưởng tượng được. Hơn nữa, trước đó trong mắt mọi người tôi quả là người hạnh phúc, có đầy đủ gia đình huyết thống và tâm linh bên mình, không hề tỏ một thái độ nào “chán đời” hết. Cả nhà cuống cuồng lên, gọi điện khắp hết tất cả những ai có can hệ tới tôi. Tôi đâu biết rằng chuyện “nó bỏ nhà đi rồi” là một cái gì đó rất tủi nhục và xấu hổ vô cùng cho cả nhà… Chuyện ầm lên tới chùa Tổ. (Có một thời gian ba tôi có giúp quý Thầy học ngoại ngữ nên nhiều Thầy rất thương quý ba. Còn tôi thì khỏi nói, ngày mô mà tôi chẳng có mặt.) Tin tôi bỏ nhà đi làm ai cũng sốc. Chẳng hiểu chuyện gì xảy ra trong cái gia đình mà ai ai cũng nghĩ là quá ư lý tưởng đó. Ba tôi lên cầu cứu Sư thúc, cầu cứu Thầy giáo thọ, hy vọng có chút manh mối để lần tìm nơi tôi ở. Nhưng như tôi đã nói, tôi không hề liên lạc với một ai. À, chỉ có một người (tôi xin giấu tên) nhưng cũng chỉ để hỏi xem tình hình gia đình và xem ba đã có đổi ý gì chưa mà thôi.

Nhưng tôi đã tính sai nước. Tôi cứ hy vọng là mình bỏ nhà đi như vậy chỉ một vài hôm thì ba sẽ thay đổi. Nhưng không hề. Ba tôi còn cao cơ hơn tôi nhiều! Tôi không thể ở ngoài lâu hơn được. Vấn đề không phải là chỗ ở mà chính là công việc của tôi chỉ sắp xếp nhờ người dạy thế chỉ được chừng đó thôi. (Lúc này, tôi chưa có tin tức gì về giấy tờ bảo lãnh đi Làng nên chưa dám nghỉ việc.) Tôi đành vác mặt lủi thủi về. Thời gian này là gần Tết. Và chính tôi đã làm cho không khí gia đình thật khó thở vào những ngày đúng ra là phải vui vẻ để đón Xuân. Tôi về, càng lầm lỳ hơn trước, chẳng nói chẳng rằng gì, hỏi đi đâu tôi cũng chỉ làm mặt ngầu im lặng. Vào phòng đóng cửa không tiếp xúc một ai, chỉ ra ngoài khi có giờ lên lớp. Lúc đó, thật tội mẹ vô cùng, mẹ đâu có cản trở tôi, nhưng vì là người đứng giữa nên mẹ đã khó xử như tơ vò trăm mối. Giận ba, tôi cũng không còn sáng suốt để không giận lây mẹ và các em. Tôi chặm bặm cái mặt thật khó coi trong suốt một thời gian dài. Tôi đã nói trong bụng rằng muốn tôi vui lên, chỉ có một cách: cho tôi đi tu. Nếu không, thì phải rán chịu vậy!

Ai tính được những cơn đau chợt đến

khi giữa lòng bao day dứt

vấn vương. (*)

Tôi lẳng lặng sắp xếp mọi chuyện ở trường. Từ chối lần những giờ dạy. Tôi cáo bệnh và xin được nghỉ một thời gian để đi xa trị bệnh. Đơn giản chỉ có thế, nên trên trường coi như không ảnh hưởng gì. Tôi nghe nói là trong một năm đó, họ cứ gọi điện nói mẹ tôi qua trường nhận lương về cho tôi có chi phí trị bệnh. Mẹ không biết phải nói thế nào về thiện ý đó của họ. Nhận thì không được rồi, nhưng phải nói làm sao đây. Một năm sau, khi tôi đã ổn định bên này rồi, mẹ tôi mới dám nói sự thật.

Sư cô Chân Không đã lo cho tôi đâu vào đấy mọi giấy tờ và gọi tôi phải ra gấp chùa Đình Quán để chuẩn bị đi phỏng vấn. Chỉ đợi có thế và tôi quyết định lên đường ngay. May vô cùng là những ngày này ba tôi đi công tác xa. Mẹ và mấy em tôi tiễn lên ga Huế để ra Hà Nội vào một đêm mưa. Buồn não ruột. Trong tôi, lúc đó dù có thích tu mấy đi nữa cũng thấy đau buốt trong lòng khi thấy cảnh dưới toa tàu mẹ đang đưa tay lau vội hai dòng nước mắt. Rồi ba về, mẹ sẽ ăn nói thế nào đây? Thương mẹ một mình, có chịu nỗi trời đông! Gia đình sẽ phải chịu đựng không khí âm u này đến bao giờ? Một sự chịu đựng phi thường như trước đây mẹ đã từng như vậy, đang hiện lên trên khuôn mặt hao gầy của mẹ. Tàu chạy. Tôi khóc như mưa trút nước. Khóc thật đã đời, vì trước đó tôi bận đóng mặt ngầu, lạnh lùng như sắt đá nên chẳng có giờ nghĩ đến chuyện khóc.

Ngồi trên tàu, tôi gởi cho ba một tin nhắn nhỏ, xin ba tha thứ là tôi đã lên đường. Và đau đớn thay, tin nhận được là một lời khẳng định rằng từ nay đừng có liên lạc gì với ba nữa hết. Ba đã từ tôi. Nói là từ nhưng ba chưa chịu dừng việc cản bước của tôi đâu. Ba tiếp tục lên cầu cứu với Sư thúc và Thầy giáo thọ. Nghe nói ba đã quỳ dưới chân hai vị đó và khóc thật thảm thương. Ba tìm đủ mọi cách, từ điện thoại, đến email, ba gởi thư qua tới Làng, gởi hết tất cả những địa chỉ email của các xóm từ Thượng, đến Hạ, và xóm Mới, nói là tuyệt đối không được nhận tôi. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi tôi mới tới Làng ngày đầu thì ai cũng tới hỏi: Ủa, em là Tm  ở Huế phải không? Như thể là tôi đã được nhắc tới từ lâu rồi. Thì ra là ba tôi đã vô tình làm cho tôi “nổi tiếng” ngay khi chưa có mặt ở Làng. Mẹ còn bật mí là ba đã nói mẹ lục tìm hộ chiếu của tôi khắp nơi, nhưng may là không tìm ra. Tôi thật là không cố tình cất kỹ, nhưng có thể chư Bụt đã giúp tôi.

Những ngày ở Đình Quán cũng hồi hộp không kém. Tôi ngày đêm cầu nguyện cho giấy tờ được thông suốt để bay cái vèo tới đâu cũng được, miễn là ra khỏi VN để khỏi lo gia đình bắt về. Biết tôi đang gặp nhiều khó khăn từ gia đình, giấy tờ lại trục trặc, Sư Cô Chân Không luôn gọi điện về khích lệ tinh thần tôi, gởi kèm lời nhắn thương yêu của Sư Ông nữa, nên trong tôi đang được tiếp sức. Tôi mang ơn Sư Thầy Đình Quán vô cùng. Hai tháng ở đó thật quý giá với một người đang xin được tập sự xuất gia như tôi. Tôi học được rất nhiều qua thân giáo của Người, qua sự khiêm hạ và hết lòng có mặt cho những chướng ngại vật đầu tiên trong quãng đời tu sau này của tôi. Không có sự cưu mang, đùm bọc đầy tình thương lẫn tuệ giác của Người thì chắc chắn tôi đã bị túm cổ về rồi. Hết ba, đến ôn nội tôi liên tiếp gọi ra chùa và nhất định đòi Sư Thầy đừng cho tôi “tá túc”. Sư Thầy thật thông minh vô cùng và chính Sư Thầy đã cứu tôi sau cú điện thoại đó. Tôi nhớ chiều đó Ba tôi gọi ra và cho Sư Thầy hay là sáng mai ba sẽ ra bắt tôi về. Rứa là Sư Thầy nói liền: Anh đừng có mà dại. Anh muốn mất con gái thiệt hay không? Thà nó ở đây thì anh còn biết đường mà lần. Còn nếu tôi cho nó biết là ngày mai anh sẽ ra đây, chắc chắn nó sẽ trốn chùa đi trong đêm nay và lúc đó thì tôi cũng không biết nó ở đâu mà giúp anh luôn. Anh tính sao? Có định ra nữa hay không? Nếu còn chút sáng suốt, xin anh đừng lên đường…”

Và ngay tối đó, Sư Thầy cho gọi tôi vào và quyết định ngay: Khuya nay 4 giờ, con sẽ được Thầy xuống tóc. Tôi khá bất ngờ, nhưng hiểu ngay liền rằng dù gì cũng phòng hờ lỡ ngày mai ba làm liều ra tận đây thì… đầu cũng đã rụng tóc! Và Sư Thầy cũng đang tính đưa tôi qua một ngôi chùa khác ở lánh (đi trốn) vài ngày. Hình ảnh đêm khuya hôm đó tôi không thể nào quên. Trên chiếc gác xép phía sau chùa, Sư Thầy Đàm Nguyện cùng Sư Thầy Tịnh Quán và một vài sư cô khác nữa đã làm lễ xuống tóc cho tôi. Chỉ xuống tóc thôi chứ không nhận giới gì hết, nhưng đó là buổi lễ tiền xuất gia của tôi. Thật ấm cúng và cảm động vô cùng.

Giữ mình giữa những phù vân

thì mây phiền não

khó gần

được ta. (*)

Suốt một năm rưởi tôi và ba không liên lạc nhau. Nhưng thú thật là tôi luôn canh cánh bên lòng những thao thức, trăn trở tìm cách gỡ mối tơ vò trong lòng ba và tôi. Nói là không để tâm nhiều, nhưng sâu thẳm trong tàng thức tôi nó đang hướng về. Sau ngày tôi đi tu, ba tôi cũng đi nghiên cứu thêm ở Mỹ khoảng 8 tháng và thế là… cơ hội đã đến!

Ba tôi là một giảng viên đại học, nhưng đồng thời cũng là một nhà thơ. Ba đi công tác nhiều lắm, trong nước cũng có, ngoài nước cũng có. Mà lạ là chỉ những lần xa nhà thì ba mới ra thơ.

Đời anh

những cuộc hành trình

đi xa là để

thấy mình

rõ hơn. (*)

Tôi thích thơ ba lắm. Thơ ba nhẹ như hơi thở và sâu thẳm vô cùng.

Tôi không thể dùng lý luận để thuyết phục ba tôi, vì về lý, ba chẳng cần tôi phải nói gì thêm. Đọc thơ ba cũng đủ thấy là ba tôi thấm đạo đến đâu rồi. Nên tôi biết, có cố gắng thêm gì cũng càng bít lối giữa ba và tôi. Tôi không thể nói chuyện về lý tưởng nọ kia gì ráo với ba. Tôi tiếp tục im lặng, chỉ chú tâm lo về phần tu học của mình trước đã. Bẵng tin một thời gian, một hôm mẹ tôi gọi điện qua với một giọng rất vui. Mẹ khoe liền: “Con biết không, ba bây chừ thay đổi rồi, ba được gặp lại một người bạn học cũ, và bác ấy dẫn ba đến sinh hoạt chung với Tăng thân Lá Bối ở Cali.”

Bạn ngồi ngẫm phù vân

Tôi đứng nhìn danh lợi

Thôi rong tìm, trông đợi

Thong thả mỗi bước chân. (*)

Một buổi nọ, theo lời kể của ba sau này, ba tôi ngồi thật yên bên chung trà và ba đã òa khóc khi nghe bài “Tìm nhau”.

Con đã tìm ra Thế Tôn

Con đã tìm ra con

Nước mắt con không cầm nổi

Một cơn xúc động đã xâm lấn cõi lòng của ba, hay chính vị Bụt trong ba đang rơi những giọt nước mắt tỉnh thức. Ba chợt nhận ra những sợ hãi, lo lắng, những bất an… của những ngày qua… Bây giờ mới có giờ lắng lòng, nhìn lại,…

Dù cho đất trời đã lên cơn bão tố,…

nhưng cuối cùng trong con

mưa cũng tạnh,

mây cũng tan

nhìn ra cửa sổ con thấy vầng trăng khuya đã hiện

và đất trời đã thật sự bình an.

Qua bài hát Tìm Nhau, ba tôi đã thật sự cảm thông khi chạm đến mối tình thầm kín và linh thiêng của con gái mình với Bụt, với Tăng thân khi nó quyết định bỏ lại sau lưng tất cả để đi theo tiếng gọi cao cả ấy. Thế Tôn đã chờ đúng thời điểm để lên tiếng gọi. Và chính ba đã mở cánh cửa lòng mình để đón chào phút giây mầu nhiệm ấy. Cánh cửa đã mở ra thật rồi. Đã mở ra một lần và sẽ mở ra mãi mãi. Đâu phải ai cũng may mắn có được những giây phút linh thiêng chấn động tâm can như vậy trong đời mình! Từ sau giây phút đó, có thể nói ba tôi không còn là ba tôi trước đây nữa.

Tôi thấy rõ là không phải Bụt trong ba trước đây đã ngủ quên mà chính Bụt đang thử lòng tôi. Tôi chẳng tu tập gì giỏi cho lắm đâu, chỉ là phước đức ông bà để lại nên tôi đã nương theo mà may mắn leo qua nổi đoạn đèo dốc cao thật là cao ấy. Thú thật là có lúc tôi cũng đã hụt hơi. Và chính những người leo núi cùng tôi luôn có mặt tiếp sức cho tôi kịp lúc.

Chưa gánh nặng qua đời

lưng chưa đẫm mồ hôi

làm sao đến

phút nhẹ rơi của lá?

Phải đi từ cái xanh biếc của chồi

cái hồng thơm của quả

mới hiểu hết sắc vàng của những chiếc lá khô. (*)

Tôi chỉ mới kể đôi chút những truân chuyên vào khoảnh khắc tôi quyết định dứt áo ra đi. Cũng còn khá nhiều những ngõ ngách mà tôi đã phải “luồng lách” để đi qua. Khá vất vả. Nhưng nghĩ lại, giai đoạn đó sao mà tâm tôi cứng như chì vậy đó, chẳng gì lay chuyển nỗi tôi, dù đó là tình phụ tử. Thật ra, không phải tôi không bị mềm lòng đâu, nhưng sự thật là tôi có một niềm tin rất lớn rằng với đời sống xuất gia, với công phu tu tập của tự thân thì một ngày rất gần ba tôi sẽ thấu hiểu. Cảm ơn ba thật nhiều đã âm thầm tạo ra những nghịch duyên để giúp tôi thấm sâu hơn cái sắc vàng của những chiếc lá khô.

Với tôi, mãi mãi vẫn là phút đầu tiên, là tâm ban đầu dũng liệt phi thường, là khởi điểm cho dòng suối tâm linh tìm về nguồn cội. Phải đi qua những thác ghềnh, ngay những phút đầu tiên, như ba tôi vẫn thường nhắn nhủ: muốn có ngay không dễ, phải lao nhọc đầy vơi. Đúng thật, phải đầy vơi những niềm đau, thì hạnh phúc mới chín ngọt.

Hạnh phúc không vào đời

bằng

lối đi riêng

dễ gì đến đại dương

phải làm mưa vào đất.

Vượt sa mạc vàng khô

dòng nước sẽ

thanh khiết nhất

trước mặt

biển rồi

vực thẳm

vẫn chờ kia.(*)

Ba tôi vẫn luôn cho tôi những homework (bài tập về nhà) để làm, để chơi, để thử sức mình. Bây chừ nhìn lại, Chuyện xưa như mới hôm qua, quay nhìn sao nắng cứ nhòa lên mi. (*)

Xin được cảm ơn tất cả những nhân duyên để tôi được làm con của người. Nếu được sinh ra trở lại, tôi cũng xin được chọn ba là ba của tôi, và tiếp tục tôi cũng sẽ xin người được xuất gia. Lúc đó, có thể người sẽ chỉ mỉm cười và cú cho tôi một cú thật đau trên đầu: “Ngốc nì, đã “lỡ” tu rồi thì phải tiếp tục thôi chứ xin xỏ gì nữa hả. Con của ba, không đứa nào được phép bỏ dở nửa chừng con đường đang đi, nghe chưa!?” Chỉ một hướng tìm, chỉ một phương đến. Chỉ một. Nhớ nhé, nghe tôi!

Có dịp ngồi chơi với huynh đệ, với chị em chúng tôi bên bếp lửa hồng, chắc chắn bạn sẽ được nghe nhiều hơn nữa những câu chuyện ly kỳ và hấp dẫn. Có người đã chọn hạnh im lặng, có người có duyên được sẻ chia. Dù nói ra hay chưa nói ra, thì tận sâu thẳm trong lòng tất cả anh chị em áo nâu chúng tôi xin được cúi đầu đảnh lễ những người mẹ hiền, những người cha trung kiên đã hết lòng yểm trợ để anh chị em chúng tôi được hội ngộ dưới cùng một mái nhà tâm linh. Đặc biệt, xin tri ân những ba mẹ đã “hết lòng” cản ngăn chúng tôi vào những ngày đầu chúng tôi xin được lìa xa vòng tay ấm của người. Chính trên những lớp bùn quý giá đó mà những đóa sen thơm đang hiển lộ ra từng ngày. Càng tu, chúng con càng hiểu hơn những tình thương thầm lặng đó. Tấm lòng ấy vẫn luôn dõi theo mỗi bước chân, mỗi chặng đường chúng tôi đi qua. Bây giờ và mãi mãi.

Trong tôi có cái gì đang tràn ngập cõi lòng…

Nơi đây, một tấm lòng son, hướng về người…

Đợi gì đến bình minh

môi mới nở nụ cười

khi đôi mắt đêm qua

đã một vầng trăng sáng.

lúc trong trái tim

mặt trời

bừng cháy nắng

chưa hái được hoa hồng

ta vẫn thấy

niềm vui. (*)

———————————

(*)Thơ ba tôi

Người làm vườn tận tụy

Khung cửa sổ phòng tôi nhìn xuống vườn cỏ rộng, nơi có cái nhà kính và vườn rau. Ngay cạnh cửa sổ, tôi kê một tấm ván gỗ coi như là bộ phản để ngồi uống trà. Từ chỗ ngồi này, mỗi ngày tôi nhìn xuống những thay hình đổi dạng của vườn rau. Nhưng những thay hình đổi dạng liên tục của vườn không phải là đề tài tôi muốn nói, mà điều tôi muốn nói tới là những người làm vườn.

Mùa Xuân và mùa Hè vừa rồi, một người em Tây phương của tôi đảm nhận việc làm vườn. Làm vườn, đối với người em ấy của tôi là một niềm hạnh phúc. Một lần, có người so sánh niềm vui khi làm vườn ấy của em tôi với niềm vui của những người trẻ đi shopping, em tôi cười hiền từ gật gù, nhưng im lặng. Chẳng những em tôi có mặt ở vườn trong những giờ chấp tác của đại chúng, em tôi còn có mặt ở vườn cả những lúc mà mọi người gọi là giờ rảnh rỗi hay giờ cá nhân. Vào những giờ rảnh rỗi và giờ cá nhân ấy, có người trong anh em chúng tôi dùng để học thêm chút tiếng Anh, tiếng Pháp hay chữ Hán; có người ngồi trước máy tính viết thư cho gia đình, bạn bè; cũng có người nhâm nhi tách trà rồi khe khẽ hát một mình trong phòng vắng; cũng có người ở phòng học, trước một chồng sách dày đang tìm tòi nghiên cứu; và cũng có người đi lang thang trong rừng hay đơn giản chỉ là nằm khoèo trong chăn ấm. Người em ấy của tôi hiếm khi cầm tới cuốn sách, cũng chẳng hề để dành hàng giờ trong phòng học. Những giờ rảnh rỗi ấy, tôi thường thấy em tôi, từ điểm nhìn sau khung cửa sổ trên tấm phản, vui tươi quanh quẩn trong vườn rau. Có khi thì lo tưới tắm, khi thì chăm chú nhặt từng cọng lá vàng cho gốc cà chua, khi thì lấy rơm kê cho trái bí non mới rụng cuống hoa; lại có khi chỉ ngồi đó, trên gốc sồi giữa vườn cỏ rộng tênh đưa mắt mỉm cười nhìn quanh từng ngọn rau, từng cánh hoa.

Một buổi chiều, khi đó hãy còn là đầu Xuân, lúc mặt trời vừa chín đỏ trên đỉnh ngọn bạch dương ở góc rừng, tôi cũng ngồi sau khung cửa sổ, nhìn xuống vườn rau còn mùi đất mới, thấy em tôi ngồi trầm tư thật lâu trên một phiến đá cạnh cái giàn nhỏ mà năm trước một người em khác của tôi đã trồng su su và bầu. Tôi đã chẳng phải rời khỏi phòng, sẽ vẫn ngồi yên đó để ngắm những khoảnh khắc bình yên của em tôi như mọi khi nếu như khuôn mặt quen thân với đôi mắt xanh trong vắt ấy không mang vẻ hoang mang và kiếm tìm. Ngồi yên, nhìn quanh, rồi đứng dậy lục từng hũ từng bao bì trong cái thùng xốp ở góc vườn; mân mê từng cái gốc bầu khô dưới chân giàn, rồi trở về ngồi nơi phiến đá dáo dác nhìn quanh. Tôi rời phòng, xuống vườn sau và đi ra vườn rau nơi em tôi, khi ấy đang đào bới tìm tòi gì đó nơi mấy gốc su su, gốc bầu khô quắt.

Một nụ cười tươi trên môi, nhưng không đủ vẻ hân hoan và sáng ngời trong mắt như mọi khi. Em tôi vừa chào hỏi và nói chuyện với tôi vừa tiếp tục tìm tòi cái gì đó nơi mấy gốc su su, gốc bầu từ năm ngoái. Mấy vồng đất mới đã xanh chồi non, những bụi rau thơm trong nhà kính cũng đã cho nhiều lá non, cái giàn dưa leo cũng đã có ngọn, những vồng khoai tây đã gieo xong và vẫn còn đợi hơi ấm dưới lớp rơm phủ vàng nâu. Đưa mắt quanh vườn, em tôi chỉ cho tôi những loại rau củ vừa được trồng, vừa được gieo và trong giọng nói đã bắt đầu có chút hân hoan tươi tắn thường ngày. Sau khi đi hết một vòng bằng mắt quanh vườn, em tôi trở lại những cái gốc khô trước mặt và nói với tôi rằng năm ngoái, cũng thời gian này, những ngọn su su và những ngọn bầu đã bắt đầu leo lên giàn rồi, đã hơn tuần nay, em tôi tìm khắp vườn mà chẳng thấy hạt giống nào của những loài cây ấy cả. Em tôi cũng muốn có giàn mướp đắng, có giàn su su và giàn bầu như năm ngoái. Tuy phát âm những chữ đó không rõ lắm, nhưng tình thương cho những giống cây ấy qua giọng nói và ánh mắt em tôi là rất rõ ràng.

