Việt Nam Phật giáo sử luận

Chương 17: Sinh hoạt của Tăng đồ và cư sĩ

TĂNG SĨ, TỰ VIỆN, VÀ SINH HOẠT KINH TẾ

Trong thời đại thịnh trị nhất của Phật giáo Trúc Lâm, khoảng trên 15.000 người đã được thọ giới xuất gia trong các giới đàn do giáo hội Trúc Lâm tổ chức. Giáo hội Trúc Lâm là một giáo hội có tính cách “nhà nước” bởi vì được triều đình ủng hộ. Ta đã biết từ đời vua Anh Tông, tăng sĩ được bắt đầu ban cấp độ điệp. Độ điệp là chứng thư của chính quyền dùng làm thông hành cho tăng sĩ. Tại tu viện Quỳnh Lâm có lưu trữ hồ sơ của tất cả tăng sĩ thuộc giáo hội Trúc Lâm. Những tu sĩ nào có độ điệp hẳn đã được hưởng những điều kiện dễ dàng trong thời gian du hành, khảo cứu và tham bái các nơi. Có độ điệp thì đi đến chùa nào của môn phái cũng được tiếp đón và nghỉ chân. Ta có thể nói rằng những cuộc kết hạ an cư tổ chức tại các tự viện Yên Tử, Quỳnh Lâm, Siêu Loại, Vĩnh Phúc, An Lạc Tàng Viện, v.v… trong mùa hè là để dành ưu tiên cho những tăng sĩ thuộc giáo hội Trúc Lâm. Thư tịch đời Trần hầu như không nói đến những sinh hoạt Phật giáo ngoài giáo hội Trúc Lâm, đó thực là một điều đáng tiếc. Tuy nhiên ta cũng biết được rằng số lượng tăng sĩ và tự viện không hề thuộc giáo hội Trúc Lâm cũng là những số lượng đáng kể. Trong một chương trước chúng tôi đã nói ít nhất tổng số tăng sĩ đời Trần cũng trên 30.000 vị và như thế là chỉ đưa ra một ước lượng tối thiểu về số lượng tăng sĩ không thuộc môn phái Trúc Lâm. Có thể là số lượng này đông đảo bằng hai số lượng tăng sĩ Trúc Lâm cũng chưa biết chừng. Cố nhiên ta cũng nhận định rằng có những tăng sĩ vốn không thuộc tăng phái Trúc Lâm nhưng đã gia nhập môn phái này, bởi đây là môn phái duy nhất được triều đình công nhận và ủng hộ.

Từ đời Lý, tự viện đã được phân ba loại: đại danh lam, trung danh lam và tiểu danh lam. Các chùa được chính phủ nhận vào trong ba phạm trù ấy đều được cấp ruộng đất. Ðến đời Trần, chắc hẳn tục lệ này vẫn còn được duy trì, nhưng có lẽ chỉ được áp dụng trong trường hợp của những tự viện thuộc môn phái Trúc Lâm. Điều này cũng là nguyên nhân thu hút nhiều tự viện và tăng sĩ vào môn phái Trúc Lâm. Tuy vậy, phong trào theo Phật trong quần chúng đã lên mạnh: dân chúng tự động cất chùa, cúng dường ruộng đất cho chùa để cung cấp lương thực cho tăng sĩ. Ta có thể nói rằng phần lớn những ngôi chùa nhỏ dựng lên khắp nơi ở các làng mạc đều là của quần chúng tạo dựng và nuôi dưỡng, không chính thức được triều đình công nhận và không thuộc môn phái Trúc Lâm.

Phật giáo Việt Nam đã là Phật giáo thiền từ thế kỷ thứ ba; nguyên tắc bất tác bất thực (không làm thì không ăn) do thiền sư Bách Trượng khởi xướng và do thiền sư Vô Ngôn Thông bắt đầu áp dụng tại nước ta đã tạo nên truyền thống “chấp lao phục dịch” (làm việc lao động) trong giới thiền môn. Tăng sĩ trong thiền môn ai cũng làm việc lao động, trồng cây, cuốc đất, làm vườn, làm ruộng. Sự xen lẫn công tác lao động và công phu tọa thiền là một thói quen rất hay, gia tăng sự lành mạnh của cơ thể, sự hữu hiệu của thiền định và bảo đảm được phần nào đời sống kinh tế của tự viện. Thường thường chùa có vườn, lại có thêm ruộng. Trong trường hợp không phải là chùa được nhà nước cấp ruộng thì đời sống kinh tế của chùa được tín đồ bảo đảm. Vườn thì thường ở gần chùa, ruộng có khi có thể ở xa chùa: Những khoảnh vườn và những thửa ruộng mà chùa có là do bổn đạo của chùa cúng vào. Có những người lớn tuổi không có con cái để sau này cúng giỗ: Họ cúng ruộng vào chùa để sau này chùa sẽ làm lễ cúng giỗ cho họ mỗi năm. Nếu ruộng ít thì chư tăng trong chùa có thể tự làm lấy; nếu sức chư tăng không đủ, thì ruộng này được giao cho một vài người gọi là tịnh nhân chăm sóc. Hoa lợi sẽ giao lại cho chùa. Cố nhiên những tịnh nhân kia cũng được chia phần trong số hoa lợi ấy để sinh sống.

Danh từ tịnh nhân được đọc thấy trong sách Tam Tổ Thực Lục và chế độ tịnh nhân như thế đã có chậm nhất là vào thế kỷ thứ mười ba. Tịnh nhân có nghĩa là người trong sạch, ý nói những người này phát tâm làm việc cho chùa, không đòi hỏi phải được trả công nhiều, chỉ cần đủ cơm ăn áo mặc mà thôi. Ngày nay chúng ta còn thấy nhiều người tới chùa làm việc, chỉ cần ăn cơm chùa thôi mà không cần lương tiền gì hết. Ðó là những người làm công quả. Họ cũng giống như những tịnh nhân ngày xưa.

Những chùa lớn được triều đình ủng hộ như chùa Quỳnh Lâm thì có canh phu do nhà nước cấp để cày ruộng. Có một lúc chùa Quỳnh Lâm có tới một nghìn mẫu ruộng; nhà nước đã chỉ định một ngàn canh phu tới cày ruộng cho chùa. Tuy vậy, Quỳnh Lâm là ngôi chùa duy nhất có một số ruộng nhiều đến thế, bởi đó là cơ sở quản trị trung ương của giáo hội Trúc Lâm. Hoa lợi thu vào là để chi dụng không những cho tăng sĩ và Phật sự của chùa Quỳnh Lâm mà còn là cho các Phật sự khác trong giáo hội. Ta không biết những canh phu này do nhà nước trả lương hay do chùa Quỳnh Lâm trả lương. Chỉ biết rằng sau này các chùa lớn như Quỳnh Lâm đã áp dụng chế độ tam bảo nô để thay cho chế độ canh phu. Chế độ tam bảo nô được áp dụng ở Trung Hoa từ lâu trước đó, có lẽ từ cuối đời Ðường. Chữ ở đây có nghĩa như là nô bộc; kỳ thực những người gọi là tam bảo nô lại có những quyền lợi mà người ngoài không có. Mỗi người tam bảo nô thường có một lô đất để cất nhà và canh tác. Ðất này do chùa cấp phát. Ðể đền đáp lại, người tam bảo nô cày ruộng cho chùa. Tuy vậy, liên hệ giữa chùa và tam bảo nô không phải là liên hệ giữa chủ điền và tá điền. tam bảo nô được pháp luật bảo vệ. Mỗi khi một tam bảo nô làm điều gì phạm pháp, nhà chùa không có quyền hành gì trong sự trừng phạt. Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm xét xử sự phạm pháp này. Ai đánh đập một tam bảo nô sẽ bị chính quyền phạt một trăm gậy tre. Những người tam bảo nô thường cưới hỏi nhau trong giới tam bảo nô; trong trường hợp một người tam bảo nô cưới một người ngoài, thì người này dù là chồng hay là vợ cũng sẽ được hưởng chế độ tam bảo nô, một lô đất để cất nhà và canh tác, và được hưởng sự che chở của pháp luật, không sợ đàn áp và bóc lột bởi chủ điền. Ðây là một sự cộng tác giữa nhà chùa và nhà nước để bảo đảm cho sự sống và quyền tự do của những người cày ruộng cho chùa.

