Chương 2: Hạt giống nhìn sâu

52 năm theo thầy học đạo và phụng sự – Hồi kí của Sư cô Chân Không


Con gái không được học cao, và người lớn được quyền đánh người nhỏ!

Chị Bê tuy lớn hơn tôi hai tuổi nhưng học yếu hơn bé Chín (là tôi) nhiều, bé Chín phải dạy kèm lại chị. Đến năm 18 tuổi chị Bê và anh Nhã, anh chàng hàng xóm nhà tôi yêu nhau và ba má tôi đã làm lễ vu quy cho chị, tặng chị nữ trang làm của hồi môn như là lo cho con gái của mình. Lên trung học, tôi may mắn được nhận vào trường Marie Curie và rời thành phố Bến Tre hiền lành lên Sài Gòn ở nhà người chị ruột là chị Ba. Noi gương ba mẹ, chị Ba và anh Ba đã cho tôi nương náu tại nhà anh chị để đi học mà ba má không phải trả đồng nào. Tôi may mắn được học lên trung học trong khi chị Cả là chị Hai của tôi – đảm đang và gương mẫu nhất trong gia đình, vốn là học sinh xuất sắc nhất lớp mà không được tiếp tục học lên trung học, tiếp tục con đường học vấn. Gia đình tôi và cả xã hội hồi đó bị ảnh hưởng Khổng giáo rất nặng. Hai điều mà Khổng giáo cho là “tiêu chuẩn mẫu mực” thì tôi đều không phục và bất tuân. Tiêu chuẩn thứ nhất là: Phụ nữ phải tòng chồng, không cần học hành chữ nghĩa chi cho nhiều. Phụ nữ đi học vô ích. Đi học là để có nghề nuôi thân và nuôi con, phụ nữ chỉ học công dung ngôn hạnh thôi, tất cả việc còn lại thì để chồng lo và nuôi! Vì thế ba má tôi tính toán kỹ, với số lương của ba, chắc là chỉ đủ tiền cho hai người con trai đi học lên cao là anh Tư và anh Sáu thôi. Bảy người con gái chỉ nên học để biết viết, biết đọc, và làm toán, biết tính sổ sách cho gia đình, xong Certificat d’Etudes Primaires là đủ. Vì thế học xong tiểu học, tuy là chị Hai tôi đứng đầu lớp, ba má vẫn giữ chị ở nhà. Chị đã khóc rất nhiều nhưng cũng phải ở nhà thôi. Tiêu chuẩn Khổng giáo thứ hai là: Thượng áp hạ. Người sinh ra trước khôn ngoan hơn, người nhỏ phải tuân theo, không có quyền cãi lại. Tôi không tin đều đó là đúng. Bởi vì rõ ràng, chị Tám tôi, hơn tôi ba tuổi thật đấy, nhưng đâu có giỏi gì hơn tôi, có khi còn làm sai lầm lớn, bị má và chị Hai phạt nữa. Thế mà mỗi lần có sự bất đồng ý kiến giữa chị và tôi, chị đều nói: Em im miệng, thượng áp hạ, em phải nghe lời chị, không nghe chị đánh. Tôi nói: Chị nói sai, em mới đúng, em không im. Chị bảo: Em phải làm theo, hoặc là em im cái miệng của em lại, không nghe chị sẽ đánh. Tôi nói: Em đúng, em không làm theo chị, em không im. Thế là chị Tám tát vào mặt tôi một cái đau điếng, tôi không đánh lại nhưng tôi nói: Ỷ lớn ăn hiếp người nhỏ, em không phục, em không làm theo, em không im. Thế là chị tát vào mặt tôi thêm lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, lần thứ năm. Tuy tôi không đánh lại nhưng lần nào tôi cũng nói: Không phục, không sợ, không im. Chị cứ đánh túi bụi, tôi không đánh trả, nhưng cứ nói một cách hùng tráng: Em không phục, không sợ, không im. Cho tới khi bị đánh đau quá, tôi chịu hết nổi, bỏ chạy vừa la lớn: Em không phục, không sợ, không im! Câu chuyện đến tai má và chị Hai. Ai cũng theo đúng tiêu chuẩn Thượng Áp Hạ nên tôi vẫn thua, nhưng trong lòng tôi không phục cái khuôn thước nào đó mà cả nhà tuân theo như khuôn vàng thước ngọc. Và tôi vẫn tin là mình có cái thấy sâu sắc, mình đi đúng đường. Rất nhiều lần tôi bị đánh như thế bởi vài người lớn khác, tuy không cãi lại nhưng tôi vẫn tin là mình đúng. Hai mươi năm sau, cả nhà mới biết là tôi đi đúng đường. Và cả đại gia đình đều thừa hưởng cái sâu sắc bao dung đẹp đẽ của con đường tôi đi. Chắc chắn là trước khi biểu hiện trong bụng má, tôi đã mang theo tàng thức của ông bà nhiều kiếp trước, có những tính khí khác tám người con khác của ba má. Chắc chắn là tôi nhận được rất nhiều hạt giống cách mạng và hạt giống tu học.

Nhìn sâu và tại sao?

Các chị khác như chị Ba, chị Năm, chị Bảy, chị Tám cũng không được ba má cho học lên trung học nhưng bù lại thì ba tôi cho các chị đi Sài Gòn, theo một trường tư nhân, học nói tiếng Pháp – chỉ sáu tháng thôi. Riêng tôi, được trường Marie Curie chấp nhận sau khi xem học bạ tốt bên trường Tiểu Học Bến Tre. Ở Trung Học Marie Curie, tôi đã luôn luôn là một trong năm người đứng đầu lớp. Mỗi tháng bà hiệu trưởng người Pháp mặc áo costume-tailleur thật sang trọng, đi giày cao gót cộp cộp thật oai vệ, theo sau là ông giám học và một vài phụ tá đem “tableau d’honneur” màu đỏ chói đến gọi tên năm học trò học giỏi nhất lớp lên nhận. Không tháng nào là tôi không có tableau d’honneur. Trường này không phải đóng tiền học như các trường tư thục khác và chỉ gồm những người con nhà giàu. Tôi cũng không có tiền túi ăn quà nhiều như các cô gái sang trọng kia, và đã đứng nhìn các cô gái nhà giàu ăn kem Eskimo – kem sữa trắng bọc một lớp sô cô la mỏng và dòn – 5 đồng một cây – xem họ như thuộc thế giới khác. Mỗi sáng tôi chỉ xin 2 đồng mua bánh mì cặp chả mà ăn. Mì nước, phở, hủ tiếu hay kem Eskimo giá đến 5 đồng mới có ăn. Tôi không muốn xài tiền của ba tôi nhiều hơn số tiền ăn sáng tối thiểu của một học trò nhà nghèo (như là mỗi sáng một củ khoai lang ngày xưa). Xa nhà, có dịp tiếp xúc nhiều và đủ tuổi để quán chiếu, nhìn sâu hơn, tôi đã bắt đầu manh nha trong tâm nhiều tư tưởng “cách mạng” từ lúc mười hai mười ba tuổi ấy. Vì tôi ở xa mà học giỏi nên ba tôi dặn chị Ba giữ một số tiền để tùy tôi sử dụng khi cần. Ba tôi tin tôi đủ tinh thần trách nhiệm sẽ không phí phạm, có thể sử dụng đúng mức những số tiền cần xài cho việc đi học trung học của tôi. Và tôi đã xứng đáng với niềm tin ấy, không bao giờ lấy tiền đó ăn sáng, mua bì bún hay hủ tiếu ăn như ngày xưa tôi đã từng ước mơ! Những giấc mơ ăn ngon đó tôi muốn cống hiến cho các em bé nhà nghèo, chưa bao giờ được ăn nguyên một đĩa mì, một tô hủ tiếu ngon, ở các hiệu ăn nổi tiếng mà các em chạy quanh tìm cách xin đánh giày để có tiền đem về cho mẹ.

Ba tôi thường đi Sài Gòn do sở Công Chánh đặc cử để mua xi măng, gạch ngói cho các công trình xây cất của sở cho tỉnh nhà. Mỗi lần từ Bến Tre lên Sài Gòn như thế, ba tôi hay ở lại đêm, sáng hôm sau mới về lại Bến Tre, tối đến ba tôi rủ cả nhà đi chơi. Những tối như thế ba tôi hay mời cả nhà đi ăn nhà hàng, ăn mì xào dòn hay xào mềm, mì nước, hoành thánh ở đường Nguyễn Tri Phương hay hủ tiếu Nam Vang ở Chợ Cũ… Có khi thì cả nhà kéo nhau đi ăn chả giò ở đường Chaigneau, ăn phở chín ở đường Turcq, phở tái ở số 79 đường Võ Tánh, khi thì ăn cơm gà luộc ở chợ An Đông… Sau đó ghé vào chơi ở Đại Thế Giới, có ngồi loại xe điện để trẻ con ngồi lái, chạy đụng nhau cho vui… Đi một vài lần cho ba vui nhưng tôi không cảm thấy thoải mái trong không khí ăn chơi đó. Trong cái đầu nhỏ bé của tôi, tôi thấy có cái gì bất công trong cách sống của mọi người. Tôi không muốn bị cuốn vào guồng máy đó. Những câu hỏi như: Tại sao tôi lại được đi học, có cơm ăn, có tiền xài trong khi nhiều em bé còn nhỏ đã bị đánh đập, bắt đi làm thuê, bán báo, đánh giày, ở đợ và không được đến trường? Có khi thiếu ăn quá, đói, các em phải ăn cắp, bị bắt và đi tù. Tại sao? Tại sao?

Kèm trẻ để có tiền tự túc

Tôi bắt đầu im lặng từ chối theo ba và các anh chị lớn đi ăn tiệm mỗi tối khi ba lên Sài Gòn, tôi viện cớ bận làm bài thi v.v.., nhưng thật ra tôi đã làm xong bài từ buổi trưa. Buổi chiều tôi tìm cách xin đi kèm trẻ về toán và văn để có thêm tiền túi. Tiền làm ra tôi mời các cháu đánh giày vào tiệm, đãi chúng ăn thỏa thích, một tô mì nước, một đĩa mì xào dòn có tôm, mực, thịt bò v.v… và dĩ nhiên, tôi cũng ngồi thưởng thức chung với các em các đĩa mì ước mơ bằng tiền tôi làm ra, bằng lao tác kèm trẻ. Mỗi em được đãi hai món mà em thích. Một hôm tôi có ý định đi thăm nhà các em, tôi hỏi: tại sao em không được đi học? – Tại mẹ em nghèo không đủ nuôi thân làm sao nuôi em và các em em. Ba em đâu? – Ba bỏ mẹ rồi v.v… Tại sao tôi thương được mấy bé này mà ba nó bỏ nó? Cái đầu của tôi có nhiều câu hỏi không được giải đáp. Tôi vẫn đi học – điểm khá cao – vẫn đi kèm trẻ để có tiền cho các em đánh giày đi ăn tiệm mà chưa tìm ra được giải pháp.