Năm ngoái, người làm vườn là một thầy người Việt Nam. Mùa Hè năm ngoái, những cái giàn thấp này được phủ đầy màu xanh của mướp đắng, su su và bầu. Em tôi trồng khoai tây và cà chua rất giỏi, và cũng bắt đầu thương mướp đắng, su su và bầu. Tôi chẳng rành rẽ chuyện vườn tược, kể cả chuyện trồng bầu, trồng su su và trồng mướp đắng. Tuy nhiên, tôi thấy vườn các xóm khác đã bắt đầu trồng xuống những loài cây này vào các hố ủ phân dưới chân giàn rồi. Tôi nói với em tôi thế, và trong đôi mắt màu xanh trong vắt ấy đã lấp lánh phản chiếu niềm vui, niềm vui ấy phảng phất một chút màu nâu nếu như tôi không nhìn lầm.

Ngày hôm sau, tôi được nghe các anh chị em làm vườn của các xóm khác kể lại niềm vui của họ khi họ lấy những cây su su giống, những cây bầu giống và những cây mướp đắng giống cho một thầy người Tây phương.

Cũng sau khung cửa, trên tấm phản gỗ ấy vào một buổi chiều đầu mùa Hè, tôi cũng ngồi đó nhìn xuống vườn, em tôi cũng ngồi trên phiến đá dưới những cái giàn thấp, nhưng chẳng hề có dáng tìm tòi và lo âu nữa mà đôi mắt trong màu xanh ấy đã vui tươi phản chiếu màu xanh của những trái mướp đắng, những trái bầu non, những trái su su non đang treo lủng lẳng trên giàn. Vườn rau là đạo tràng, là nơi tu đạo và cũng là nơi hành đạo của em tôi.

Mấy tuần nay, cũng sau khung cửa sổ trên cái phản gỗ trong phòng, tôi ngồi đó nhìn xuống vườn rau đầu mùa Đông. Những cái giàn trống trơn chỉ còn vài cành khô quắt queo, đám dây bí vàng vọt dập nát sau thu hoạch, những vồng khoai tây chỉ còn cỏ dại, những luống cà chua còn lủng lẳng vài quả hoặc rất non hoặc đã thối và quanh vườn, lá khô phủ vương vãi trên những đám cỏ dại tốt tươi. Người em làm vườn của tôi đã đi tới một trung tâm khác rồi, đã mấy tuần nay cái dáng nâu điềm đạm ấy chẳng còn quanh quẩn trong nhà kính hay những vồng đất nữa. Vườn rau đã bị bỏ hoang gần cả tháng cuối mùa Thu. Tôi vẫn thường ngồi yên nhìn xuống vườn rau và theo dõi từng thay hình đổi dạng của nó, nhưng vì chẳng phải là người làm vườn giỏi, tôi ít khi để ý tới từng giống cây, từng họ quả mà chỉ ngắm nghía khung cảnh chung chung vậy thôi, đơn giản là vì tôi thích cái cảnh ấy. Thế nhưng ngày này qua ngày khác, khung cảnh vườn rau yêu thích của tôi vẫn là cái khô quắt ấy trên giàn, vẫn là cái dập nát ấy nơi đám dây bí và vẫn là cái tươi tắn hớn hở của cỏ dại nơi những vồng cà chua khoai tây. Có thay đổi chăng là cái khô quắt kia trở nên quắt queo hơn, cái dập nát kia có thêm màu vàng vọt và cái tươi vui của cỏ dại trở nên hân hoan, hớn hở hơn.

Một lần, tôi chẳng còn thấy vui khi nhìn mãi xuống vườn rau như mọi khi nữa. Thu chín, cây phong lớn trước cửa phòng tôi đang thay một chiếc áo mới rực rỡ và đã kéo tôi ra khỏi vườn rau héo úa. Ngồi bên cửa sổ, trên cái phản gỗ, tôi nhìn từng chiếc lá hình sao theo điệu hát khe khẽ của gió mà diễn điệu múa trở về. Từng chiếc từng chiếc, từng đám từng đám và rồi cơn mưa lớn hôm qua đã mời được hết những chiếc lá cuối cùng lên chuyến tàu chót mà trở về với Mùa Yên. Chiều nay, khi chút nắng ấm hiếm hoi cuối Thu đang lau khô những cành nâu khẳng khiu ấy, tôi vẫn ngồi bên khung cửa trên tấm phản gỗ, gió mang theo một mùi thơm rất quen thuộc đến cho tôi và khi đưa mắt nhìn theo hướng đến của cái mùi thơm thân quen ấy, tôi thấy một cột khói nhạt đang tung tăng nhảy múa tươi vui giữa bầu xanh và niềm vui. Vâng, một thứ niềm vui nhẹ như cột khói ấy cũng từ lòng tôi thoát ra, và ngay lập tức, cùng nhảy múa hân hoan giữa bầu xanh với cột khói đang bốc lên từ vườn rau ấy.

Một người em khác của tôi, cũng có đôi mắt xanh, trong và sáng như bầu xanh lồng lộng đầy nắng cuối Thu hôm nay, đang nói cười tung tăng trong vườn rau và với vài người cư sĩ nữa, đang gom hết những thứ khô quắt, héo úa và dập nát ấy thành một đống lớn, và từ đó mà những đám khói đã nhảy múa cùng với mùi thơm quen thuộc tới cửa sổ phòng tôi. Không như người em kia của tôi: trầm lặng, kỹ lưỡng và ân cần, người em này của tôi năng nỗ, sinh động và vui tính; trong khi người em kia của tôi chăm chút, tưới tắm, nuôi dưỡng từng cọng lá chồi hoa, thì người em này của tôi cắt, nhổ, đốt bằng hết những “hậu thân” của những cọng lá chồi hoa ấy. Thế nhưng, từ chỗ ngồi của tôi sau cửa sổ, vườn rau bỗng trở nên sinh khí lạ thường.

Trong đám dây bí dập nát ấy, em tôi nhặt được dăm quả còn tươi. Trước khi nhổ hết những bụi cà chua, em tôi đã gom hết quả dù còn non hay đã bắt đầu vữa. Ở cuối vườn, em tôi đã cắt hết cỏ dại và đang lật hết đám đất ấy lên. Chỉ trong một buổi chiều, cái vẻ hoang vu tiêu điều của vườn rau như đã bốc hơi theo đám khói thơm. Vườn rau, sau khi được dọn dẹp sạch sẽ và cày xong đất đã sẵn sàng cho một mùa mới. Em tôi với những người bạn trở lại bên đống lửa đang tàn dần theo hoàng hôn ngắn ngủi của buổi cuối Thu, ngồi đó, trên những khúc củi khô, cười nói và lên kế hoạch cho một vụ mùa khác vào năm tới. Nhìn xuống từ khung cửa sổ, tôi đã thấy màu xanh yêu thương quen thuộc từ đôi mắt phản chiếu những lá bó xôi, những lá cải, những đọt bầu, đọt mướp đang biểu hiện trong ánh mắt tươi vui hồng ánh lửa của em tôi. Vườn rau, dù lúc này chỉ là những đám đất nâu trống trơn, vẫn là đạo tràng của em tôi, là nơi tu đạo và là nơi hành đạo của em tôi.

Mỗi năm, chúng tôi đón hàng ngàn người về Làng tu học. Vào mùa Hè, mỗi tuần có cả ngàn người đến tu học chung với chúng tôi. Những khi ấy, tôi chẳng có cơ hội ngồi yên ở cửa sổ phòng tôi mà nhìn các em tôi làm vườn. Những lúc ấy là lúc chính tôi phải thực tập chuyện làm vườn. Thầy tôi dạy rằng thiền sinh là vườn của chúng tôi. Anh em tôi không phải ai cũng làm vườn rau giỏi như những người em có đôi mắt xanh mà tôi vừa kể, nhưng ai cũng phải học làm vườn, nhất là những khu vườn sinh động đến với chúng tôi hàng ngàn lượt mỗi năm. Chuyện làm vườn của anh em tôi là một quá trình học hỏi cam go tuy cũng có nhiều hoa trái. Mùa này là Mùa Yên, tuy cũng có những “khu vườn” đến tu học chung với chúng tôi và chúng tôi vẫn tiếp tục săn sóc những khu vườn ấy, nhưng mùa này, người làm vườn tận tụy nhất là Thầy của chúng tôi, bởi vì, mùa này là mùa mà Thầy chúng tôi phải nuôi dưỡng và chuẩn bị nhiều nhất cho những người làm vườn con, những sự tiếp nối của mình.

Thầy tôi đã bắt đầu sự nghiệp làm vườn của mình từ rất trẻ. Từ lúc ấy, Thầy tôi thường nói, Thầy đã ước có một khu vườn lý tưởng cho mình. Và Thầy đã thực hiện được điều mong muốn ấy một cách tuyệt hảo. Mới đây thôi, Thầy nói rằng cho đến lúc này, sau 70 năm thực tập làm vườn, Thầy vẫn thấy rất cần nương tựa một mảnh vườn. Có thể mường tượng ra một người làm vườn mà không có một mảnh vườn chăng? Điều Thầy tôi nói thật dễ hiểu làm sao, nhưng nếu đã từng là một người làm vườn, người ta sẽ dễ dàng hơn để hiểu rằng cái điều nghe dễ hiểu ấy mới thực sự khó làm như thế nào!

Vì đã mang ước vọng ấy, mọi công phu của Thầy tôi đều nhắm đến việc rèn luyện mình trở nên một người làm vườn chuyên nghiệp. Thầy thích thú với công việc của một người làm vườn. Thầy cũng an trú trong công việc của một người làm vườn. Thầy yêu thương những mảnh vườn của mình và có hạnh phúc với những mảnh vườn ấy. Những mảnh vườn là đạo tràng của Thầy tôi, là nơi tu đạo và cũng là nơi hành đạo của Thầy tôi. Chúng tôi là đạo tràng của Thầy tôi, chúng tôi là nơi tu đạo và cũng là nơi hành đạo của Thầy tôi.

Nhiều khi tôi tự hỏi mình rằng có phải mình là một góc vườn đẹp của Thầy? Hay mình đang là một luống rau héo úa vàng vọt phải cần Thầy thường xuyên chăm bón. Có khi, tôi phải cẩn thận lắm mới không để cho mình tự biến thành một ổ sâu, có thể lây lan sang các phần vườn khác của Thầy. Lắm khi, nhìn Thầy phải dụng công chăm bón cho nhiều thứ không thuận tiện đang hẹn nhau diễn trò trong vườn, tôi xót xa, nhưng chẳng biết làm gì khác ngoài việc giữ cho cành lá của mình xanh tươi mạnh khỏe để Thầy bớt phải lo phần mình. Từ chỗ ngồi sau khung cửa sổ phòng mình, tôi có thể nhìn thấy hết việc làm vườn của các em tôi. Nhưng từ góc nhìn hẹp tối của tâm mình, khó khăn lắm tôi mới nhìn được một chút nhỏ bé việc làm vườn của Thầy tôi. Và từ việc làm của Thầy tôi, không biết tự lúc nào, tôi đã bắt đầu thấy cái ước vọng lúc trẻ của Thầy tôi mỉm cười trong lòng tôi, và tôi bắt đầu thấy được nhiều hơn sự cao quý của nó.

Nhưng việc làm vườn không phải luôn luôn suông sẻ. Thầy tôi thường bảo khi rau cải trong vườn không được tươi thì đừng đổ lỗi cho rau cải, đó chính là trách nhiệm của người làm vườn. Đó là Thầy tôi, luôn có trách nhiệm và hết lòng trong phần việc của mình. Nếu như anh chị em rau cải chúng tôi luôn hợp tác tốt với người làm vườn thì sẽ bớt cho Thầy tôi được rất nhiều công sức. Thầy tôi hiểu rõ từng loại hoa quả trong vườn mình và luôn luôn hết lòng săn sóc chúng tôi. Như tôi đã nói, Thầy tôi luôn nhận trách nhiệm về mình khi trong vườn có cọng rau, ngọn cải nào không được tươi tốt. Thế nhưng những khó khăn của Thầy tôi không phải biểu hiện từ việc không tươi tốt của những cọng rau ngọn cải.

Có lần, mấy quả mướp đắng trong vườn không chịu lớn nữa, không chịu tiếp tục chín nữa. Lý do bởi vì chúng muốn mình là dưa leo như những quả tươi xanh phẳng phiu ở giàn bên cạnh. Làm sao mà một quả mướp đắng lại có thể trở thành một trái dưa leo? Thầy tôi phải mất biết bao công sức để chuyển hóa cái tưởng ấy của người anh em mướp đắng của tôi. Và thường thì Thầy tôi sẽ cho trái mướp đắng thấy được hết cái đẹp cái hay của mình để rồi chúng tiếp tục lớn lên, tiếp tục chín mà chẳng còn chật vật với ý tưởng trở thành một quả dưa leo nữa. Nhưng đôi khi tôi cũng thấy Thầy tôi buồn khi phải nhìn một vài trái mướp đắng ấy héo đi rồi rụng xuống khỏi giàn.

Cũng có lần Thầy tôi phải ngồi hàng giờ cạnh một bụi ớt tươi tốt để truyền thông với những quả ớt tí hon ấy, chỉ với mục đích để chúng hiểu rằng ớt là cay. Tôi chẳng hề thấy các em tôi phải làm thế với đám bí hay đám khoai tây của mình bao giờ. Nhưng Thầy tôi thì thường phải làm thế, và đó là một việc rất mất công. Bụi ớt anh em kia của tôi tuy tươi tốt, nhưng phàn nàn, rằng tại sao chúng không hút được những tinh chất thơm tho của đất trời như những bụi rau húng của vồng bên cạnh mà chỉ toàn là vị cay xè, ít người ưa. Làm như rằng chuyện quả ớt cay là do Thầy tôi tự ý gây ra. Nhìn Thầy tôi với đầy yêu thương kiên nhẫn, tháo gỡ từng nút thắt trong cái vọng tưởng của bụi ớt, tôi thấy thương Thầy lạ lùng. Thế đấy, tuy là cùng uống nước cả, tuy là cùng thở khí trời cả và tuy là rễ hút chất trong cùng một mảnh đất nhưng từng loài rau quả lại thu nhận những thứ chất liệu khác nhau, sử dụng chúng khác nhau và cuối cùng biểu hiện ra những thứ hoa trái khác nhau. Thầy tôi biết tường tận từng loại hạt giống và cũng hiểu tường tận hoa trái của những loại hạt giống ấy với những điều kiện biểu hiện của chúng. Bụi ớt anh em của tôi cuối cùng cũng nhận ra gia tài đích thực của mình và chiều hôm qua đã biểu hiện thành niềm hạnh phúc trong những tô phở của anh em tôi.

Lắm khi, Thầy tôi biết rõ là sẽ khiến cho chúng tôi chẳng vui, chẳng hoan hỷ nhưng Người cũng phải làm điều Người cần làm. Mới đây thôi, khi những gốc bí bắt đầu mạnh và những ngọn bí xanh tươi vươn ra bốn phía, chúng bò lan cả sang luống cà và còn muốn níu kéo cả những đám dâu rừng đầy gai. Thầy tôi phải dứt khoát tháo những ngọn bí với tua tủa những chiếc vòi lò xo ra khỏi những đọt cà chua hãy còn chưa có hoa rồi hướng chúng quay trở vào vườn bí. Còn những ngọn bí bò quá xa, muốn gia nhập hội của những đám dâu rừng đầy gai ấy cũng được Thầy tôi dứt khoát kéo về. Có mấy ngọn đã bám quá chặt những chiếc vòi lò xo của mình vào những cành đầy gai, Thầy tôi phải đành lòng cắt bỏ chúng. Cũng có mấy đọt bí dại dột bò ra hướng lối đi, đã mấy lần được Thầy tôi kéo về hướng khác nhưng chúng vẫn cứ một mực quay ra hướng cũ, lại “khéo léo” núp dưới những đám cỏ làm Thầy tôi chẳng thấy chúng được. Chỉ sau một vài hôm, chúng dập nát dưới những gót giày. Dù vậy, Thầy tôi vẫn phải tiếp tục công việc của mình và nhờ thế, cuối cùng bí đã được thu hoạch. Mùa này, anh em chúng tôi chẳng có ngày nào là không được ăn một món bí.

Thầy tôi chưa từng từ chối một mảnh vườn nào. Chỉ cần mảnh vườn ấy chịu để cho Thầy tôi cày xới, gieo giống, vun bón và tưới tẩm thì thế nào hoa trái cũng biểu hiện trên mảnh vườn ấy; chỉ cần những rau cải hoa màu trên những mảnh vườn ấy không từ chối ánh sáng, không từ chối nước và sự săn sóc của Thầy tôi thì thế nào chúng cũng được lớn lên tươi tốt. Thầy tôi có niềm tin rất lớn vào đất, vào nắng, vào nước, vào hạt giống… và quan trọng hơn cả là rất tự tin vào khả năng chăm bón tưới tẩm của mình. Nhưng mọi việc sẽ dễ dàng biết mấy cho Thầy tôi nếu như anh em tôi cũng có được những đức tính của mảnh vườn nhỏ mà tôi thường ngồi nhìn các em tôi săn sóc. Bởi vì đất tâm của chúng tôi rất khác nhau cho nên Thầy tôi có khi phải đợi mười năm hoặc hơn thế nữa cho một hạt giống nảy mầm nơi mảnh đất này, trong khi trên một mảnh đất khác, hạt giống ấy nảy mầm chỉ sau thời gian một bài thiền ca; có khi Thầy tôi phải gieo cùng một hạt giống ấy rất nhiều lần cho một mảnh đất nọ mà lần nào mảnh đất ấy cũng làm cho hạt giống kia thối đi, nhưng trên mảnh đất khác thì chỉ cần một lần gieo, hạt giống ấy liền nảy mầm và lớn lên tươi tốt. Nhưng dù cho đó là một mảnh đất như thế nào thì Thầy tôi vẫn có khả năng làm cho hoa trái biểu hiện được trên mảnh đất ấy.

Có thật nhiều chuyện để kể về việc làm vườn của Thầy tôi, nhưng tôi chẳng thể kể hết được. Tuy nhiên, có một điều tôi không thể không nhớ khi học làm vườn, điều này Thầy tôi thường dạy chúng tôi, đó là đừng bao giờ cho rằng mình đã là một người làm vườn thành công rồi, và đừng bao giờ lìa bỏ mảnh vườn của mình.

Tôi là một góc vườn của Thầy tôi, nhưng tôi cũng là một người đang học làm vườn và tôi cũng đang có những mảnh vườn để thực tập. Tăng thân tôi là mảnh vườn lớn và tôi, vừa thuộc về mảnh vườn ấy mà cũng vừa là người làm vườn. Thầy tôi, đã gần 90 tuổi và đã làm vườn trong 70 năm mà vẫn luôn thấy rằng mình cần một mảnh vườn. Nếu thế thì Thầy tôi vừa là người làm vườn, việc làm vườn là việc của Thầy tôi và Thầy tôi cũng là một mảnh vườn. Chúng tôi thuộc về mảnh vườn ấy, và đó là một mảnh vườn tuyệt hảo. Cho dù Thầy tôi không cho rằng mình là một người làm vườn thành công thì ai cũng biết rằng vườn của Thầy tôi là một mảnh vườn tuyệt hảo. Và ai ai cũng thấy được rằng dù đã gần 90 tuổi, Thầy tôi vẫn còn là một người làm vườn rất tận tụy.

Từ chỗ ngồi sau cửa sổ trên tấm phản gỗ, tôi thích nhìn xuống vườn rau, nơi các em tôi đang hành đạo. Từ góc vườn của mình, tôi nhìn khắp mảnh vườn, tôi thấy Thầy tôi vẫn đang làm vườn. Các em tôi, những người làm vườn có hạnh phúc. Thầy tôi, người làm vườn tận tụy.

(Hình ảnh: Sư Ông Làng Mai trồng cây tại đất mới – Thái Lan, năm 2011)

Tiếp nối con Đường của Bụt

Hành Trình 30 Năm

Vài Nét VLàng Mai

Làng Mai là tên gọi tắt của Đạo Tràng Mai Thôn, đã được thành lập vào năm 1982. Vì nhu cầu tu học của thiền sinh khắp nơi mỗi ngày mỗi đông, Làng đã thành lập thêm nhiều tu viện trên thế giới như Tu Viện Lộc Uyển ở miền nam California, Tu Viện Bích Nham ở New York, Tu Viện Mộc Lan ở Mississippi, Thiền Đường Nhập Lưu ở Úc, Trung Tâm Thiền Tập Làng Mai Quốc Tế Thailand ở Thái Lan, Phật Học Viện Châu Á ở Hong Kong và Phật Học Viện Châu Âu ở Đức. Tất cả các tu viện trên đều thực tập theo pháp môn của Làng (mời xem bài “Làng Mai qua năm tháng” trong Lá Thư Làng Mai số 35).

Năm tháng gian nan và th thách

Những ngày tháng đầu mới thành lập, Làng còn rất nhiều khó khăn về nơi sinh hoạt. Phần nhiều các xóm đã được mua lại từ những người làm nghề nông và chăn nuôi như nuôi cừu và nuôi bò v.v… Xóm Thượng nguyên là một nông trại và Thiền đường Chuyển Hóa trước đây là một cái chuồng bò.