Tam bảo nô được chọn lựa trong những thành phần nào? Trước hết là những trẻ mồ côi do nhà chùa nuôi nấng từ hồi còn nhỏ. Lớn lên, những cậu nào muốn xuất gia và có điều kiện xuất gia thì được nhận vào hàng ngũ tăng già, còn những cậu nào không muốn đi tu thì có thể gia nhập đoàn tam bảo nô, và sau đó, nếu muốn thì thành lập gia đình. Kế đó là những tá điền của những thửa ruộng được cúng cho chùa. Khi ruộng đã được cúng cho chùa rồi, những tá điền này có thể đi làm tá điền cho những chủ ruộng khác; nhưng họ cũng có thể gia nhập đoàn tam bảo nô để hưởng những quyền lợi về tài sản và về pháp luật mà những tá điền thường không có. Cuối cùng, còn có những người phạm pháp đang bị chính quyền giam giữ: nếu nhà chùa bảo đảm, nhà chùa có thể lãnh những người này ra khỏi nhà tù và giữ họ trong hàng ngũ tam bảo nô. Nhà nước tin rằng nhà chùa có thể giữ gìn cho những kẻ phạm pháp này trở thành lương thiện. Ðây là một điểm thật đặc biệt trong chế độ tam bảo nô.

Trong những chùa có tịnh nhân, canh phu hay tam bảo nô, chư tăng được rỗi rảnh để lo những công việc khác: cầu an, cầu siêu, chẩn tế, giảng dạy Phật pháp, tổ chức giáo hội… Tuy vậy số lượng của những chùa này so với tổng số các chùa trong nước thì rất bé nhỏ. Nói về tự viện Trung Hoa vào thế kỷ thứ sáu, Thích Pháp Lâm đời Ðường cho biết có 47 chùa quốc tự do chính quyền ủng hộ, 839 chùa lớn do các vương hầu và người giàu sang thành lập, và khoảng 30.000 chùa do quần chúng tạo lập. Vào thời Trần Anh Tông, ta thấy có khoảng 15 chùa được xem là quốc tự và được chính quyền ủng hộ trực tiếp. Nếu căn cứ vào tỷ số các chùa thời phong kiến ở Trung Hoa, ta có thể phỏng định con số những chùa như sau:

  1. Chùa quốc tự: 15 chùa.
  2. Chùa do vương hầu và người giàu có tạo dựng: 330 chùa.
  3. Chùa do quần chúng tạo: 9.000 chùa.

Như vậy vào đời Trần, ta có khoảng 9.500 ngôi chùa và 30.000 tăng sĩ, trung bình mỗi chùa có ba vị tăng sĩ. Có những tổ đình có hàng chục tăng sĩ tu học và có những ngôi chùa nhỏ trong đó chỉ có một vị tăng sĩ trú trì[1].

SINH HOẠT TRONG TỰ VIỆN

Tổ chức tự viện đời Trần thế nào? Cố nhiên là các tự viện lớn đã được tổ chức theo thanh quy Bách Trượng. Về kiến trúc, cơ sở chính là Phật đường trong đó được an trí tượng Phật Thích Ca và các Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền. Có chùa lại thờ thêm tượng Phật A Di Ðà và tượng các Bồ tát Quan Thế Âm và Ðại Thế Chí. Ngôi nhà quan trọng thứ hai là Tổ đường, có tượng Bồ Ðề Ðạt Ma và linh vị các tổ sư bản phái. Ngoài ra còn có Tăng đường để tập hợp đại chúng, Trai đường để chư tăng thọ thực và Liêu phòng cho chư tăng cư trú. Chức vị cao nhất của tự viện là Viện chủ, có khi gọi Giám viện hay Trú trì. Vị giảng sư quan trọng nhất trong các vị giáo thọ được gọi là Giảng chủ. Lo việc điều hành tổ chức là vị Tri sự. Vị Tri viên phụ trách sắp đặt công tác về ruộng vườn. Vị Tri tạng chịu trách nhiệm về kinh sách và thư viện. Vị Thủ khố chịu trách nhiệm về các kho chứa sản vật và tài vật của tự viện. Vị Thư ký hay Thư trạng chịu trách nhiệm về các văn kiện thư tín và sớ điệp. Vị Tri liêu chịu trách nhiệm về phân phối và quản trị phòng ốc. Vị Tri điện chịu trách nhiệm về Phật điện, cùng với vị Hương đăng. Vị Tri chúng rất quan trọng, có khi gọi là Thủ chúng, chịu trách nhiệm điều hợp tăng chúng về các vấn đề liên hệ đến tập thể đại chúng. Vị Duy na hướng dẫn các buổi lễ, điều khiển các nghi thức tụng niệm. Vị Duyệt chúng phụ tá vị Duy na. Tăng chúng luân phiên làm những công tác hàng ngày được gọi là các vị Trị nhật. Những vị tuổi nhỏ mới gia nhập được giao cho trách vụ Thị giả để giúp đỡ các vị lớn tuổi trong công việc trà nước và dọn dẹp. Hai hông Phật điện thường có lầu chuông và lầu trống. Chuông lớn gọi là Ðại hồng chung, trống lớn gọi là Ðại pháp cổ. Những buổi tập hợp đại chúng gọi là thượng đường được bắt đầu bằng những hồi chuông trống lớn được gọi là chuông trống Bát Nhã. Tại nhiều chùa, tăng chúng lễ sám sáu lần trong một ngày. Sách Tam Tổ Thực Lục cho biết tự viện của thiền sư Pháp Loa áp dụng nghi thức sáu thời một ngày (lục thời nghi). Có lẽ đây là nghi thức Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi của vua Trần Thái Tông. Nhiều chùa chỉ có tụng niệm buổi sáng và buổi tối, gọi là hai buổi công phu, thêm vào nghi thức cúng Phật vào buổi trưa, đúng giờ ngọ.

Hai nghi thức tụng niệm buổi sáng và buổi tối gọi là hai buổi công phu (nhị thời công phu) cho ta thấy sự tổng hợp của ba tông phái chính: Thiền, Mật và Tịnh độ. Phật giáo Thiền tông cuối đời Trần được đồng hóa với Mật giáo và Tịnh độ giáo như ta đã thấy trong một chương trước. Pháp Loa và Huyền Quang, theo Tam Tổ Thực Lục, đều trì tụng thần chú và niệm Phật A Di Ðà. Trì tụng thần chú cũng là để gia trì định lực; niệm Phật cũng là để nhất tâm bất loạn. Sau đây là những phần chính trong hai thời khóa tụng:

Thời khóa buổi sáng:

  1. Thần chú Thủ Lăng Nghiêm
  2. Thần chú Ðại Bi Tâm
  3. Thần chú Như Ý Bảo Luân Vương
  4. Thần chú Tiêu Tai Cát Tường
  5. Thần chú Công Ðức Bảo Sơn
  6. Thần chú Chuẩn Ðề
  7. Thần chú Dược Sư Quán Ðỉnh
  8. Thần chú Quan Âm Linh Cảm
  9. Thần chú Thất Phật Diệt Tội
  10. Thần chú Vãng Sinh Tịnh Ðộ
  11. Thần chú Ðại Cát Tường Thiên Nữ
  12. Tâm Kinh Bát Nhã
  13. Niệm Phật Thích Ca
  14. Ðảnh lễ chư Phật
  15. Hồi hướng

Thời khóa buổi chiều:

  1. Kinh A Di Ðà
  2. Thần chú Vãng Sinh Tịnh Ðộ
  3. Sám Pháp Hồng Danh
  4. Nghi thức Thí Thực Mông Sơn
  5. Tâm Kinh Bát Nhã
  6. Niệm Phật A Di Ðà
  7. Ðảnh lễ chư Phật
  8. Hồi hướng Cực Lạc
  9. Tam quy

Ta thấy gì? Thời khóa buổi sáng trừ Tâm Kinh Bát Nhã, Niệm Phật, Hồi hướng và Tam quy, tất cả đều là thần chú. Ngay Tâm Kinh Bát Nhã cũng đã được xem như một thần chú rồi[2]. Trong thời khóa buổi chiều, nghi thức Thí Thực Mông Sơn cũng đầy những thần chú, và cũng bắt nguồn từ Mật giáo. Các mục kinh A Di Ðà, Niệm Phật và Hồi hướng Cực Lạc thì thuộc về Tịnh độ giáo. Ngoài Tâm Kinh Bát Nhã không có một kinh bản nào thuần túy Thiền được đưa vào hai thời công phu. Mật giáo và Tịnh độ giáo đã lấn áp Thiền, dù rằng Mật giáo và Tịnh độ giáo đã được xem như đồng hóa với Thiền. Các kinh bản như Kim Cương, Lăng Già, Viên Giác và các bộ ngữ lục như Lâm Tế Lục, Bích Nham Lục, Ðại Tuệ Ngữ Lục, Khóa Hư Lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục v.v… chỉ được học tập ở ngoài mà không được đưa vào thời khóa tụng niệm.