Những áng mây màu

Tôi đã đến tuổi mộng mơ. Mỗi lần nghỉ hè về quê, nhân dịp anh Bảy hay anh Năm đàn cho hai chị hát, có anh Phú ở gần nhà anh Năm, cũng hay đến nhà chơi. Có khi anh Phú rủ cả nhóm trẻ đạp xe đạp đi cùng khắp các vùng quê quanh thị xã. Tôi rất ưa những cuộc du ngoạn bằng xe đạp ấy. Anh Phú rất yêu tiếng hát của tôi vì anh đàn Mandoline thật tuyệt. Đợi khi không có ai đứng gần anh nói khẽ vào tai tôi: Tiếng Phượng hát mỏng như tơ, rung nhè nhẹ… thật dịu dàng, anh muốn được nghe Phượng hát suốt đời… Mỗi khi nhà có dịp họp mặt người trẻ thì lúc nào anh Phú cũng nhìn tôi tha thiết năn nỉ tôi hát. Một hôm anh viết thư cho tôi, xin tôi cho phép được thương tôi như người bạn đời, và muốn xin cha mẹ anh đi tới xin làm đám hỏi thôi, rồi khi nào tôi lớn hơn và học xong mới làm đám cưới. Trời! 16 tuổi mà đeo nhẫn hỏi… Sao lạ vậy? Tôi làm như chẳng nhận được thư và luống cuống tìm cách tránh mặt anh ấy luôn. Trong nhóm bạn trẻ đến chơi nhà tôi vào mùa hè có Tuấn con bác sĩ Mãnh ở Bến Tre cũng thương tôi. Tuấn tuyên bố khiến nhiều bạn trẻ trong tỉnh đều biết là Tuấn thương tôi. Ngày nào chàng cũng tìm cách tới nhà, nói chuyện tầm phào và rủ tôi hát vì Tuấn đàn guitare espagnole hay lắm, nhưng tôi thì chỉ thích đạp xe đi chơi, nên Tuấn cũng phải đạp xe đi theo thôi. Tuấn, Phú, anh Rép, anh Nhứt, anh Nhì, chị Tám, em Mười và tôi… có khi đạp xe đạp đi vào một chùa quê xa tận Cầu Gò Đàn, có khi đi về phía bắc Hàm Luông về tận Mỏ Cày vào mỗi dịp hè, khi tôi về Bến Tre chơi hai tháng. Lên lại Sài Gòn, nhiều lần Tuấn tìm cách đến thăm tôi ở Sài Gòn nhưng tôi xin lỗi vì quá bận học và không tiếp. Sơn – Hoàng Xuân Sơn – em nuôi chị Tám, bạn anh Rép cũng hay tới chơi ở Sài Gòn. Sơn có viết nhiều bài thơ tặng tôi. Nhưng khi bước chân lên Sài Gòn, thì giờ của tôi là để học, để xứng đáng lòng tin cậy của ba má. Ham học và có nhiều ưu tư khác trong cuộc đời nên tôi tránh Sơn mãi, làm như chưa bao giờ nhận được bức thư nào của Sơn cả.

Hay tin quê nội đã bị bom đạn hoang tàn tôi thương nhớ và tập tành viết văn tiếng Việt, lúc này tôi học Marie Curie, nói tiếng Pháp cả ngày, nên thèm viết tiếng Việt. Mỗi tuần tôi viết một bức thư cho Hồ Hải Trân là để có dịp tả cảnh quê An Định của nội tôi cho các bạn người miền Bắc mới di cư vào Nam nghe. Hồ Hải Trân nhỏ hơn tôi hai tuổi, em họ của Yên và Thoại là bạn cùng lớp ở Marie Curie và xin làm em nuôi của tôi. Trân thương tôi như chị ruột. Hai chị em trao đổi thư từ bằng cách viết văn tả cảnh thật mượt mà đồng quê miền Nam và miền Bắc – tôi rất tiếc đánh mất những mẩu văn tả cảnh quê này, hình như hay lắm. Lúc này tôi bị ảnh hưởng văn của nhà văn Lưu Thị Hạnh, đọc bài văn mà nghe như có âm nhạc. Sau này khi liên lạc để giúp văn nghệ sĩ miền Bắc tôi mới biết Lưu Thị Hạnh là Hồ Dzếnh, nhà thơ làm những bài thơ lãng mạn như Chiều và những bài đượm tình quê hương như Người Con Gái Việt Nam, mặc dù ông là người Minh Hương – lai Trung Hoa. Tôi tả cho Hồ Hải Trân nghe cảnh sông nước An Định, nhánh bần gie trên sông, đom đóm đậu chớp chớp thâu đêm, tả những vườn dừa xanh um, những ruộng lúa vàng ươm, mặt trời lặn trên cánh đồng thơm mùi lúa chín. Còn Trân thì tả cho tôi nghe con sông Thương nước chảy đôi dòng, sông Tô Lịch, sông Hồng. Mùa Hè có khi Trân về Bến Tre thăm tôi và ở chơi cuối tuần với một người bạn cùng tuổi tên Bùi Ngọc Đường, tôi cũng xem Đường như em. Không ngờ Đường làm ba chục trang thơ tặng tôi, vừa vẽ vừa viết và hay ôm đàn hát cho tôi bản nhạc: Em đến thăm anh một chiều mưa. Tôi vô tình chẳng để ý. Một hôm Yến, Thoại, Yên và Dung ở Marie Curie, cười phá lên khi đọc 30 trang thơ mà Bùi Ngọc Đường tặng tôi vì trong đó nói rõ Đường đã tương tư Như Kiều. Khi đọc 30 trang thơ đó, tôi tưởng cậu ta cũng “viết tiểu thuyết” theo lối hai chị em tôi và Trân viết cho nhau, tả Như Kiều ngọt ngào ngây thơ ra sao. Đầu trang lưu bút thì Đường chỉ biên: Bùi N. Đường thân tặng người chị thân thương NKCNP. Tôi bỏ vào một xó vì quả thực là không có thì giờ để mà đọc. Năm đó tôi thi Tú Tài và vì sắp rời trung học Marie Curie nên tôi trao tập Lưu Bút cho các bạn cùng trường viết lưu niệm. Vì thế nên các bạn mới khám phá ra điều ấy. Thoại cười lớn: NKCNP là Như Kiều Cao Ngọc Phượng! “Toi”(bồ) ngu quá! Tôi đem ra phàn nàn với Trân, em Hồ Hải Trân và tôi giận Đường quá, nghỉ chơi với Đường luôn.

Dì Sáu tôi đã ly dị với dượng tôi vì ông hoàng Ưng Lê có nhiều vợ lẽ, nhiều cô hầu quá. Dì dọn nhà về ở Nha Trang, nhưng mỗi khi vào Sài Gòn thì hay đi thăm chị chồng, bà công chúa Công Nữ Dung Thơ. Bà có ba người con trai, người nào cũng thích mấy chị em chúng tôi. Anh Tùng rất yêu chị Tám, nhưng chị Tám đã chọn anh Ngôn rồi và ba má chúng tôi đều thương quý anh Ngôn nên anh Tùng không cưới được chị Tám. Anh buồn lắm nhưng tôi không muốn giúp anh vì tôi cũng không thích anh Tùng; nghe nói anh thường đi tiệc tùng khiêu vũ luôn. Em trai anh Tùng là Khá. Khá rất hiền, rất tốt, rất hiếu đễ với mẹ. Trong khi các anh khác đi khiêu vũ hết party này đến party kia thì anh Khá sau khi đi học về, chỉ ở nhà với mẹ. Từ khi quen tôi Khá ưa đem sách tới nhà tôi để tặng, hoặc cho tôi mượn sách hay. Khá không tỏ tình yêu tôi bằng lời mà chỉ bằng ánh mắt và cử chỉ. Ví dụ như biết tôi siêng học, Khá đã mua cho tôi tất cả những sách giải toán, lý và hóa và mỗi chiều thứ năm hay đến tận trường đón tôi cùng về nhà, rồi vào nhà của cậu tôi (tôi được cậu Bảy cưu mang cho ở miễn phí từ năm sắp thi Brevet d’Etudes du Second Cycle) để cùng làm bài giải toán. Khá ngồi cả buổi chiều giải chung những bài lý rồi hóa. Nếu làm không ra thì đem bài giải của sách ra mà xem. Chuyện học hành thì Khá đã ủng hộ tôi hết lòng. Khá còn đòi đi học Dược – dùm tôi – vì ba tôi rất mong có một người con làm dược sĩ mà tôi thì không thích học Dược chút nào. Nhưng Khá rất lơ là những ưu tư của tôi về những bất công xã hội, những câu hỏi đã xoay nhiều đêm nhiều ngày trong cái đầu bé nhỏ khá cứng của tôi. Tại sao? Tại sao mình được sinh ra như vầy, người kia bị sinh ra như kia v.v.. Mỗi chiều thứ năm, Khá đón tôi đi học về, có khi Khá rủ tôi đạp xe xa hơn, vòng quanh những con đường im mát, dưới những hàng me xanh sau trận mưa hè. Có khi Khá mời tôi ghé ăn một đĩa bánh nậm và bánh bột lọc ở một tiệm “các món ăn Huế’’ ở Tân Định. Sau đó mới đưa tôi về nhà, vào nhà làm toán chung, giải năm ba bài toán hay lý hay hóa rồi về. Chiều thứ bảy tôi lên xe lửa về Bến Tre thăm gia đình, Khá đưa tôi ra tận bến xe lửa để về quê. Tuần thứ hai đưa tôi ra ga, anh chàng theo lên tàu hỏa luôn và đưa tôi về tận Mỹ Tho, đưa qua phà Rạch Miễu rồi mới trở về lại Sài Gòn. Chẳng bao giờ chúng tôi nói yêu nhau, nhưng cả hai nhà đều biết. Tình yêu rất trong sáng và lễ độ trong sự quý mến nhau. Thỉnh thoảng, sau khi đi thăm các trẻ em đường phố nghèo gần nhà Khá, tôi có ghé lại nhà Khá thăm mẹ của Khá – gọi theo chị Công Tôn Nữ Diệu Minh là chị con dì Sáu của tôi – xin uống miếng nước và… thăm Khá. Bà cụ mẹ chàng rất thương và nhất định bắt tôi ăn trưa với bà và Khá. Lần đầu tiên tôi quán sát các thức ăn truyền thống theo lối Huế. Món nào cũng có chút xíu thôi, rất khéo. Một mâm cơm có hai mẹ con mà đến sáu món: một đĩa rau thơm và ớt xanh, một đĩa tôm tươi kho rim mặn, măng xào thịt bò, một đĩa su xào, một đĩa gỏi xúc bánh tráng nướng và một tô canh cải nấu gừng… Đĩa tô nào cũng nhỏ xíu, mới gắp một đũa (theo lối Nam) là đã hết!

Khi học triết học với giáo sư triết, Madame Simon, bà cứ giảng sự tiến hóa của tư tưởng triết học Tây phương và cuối cùng chấm dứt bằng tư tưởng của Karl Max là hay nhất. Trong cái đầu nhỏ bé của tôi, tôi nghĩ: Chắc là thuyết Marxisme mới giải quyết được những cái thấy bất công mà tôi chưa nghĩ ra được lời giải. Tôi đem hỏi Khá nghĩ sao? Khá không tha thiết, không màng gì đến những ưu tư bất công xã hội của tôi. Sau này khi học Phật tôi mới biết Thương mà không Hiểu thì tình thương sẽ không bền. Khá yêu tôi nhưng suốt thời gian yêu chỉ chiều chuộng mà không thật sự hiểu tôi. Tình yêu đó không được nuôi dưỡng bằng lý tưởng thì cây tình yêu trước sau gì cũng sẽ chết. Vì lẽ đó mà cuối cùng thì chúng tôi cũng phải chia tay thôi. May mắn là chưa đi tới hôn nhân nên chưa phải làm khổ đến họ hàng và con cái. Tôi quán chiếu thấy rằng, Khá có đẹp trai thật, khá hiếu đễ và đang học dược để làm vui lòng ba tôi thật, mẹ Khá và cả gia đình cũng thương quý tôi thật, Khá chiều chuộng tôi hầu hết những gì vật chất mà tôi thích, nhưng Khá không ngó ngàng gì đến niềm thao thức của tôi thì tình yêu sẽ chết dần thôi. Sau này học Phật tôi được Bụt nhắc quán chiếu để thấy mọi sự mọi vật đều vô thường, đều đổi thay từng phút từng giây, thì tình yêu cũng vô thường cũng đổi thay. Nhưng có những cặp vợ chồng mà tình yêu họ đổi thay nhưng càng ngày càng sâu thêm, bền thêm, quý mến thêm. Nếu tình yêu không lớn thêm thì tình sẽ dừng lại rồi sẽ chết.

 

Cao Ngọc Phượng lớp 12 Marie Curie (hàng đầu, người  thứ hai)


Gặp Thầy, gặp Bụt, tìm ra con đường

Năm đó tôi vừa đậu xong Tú Tài 2, tốt nghiệp Trung Học Marie Curie và chuẩn bị vào Đại Học. Vừa về tới Bến Tre, tôi hết sức ngượng khi nghe ba má báo tin đã đặt một con heo quay để đãi xóm giềng về cô Tú đầu tiên của gia đình họ Cao! Hôm đậu bằng Brevet Ba đã mua nguyên một con heo con quay rồi! Ba nói: Chuyến này con về Bến Tre, ba muốn con đi quy y với thầy Huyền Vi. Thầy giỏi lắm, không phải như mấy ông “thầy cúng” dưới quê mình đâu con. Hai thầy – thầy Huyền Vi và thầy gì đó, ba quên tên, tốt nghiệp Phật Học Đường Ấn Quang, giỏi vô cùng. Nhà mình đạo Phật mà không biết gì về Phật hết. Hồi này tôi chưa biết giáo lý của Phật nên chưa biết là ba tôi làm ngược lời Phật dạy: giết nguyên một con heo chỉ vì con gái mình đậu Tú Tài! Thời nay, người trẻ đậu tú tài rất đông, có gì lạ đâu, nhưng hồi thời của tôi thì trong tỉnh chỉ có mình tôi là con gái mà đậu tú tài! Nhà có xe hơi để đón tôi mỗi tuần từ phà Rạch Miễu về nhà nhưng ba tôi rất thích đi xe đạp, đạp đi đâu ba tôi cũng khoe: Con gái thứ chín của tôi mới đậu tú tài hai, sắp lên Đại Học! Ba nói với bác Đốc Trinh, bác sĩ Trần Quế Tử, cụ giáo Mạnh, cụ giáo Tròn, thầy giáo Dân, cô giáo Điềm, cô Lan… mời anh hay mời cô đến nhà chúng tôi mừng cho cháu! Tôi mắc cỡ chạy trốn mất ngày các cô bác tới ăn tiệc.