Mùa Đông ở Làng lạnh lắm. Thời gian đầu chưa có hệ thống sưởi như bây giờ. Quý thầy, quý sư cô khi ngồi thiền phải đem theo mền để quấn cho đỡ lạnh. Khi Sư Ông viết sách, một tay hơ lửa và một tay cầm viết. Điện, nước và tất cả các vật dụng, kể cả thực phẩm trong tu viện đều rất hạn chế, ngày nào trên bàn ăn có đậu hủ là ngày đó quý thầy quý sư cô cho là sang lắm rồi. Mỗi năm Làng lại có thêm nhiều thiền sinh về tu học. Số người càng đông thì càng thấy cơ sở hạ tầng hạn hẹp. Có năm vì tiêu chuẩn tiện nghi kém quá và kết quả là Xóm Hạ đã bị đóng cửa không được phép sinh hoạt. Trường hợp như vầy cũng đã từng xảy ra cho Xóm Thượng và Xóm Mới.

Nhiều lần Sư Ông bị bệnh và mỗi lần như vậy tưởng rằng khó qua khỏi, nhưng nhờ Bụt Tổ gia hộ nên Sư Ông đã phục hồi trở lại. Tuy nhiên đó chỉ là những khó khăn về mặt vật chất. Về mặt tinh thần, tăng thân cũng đã nhiều lần phải đối diện với những khó khăn đáng để ghi vào lịch sử. Chuyện gần đây nhất là tu viện Bát Nhã ở Việt Nam đã bị đánh tan tành vào năm 2009 – một giai đoạn cực kỳ khó khăn và thử thách cho Làng. Bao nhiêu đau khổ và sợ hãi đã đổ xuống đầu những mầm non vô tội. Quý thầy quý sư cô không còn nơi nương tựa trên đất nước đã sinh ra mình và kết quả phải di cư tứ tán. May nhờ Bụt Tổ che chở, quý thầy quý sư cô đã thực tập rất vững chãi theo tinh thần bất bạo động và chúng tôi đã vượt qua được giai đoạn khó khăn này.

Mng Làng 30 tui

Khai mạc triển lãm thư pháp tại chùa Sơn Hạ – Làng Mai

Vào đầu mùa An cư Kiết Đông 2011-2012, trong ngày xuất sĩ đầu tiên tại Nội Viện Phương Khê, Thầy trò ngồi quây quần với nhau trong không khí gia đình bên bếp lửa hồng, hôm ấy Sư Ông đã ngỏ lời rằng: “Năm tới mình sẽ ăn mừng Làng Mai 30 tuổi nguyên năm. Mình có thể tổ chức ăn mừng suốt năm trong mỗi khóa tu.” Có một vài người trong đại chúng cảm thấy hơi lo trước lời ngỏ của Sư Ông. Làm thế nào để có thể tổ chức ăn mừng nguyên năm? Như hiểu được nỗi lo của đệ tử nên Sư Ông dạy tiếp: “Nếu mình tu tập và chế tác được hạnh phúc trong mỗi ngày thì đó là cách thức hay nhất để ăn mừng Làng Mai 30 tuổi rồi. Mình không cần phải tổ chức ăn mừng rầm rộ và sang trọng mới có hạnh phúc. Mình phải có hạnh phúc với những gì mình đang làm trong mỗi ngày, ngay bây giờ.  Đó mới thật sự là ăn mừng.”

Theo lời Sư Ông, chúng tôi đã chia ra thành nhiều nhóm họp bàn với nhiều chủ đề khác nhau để tổ chức ăn mừng Làng Mai 30 tuổi. Tất cả có sáu nhóm: nhóm thuyết trình về lịch sử Làng Mai, nhóm triển lãm thư pháp, nhóm triển lãm pháp cụ mà Sư Ông thường dùng trong khi giảng dạy, nhóm phụ trách triển lãm sách, lại có nhóm làm Lá Thư Làng Mai và nhóm tổ chức các buổi văn nghệ. Những ngày sau đó, đi tới xóm nào cũng nghe mọi người bàn tới những đề tài và cách thức ăn mừng Làng 30 tuổi một cách hăng hái, vui vẻ và đầy hứng thú. Chỉ cần nói tới làm thế nào để ăn mừng Làng Mai 30 tuổi thôi cũng đủ làm cho mình và người nghe có đầy hạnh phúc rồi.

Thời gian chúng tôi có được là 3 tháng để chuẩn bị cho các buổi lễ ăn mừng Làng Mai 30 tuổi. Buổi triển lãm đầu tiên xảy ra trong khóa tu tiếng Pháp vào cuối tháng Tư năm 2012. Quý thầy quý sư cô trong mỗi nhóm được phân chia các công việc khác nhau. Vì cơ sở của Làng còn hạn hẹp nên tăng xá của quý thầy ở Sơn Hạ đã được mượn tạm để dùng làm nơi triển lãm thư pháp, còn thiền đường nhỏ Mây Thong Dong của quý sư cô Xóm Mới thì được dùng làm nơi triển lãm sách và pháp cụ. Dù có rất nhiều công việc cần làm, nhưng chúng tôi đã sắp xếp để mọi người được tham dự trọn vẹn những ngày quán niệm cũng như hai buổi công phu sáng tối. Thời gian còn lại trong ngày, chúng tôi sử dụng vào việc nâng cấp, sơn sửa, dọn dẹp, sắp đặt lại nhà cửa v.v… Hầu hết tất cả các công việc đều do quý thầy và quý sư cô trong ban tổ chức làm. Trong lúc anh chị em làm việc thì một vài huynh đệ tình nguyện ngồi đàn hát cho mọi người nghe khiến khung cảnh trở nên nhẹ nhàng và vui tươi. Cứ vài buổi trưa tôi lại xuống bếp nấu chè để đãi quý thầy. Các huynh đệ ngồi quanh nồi chè, vừa thưởng thức và kể chuyện cho nhau nghe với những tiếng cười giòn, còn gì vui hơn tình huynh đệ như những lúc này? Một sư anh của tôi chia sẻ: “Ở ngoài đời người ta làm việc có thể có rất nhiều tiền, nhưng làm gì có được không khí nhẹ nhàng và hạnh phúc như vầy!” Ở Làng, lợi tức của chúng tôi là niềm hạnh phúc của thiền sinh và sự nuôi dưỡng của chúng tôi là tình huynh đệ. Trong khi tu học và làm việc chúng tôi ý thức rất rõ về điều này.

 

Trước ngày khánh thành các buổi triển lãm trong các khóa tu, quý sư cô phải đi mua hoa về để trang trí các nơi triển lãm. Hoa có đủ màu đủ loại. Các sư cô rất thích hoa nên việc cắm hoa tự nó đã là một niềm hạnh phúc của các sư cô rồi. Mỗi nơi triển lãm cần khoảng sáu đến mười sư cô đến cắm hoa. Người nào cũng có đôi bàn tay khéo léo của các bà mẹ trao truyền nên ai cắm hoa cũng tuyệt vời. Mỗi người có một phong cách khác nhau nên khi nhìn vào, ta có thể biết được đây là tác phẩm nghệ thuật của người nào. Ở các phòng triển lãm, trong khi quý sư cô đang cười với hoa, thì bên ngoài quý thầy đang đàn hát và tập múa lân. Không khí vui tươi như một ngày hội. Đối với quý thầy, quý sư cô, những ngày chuẩn bị để tổ chức các buổi khánh thành ăn mừng Làng Mai 30 tuổi là chất liệu đóng góp để xây nên lịch sử sống của Làng, đồng thời cũng là để cống hiến khả năng và sự có mặt của mình cho tất cả thiền sinh về Làng. Đặc biệt là trước đó một ngày các anh chị em làm việc chung và chơi với nhau rất vui. Chính những giây phút ấy là những giây phút nuôi lớn tình huynh đệ của chúng tôi, và đã để lại trong mỗi chúng tôi những kỷ niệm và những kinh nghiệm “nhớ đời”.

 

Cắm hoa chuẩn bị triển lãm thư pháp

Trong tháng Sáu, có một cô cư sĩ người Mã Lai Á (Malaysia) gốc Hoa, một trong những người đã tài trợ cho phần triển lãm thư pháp. Cô đã có mặt tại Làng vài ngày trước khóa tu. Được biết cô rất thích cắm hoa nên chúng tôi đã mời cô vào ban cắm hoa để làm việc chung với các sư cô cho vui. Cô chia sẻ: “Tôi rất hạnh phúc được làm việc với các thầy các sư cô. Tôi thấy được sự nuôi dưỡng của tình huynh đệ.” Sau này cô thỉnh luôn bốn tấm thư pháp đã được triển lãm để đem về Mã Lai Á. Một trong bốn tấm thư pháp mà cô đã thỉnh là “Be still and heal” (Lắng dịu và trị liệu). Sau đó chúng tôi đã nghe cô kể rằng chính tấm thư pháp ấy đã an ủi được rất nhiều cho một gia đình vừa mới bị mất một người con gái.

Trong năm 2012, chúng tôi tổ chức được tất cả là năm khóa tu tại Làng và tại Phật Học Viện Châu Âu ở Đức và ba khóa tu ở Anh quốc (United Kingdom), Ái Nhĩ Lan (Ireland) và Ý (Italy). Các khóa này do Sư Ông và phái đoàn Làng Mai hướng dẫn. Khóa tu đầu tiên tại Làng cho người nói tiếng Pháp bắt đầu vào cuối tháng Tư có 800 người tham dự kéo dài một tuần; khóa tu tháng Sáu có gần 700 người tham dự kéo dài đến ba tuần; khóa tu mùa Hè có khoảng 4672 người tham dự (tổng số người của bốn tuần) kéo dài suốt bốn tuần; khóa tu cho người nói tiếng Hà Lan có 700 người và cho người nói tiếng Đức có 800 người tại Phật Học Viện Châu Âu, mỗi khóa tu kéo dài đến năm ngày.

 

Lễ ăn mừng Làng Mai 30 tuổi được tổ chức hai lần trong khóa tu tháng Sáu và mỗi tuần trong khóa tu mùa Hè. Lần đầu được tổ chức tại chùa Sơn Hạ. Sau buổi pháp thoại tại Xóm Thượng, Sư Ông hướng dẫn thiền sinh thiền hành từ Xóm Thượng xuống chùa Sơn Hạ. Con đường thiền hành từ Xóm Thượng xuống chùa Sơn Hạ đi xuyên qua đồi thông rất xanh tươi và ngoạn mục, được nổi bật thêm hơn khi có những chậu hoa chùm treo lên đón chào Sư Ông và đại chúng. Dưới những chậu hoa chùm là những câu thư pháp “Nay con đã về nay con đã tới” do Sư Ông viết bằng tám ngôn ngữ khác nhau: tiếng Việt, Hoa, Pháp, Anh, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha và Ý. Câu thiền ngữ này là pháp ấn của Làng Mai. Một cô thiền sinh người Bồ Đào Nha (Portugese) đến gặp chúng tôi khen ngợi về những tấm thiền ngữ ấy và cũng tỏ vẻ tiếc tại sao không có tiếng Bồ Đào Nha của cô. Một thượng tọa khách tăng người Hoa nói: “Tôi rất thích cách quý thầy quý sư cô trang trí. Tuy đơn giản nhưng tôi cảm được rất nhiều tình thương. Nhìn rất đẹp và đầy thiền vị.”

 

Trước chùa Sơn Hạ có một bãi cỏ xanh và cũng là nơi dùng để sinh hoạt trong những ngày lễ ăn mừng Làng Mai 30 tuổi. Tại đây, đại chúng được thưởng thức những buổi hòa nhạc Tây phương do quý thầy và quý sư cô Tây phương trình diễn, và cũng được xem các thầy Việt Nam đánh trống và múa lân. Các em nhỏ Tây Phương cũng như Việt Nam vô cùng thích thú khi coi múa lân và say mê chạy theo níu đuôi lân. Sau khi xem múa lân xong, đại chúng được giới thiệu sơ lược về Làng Mai và buổi triển lãm thư pháp, Sư Ông được mời lên cắt băng khánh thành và hướng dẫn đại chúng vào xem triển lãm.

 

Hòa nhạc tại chùa Sơn Hạ – Làng Mai

Lần triển lãm thứ hai trong khóa tu được tổ chức tại Xóm Mới. Đại chúng lại được xem múa lân, múa hoạt cảnh do các sư cô Xóm Mới và Xóm Hạ trình diễn, sau đó mọi người được mời ăn bánh sinh nhật mừng Làng Mai 30 tuổi. Sau cùng Sư Ông dẫn đại chúng lên xem triển lãm pháp cụ và sách của Sư Ông.

 

Những buổi triển lãm như thế đã đem lại rất nhiều niềm vui và hạnh phúc cho thiền sinh. Có người vì quá hạnh phúc nên cười ra nước mắt. Một cô thiền sinh người Pháp nói: “Tôi không ngờ nó quá đẹp và đầy nghệ thuật đến như vầy. Các thầy và các sư cô là người tu mà sao có thể tổ chức triển lãm một cách chuyên nghiệp như thế?” Một người thiền sinh khác chia sẻ: “Tôi thấy được rất nhiều công sức và tình thương của tăng thân để làm nên buổi triển lãm này.” Sau khóa tu tiếng Pháp, có người vì cảm động quá nên đã chụp hình tất cả những bức thư pháp, làm thành một hiện hình trượt (slide show) và gửi đi khắp nơi cho người khác xem.

 

Trong một buổi khánh thành thư pháp, chúng tôi có chia sẻ với các bạn thiền sinh rằng, chúng tôi phải trải qua 30 năm mới có được ngày hôm nay. Có người rất cảm động khi nghe câu nói ấy. Họ nghĩ rằng Làng Mai đã bước qua một chặng đường khá dài 30 năm, nhưng cơ sở vật chất thì chỉ khiêm tốn có đến chừng này, như vậy có nghĩa là những ngày tháng đầu Làng còn đơn sơ và khó khăn hơn nhiều lắm. Điều quan trọng là họ biết được Làng Mai không chủ trương xây dựng cho hoành tráng, mà chú trọng về sự tu học và làm thế nào để pháp môn của Làng có thể giúp được nhiều người hơn trên thế giới.

 

Năm 2012 đã đánh dấu Làng Mai tròn 30 tuổi. Ba mươi năm, thời gian không ngắn cũng không dài. Đức Khổng Tử có nói: “Tam thập nhi lập”, nghĩa là đến tuổi 30 thì Ngài đã có thể tự lập. Nói một cách khác là Ngài có thể đứng vững trên hai bàn chân Ngài. Nhìn lại đoạn đường Làng Mai đã đi qua trong 30 năm, chúng tôi thật sự không dám tự hào như thế, ngược lại chúng tôi cảm thấy Làng Mai còn nhỏ bé lắm. Là những người con của Bụt, chúng tôi ý thức rằng mình không được xao lãng việc tu tập mà chỉ lo làm công việc, phải sử dụng thì giờ để học hỏi và làm lớn mạnh tâm bồ đề của mình, để mỗi ngày có thể làm cho bánh xe chánh pháp được lan rộng xa hơn. Làm được như thế thì mới đền đáp được bốn ân và mới có thể thực sự lớn lên.

Đạo Bt đi vào cuc đời

Tổ chức và hướng dẫn khóa tu là lý tưởng phụng sự của Làng với tâm nguyện đem đạo Bụt đi vào cuộc đời. Một khóa tu kéo dài năm ngày có thể giúp nhiều người trị liệu được những vết thương trong lòng, hàn gắn mối quan hệ và tái lập truyền thông với người thân, chế tác được bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, Làng Mai đã mở cửa suốt năm để chào đón thiền sinh khắp nơi trên thế giới về tu tập. Hàng năm Làng có khoảng từ ba đến bốn khóa tu lớn; đó là khóa tu cho người nói tiếng Pháp, khóa tu tháng Sáu (mỗi hai năm một lần), khóa tu mùa Hè và khóa tu mùa Đông. Trong mỗi khóa tu như thế có khoảng từ 700 đến 1000 người về tham dự. Ngoài các khóa tu hướng dẫn tại Làng, chúng tôi còn có lịch trình giảng dạy của Sư Ông và các vị giáo thọ của Làng đi đến nhiều nơi trên thế giới. Cứ  mỗi hai năm thì Sư Ông và phái đoàn Làng Mai qua Bắc Mỹ hoằng pháp ba tháng. Theo nguyên tắc thì mỗi năm chẵn Sư Ông đi giảng dạy ở các nước Âu châu như Pháp, Đức, Anh, Ái Nhĩ Lan, Hà Lan, Ý v.v… còn mỗi năm lẻ thì Sư Ông đi giảng dạy tại Bắc Mỹ và Á châu. Quý thầy và quý sư cô giáo thọ cũng thay nhau đi ra ngoài để hướng dẫn các khóa tu cho thiền sinh vào mùa Xuân và mùa Thu. Mỗi năm chúng tôi nhận được rất nhiều thư thỉnh mời Sư Ông và các vị giáo thọ đến hướng dẫn các khóa tu từ khắp nơi, nhưng vì Sư Ông đã lớn tuổi và tuy Làng Mai đã đào tạo nhiều vị giáo thọ xuất gia và tại gia trong 30 năm qua, nhưng vẫn chưa đủ để đáp ứng cho nhu cầu hiện nay trên thế giới nên phải buồn lòng từ chối nhiều lời thỉnh cầu. Suốt 30 năm qua, Làng đã mở cửa và đã giúp được nhiều người trị liệu những vết thương, chuyển hóa những khổ đau, hòa giải và truyền thông được với những người thương của họ.

 

Tại khóa tu ở thành phố Rome nước Ý vào mùa Thu vừa qua, trong một buổi pháp đàm có một cô thiền sinh mù người Ý chia sẻ:“Đầu thập niên 90, tôi khám phá ra đôi mắt của tôi có vấn đề và tôi không thể nhìn thấy được rõ nữa. Tôi được bác sĩ cho biết là tôi sẽ bị mù trong một vài năm nữa. Khi tôi về nhà báo lại tin này cho mẹ thì mẹ tôi cho biết đây là chứng bệnh gia truyền của giòng họ bên ngoại tôi. Có những người bên ngoại tôi đã bị chứng bệnh này và đã bị mù. Tôi rất buồn và thất vọng trước lời nói ấy vì biết rằng mình sắp sửa bị mù và không có cách nào để chữa trị. Đúng thế, tình trạng kéo dài trong một vài năm kế đó và tôi gần như đã bị mù. Tôi sống rất đau khổ với căn bệnh của mình. Biết được căn bệnh mù của mình vô phương chữa trị nên tôi muốn trở về với cuộc sống tâm linh nhiều hơn để tìm cách học hỏi phương pháp sống an hòa với chứng bệnh tật nguyền của tôi. Đầu năm 1992, tôi được người ta cho biết là sẽ có một ông thầy Phật giáo Việt Nam đến thành phố Rome giảng dạy. Tôi đã lần mò tìm đến nơi Thầy giảng dạy, đó là thầy Thích Nhất Hạnh. Lần đầu tiên được thấy Thầy và được nghe giọng nói của Thầy, tôi biết ngay rằng đây là người Thầy của tôi, người mà bấy lâu nay tôi mong chờ. Giọng của Thầy nhẹ nhàng, truyền cảm với nhiều từ bi. Tôi hạnh phúc lắm! Tại khóa tu này tôi được học về phương pháp thực tập chánh niệm. Mỗi ngày tôi được hướng dẫn thực tập sống chánh niệm trong mỗi phút giây. Tôi học thở, học đi trong chánh niệm, học cách làm giảm bớt sự căng thẳng trong thân và làm lắng dịu tâm mình. Tôi học được nhiều thứ lắm! Đây là pháp môn rất thực tiễn và giúp tôi sống an lành trong thời gian còn lại của đời tôi. Nhờ thực tập chánh niệm, nên trong suốt thời gian qua tôi có thể tự chăm sóc cho chính mình với những điều căn bản trong cuộc sống hàng ngày. Tuy bây giờ tôi không còn thấy được hình sắc của Thầy bằng cặp mắt mù lòa của tôi nữa, nhưng khi nghe lại được giọng nói êm dịu và đầy lòng từ bi kia tôi nhận biết ngay rằng đó là Thầy tôi. Đây là một vị Thầy mà tôi vô cùng biết ơn. Người đã giúp tôi tìm lại được chính mình trong mảnh đời đen tối.” Đại chúng rất cảm động trước lời chia sẻ của cô.

 

Vấn đáp trong khóa tu tại Ý

Theo tình hình thế giới hiện nay, hiện tượng toàn cầu hóa đã làm cho con người thời đại có nhiều căng thẳng, áp lực, lo lắng, tranh đua và bạo động. Vì thế, con người ngày nay rất cần đến nếp sống tâm linh, đặc biệt là những người trẻ. Ở Làng, chúng tôi không ngừng nỗ lực để thành lập những phong trào, những phương pháp tu học vui tươi, lành mạnh và nhẹ nhàng để người trẻ có thể dễ dàng đến tu tập. Bên cạnh đó chúng tôi cũng đã tiếp nhận những người trẻ vào tăng thân xuất gia. Những người trẻ thường có tâm hồn cởi mở hơn, có khả năng sáng tạo và tiếp nhận, có sức sống mạnh, có tinh thần cách mạng và có “khối lửa” (bồ đề tâm) yêu thương để phụng sự. Vấn đề là chúng ta có biết cách để đào tạo, hướng dẫn họ đi đúng con đường và lý tưởng ban đầu mà họ đã chọn hay không. Ở Làng, Sư Ông và tăng thân luôn khuyến khích, nâng đỡ để những người xuất gia trẻ có thêm niềm tin và khám phá ra những tài năng tiềm ẩn trong mỗi người. Những người xuất gia trẻ vừa thực tập tự mình chuyển hóa, đồng thời làm mẫu mực, giúp cho thiền sinh cư sĩ thực tập và chuyển hóa những khó khăn trong họ. Người xuất gia trẻ là tương lai của đạo pháp, là sự tiếp nối của Bụt và Thầy Tổ, đem đạo Bụt đi về tương lai. Nếu không làm được như vậy thì sau này, các tu viện chỉ là nơi du lịch tâm linh hoặc trở thành viện bảo tàng tôn giáo. Nói chi đến chuyện sau này, hiện tại hiện tượng này đã và đang xảy ra ở rất nhiều nơi. Đến nay thì Sư Ông đã xuống tóc cho gần 800 người xuất sĩ. Ngoài quý thầy quý sư cô đã được Sư Ông xuống tóc, Làng còn có rất nhiều “quả trứng vàng” mà ở Làng chúng tôi thường gọi là “Cây Trà Thơm” đã đến từ các truyền thống hoặc chùa khác để cùng thực tập. Số người xuất sĩ trong cây Trà Thơm tính đến nay có khoảng cả trăm vị và sự có mặt của quý thầy quý sư cô cây Trà Thơm khiến Làng càng thêm phong phú hơn. Chúng tôi rất trân quý sự có mặt với những đóng góp của những cây Trà Thơm này. Trong số 900 người xuất sĩ đang tu tập tại Làng hoặc tại các trung tâm khác của Làng có khoảng 28 quốc gia khác nhau, nên các trung tâm tu học của chúng tôi rất đa dạng và đa văn hóa.

