Hãy gọi đúng tên tôi
Đừng bảo ngày mai tôi đã ra đi
Bởi vì chính hôm nay tôi vẫn còn đang tới
Hãy ngắm tôi thoát hình trong từng phút từng giây
Làm đọt lá trên cành xuân
Làm con chim non cánh mềm chiêm chiếp
vui mừng trong tổ mới
Làm con sâu xanh trên cuống hoa hồng
Làm gân viên ngọc trắng tượng hình trong lòng đá.
Tôi còn tới để khóc để cười
Để ước mong để lo sợ
Sự xuất nhập của tôi là hơi thở
Nhịp sinh diệt của tôi cũng là tiếng đập một lần
của hàng triệu trái tim.
Tôi là con phù du thoát hình trên mặt nước
Và là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du
Tôi là con ếch bơi trong hồ thu
Và cũng là con rắn nước trườn đi
Tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái
Tôi là em bé nghèo Ouganda, bao nhiêu xương sườn đều lộ ra,
hai bàn chân bằng hai ống sậy
Tôi cũng là người chế tạo bom đạn
Để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á phi.
Tôi là em bé mười hai
Bị làm nhục nhảy xuống biển sâu
Tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim
chưa biết nhìn biết cảm
Tôi là người đảng viên cao cấp, cầm quyền sinh sát trong tay
Và cũng là kẻ bị coi là có nợ máu nhân dân đang chết dần mòn
trong trại tập trung cải tạo
Nỗi vui của tôi thanh thoát như trời Xuân,
ấm áp cỏ hoa muôn lối
Niềm đau của tôi đọng thành nước mắt,
ngập về bốn đại dương sâu.
Hãy nhớ gọi đúng tên tôi
Cho tôi được nghe một lần tất cả những tiếng
tôi khóc tôi cười
Cho tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một
Hãy nhớ gọi đúng tên tôi
Cho tôi giật mình tỉnh thức
Và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ
Cánh cửa Xót Thương.
Chân tình
Mắt em là sáu đại
Mà xinh đẹp rạng ngời
Làm sao tôi nắm bắt chúng làm của tôi?
Làm sao tôi khiến chúng trở nên bất diệt?
Nhưng tại chiều sâu tâm linh, tôi biết
Trong đôi bàn tay ghì chặt
Mắt em không thể thực sự còn là mắt em
Giọng nói em là sáu đại
Mà thanh tao tuyệt vời
Làm sao tôi nắm bắt nó làm của tôi?
Làm sao tôi khiến nó trở nên bất diệt?
Nhưng tại chiều sâu tâm linh, tôi biết
Trong đôi bàn tay ghì chặt
Giọng nói em không thể thực sự còn là giọng nói em.
Nụ cười em là sáu đại
Mà rạng rỡ tuyệt vời
Làm sao tôi nắm bắt nó thành của tôi?
Làm sao tôi khiến nó trở nên bất diệt?
Nhưng tại chiều sâu tâm linh, tôi biết
Trong đôi bàn tay ghì chặt
Nụ cười em không thể thực sự còn là nụ cười em.
Mắt em là vô thường
Vâng, tôi đã được dạy như thế
Và tôi cũng thấy như thế
Nhưng mắt em vẫn xinh đẹp như thường
Và chính vì chúng vô thường
Nên chúng càng xinh đẹp
Những gì trên thế gian mà mong manh
Là những gì đẹp nhất
Một ngôi sao băng
Một giọt sương sớm
Một đóa phù dung.
Mắt em là vô ngã
Vì vậy mắt em càng rạng rỡ
Ngã có dính líu gì tới một đôi mắt trong?
Tôi muốn chiêm ngưỡng đôi mắt em
Dù tôi biết chúng là vô thường
Dù tôi biết chúng là vô ngã
Mắt em xinh đẹp
Tôi biết mắt ấy vô thường
Nhưng vô thường thì vô thường, có gì sai trái?
Không vô thường, có cái gì hiện hữu được chăng?
Mắt em xinh đẹp
Tôi được dạy rằng mắt ấy không phải là em
Rằng mắt ấy vô ngã
Nhưng vô ngã thì vô ngã, có gì sai trái?