Tối nay cơm nước xong, mà cũng là ngày thứ bảy, có hai vị sư từ Phật Học Đường Ấn Quang về giảng đạo, ba muốn cả nhà cùng đi nghe. Ba má nói: “Thầy Huyền Vi là đệ nhứt giảng sư miền Nam đó con. Thầy chỉ mới nói vài câu là thiên hạ cười rộ, thích thầy lắm!” Tôi đến nghe và thấy thầy giảng cũng được được, hơn các ông thầy cúng ngày xưa nhiều. Cuối buổi giảng ba đem tôi lên giới thiệu con gái đỗ tú tài của ba với thầy! Tôi đặt vài câu hỏi về những ưu tư của tôi về bất công xã hội. Thầy Huyền Vi trả lời suông qua những điều Bụt dạy nhưng không làm tôi hài lòng, tôi hỏi tiếp những câu khác, thầy nói: Thầy bận, con đi vào hỏi ông thầy kia. Xem cách thầy chỉ “ông thầy kia” thì có vẻ như ông kia là “thị giả” của thầy để trả lời cho bọn con nít như tôi. “Ông kia” là thầy Thanh Từ, khoảng ba mươi lăm tuổi, dáng điệu khiêm cung, hiền lành, có vẻ “đàn em” của thầy Huyền Vi. Nhưng những câu hỏi hóc búa của tôi, thầy đều trả lời sâu sắc khiến tôi rất thán phục. Trời ơi, đạo Phật hay như vậy mà mình ngu quá, tưởng chỉ có Max, Hegel, Nietzche mới hay. Cái lạ là thầy Thanh Từ không hề biết triết học Tây Phương nhưng sự lão thông của thầy về Phật học đủ đánh ngã hết những triết thuyết Tây Phương. Tôi bỗng thương Phật vô vàn. Tội nghiệp đức bổn sư Phật Thích Ca! Ngài bị các ông thầy cúng, chẳng biết gì giáo lý của Ngài, làm đại diện, cúng kiếng kiếm ăn, sống trên những đám ma chay… vợ con luộm thuộm chẳng diễn tả được gì phẩm hạnh của Ngài. Tôi phát bồ đề tâm từ hôm đó và muốn sống đẹp như Ngài dạy. Tôi muốn thọ năm giới với thầy Thanh Từ thôi – không chịu thọ với ai hết! Thầy cười từ bi nói: Con thọ giới với Phật chứ đâu phải với thầy. Nhưng con ráng học thêm giáo lý rồi hãy thọ năm giới. Hai thầy chỉ ở Bến Tre một tuần rồi đi giảng nơi khác. Tôi say mê suốt tuần cứ chạy theo thầy để hỏi đạo. Từ chuyện có Thượng Đế, có tạo hóa hay không. Chúa có tạo ra heo bò gà vịt cho mình ăn không? Tại sao người này ăn hiền ở lành mà vẫn bị chuyện rủi ro, người kia dữ dằn mà vẫn phây phây giàu có. Thầy giảng lão thông lý nhân quả, luân hồi nghiệp báo khiến tôi mê say. Về tới Sài Gòn tôi kéo Khá đi nghe thầy giảng, Khá thoái thác bảo bận.

Tôi ghi tên vào Đại Học Khoa Học, lớp Sciences Physiques, Chimiques et Naturelles (viết tắt SPCN) và đồng thời ghi luôn lớp MPC (Mathematiques, Physique et Chimie). Học MPC cứ làm toán, cứ cân tạ, thử sức vận tốc những lực centrifuge, centripede Physique và học Chimie thì cứ thí nghiệm những hóa chất…, tôi học cũng được nhưng không thích thú gì mấy. Đi bên Khoa Học Thiên Nhiên, lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với những núi đá, biết tuổi đá mấy trăm triệu năm thuộc Ere primaire, secondaire hay tertiaire rất là thích thú. Tôi được lội xuống biển xem san hô to như những lâu đài đủ màu sắc, tôi được vào rừng khám phá từng bụi cỏ từng lá cây, tiến trình của các sinh vật… thật mầu nhiệm. Cùng lúc ấy tôi cũng say mê đi tìm hiểu đạo Phật. Thầy Thanh Từ bận dạy ở Phật Học Đường Lưỡng Xuyên Trà Vinh, xa quá tôi không đi được nhưng thầy Huyền Vi ở chùa Ấn Quang tại Sài Gòn. Tuy không thỏa đáng khi nghe thầy Huyền Vi và nhiều thầy khác giảng nhưng tôi vẫn không bỏ sót một buổi giảng nào của quý thầy tại chùa Ấn Quang mỗi tuần ít nhất là ba ngày: Thứ tư nghe thượng tọa Thiện Hoa giảng Đại Thừa Khởi Tín Luận, thứ sáu nghe thầy Huyền Vi giảng Phật pháp căn bản, vào Dược Sư nghe ké với Ni viện bài giảng của thượng tọa Từ Thông kinh Pháp Hoa. Thầy Từ Thông giảng tới đâu hay phác họa, vẽ hình trên bảng rất đẹp, đó là tiểu xảo, cũng vui vui. Chỉ có thầy Thiền Định và thầy Hộ Giác… là giảng yếu nhất, đã không sâu mà hai thầy dùng danh từ hơi… đời nên tôi không ưa đi nghe, nghe thầy Hộ Giác một lần ở chùa Kỳ Viên, thầy Thiền Định ba lần ở Chùa Ấn Quang nhưng sau tôi không đi nữa. “Ngã mạn ngầm” là điểm dở nhất của tôi. Sau một năm tính sổ tu học, tôi quyết định chỉ quy y với thầy Thanh Từ thôi, không quy y ai hết! Nhưng khổ nỗi, khi truyền giới thì luôn có ba thầy: thầy Huyền Vi, Thanh Từ và Thiện Tín. Thầy Thiện Tín là thầy trú trì chùa Phật Quang ở Bến Tre quê tôi, thầy Thiện Tín đã mời hai vị đại giảng sư Huyền Vi và Thanh Từ về giảng. Thầy Thiện Tín hiền từ và khiêm cung nên tôi cũng rất trân quý hạnh của thầy. Trước khi quy y, tôi cứ hỏi Thầy Thanh Từ Diệu Không là sao? Sau này thầy tiết lộ là thầy định cho tôi tên Diệu Vân vì thầy thấy tôi ưa lo cho trẻ em nhà nghèo như đám mây lành che chở cho tụi nhỏ nhưng vì thầy biết tôi ưa tên Diệu Không nên cho luôn tên đó. Trong phái quy y Năm Giới của tôi có tên ba thầy Huyền Vi, Thanh Từ và Thiện Tín. Tôi có duyên may được đọc quyển Ánh Đạo Vàng, đời của Phật Thích Ca do anh Võ Đình Cường viết nên càng yêu quý Phật vô cùng. Những năm ở Đại Học là những năm tôi mê đạo Phật một cách cuồng tín! Ai nói đụng tới Phật là tôi ăn ngủ không yên, đem những thắc mắc đó đi hỏi từng thầy. Cuối cùng thì chỉ có mình thầy Thanh Từ là giải đáp thỏa đáng nhất những thắc mắc của tôi, mà thầy lại rất từ bi, không ăn thua đủ với mọi người như tôi. Cứ có giờ rảnh rang mà ngồi nói chuyện chân lý với các bạn Công giáo là tôi cãi say sưa với các anh chị bạn đó và… lúc nào thì tôi cũng thắng. Các bạn Công giáo ở Việt Nam thời này cũng rất là kiêu ngạo. Họ nói đạo Chúa là đạo văn minh vì chính người Tây Phương văn minh mà cũng là đạo của họ. Nhưng mỗi lần bị tôi bắt bí thì họ nói: C’est le mystère de Dieu! (Đó là bí mật của Thượng Đế). Như là khi tôi hỏi: Nếu Chúa là Tạo Hóa, là Tình Yêu sao Chúa tạo ra những cơn bão tố, lụt lội, sóng thần, giết chết hàng chục ngàn người bên Bangladesh, Chúa tạo bệnh dịch hạch cho con người chết như rơm rạ bên Phi Châu, và toàn là những người nghèo khổ, v.v… Các bạn Công giáo nói đó là Chúa muốn thử, tôi không đồng ý cách giải thích đó. Sao Chúa không thử cái ông nhà giàu kia phây phây làm ác lại cứ thử những người lương thiện? Các bạn Công giáo đã kiêu ngạo khinh khi đạo Phật thì tôi cũng đã kiêu ngạo và khó chịu vô cùng với các bạn Công giáo. Chắc là điều này không phải là điều Phật và Chúa dạy cho chúng tôi. Chúng tôi (những người Phật tử lý thuyết và những người Thiên Chúa Giáo kiêu ngạo) mới theo đạo ngoài da!