 

Trong chuyến đi hoằng pháp tại Ý năm 2008, số người trẻ tham dự khóa tu khá đông. Ngoài khóa tu ra, chúng tôi cũng đã tổ chức một buổi giảng diễn và sinh hoạt dành cho khoảng 500 học sinh trung học tại gần thủ đô Rome. Trong các buổi pháp đàm, chúng tôi đã hết lòng lắng nghe người trẻ chia sẻ về những khó khăn cũng như những bế tắc mà họ đang đối diện. Có những người trẻ rất cô đơn, lạc lõng, không có đường lối trong cuộc đời. Lại cũng có những người trẻ mang trong mình những vết thương, những khổ đau do gia đình và xã hội gây ra. Họ không có niềm tin nơi họ hoặc những người xung quanh. Họ đã bị lôi cuốn bởi những cảm xúc, cảm thọ của họ, và kết quả của những gì họ đã nghĩ, đã làm và đã nói đều không lành mạnh.

 

Tại phi trường Rome, Sư Ông đã đề nghị thành lập một phong trào gọi là “Wake Up” (Tỉnh Dậy Đi Thôi, Hỡi Người Trẻ!), dành riêng cho người trẻ. Đây là một phong trào sinh hoạt cho một xã hội từ bi và lành mạnh dựa trên nền tảng của Năm giới. Phong trào này là món ăn tinh thần, là sân chơi dành riêng cho những người trẻ có tâm hồn lành mạnh hướng tới một nền đạo đức tâm linh toàn cầu hóa.

 

Phong trào “Wake Up” ngày nay rất thịnh hành. Mỗi năm Làng tổ chức vài khóa tu dành riêng cho phong trào này do các thầy và các sư cô giáo thọ trẻ của Làng hướng dẫn. Các khóa tu được thay phiên tổ chức ở nhiều nơi trên thế giới. Tại quảng trường Trafalgar ở thủ đô Luân Đôn, có lần 5000 người trẻ đã tới ngồi thiền và nghe pháp thoại của Sư Ông. Đây là một phong trào vượt thoát mọi tôn giáo, dù bạn là người trẻ có quốc tịch hay tôn giáo nào thì cũng có thể tham dự được. Các buổi sinh hoạt rất vui tươi và lành mạnh, thích hợp với người trẻ thời nay. Tại các thành phố lớn trên thế giới đều có những tăng thân trẻ sinh hoạt theo phong trào này. Chúng tôi đã tạo ra một mạng lưới mà tất cả thành viên trong phong trào này có thể theo dõi để tu học, chia sẻ và liên lạc được với nhau. Phong trào “Wake Up” không những đem lại những buổi sinh hoạt có ý nghĩa và hạnh phúc cho mình và cho đời, mà còn là một chương trình họp bạn bốn phương rất lành mạnh. Một em sinh viên ở Đức có thể liên lạc và chia sẻ với các bạn sinh viên ở các nước khác. Bạn có thể tìm hiểu thêm về phong trào “Wake Up” qua trang nhà www.wkup.org.

 

Hơn mấy năm qua, Làng đã không ngừng phát triển để đưa phương pháp thực tập chánh niệm của đạo Bụt đi vào cuộc đời bằng những đường lối thích hợp và hữu dụng nhất cho con người thời đại. Chúng tôi đã thành lập chương trình “Applied Ethics” (Đạo Đức Ứng Dụng). Chương trình “Applied Ethics” được thành lập nhằm mục đích đưa thẳng pháp môn thực tập chánh niệm vào ngành giáo dục quốc gia. Đây là một môn học như tất cả các môn học khác: toán, lý, hóa, khoa học v.v… Chúng tôi lấy Năm giới làm nền tảng cho môn học này và chánh niệm là phương pháp để thực tập. Các thầy cô giáo dạy môn học này phải biết thực tập và phải có hạnh phúc thì mới có thể dạy được học sinh. Chúng tôi có chương trình đào tạo các thầy cô giáo tại Làng. Đây là một chương trình rất trẻ và rất mới, đi tới đâu chúng tôi cũng chia sẻ về đề tài này. Chúng tôi đã tổ chức những khóa huấn luyện cho giới giáo chức tại nhiều nước, như Ấn Độ, Hoa Kỳ, Thái Lan, Bhutan, Pháp, Đức v.v… Tại khóa tu cho dân biểu Hoa Kỳ ở Washington D.C. vào tháng 10 năm 2011 và buổi diễn thuyết tại House of Lords (tòa nhà của thượng nghị viện Anh) ở Anh vào tháng 3 năm 2012, Sư Ông cũng đã đề cập đến vấn đề làm thế nào để đưa môn học “Applied Ethics” vào ngành giáo dục.

 

Trong chuyến hoằng pháp vào năm 2011 tại Bắc Mỹ, Sư Ông và một số quý thầy quý sư cô đã gặp ông Thống Đốc Jerry Brown của tiểu bang California tại thành phố Oakland, CA. Tại một buổi họp, ông Jerry Brown đã được nghe chúng tôi đề cập về môn học “Applied Ethics” và làm thế nào để đưa môn học này vào ngành giáo dục của tiểu bang California. Ông lấy làm thích thú và rất hoan nghênh, ông nói: “Hiện tại tôi làm chủ hai trường học tư, chúng ta có thể thử áp dụng vào hai trường học của tôi trước.” Cũng trong chuyến đi này, Sư Ông đã có buổi gặp mặt với ông Thượng Nghị Sĩ Tim Ryan của tiểu bang Ohio và ông Thống Đốc Martin O’Malley của tiểu bang Maryland và họ cũng hứa sẽ cố gắng giúp đỡ những gì họ có thể làm được để yểm trợ cho việc đem đạo đức học ứng dụng vào học đường.

 

Ở ngoài đời, đến tuổi trưởng thành, những người trẻ cũng phụng sự đất nước bằng cách gia nhập vào quân đội trong thời gian từ ba đến năm năm. Đây là một cách biểu lộ tình thương, trách nhiệm của mình đối với giống nòi và đất nước. Họ ra trận với mục đích là chống giặc ngoại xâm để bảo vệ tổ quốc. Vào tháng 6 năm 2012, chúng tôi có tới thành phố Miami tiểu bang Florida để hướng dẫn một khóa tu cho những cựu chiến binh. Chúng tôi được nghe một anh cựu chiến binh tại trụ sở Chữ Thập Đỏ chia sẻ: “Khi ra trận chúng tôi không sợ chết, còn bây giờ về nhà thì chúng tôi sợ sống.” Tại sao thế? Bởi vì khi trở về anh không có công ăn việc làm và lại bị ám ảnh với những hình ảnh chết chóc, bạo động do chiến tranh gây ra. Anh ta vẫn còn may mắn hơn nhiều người khác là khi trở về thân thể vẫn còn nguyên vẹn, nhưng tâm hồn đã bị tổn thương rất nhiều.

Tiếp nối con Đường của Bụt

 

Ở Làng, chúng tôi có chương trình xuất gia 5 năm cho những ai có bồ đề tâm muốn phụng sự, được rèn luyện và sống theo đời sống phạm hạnh của người xuất gia. Sau 5 năm, nếu thấy thích hợp với đời sống của người xuất gia thì có thể phát nguyện xin tu học suốt đời, còn nếu không thì có thể trở về với cuộc sống trước đây và làm một vị giáo thọ cư sĩ. Tiêu chuẩn cần thiết để gia nhập vào chương trình này rất đơn giản: tuổi dưới 35, có bồ đề tâm phụng sự và muốn tu học theo đời sống của người xuất gia. Chương trình tu học phụng sự 5 năm rất hiền. Ở đây, các bạn trẻ cũng làm việc phụng sự tương đương với việc chống giặc xâm lăng, bảo vệ tổ quốc và thương yêu giống nòi. Giặc thật sự của ta là những “con ma” phiền não, giận hờn, bạo động, tham muốn, ganh tị, kỳ thị v.v… Các bạn trẻ được tu học theo pháp môn chánh niệm để nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa các “con ma” ấy. Khi ta có thể ôm ấp và chuyển hóa được các “con ma” ấy thì ta sẽ có nhiều hạnh phúc và tự do. Nếu ta tu học có thành quả thì ta có thể giúp đỡ được rất nhiều cho người thân của ta, cho xã hội, đất nước của ta và cho cả thế giới được bình an, lành mạnh. Đây là những điều mà các bạn trẻ có thể làm được trong 5 năm. Hiện tại, Làng đang có những người trẻ Tây phương tu học theo chương trình này và họ đang có rất nhiều bình an và hạnh phúc trong đời sống xuất gia.

Ngày nay gia đình áo nâu (gồm có 4 chúng) đang có mặt với các chương trình hoằng pháp và cứu tế ở nhiều nơi trên thế giới. Ngoài những người xuất sĩ áo nâu, chúng tôi còn có những người cư sĩ áo nâu trong dòng tu Tiếp Hiện. Dòng tu Tiếp Hiện được Sư Ông Làng Mai sáng lập vào tháng 2 năm 1966. Gia đình Tiếp Hiện đầu tiên được Sư Ông cho thọ giới gồm có sáu người và bây giờ đã có hơn 1,000 người đã tiếp nhận giới Tiếp Hiện và hành trì theo dòng tu này. Đây là những vị Bồ tát hóa thân đi vào cuộc đời để giúp hóa độ chúng sanh. Chương trình Hiểu và Thương tại Việt Nam và Ấn Độ có hơn 300 trường mẫu giáo đều do các vị Bồ tát Tiếp Hiện đầu tư thời gian và tâm lực của mình vào công việc phụng sự. Nếu không có các vị Bồ tát này thì làm sao chúng tôi có thể cung cấp những ly sữa và những bát cơm vào những buổi trưa cho các cháu?

Các vị Bồ tát áo nâu Tiếp Hiện tại Pháp, Anh, Hà Lan, Ý, Thailand, Malaysia, Hồng Kông, Indonesia, Brazil, Canada v.v… đều dùng những phương tiện quyền xảo khác nhau để tiếp tay với Làng làm việc độ sinh: có người lo chuyện dịch sách của Sư Ông; có người giúp in sách; có người giúp chuyển ngữ băng giảng; có người giúp phổ nhạc; có người vào nhà tù giúp các tù nhân tu học; có người giúp tổ chức các khóa tu; có người giúp về việc hành chánh; có người giúp về việc quyên góp tài chánh; lại có người chuyên môn giúp đỡ về mặt pháp luật,v.v.. Mỗi người là một viên ngọc quý của tăng thân. Chúng tôi luôn luôn biết ơn sự cống hiến và có mặt của mỗi người.

Hiện nay có rất nhiều tăng thân tu học theo pháp môn Làng Mai trên thế giới, phần nhiều là tại các thành phố lớn như: New York, San Francisco, Los Angeles, Chicago, Toronto, Quebec, Vancouver B.C, Brasilia, London, Paris, Frankfurt, Berlin, Madrid, Rome, Moscow, Tokyo, Sydney, Melbourne, Singapore, Hồng Kông, Bangkok, Seoul, Beijing, Taipei, Jakarta, Kuala Lumpur, Sài Gòn, Hà Nội v.v… Theo thống kê cho biết hiện nay có hơn 1000 tăng thân trên thế giới đang tu học theo truyền thống Làng Mai. Nước Anh đã có tới 80 tăng thân, nước Đức có 70 và nước Mỹ có trên 500. Vì vậy, địa bàn hành đạo của chúng tôi rất rộng lớn; không chỉ ở nước Pháp hay ở Việt Nam mà rất nhiều nơi khác. Trong quá trình hành đạo của Sư Ông và tăng thân Làng Mai trên 30 năm qua, chúng tôi đi đến nơi nào cũng đều làm công việc quan trọng của người làm vườn (người tu), đó là giúp người dọn dẹp “khu vườn tâm” của họ và gieo những hạt giống lành, nên ngày nay những hạt giống ấy đã được nảy mầm đâm chồi khắp nơi.

Trong mấy năm qua Làng có các thí chủ đến từ nhiều nơi trên thế giới, thành tâm muốn cúng dường đất đai cũng như tài chánh để thành lập các trung tâm tu học theo pháp môn Làng Mai tại trú sở của họ. Sau chuyến hoằng pháp Đông Nam Á vào năm 2010, có những thí chủ ở Malaysia và Indonesia đã nhiều lần ngỏ lời muốn cúng dường đất để làm tu viện cho Làng. Trong khóa tu tháng Sáu vừa qua có một đại thí chủ ở Indonesia cùng gia đình đến Làng tham dự khóa tu. Trong thời gian ông cùng gia đình tham dự khóa tu, họ đã cảm nhận và chứng kiến được sự lợi ích của pháp môn, nên sau khi về tới Indonesia đã mua một miếng đất khá rộng để cúng dường cho Làng làm trung tâm tu học. Vào dịp lễ Giáng sinh trong năm 2012, một phái đoàn gồm có 23 người đến từ Malaysia cũng đến xin phép Sư Ông và tăng thân để thành lập một trung tâm tu học theo pháp môn Làng Mai tại Kuala Lumpur. Ngoài những thí chủ đến từ Indonesia và Malaysia, chúng tôi còn có nhiều thí chủ đến từ các nước như: South Korea, Brazil, United Kingdom, Italy v.v… cũng rất muốn thành lập trung tâm Làng Mai tại xứ sở của họ. Nhưng vì nhân duyên chưa đầy đủ, phần lớn là vì chúng tôi vẫn chưa có đủ người xuất gia để hướng dẫn, nên tạm thời phải từ chối. Chúng tôi đã hướng dẫn họ tu tập, thành lập tăng thân trước, khi nào tăng thân vững mạnh và nhân duyên đầy đủ thì lúc đó thành lập trung tâm không phải là chuyện khó làm. Sư Ông dạy: “Nếu có khay đựng đào to và đẹp mà không có trái đào để vào, thì khay đựng đào kia có cũng bằng không. Vấn đề là phải có trái đào trước, còn khay đựng đào thì lúc nào có cũng  được.” Chúng tôi tin chắc rằng tại quê hương Việt Nam một ngày nào đó cũng sẽ có một trung tâm thực tập Làng Mai rất đẹp.

 

Mấy năm gần đây Sư Ông dành thời gian đầu tư vào chuyện dịch kinh sách ra Việt ngữ. Sư Ông thích dịch và chú giải kinh sách, đặc biệt là những kinh từ Hán tạng. Những tác phẩm đã được hoặc sẽ được phát hành gần đây như: Con Sư Tử Vàng của thầy Pháp Tạng (kinh Hoa Nghiêm), Đạo Bụt Nguyên Chất (kinh Nghĩa Túc), Đập Vỡ Vỏ Hồ Đào (Trung Quán Luận), Rong Chơi Trời Phương Ngoại (kinh Pháp Cú), Kết Một Tràng Hoa (kinh Pháp Cú) v.v… Trong khi dịch kinh từ Hán tạng ra Việt ngữ, Sư Ông đã đối chiếu với bản Pàli. Nhờ đối chiếu giữa hai bản Hán tạng và Pàli, (phần nhiều các kinh điển được ghi chép lại bằng hai thứ tiếng phổ thông này) nên Sư Ông đã tìm được những rơi rụng và sai sót trong quá trình truyền thừa. Sư Ông đã nghiên cứu và giúp chúng ta hiểu được nghĩa lý uyên áo của các kinh này. Đây là lý do chính yếu mà Sư Ông đã đầu tư thời gian của Người vào việc Việt dịch các kinh điển để đàn hậu thế của chúng ta có thể dễ dàng học và hiểu được lời dạy của Bụt một cách đúng đắn. Tất cả các kinh sách đều được Sư Ông dịch ra tiếng Việt dưới dạng văn xuôi rất đơn giản, lưu loát, dễ hiểu nhưng rất phong phú và sâu sắc. Sư Ông dạy: “Khi học kinh thì phải nương vào các kinh liễu nghĩa. Phải hiểu được ý kinh cho rõ ràng và nương vào đó mà hành trì chớ đừng bị kẹt vào danh từ hay khái niệm.” Phải sử dụng ba pháp ấn của đạo Bụt, là Vô thường, Vô ngã và Niết bàn để thanh lọc, điều chỉnh và khôi phục lại nguyên ý của Bụt trong các kinh. Nếu kinh nào mà không mang dấu ấn của tam pháp ấn này, thì đó không phải là kinh liễu nghĩa đích thực của đạo Bụt. Tuy tuổi đã cao, nhưng Sư Ông vẫn luôn luôn không ngừng nghiên cứu và học hỏi. Hơn 70 năm tu tập và hành đạo đã cho Người những kinh nghiệm sống rất sâu sắc và những cái thấy thấu triệt. Có một lần Sư Ông chia sẻ với chúng tôi rằng:“Nếu bây giờ viết lại quyển Đường Xưa Mây Trắng thì Thầy sẽ viết vui hơn và khác hơn.” Nhờ vào lòng từ bi và trí tuệ của Sư Ông, chúng ta có thể thừa hưởng được thêm nhiều cái hay trong kho tàng tuệ giác vô tận của Bụt.

 

Chiếc thuyn tăng thân và s tiếp ni ca Bt

Chiếc thuyền tăng thân Làng Mai đã vượt qua bao sóng gió, bao thử thách và cũng đã đưa rất nhiều người qua được bến bờ bên kia, bến bờ của thảnh thơi, tự do và an lạc trong 30 năm qua, đó là nhờ vào sức mạnh và sự hòa hợp của tăng đoàn cùng nhau lèo lái. Sư Ông là một vị thuyền trưởng vững chãi hướng dẫn cho chúng tôi lèo lái con thuyền tăng thân, là một cây đại thụ làm chỗ cho chúng tôi nương tựa. Cây đại thụ tuy tuổi đã già nhưng lúc nào cũng cho thêm hoa thêm trái. Hoa trái của Sư Ông có thể trổ ra bất cứ lúc nào và ở đâu, cũng như tuệ giác của Sư Ông luôn luôn tuôn chảy như một dòng suối mát.

Chúng tôi rất biết ơn những người đã sáng lập ra Làng Mai cũng như những thế hệ tiền bối đi trước đã có công xây dựng tăng thân. Nhìn lại lịch sử, chúng tôi thấy rất rõ là cuộc cách mạng nào cũng có những người tiên phong dẫn đầu. Đặt chân lên Xóm Thượng chúng tôi thấy được hình bóng và sự tiếp nối của thầy Nguyện Hải qua thầy Pháp Hữu, thầy Pháp Triển và nhiều người khác. Về tới Lộc Uyển chúng tôi thấy được sự tiếp nối của thầy Giác Thanh trong thầy Pháp Dung, thầy Pháp Hải, thầy Pháp Hộ và các thầy các sư cô khác. Khi nghĩ về chương trình cứu tế xã hội, chúng tôi cũng thấy được sự tiếp nối của thầy Thanh Văn và sư cô Chân Không qua cô Xuân, chú Nghiệm, chú Lộc, chú  Đính, chú Nam, chú A, chú Đạm, cô Kỷ, cô Phùng và rất nhiều người trên thế giới.

Chúng tôi thuộc về những thế hệ trẻ, sanh sau đẻ muộn, lúc nào cũng mang ơn sâu nặng trước một bậc Thầy khả kính đã để hết đời mình làm lợi lạc cho chúng sanh. Dù lớn tuổi nhưng Sư Ông không ngừng tìm cách làm mới pháp môn cho thích hợp với căn cơ thời đại, đặc biệt là cho đàn hậu thế của chúng tôi cảm thấy thoải mái để quay về.

Mỗi người trong chúng tôi là một tế bào của cơ thể tăng thân, là một thành phần của chiếc thuyền tăng thân. Trong một cơ thể có rất nhiều tế bào và mỗi tế bào có một nhiệm vụ riêng của nó. Cũng như chiếc thuyền tăng thân, chúng tôi vừa là ván, là đinh, là thuyền trưởng, là chiếc thuyền. Ván có nhiệm vụ chống nước để nước không thể tràn vào lòng thuyền, đinh có nhiệm vụ giữ ván dính lại với nhau, thuyền trưởng có nhiệm vụ lèo lái chiếc thuyền cho đến nơi đến chốn, và chiếc thuyền có nhiệm vụ đưa người qua sông. Nhờ có những thành phần như thế phối hợp lại với nhau nên ta mới có được con thuyền vững chãi đưa người qua đến bờ bên kia. Nói như thế, nối tiếp con đường của Bụt cũng như hành trình 30 năm là phận sự, là hành trình chung của chư Tổ, của Sư Ông và của tăng thân, trong đó có bạn và tôi. Mỗi một người đóng góp một bàn tay vào sự nghiệp của Bụt. Và cứ như thế bàn tay này nối tiếp bàn tay kia.

 

Nhìn lại hành trình 30 năm qua, chúng tôi vô cùng mang ơn Bụt Tổ đã gia hộ. Chúng tôi ý thức rất rõ cuộc đời là vô thường. Một chủ nghĩa nào, một đất nước nào, một tông phái nào rồi cũng có ngày suy tàn; thịnh suy suy thịnh là chuyện muôn đời. Nhưng chúng tôi nguyện sẽ tiếp tục tu học, bước thêm những bước vững chãi và thảnh thơi để cống hiến cho đời thêm 30 năm nữa và nếu Bụt Tổ còn thương tình cho thêm 30 năm kế tiếp. Sư Ông dạy: “Ba mươi năm đầu có thể đi qua chầm chậm, nhưng 30 năm kế tiếp sẽ đi qua mau lắm.” Thầy trò cùng nắm tay nhau mà đi như một dòng sông để leo đồi thế kỷ. Chúng tôi thấy vấn đề không phải là thời gian, dù đó là 30 năm hay 300 năm, nhưng phải thiết kế và đi như thế nào để mỗi giây phút mình có thể đem lại hạnh phúc, bình an và lợi lạc cho mình và cho người. Làm được như thế thì chúng ta mới có thể thừa hưởng được gia tài và tiếp nối được sự nghiệp của Bụt một cách đích thực.