Tại các Tổ đình và những tự viện lớn, tăng sĩ quy tụ đông đảo trong mùa kết hạ để an cư. Theo truyền thống, thời gian từ rằm tháng Tư đến rằm tháng Bảy là thời gian kết hạ, nghĩa là thời gian chư tăng tập hợp trong tự viện để thực hành thiền quán và không bước chân ra khỏi tự viện. Vì vậy kết hạ cũng có nghĩa là an cư. Những vị tăng sĩ cư trú và hành đạo tại các địa phương đã được đào tạo trong các tự viện lớn, mỗi năm có tục lệ trở về tự viện trong ba tháng kết hạ. Những tăng sĩ có danh hiệu a xà lê (ācārya) là những tăng sĩ đã trải qua ít nhất là năm mùa kết hạ. Vị được thỉnh cầu làm hòa thượng trong một cuộc truyền giới phải là một vị đã trải qua ít nhất là mười mùa kết hạ. Mỗi mùa kết hạ được kể là một tuổi tu, tính từ năm thọ giới tỳ khưu. Có nhiều chùa tổ chức kiết đông, cũng trong thời gian ba tháng, cho những vị tỳ khưu không thể về trong mùa hạ.

GIỚI PHÁP

Muốn xuất gia tu đạo, người ta phải trải qua thời gian làm sa di, gọi nôm na là chú tiểu, hoặc điệu, hoặc sư bác. Sa di được lấy từ danh từ srāmanera của Phạn ngữ và được dịch là tức từ, hoặc cần sách hay cầu tịch. Tức từ có nghĩa là ngưng ác làm lành; cần sách có nghĩa là siêng năng tinh tiến; cầu tịch có nghĩa là tìm đời sống an tịnh. Tuổi thích hợp nhất của sa di là từ mười bốn đến mười chín. Tuổi sớm nhất để được thọ giới tỳ khưu là tuổi hai mươi. Một vị sa di cần chứng tỏ khả năng tu học của mình trước khi được thọ giới tỳ khưu. Sa di có mười giới luật cần giữ gìn trong khi tỳ khưu có 250 giới. Vì vậy nếu đến tuổi hai mươi mà sa di chưa có khả năng thọ giới tỳ khưu thì phải đợi thêm vài năm nữa. Những người xuất gia trên hai mươi tuổi cũng phải làm sa di; họ cũng phải chứng tỏ khả năng trước khi được thọ giới tỳ khưu. Những em bé dưới mười bốn tuổi được nuôi ở chùa được gọi là sa di đuổi quạ (khu ô sa di) bởi vì các em chỉ có thể làm được việc đuổi quạ để chúng đừng làm náo động các khu vực chư tăng đang tọa thiền. Những người quá hai mươi tuổi mà không có khả năng thọ giới tỳ khưu được gọi là sa di danh tự. Còn những sa di từ mười bốn đến mười chín tuổi được gọi là sa si hợp pháp (ứng pháp sa di). Mười giới luật của sa di là:

1- Không sát sinh

2- Không trộm cắp

3- Không nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều và chửi mắng

4- Không dâm dục

5- Không uống rượu

6- Không được dùng nước hoa và trang điểm bằng hoa

7- Không được dùng giường nệm cao lớn sang trọng

8- Không được khiêu vũ hát xướng

9- Không được sử dụng vàng bạc

10- Không được ăn ngoài giờ ăn

Những người nữ được thọ giới trên thì gọi là sa di ni (srāmanerikā). Những thiếu nữ khi đến tuổi mười tám, dù đã thọ giới sa di ni hay chưa cũng phải thọ giới thức xoa ma na trong hai năm trước khi được thọ giới tỳ khưu ni. Khác với tỳ khưu vốn có 250 giới điều, giới tỳ khưu ni có tới 348 giới điều. Giới thức xoa ma na là những giới điều chuẩn bị cho giới tỳ khưu ni. Thức xoa ma na (Phạn ngữ: siksamana) gồm có sáu giới:

1- Không dâm dục

2- Không trộm cướp

3- Không sát sinh

4- Không nói dối

5- Không uống rượu

6- Không ăn ngoài giờ ăn

Sáu giới điều thức xoa ma na đều có sẵn trong số mười giới điều của sa di ni, tại sao sa di ni lại cần phải bỏ giới sa di ni để thọ giới thức xoa ma na? Những sách diễn giải về giới luật của Luật Tông trả lời: Đây không phải là sự bỏ bớt bốn giới để chỉ giữ sáu giới; trong thời gian thọ giới thức xoa ma na, người sa di ni còn phải tập giữ giới luật và hạnh pháp tỳ khưu ni nữa. Sự học tập này phải kéo dài ít nhất trong hai năm. Những thiếu nữ nào chưa thọ giới sa di mà đến tuổi mười tám cũng có quyền xin thọ giới thức xoa ma na; và sau hai năm cũng có quyền xin thọ giới tỳ khưu ni. Những thiếu phụ trước kia đã từng lập gia đình nay sống độc thân (vì thôi chồng hoặc chồng chết) nếu muốn thọ giới thức xoa ma na phải đợi mười năm sau ngày ly thân hoặc ngày chồng chết mới được thọ giới thức xoa ma na.

Sau đây là nội dung giới luật tỳ khưu, tất cả là 250 giới, chia làm 8 mục, được gọi là Ba La Ðề Mộc Xoa (Phạn ngữ: prātimoksa). Prātimoksa có nghĩa là giải thoát, cởi mở mọi ràng buộc:

4 giới ba la di (pārājika): Không dâm dục, không sát sinh, không trộm cướp, không nói dối là đã chứng ngộ. Phạm vào một trong bốn giới này thì bị trục xuất, bởi vì đây là một trong bốn giới căn bản (căn bản cực ác).

13 giới tăng tàn (sanghāvasesa).

2 giới bất định pháp (aniyata).

30 giới xả đọa (naihsargikāhpāyattikāh).

90 giới ba dật đề (prāyascittikāh).

4 giới đề xá ni (pratidesaniya).

100 giới chúng học (siksākaraniya).

7 giới diệt tránh.

Giới luật của tỳ khưu ni lên tới 348 điều, phân ra làm bảy mục:

8 giới ba la di.

17 giới tăng tàn.

30 giới xả đọa.

178 giới đơn đọa.

8 giới hối quá.

100 giới chúng học.

7 giới diệt tránh.

Mỗi tháng hai lần, tăng chúng tập hợp để thuyết giới, nghĩa là để tuyên đọc giới luật và kiểm điểm sự hành trì giới luật. Những hành động phát lộ (tự thú), sám hối, xử trị, cũng như các lễ thọ giới, kết hạ, đều được thực hiện trong nguyên tắc yết ma. Yết ma (karma) dịch là tác pháp biện sự, có nghĩa tính cách hợp pháp của những giải quyết căn cứ trên một nghi thức tuyên cáo đọc và quyết nghị trong tăng chúng. Bất cứ một quyết định hay một hành động nào liên hệ đến đời sống giới luật đều phải do sự thực hành yết ma mới được hợp pháp. Muốn thực hành yết ma phải có những điều kiện sau đây:

1. Phải có đủ số người tối thiểu

Trong trường hợp xử tội một tăng sĩ chẳng hạn, hội đồng tập hợp ít ra phải có hai mươi vị đã thọ giới tỳ khưu. Trong trường hợp truyền giới tỳ khưu, phải có một hội đồng truyền giới mười vị[3]. Trong các trường hợp khác thì phải có ít nhất bốn vị.