Nếu có ngã, làm sao sự vật có mặt được trên đời?
Vì thế cho nên
Dù mắt em chỉ được làm bằng sáu đại
Dù mắt em vô thường
Dù mắt em không phải là em
Mắt em vẫn xinh đẹp
Và tôi vẫn muốn chiêm ngưỡng mắt em
Chừng nào mắt em vẫn còn biểu hiện.
Biết mắt em vô thường
Tôi chiêm ngưỡng mà không cần muốn nó là của tôi
Tôi chiêm ngưỡng mà không cần nó có mặt muôn đời
Chiêm ngưỡng mắt em
Tôi còn giữ tự do tôi nguyên vẹn
Yêu mắt em
Tôi tập thương yêu thật sự
Tôi thấy mắt em quả thực được làm bằng sáu đại,
Này địa, này thủy
Này hỏa, này phong
Này không, này thức
Sáu đại ấy cũng vô cùng mầu nhiệm như đôi mắt em.
Yêu mắt em
Nhưng tôi cũng yêu trời xanh
Yêu tiếng nói em
Nhưng tôi cũng yêu tiếng chim ca lảnh lót
Yêu nụ cười em
Nhưng tôi cũng yêu những con bướm đủ màu
đang nhẹ lướt trên muôn hoa
Mỗi phút giây
Tôi học làm người yêu chân thật
Mỗi phút giây
Tôi làm phát hiện chân tình
Mắt em xinh đẹp
Tiếng nói em, tiếng cười em mầu nhiệm
Như trời xanh kia
Những tiếng chim líu lo kia
Và những con bướm nhẹ nhàng kia cũng vô cùng mầu nhiệm
Tôi thương yêu tất cả
Tôi nguyền bảo vệ cho tất cả
Vâng, tôi biết
Thương yêu là kính ngưỡng
Là bảo vệ
Là không xâm phạm
Kính ngưỡng và bảo vệ
Đó là tình tôi.
Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt
Nắng trên không gian và thơ trên nắng
Thơ làm ra nắng nắng ra thơ
Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua
Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,
trong khi bên ngoài gió hú
Thơ theo gió đi về cồn xưa bãi cũ
Mái tranh nghèo còn đứng đợi ven sông
Thơ nơi từng giọt mưa Xuân
Thơ trong từng đốm lửa hồng
Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm
Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử
Nắng vắng trong hư không, nhưng nắng chất đầy một lò sưởi đỏ
Nắng lên thành mầu Khói, thơ đọng thành mầu Sương
Nắng cất giữ trong từng hạt mưa Xuân
Giọt nước cúi xuống hôn Đất, cho hạt cây nẩy Mầm
Thơ đi theo mưa, về trên từng đọt Lá
Nắng thành mầu Xanh, thơ mầu Hồng
Nắng chở trên cánh Ong tới trút Ấm lên đài hoa
Thơ theo nắng về rừng xa uống Mật
Tưng bừng, xôn xao, bướm ong về chật đất
Nắng làm nên khúc Múa, thơ làm nên lời Ca
Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày
Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở
Nắng rụng bên Sông, bóng Chiều ngập ngừng bỡ ngỡ
Thơ đi về chân trời, nơi vầng Sáng đang đắp chân mây
Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi
Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám
Thơ trong ánh mắt em thơ, thơ trong mầu da nắng sạm
Thơ nơi từng cái Nhìn chăm chú
Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm
Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương
Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào Tiên tháng tám
Thơ nơi từng bước chân thiền quán
Thơ nơi từng dòng chữ
Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương.
Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt
- Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt
- Chân tình
- Hãy gọi đúng tên tôi
- Tìm nhau
- An tịnh tâm hành
- Chấm dứt luân hồi
- Ngắm trăng
- Phổ nhập
- Phi cóc tính
- Đi vòng quanh
- Ý thức em mặt trời tỏ rạng
- Trung tâm thiền
- Cúc cu đúng hẹn
- Mở thêm rộng lớn con đường
- Địa xúc
- Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt – Nhất Hạnh
- Cầu hiểu, cầu thương
- Tin vui
- Em là khu vườn tôi
- Nhất Như
- Trẻ em đủ các sắc mầu
- Tương tức
Tuyên ngôn của con người không khuất phục
các anh chống chúng tôi
chỉ vì chúng tôi muốn làm lắng xuống căm thù
trong khi các anh mưu toan
dùng căm thù làm sức mạnh
các anh nguyền rủa chúng tôi
bởi vì chúng tôi không chịu nhận lời
đi dán nhãn hiệu trên con người
để chĩa họng súng đem ngòm vào đó
các anh lên án chúng tôi
bởi vì các anh không xử dụng được máu xương này
để trang trải nợ hận thù tham vọng
bởi vì chúng tôi nhất quyết đứng về phía con người
chống lại bạo lực và bảo vệ đến cùng Sự Sống
các anh thanh toán chúng tôi
bởi vì chúng tôi chỉ chịu cúi đầu
trước tình yêu và lẽ phải
bởi vì chúng tôi nhất quyết không chịu đồng nhất loài người
với loài lang sói.
Bài thơ này có vẻ như là lời tuyên ngôn xác nhận lại lập trường trước những đe dọa của bạo lực từ hai phía. Tôi chọn bài này để cuối tập cũng là để mượn lời thầy ca ngợi những trái tim quả cảm như thầy Quảng Đức, Nhất Chi Mai, Thích Thiện Minh, Vũ Hoàng Chương… còn biết bao nhiêu tâm hồn nhân đạo nữa mà ta biết tới hoặc chưa biết tới. Đất nước còn thì những người như thế vẫn còn và tiếng gào thét của súng đạn hoặc của cuồng tín không thể nào che lấp được tiếng nói của những con người đã biết đặt tình thương yêu nhân loại lên trên mọi tham vọng và mọi chủ nghĩa. Như tác giả Dấu Chân Trên Cát đã nói: “Yêu nước thì dễ, yêu người mới khó.” Tôi nghĩ: “Thực ra, nếu yêu người không được thì làm sao yêu nước được?”
Mùa xưa
cỏ dại lưng đồi
khoai sắn nuôi em
tuổi mười ba, mười bốn
chiều về nắng gội
nương dâu xanh
lá đỏ rụng đầy thềm
mơ xưa tràn đầy gối mộng
lúa tới mùa rồi
tiếng hát vẳng thâu đêm.
Hộ niệm
bên kia bờ biển Mã Lai
bên ta châu Úc giữ hoài đêm đêm
ước chi sóng lặng biển hiền
buồm căng thuận gió cho thuyền tới nơi
đất lành, chim đậu thảnh thơi
cho trăng sáng lại, cho người thương nhau
sóng kia cũng biết gật đầu
sao kia cũng biết nguyện cầu sáng đêm.
Thầy viết những vần thơ trên bên bờ biển Úc ngày 19 tháng 2 năm 1977, sau khi chú nguyện cho chiếc Roland chở được 300 đồng bào tị nạn về tới bến Perth an toàn. (Chương trình đi bằng chiếc Koojara bị phá, Thầy định cho chiếc Roland đi trước theo ước vọng của đồng bào.) Nhưng chiếc Roland chỉ mới rời khỏi hải phận Mã Lai thì đã bị bắt lại.
Vững cánh
loạn cánh
một buổi chiều gió lộng
tan tác mây thu
những bóng chim giã từ
dư ảnh mùa xuân nắng ấm
người đã từ lâu quỳ nơi giáo đường bình lặng
bỗng dưng nghe qua hồn mùa
chiều nay vang vang tiếng gọi
lên đường vượt cánh đồng dài tuyết giá
vững cánh chở niềm tin.
Babita
hai mắt mở tròn
chưa đủ thì giờ để ngạc nhiên
Babita đã nằm trong vòng tay tôi
toàn thân Babita
run rẩy
tiếng khóc như tiếng rên
Babita không dám khóc to
v ì Babita đột nhiên
rơi vào vùng xa lạ
Babita đột nhiên
lọt vào đền thánh uy nghiêm
hai bàn tay tôi run theo
trên mái tóc non
miệng tôi nói những lời trấn an
mà Babita không hiểu
nhưng rồi Babita nằm yên
Babita nằm yên.