—Chân Pháp Nguyện–

Sơn Cốc mùa trăng

(Thưởng thức một tuần làm biếng ở Sơn Cốc)

Chân Minh Hy

Chỗ tôi đang ngồi viết đây là trước cái lò củi ở Sơn Cốc, đêm nay là đêm cuối tôi ở Sơn Cốc, sáng mai tôi về lại Xóm Thượng rồi. Một tuần ở đây thật thú vị. Tôi chẳng làm gì hết. Chỉ có mặt và để cho năng lượng bình an ở đây thấm vào lòng.

Có bốn huynh đệ cùng đi chung. Thầy Pháp Đường đã về chiều hôm qua, thầy Pháp Siêu, thầy Pháp Linh đã về hai hôm trước, chỉ còn tôi ở lại. Chỉ có tôi là ăn cơm mỗi ngày ba bữa, còn ba Thầy kia thì nhịn đói theo phương pháp thanh lọc cơ thể. Ban đầu tôi không biết, cho nên đem đồ ăn trong một tuần cho cả tôi và thầy Pháp Đường, ai dè thầy cũng nhịn đói luôn, làm tôi tự nấu tự ăn một mình. Cũng vui. Nhưng sau đó thì lại vui hơn, vì ngày nào cũng được qua ăn cơm với Sư Ông. Thế là đồ ăn dư lại càng dư nữa. Tôi thì có tính hay mắc cỡ, ngại đi ăn cơm nhà người khác lắm! Sư Ông là Thầy mà, tại sao mình mắc cỡ nhỉ? Biết vậy mà vẫn mắc cỡ như thường, hồi nhỏ đã vậy rồi mà, tôi chưa đi ăn cơm của một nhà hàng xóm nào.

Tôi nhớ có một bữa đó, đang đi thiền hành thì bụng đói, lại nhớ các anh em ở Sơn Hạ nữa. Nghĩ rằng, lâu quá chưa được ngồi ăn cơm với các anh em ở Sơn Hạ, hôm nay mình xuống ăn cơm một bữa đi! Vậy là tôi rẽ lối đi xuống Sơn Hạ. Đến nơi rồi thì mới biết là mắc cỡ quá, biết là huynh đệ của mình đó mà không dám vào. Nghĩ bụng, chắc là chuông chưa thỉnh… nhưng chuông đã thỉnh rồi kìa, sao không có ai gọi mình một tiếng nhỉ! Thế là tôi đi một vòng quanh Sơn Hạ, rồi vác cái bụng đói đi về. Biết rứa đừng xuống cho rồi. Mắc cỡ đúng là khổ thiệt!

Tôi nghe sư em Chiêu Nghiêm kể, lúc đầu sư em làm thị giả cho Sư Ông thì căng thẳng lắm, thấy mệt quá chừng, sau một ngày làm thị giả thì về nằm thừ người ra (bây giờ sư em Chiêu Nghiêm làm thị giả quen rồi). May mà tôi chưa làm thị giả, chỉ nội một việc ngồi ăn cơm với Thầy thôi mà chẳng tự nhiên chút nào. Cơm cũng để Thầy xới cho, đồ ăn cũng để Thầy gắp cho. Nghĩ bụng, chắc bữa sau phải trốn thôi. Ngại quá đi. Nhưng ngày nào Thầy cũng cho thị giả qua gọi, trân quý cái tình của Thầy cho nên tôi lại đi. Có một bữa chiều, Thầy qua phòng và gọi: “Minh Hy qua đây chơi con!” Nghe Thầy gọi mà nhẹ cả người, qua chơi thôi chứ không phải qua ăn cơm. Ai ngờ, Thầy nói qua chơi, tức là qua ăn cơm đó. Thầy dễ thương thiệt!

Bây giờ thì tôi tự nhiên hơn chút xíu rồi. Có thể tự xới cơm cho mình và cho Thầy được rồi. Biết gắp đồ ăn cho các sư em nữa. Thầy thật là khéo, ở với Thầy một tuần thì thấy mình tự nhiên hẳn ra, thấy gần gũi nữa là khác. Chỉ có điều lúc đầu hơi bị ngố chút xíu. Thầy xới cơm thì ăn cơm, Thầy gắp thức ăn cho thì cũng cứ rứa mà ăn thôi. Cho đến một bữa, đang lúc ăn cơm Thầy nói: “Con gắp thức ăn cho sư em con”. Đó là cái tình anh em đó, là không khí của một gia đình đó mà. Trong câu nói đó tôi chợt hiểu ý của Thầy, “cái tình Thầy đã trao cho con rồi đó, con nhớ trao lại cho các sư em con”. Thưa Thầy, con đã hiểu, con sẽ trao lại cho các sư em của con.

Tôi chưa bao giờ thấy ở đâu mà có cái tình Thầy – trò đẹp như ở đây. Nó mộc mạc, nó chân tình nhưng sao mà sâu lắng khó quên. Trong một tuần này tôi cũng được đọc hồi ký của Thầy, đó là một niềm hạnh phúc nữa. Người học trò nào cũng muốn biết thêm về Thầy mình, nhưng hiếm khi có những người học trò có được may mắn đó. Ngoài việc đọc hồi ký, tôi dành thời gian đi dạo quanh vườn, đi để nghe suối chảy, nghe chim hót và nghe tiếng gió reo qua rừng tre. Bước chân tôi nhờ vậy mà thanh thản, nhẹ nhàng hơn. Tôi cũng có thời gian ngồi nhìn lại mình hàng giờ bên bếp lửa. Ở đây, lò sưởi điện bị hỏng cho nên anh em tôi đốt củi cả ban ngày lẫn đêm về, để chơi với ánh lửa và để sưởi ấm. Ngồi yên như vậy, tôi nhìn lại mình, nhìn lại sự tu học của mình ở Làng trong ba năm qua, nhìn lại con đường mà mình đang đi, nhìn lại tâm tư tình cảm của mình, cách mình xây dựng tình huynh đệ… Như người học trò kia, sau một năm học tập thì ôn lại bài để chuẩn bị cho một kỳ thi; còn tôi thì ngồi ôn lại những cái ấy, điều chỉnh một chút xíu trước lúc đi xa.

Vậy, đây cũng là quê hương của mình nữa rồi. Đáng lẽ ra phải nói là về quê hương chứ, mà về quê hương thì đâu có nói “đi xa” được. Tôi cũng chẳng biết nữa. Tôi thuộc về nó và nó ở trong tôi lúc nào chẳng hay.

Tôi chép lại bài thơ này như là một kỷ niệm của tôi với Sơn Cốc.

Ta về Sơn Cốc

Mùa trăng dạo ấy

Tình đẹp như mây

Nhẹ tợ khói lam chiều

Mái tranh quê

Gọi về bao con trẻ

Bữa cơm chiều

Nhẹ gửi mối tình riêng

Tình thật đẹp

Như trăng kia ngời sáng

Dạ một lòng

Xin giữ mãi về sau.

Sơn Cốc ơi! Ta sắp đi. Đi là để trở về, nhớ là để thương nhau nhiều hơn.

Sơn Cốc 11.03.2012

Nơi gửi gắm niềm tin

Người nghệ sĩ ngoài đời sáng tác ra những bài thơ bản nhạc vì họ có những niềm đau nỗi nhớ trong lòng. Khi một bài thơ đẹp hay một bản nhạc hay của người nghệ sĩ được sáng tác ra thì sẽ có nhiều tâm hồn đồng cảm mượn nó để ru những niềm đau nỗi nhớ của mình. Ai mà không có những nỗi nhớ niềm đau? Cho nên người ta tiêu thụ thơ và nhạc nhiều lắm.

Trịnh Công Sơn từng viết nhiều bản tình ca rất hay, khiến cho bao người sử dụng để vỗ về niềm đau của họ. Nếu mình không thích nhạc Trịnh Công Sơn nghĩa là mình không có những nỗi nhớ niềm đau ấy trong lòng. Trịnh Công Sơn đã trải qua nhiều nỗi đau. Những mối tình của ông thường rất ngắn ngủi. Đối với Trịnh Công Sơn thì tình yêu vốn mong manh sương khói và dễ chết yểu, trong khi đó thì tình bạn lại bền vững, đem đến cho mình niềm vui và sức khỏe. Niềm vui của Trịnh Công Sơn là được ngồi hát cùng bạn bè. Cái mà ông được thừa hưởng trong cuộc đời chính là tình bạn. Trịnh Công Sơn cũng từng có cơ hội được gần gũi với các vị xuất gia, từng được nghe kinh nên thỉnh thoảng trong nhạc Trịnh có phảng phất âm hưởng của tiếng kinh.

Thời bấy giờ, người thanh niên Việt Nam có những thao thức mà không nói lên được. Đó là ước muốn chấm dứt cuộc chiến tranh vô nghĩa mà trong đó người Việt phải buộc lòng giết nhau bằng ý thức hệ và vũ khí nước ngoài. Trong số những người thanh niên ấy có Trịnh Công Sơn. Thỉnh thoảng Trịnh Công Sơn cũng nói ra được một vài điều, do đó có khi nhạc của ông được gọi là “nhạc phản chiến”.

Những bài nhạc nổi tiếng thời tiền chiến như bài “Bến xuân” của Văn Cao, cũng là để ru những nỗi nhớ niềm đau của mình. Trong bài “Bến xuân”, Văn Cao tưởng tượng mình có một ngôi nhà bên bờ suối và có người yêu đến thăm mình. Chuyện này chưa từng xảy ra. Ao ước trong đời thực không được thỏa mãn nên nhạc sĩ phải đưa nó vào thi ca. Khi bài hát này ra đời, có rất nhiều người sử dụng để ru những ước vọng của mình. Người thanh niên nào lớn lên mà không khao khát yêu thương và được yêu thương? Nhưng người có hạnh phúc trong tình yêu thì ít mà người gặp khổ đau trong tình yêu thì lại rất nhiều, tại vì cả mình và người kia đều chưa biết cách yêu thương.

Hãy nghe bài thơ sau đây của nhà thơ Đàm Thị Lam Luyến:

Nếu ta gửi tình yêu vào một nơi chân thật

Thì tình yêu của ta sẽ thành hương thành mật

Gửi tình yêu vào đất được hoa trái đầy cành

Gửi lên trời cao rộng sẽ được ngọn gió xanh

Ta trao cả cho anh một tình yêu cháy bỏng

Như một cánh buồm xinh hiến mình cho biển rộng

Ta đã gửi cho anh cả con tim dào dạt

Và anh trả cho ta nỗi buồn đau tan nát

Ta muốn ôm cả đất, ta muốn ôm cả trời

Mà sao không ôm trọn trái tim một con người?

“Nếu ta gửi tình yêu vào một nơi chân thật”: Yêu nghĩa là đầu tư trái tim của mình vào một nơi, nếu mình đầu tư lầm thì mình mất hết vì mình chỉ có một trái tim. Bài thơ này đã được nhà thơ Thuận Yến phổ nhạc.

Đây là một bài thơ khác của nhà thơ Trần Quang Quý. Anh chàng này may mắn hơn, không bị người yêu phụ bạc nhưng vẫn thấy tình yêu đó không đủ cho mình. Là một chàng trai trẻ anh cần có không gian lớn hơn để vẫy vùng và anh thấy tình yêu của mình giống như cái mạng nhện và con nhện chỉ đi quanh quẩn trong mạng nhện đó mà không ra khỏi được, dù cái mạng nhện có trung kiên với mình. Anh là người may mắn trong tình yêu nhưng anh vẫn chưa thỏa mãn với tình yêu ấy:

Lối về nhỏ căn nhà ta bé nhỏ

Một tiếng guốc khua cũng đủ chật rồi

Em nấu bếp nhìn anh trong mắt ướt

Thế là chiều Hà Nội bớt lang thang

Có lẽ là cô nàng đang nấu bếp và khói làm cho mắt ướt chứ không phải là cô khóc. Mình là một trong số những người may mắn vì mình đang có một tổ ấm, có một nơi để về, có một trái tim chờ đợi mình ở nhà. Nhưng điều ấy đã đủ chưa?

Đâu những tòa nhà cao ánh đèn cao áp

Mái nhà con vừa khép đủ chúng mình

Ta bỗng thấy thương hơn từng con nhện

Đi suốt đời một mảnh tơ riêng

Em vất vả, gầy hơn, đêm ít ngủ

Lo cho anh chi chút lúc lên đường

Một viên thuốc năm ba lần căn dặn

ốm đau tan từ một lời thương
(Người vợ này rất chăm lo cho chồng, cô dặn đi dặn lại anh nhớ phải uống viên thuốc này nhé, dặn tới năm lần. Có lẽ hết bệnh không phải nhờ viên thuốc mà là nhờ cái ân cần của người kia.)

Anh nghèo lắm có gì đâu ngoài sách

Có gì đâu gia tài chẳng ngoài em

Ô cửa hẹp mặt trời thăm thẳm quá.

Một ngôi sao thả lỏng giữa xa mờ

Và đây, hai câu thơ cuối giống như một sự quyết định, không biết cái gì sẽ xảy ra:

Anh bất chợt nhìn em bất chợt

Ô cửa này rộng mở anh đi.

Trong bài thơ của Đàm Thị Lam Luyến, mình cần ghi nhớ rằng mình chỉ có một trái tim, làm sao để mình gửi trái tim ấy vào đúng nơi đúng chỗ, tại vì thương yêu là một sự đầu tư lớn, đầu tư nhầm chỗ là mình sạt nghiệp, thế nên phải cẩn thận lắm. “Nếu ta gửi tình yêu vào một nơi chân thật”, nhưng biết đâu là nơi chân thật? Đôi khi lời nói kia rất đường mật nhưng có sự giả dối. Anh chàng có thể đã nói điều đó với nhiều cô rồi, nhưng mình không biết, lại cứ tưởng mình là người duy nhất được nghe câu nói đó.

Người đi xuất gia cũng muốn tìm nơi gửi gắm trái tim của mình. Bài thơ “Tìm Nhau” cũng nói về tình yêu. Đi tìm ở đây là sự đi tìm chính mình. “Con đã đi tìm Thế Tôn”, nhưng kỳ thực là con đã đi tìm chính con. Mình chưa biết mình là ai. Đây là một quá trình đi tìm kiếm. Khi mình biết được mình là ai thì mình có bình an, hạnh phúc. Trong bài thơ có câu “Con đã tìm ra Thế Tôn. Con đã tìm ra con” có nghĩa là vậy. Khi mình tìm ra được mình là mình tìm ra được Bụt và khi mình tìm ra được Bụt thì mình tìm ra được mình “Thế tôn với con đã từng là một”, đây không phải là sự tìm kiếm bên ngoài mà là sự tìm kiếm bên trong.

Đất Mẹ nhiệm mầu

Vào năm 1969, lần đầu tiên mọi người thấy được hình ảnh của địa cầu nhìn từ mặt trăng tuyệt đẹp. Phi thuyền Apollo đưa ba phi hành gia lên trên mặt trăng, giữa đường các phi hành gia đã nhìn về địa cầu và chụp ảnh trái đất. Phi hành gia người Mỹ đầu tiên đặt chân lên mặt trăng là Neil Armstrong. Khi ông đặt bước đầu tiên xuống mặt trăng thì ông rất ý thức. Ông đã nói: “Đây là một bước nhỏ của con người nhưng là một bước rất lớn của nhân loại.” Sau khi được nhìn thấy bức ảnh về trái đất này, tôi đã làm một bài thơ:

An tịnh tâm hành

Trên đường lên nguyệt cầu

Quay nhìn lại

Tôi thấy em

Và tôi không ngừng kinh ngạc :

Em xinh đẹp quá chừng

Em là một chiếc bong bóng nước

Nổi trên biển không gian mông mênh

Em là đại địa

Em là hành tinh xanh

Hiển nhiên và mầu nhiệm

Nhưng rất đỗi mong manh.

Tôi thấy tôi trong em

Đang bước đi những bước chân ý thức

Trên con đường đất

Hai bờ cỏ xanh

Chân nói lời nguyện ước với đất

Mắt ôm lấy bình minh

An trú trong giờ phút

Lá thu rơi, ngập cả nẻo thiền hành.

Có con sóc thập thò

Sau gốc cây

Nhìn tôi

Với một chút ngỡ ngàng trong ánh mắt

Rồi leo lên thoăn thoắt

Và ẩn mình sau một cụm lá xanh.

Tôi thấy dòng nước trong

Đang len chảy giữa khe đá trắng

Suối cười reo

Thông vi vút

Cùng ngợi ca một buổi sáng thanh bình.

Tôi cũng thấy những vùng đau nhức

Nơi con người đang kẹt thế giao tranh

Chúng ta đang làm khổ nhau

Và vung vãi tang thương trên đất

Kỳ thị

Hận thù

Tham lam

Tạo thành bao thảm khốc

Gà một nhà đã rủ nhau bôi mặt

Tiếng kêu gào thảm thiết nạn đao binh

Đại địa quê hương ta chính là ta

Này các anh các chị

Quê hương ta xinh đẹp quá chừng

Tôi muốn ôm cả vì sao xanh

Áp vào lồng ngực nhỏ

Chúng ta hãy cùng nhau hòa nhịp thở

An tịnh tâm hành

Loài người chúng ta hãy chung lưng góp sức

Chấp nhận nhau

Thương yêu nhau

Vì ta cùng thương yêu trái đất

Bởi ta biết rằng

Tình ta là tất cả

Tình ta không phải chỉ là một mảnh nhỏ

Ta là những kẻ chịu chung trách nhiệm về hành tinh xanh.

Anh chị em ơi

Sáng nay hãy truyền được cho nhau

Cái Thấy

Làm sao cho

Tình yêu lớn tượng hình.

Chủ nghĩa dân tộc đã trở thành rào cản, sự đấu tranh của các dân tộc với nhau không cho phép chúng ta có thời gian và năng lượng để thay đổi sự sống và bảo vệ hành tinh này. Thế nên bài thơ này có câu: “Tình ta không phải chỉ là một mảnh nhỏ. Ta là những kẻ chịu chung số phận của hành tinh xanh”. Mỗi nước đều coi đất nước của mình là một bà mẹ. Ở Việt Nam ta nói là Mẹ Việt Nam. Ở bên Pháp nói là La Mère Patrie. Nhưng những bà mẹ đó chỉ là một mảnh nhỏ trong khi bà mẹ lớn của chúng ta là trái đất. Hiện bây giờ các bậc thiện tri thức trên thế giới đã thấy rõ rằng sự tranh chấp giữa các nước với nhau là một rào cản lớn khiến cho chúng ta không có cơ hội bảo vệ cho hành tinh của chúng ta. Vì muốn bảo vệ nước mình nên mình cũng muốn nước mình có bom nguyên tử. Vì muốn bảo vệ nước mình nên mình cũng muốn khai thác cho đất nước mình giàu mạnh để chống lại những nước khác, vì vậy cho nên mình đang đi trên một con đường không thuận lợi cho việc cứu hộ hành tinh.

Học hạnh của đất

Có một lần Đức Thế Tôn dạy chú tiểu La Hầu La: “Con hãy học theo những đức tính của đất thì con sẽ có hạnh phúc.” Đất có tính kiên trì, bền vững, luôn trung kiên mà không phản bội. Đất không kỳ thị, đất thương yêu và ôm lấy tất cả mọi loài dù những đứa con mà trái đất sinh ra có thế nào đi nữa thì đất mẹ vẫn luôn luôn đưa hai tay đón lấy khi nó trở về. Đất có năng lực sáng tạo. Đất đã sáng tạo ra sự sống với sự hợp tác của mặt trời. Ta tự hào có biết bao vị anh hùng, nhưng đất là vị anh hùng lớn nhất đã phải chịu đựng hàng tỉ năm để tạo nên sự sống. Ta tự hào là có những nhạc sĩ tài ba, nhưng đất là nhạc sĩ tài ba nhất, những tiếng hải triều là âm nhạc, tiếng gió, tiếng mưa, tiếng lá xào xạc, tiếng chim líu lo đều là âm nhạc tuyệt vời. Chúng ta tự hào rằng có những họa sĩ tài ba, nhưng chính đất đã tạo ra những bức họa đẹp nhất. Đông sang tuyết phủ, xuân tới trăm hoa đua nở, có liễu lục đào hồng; hạ đến cây cối xanh tươi; thu về lá rực rỡ muôn màu. Rõ ràng Bồ Tát Thanh Lương Đại Địa là một họa sĩ lớn.

Vật chất và tinh thần

Trước đây khoa học cho rằng sự sống, trí tuệ và ý thức là do vật chất sinh ra. Vật chất làm ra sự sống và sự sống làm ra trí tuệ nhưng bây giờ khoa học lượng tử (quantum science) không còn thấy đất là vật chất nữa. Có những nhà khoa học nói rằng: “Ý niệm trước đây của chúng ta về vật chất là một sai lầm.” Người ta đã khám phá ra rằng vật chất là năng lượng, nó là những đợt sóng và chính tâm thức của mình cũng là năng lượng, là những đợt sóng. Tâm thức có sức mạnh rất to lớn.

Nhà bác học Albert Einstein không tin vào một đấng thượng đế đứng trên trời điều khiển và kiểm soát những gì xảy ra dưới mặt đất. Ông nói rằng: “Là một nhà khoa học tôi không tin rằng có một Thượng Đế đứng ở trên kia điều khiển nhân sự dưới này. Nói như vậy không có nghĩa là tôi không cảm động khi nhìn vào vũ trụ.” Ông nói rằng mỗi khi nhìn vào vũ trụ thì ông thấy một sự hòa điệu, một vẻ đẹp tuyệt vời khiến cho ông rung động. Ông nói: “Nếu trong tôi có một cái gì có tính cách tôn giáo thì chính là sự kính ngưỡng và rung động đó. Nếu trong tương lai có một tôn giáo mà mọi người có thể theo được thì đó không phải một tôn giáo thờ phụng một vị thần linh, sáng tạo ra vũ trụ mà đó là một tôn giáo có tính cách vũ trụ, trong đó những gì mình tin phải được chứng thực bởi những xét nghiệm của khoa học.”