2. Quyết nghị phải được thực hiện trong sự hòa hợp hoàn toàn

Nếu không có sự hòa hợp hoàn toàn thì yết ma không có hiệu lực. Người có trách vụ tuyên cáo yết ma được gọi là thầy yết ma (karmācārya) được đại chúng công cử hay thỉnh mời. Ví dụ trong trường hợp thọ giới tỳ khưu thì vị thầy yết ma được các giới tử[4] cung thỉnh vào trách nhiệm này. Các giới tử tới trước các vị tăng mà họ muốn cung thỉnh làm thầy yết ma, làm lễ, quỳ xuống và đọc ba lần:

“Nay chúng con xin thỉnh Ðại Ðức làm thầy yết ma, xin Ðại Ðức vì chúng con mà nhận trách vụ: chúng con sẽ nhờ Ðại Ðức mà được thọ giới tỳ khưu”.

Trong hội đồng truyền giới, để thành tựu nguyên tắc yết ma, thầy yết ma sẽ hỏi đại chúng:

– Chư tăng đã tập hợp chưa?

Thầy điển lễ đáp: – Chư tăng đã tập hợp.

Thầy yết ma: – Có sự hòa hợp không?

Thầy điển lễ: – Có sự hòa hợp.

Thầy yết ma: – Chư tăng tập hợp hôm nay để làm gì?

Thầy điển lễ: – Ðể thực hiện yết ma truyền giới tỳ khưu.

Thầy yết ma: – Xin chư Ðại Ðức nghe đây. Các vị có tên sau đây(tên), xin thọ giới cụ túc[5] dưới ngài… (tên), làm trách vụ hòa thượng. Các vị sa di đây đã tự nói rằng họ trong sạch, không phạm tội, đủ hai mươi tuổi, có đủ ba y và bình bát. Ðại chúng chư tăng đến đúng giờ, đại chúng chư tăng nghe, đại chúng chư tăng trao giới cụ túc cho các sa di… (tên) với ngài… (tên) làm trách vụ hòa thượng. Lời tác bạch như thế có đúng phép không?

Các thầy tôn chứng chắp tay:

– Ðúng phép.

Thầy yết ma lặp lại những lời trên (Xin chư Ðại Ðức nghe đây…) và thêm: “Các vị trưởng lão nào bằng lòng để đại chúng chư tăng cho các sa di… (tên) thọ cụ túc với ngài… (tên) làm trách vụ hòa thượng thì xin im lặng, vị nào không đồng ý thì xin nói lên (im lặng một chút). Ðây là tác pháp yết ma thứ nhất. Xin chư tăng cho biết có thành không?”

Các vị tôn chứng đáp: – Thành.

Thầy yết ma lặp lại một lần nữa những lời trên và thêm: “Ðây là tác pháp yết ma thứ hai, xin chư tăng cho biết có thành không?”

Các vị tôn chứng đáp: – Thành.

Thầy yết ma lại lặp lại một lần nữa những lời trên và thêm: “Ðây là tác pháp yết ma thứ ba, xin chư tăng cho biết có thành không?”

Các vị tôn chứng đáp: – Thành.

Chỉ sau khi đó thì sự truyền giới mới được hợp pháp và mới có thể bắt đầu, bởi vì yết ma đã được thực hiện.

Như trên đã nói, bất cứ một sinh hoạt nào liên hệ tới giới luật đều phải thực hiện trên nền tảng yết ma. Mỗi tháng hai lần tụng giới cũng phải thực hiện yết ma. Khi trục xuất một vị tăng ra khỏi đoàn thể vì vị tăng này đã phạm tội mà không hối cải, không tuân phục lời khuyến thỉnh của chư tăng, thì phải thực hiện yết ma gọi là yết ma tẫn xuất. Khi có một vị tăng phạm tội mà chưa chịu sám hối, khuyên răn mà vẫn chưa sám hối thì đại chúng có thể thực hiện yết ma điều phục, không ai nói với vị tăng phạm tội kia lời nào, không ai sinh hoạt chung với vị tăng kia cho tới khi nào vị tăng chịu nhận sám hối.

Hội đồng truyền giới tỳ kheo phải có ít nhất là mười vị, gọi là thập sư. Trong số đó, ba vị quan trọng nhất là hòa thượng, yết ma giáo thọ. Còn bảy vị kia là tôn chứng. Chúng ta đã biết trách vụ của vị yết ma, sau đây là trách vụ của các vị hòa thượng, giáo thọ và tôn chứng.

Danh từ hòa thượng (upādhyāya) từng được Cưu Ma La Thập dịch là lực sinh nghĩa là nhờ đời sống tâm linh của vị đó mà đạo lực của giới tử được phát sinh. Sau này có người dịch là thân giáo sư nghĩa là vị giáo sư gần gũi nhất của mình, hay là y học, nghĩa là người mình nương tựa để học đạo. Hòa thượng là vị chứng minh tối cao của hội đồng truyền giới. Vị giáo thọ là người dạy dỗ và trao truyền giáo pháp cho giới tử. Trong trường hợp số lượng giới tử đông thì phải có tới hai vị giáo thọ. Các vị giáo thọ dạy cho giới tử tất cả những điều cần biết, cần hiểu, cần làm và cần nói trong lễ thọ giới. Bảy vị tôn chứng là những người chứng minh cho sự truyền giới và có phận sự quyết định sự thành tựu hay không thành tựu của tác pháp yết ma.

Những lễ truyền giới được gọi là giới đàn. Vào đời Trần, có nhiều giới đàn được tổ chức rất lớn trong đó có hàng ngàn người thọ giới. Trong giới đàn không những có hội đồng truyền giới và giới tử, mà còn có nhiều vị tỳ kheo đến tham dự và góp sức hộ niệm cho sự thành tựu của giới đàn. Giới tử, khi đi làm lễ cầu thỉnh hòa thượng, yết ma, giáo thọ và tôn chứng, phải được hướng dẫn bởi một số tăng sĩ gọi là các thầy dẫn thỉnh. Các vị này hướng dẫn và giới thiệu giới tử với các vị được thỉnh cầu vào hội đồng truyền giới, tức là thập sư.

Sau khi được trao giới tỳ khưu, giới tử được trao y, bát, tọa cụ dụng cụ lọc nước, tức là những vật tùy thân của một vị tỳ khưu. Y đây là áo ca sa, bát đây là dụng cụ để thọ trai trong mùa kết hạ hay để đi khất thực, tọa cụ là dụng cụ trải ngồi. Quần chúng thường hay gọi những giới đàn truyền giới là trường hương, bởi vì ở đó giới tử được lên cấp bực, và bởi vì những giới tử sau khi nhận giới thường đốt ba huyệt hương trên đầu lớn bằng hạt đậu để phát nguyện giữ giới và cúng dường tam bảo.

Tại những giới đàn lớn, không những có truyền giới tỳ khưu mà còn có truyền giới ưu bà tắc, sa di Bồ tát nữa. Giới ưu bà tắc là năm giới của người cư sĩ không xuất gia. Ưu bà tắc là do Phạn ngữ: upāsika, dịch là cận sự nghĩa là những người thân cận tam bảo. Năm giới là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không say rượu. Giới Bồ tát gồm có năm mươi tám điều khoản, trong đó có mười giới nặng và bốn mươi tám giới nhẹ. Ðây là giới luật của Ðại thừa. Người nào đã thọ hoặc giới ưu bà tắc hoặc giới sa di, hoặc giới tỳ khưu đều có thể xin thọ thêm Bồ tát giới. Giới luật tỳ khưu chú trọng hơn về hình thức trong khi giới luật Bồ tát chú trọng hơn về mặt tâm lý và nội dung. Ví dụ trong giới tỳ khưu, giới sát sinh được xem như đã được tôn trọng nếu người giữ giới không giết hại sinh mạng; còn trong giới Bồ tát, nếu thấy người khác sát sinh mà mình không tìm cách ngăn cản hoặc mình đồng ý theo thì đó là phạm giới, không cần đợi tới lúc mình tự tay sát sinh.