Tu phước và tu huệ

Tôi đã hỏi thầy Thanh Từ rằng vì sao đạo Chúa là thiểu số mà họ có viện nuôi trẻ mồ côi còn đạo Phật thì không làm gì giúp người nghèo hết. Thầy Thanh Từ nói: Đạo Phật giúp người thêm từ bi và nếu mình có cháu mồ côi cha mẹ thì mình nuôi chứ không bỏ vào viện mồ côi. Tôi rất thích lối giải thích này nhưng vẫn thấy người Phật tử không xứng đáng lắm với kỳ vọng của đức Thích Ca. Tôi phát nguyện sẽ làm việc hết lòng giúp người nghèo khổ để xứng đáng với kỳ vọng của đức Từ Phụ. Tôi bắt đầu phát tâm xuất gia tu học để dành hết thì giờ sống theo lời Phật dạy. Chiều thứ năm đi chơi với Khá cũng vui, nhưng đi tu thì sướng hơn nhiều. Suốt ngày tôi chỉ làm việc Phật thôi! Tôi thuật hết cho thầy Thanh Từ nghe hoài vọng của tôi nghĩa là tôi muốn xuất gia tu học và chỉ để thì giờ lo cho người khổ như việc tôi đang làm ở các xóm nghèo thôi. Tôi trình để thầy rõ là ngay hồi chưa biết Phật mà tôi đã đem các cháu đánh giày, móc túi… đến trường bằng cách đi xin bạn bè, cô bác quen thân mỗi ngày dành cho tôi một nắm gạo, cuối tháng tôi đi thâu gạo và đem cho mỗi cháu 15 ký như là học bổng để ba mẹ cháu cho cháu đến trường. Tôi cũng đã đi lo làm giấy khai sinh cho các cháu thì trường mới nhận cháu vào lớp… Thầy cười thương hại nói: Con làm việc phước thiện nhiều quá. Đó là tu phước. Người theo Phật phải phát tâm tu huệ mới được. Tu phước thì thế nào sau này cũng được tái sanh vào gia đình giàu có nhưng không giác ngộ thành Phật được. Phật là đấng tối cao duy nhất, Ngài đã nói: Ta là Phật đã thành và mọi người là Phật sẽ thành! Con phải theo gót Ngài để tu thành Phật. Thành Phật rồi con muốn độ bao nhiêu con mồ côi, giúp bao nhiêu trẻ nghèo đều được hết. Tôi đồng ý 100% và quyết chí chuẩn bị xuất gia để ráng tu thành Phật sau khi thi xong cử nhân! Tôi bắt đầu tới thăm các Ni viện vùng Sài Gòn Chợ Lớn. Ni sư Vĩnh Bửu là người Bến Tre thân cận với gia đình tôi nhiều. Ni sư cũng rất thương tôi nên mới khen tôi và nói: Con ráng tu cho giỏi thế nào kiếp sau cũng sẽ thành nam nhi. Thân phụ nữ nặng nề lắm con ơi. Đàn ông họ đâu có kinh nguyệt như mình, và cứ ráng tu đi, mươi mười lăm kiếp sau thế nào cũng thành Phật! Tôi hết sức ngạc nhiên. Tại sao phải thành nam nhi? Kinh nguyệt là tại vì mình là người nữ chuẩn bị làm mẹ mỗi tháng, không chịu làm mẹ thì thải chất dư đó ra thành kinh nguyệt, không chịu sinh đẻ thì đi tu làm mẹ tinh thần của các cháu cực khổ của các xóm nghèo, thân phụ nữ rất đẹp, có gì mà nặng nề, mà khổ đau? Tôi phải “méc” thầy Thanh Từ mới được, giải thích điệu này thì làm sao lý luận lại với các bạn Thiên Chúa giáo hay các bạn vô thần của tôi đây? Khi tôi đem việc ni sư dạy, và hỏi thầy Thanh Từ nghĩ sao thì thầy chỉ cười hiền: “Bên các ni viện các sư cô nghiệp nặng lắm con à. Thầy cứ đến giải quyết hoài.” Cái đầu khá cứng của tôi không hài lòng với cách giải thích này nhưng vị thầy quý kính nhất của tôi đã nói như vậy thì tôi còn biết chia sẻ với ai? Nhìn sâu, tôi không hề thấy có nhu yếu kiếp sau thành con trai. Đối với tôi, con trai có nhiều người còn yếu đuối hơn tôi là con gái mà tính khí khá cang cường. Tôi tự kết luận, con trai hay con gái gì cũng như nhau. Tùy di thể của ông bà tổ tiên và tùy môi trường lớn lên mà mình như thế này hay như thế khác. Hai người anh hùng đầu tiên của Việt Nam đánh đuổi quân đô hộ Tàu là hai Bà Trưng, rồi cô thiếu nữ nhà họ Triệu đứng lên tập họp binh sĩ đi đánh giặc Tàu, đâu phải đàn ông ít nghiệp mới làm được việc, mới mau thành Phật hơn phụ nữ? Nếu nói tôi đi cứu giúp các em nghèo đói sống trên vỉa hè là để kiếp sau sẽ thành con gái nhà giàu thì tôi lại bực hơn nữa. Tôi muốn thưa với thầy: Con giúp chúng nó vì chúng nó cần con. Thế thôi! Con không cần làm công chúa hay con nhà giàu gì hết. Tôi cũng muốn thưa với ni sư Vĩnh Bửu là con muốn đi tu và có nhiều khả năng như Phật để cứu người được nhiều hơn, nhưng con không cần làm con trai để hết nghiệp phụ nữ. Nhưng… tôi đã giữ năm giới rồi, đã là Diệu Không rồi… đâu có ăn nói ngang tàng với thầy bổn sư và ni sư lớn như vậy được? Tôi tự nhủ: Chắc mình phải lập một ni viện để chính mình tu thôi, sẽ rủ em Mười nè và vài bạn khác đi tu chơi. Lập một cư xá nuôi nữ sinh nhà ở xa đến ở trọ và mình sẽ cảm hóa các em bằng sự tu hành của mìnhmà thôi. Rồi thế nào cũng có các em đi theo mình xuất gia tu học. Tôi sẽ có nhiều chương trình rất hay cho các em nghèo đói. Ni sư Tịnh Nguyện, người Miền Bắc di cư vào Nam là người có chí khí lớn. Ni sư cất chùa xong làm thêm một số phòng để dành cho các thiếu nữ xa nhà có chỗ trọ. Nghe tôi đã xong cử nhân và đang làm giảng nghiệm viên tại Đại Học Khoa Học nên ni sư có ý nhờ tôi tới chơi với các em nữ sinh viên vì bên Thiên chúa giáo có cư xá Thanh Quan đã thu hút các em và đã kéo khá nhiều các em con nhà đạo Phật vào đạo Chúa rồi. Tôi có đến giúp đỡ ni sư và chơi với các em, nhưng chưa được mấy tháng làm việc với ni sư thì một hôm ni sư đi Huế về và khóc nghẹn ngào thuật chuyện tám em Gia Đình Phật Tử bị xe tăng chính quyền Ngô Đình Diệm cán nát đầu tại Đài Phát Thanh Huế hôm Phật Đản…

Chương 1: Gốc rễ

52 năm theo thầy học đạo và phụng sự – Hồi kí của Sư cô Chân Không


Phước đức, hạt giống thương yêu

Tôi sinh vào năm Cọp, 1938, tại xã An Hội tỉnh Bến Tre, người con áp út trong gia đình, bảy gái, hai trai. Gia đình bên nội tôi, di cư vào Nam từ xứ Quảng (Quảng Nam hay Quảng Ngãi chi đó), đã tám đời làm nghề nông ở làng An Định, huyện Mỏ Cày. Ruộng đồng trên châu thổ sông Cửu Long rất màu mỡ, cây trái nào trồng ở đây cũng trĩu nặng quả thật to mà không cần phân bón. Vừa rời phà Rạch Miễu, bước chân lên bờ là bạn sẽ thấy xanh mướt những dừa là dừa, những cây chuối, bụi chuối, và những vườn chuối nhiều như rừng. Cây chuối, cây dừa nào cũng mập, bụ bẫm, chứ không khẳng khiu như các thân chuối ở đèo chuối Tây Nguyên. Thôn làng nam Việt Nam thời xưa được chăm sóc bởi Ban Hội Tề gồm mười hai vị, ông nội tôi được bầu làm thủ bổn Ban Hội Tề suốt cả đời ông, vì ở xã An Định, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre ông nổi tiếng là rạch ròi về tiền bạc, liêm khiết và đức hạnh. Mỗi khi có lụt lội hay hạn hán Nội tôi thường yêu cầu Ban Hội Tề cho xuất quỹ làng nộp thuế đinh cho nhà nước thay cho những người dân nghèo không đủ ăn và không đủ tiền nộp thuế. Riêng phần Nội tôi, khi có thiên tai thì đã không lấy thóc của người tá điền mướn đất làm thuê của mình, mà còn chia cho họ thêm lúa gạo của nhà khi nhà họ đói, số gạo mà chính Nội tôi và các bác tôi trồng, cấy và gặt, cũng còn là gạo thừa của các năm trước. Nội tôi thường nói với các bác, với ba tôi và với chúng tôi rằng: “Nội không nhiều ruộng vườn và tiền bạc như những nhà giàu ở An Định Mỏ Cày, Bến Tre, nhưng Nội để dành cho các con và các cháu của Nội nhiều phước đức. Các con cháu ráng mà sống cho có phước đức như Nội, ăn nhiều đời cũng không hết, ráng sống xứng đáng như Nội đối với gia đình đã đành và nhất là đối với đồng bào và đất nước mình”. Có thể vì thế mà con cháu của Nội hưởng nhiều phước đức của người. Đứa nào cũng có rất nhiều duyên may.

Gia đình bên ngoại tôi có một siêu thị lớn ở thị xã Bến Tre. Nghe má tôi nói rằng ông ngoại nhờ trí nhớ tài tình – Ngoại thuộc lòng cả cuốn tự điển Pháp Việt thời đó – nên tự biên thư sang Pháp đặt và nhập cảng những mặt hàng của Âu Châu như xoa (soie) Pháp, giày Bata, nón Tây và nhiều loại hàng hóa như một siêu thị của Pháp, nhờ thế gia đình cũng khá giả. Bà ngoại tôi chết sớm khi má tôi mới bảy tuổi và má tôi có người chị thứ sáu đảm đang, đứng ra lo chăm sóc siêu thị và dạy dỗ cậu Bảy tôi, má tôi và dì Chín. Mùa đông nào ông ngoại tôi cũng dạy các dì tôi đi mua chiếu để phát cho những người không nhà, nằm co ro ngủ trong các chợ trời hay các vỉa hè. Cậu tôi cũng đem tặng quà cho tù nhân hai lần mỗi năm.

 

Ba tôi

Ba tôi tốt nghiệp trường Mỹ Thuật Gia Định về ngành vẽ truyền thần – trên tường nhà chúng tôi có hình ông bà nội, ông bà ngoại thật to 1mx1,50m do ba tôi vẽ thật sống động, như là người thật vậy. Vì nghề hội họa không đủ nuôi chín đứa con nên ba tôi chuyển sang ngành vẽ nhà cửa, vẽ công sở, đường sá, trường học cho Sở Công Chánh. Mỗi khi vẽ xong một trường học cho xã nào đó, ba tôi biết tính toán giúp luôn cho chương trình. Ví dụ như muốn hoàn thành xây một trường học thì công trình cần bao nhiêu bao xi măng, bao nhiêu thước cát, thước sạn, bao nhiêu kí sắt và bao nhiêu viên gạch, bao nhiêu miếng ngói. Ông kỹ sư Trưởng Ty Công Chánh, người Pháp, rất phục ba tôi vì ông thấy xây cất xong, công trình chỉ dư nửa bao xi măng và vài viên gạch bể mà thôi. Ông kỹ sư tự thú là không tính được như vậy nên rất quý mến ba tôi. Nhiều người giàu có trong tỉnh nghe tài ba tôi nên hay nhờ ba tôi vẽ giúp ngôi nhà tương lai của họ, tính toán vật liệu xây cất giúp… (thời đó ở quê tôi chưa có ông kiến trúc sư nào hết). Vẽ nhà, xây cất, làm ngoài giờ làm việc nên ba tôi cũng có dư chút tiền. Dư đồng nào ba tôi hay mua ruộng và giao cho mươi người tá điền chăm lo. Mỗi năm họ đem tới cho ba tôi tiền bán lúa phần mướn đất của ba. Khi nào lụt lội hay hạn hán, ba cho miễn luôn việc trả lúa, nhưng khi được mùa ba tôi luôn khuyên họ nên để dành tiền, đưa cho ba tôi giữ và khi trả đủ tiền mua đất, ba làm giấy sang tên để họ được làm chủ đất của mình. Hơn mười hai người tá điền nhờ sự giúp đỡ của ba tôi mà trở thành chủ đất. Họ thương ba tôi còn hơn người thân của họ, vì thế khi Việt Minh đảo chánh Nhật và Pháp, bần cố nông lên nắm chính quyền, Việt Minh đã bắt tất cả những người làm việc trong chánh quyền thuộc địa trong đó có ba tôi. Nhưng chỉ vài tuần sau là ba tôi được trả tự do với một số ít người, số còn lại gần một trăm người bị thủ tiêu nơi nào mà gia đình cũng không tìm được tung tích. Ba tôi hay căn dặn: “Đi chợ trời, nếu các con thấy những người đứng bán vài bó bông súng, rau dừa, rau muống… giữa trời, cả buổi sáng để kiếm vài đồng nuôi gia đình, các con không được quyền trả giá nghe chưa? Vài đồng đối với họ là lớn lắm, đủ mua thêm gạo nuôi con họ.” Và tôi đã đem trái tim thương người nông dân của ba đi về tương lai. Tôi đang sống điều ước mơ của Nội: ráng sống xứng đáng với đồng bào và đất nước.

Má tôi

Má tôi cũng làm ra nhiều tiền nhờ nghề dạy nữ công gia chánh cho con gái nhà nề nếp. Họ tới nhà chúng tôi ở vài ngày hay vài tuần học thêu thùa, cắt may hay nấu những món khéo léo trước khi đi lấy chồng. Tiền công dạy học, má tôi mua cho mỗi con một ít nữ trang (một loại quỹ tiết kiệm) và giúp cho những người hàng xóm nghèo gầy vốn làm ăn sinh sống. Giúp một gia đình nghèo này mở quán cơm sáng cho dân lao động, giúp một chị chồng chết một ít tiền làm vốn đi bán chè xôi… Nếu làm ra tiền họ sẽ trả lại cho má tôi, nếu vì lý do nào thua lỗ thì má tôi cho luôn, không đòi nợ họ. Và họ đều trở thành con cháu trong nhà, xem má tôi là bà ngoại bà nội của họ.