Tịnh Độ hiện tiền

Tại Làng Mai chúng ta có thực tập pháp môn Tịnh Độ nhưng đối với chúng ta thì Tịnh Độ là Tịnh Độ bây giờ và ở đây. Tịnh Độ là trái đất vì khi ta lấy kính viễn vọng để soi chiếu thì chúng ta chưa tìm thấy được ở đâu một tinh cầu đẹp đẽ như trái đất, thế nên chúng ta không dại gì bỏ trái đất để đi tìm một Tịnh Độ vu vơ nào đó ở nơi khác mà chúng ta không biết có thật hay không. Tịnh Độ của Làng Mai là bây giờ và ở đây. Nếu mình biết thở, biết đi thiền hành, thì mỗi hơi thở và bước chân như vậy đem mình về với giây phút hiện tại để khám phá ra bao điều kỳ diệu. Chánh niệm là ý thức mình đang có mặt để biết những gì đang xảy ra trong ta và xung quanh ta, đó là Tịnh Độ Hiện Tiền. Nói rằng Tịnh Độ Hiện Tiền nằm ngay trên trái đất thì khoa học có thể chấp nhận được. Không ai có thể phủ nhận điều đó.

Chúng ta là một mầu nhiệm và tất cả những gì bao quanh chúng ta đều là mầu nhiệm. Những mầu nhiệm đó là do đất Mẹ sinh ra. Chúng ta đều là con của Mẹ. Các vị Bụt, các vị Bồ Tát cũng là con của trái đất. Chúng ta ai cũng có một bà mẹ đã sinh ra ta thì người mẹ ấy cũng là con của trái đất, chúng ta có một người cha sinh ra ta thì người cha ấy cũng là con của trái đất. Chúng ta có một vị thầy thì vị thầy ấy cũng là con của trái đất. Chúng ta có một vị Bụt thì vị Bụt ấy cũng là con của trái đất. Vì vậy chúng ta phải công nhận trái đất là người mẹ chung của chúng ta. Đó là Bồ Tát Thanh Lương Địa, một vị Bồ Tát rất xinh đẹp và mầu nhiệm.

Mỗi khi lao đao, hốt hoảng, buồn khổ chúng ta có thể trở về tiếp xúc với đất Mẹ, đất Mẹ sẽ ôm lấy và truyền lại năng lượng cho chúng ta. Nếu chúng ta quán chiếu cho giỏi thì chúng ta sẽ vượt thoát được sinh tử, chúng ta sẽ không bao giờ chết. Khi quán chiếu thì chúng ta sẽ thấy đất Mẹ ở trong ta và có ta trong Mẹ. Nếu Mẹ là vô sinh bất diệt thì ta cũng là vô sinh bất diệt. Chúng ta từ Mẹ mà được biểu hiện ra, rồi chúng ta sẽ trở về với Mẹ, sau đó Mẹ lại đưa chúng ta ra đời trở lại nên không có gì phải lo sợ. Quay về nương tựa trái đất là một pháp môn rất thích hợp với Phật giáo. Albert Einstein cũng nói rằng nếu có một tôn giáo có thể đóng vai trò một tôn giáo vũ trụ căn cứ trên những bằng chứng xác thực có thể đi đôi với khoa học thì đó là đạo Bụt.

Ở Làng Mai có một bài kinh mới: “Kinh ca tụng Đất Mẹ”. Bài này không những Phật tử mà cả những người không phải Phật tử cũng có thể tiếp nhận được và thấy đây là một sự thật. Khi quán chiếu ta thấy đất Mẹ có trong ta và ta có trong đất Mẹ. Ta phải thay đổi cách sống thì mới cứu được bà mẹ của chúng ta.

Có một vị vua như thế

Ở Việt Nam có phái thiền Trúc Lâm, nguồn gốc từ núi Yên Tử. Vị Tổ đầu tiên là Trúc Lâm Đại Sĩ, tức là Vua Trần Nhân Tông. Sau khi đánh tan quân xâm lăng phương Bắc, vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử xuất gia, Ngài từng du hành qua rất nhiều nơi trên đất nước để gặp gỡ dân chúng. Nhà vua đi chân đất viếng thăm các miền quê để khuyên dân bỏ những tục lệ mê tín dị đoan quay về thực tập theo chánh pháp. Dân chúng biết vị xuất gia này trước đây là vua của mình nên rất cung kính và hết lòng nghe lời. Trong lúc vua con làm chính trị thì vua cha làm đạo đức. Hai cha con phụng sự đất nước bằng hai cách khác nhau. Đó là thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam, nhân dân sống có đạo đức nên đất nước được thái bình hạnh phúc.

Nếu vị nào đã đọc sử Việt Nam hoặc đọc cuốn “Am Mây Ngủ” thì đã biết rằng vua Trần Nhân Tông có một cô công chúa tên là Huyền Trân. Để giải quyết tranh chấp biên giới với nước Chàm, vua đã đi bộ sang làm thượng khách của vua Chàm và đã hứa gả con gái cho vua Chàm. Khi ấy công chúa mới có 14 tuổi.

Hồi đó trong triều có một vị quan rất giỏi về văn học tên là Lý Đạo Tái có tài ngoại giao và ứng đối rất giỏi nhờ văn chương lỗi lạc của mình. Lý Đạo Tái làm quan được hai ba năm thì đi xuất gia làm đệ tử của thầy Bảo Phác với pháp hiệu là Huyền Quang. Thầy Bảo Phác cũng là đệ tử của vua Trần Nhân Tông. Thầy rất yêu quý Huyền Quang, đi đâu cũng cho đi. Một hôm thầy Bảo Phác cho thầy Huyền Quang cùng đi theo mình nghe vua Trần Nhân Tông giảng pháp. Nhà vua nhận ra thầy Huyền Quang trước đây là Lý Đạo Tái nên đã đề nghị thầy Bảo Phác cho Huyền Quang ở lại để vua nhờ biên tập những kinh điển và tác phẩm mà vua muốn để lại cho hậu thế, nhờ vậy thiền sư Huyền Quang được ở lại với vua Trần Nhân Tông, sau này trở thành tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm.

Thiền sư mê hoa cúc

Về già thầy Huyền Quang lên an dưỡng ở Côn Sơn. Lúc ấy thầy đã 77 tuổi. Thầy không thích đi giảng dạy trong dân chúng mà chỉ thích giảng dạy cho người xuất gia. Có lúc hàng ngàn tu sĩ tới theo học với thầy. Thầy Huyền Quang rất yêu hoa cúc. Ngày xưa thầy Huyền Quang trồng nhiều hoa cúc tại Côn Sơn. Trong lịch sử văn chương có những người thích hoa lan, có người thích hoa mai, có người thích trúc, v.v… nhưng thầy Huyền Quang thì lại thích hoa cúc hơn cả. Thiền sư Huyền Quang có làm một bài thơ về hoa cúc. Ông nói tuổi lớn rồi không thấy có gì hấp dẫn hết. Ngoài thì giờ ngồi thiền, tụng kinh, thổi sáo, đi chơi thì thầy trồng cúc, trồng khắp nơi, sân trước, sân sau, trên lầu, dưới lầu. Sau mỗi buổi ngồi thiền, việc đầu tiên là ra thăm vườn cúc. Mỗi khi nghĩ tới cúc là trong lòng ông rộn ràng như khi nghĩ tới người yêu vậy.

Đường nhà Tưởng Hũ tre reo gió

Vườn cảnh Tây Hồ đẹp nét mai

Nghĩa khí chẳng đồng tình chẳng hợp

Cúc hoa nở sáng khắp vườn ai

Ngàn sông không đủ thấm lòng già

Bách vịnh mai hoa vẫn kém xa

Đầu bạc ngâm hoài vần chưa ổn

Thấy hoa cúc nở rộn lòng ta.

Quên thân, quên thế, thảy đều quên

Thiền tọa giờ lâu, lạnh thấm giường

Trong núi năm tàn, không có lịch

Thấy hoa cúc nở biết Trùng dương.

Năm năm nở đúng tiết thu qua

Gió dịu trăng thanh ý mặn mà

Cười kẻ không hay hoa huyền diệu

Khi về mái tóc giắt đầy hoa.

Người ở trên lầu, hoa dưới sân

Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông

Hồn nhiên người với hoa thành một

Một đóa hoa vàng chợt nở tung.

Phương phi xuân sắc, trắng hay vàng

Thời tiết tùy loại, hợp sắc hương

Khi mọi loài hoa rơi chật đất

Dậu Đông, hoa Cúc vẫn chưa tàn.

I am in love

Tôi cũng hơi giống thầy Huyền Quang ở điểm là rất yêu hoa cúc. Tuổi của tôi bây giờ lớn hơn tuổi của thầy Huyền Quang, nhưng đọc bài thơ này tôi thấy rất hợp ý. Có những lúc trên Xóm Thượng, hay khi ở Phương Khê, làm việc một hồi chợt nhớ tới ở ngoài kia có trăng, có trúc, có con đường thiền hành thì trong lòng rộn lên, tôi đặt bút xuống, choàng áo và đi ra ngoài. Giây phút ấy đem lại cho tôi rất nhiều hạnh phúc. Mỗi buổi sáng thức dậy, sau khi rửa mặt, mặc áo khoác lên rồi đi bộ từ thất Ngồi Yên lên thiền đường, mỗi bước chân như vậy giúp mình tiếp xúc với thiên nhiên, trăng sao, cây cối, hạnh phúc vô cùng. Tôi có viết một bức thư pháp: “I am in love with  Mother Earth”. Giống như một chàng trai trẻ khi nghĩ tới người yêu thì lòng rộn ràng lên, tôi cũng vậy, tôi đầu tư vào trái đất. Bồ Tát Thanh Lương Đại Địa đã đem đến cho tôi biết bao hạnh phúc. Đầu tư vào vị đại Bồ Tát này là chắc ăn nhất.

Chúc các vị trong tăng thân một năm mới đầy bình an và hạnh phúc.

Thả bước đi về

Năm nay, sinh nhật cây Hồ Đào tròn mười tuổi thì tôi, cũng đã theo Thầy và tăng thân tu tập được mười năm (tôi qua Làng trước một ngày xuất gia của các sư em cây Hồ Đào). Mười năm. Nhanh quá!

Tôi vẫn còn nhớ những ngày sắp rời chùa để sang Làng tu học, một số rất ít người biết tôi nghỉ học đã thắc mắc rằng tại sao tôi lại bỏ học ngang mà đi như vậy và khuyên tôi nên tiếp tục học cho xong khóa Phật học viện. Nhưng khi biết tôi đã quyết định đi thì mọi người chỉ biết lắc đầu, thở dài buông một câu “thiệt không thể hiểu nỗi…” Thật sự thì tôi đâu có bỏ học nửa chừng, tôi chỉ thay đổi cách học thôi mà. Nhưng tại sao tôi phải thay đổi cách học. Mỗi người có một cách nhận xét về tôi.

Tâm Ban Đầu

Mọi cái bắt đầu thật đẹp!

Bước vào một cuộc sống mới, cuộc sống của một người xuất sĩ với những ngày đầu, mọi cái đối với tôi thật đơn giản. Thời gian đầu ấy, hầu như tôi không biết đến nhu cầu cá nhân là gì ngoài việc học kinh, tụng kinh, làm những gì sư phụ chỉ bảo và đến trường. Tôi rời nhà vì mục đích muốn trở thành người tu và khi được chấp nhận ở chùa, chỉ cần được tu thôi, tôi thấy mình may mắn lắm rồi. Thức khuya dậy sớm tụng kinh, chấp lao phục dịch, bị quở phạt, v.v.. tôi không thấy có gì phiền hà cả. Tâm phán xét, buộc tội, so sánh hơn thua, thị phi nhân ngã… đã bị sức mạnh của Bồ đề tâm quy phục. Cho đến khi tôi được đi học và tiếp xúc với bên ngoài.

Ước mơ của người trẻ

Thả bước đi về.1Mười năm về trước, tôi là một tu sĩ trẻ và bây giờ tôi vẫn thấy mình còn trẻ như thường mặc dù các sư em tôi thường ưa đùa nghịch đã liệt tôi vào “Hội người cao tuổi” (so với các sư em nhỏ thôi). Những người trẻ thường có nhiều ước mơ và hoài bão lắm. Cũng như những người trẻ, thuở còn là ni sinh của trường Phật học (cách gọi các sư cô còn đi học), tôi cũng có những ước mơ như hầu hết các bạn đồng tu: Làm một điều gì đó có ích cho mình, cho đạo và cho xã hội. Và lúc ước mơ trong mình đã đủ lớn thì ước muốn thực hiện ước mơ trong mình cũng lớn lên theo.

Những lúc thay giờ đổi tiết học, chúng tôi thường có những buổi “đàm đạo hành lang”, nói lên ước mơ của từng người và đưa ra những mục đích của mình cũng như dự tính đến những điều sẽ làm sau khi tốt nghiệp các khóa học. Người thì muốn đăng ký học thêm lớp dịch thuật kinh điển, người thì muốn ra trường nếu được đề cử thì đi dạy ở trường Cơ bản hay Trung cấp Phật học, người thì muốn tiếp tục du học, lấy bằng thạc sĩ hay tiến sĩ Phật học hoặc đăng ký tiếp một khóa học nào đó, ngôn ngữ chẳng hạn; nhưng cũng có người thì không muốn chi cả, sau khi tốt nghiệp thì về chùa tu tập thôi. Còn riêng tôi, khi được hỏi như vậy thì tôi đã hỏi lại các bạn tôi rằng: “Nếu chỉ còn hai năm để sống thì nên chọn học tiếp hay trở về tu thôi?” (vì chúng tôi còn hai năm học nữa mới tốt nghiệp) Bạn tôi chọn phương pháp hai: “Trở về tu thôi!” Và cuộc đời của tôi chuyển hướng bắt đầu từ câu trả lời ấy. Đó là thời gian chúng tôi đang học lớp Học viện Phật giáo tại Huế (Cử nhân Phật học).

Học

Tôi đi tu lúc còn nhỏ nên khi vào chùa phải đi học một lần hai chương trình vừa Nội điển vừa Ngoại điển. Huế cái thời tôi, nếu muốn được trình Điệu (tập sự) thì phải có bằng cấp Hai (lớp 9) và muốn thọ giới Lớn phải tốt nghiệp phổ thông Trung học (lớp 12). Sau này còn có một điều lệ mới là muốn thọ giới Lớn thì phải có bằng Trung cấp Phật học, điều này tôi mới được biết cách đây ba năm khi tôi trở về sống ở Huế. Chùa tôi làm ruộng và làm rẫy. Đi học về, tôi tranh thủ cùng các chị em ra vườn hay làm vườn xong thì tôi tranh thủ vào học bài. Thường thì tôi học bài trong khi làm việc hoặc trên đường tới trường. Tôi thường viết bài ra giấy, có khi còn viết ở tay. Ngồi se nhang, quét sân, tưới cây, cuốc đất hay đạp xe tới trường tôi đều tranh thủ học bài. Mọi thời gian hầu như tôi chỉ dành cho việc học và gần như quên hết những gì xung quanh.

Tôi cũng biết yêu thích thiên nhiên, vẫn thấy trăng đẹp, gió mát, vẫn rung động trước cái đẹp của một bông hoa đang nở, v.v.. nhưng tôi gần như không có đủ thời gian để thưởng thức, để nhìn sâu vào mọi sự mọi vật. Ngay cả những khó khăn của tôi, tôi cũng phớt lờ nó vì lý do không có đủ thời gian học bài, đó là do tôi thấy vậy thôi. Việc học đã kéo tôi ra khỏi đời sống hiện tại. Tôi, một người tu sĩ trẻ thời đó, một ngày hai thời kinh sáng tối, đi học và làm việc chùa.

Tuổi trẻ của tôi đi qua với các chương trình học: Chưa xong chương trình phổ thông Trung học lại thi vào các khóa Cơ bản Phật học, Trung cấp Phật học, Học viện Phật giáo. Chưa đủ, trong lúc học các chương trình ở trường, một vài chị em chúng tôi còn rủ nhau đăng ký một chương trình Phật học hàm thụ bốn năm trên Nguyệt san Giác Ngộ hay những môn học thêm vào buổi tối. Thời gian cứ thế đi qua, tôi không có mặt cho Thầy, huynh đệ và những gì xung quanh tôi đã đành, ngay cả chính tôi, tôi cũng không có mặt cho chính mình. Tôi bỏ bê việc tự chăm sóc mình cho đàng hoàng, có những lúc tôi chỉ ăn qua loa tô mì gói hoặc nhịn đói để kịp giờ đi học.

Ở đời, người ta vì danh lợi, vì công ăn việc làm, vì chưa có cơ hội học hỏi và thực tập những lời Bụt dạy nên họ chạy theo cái học, cái bằng cấp đã đành. Còn tôi, một người xuất sĩ, trên danh nghĩa là “thường niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp” (luôn luôn nhớ nghĩ đến phép tri túc, an vui với đời đạm bạc để hành đạo và xem sự nghiệp duy nhất của mình là sự thực hiện trí tuệ và giác ngộ), ấy vậy mà tôi đã để cho cái học lôi kéo.

Tôi cứ tưởng cần có trí tuệ thì phải học nhiều thứ. Tôi đã hiểu sai lời Bụt dạy. Cái tuệ mà Bụt dạy là cái tuệ giác, tuệ giác tức là sự giác ngộ do công phu tu học, do sự quán chiếu về bản chất của những gì xảy ra xung quanh và bên trong mình mà đưa đến cái “Thấy”. Cái thấy ấy là tuệ giác của đạo Bụt, là sự nghiệp của người tu, sự nghiệp giác ngộ. Những gì tôi đã học ở trường chỉ là kiến thức, kiến thức và tuệ giác không giống nhau chút nào, bởi kiến thức thật sự không giúp tôi xử lý được những cảm thọ và khó khăn trong tôi, dù là kiến thức Phật giáo.

Con người cần có kiến thức để giúp cho sự hiểu biết thêm rộng rãi. Kiến thức không có hại, không xấu xa, nhưng nếu không áp dụng cái hiểu của mình để quán chiếu vào những đối tượng nhận thức, để giúp mình xử lý những cảm thọ, tri giác, những khó khăn đến với mình thì kiến thức ấy cũng không giúp gì cho sự nghiệp giác ngộ mà ngược lại, nó trở thành một chướng ngại rất lớn trong sự tu học của mình. Chữ giác ngộ mà tôi muốn nói ở đây là khả năng nhận ra các nguyên nhân đưa đến những khó khăn và trở về thực tập chuyển hóa chúng để lòng mình được thư thái nhẹ nhàng.

Có những lúc tôi cảm thấy mệt mỏi bởi suốt ngày đêm vừa học vừa làm. Đầu óc tôi có lúc căng lên và muốn nổ tung ra, nhất là trong những kỳ thi cử xảy ra với thời điểm vụ mùa, Tết đến. Có lúc tôi tự hỏi ai đã bắt tôi phải trở thành một người bận rộn như vậy, và rồi câu hỏi vẫn bị bỏ qua một bên và tôi, tôi vẫn đi tiếp về phía học. Tôi chưa bao giờ chán học, kể cả bây giờ. Mọi chuyện học hành của tôi khá thuận. Thầy và huynh đệ luôn yểm trợ cho việc học của tôi, nhất là khi tôi đã thọ giới Lớn và vào Phật học viện thì ít phải làm việc tay chân. Nhưng không vì vậy mà áp lực của việc học trong tôi giảm bớt, tôi vẫn thấy con đường tu học của mình quá mơ hồ và thấy thiếu thiếu một cái gì đó chưa rõ ràng lắm.

Một buổi tối, đến phiên tôi lên chánh điện (ngủ để giữ chùa), tôi ra trước chánh điện ngồi học bài dưới ánh sáng của cây đèn Dược Sư. Ngước nhìn lên tượng đức Bổn Sư, tôi thấy vòng hào quang cứ chớp liên tục với những đường tia đủ màu sắc. Tôi không thấy đẹp chút nào, có lẽ do thức khuya nên khi nhìn một hồi tôi bỗng thấy hoa mắt. Tôi đứng dậy và đi đến cái công tắc điện, tắt đèn hào quang và trở lại vị trí cũ. Bức tường phía sau tượng Ngài được làm bằng gỗ mun đã trở lại nguyên màu. Ngài ngồi đó bình an với nụ cười hàm tiếu, nhìn lên tượng Bụt, tôi bỗng thấy lòng mình nhẹ nhõm vô cùng. Tôi nhìn lại việc học của tôi và tự hỏi có phải nó cũng là một vòng hào quang giả đang xoay chuyển ngày đêm không ngừng và làm cho tôi chóng mặt, mệt mỏi? Tại sao tôi chưa chịu tìm đến cái công tắc của tôi? Tại sao tôi chưa chịu bấm nút “dừng lại” mà cứ để cho nó xoay vần hoài vậy?

Ngồi nhìn lại những năm tháng đi qua trong cuộc đời tu của mình, tôi bỗng thấy mình quá bận rộn. Tôi chưa bao giờ có mặt thật sự mỗi khi các sư em tôi đến với tôi. Và tôi, tôi cũng chưa bao giờ tìm tới với các sư chị tôi để chia sẻ những gì trong lòng mình. Mọi khó khăn gặp phải trong cuộc sống tôi đều chôn vùi nó xuống dưới chiều sâu tâm thức, nói rõ hơn là tôi chưa mở lòng ra được với các huynh đệ của tôi. Nhìn lại kết quả của những năm tháng tu học, tôi thấy lòng mình trống rỗng.

Tôi thấy mình trống rỗng là bởi những khó khăn đến với tôi, tôi không có cơ hội nhìn lại để tìm ra nguyên nhân của chúng, để chuyển hóa cho lòng mình được nhẹ nhàng hơn mà thường thì tôi đổ lỗi cho người này người kia. Không chia sẻ ra được nhưng cũng không tự mình chuyển hóa những khó khăn nên mọi chuyện tồn đọng lâu ngày đã khiến tôi trở nên bệnh hoạn. Và, Bụt ơi! Cái tôi cảm thấy thiếu thiếu ấy là sự thảnh thơi và cuộc sống nhẹ nhàng của một người xuất sĩ.