Những vị tăng sĩ chỉ thọ giới tỳ kheo được gọi là thanh văn tăng. Những vị thọ luôn cả Bồ tát giới nữa thì gọi là Bồ tát tăng. Giới luật của Bồ tát tăng gồm có tỳ khưu giới và Bồ tát giới, còn được gọi là tam tụ tịnh giới, nghĩa là giới luật quy tụ ba phương diện hành trì:

  1. Nhiếp luật nghi giới: Giữ gìn không để tự mình phạm vào những ác nghiệp.
  2. Nhiếp thiện pháp giới: Thực hiện những điều tốt đẹp trong đời sống của mình.
  3. Nhiêu ích hữu tình giới: Phụng sự cho mọi giới hữu tình, tức là nhân loại chúng sinh.

Ở Việt Nam, Phật giáo có khuynh hướng Ðại thừa từ đầu thế kỷ thứ ba, cho nên những người thọ giới tỳ khưu thường xin thọ luôn giới Bồ tát. Giới Bồ tát sẽ bổ túc cho giới tỳ khưu về nội dung tâm lý.

AN CƯ KẾT HẠ

Mùa kết hạ bắt đầu từ ngày rằm tháng Tư âm lịch. Chư tăng tập hợp để thực hành yết ma kết giới, quy định ranh giới của sự cư trú trong ba tháng, đánh dấu các góc đông nam, tây nam, tây bắc, đông bắc. Khi yết ma kết giới đã được thực hiện, không một vị nào có quyền đi ra khỏi ranh giới ấy nữa. Trong trường hợp khẩn cấp hoặc bất khả kháng, vị tăng chỉ có thể ra khỏi ranh giới nếu có yết ma giải giới trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ hoặc bốn mươi tám tiếng đồng hồ cho vị tăng ấy. Hết mùa kết hạ, chư tăng thực hiện yết ma giải giới và làm lễ tự tứ. Tự tứ (pravarana) nghĩa là thỉnh cầu một vị tăng khác chỉ cho mình biết những khuyết điểm của mình về sự hành trì giới luật để mình biết lỗi mà sám hối. Trong lễ tự tứ, chư tăng do thực hiện yết ma mà cử ra hai vị gọi là nhận lãnh tự tứ (thọ tự tứ). Hai vị này ra trước chánh điện cùng lạy nhau và quỳ trước mặt nhau. Một vị làm tự tứ trước bằng cách nói với người đối diện:

– Bạch Ðại Ðức, hôm nay là ngày chư tăng tự tứ, tôi là tỳ khưu… (tên) xin tự tứ với Ðại Ðức. Nếu Đại Đức thấy hoặc nghe hay nghĩ tôi có những khuyết điểm lỗi lầm nào về giới luật thì thương xót chỉ bảo cho tôi. Nếu tôi nhận được lỗi lầm, tôi sẽ theo đúng pháp mà sám hối.

Vị này đọc ba lần như thế. Nếu không thấy có khuyết điểm gì, vị đối diện hiện đang đóng vai tự tứ đáp:

– Rất tốt.

Vị tăng tự tứ liền đáp:

– Cám ơn Ðại Ðức. Và lạy xuống một lạy. Lạy xong thì quỳ lên để đóng vai nhận lãnh tự tứ cho vị kia tự tứ. Khi hai người đã tự tứ xong, đại chúng chia làm hai toán. Mỗi vị nhận lãnh tự tứ đi về một toán. Các tỳ khưu trong toán bắt đầu thay phiên nhau tới quỳ trước vị nhận lãnh tự tứ (vị này thấy vị kia tới quỳ trước mình, cũng quỳ xuống) để tự tứ… Như vậy cho đến khi mọi người trong đại chúng tự tứ xong.

Sinh hoạt của tăng chúng trong một tự viện được quy định theo sáu nguyên tắc hòa hợp gọi là lục hòa:

  1. Thân hòa đồng trú: Tăng chúng cùng ở một nơi, chia sẻ một môi trường sinh hoạt chung.
  2. Giới hòa đồng tu: Cùng vâng giữ một thứ giới luật và một thứ quy chế chung cho mọi người.
  3. Khẩu hòa vô tránh: Cùng tránh sử dụng thứ ngôn ngữ có thể gây không khí bất hòa, để phòng ngừa mọi xung đột.
  4. Kiến hòa đồng giải: Cùng tôn trọng, hiểu biết và chia sẻ những kiến thức và quan niệm của nhau, không giữ thái độ khép kín và tự tôn.
  5. 5. Ý hòa đồng duyệt: Biết dung hợp mọi ý kiến dị biệt để tạo nên sự hòa hợp vui vẻ trong đại chúng.
  6. 6. Lợi hòa đồng quân: Cùng chia sẻ những điều kiện vật chất đang có tùy theo nhu cầu của mỗi người, xem mọi lợi tức là của chung.

Mùa kết hạ là mùa tịnh tu, chư tăng ít tiếp xúc với cư sĩ. Buổi sáng, tăng chúng thức dậy lúc 4 giờ khi nghe ba tiếng chuông bảo chúng. Mười lăm phút được để ra để mọi người được rửa mặt, súc miệng, xếp lại giường chiếu và mặc áo tràng. Ba hồi chuông bảo chúng lại vang lên, và tiếp theo đó là tiếng đại hồng chung (chuông lớn) ngân lên từng tiếng khoan thai. Lúc đó mọi người đã ngồi trên thiền sàng và bắt đầu giờ tọa thiền buổi sáng.

Khi đại hồng chung đã điểm xong tiếng thứ một trăm lẻ tám, mọi người tập hợp tại chánh điện (Phật đường) để tụng kinh buổi sáng. Nghi thức là nghi thức triêu thời khóa tụng, tức là công phu sáng. Thời khóa chấm dứt khoảng lúc 6 giờ rưỡi; chư tăng nghỉ ngơi nửa giờ trước khi ăn sáng. Giờ ăn sáng được báo hiệu bằng ba tiếng bản bằng gỗ. Mọi người giữ im lặng trong khi ăn, và sau khi ăn xong, tụng Tâm Kinh Bát Nhã.

Sau bữa ăn sáng, chư tăng đi lo phận sự của mình: người thì dọn dẹp Phật đường, người thì lo việc vườn ruộng, người thì gánh nước bổ củi. Trong mùa kết hạ, thì giờ được để dành nhiều hơn cho việc học tập và tọa thiền. Ðến mười một giờ rưỡi, giờ nghỉ ngơi và chuẩn bị cho bữa cơm trưa đúng giờ Ngọ, bữa cơm chính trong ngày, được báo hiệu bằng ba tiếng bản. Mọi người trong y áo chỉnh tề, sắp hàng một, đi vào thực đường, đứng ngay ngắn trước chỗ ngồi của mình. Khi mọi người đã tề tựu, chư tăng chấp tay xá và ngồi lên ghế của mình, ngay thẳng trước chiếc bình bát phần mình. Chuông và bản bắt đầu nghi thức thọ thực. Ðầu tiên, chư tăng nâng bát lên trán đọc bài cúng dường. Suốt bữa cơm, chư tăng thực hiện chánh niệm: Thân, khẩu và ý hòa hợp, từ đầu bữa cơm cho đến khi chấm dứt. Sau bữa cơm là Tâm Kinh Bát Nhã. Chư tăng sắp hàng, niệm Phật, đi vào chánh điện, diễu hành ba vòng quanh tượng Phật, vừa đi vừa niệm Phật. Một bài Hồi hướng chấm dứt nghi thức thọ thực.

Buổi chiều, từ hai giờ rưỡi đến năm giờ rưỡi, sinh hoạt cũng như buổi sáng: chấp tác, học tập, tọa thiền. Công phu chiều được bắt đầu lúc bảy giờ, sau một trăm lẻ tám tiếng đại hồng chung. Tiếp đó là giờ tham cứu hoặc tọa thiền. Mười giờ, sẽ là giờ chỉ tịnh. Ai muốn tiếp tục tọa thiền thì có thể tiếp tục cho đến khuya.