Ba má tôi giống như hai cây sồi to lớn che chở không biết bao nhiêu sinh vật quay về nương tựa. Trong đại gia đình ở xã An Định, chỉ có ba tôi là người duy nhất có nhà ở thành phố Bến Tre. Toàn tỉnh này thời đó, chỉ ở thị xã Bến Tre mới có trường tiểu học. Nhỏ nhất là lớp Năm vỡ lòng rồi đến lớp Năm biết chữ, lớp Tư, lớp Ba. Sau năm lớp Ba sẽ được thi bằng Sơ Học Certificat d’Etudes Elémentaires. Xong mới lên lớp Nhì Một (Cours Moyen Premiere Année) và lớp Nhì Hai (Cours Moyen deuxième année) rồi lớp Nhất. Cuối năm lớp Nhất sẽ được thi bằng cấp cao nhất tỉnh Bến Tre là Certificat d’Etudes Primaires. Mỗi khi tới mùa thi Certificat d’Etudes Primaires là thành phố Bến Tre bỗng vui nhộn vì rất đông học trò từ các huyện về thi Tốt Nghiệp Tiểu Học: học sinh từ Mỏ Cày, Giồng Trôm, Ba Tri và Tân Thuận… đều về trường tỉnh mới được thi. Thi đậu xong mà muốn học lên Trung Học phải đi Mỹ Tho (Tiền Giang bây giờ) để dự cuộc thi tuyển, không phải người có tiền muốn đi học trung học là được. Mỗi năm Collège de Mỹ Tho chỉ chọn hai trăm học trò cho cả ba tỉnh Bến Tre, Mỹ Tho và Trà Vinh. Dân Bến Tre thường nổi tiếng chiếm sáu bảy vị trí đầu tiên vào Collège de Mỹ Tho. Các nhà khá giả hơn mới cho con lên Sài Gòn thi tuyển vào Collège Petrus Ký (cho nam học sinh) hay Gia Long (cho nữ học sinh). Học trường tiểu học cho tới lớp nhất là cao nhất, vì thế nên các con của bác Hai, bác Ba, bác Tư, bác Sáu, bác Chín và cô Út đều sang nhà của ba má tôi mà ở, ăn cơm và đi học tiểu học. Khi tôi 5 tuổi thì ba má tôi nuôi đến 22 “người con” vốn là các con của bác Hai, bác Ba, bác Tư, bác Sáu, bác Chín, cô Nhứt và có khi cả các con nhà chú nhà bác anh em họ của ba tôi nữa. Hai mươi hai miệng ăn toàn là con các chú cô của tôi nhưng nhà lại có thêm một cô bé lớn hơn tôi hai tuổi, chị Bê từ Huế vào. Dì Sáu tôi có chồng người Huế, dượng tôi là ông hoàng Ưng Lê thuộc phủ An Hiệp. Mỗi khi ngoài ấy có thiên tai, dì hay nhờ má tôi nuôi giúp vài trẻ nhỏ cha mẹ nghèo nuôi không nổi sau những trận lụt lội lớn và đói kém. Ba má tôi nuôi các cháu, cho ăn học và tới 18 tuổi thì cho phép các vị đó được trở về quê làm việc nuôi gia đình. Khi tôi ba tuổi thì nhà đã có chị Bê, chị mới năm tuổi, được dì tôi gửi từ Huế vào. Má tôi cũng hứa khi được 18 tuổi sẽ cho chị về lại nuôi gia đình chị. Nuôi hai mươi hai miệng ăn không phải là chuyện dễ. Tới giờ ăn, đứa trẻ nào cũng ưa dành phần mình miếng thịt nướng hay phiến cá to và không bao giờ hài lòng với phần được chia. Vì thế chị Hai (cả) tôi phải chọn 22 miếng thịt hay 22 phiến cá, để thành vòng trên một chiếc mâm to, trước mỗi phần là một vài hạt cơm làm dấu. Chị đậy các phần lại bằng chiếc mâm thứ hai hay chiếc lồng bàn. Chị xoay mâm một vòng và dừng lại, các trẻ xúm nhau bốc một phần. Đôi khi miếng cơm làm dấu bên ngoài khá to mà miếng cá bên trong nhỏ xíu! Nhưng mà mình đã lỡ bắt thì phải chịu thôi.

 

SCCK va Gia dinh.png

Sư cô Chân Không (khi còn nhỏ) và đại gia đình

 

Thanh quản của má

Má tôi hay làm thơ và ưa hát nên mấy anh chị em chúng tôi đều hát được. Sau này hai người con của má hay ca hát cho mọi người nghe là anh Sáu tôi và tôi, mặc dù chị Năm, chị Bảy và em Mười tôi cũng hát rất hay. Ngày xưa anh Năm yêu chị Năm cũng vì anh đàn guitare và chị Năm hát, anh Bảy yêu chị Bảy vì cũng đệm đàn và cùng nhau hát. Anh Bảy cũng rất nghệ sĩ, đàn và hát hay lắm, mà vì chiến tranh nên phải vào trường Võ Bị Đà Lạt và sau này chết ở chiến trường. Em Mười tôi cũng hát rất hay trong Ðoàn Sinh Viên Phật Tử và tôi nhớ nhiều cháu con của chị Ba tôi như Gaby, Danielle, con chị Bảy tôi là Thúy đều có giọng hát rất hay. Di thể ưa hát của má đã truyền đến anh Sáu tôi, biến thành những thanh quản kỳ diệu. Ca sĩ Cao Thái là anh thứ sáu của tôi đã làm bao nhiêu khán giả từ Âu sang Á say mê. Tôi thì không cho chuyện ca hát là quan trọng mặc dù miệng tôi lúc nào cũng ưa hát. Tôi ham làm một trăm việc khác, cũng từ những di thể từ bi của ba má và nội ngoại nên không bao giờ đi hát chuyên nghiệp như anh Sáu Cao Thái của tôi. Không ngờ trong mấy mươi năm gần đây, tôi theo Thầy đi dạy thiền quán, khi dạy về Niệm thân trong thân, tôi hướng dẫn thiền sinh nằm buông thư để phục hồi sự an bình và tôi khe khẽ hát. Tôi phổ nhạc những bài thơ của thầy Nhất Hạnh như bài Những Viên Ngọc Quý, Đây Là Tịnh Độ, Con Cá Dung Thông… Tôi dựa theo các bản dân ca như Lý Con Sáo rồi tự sáng tác thêm lời thành Lý Ngồi Thiền, Cơn Giận Thành Hồ Sen để giúp người tu học. Các bài dân ca như Lý Giang Nam, Lý Đan Đệm đều được tôi viết lời mới và tự hát giúp thiên hạ nằm buông thư… Bài dân ca Qua Cầu Gió Bay được anh Chân Sinh đổi thành lời tu học cũng được tôi sử dụng để dạy cho thiền sinh Việt Nam, ai cũng thích… Une chanson Douce của Henri Salvador, nhạc Lullaby của Schwartz tặng con của Mozart, tôi đặt lời Pháp, Anh và Việt… Hàng ngàn thiền sinh Hoa Kỳ, Đức, Pháp, Hòa Lan và Việt Nam bỗng yêu thích giọng hát nhẹ nhàng của tôi vô cùng. Không định làm ca sĩ mà có thể đĩa hát của tôi được phổ biến hàng chục ngàn bản rồi, hơn đĩa của Ca Sĩ Cao Thái nhiều lắm. Tôi hay nói thầm: Má ơi, má có biết là những thanh quản của má lên đường đi rất xa không? Có những thanh thiếu niên Hòa Lan, Pháp, Hoa Kỳ và Đức, được mẹ đưa tới chào tôi: Vì sư cô đã ru cháu ngủ bốn năm nay rồi..! hay ba năm nay rồi..! Trước đó cháu bị chứng bệnh trầm cảm nặng, sư cô đã cứu cháu! Nhiều người Đức, Hòa Lan, Hoa Kỳ cứ tới khóa tu của Sư Ông thì đi tìm tôi để cám ơn: Nhờ sự hướng dẫn Thiền Buông Thư của sư cô mà tôi hết bệnh mất ngủ. Mới hôm tháng 9 năm 2007, có ba vị nữ Phật tử Việt Nam đến Tu Viện Lộc Uyển xin chụp một tấm hình với sư cô Chân Không, vì “nhờ nghe bài Con Cá Dung Thông sư cô hát mà chúng con ăn chay trường luôn!” Tôi về Việt Nam 2005, ghé qua miền Bắc mấy ngày, có chia sẻ thiền buông thư. Không ngờ hai năm sau trở về tôi bỗng “nổi tiếng” không chờ đợi. Hôm Trai Đàn Chẩn Tế ở Chùa Non, mỗi lần tôi đi qua đám đông (ở các chùa khác như Đình Quán hay Bồ Đề cũng vậy) thì có tiếng xì xào: Sư Cô Chân Không đấy con, ra chào sư cô đi và sau đó vị đó nói Mẹ con ngủ được nhờ sư cô dạy”, hay là “Cháu nó cứ đòi đi gặp sư cô thôi vì nó yêu tiếng hát sư cô rồi, cháu nghe đĩa của sư cô hoài!”, hay “Ô kìa, sư cô Chân Không mẹ ơi, ra xin chụp một tấm ảnh với sư cô đi mẹ. Thì ra họ đã chuyền nhau băng CD tôi dạy Thiền Buông Thư! Hàng chục nghìn băng đĩa ấy đã từ Mỹ sang Âu Châu, Á Châu, Úc Châu… và tới tận những hang cùng ngõ hẻm của Việt Nam. Thanh quản của má tôi đã đưa hai mẹ con tôi đi thật xa trong sự nghiệp giúp người buông xả, hướng về đường thánh thiện. Con cám ơn má. Cám ơn thanh quản của bà ngoại và má…

 

Má ơi, con muốn đi học

Có thể tôi có được cái di thể trí nhớ dai của ông ngoại nên năm mới lên ba, tôi đã thuộc lòng hết các bài tập đọc trong ba cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà các anh chị ruột và anh chị họ đi học về hay đọc to lên. Tôi chưa biết dù là một chữ a, b, c nào hết nhưng phải mở đúng trang đó tôi mới chịu đọc bài đó. Mỗi khi khách đến chơi, người lớn trong nhà hay “khoe”: Cháu mới ba tuổi mà đã biết đọc rồi. Mời cô dạy cháu đọc bài nào đi. Người khách mở trang nào tôi cũng nhận ra hình vẽ đó là của bài văn đó nên đọc vanh vách trọn bài khiến khách rất “nể”. Tôi cũng rất ưa đi học. Mới ba tuổi rưỡi vừa tập nói thì tôi đòi đi học: “Má ơi, con dài bằng cái gối dài này rồi, sao con chưa được đi học?” Một bữa khác lượm được cái chổi lông gà để quét giường, (trong Nam gọi giường ngủ bằng gỗ là bộ ván hay bộ ngựa gồm ba hay bốn tấm gỗ to dài và dẹp. Gỗ bào rất láng, màu mun đen, kê trên hai “chân ngựa” dài ở hai đầu miếng gỗ. Có lẽ vì thế mà gọi là bộ ván vì gồm bốn tấm ván lớn, hay bộ ngựa vì kê trên hai đòn dài gọi là chân ngựa) tôi đứng so mình với cây chổi lông gà rồi phàn nàn là: “Con cao bằng cây chổi lông gà rồi mà chưa được đi học!” Trường tiểu học thời đó chỉ nhận trẻ em từ sáu tuổi. Từ khi tôi ba tuổi rưỡi đến bốn tuổi, người lớn trong nhà tôi cứ nghe tôi lải nhải đòi đi học và vì thấy tôi cũng thuộc hết cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư nên phải tìm những cô giáo mở lớp dạy học riêng tại nhà để gửi tôi đến “trường”. Lớp cô Hai Tài ở Phú Khương, cách nhà cả hơn một cây số. Thế là chị Bê được công tác vừa đi học, vừa đưa tôi tới lớp, hai chị em đi bộ. Lớp học đông và vui lắm, tôi hạnh phúc lắm. Nhưng nhìn qua nhìn lại, tôi tự thấy mình bé quá, không giống các anh chị học trò lớn ôm cặp to, áo quần lem luốc mực, trông thật “oai” như học trò thứ thiệt! Tôi cũng cẩn thận cắp sách đến trường mỗi ngày, cũng ôm bình mực tím có sợi giây đen tòng teng trên ngón tay mà chẳng ai thấy cả! Hôm ấy tôi “làm gan” cố ý tự đổ nhiều giọt mực trên áo, vài vết mực trên quần cho… giống học trò lớn! Tôi cũng biết trước là về nhà sẽ bị chị Hai khẻ tay nhưng không sao. Chị Hai tôi như một bà mẹ nhỏ, chị chăm sóc tắm rửa cắt móng tay móng chân cho chúng tôi vì mẹ tôi có đông con quá mà còn dạy nữ công cho các thiếu nữ đến học nên ít giờ chăm sóc cho con. Chiều nào chị cũng tắm và bắt chúng tôi mang guốc cho sạch sẽ, nhưng tôi thì rất thoải mái khi đi chân không! Vì thế mà chiều nào cũng bị khẻ chân. Có lẽ tôi là người “ăn đòn” của chị Hai nhiều nhất vì áo quần thốc thếch. Em Mười, em út của tôi thật xinh, da mịn mềm, có nhiều áo lụa hoa đủ màu, lúc nào cũng sạch sẽ. Riêng tôi thì ngay cả sợi dây lưng quần cũng rơi đâu mất hoài nên tôi chỉ vận quần trái ổi cho mau! Ai cũng gọi em Mười là “cưng”, tôi cũng gọi em là cưng và cũng ưa hôn vào gò má mịn và thơm của em. Em ưa chơi búp bê, còn tôi thì không cần các thứ ấy. Lúc tản cư ở nhờ nhà cô dượng Hai trong vườn dừa và chuối, tôi lượm các trái dừa con, chơi cũng đủ vui.