Những người chưa hiểu Bụt đã tự gắn cho Ngài vòng hào quang đã đành. Còn tôi, tôi cũng chưa hiểu tôi và tự đi gắn cho mình một vòng hào quang giả mới tội nghiệp chứ. Ai bắt tôi phải học cái kiểu này? Ước mơ được sống một cuộc sống nhẹ nhàng, thảnh thơi vẫn còn đây, tại sao tôi không bắt đầu, tôi còn đợi đến bao giờ? (Thời gian này tôi đã tự thực tập theo pháp môn của Làng do quý thầy quý sư cô giáo thọ về hướng dẫn ở chùa Từ Hiếu).

Tự hỏi mình nhưng mọi cái không đơn giản, để thực hiện những ước mơ mà mình ấp ủ đôi lúc không dễ dàng chút nào, có khi phải đánh đổi rất nhiều thứ. Và tôi đã phải đánh đổi thật.

Thời gian này sức khỏe của Sư Bà tôi khá yếu. Hôm trước ngày đi, tôi ra liêu ở chơi và ngủ lại đêm với Sư Bà và đó cũng là những giờ phút cuối cùng Thầy trò tôi được ở bên nhau (tôi qua Làng được một năm rưỡi thì Thầy tôi viên tịch). Tình Thầy trò mười mấy năm sống bên nhau, nay tôi lại rời Thầy ra đi theo sự lựa chọn của riêng mình trong lúc sức khỏe Thầy đang xuống, nước mắt tôi như chực trào ra. Linh cảm như báo trước cho tôi biết lần ra đi này rất có thể tôi sẽ không còn cơ hội được ngồi bên Thầy trong ngày trở lại. Nhưng tôi không thể muốn một lần được cả hai cái, hoặc tôi sẽ ra đi theo sự lựa chọn con đường tôi đã quyết và phải xa Thầy, hoặc tôi ở lại bên Thầy và vẫn tiếp tục đi học và buông thả mọi thứ như lâu nay. Ở lại bên Thầy, tôi có giúp được gì cho Thầy và cho tôi? Cuối cùng thì tôi cũng ra đi, vậy đó mà bây giờ đã mười năm trôi qua kể từ khi tôi đến Làng.

Khi biết tôi đang tu học theo pháp môn Làng Mai, nhiều người đến nói với tôi, rằng tu theo Làng Mai khỏe thiệt, khỏi phải học hành chi hết, chỉ thở và cười thôi. Nghe vậy tôi chỉ “thở và cười thôi” mà không nói. Cái “thở và cười thôi” ấy, có ai biết là tôi đã thực tập nhiều lắm mới áp dụng được trong những trường hợp như vậy. “Đến để mà thấy, tự mình thông đạt…” Bụt đã dạy như vậy và tôi cũng đang làm chuyện đó.

Mùa Đông, mùa Thầy trò chúng tôi được ở yên với nhau suốt ba tháng An cư mà không có ai ra ngoài để hướng dẫn những khóa tu. Trong ba tháng đó, Thầy trò chúng tôi trở về, cùng nghiên cứu và học hỏi, thực tập những lời Bụt dạy. Thầy là người nghiên cứu và thực tập trước, sau đó đem ra hướng dẫn lại cho chúng tôi. Sau khi được Thầy hướng dẫn, giảng giải xong, chúng tôi về phòng tiếp tục “nghiên cứu” và quán chiếu lại lời Bụt, lời Thầy dạy rồi đem áp dụng vào đời sống của mình.

Tôi không biết là mình đã được học bao nhiêu kinh luận từ Thầy, phải nói là học nhiều hơn ở trường tôi trước đây nhiều lắm nhưng cách học ở đây rất khác. Trong các trường Phật học mà tôi đã từng học trước đây, theo chương trình của từng niên khóa, chúng tôi được học các kinh luận và nhiều môn học khác mà ban Giám hiệu trường đưa ra, ban Giảng huấn và tăng ni sinh chỉ việc làm theo. Một học kỳ có khi có đến mười mấy môn học. Phần nhiều chúng tôi không học hết các kinh hay các môn học khác trọn vẹn trong một học kỳ, nhưng vẫn làm bài kiểm tra, thi cử và khép lại bài kinh đang học nửa chừng để qua học kỳ kế tiếp với một bài kinh hay một môn học khác. Có những môn học, ban Giám hiệu phải mời các giáo sư ở tận Sài Gòn như giáo sư Trần Tuấn Mẫn, hay ở nước ngoài về như cô Thái Kim Lan ở Đức. Trong thời gian đó, những môn học khác được dừng lại để nhường giờ, ưu tiên cho các giáo sư ở xa về dạy. Có khi chúng tôi học một môn suốt hơn cả tuần mỗi ngày, sau đó thì làm bài thi hay tiểu luận và vị giáo sư, sau khi đã nhận bài của tăng ni xong thì lên đường bay về trú xứ của mình, chấm dứt một môn học.

Tôi rất thích cách học này và tôi thầm cảm ơn ban Giám hiệu đã có những môn học như vậy. Học cái gì ra cái đó và khi học như vậy, tôi thấy mình đi sâu hơn vào nội dung của môn học ấy mà không bị phân tán bởi phải học một lúc quá nhiều thứ. Nhưng nếu không biết cách học, không nhìn sâu vào môn học để hiểu và áp dụng môn học ấy vào sự thực tập trong đời sống của mình, để giúp thay đổi tình trạng mà chỉ học cho có học, học để thi cử thì sau khi các giáo sư rời lớp rồi thì môn học ấy cũng sẽ rời mình đi luôn. Tôi rất thích học các kinh đại thừa và ở trường đã có dạy, ví dụ như Kinh Kim Cương mang tư tưởng của giáo lý về vô tướng, vô trụ.

Khi hướng dẫn kinh này, các vị giáo thọ đã trình bày về tư tưởng của kinh, cắt nghĩa về câu, về ý rất hay và tôi rất thích (vì học kinh bằng chữ Hán), nhưng nếu có thì giờ để hướng dẫn thêm cho tăng ni biết cách áp dụng những lời Bụt dạy vào đời sống hàng ngày của người xuất gia một cách thực tế thì rất quý cho chúng tôi. Tôi nghĩ nếu sau khi được nghe giảng, tăng ni sinh viên có giờ để thảo luận, để chia sẻ và đi sâu về những gì đã học để áp dụng vào đời sống của mình thì rất hay, điều này tôi mới thấy sau này. Mười năm rồi, không biết bây giờ ban Giám hiệu đã thay đổi cách dạy mới hay chưa?

Ở Làng Thầy chúng tôi cũng dạy nhiều môn lắm. Tôi không phải học một lần nhiều môn mà học từ từ, học nhẹ nhàng hết môn này đến môn khác. Học hết tháng này đến năm nọ và không phải thi cử để lấy điểm hay xếp thứ hạng và cũng không phải tốt nghiệp chi cả. Làng Mai là một trường đại học bách khoa không bao giờ tốt nghiệp, chúng tôi thường đùa với nhau như vậy. Cứ sau khi Thầy dạy, chúng tôi “cả lớp học” gồm cả cư sĩ và xuất sĩ đều có thì giờ ngồi chung với nhau, chia sẻ cái hiểu và sự áp dụng lời dạy của Thầy vào đời sống của mình, gọi là giờ pháp đàm.

Chúng tôi ai cũng có quyền chia sẻ, được mời chia sẻ về sự thực tập của mình, cách áp dụng những lời dạy của Bụt, của Thầy vào đời sống hằng ngày của mình mà không phô bày kiến thức. Tất cả mọi người cùng ngồi đó, có mặt để lắng nghe nhau trong tinh thần cởi mở và đón nhận mà không có sự so sánh hay – dở, không phán xét. Sau khi lắng nghe nhau, chúng tôi có cơ hội hiểu nhau hơn, biết được người kia đang thực tập ra sao để học hỏi kinh nghiệm tự thân cũng như yểm trợ nhau trong sự tu học.

Ngoài những Kinh Luận dạy chung cho hai giới xuất sĩ và cư sĩ, trong ngày xuất sĩ ở Nội viện Phương Khê, Thầy còn dạy cho chúng tôi những kinh mà Bụt từng dạy riêng cho người xuất sĩ. Những lúc đó tôi có cảm giác như Thầy đang đóng vai trò của một nhà phẫu thuật đang giải phẫu cho chúng tôi. Thầy chỉ cho chúng tôi thấy những khối u trong thân tâm, nguyên nhân đưa tới khối u và phương pháp cắt bỏ những khối u ấy để không làm ảnh hưởng tới những tế bào khác. Nếu có làm bài thì chúng tôi làm bằng cách viết thư cho Thầy, chia sẻ sự thực tập của mình. Chỗ nào chúng tôi chưa hiểu để thực tập thì thỉnh Thầy dạy thêm.

Khi đọc thư của đệ tử, Thầy biết được người này đang kẹt ở điểm nào và kịp thời tháo gỡ cho chúng tôi bằng cách cho pháp thoại, nhờ vậy nên chúng tôi được Thầy tháo gỡ những gút mắc trong tâm rất nhiều. Ngày xưa Bụt cũng đã từng làm như vậy với đệ tử của Ngài, và những bài kinh đó được gọi là thể loại Nhân duyên. Có khi thì Thầy cho chúng tôi làm bài tập, tùy theo sự thực tập của từng người mà Thầy cho đề tài để quán chiếu. Khi làm bài ở lớp, tôi chỉ cần nắm được nội dung của bài, chỉ cần học thuộc lòng là làm bài thôi. Nhưng bài tập của Thầy tôi thì không đơn giản như vậy, nếu không thực tập, không quán chiếu, nhìn sâu vào những gì bên trong và bên ngoài mình, không áp dụng sự thực tập vào đời sống của mình để chuyển hóa thì không thể làm bài được.

Đọc bài của đệ tử, Thầy biết liền người này có thực tập thiệt hay là chỉ nói lý thuyết. Trước đây tôi làm bài nghiêng về kiến thức, bây chừ tôi làm bài theo hướng kiến giải, tôi thấy thực tế hơn cho tôi nhiều. Thầy cũng là một nhà văn, nhà thơ nên chúng tôi cũng được Thầy dạy cho cách làm câu đối, thi kệ hay cách viết văn trong tinh thần thực tập. Ngày trước tôi viết bài để chấm điểm, để chứng minh, bình luận và so sánh giữa cái này và cái kia, kinh này và kinh khác, bây giờ tôi cũng viết nhưng cách viết khác hơn nhiều.

Thầy đã dạy cho chúng tôi rằng: “Khi viết là giúp mình quán chiếu về chính mình trong quá trình tu học và để hiến tặng cho mọi người những cái thấy của mình. Cái thấy thì không bao giờ giống nhau, tùy theo mức độ của sự thực tập và quán chiếu, bây giờ viết chưa hay nhưng thực tập lâu ngày thì có thể mình sẽ viết hay hơn. Vì vậy mình không cần mặc cảm là mình viết văn dở, câu cú chưa hay mà chỉ cần viết thật, chia sẻ thật là hay lắm rồi.” Tôi thấy đúng như vậy, nếu sau này tôi viết về chuyện tu học của tôi, chắc chắn tôi sẽ viết khác hơn bây giờ. Với những môn học ngoài, tăng thân cũng có mời những nhà khoa học như ông Trịnh Xuân Thuận về Làng, chia sẻ về vấn đề khoa học, vũ trụ và con người cũng như trao đổi với nhau giữa những cái thấy của nhà khoa học và nhà Đạo học để giúp nhau chăm sóc đất Mẹ.

Làng là trung tâm tu học quốc tế nên chúng tôi cũng có cơ hội học hỏi, thừa hưởng được rất nhiều về các truyền thống tôn giáo khác hay văn hóa của các nước, những môn nghệ thuật từ các thiền sinh về Làng tu tập. Ngoài học với Thầy ra, tôi còn học từ các sư anh, sư chị và sư em của tôi nữa. Tôi học cách sống, cách hành xử, cách nói năng, cách đi, cách đứng, cách đóng góp ý kiến của mỗi người trong chúng. Mỗi người là một bài pháp thoại sống không lời, một kinh nghiệm sống không mang tính chất lý thuyết, một viên ngọc quý không cần quảng cáo chất lượng bởi tất cả đều đang là mình, chính mình.

Học là một nghệ thuật, một sự thưởng thức, là đón nhận nguồn tuệ giác của Bụt và của những người đi trước để biết cái nào nên hay không nên áp dụng vào đời sống tu tập của mình. Học cũng là cách giúp tôi tiếp xúc với Bụt, với Tổ, với Thầy, với huynh đệ và với chính mình. Bụt vì muốn mình biết cách để thực tập nên mới dạy cho mình những phương pháp trở về quán chiếu, nhìn sâu vào chính mình để chuyển hóa những khổ đau và sống nhẹ nhàng. Vậy đó mà tôi đã đem cái tâm chất chứa lời Bụt dạy để làm vốn liếng cho mình. Việc học đâu phải là xấu xa tội lỗi, chỉ vì tôi chưa biết cách học cho có nghệ thuật nên mới thấy mình đầy ắp và mệt mỏi đấy thôi. Tội và oan cho Bụt, cho quý Ngài quá! Cầu cho mọi người đừng ai học kiểu như tôi trước đây nữa.

Tu

Học, tu, làm việc và chơi là bốn điểm cần có trong sinh hoạt của con người. Thầy không chỉ dạy kinh luật cho chúng tôi mà còn dạy cho chúng tôi về nghệ thuật sống, đó là phải biết cân bằng bốn điểm trên vào cuộc sống của mình. Tu là một nghệ thuật, học là một nghệ thuật, làm việc là một nghệ thuật và chơi cũng là một nghệ thuật. Những gì tôi đã chia sẻ trên cho biết rằng trước đây tôi là người chưa biết nghệ thuật sống. Đúng thôi, học không có nghệ thuật thì tu, chơi và làm việc cũng không có nghệ thuật là điều đương nhiên.

Nghe nói tôi sang Pháp tu học, nhiều người nghĩ rằng chắc tôi đi học một chương trình gì đặc biệt lắm, mới lạ lắm và cao siêu lắm, ít nhất thì cũng biết nói tiếng Pháp. Làm như ở Việt Nam không có các trung tâm dạy tiếng Pháp nên tôi phải sang tận Pháp để học ngôn ngữ. Và khi nghe tôi nói sang đây để học cách làm mới lại chính tôi thì mọi người nghe có vẻ như tôi đang đùa với họ vậy.

Tôi có cảm giác như mình là một “trung tâm sản xuất tri giác sai lầm.” Đi tu, tôi cứ nghĩ tu là phải tụng kinh cho nhiều, lạy sám hối cho nhiều, cầu nguyện cho nhiều, làm việc cho nhiều và học cho nhiều thì mới gọi là tu. Tu là không được chơi, chơi là có tội. Vì vậy tôi đã cố gắng để làm những điều như mình nghĩ. Tôi đã làm với hình thức nhiều hơn là nội dung và có khi là sợ hơn là muốn làm, sợ người khác nói mình tu mà giải đãi. Có những lúc tụng xong một thời kinh, tôi về phòng nằm dài và cảm thấy như mình không thể thở tiếp được vì “muốn đứt hơi”. Tôi đã coi trọng số lượng mà không biết rằng tu tập thì cần phẩm chất hơn. Có khi vừa tụng kinh xuống, thấy mấy điệu làm cái gì không vừa ý, tôi trợn cặp “mắt cua” của mình lên. Tôi cũng là bà Tư mà Thầy thường hay kể, đang ngồi niệm Bụt mà nghe người khác gọi tên mình hoài nên thả mõ, ngưng tụng và ra la cho họ một trận.

Khi đã trở thành người xuất sĩ, tôi cũng đã từng gặp những khó khăn chung và riêng. Tứ Diệu Đế là đề thi khi tôi vào lớp Phật học viện mà tôi đã thuộc nằm lòng, vậy đó mà tôi chẳng biết cách áp dụng vào đời sống hàng ngày của mình. Học về con đường đưa tới diệt khổ mà chẳng biết diệt bằng cách nào. Tôi chưa biết cách tìm ra nguyên nhân của mọi khổ đau, chưa biết mọi thứ đều do bên trong mình mà ra cả, chỉ nhìn những yếu tố bên ngoài và kết tội chúng. Tội nghiệp cho quý Ngài đã đầu tư lầm vào một đứa như tôi. Bây chừ tôi cần phải tu thiệt để chuyển hóa những tri giác sai lầm trong tôi và để đền đáp ân đức của quý Ngài thôi.

Tôi thương Thầy tôi, các sư chị và sư em tôi nhưng tôi chưa biết cách đem lại hạnh phúc cho Thầy và huynh đệ tôi, có lúc vô ý tôi còn làm cho Thầy và huynh đệ tôi buồn nữa là khác. Giai đoạn khó khăn nhất của tôi là thời kỳ Phật giáo ở Huế thiếu sự truyền thông. Ngày khai giảng Trường cơ bản Phật học là ngày mà sau khi về chùa, đêm đó tôi đã khóc rất nhiều. Tôi cảm thấy niềm tin của mình bị lung lay và có lúc tôi cảm thấy chới với, không biết nên tin vào ai vì ai tôi cũng kính, cũng thương như nhau. Tiếp tục làm người xuất gia hay trở về cuộc sống trước đây là một câu hỏi đã dằn vặt tôi trong thời gian ấy, bởi đi đâu tôi cũng nghe nhiều người bàn tán về chuyện phân chia giữa Giáo hội, Tăng đoàn. Nhưng phước đức của tôi vẫn còn nên tôi đã không bỏ cuộc.

Hồi đó dù thương kính quý Ngài nhưng trong tôi vẫn có sự trách móc và đổ lỗi. Tôi đổ lỗi cho những vị lớn đã không chăm sóc cho chúng tôi, những người xuất gia trẻ có được cuộc sống an ổn về mặt tinh thần. Tôi thầm trách quý Ngài đã gieo vào đầu chúng tôi những hạt giống phân biệt, chia rẽ và trách móc.v.v.. Tâm mình đâu phải là cái hố rác, vậy đó mà tự tôi đã đào cho mình một cái hố rác và để cho người khác tha hồ đổ rác xuống rồi tự trở lại trách móc đủ điều. Tôi đã chưa hiểu những khó khăn của các vị lớn, chưa có sự cảm thông và chưa biết cách thực tập nhìn sâu để thấy rõ nguyên nhân của những gì đã xảy ra cho tăng chúng ở Huế.

Trong tôi, hạt giống tội lỗi và mặc cảm đi lên rất nhiều, nhất là mỗi khi thấy một người cư sĩ chắp tay chào mình một cách cung kính, tôi cảm thấy mắc cỡ bởi mình là người tu mà sống thiếu sự hòa hợp. Đôi lúc đạp xe đi học mà tôi không dám ngẩng mặt nhìn lên. Tôi hổ thẹn với tất cả. Tất cả đều do sự thực tập của tôi còn yếu kém. Tôi không trở về nhìn sâu vào tôi để biết được những cảm thọ, những tâm hành đang diễn biến trong mình để ôm ấp và chuyển hóa. Không hiểu mình để cảm thông cho chính mình, chuyển hóa khó khăn của mình thì làm sao tôi hiểu và cảm thông cho người khác được.

Bây giờ, sau những năm thực tập với Thầy và tăng thân, tôi đã có cái nhìn khác hơn. Tôi biết cách trở về nắm lấy hơi thở, có mặt cho những cảm xúc đang đi lên và mỉm cười được với chúng. Khi biết được nguyên nhân có mặt của những cảm thọ, tôi dễ dàng để chuyển hóa chúng hơn. Đến với tăng thân, tôi cũng gặp những khó khăn như chuyện xảy ra ở Bát Nhã. Nhưng tôi không còn trách móc hay đổ lỗi mặc dù có lúc trong tôi cũng phát sinh những tâm niệm không dễ thương và tôi đã kịp thời trở về để chăm sóc những tâm niệm ấy.

Hơi thở là nơi giúp tôi trở về để nhận diện chính mình nhiều nhất và thành công nhất. Tôi thấy được những người đã làm cho tăng thân tôi gặp nhiều khó khăn thì chính họ cũng khổ. Thay vì trách móc và lên án thì chúng tôi nhắc nhau trở về thực tập phát khởi tình thương để gởi đến cho những người đã gây ra khó khăn cho chúng tôi. Nhưng trước khi làm được với người ngoài thì tôi đã thực tập với chính tôi trước. Tôi biết cách ngồi yên để lắng nghe tôi, lắng nghe những tập khí tiêu cực và tích cực với trái tim không phân biệt, không kỳ thị, không chối bỏ mà nghe với trái tim biết thương và chấp nhận những tập khí còn yếu kém vụng về nơi mình.

Ngồi yên là sự thực tập căn bản và rất cần thiết của người tu. Tôi nói người tu vì trong đó có cả hai giới xuất sĩ và cư sĩ, ai có thực tập chuyển hóa thì đó là người tu mà không chỉ cạo đầu và mặc áo tu mới gọi là người tu. Những ai muốn tu thì đều cần ngồi yên. Ngồi yên là một nghệ thuật trong khi tu. Ngày trước khi mới tập ngồi yên, tôi thấy rất khó vì tôi không thấy tâm mình yên gì cả. Tôi vật lộn với những cảm thọ đi lên trong mình nhiều lắm. Thân thì yên mà tâm còn nhiều bão tố.

Thường khi làm việc thì tôi thấy mình không suy nghĩ gì, nhưng khi ngồi yên lại thì bao nhiêu chuyện cứ đi lên trong đầu và tôi có mặc cảm là mình ngồi thiền mà không định tâm. Sự thật thì không phải như vậy. Khi làm việc, tôi tu chưa giỏi nên bị công việc lôi kéo, tôi ham làm việc mà quên theo dõi sự vận hành của tâm mình nên không thấy đó thôi. Nhờ ngồi yên nên mới giúp tôi thấy rõ những gì đang xảy ra trong mình; những cảm thọ, tri giác và tôi cười với những gì đang có mặt mà không cần xua đuổi, mặc cảm tội lỗi hay chạy trốn chúng. Thực tập ngồi yên đã giúp tôi trở về chăm sóc cho tâm tôi được lắng dịu, giúp tôi nhận ra những nguyên nhân của bệnh tật để trị liệu bằng phương pháp buông thư và gởi tình thương đến cho cơ thể, giúp tôi nhận ra được nguyên nhân của những khó khăn để chuyển hóa cho thân tâm được nhẹ nhàng.