Tại những chùa chỉ có bốn vị tỳ khưu, sự thực hiện yết ma để kết hạ và kết giới cho ba tháng an cư đã được xem là hợp pháp. Nhưng từ những miền xa xôi hẻo lánh mà một vị tăng không thể về tự viện để kết hạ được, thì vị tăng ấy sẽ an cư ngay tại chùa của mình bằng phương pháp thực hiện tâm niệm an cư. Phương pháp này được áp dụng cho trường hợp trong chùa chỉ có một hoặc hai, hoặc ba vị tỳ khưu. Họ đối trước Phật đường, đọc ba lần lời phát nguyện an cư thì sự an cư cũng thành tựu.

Liên hệ với tự viện, có thể có một hay nhiều ngôi nhà nhỏ tạo dựng trong khuôn viên hoặc ngoài khuôn viên của chùa, gọi là thiền thất, hoặc thất, hoặc cốc, dành riêng cho một người tu tập. Nếu một vị tăng, ngoài mùa an cư, muốn dành ra một tuần, một tháng, hoặc ba tháng để thực hiện tọa thiền, thì ông ta có thể sử dụng một thiền thất như thế. Vị tăng này cũng xin làm lễ kết giới trong một khuôn viên nhỏ bao bọc thiền thất (có khi giới hạn là bốn vách của thiền thất). Một vị sa di trẻ tuổi được cử ra để giúp vị tăng kia về mặt cơm nước, áo quần, nước nôi, v.v… Vị sa di này thường để tâm săn sóc và cung cấp những gì vị tăng cần đến, không đợi vị tăng yêu cầu. Vị tăng chỉ nói khi nào rất cần thiết, vì trong những thời gian tĩnh tu như vậy ông ta thường không nói. Có thể ông ta chỉ viết một câu trên một mảnh giấy và trao cho vị sa di.

Mỗi vị sa di thường thân cận một vị tỳ khưu để học hỏi và để được chỉ dẫn. Người chỉ dẫn này có thể là vị hòa thượng, vị yết ma hay vị giáo thọ trong hội đồng truyền giới. Trong trường hợp những vị này không có mặt trong tự viện thì một vị khác sẽ được chỉ định để hướng dẫn sa di, làm người nương tựa cho sa di. Khi vị sa di mới thọ giới tỳ khưu, ông ta cũng phải y chỉ (nương tựa) vào một vị tỳ khưu có nhiều hạ lạp (tuổi hạ) hơn để được chỉ dẫn về cách học hỏi và tọa thiền.

TỌA THIỀN, DU PHƯƠNG, ỨNG PHÚ

Trong mỗi tự viện, vị thiền sư giữ trách nhiệm giảng dạy và hướng dẫn việc tọa thiền thường được gọi là Thượng tọa. Trách vụ chính của vị này không phải giảng giải kinh luận và Phật pháp, mà là hướng dẫn sự tu thiền. Những buổi giảng dạy về cách tu thiền thường ngắn ngủi. Tiếp theo là thì giờ thực tập. Ai có điều gì muốn hỏi thì hỏi trong giờ giảng dạy đó. Nhưng tại những tự viện đông đảo, trong mỗi buổi giảng dạy như thế, vị thiền sư chỉ có thể giải đáp thắc mắc cho một vài người. Những vị sa di và những vị tỳ khưu mới thọ giới ít có cơ hội để hỏi, vì vậy phải đem những thắc mắc của mình để hỏi một vị lớn tuổi hơn, nhất là vị mà mình đang y chỉ. Thỉnh thoảng thiền sư mở những cuộc tập hợp lớn gọi là đại tham để mọi người có cơ hội tham cứu. Nhưng tại các buổi đại tham này, chỉ những người có căn cơ khá vững mạnh mới dám đặt câu hỏi. Bởi thiền sư thường hay lật ngược các câu hỏi để khám phá trình độ tu chứng của người hỏi.

Thỉnh thoảng có giờ rỗi rảnh, vài ba người được gặp thượng tọa nơi hành lang hoặc trên bờ hồ hay ngoài sân cỏ, họ có thể lợi dụng cơ hội để tham cứu. Những cuộc tham cứu này được gọi là tiểu tham, dễ dàng cho những người sơ cơ hơn. Sơ cơ có nghĩa là mới bắt đầu sự nghiệp tu học mà thôi, đạo nghiệp còn chưa vững. Mỗi tháng một lần, có khi vài tháng một lần, các thiền giả được vào giáp mặt thiền sư trong vài ba phút. Cơ hội này rất quý hóa, bởi thiền giả được thiền sư tiếp một mình, và do đó chỉ có một mình đối diện thiền sư. Có khi thiền giả đặt câu hỏi, có khi thiền sư đặt câu hỏi thăm dò thiền giả; có khi thiền giả trình kiến giải của mình để thiền sư ấn chứng hoặc lắc đầu. Ấn chứng có nghĩa là công nhận rằng kiến giải kia đích thực phát sinh từ những chứng nghiệm của thiền giả, và thiền giả đã đi đúng đường, nên tiếp tục con đường thiền quán hiện tại. Nếu thiền sư lắc đầu thì thiền giả phải cố hỏi để tìm ra chỗ sai lầm của mình trong lúc hành trì, để sự thực tập của mình có kết quả hơn.

Tại tự viện, ngoài thì giờ làm vườn, trồng khoai, trồng bắp, quét dọn, chư tăng tụng kinh, công phu, học Phật, giảng kinh, dịch kinh và tọa thiền. Có những vị ở luôn suốt đời tại tự viện. Có vị đi du phương để tham khảo thiền học với những bậc cao đức nổi tiếng; gặp được bậc thầy vừa ý thì xin lưu trú lại để học đạo và thực tập dưới sự chỉ dẫn của vị này. Có vị ra lập chùa mới và đào tạo các vị tăng sĩ trẻ, bắt đầu từ sự thu nhận những người muốn thọ giới sa di. Có vị ra cộng tác với vài ba vị khác, mở trường dạy Phật pháp. Có vị ra trú trì và hành đạo tại các chùa nhỏ ở các địa phương chưa có tăng sĩ. Mùa hạ họ trở về tự viện an cư; trong chín tháng còn lại, họ hành đạo tại địa phương, giảng giáo lý cho tín đồ, làm lễ quy y tam bảo cho người mới vào đạo, tổ chức tụng kinh sám hối, cầu an, cầu siêu tại chùa. Họ lại đáp lời mời của tín đồ để tới tư gia tụng kinh, giảng đạo trong những dịp cầu an, cầu siêu, tang lễ, v.v… Công việc này gọi là công việc ứng phú, đáp ứng nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng của quần chúng. Trong chùa, họ nuôi những người trẻ làm sa di. Chùa có ruộng và vườn thì họ làm ruộng làm vườn; nếu công việc hành đạo chiếm nhiều thì giờ quá thì họ nhờ người cư sĩ tới làm công quả, lo việc vườn ruộng cho chùa. Sau khi những vị sa di đã học tập xong cơ bản của Phật pháp, họ gửi những vị này về tự viện để tiếp tục học thêm. Những vị tăng sĩ lo việc hành đạo ứng phú thường thân cận nhiều với tín đồ, và nhu yếu tín ngưỡng của tín đồ khiến cho yếu tố Mật tông và Tịnh độ tông càng ngày càng mạnh. Ở các tự viện thiền, ảnh hưởng Mật tông và Tịnh độ tông tuy lớn, nhưng sự tọa thiền vẫn là chính yếu. Tại các lễ cầu an và cầu siêu, sự trì tụng các đà la ni và sự niệm Phật cầu vãng sinh trở thành chính yếu. Số lượng của những vị hành đạo ứng phú thường lớn hơn số lượng của những vị cư trú thường trực trong tự viện. Thường thường người ta ước lượng sự thịnh suy của Phật giáo bằng những trước tác của tăng sĩ và bằng những công trình nghệ thuật và văn học của họ. Tuy vậy, có những người tu học chứng ngộ mà không để lại công trình sáng tác nghệ thuật và văn học: sự thịnh suy không thể chỉ được định đoạt trên những chứng tích kia. Hơn nữa, đứng về mặt tôn giáo tín ngưỡng, sự tôn sùng của quần chúng và số lượng đông đảo của tăng sĩ phụng sự cho tín ngưỡng, cũng có thể được nhận là một dấu hiệu hưng thịnh của Phật giáo dù sự hưng thịnh ấy chỉ đáng kể về mặt tín ngưỡng mà không phải là sự tu chứng.