 

Niềm vui bé nhỏ

Sau hơn một năm di tản về quê nội, gia đình tôi về lại nhà ở Bến Tre, tôi có niềm vui chọn một góc vườn nhỏ để gieo hạt các loại hoa trồng vào dịp Tết như bông vạn thọ, bông nở ngày, bông mồng gà, bông cúc và bông móng tay… Mỗi ngày tôi tưới nước và quán sát từng thời điểm các hạt vạn thọ nứt mầm, hạt cho hai lá con, rồi ba lá rồi bốn lá… Đây rồi, hôm nay là mồng bảy tháng Chạp, những cây vạn thọ con của tôi đã cao lên mười hai phân, rồi ba mươi phân. Lá xanh bụ bẫm… Tới 23 Tết, các nụ hoa to và xanh rờn hôm tuần trước nay đã ửng vàng, hứa hẹn sẽ cho những đóa vạn thọ vàng óng ả, sẽ nở đúng ngày 28, 29 hay 30 tháng Chạp. Có thể đem bán ra chợ hay trưng bày trên các bàn thờ. Đó, “công trình” đầu tiên của cô bé 7 tuổi ưa lêu lổng, không ưa làm thiếu nữ thùy mị. Hoa nở ngày, hoa mồng gà của tôi cũng làm đẹp vườn nhà. Nhưng ít ai để ý. Đó là niềm vui thầm lặng của tôi.

Mới 4 tuổi đã được đi học, nên khi vào tiểu học, lúc nào tôi cũng đứng đầu lớp và cũng làm bài giúp cho các bạn cùng lớp và… sẵn sàng nhận quà của họ: có khi là trái ổi, có khi là chuối nướng… Bây giờ đi tu, nhìn sâu, tôi thấy giống như đó cũng là một loại… “tham nhũng”!

 

Tập khí láu ăn, ở dơ và coi thường bề ngoài

Em Mười vì là “cưng” nên có quà người này người kia cho. Tôi thuyết phục suốt buổi, em Mười mới cho tôi cắn chút xíu chiếc bánh của Mười. Vì thế nên khi có bánh, tôi nhớ lại những lúc phải năn nỉ cô bé suốt thời gian năm bảy phút – thật dài! – chờ rất lâu (nhưng “quên” giây phút được Mười, cuối cùng thì cũng chia một miếng bánh nhỏ cho tôi) nên tôi không cho em ăn bánh của tôi mà còn kể tội… lia lịa và cuối cùng cũng không cho em miếng nào! Láu ăn, ở dơ, coi thường bề ngoài là tập khí có từ khi ấu thơ và… mãi đến bây giờ. Tu chánh niệm, tập nhìn sâu và quán sát từng tập khí, thỉnh thoảng tôi vẫn nhận diện được tánh láu ăn biểu hiện vi tế qua những cái sáng mắt khất thực ngay món tàu hũ chiên ưng ý (chắc sợ người khác thỉnh trước mình!). Ba mẹ tôi nuôi chín đứa con và cưu mang nhiều cháu quá nên không thể cho mỗi đứa nhiều hơn một xu làm quà sáng (khoảng năm 1943). Một xu thì chỉ mua được một củ khoai lang, khoai từ hoặc khoai môn thôi. Tôi nhìn các bạn đi học, được năm xu ăn bánh mì cặp xíu mại hay ăn tô hủ tiếu, tô bún bì mà tủi thân. Tôi phát nguyện là ngày sau lớn lên, làm việc có tiền, sẽ ăn bánh mì xíu mại và bún bì, hủ tiếu, sáng, trưa và chiều mỗi ngày, không thèm ăn cơm! Mỗi bữa đến trường, khi đến giờ ra chơi, thấy các bạn ăn bún bì, gỏi cuốn, bì cuốn… tôi cũng thèm có món gì mặn mà hơn là củ khoai lang nên nhất định gói theo thức ăn mặn vào lớp để ăn vào giờ đó. Mỗi khi nhà có ăn trứng luộc xắm nước mắm chấm bầu luộc, tôi chỉ ăn bầu chấm nước mắm và gói kỹ cái trứng luộc với chút muối tiêu, để dành đem vào trường học mà ăn vào giờ ra chơi. Tới giờ ra chơi, tôi đập chiếc trứng đã luộc, bóc vỏ trứng ra, tách từng lớp mỏng lòng trắng trứng, chấm vào muối tiêu và thưởng thức vị đậm đà của lòng trắng trứng với muối tiêu! Ôi là thiên đường! Sau năm bảy lớp lòng trắng trứng mỏng, người thưởng thức đã đi vào đến “mặt trời hồng ửng chín”, tức là lòng đỏ trứng – ôi, là ngon! Tôi tách từng phiến lòng đỏ trứng và bỏ vào miệng để cho nó tan vào lưỡi, ngon vô cùng. Sau này sang Tây Phương, tôi thấy các cháu Tây Phương không trân quý trứng, cứ tìm thịt cá mà ăn. Tôi đã dạy các cháu cách ăn trứng có ý thức, nếm chầm chậm, từng lớp rồi từng lớp trứng. Các bạn tôi gọi đùa: Này các con, hôm nay chúng ta sẽ ăn trứng theo lối cô Phượng dạy nhé! Đó chỉ là một cách ăn chánh niệm. Nhưng từ năm 2006 khi đọc những báo cáo của Liên Hiệp Quốc về những hóa chất bốc lên từ phân thú vật của những nông trại chăn nuôi khổng lồ để làm ra thịt, sữa bò và trứng gà nuôi kỹ nghệ nên Thầy dạy các đệ tử của Thầy ở các trung tâm vốn không ăn thịt cá xưa nay, giờ cũng ngưng uống sữa bò và ăn yaourt sữa bò (thay vào là sữa và yaourt đậu nành rất ngon mà thanh), ngưng luôn ăn cheese (fromage) và trứng mà ai cũng khoẻ.

 

Tết của tuổi thơ

Dù đang chiến tranh, Tết của tuổi thơ tôi cũng có những ngày thật ngọt ngào. Tôi nhớ lắm những Tết ở quê nội. Sáng sớm tinh sương ngày mồng Một, các cô bé chú bé chúng tôi chạy ra sân, dùng chiếc gáo dừa nhỏ múc nước trong bể xi măng, súc miệng và cười ríu rít. Đất quê thơm lừng mùi rơm rạ. Vườn mai đã nở rộ ngoài sân, vàng rực. Bà nội cười hả hê vì hai tuần trước Nội đã cẩn thận trảy hết lá để hôm nay, mồng một Tết, mai nở kịp ngày. Chúng tôi chải răng cho nhanh để rồi còn vào mặc áo dài mới mà đi lạy và mừng tuổi ông nội bà nội trước nhất, rồi đến phần mừng tuổi các bác các cô, rồi mới mừng tuổi ba và má. Sáng sớm ông bà nội đã ngồi uống trà bên nhau. Ông mang một xâu tiền đồng, để khi con cháu đảnh lễ lạy mừng tuổi thì ông sẽ cho. Chúng tôi chờ hai bác Hai tới. Bác Hai lên đèn trên bàn thờ Cố, chân đèn, lư hương bằng đồng sáng chói. Mấy tuần trước cả nhà đã nấu một nồi me và khế để chùi tất cả các lư hương, các chân đèn bằng đồng của năm chiếc bàn thờ trong phòng khách cho sáng choang. Chân đèn nào cũng có một chiếc đèn sáp đỏ to, tròn, cao, bóng láng, tuyệt sạch có ba chữ Phước, Lộc, Thọ. Bàn thờ nào cũng có cặp dưa hấu tròn có dán hai miếng chả đỏ có chữ Phước và Đức. Trên mỗi bàn thờ đều có chưng một cành mai sáng rực và một đĩa trái cây có đủ xoài, cam, quýt, vải, đu đủ…. Lên đèn, thắp nhang, khấn vái và lạy ông bà cố xong, hai bác Hai quay sang đảnh lễ nội. Bác Hai khóc vì thấy nội đã già, sợ không sống lâu với con cháu, nhưng khóc còn vì vui thấy hai nội còn được ăn Tết năm nay. Kế đến hai bác Ba, bác Tư gái, hai bác Sáu, cô Bảy, hai bác Chín và ba má tôi (ba tôi là chú Mười con trai út của nội), cô Nhất là con gái út và tất cả các anh chị con các bác đều thay phiên đến mừng tuổi nội, rồi mới đến chúng tôi, đứa nào cũng rất hạnh phúc được nội cho một đồng xu sáng loáng. Bác Hai, rồi bác Ba lại ngồi lên bộ ngựa giữa nhà để chờ con cháu đến đảnh lễ và mừng tuổi. Người lớn thường cho người nhỏ tiền, còn người nhỏ thì chỉ cho người nhỏ hơn mình. Tôi là con áp út của người con trai út của nội tôi, nên túi của tôi, tha hồ mà đầy ắp tiền lì xì của ông bà cô bác ba má anh chị… Tôi chỉ phải ngồi lên cho em Mười mừng tuổi và lì xì cho em tôi một ít tiền của tôi thôi. Tiếng nô đùa ngoài sân của mấy người anh chị họ cùng tuổi như tôi khiến chúng tôi vui nức lòng, họ reo hò giữa những tiếng pháo lách tách… đùng, kéo chúng tôi chạy nhanh ra cổng. Vườn mai nhà nội rực sáng một rừng hoa. Và những giàn trầu màu xanh ửng vàng óng ả, những giàn trầu nhà nội, ôi quê hương tuổi nhỏ của tôi! Bây giờ, nhìn sâu tôi mới hiểu vì sao trong thời gian chiến tranh, lúc ấy tôi đã lớn, đã đi dạy học rồi mà mỗi lần đi cứu trợ hay đi đến đâu, khi nào mà nhìn thấy một vườn trầu là trái tim tôi mềm ra, thổn thức và cảm động. Tới năm 12 tuổi tôi mới được thức khuya theo người lớn, ngồi canh nồi luộc bánh tét, bánh chưng thức đến 12 giờ khuya để chờ bánh chín và nghe người lớn kể chuyện Ma Vương và Bụt trong ngày Tết và để nghe tiếng gọi của đầu năm. Đó là tiếng gà gáy lúc mới rạng mồng một Tết hay tiếng chó sủa, tiếng nói cười… Mỗi âm thanh nghe trước nhất trong ngày đầu năm đều có ý nghĩa riêng của nó. Ví dụ người xông đất năm đầu tôi được thức khuya là chú tư Hiển. Thế là hiển vinh thế nào cũng đến với đại gia đình. Hôm qua là ngày 30 Tết, bữa cơm cúng ông bà ngày 30 Tết năm nào cũng thật thịnh soạn có dưa giá, dưa hành ăn với thịt heo kho với trứng, có nồi cá lóc kho, có canh khổ qua dồn chả, có dưa cải, dưa kiệu, dưa chua, có bánh tét, dưa món, xôi gấc, thịt luộc, chả tôm, có mắm thái, gỏi đu đủ rau thơm, dưa hấu… Tối lại còn đón ông Táo từ Trời về lại nữa, chúng tôi được ăn chè bông cau có nước dừa rất ngon của chị Nhứt con bác Hai. Còn hôm đưa ông Táo ngày 23 tháng Chạp thì ăn chè trôi nước của bác Chín gái. Về đây ăn Tết, người lớn ưa các món kể trên nhưng tôi chỉ “mê” món cơm cháy nhà nội. Khi con cháu về đông bác Sáu nấu cơm bằng chảo thật to. Xúc cơm ra còn miếng cơm cháy thật lớn, cơm cháy dòn to nguyên một lòng chảo 60 phân đường kính vừa mỏng vừa dòn. Chị Ba Đổng chế vào dầu hành và rắc chút muối, chút đường, bẻ cho mỗi đứa một miếng, ăn vừa dòn vừa thơm! Mấy ngày trước Tết về quê nội chúng tôi có không biết bao nhiêu là cơ hội để quán sát. Gạo mới ngâm một đêm, đổ lên cối đá xay cho nhuyễn để làm bột bánh ít. Nếp mới, thơm, ngâm cả đêm, đậu xanh thơm mềm, hành phi dầu nêm muối tiêu bột nêm để làm nhân bánh tét, bánh chưng. Lá chuối xanh tươi mới chọn ngoài vườn, đem vào lau sạch để gói bánh chưng, bánh tét, bánh ít. Bánh nào cũng sẽ có một lớp diệp lục tố màu xanh phơn phớt trên nếp hay bột nếp mới.