Tôi rất thích ví dụ về ly nước táo ở thể bị khuấy động và để lắng yên. Ly nước bị khuấy động thì không phân biệt và thấy được những cặn bã rõ ràng, không thấy được phần nước trong. Chỉ khi nào ly nước được để yên thì những cặn bã mới lắng xuống phía dưới đáy ly và giúp ta nhận ra được những thành phần nằm trong ly nước. Ở Phật học viện tôi học trước đây cũng có giờ thực hành về thiền. Tôi rất thích giờ thiền tập này, mỗi tuần có một giờ thiền học. So với các môn thế học khác thì môn Thiền học có số giờ khiêm tốn nhất, 45 phút trong một tuần vừa học lý thuyết vừa thực hành, trong lúc đó thì các môn học khác đều học tới 90 phút. Có lúc vào ngồi thiền, tôi cảm thấy mình chưa thật sự đi sâu vào hơi thở, chưa làm lắng dịu những lao xao của giờ học trước đó thì đã hết giờ rồi. Tôi không biết có phải các Ngài tâm lý, lo tăng ni sinh trẻ chúng tôi không quen ngồi lâu nên đã bớt giờ thiền thực hành, tôi nghĩ vậy (90% tri giác sai lầm).

Tu là để giúp mình chuyển hóa những tập khí chưa dễ thương của mình và hóa giải những nội kết giữa mình và người khác để đưa tới sự hòa hợp, hòa hợp với chính mình và hòa hợp với mọi người cho cuộc sống nhẹ nhàng hơn, tự do hơn. Vậy đó mà tôi trước đây, không những không hóa giải được nội kết trong chính mình mà còn làm mất hòa hợp giữa mình và người khác nữa chứ. Tội nghiệp Thầy Tổ và huynh đệ tôi, tội nghiệp những người đã gieo hạt giống không đúng chỗ vào thửa ruộng của tôi. Cầu cho mọi người đừng ai tu tập như tôi trước đây nữa.

Làm việc

Quý thầy ở chùa Tổ (Từ Hiếu) và chùa Từ Phong Lan Nhã thường khen chị em chùa tôi làm việc giỏi và nhanh nhẹn (vì chúng tôi hay qua chấp tác giỗ Tổ, đi làm ruộng, đi đốn củi thông với nhau). Ngày trước tôi cũng thấy vui khi được khen như vậy. Tôi làm việc nhanh lắm, sau này thực tập quán chiếu tôi đã nhận ra đó là hạt giống do ba tôi trao truyền, ba tôi làm việc phải nói là “tốc hành”. Tôi làm việc với mục đích là làm cho xong và vì muốn làm cho xong nên tôi đã làm một cách vội vã. Chưa làm xong công việc này tôi đã nghĩ tới công việc khác. Tôi có cảm giác mình như một con lật đật, đi đứng làm việc như bị ma đuổi. Có khi cơ thể tôi mệt nhoài mà tôi vẫn không chịu ngưng công việc, tôi làm gắng cho xong mà công việc thì có bao giờ xong đâu. Việc gì tôi cũng “tranh thủ” và vì tôi muốn làm việc cho nhanh, cho mau xong nên khi người khác làm việc từ từ thì tôi thấy khó chịu và khởi tâm bực bội. Có những lúc vì muốn công việc mau xong nên tôi làm lật đật, kết quả là mọi việc bị đổ vỡ và nó trở thành chậm hơn.

Thời gian đầu mới đến Làng, những tập khí cũ cứ thúc đẩy tôi phải làm việc cho nhanh, đôi lần tôi đã đánh mất sự có mặt của mình trong công việc và để tâm suy nghĩ về chuyện khác. Nhưng tôi biết, tôi đang được sống trong một môi trường mà ai cũng thực tập làm việc thảnh thơi nhẹ nhàng nên thế nào tôi cũng được chuyển hóa. Và tôi đã chuyển hóa thiệt mặc dầu chưa được hoàn toàn 100%.

Tôi thích làm việc trong tinh thần hiến tặng. Ở Làng ai cũng làm việc, dù làm việc bằng tay chân hay làm việc bằng trí óc chúng tôi cũng thực tập với tâm bình đẳng và hiến tặng. Bình đẳng nghĩa là không có sự phân biệt giữa công việc, không có công việc nào quan trọng hơn công việc nào và không có ai quan trọng hơn ai cả. Anh chị em tôi làm việc với nhau rất vui. Vừa rồi tại khóa tu tại Phật học Viện châu Âu ở Đức, tôi làm trong đội rửa nồi.

Hôm ấy là ngày cuối cùng của khóa tu, sau giờ cơm trưa thiền sinh rời học viện. Vì thiền sinh đông nên có đến mười hai dãy bàn ăn, xoong nồi và khay đựng thức ăn nhiều lắm. Trưa đó thiền sinh trong đội rửa nồi đã về hết nên đội tôi chỉ còn lại mấy người. Thấy vậy, các “sư cha” Pháp Ứng, Pháp Niệm, Trung Hải, Pháp Trạch (trú trì viện Phật học) và cả Venerable Kaili (thượng tọa Khai Luật, “sư anh” lớn nhất ở Xóm Thượng) đều đến “xăn tay áo” rửa nồi giúp, có cả “sư cha” Từ Hải và “sư mẹ” Phước Tâm cũng chung đội với tôi.

Rửa nồi là một nghệ thuật, rửa nồi cũng là rửa tâm, là sự hiến tặng niềm vui cho mọi người. Thấy các sư cha sư mẹ đứng xếp hàng rửa nồi, các sư em hạnh phúc lắm, cứ đứng nhìn và cười tủm tỉm. Không có công việc nào là tầm thường cả, chỉ có sự phân biệt khiến cho tâm mình trở nên tầm thường và hạn hẹp mà thôi. Tôi thấy cái quan trọng là phẩm chất làm việc của từng người qua sự thực tập. Khi tôi lau chùi nhà vệ sinh có chánh niệm, có niềm vui thì tôi ghi vào sổ công phu của mình một dấu cộng. Nhưng khi tôi ngồi thiền mà không có phẩm chất, tôi ghi vào sổ công phu một dấu trừ. Tôi hạnh phúc bởi tôi còn có sức khỏe đủ để đóng góp khả năng của mình cho tăng thân, biết thực tập dừng lại mỗi khi cơ thể tôi lên tiếng “chị ơi, em cần nghỉ!”

Làm việc cũng là tu. Tôi luôn nhớ lời Thầy dặn, rằng làm việc không phải để cho xong mới có hạnh phúc mà phải hạnh phúc ngay trong khi làm việc. Từ khi biết thưởng thức công việc mình làm, tôi thấy mọi cái trở nên nhẹ nhàng và đơn giản hơn. Nhờ có mặt và nhìn sâu vào những gì mình làm, tôi đã khám phá ra những vụng về cũng như tài năng của tổ tiên tâm linh và gia đình huyết thống trong tôi. Ngày trước tôi để cho công việc làm chủ tôi, bây giờ tôi trở lại làm chủ công việc, chúng tôi đổi ngôi cho nhau trong tinh thần hòa hợp.

Tu học là để làm chủ chính mình. Vậy đó mà tôi đã để cho công việc làm chủ tôi, sai khiến tôi một cách ngon ơ. Tôi cứ nghĩ làm việc nhiều thì có phước nhiều để tu. Phước huệ song tu mà. Tôi quên rằng phước đức được xây dựng bằng những chất liệu của sự tươi mát, nhẹ nhàng, thương yêu và hiến tặng trong khi làm. Còn công việc thì dù có tái sinh lại ngàn đời vẫn không thể nào làm hết được, chỉ có mình biết cách dừng lại mà thôi. Tội nghiệp ba mạ và tổ tiên của tôi đã cho tôi thân thể này, vậy mà tôi đã không biết chăm sóc, giữ gìn, sử dụng cho đúng pháp để nuôi dưỡng tổ tiên, để phụng sự cho cuộc đời mà đã phí phạm sức khỏe một cách thiếu ý thức. Cầu cho mọi người đừng ai làm việc kiểu như tôi trước đây nữa.

Chơi

Tôi lớn lên ở miền núi. Nhà tôi ở một mình giữa đồi hoang suối vắng, xung quanh chẳng có nhà nào. Chỉ khi đi học tôi mới gặp bạn bè, hoặc muốn có bạn chơi thì tôi phải đi lên xóm trên hay xuống xóm dưới mà nhà thì ở cách xa nhau, thành thử tôi cũng làm biếng đi chơi. Suốt ngày tôi lang thang một mình trên đồi dưới suối. Vào chùa, ngoài Sư phụ và Bà (mẹ của sư phụ tôi) chùa chỉ có một mình tôi. Sau một thời gian sư phụ tôi mới nhận thêm một điệu nữa nhưng chúng tôi nói chuyện rất ít. Khi về Huế và đi học, tôi mới có thêm bạn để chơi. Nhưng thật ra thì chúng tôi cũng chẳng có nhiều thì giờ để chơi với nhau. Học xong thì ai về chùa đó. Về chùa thì lo làm việc, tụng kinh và học bài, giờ đâu để ngồi chơi, mà nếu có ngồi chơi là được nhắc liền.

Con người luôn cần sự quân bình giữa cái học, tu, làm việc và chơi mà tôi thì bị mất thăng bằng nhiều quá. Nếu đặt bốn điểm đó lên bàn cân thì ba điểm kia sẽ hất bổng điểm chơi của tôi ra khỏi bàn cân bởi không có trọng lượng. Tôi chưa có một ý niệm về chơi và cũng không giỏi để đến chơi với người khác. Do không biết chơi nên tôi không mở lòng ra với mọi người. Mỗi khi có chuyện buồn, tôi thường nghỉ học đạp xe đi vòng vòng quanh mấy cửa thành trong Thành Nội, hay vào tháp Tổ Liễu Quán ngồi khóc (chùa tôi ở gần tháp Tổ), hoặc rủ hai người bạn thân về biển hóng gió cho đến hết giờ học mới đạp xe về chùa. Vì vậy trước khi tới Làng tôi chưa bao giờ xếp giờ chơi vào thời khóa của mình. Thời khóa của tôi chỉ có ba môn: Tu (tụng kinh), học và làm việc.

Đến Làng, tôi học được cách chơi của các anh chị em. Có nhiều cách để anh chị em tôi tới chơi với nhau. Ngồi uống trà và kể chuyện cho nhau nghe trong tinh thần hiểu biết và xây dựng, chơi thể thao, đi bộ hay ngồi lại đàn hát cho nhau nghe hoặc chia sẻ pháp đàm cũng là một hình thức ngồi chơi với nhau. Trong những lúc ngồi chơi, tôi luôn ý thức đây là cơ hội để tôi và mọi người hiểu nhau, chúng tôi đang xây dựng tình huynh đệ. Tôi không để cho những cái vui lôi cuốn và đánh mất mình, không để cho những câu chuyện không nuôi dưỡng kéo mình đi như trước đây nữa.

Tôi quan sát và thấy rằng ở đây anh chị em làm gì cũng hết lòng. Làm việc hết lòng, tu hết lòng, học hết lòng mà chơi cũng hết lòng lắm. Tôi cũng thực tập chơi như các anh chị em. Cứ tưởng chơi là dễ, ai ngờ khó thiệt bởi em bé trong tôi đã quen lang thang một mình nên khó để hòa vào với mọi người. Các anh chị em thực tập dễ thương nên đã chủ động đến chơi với tôi. Dần dần tôi cũng quen và bớt mặc cảm là mình vụng về trong khi chơi. Em bé trong tôi ngày trước không có bạn để chơi, chú Điệu trong tôi cũng không có bạn để chơi và sư em thuở “ni sinh” trong tôi cũng không có thì giờ để chơi, vì vậy tôi chơi cho những “người thương” trước đây của tôi.

Chơi với anh chị em và tôi cũng tập chơi với chính tôi. Có những lúc tôi ngồi yên và chơi với những cảm thọ đang diễn trò trong tôi, gọi tên và cười với chúng. Có khi tôi mời những người “bạn cũ” đến chơi, những người bạn (khó khăn) mà trước đây khi họ đến, tôi đã làm lơ vì không có đủ thời gian để tiếp. Tôi ngồi yên và lắng nghe những người bạn mình chia sẻ, tìm hiểu để biết rõ lý do khi bạn tìm đến tôi. Khi biết được lý do rồi, tôi cảm thấy thoải mái để tiếp bạn mình, chơi với bạn mình và tiễn bạn mình “ra về” trong niềm vui thân thiện. Khi tôi chơi được với tôi, hiểu được tôi và chấp nhận được tôi thì tôi cũng chơi và chấp nhận được người khác.

Tôi đã nhận ra rằng tu cũng là chơi, làm việc cũng là chơi và học cũng là chơi. Chơi có nội dung của sự thực tập giúp tôi trở về sống sâu sắc hơn với chính mình. Thật ra tôi có nhiều người bạn để chơi lắm, chẳng qua là do tôi không chịu khám phá, làm quen nên không nhận ra đó thôi. Một đồi hoa sim tím nhạt hay một rẫy hoa cà phê trắng toát là bạn; những bông lau trên đồi, những dòng suối mát với tiếng nước róc rách cũng là bạn; những hòn sỏi nhỏ hay những chiếc lá thu rơi là bạn; những chú chim sâu hay những cánh bướm là bạn; những trang kinh sơ tâm hay những bộ chữ Hán cho người sơ học cũng là bạn; những hờn tủi, niềm đau trong tôi hay những niềm vui, nụ cười tươi, v.v.. tất cả đều là những người bạn của tôi.

Sở dĩ trước đây tôi đạp xe lang thang hay ngồi khóc một mình khi có khó khăn buồn tủi là vì tôi chưa biết cách chơi với chính mình, chưa nhận ra những người bạn dễ thương của mình nên đã mượn những cái bên ngoài để quên đi mọi thứ. Tôi tìm trong các kinh Bụt dạy, chưa có kinh nào Bụt dạy mọi người khi buồn thì nên đi lang thang, ngồi khóc hay đến những nơi ồn ào để tiêu túng thời gian và quên đi buồn đau của mình cả. Vậy đó mà đã một thời, tôi đóng vai người ngoài cuộc, không biết mình có một Câu lạc bộ sang đẹp, ấm áp để tham dự vào những trò chơi lành mạnh đầy nuôi dưỡng. Câu lạc bộ của tình huynh đệ, của thiên nhiên đất trời, của sự quay về với hải đảo tự thân nơi chính mình. Tội nghiệp cho những huynh đệ của tôi, những người bạn đồng môn của tôi đã có một người bạn chẳng trung thành, chẳng hiểu bạn bè chi cả. Cầu cho mọi người đừng ai rong ruổi, lang thang như tôi trước đây nữa.


Ngày nớ cũng là bây chừ

Trước khi trở thành một con ếch thật sự thì con ếch phải trải qua thời kỳ trứng nước và làm thân của con nòng nọc với cái đuôi lòng thòng ngộ nghĩnh. Nếu không trải qua thời kỳ trứng nước và làm nòng nọc thì nó không thể trở thành ếch được và chúng ta cũng không thể gọi nó là ếch. Sở dĩ nó được gọi là ếch vì nó đã trải qua quá trình tiến hóa để “rụng” cái đuôi lòng thòng ấy. Nòng nọc biết thay đổi (rụng) cái đuôi để trở thành ếch.

Tại sao mọi người gọi tôi là sư cô. Họ gọi tôi sư cô vì bây giờ tôi đã “rụng” tóc và khoác trên mình chiếc áo của người xuất gia. Nhưng trước khi trở thành người xuất gia thì tôi là một em bé, một chú Điệu tập tành để trở thành một người xuất gia thật sự. Tôi cũng từng mang trong mình “cái đuôi” của những yếu kém vụng về, những tập khí chưa dễ thương, những tri giác sai lầm và những khó khăn buồn tủi. Mặt khác tôi cũng thấy được trong tôi niềm thao thức, những ước muốn hoàn thiện chính mình. Và tôi đã trở về.Trở về nương tựa tăng thân để cùng nhau tu tập.

Thời gian đầu thực tập tôi phải trải qua rất nhiều khó khăn. Khó khăn về môi trường mới, ngôn ngữ bất đồng, văn hóa khác biệt hay vấn đề thức ăn, v.v.. là những cái bên ngoài, tuy có khó thiệt, nhưng không khó bằng sự thực tập làm chủ chính mình. Tôi có quá nhiều tập khí tiêu cực đã được huân tập từ nhiều phía, nhiều năm. Trước đây tôi khỏa lấp, chôn vùi và chạy trốn chúng, đã đến lúc tôi phải đối diện với chính tôi, đối diện với những hạt giống đang có trong tôi để ôm ấp và chuyển hóa. Không phải tự nhiên mà tôi cười tươi, tôi lắng nghe sâu, tôi chủ động đến với người khác, tôi nói một lời nhẹ nhàng dễ nghe, tôi biết ngồi yên… được.

Có lúc tôi đã phải vật lộn nhiều lắm với những cảm xúc, những tập khí, mặc cảm đi lên trong mình. Nhiều khi chúng trồi lên nhiều quá khiến cho tôi không thể xử lý tình huống được và dù không muốn, tôi cũng đã cho ra những cử chỉ, lời nói hay suy nghĩ không dễ thương chút nào và sau đó, tôi tự ăn ăn hối hận. Những gì mà trước đây người khác đã làm cho tôi buồn và không nuôi dưỡng tôi, tôi hoàn toàn không muốn lặp lại với người khác. Nhưng đâu phải tôi muốn là làm được liền, tôi cần có thời gian và trở về thực tập nhiều lắm. Trong những sinh hoạt tiếp xúc với nhau, đôi lúc tôi phải cẩn thận lắm mới không để cho những năng lượng tiêu cực “xì” ra. “Làm sao biết từng nỗi đời riêng, để yêu thêm…” Ngày trước tôi hay ngâm nga câu hát này của Trịnh Công Sơn. Bây giờ thì tôi thấy “làm sao để nhận diện được những tập khí trong mình, dù tích cực hay tiêu cực để trở về chăm sóc cho chính mình…” hơn.

Với những gì cùng tôi đi qua trong những năm trước đây đã cho tôi khá nhiều kinh nghiệm thực tế tự thân. Tôi biết hướng dẫn và đào tạo cho người xuất gia, nhất là những người xuất gia trẻ như chúng tôi không đơn giản chút nào, trước hết phải hiểu được họ. Riêng tôi, tôi thích được hướng dẫn tu học một cách rõ ràng và cụ thể, không chung chung, không khái quát, cần thực tế mọi chuyện, nhất là chuyện tu học. Bởi tôi biết rằng nếu không học rõ ràng, không thực tập cụ thể thì tôi không thể hiểu được, không thể làm được những gì Bụt đã trao truyền.

Bụt đã trao truyền thì tôi là sự tiếp nối của Bụt. Tôi không muốn tiếp nối Bụt một cách sai lầm, tôi không muốn đem Thầy Tổ tôi, đem quý Ngài đã từng dạy dỗ cho tôi, đem huynh đệ và gia đình tôi đi về hướng tối tăm. Con nòng nọc muốn rụng đuôi để trở thành ếch. Tôi cũng muốn thực tập để làm “rụng” đi những tập khí tiêu cực và trở thành một sư cô, một người tu thiệt. Có con nòng nọc mới có con ếch. Cũng vậy, nếu không có những năm đi học ở các trường Phật học, được quý Ngài giảng dạy, trao truyền cho tôi những kiến thức về Phật pháp thì làm sao tôi có thể tiếp nhận những lời Thầy dạy hôm nay một cách dễ dàng được.

Mỗi khi Thầy dạy các kinh bằng chữ Hán hay những môn luận, tôi thấy niềm biết ơn trong tôi đối với quý Ngài nhiều lắm, bởi quý Ngài đã trao truyền cho tôi vốn liếng về kiến thức Phật học. Quý Ngài đã cho tôi những thực phẩm rất lành mạnh, Thầy là người bày cho tôi công thức, cách nấu và nếu tôi là người khéo tay thì tôi sẽ tự nấu được cho mình những món ăn ngon, lành mạnh và biết cách chế biến ra thêm nhiều món ăn mới. Thử nghĩ nếu có người biết công thức nấu ăn, biết cách nấu ăn và muốn nấu ăn mà không có thực phẩm để nấu; hay có thực phẩm mà không biết cách nấu; hoặc vừa có thực phẩm và vừa biết cách nấu nhưng không chịu nấu thì có giúp ta vượt qua cơn đói?

Nhưng sự thật thì tôi cũng đã khám phá ra rằng từ nơi Thầy, tôi đã thấy được không chỉ có một kho thực phẩm tâm linh, một cửa hàng, một đại lý, một công ty mà có quá nhiều thực phẩm tâm linh lành mạnh, tươi ngon đầy quý giá. Từ gia tài thực phẩm tâm linh quý giá mà Bụt để lại, Thầy tôi đã tiếp nhận một cách sâu sắc và giờ đây, Thầy tôi đã sản xuất được thực phẩm, chế biến thực phẩm và cung cấp thực phẩm cho tất cả những ai cần đến những món ăn, món ăn tinh thần có khả năng nuôi dưỡng cả thân lẫn tâm. Tuy biết rằng cái gì cũng có giá trị của nó, nhưng tôi vẫn thấy mừng cho các sư anh, sư chị và sư em của tôi cũng như các thiền sinh đã may mắn tìm ra được kho thực phẩm tâm linh quý giá này từ Thầy tôi mà không quá mất nhiều thời gian như tôi. Đã đến nơi có đầy đủ thực phẩm tâm linh cho sự sống mà mình cần rồi, không lẽ mình lại quay lưng bỏ đi. Đi đâu? Tìm chi?

Tương tức là vậy, nếu không có cái này thì cũng không có cái kia. Rác cũng chính là hoa, tôi đang thực tập để nhìn sâu hơn vào đề tài này. Nếu không có em bé thiếu bạn chơi ở miền núi, không có những ngày làm Điệu, không có một thời làm ni sinh của trường Phật học, không có những năm tháng thực tập vụng về, hay những tháng ngày khó khăn trước đây xảy ra cho tôi, và nếu không trở về nương tựa tăng thân thì sẽ không có tôi bây giờ. Tôi là một với tất cả và tất cả cũng chính là tôi. Cầu mong cho tất cả mọi người đều có được một cuộc sống nhẹ nhàng và tự do. Tự do trong khi tu, trong khi học, trong khi làm việc và trong khi chơi.