SINH HOẠT CỦA GIỚI TẠI GIA

Nếu trong hàng xuất gia, các giới luật sa di và tỳ khưu thuộc Tiểu thừa còn giới luật Bồ tát thuộc Ðại thừa, thì trong hàng tại gia, Ngũ giới và giới Bát quan trai thuộc Tiểu thừa còn giới Thập thiện và Bồ tát thuộc Ðại thừa.

Xuất gia

Tại gia

Tiểu thừa

Sa di, tỳ khưu

Ngũ giới, Bát quan trai giới

Ðại thừa

Bồ tát giới

Bồ tát giới, Thập thiện giới

Thuyết minh đầy đủ về Ngũ giới là kinh Ưu Bà Tắc Giới. Nếu một người tại gia chỉ có khả năng lĩnh thọ và hành trì một hoặc hai trong năm giới thì được gọi là thiểu phần ưu bà tắc. Những người thọ trì ba giới trở lên được gọi là đa phần ưu bà tắc. Những người thọ trì đủ hết năm giới thì được gọi là toàn phần ưu bà tắc. Người nữ thì gọi là ưu bà di (upāsikā).

Bát quan trai giới gồm có tám giới cộng thêm sự ăn chay. Giới này được thọ trì trong một ngày một đêm tại chùa. Người cư sĩ nhận giới này có thể sống y như người xuất gia trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ. Tám giới là: 1) Không sát sinh; 2) Không trộm cướp; 3) Không tà dâm; 4) Không nói dối; 5) Không uống rượu; 6) Không dùng hương phấn, dầu thơm; 7) Không nằm giường cao rộng êm ái; 8) Không ăn uống ngoài giờ được chỉ định. Chữ quan trong Bát quan trai giới có nghĩa là cánh cửa. Thực hành giới này có thể giúp ta đóng bớt những cánh cửa phiền não, loạn tâm, cho nên gọi là “cánh cửa”. Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, người cư sĩ tập sống trong chánh niệm và quán chiếu, gặp gỡ thầy và bạn để học hỏi thêm Phật pháp, ngồi thiền, tập thở, cắm hoa, học kinh v.v… Thời gian tu Bát quan trai giới có thể ảnh hưởng tới những ngày còn lại trong tháng. Bát quan trai giới cũng được xem như là gạch nối giữa đời sống tự viện và đời sống cư sĩ, và ảnh hưởng của đời sống tự viện trên đời sống cư sĩ phần lớn đều do phương pháp tu học này.

Bồ tát giới, như ta đã biết, gồm có mười giới nặng và bốn mươi tám giới nhẹ, có thể áp dụng cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Bồ tát giới được thiết lập căn cứ trên phẩm Bồ Tát Tâm Ðịa Giới của kinh Phạm Võng Ðại thừa. Truyền thống Phật giáo cho rằng thuyết phục được một nhà lãnh đạo quốc gia (nhân vương) thọ Bồ tát giới là một công trình rất lớn. Nếu vị quốc vương phát nguyện đem khả năng và quyền năng của mình mà làm lợi ích cho nhân loại, thì sự hành đạo có kết quả rất lớn lao. Giọt mực dưới ngọn bút một vị quốc vương, khi ông ta sắp ký một đạo dụ miễn thuế cho dân chúng hay loại trừ những hình phạt tra tấn giam cầm chẳng hạn, được xem như là một giọt nước có đồng tính chất với giọt nước cam lộ từ bi dưới nhành dương liễu của Bồ tát Quan Thế Âm[6]. Trong những thời đại có sự hiện hữu của một đấng quân vương như thế, các tự viện trong thời “chúc tán” mỗi ngày sóc vọng đều có xưng tán và cầu nguyện cho vị “hộ quốc nhân vương Bồ tát”.

Theo sách Tam Tổ Thực Lục, năm 1304 vua Anh Tông thỉnh chư tăng vào cung để các quan trong triều thọ giới. Ðiều Ngự Trúc Lâm chủ tọa buổi truyền giới này. Chính Anh Tông đã phát nguyện thọ Bồ tát tâm giới. Quốc phụ Thượng Tể (Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn) cũng thọ Bồ tát giới tại gia năm 1321. Mãi cho đến cận đại, những Phật tử cư sĩ nào có ảnh hưởng lớn trong xã hội đều được khuyến thỉnh thọ Bồ tát giới tại gia, dù họ là người trong chính quyền hay trong nhân gian, trí thức hay không trí thức.

Thập thiện giới được thiết lập căn cứ trên kinh Thập Thiện Nghiệp Ðạo, gồm có mười giới:

1- Không giết hại sinh mạng, phải tìm cách bảo vệ sinh mạng.

2- Không trộm cướp, phải thực hành bố thí.

3- Không tà dâm, phải bảo vệ danh dự và hạnh phúc kẻ khác.

4- Không nói dối, phải nói lên sự thật.

5- Không nói lời ly gián, phải nói lời xây dựng và hòa giải.

6- Không chửi rủa, phải nói lời nhẹ nhàng dễ mến, ái ngữ.

7- Không nói lời thêu dệt, phải nói lời tạo nên sự tín nhiệm và kính nể.

8- Không để tâm tham dục điều khiển mình, phải sống giản dị.

9- Không để tâm giận dữ oán thù, phải phát triển tâm từ bi.

10- Không níu chặt thành kiến, phải cởi mở để trao đổi.

Mười giới trên có đặc tính của Ðại thừa. Theo sự giải thích của Trí Giả, người thành lập Thiên thai tông ở Trung Hoa, thì Thập thiện có hai mặt:

Một mặt là chỉ, tức là ngừng lại không làm điều sai ác, một mặt là hành tức là thực hiện những điều lành. Tam Tổ Thực Lục cho biết Ðiều Ngự Trúc Lâm sau khi đi xuất gia thường đi sâu trong nhân gian thuyết pháp về Thập thiện và khuyến khích dân chúng thực hành giáo lý Thập thiện.

Trong những thời đại dưới ảnh hưởng của Mật giáo, người cư sĩ còn chịu lễ quán đỉnh[7] và thọ Bồ đề tâm giới. Bồ đề tâm giới cũng là giới luật của Mật tông, còn được gọi là Tam muội gia giới (Samaya). Tam muội gia có sáu đặc tính:

1- Hội, có tính cách hội tụ.

2- Thời, đúng lúc.

3- Tông, thích nghi với truyền thống tông phái.

4- Bình đẳng, thể nhập vào thể tính chung của Phật và Bồ tát.

5- Kỉnh giác, tỉnh táo và ý thức.

6- Trừ cấu chướng, gột bỏ những điều chướng ngại bất tịnh trong tâm lý.

Sáu điều kiện kia là sáu đặc tính của tâm giác ngộ (Bồ đề tâm) theo định nghĩa của Mật giáo. Bồ đề tâm giới là giới luật sơ bộ của Mật tông. Giới luật này phải thực hiện đầy đủ trước khi được phép thọ trì phép Truyền pháp quán đỉnh (không phải phép Kết duyên quán đỉnh).

Bồ đề tâm, bản chất của Tam muội gia, gồm có ba mặt:

1) Bồ đề tâm hạnh nguyện, phát nguyện và thực hành. Nhận thức được rằng tất cả mọi chúng sinh đều có khả năng giác ngộ, nên phát nguyện cứu độ. Mà muốn cứu độ thì phải thực hành bốn lời nguyện lớn[8].

2) Bồ đề tâm thắng nghĩa, chấm dứt những tư tưởng, ngôn từ và hành động thấp kém; học tập phát huy những tư tưởng, ngôn từ và hành động cao đẹp.

3) Bồ đề tâm tam muội gia, có sáu đặc tính đã kể trên.