ôi tôi muốn ôm vào hai tay
tất cả những em bé mồ côi hai tuổi rưỡi
họ bỏ Babita ở đây
để còn lo cách mạng
Babita có thể chờ
những tháng dài không sữa
những ngày dài bò trên sân nắng
trộn nước mũi với bùn đất
la lết bên đống phân
Babita còn trẻ
Babita có thể chờ
ngày cách mạng thành công.
Babita là một em bé gái mồ côi hai tuổi rưỡi ở một xóm cùng đinh (intouchables) gần Nagpur, Ấn Độ. Thầy nói trong chuyến đi Ấn Độ năm 1976 Thầy đã ẵm trong tay hàng trăm em bé như Babita.
Sau chuyến đi Ấn Độ và Bangladesh năm ấy, Thầy bị đau phổi, kiết lỵ và bệnh sốt rét ngày xưa tái phát. Bác sĩ Choy Leng phải trị cả một tháng trời mới bớt.
Chắc các bạn của tôi đã biết tới phong trào phục hưng Phật giáo tại Ấn Độ do bác sĩ Ambedkar lãnh đạo. Ambedkar vốn thuộc giai cấp cùng đinh hạ tiện, một giới mà, theo tín ngưỡng Ấn Độ giáo, sinh ra là để làm những công việc thấp hèn; người Bà La Môn quý phái, hễ đụng tới họ là bị ô uế, vì vậy họ bị gọi là intouchables. Ambedkar biết rằng nếu không phá được hàng rào Ấn Độ giáo thì giai cấp của ông không bao giờ thoát được xích xiềng nô lệ hàng ngàn kiếp, cho nên ông đã theo Phật và kêu gọi dân “cùng đinh hạ tiện” theo đạo Phật, lấy đạo Phật làm phương tiện dập phá xích xiềng để vươn lên giải thoát. Ngày 14 tháng 10 năm 1956, tại Nagpur, 500.000 người đã được quy y thành Phật tử. Từ ngày đó trở đi, phong trào Phật giáo của giới cùng đinh tiếp tục lan rộng mặc dù vị lãnh đạo của họ, bác sĩ Ambedkar đã từ trần năm 1956. Năm 1976, thầy Nhất Hạnh đã đi thăm viếng nhiều tiểu bang Ấn Độ, nơi phong trào có cơ sở. Thầy đã nói chuyện với giới lãnh đạo, nhất là giới thanh niên, thanh nữ, về những khó khăn hiện tại của phong trào; và giới trẻ đã hướng dẫn Thầy đi thăm những vùng nghèo đói, chậm tiến nhất trong giới cùng đinh. Nhà Babita là một cái động làm bằng bùn và rơm. Babita mồ côi, được bà ngoại đem về nuôi. Bà ngoại Babita đi làm suốt ngày, để Babita bò chơi trong sân.
“Kể sao cho hết những nghèo khổ đau xót uất ức của giới cùng đinh này”, Thầy đã nói như vậy. Thầy có gặp một người chủ gia đình của bốn em bé, tất cả đều dưới tám tuổi. Người chủ hằng ngày phải đi tắm trâu cho nhà giàu để lấy tiền nuôi bốn đứa em vừa đói vừa bệnh tật. Trong chuyến đi Bangladesh, Thầy nói đã gặp những trẻ thơ bị bỏ bên vệ đường mà không ai lượm về nuôi. Thầy cầu xin với vị giám đốc cô nhi viện Phật giáo ở Dacca, ông này không thể lượm về, vì sức ông còn chưa đủ nuôi các em hiện có trong cô nhi viện. Thầy đành khóc mà đi qua. Sau chuyến đi, Thầy đã về năn nỉ Pierre và Neige thiết lập một tổ chức vận động giúp đỡ cô nhi Bangladesh.
Bài Babita Thầy viết trên một tờ “ô-ram” gởi về cho tôi tại văn phòng. Tôi đã chép lại một bản và đưa vào trong Dấu chân trên cát. Tôi chắc Thầy đã ru Babita bằng tiếng Việt: “Nín đi con, đừng sợ, Thầy đây mà!”. Có lẽ đó là những lời Thầy nói với Babita.