Nhưng quê nội bị dội bom, nhà bác Chín, bác Tư, bác Sáu tức là nhà của nội và nhà bác Hai cũng đều cháy tiêu tan. Các chú bác bà con đều di cư ra tỉnh thành và tìm cách sinh sống ở phố chợ. Thiên đường tuổi thơ đã mất khi nhà nội bị dội bom. Đám tang bà nội linh đình bao nhiêu (vì lúc đó chưa có chiến tranh) thì khi ông nội mất, đám tang của ông tiêu điều bấy nhiêu. Khi ấy chúng tôi đang ở tỉnh lỵ Bến Tre không về An Định làm đám tang cho nội được vì chiến tranh đang hồi kịch liệt. Các bác Hai, Ba, Sáu và Chín lúc đó còn sống tại An Định cũng lo chu đáo cho ông nội tôi. Ba tôi rất đau buồn về điều ấy.

Lời giới thiệu

52 năm theo thầy học đạo và phụng sự – Hồi ký của Sư cô Chân Không


Tôi thường học hỏi được rất nhiều từ những học trò của tôi. Với tôi, học trò cũng là thầy. Sư cô Chân Không là một trong những người ưu tú nhất trong số những học trò như vậy. Để tôi kể cho quí vị nghe một trong những bài học quan trọng mà tôi đã học được từ sư cô. Đó là vào năm 1966. Cuộc chiến tại Việt Nam đang càng ngày càng khốc liệt. Tôi mải miết nghĩ cách để vận động nhiều vị tôn đức trong Giáo Hội chịu cùng đứng ra kêu gọi chấm dứt chiến tranh, và nhiều khi không thể nuốt trôi miếng cơm nào mỗi khi nghe tin một trận chiến khốc liệt vừa xảy ra. Bữa đó, tại chùa Pháp Vân ở Phú Thọ Hòa, sư cô Chân Không, đang chuẩn bị một dĩa rau thơm cho món phở, sư cô quay qua hỏi tôi: “Bạch Thầy, Thầy có thể cho con biết những loại rau thơm này ở miền Bắc gọi là gì không?” Nhìn sư cô đang cẩn trọng đặt những nhánh rau vào chiếc dĩa lớn với tất cả sự chú tâm, tôi bỗng bừng tỉnh. Sư cô có khả năng duy trì sự chú tâm vào những cọng rau thơm. Và tôi nhận ra rằng tôi cũng nên học để tâm tới những nhánh rau, chứ không phải chỉ nghĩ về chiến tranh mà thôi. Thầy trò chúng tôi trao đổi với nhau mười phút về những loại rau thơm ở miền Nam, Trung và Bắc. Tâm trí tôi thoát khỏi những suy nghĩ về cuộc chiến trong khoảng thời gian đó đủ giúp tôi lấy lại được sự cân bằng mà tôi đang rất cần. Năm 1968, khi sống ở miền Nam nước Pháp, tôi đã phát hiện ra những loại rau thơm của vùng Provence với tất cả sự chú tâm và thích thú.

Nhiều năm sau, một người bạn Hoa Kỳ hỏi tôi: “Thưa Thầy, Thầy trồng rau xà lách làm gì cho mất thời gian. Thầy dành thời gian đó để làm thơ có hơn không? Ai mà không trồng được rau xà lách, nhưng ít ai có thể sáng tác những bài thơ sâu sắc như thơ của Thầy.” Tôi mỉm cười đáp: “Bạn ơi, nếu tôi không trồng những cây xà lách thật chánh niệm như vậy thì tôi không làm ra những bài thơ như vậy được.” Tôi đã không tiết lộ rằng câu trả lời của tôi có xuất xứ từ bài học với sư cô Chân Không mười hai năm trước. Cho đến hôm nay, tôi vẫn tiếp tục học từ sư cô. Một vị thầy luôn nên có khả năng làm học trò và một đệ tử cũng luôn phải cùng lúc làm thầy. Nhớ được điều này, cả thầy và trò sẽ cùng lợi lạc.

Điều khiến tôi khâm phục nhất ở sư cô là khả năng sống an lạc và hạnh phúc. Niềm tin vững chắc của sư cô đối với giáo pháp ngày càng được củng cố khi sự tu tập không ngừng mang lại cho sư cô hoa trái của chuyển hóa, chữa trị và niềm vui. Sự vững chãi, an lạc và hạnh phúc của sư cô là nguồn động viên nhiệm màu cho rất nhiều các bạn ở Làng Mai cũng như trong đại gia đình tăng thân. Nguồn vui của sư cô là làm việc giúp người và giúp chuyển hóa xã hội. Nằm sâu bên trong những công tác của sư cô là một tình thương lớn và sự quan tâm sâu sắc. Chân Không cũng có nghĩa là tình thương đích thực. Câu chuyện cuộc đời sư cô vượt xa những gì ngôn từ có thể diễn tả, đó là cả một bài Pháp sống.

Thật tiếc là cuốn sách này còn quá ngắn, không chuyển tải hết sự sâu sắc và sống động những gì sư cô đã đi qua. Sư cô còn rất nhiều chuyện để kể cho chúng ta, có thể dài gấp 10 lần cuốn sách này. Nhưng sư cô là một nhà hoạt động xã hội hơn là một nhà văn, và hiện tại chúng ta phải bằng lòng với tác phẩm này thôi. Nếu có cơ hội tiếp xúc với sư cô, quí vị đừng quên xin sư cô chia sẻ cho nghe những kinh nghiệm của sư cô. Quí vị sẽ học hỏi được rất nhiều. Sư cô đích thực là một vị bồ tát.

Thích Nhất Hạnh
Làng Mai, Pháp Quốc – Tháng 5, 1993

Hồi ký SCCK 1 – Con đường mở rộng

Vương quốc của những người khùng

Leo TOLSTOY
Yên Chi dịch – Lá Bối xuất bản lần thứ nhất 2-1977, Paris.

I

Ngày xưa, tại một nước kia, có một người dân quê giàu có. Ông ta có ba người con trai và một người con gái. Người con gái tên là Mai Liên, bị câm. Người con trai lớn tên là Xa Mạnh, đi lính. Người con trai kế tên là Ta La, có cái bụng bự, thường được người ta gọi là anh chàng Ta La Bụng Bự. Người con trai út tên là Y Văn, tính tình hơi gàn dở, người ta hay gọi là Y Văn khùng.

Xa Mạnh đi lính cho Vua. Ta La bụng bự đi học buôn bán với một thương gia ngoài tỉnh. Còn anh chàng Y Văn khùng thì ở nhà với cô em gái và làm lụng rất khó nhọc.

Xa Mạnh làm tới cấp tá trong quân đội và tạo được nhà cửa to rộng. Anh cưới con gái của một người thuộc hạng quyền quý. Lương tiền thì lớn, ruộng vườn thì rộng, nhưng Xa Mạng không giàu lên được, bởi vì hể anh ta kiếm được bao nhiêu tiền thì cô vợ lại đem xài phí hết bấy nhiêu.

Một hôm Xa Mạnh đi thăm ruộng và thâu tiền lúa. Người quản lý của anh ta nói: “Làm gì mà có tiền lúa? Bây giờ trâu bò cũng không còn, cày bừa cũng đã bán hết, lấy gì để mà làm ruộng để mà có lúa?  Phải đi tậu lại trâu bò và cày bừa mới mong mùa sau có lúa bán.”

Vì vậy, Xa Mạnh phải tìm về nhà cha mẹ để cầu cưú. Anh ta thưa với cha: “Thưa ba, ba là một nông dân giàu có, nhưng ba chưa cho con một phần nhỏ nào trong tài sản của nhà ta. Xin cha chia gia sản ra làm ba phần, và cho con xin một phần để gây dựng lại ruộng vườn của con.” Người cha trả lời: “Mày đã không đem được gì về nhà thì chớ, lại còn đòi chia. Như thế thì tội nghiệp cho thằng Y Văn và con Mai Liên quá. Xa Mạnh nói: “Như Y Văn là một thằng khùng, còn Mai Liên là một con câm. Chúng nó thì cần gì nhiều đến gia sản?”

Người cha nói: “Thôi để cho Y Văn định đoạt. Hễ nó muốn chia cho mày thì tao chia, còn không thì thôi.” Y Văn nói: “Sao lại không? Cứ để anh ấy chia một phần ba gia sản đi ba.”

Thế là Xa Mạnh lảnh một phần gia sản của mình và chở về ruộng vườn mình. Rồi anh ta lại trở lại quân ngũ để phục vụ nhà Vua.

Bây giờ nói chuyện anh chàng Ta La Bụng Bự. Ta La cũng làm ăn rất khá và cưới con gái của một thương gia. Nhưng anh chàng vẫn muốn có thêm vốn, cho nên một hôm anh trở về nhà cha mẹ và nói: “Con cũng muốn nhận một phần ba gia tài.”

Người cha cũng không muốn chia gì cho Ta La. Ông ta trả lời: “Mày không đem gì về nhà thì chớ, lại còn đòi chia. Những gì trong nhà này đều do mồ hôi nước mắt của Y Văn mà có. Với lại mày đòi chia như thế thì tội nghiệp cho anh em nó.”

Nhưng Ta La nói: “Nó là một thằng khùng, cần gì đến của cải! Còn con Mai Liên cũng thế, nó câm, nó cũng không cần. Này Y Văn, bây giờ mầy chia cho tao một số nữa lúa còn lại, tao không đòi trâu bò và cày bừa đâu. Tao chỉ lấy lúa và con trâu mộng thôi. Con trâu cái kia cũng đủ cày bừa được rồi. Mày chiụ không?

Y Văn cười và nói: “Sao lại không? Em sẽ làm việc nhiều thêm chút nữa và nhà sẽ có thêm luá gạo.”

Như vậy là Ta La cũng nhận được phần mình. Anh ta chở lúa lên tỉnh và dắt con trâu mộng màu xám đi theo.Y Văn chỉ còn có một con trâu cái để cày bừa. Anh ta ở lại nhà làm việc nặng nhọc tối ngày để nuôi cha mẹ già và đứa em gái câm.

II

Lúc bấy giờ Ma Vương, vua của các loài ma, lấy làm bực tức mà thấy anh em nhà Y Văn đã không cải vã đánh lộn nhau vì gia sản mà trái lại còn chia nhau của cải một cách hoan hỷ nữa. Nó cho gọi ba tên tiểu quỷ lại và ra lệnh:

“Tụi bây nghe đây. Nhà kia có ba đứa con trai: Xa Mạnh thằng Lính, Ta La thằng Bụng Bự và Y Văn thằng Khùng. Đáng lý chúng phải đánh nhau vỡ đầu, nhưng trái lại chúng còn sống rất êm thấm trong tình anh em. Mà sở dĩ chúng được như thế là do thằng khùng nhường nhịn. Ba đứa bây phải chia nhau, mỗi đứa tìm tới một thằng, và làm sao cho ba đứa tranh dành giận dữ với nhau đến nước chúng phải choảng nhau vỡ đầu. Tụi bây làm được điều đó hay không?”

Bọn tiểu quỷ trả lời: “Thưa Đại Vương, chúng tôi làm được.”