Vào ngày chư tăng xuất hạ (rằm tháng Bảy), hội Vu Lan được tổ chức rất lớn tại các chùa; đó là nhờ sự ủng hộ của giới tại gia. Căn cứ trên kinh Vu Lan Bồn (Ullambana), lễ Vu Lan được tổ chức để cúng dường chư tăng, cầu nguyện cho ông bà cha mẹ đã khuất được siêu độ. Những cuộc chẩn tế cho người nghèo, những cuộc thăm viếng người bệnh, những lễ phóng sinh (thả tự do cho chim, cá và các loài khác đã bị bắt) được tổ chức. Nhưng linh đình nhất là cuộc chẩn tế cho cô hồn: đàn chẩn tế và thí thực được tổ chức từ chiều cho tới khuya. Phép chẩn tế cô hồn được thực hiện theo một nghi thức nặng tính chất Mật giáo: đó là nghi thức Du Già khoa nghi. Sách Pháp Sự Ðạo Tràng Công Văn Cách Thức ấn hành năm 1299 thế nào cũng đã chứa đựng một khoa nghi về chẩn tế. Tuy vậy đến năm 1302, khi Hứa Tông Ðạo từ Trung Hoa sang, pháp thức chẩn tế mới trở thành rườm rà, nghi thức đầy dẫy văn chương, ấn quyết và thần chú. Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn của Lê Thánh Tông, Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du đều lấy cảm hứng ở đoạn văn thỉnh thập loại cô hồn trong Khoa Nghi Du Già.

Ngoài hội Vu Lan còn hội Phật Ðản. Từ đời Lý, mỗi năm hội Phật Ðản đã được tổ chức thật lớn lao rồi. Vua Lý Thánh Tông có lẽ là người đầu tiên đã làm cho lễ Phật Ðản trở thành quốc lễ lớn. Lễ Tắm Phật bằng nước ngũ vị hương được cử hành sáng ngày mồng tám tháng Tư tại chùa Diên Hựu. Vua, hoàng hậu, các hoàng tử và công chúa cùng triều thần bách quan đều có mặt. Dân chúng các nơi tụ về rất đông để dự lễ. Sau khi chư tăng tụng xong kinh Phật Thuyết Dục Tượng Công Ðức, thì nước thơm được giội lên tượng Phật. Trong khi đó, vua, quan và quần chúng chắp tay hướng về niệm Phật.

Sau lễ Tắm Phật là lễ Phóng Sinh. Vua bước lên kim đài dựng ở trước chùa. Chư tăng tụng kinh Kim Quang Minh trong khi một lồng chim được dâng lên. Kinh vừa dứt, vua đưa tay vào lồng bắt một con chim thả cho bay lên. Dân chúng hô lên “Vạn Tuế” rồi cùng đều thả chim rợp trời. Ðời các vua sau đều làm theo vua Thánh Tông trong ngày Phật Ðản. Vua Thánh Tông băng hà vào tháng Giêng âm lịch năm 1072; vua Nhân Tông làm lễ nối ngôi ở trước linh cữu. Nhưng vua đợi cho đến sau ngày Phật Ðản (mồng tám tháng Tư), hành lễ Tắm Phật và Phóng Sinh xong thì mới ngự ra điện Thiên An thiết triều lần thứ nhất…

Lễ Tắm Phật và Phóng Sinh được tổ chức vào buổi sáng. Buổi tối có lễ Phóng Ðăng, thả hàng ngàn đèn trôi trên sông hồ. Ðến đời Lê, lễ Phật Ðản không còn là quốc lễ nữa, nhưng dân chúng vẫn tiếp tục phóng sinh và phóng đăng trong ngày Phật Ðản dù không có vua chúa tham dự.

Những ngày lễ khác như ngày kỷ niệm Xuất Gia, Thành Ðạo và Nhập Diệt của Phật cũng được tổ chức, nhưng không được trọng thể bằng hai lễ trên. Thêm vào đó còn các ngày vía các Ðức Phật và Bồ tát.

Những tối 14 và 30 mỗi tháng, nhiều gia đình lên chùa lễ Phật sám hối… Vào những ngày rằm và mồng một, mọi người trong gia đình thường lên chùa lễ Phật, cúng dường, đem theo hoa quả và trầm hương, đèn nến.

Trong quan niệm đạo Phật bình dân, mục đích gần nhất của sự tu hành là tạo thêm công đức. Công đức vốn được dịch từ danh từ Phạn ngữ punya, là sự tập hợp của những hành động tốt, là một kho tàng vô hình bảo đảm cho hạnh phúc của tương lai. Nếu có nhiều công đức, người ta sẽ được sống an lành trong kiếp này và trong những kiếp sau; không những mình mà con cháu mình cũng có thể được thừa hưởng. Công đức cũng như là một trương mục tiết kiệm trong ngân hàng vậy. Muốn tạo công đức phải làm công quả. Công quả là một danh từ bình dân có nghĩa là có công thì có quả. Giữ giới, ăn chay, tụng kinh, in kinh, làm chùa, đúc tượng, cúng chùa, chẩn tế cho người nghèo khó và cho cô hồn đói lạnh… đó là những việc làm tạo nên công đức. Nếu không có phương tiện tài chánh thì cũng có thể dùng thì giờ của mình để tạo công đức, như tới chùa làm công việc vặt, sung vào ban hộ niệm để tụng kinh cầu an, cầu siêu, sung vào ban tương tế để đi lo cho những người nghèo khổ, đói, bệnh.

Người cư sĩ cũng biết rằng mục đích cuối cùng của sự tu hành là giải thoát. Những phương pháp tạo dựng công đức trên kia được gọi là tu phước, không đủ để giải quyết vấn đề sống chết mai sau. Vì vậy phải tu huệ. Tu huệ là niệm Phật, học kinh và ngồi thiền. Niệm Phật là một lối ngồi thiền dễ thực hành hơn hết, vì niệm Phật cũng đưa đến sự định tâm, gọi là nhất tâm bất loạn.

[1] Các vua đời Lý đã dựng trên ba mươi ngôi chùa: Vua Thái Tổ dựng các chùa Hưng Thiên Ngự, Thắng Nghiêm, Ðại Giáo (1010), Vạn Thọ, Tứ Ðại Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng Thánh Thọ (1011), Thiên Quang, Thiên Ðức (1016), Chân Giáo (1024), Diên Hựu (1049); vua Thánh Tông dựng các chùa Ðông Lâm, Tĩnh Lự (1055), Báo Thiên (1056), Thiên Phúc, Thiên Thọ (1057), Sùng Nghiêm Báo Ðức (1059), Nhị Thiên Vương (1070); vua Nhân Tông dựng các chùa Lãm Sơn (1086), Vĩnh Phúc (1100), Sùng Phúc (1115), Quảng Giáo (1121), Hộ Thánh (1124); vua Thần Tông dựng các chùa Quảng Nghiêm Tứ Thánh (1130), Thiên Ninh, Thiên Thành (1133); vua Anh Tông dựng các chùa Vĩnh Long, Phúc Thánh (1144); vua Cao Tông dựng chùa Thánh Huân (1206). Khoảng mười ngôi chùa khác do các vua Lý dựng chưa kể được tên. Ðến đời Trần, một số trong các chùa kể trên đã đổ nát, không được xây dựng lại.

Các vua Trần cũng dựng thêm chùa, nhưng các quốc tự được chính quyền chu cấp có lẽ chỉ vào số 15 ngôi.

[2]Thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú”, trích trong Tâm Kinh Bát Nhã.

[3] Nếu là ở nơi xa xôi cách trở thì số người trong hội đồng có thể rút xuống năm vị.

[4] Giới tử: Những người sắp được thọ giới.

[5] Giới cụ túc: giới tỳ khưu. Cụ túc có nghĩa là hoàn toàn đầy đủ.

[6] Lời tán dương nước từ bi của Quan Thế Âm: “Hoặc đọng dưới ngòi bút rồng của đấng quân vương sẽ làm cho sóng ơn tràn khắp, hoặc đọng trên cành liễu của Bồ tát tưới thành cam lộ” (Hoặc tại quân vương long bút hạ tán tác ân ba, hoặc cư Bồ tát dương liễu đầu sái vi cam lộ).

[7] Xin xem trang 329, tập 1.

[8] Tứ hoằng thệ nguyện: “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ; phiền não vô tận thệ nguyện đoạn; pháp môn vô thượng thệ nguyện học; Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.”