– Chúng bây sẽ làm thế nào?

– “Trước hết, chúng tôi sẽ làm cho ba anh em nghèo xơ nghèo xác. Đến khi cả ba thằng không có thằng nào còn một miếng xương để gặm thì chúng tôi làm cho chúng gặp nhau, ở chung với nhau một đống. Thế nào chúng cũng choảng nhau.”

– “Được lắm! Tụi bây như vậy là biết chuyện lắm đó. Thôi bây giờ tụi bây đi đi. Làm sao cho đến khi cả ba đứa đập đầu sưng trán thì mới được trở về đây. Nếu không xong chuyện, ta sẽ lột da chúng mày.”

Ba con tiểu yêu ra họp ngoài đám ruộng để bàn tính kế hoạch. Chúng nó bàn cãi mãi, đứa nào cũng muốn dành công việc dễ dàng. Cuối cùng ba đứa bắt thăm xem đứa nào phải phụ trách người nào trong số ba anh em nhà kia. Chúng hẹn với nhau là đứa nào làm xong phận sự thì phải tới giúp đứa khác. Và cuối cùng chúng hẹn nhau ngày giờ họp để cho nhau biết ai đã làm xong phận sự và ai cần được giúp đỡ.

Đến ngày giờ hẹn, ba con tiểu yêu trở lại đám ruộng để họp. Con tiểu yêu thứ nhất có báo cáo như sau:

– “Công việc của tớ ngon lành lắm. Ngày mai Xa Mạnh sẽ về nhà cha mẹ mà ở.”

Hai con tiểu quỷ kia bắt đấu hỏi thăm xem con tiểu quỷ này đã thành công như thế nào?

– Trước hết tớ làm cho Xa Mạnh nổi hứng lên, tới trước nhà Vua và hứa rằng nó sẽ chinh phục được cả thế giới và đặt thế giới dưới quyền cai trị của nhà Vua. Cho nên nhà Vua đã cử nó thống lãnh quân đội và đem binh đi chinh phục nước bạn Ấn Độ. Hai bên giao chiến. Ban đêm lúc hai bên đã rút về căn cứ nghỉ ngơi, tớ mới đi lấy nước lạnh tưới ướt cả thuốc súng của binh đội Xa Mạnh; rồi tớ lại đi sang phía Vua Ấn Độ và lấy cọng rơm làm ra vô khối binh lính để tăng cường cho quân lực bên đó. Sáng mai, khi thấy quân lính rơm từ bốn phía ập tới, quân lính của Xa Mạnh mất hết tinh thần. Xa Mạnh ra lệnh bắn: nhưng pháo và thần công không nổ bởi vì thuốc súng đã ướt. Quân lính của Xa Mạnh hoảng kinh chạy tứ tán như một đàn cừu và bị quân địch giết chết như rạ. Bây giờ đây Xa Mạnh bị cất chức, ruộng vườn của hắn ta cũng bị nhà Vua tịch thâu, và sáng mai này hắn ta sẽ bị xử bắn. Tớ chỉ cần giúp để cho hắn vượt ngục để hắn trốn về nhà. Như vậy ngày mai là công việc của tớ sẽ hoàn tất. Nào, bây giờ cậu nào cần tớ giúp, cứ nói lên.”

Tên tiểu quỷ thứ hai bắt đầu kể laị những gì nó đã làm để hại Ta La: “Tớ không cần ai giúp hết, công việc của tớ có kết quả khả quan lắm. Ta La Bụng Bự sẽ không thể nào chịu đựng được quá một tuần lễ nữa đâu. Trước hết tớ đã tới làm cho cái bụng bự của hắn bự thêm, và cái bụng bự này đã làm cho hắn cũng trở thành ham hố thêm lên. Hắn ham hố đến nỗi thấy cái gì cũng muốn mua. Hắn xài hết tiền để mua sắm đủ thứ, và còn tiếp tục mua sắm nữa. Bây giờ hắn đang đi vay tiền của bè bạn để mà mua sắm nữa. Bây giờ hắn ta đã bị sa lầy và nợ nần như chúa chổm, không có cách nào ngóc đầu lên được. Trong một tuần lễ nữa, hắn ta sẽ đến lúc phải trả nợ. Lúc đó tớ sẽ làm cho tất cả những gì hắn mua sắm lâu nay trở thành giẻ rách hết. Không có gì để bán mà trả nợ hết, hắn sẽ phải trốn về nhà cha mẹ.”

Hai tên tiểu quỷ kể xong, đắc ý nhìn tên tiểu quỷ thứ ba và hỏi về thành tích mà tên này đã thu lượm được đối với Y Văn thằng khùng.

Tên tiểu quỷ này trả lời: “Công việc của tớ thất bại. Khi tớ tới tìm gặp Y Văn, tớ nhổ nước bọt của tớ vào trong ấm nước chè của hắn. Hắn uống và bị đau bụng. Xong rồi tớ đi ra ruộng dẫm đất ruộng xuống cho đến khi ruộng đất của hắn cứng như là đá để hắn không cày bừa cách nào được. Tớ tưởng rằng hắn sẽ bỏ ruộng không thèm cày nữa; ai ngờ cái thằng khùng ấy nhất quyết cày cho bằng được. Hắn ta đau bụng gần xỉu, nhưng hắn ta và con trâu của hắn cố quyết cày tiếp. Tớ làm cho bắp cày của hắn gảy đôi. Nhưng thằng khùng lại về nhà mang ra một bắp cày mới và tiếp tục cày. Tớ chun xuống đất lấy ta níu lưỡi cày lại. Nhưng mà tớ không níu nỗi bởi thằng Khùng và con trâu của hắn quyết chí cày cho được. Lưỡi cày lại bén quá khiến cho hai bàn tay của tớ bị cắt đứt chảy máu nhiều chỗ. Hắn ta cày gần xong các thửa ruộng, chỉ còn một giải đất nhỏ nữa thôi thì công việc của hắn sẽ hoàn tất. Mau lên hai bạn, tới giúp tớ mỗi người một tay. Bởi nếu chúng ta không thắng được hắn thì bao nhiêu công trình của các bạn sẽ ra tro. Nếu hắn thành công trong vụ lúa này thì hắn sẽ nuôi ăn hai thằng anh của hắn.”

Tên tiểu quỷ phụ trách về Xa Mạnh hứa ngày mai sẽ đến giúp. Bọn tiểu quỷ họp xong giải tán, ai đi về nẻo ấy.

III

Y Văn đã cày xong các thửa ruộng, chỉ còn một giải đất hẹp chưa cày mà thôi. Sáng nay chàng vác cày dắt trâu ra ruộng để cày cho xong giải đất ấy. Bụng chàng đau quặn lên, nhưng chàng biết phải cố cày cho xong. Chàng xăn quần, đưa trâu và cày xuống ruộng, bắt đầu cày. Cày được một luống, chàng cho trâu đi quành lại và bắt đầu cày luống thứ hai. Ai ngờ lưỡi cày tắc nghẹn lại không chịu đi, như là bị vướng vào nhiều chiếc rễ cây lớn. Đó là do tên tiểu quỷ đang quấn hai chân vào lưỡi cày và cố trì bắp cày lại.

Y Văn nghĩ bụng: “ Lạ thiệt, ruộng mình làm gì có rễ cây. Rễ cây thiệt đây mà!”, Vừa nói Y Văn vừa cúi xuống thọc tay phía dưới lưỡi cày. Chàng nắm phải một cái rễ  mềm. Chàng nắm chặt chiếc rễ và kéo mạnh lên. Cái rễ gì đen thui mà có chân tay quờ quạng. Trời đất ơi! Không phải là một chiếc rễ cây mà là một con tiểu quỷ.

Y Văn la lớn: “Gớm quá đi, thiệt là đồ quỷ!” Chàng đưa cao con tiểu yêu định đập đầu nó vào bắp lưỡi cày thì tên tiểu quỷ la lên, giọng nó eng éc:

“Đừng đập tôi! Tôi sẽ làm bất cứ cái gì ông muốn.”

“Mày làm được cái gì?”

“Cái gì mà ông muốn tôi cũng đều làm được. Ông chỉ cần cho tôi biết là ông muốn cái gì!”

Y Văn gãi đầu: “Ta đang đau bụng. Mày có thể làm cho ta hết đau bụng được hay không?”

“Tôi làm được.”

“Vậy thì làm ngay đi!”

Tên tiểu quỷ cúi xuống đưa tay mò trong đám đất và kéo lên một chùm rễ cây có ba cái rễ con rồi đưa cho Y Văn và dặn:

“Người nào nhai rồi nuốt một trong ba cái rễ này thì bệnh tật gì cũng tiêu trừ.”

Y Văn xé một chiếc rễ, nhai và nuốt. Bệnh đau bụng của chàng lập tức biến mất. Con tiểu quỷ năng nỉ chàng:

“Bây giờ ông để cho tôi đi. Tôi sẽ chui xuống đất và không bao giờ trở lại phá ông nữa đâu. Ônh chịu tha tôi hay không?”

“Sao lại không? Phật độ cho mày.”

Y Văn mới nói xong chữ ‘Phật’ thì con tiểu quỷ rơi ngay xuống đất như một viên đá rơi tỏm xuống nước. Nhìn xuống, Y Văn không thấy gì cả, chỉ thấy một lỗ hổng dưới đất mà thôi. Chàng giắt hai cái rễ cây còn lại vào lưng quần, và tiếp tục cày ruộng. Khi cày xong giải đất còn lại, chàng vác cày giắt trâu ra về.

Cho trâu vào chuồng và cất cày xong, Y Văn vào nhà. Chàng thấy Xa Mạnh và bà chị dâu đang ngồi ăn cơm. Xa Mạnh vừa thoát ngục chạy về đây với bà vợ, nhà cửa điền sản đã bị tịch thâu rồi. Xa Mạnh nói với Y Văn:

“Anh chị tới đây để ở với chú nó. Chú nó chịu khó nuôi anh chị cho tới khi anh tìm được công việc mới. Chú nó chịu không?”

“Sao lại không?”, Y Văn trả lời. “Anh chị cứ ở lại đây, bao lâu cũng được.”

Y Văn ngồi xuống, định cầm đũa thì bà chị dâu tỏ vẻ không chịu nỗi mùi mồ hôi của chàng. Bà ta nói với chồng: “Tôi chịu không nỗi cái mùi hôi của cái bác nhà quê này.”

Xa Mạnh nói với Y Văn: “Chị nói rằng mồ hôi chú nó nặng mùi quá. Chú nên ra ngồi ăn ngoài bậc cửa. Được không?”

“Sao lại không?”, Y Văn trả lời. Cũng gần đến lúc cho trâu ăn rồi. Em phải đi lấy rơm. Rồi chàng ngồi ở bậc cửa, lùa vội vài chén cơm, rồi cất đũa bát, đi lấy rơm cho trâu.

IV

Tên tiểu quỷ phụ trách Xa Mạnh sau khi làm xong phận sự rồi, đêm ấy y hẹn đến giúp bạn để tới phá Y Văn. Khi hắn tìm tới đám ruộng của chàng khùng, hắn đi quanh tìm kiếm mãi mà không thấy thằng bạn tiểu yêu đâu hết. Nó chỉ thấy một cái lỗ dưới đất. Nó tự bảo: “Có lẽ thằng bạn mình bị hại rồi. Mình phải thay thế nó làm cho xong công việc này. Tất cả các đám ruộng đã đã được cấy xong, bây giờ mình chỉ có thể tới phá đồng cỏ của nó. Hắn bèn đi thẳng tới đồng cỏ của Y Văn, làm cho nước dâng lên, ngập cả cánh đồng cỏ, khiến cho cỏ nằm rạp xuống dính đầy bùn.

Sớm mai, lúc Y Văn ra đồng cỏ để cắt cỏ về chất thành đụn ở sân nhà, thì đồng cỏ đã bị ngập nước. Chàng tung liềm để cắt cỏ. Nhưng chỉ được mấy phút, lưỡi liềm đã bị cùn lụt. Chàng phải lên bờ để tìm một hòn đá để mài lại lưỡi liềm. Rồi chàng lại xuống đồng cắt cỏ tiếp. Rồi lưỡi liềm lại cùn. Cuối cùng chàng nói:

“Không được. Ta phải về nhà để tìm một cái giũa để giũa lại cái liềm, nhân tiện kiếm vài ba hột bỏ vào bụng. Nhất định ta phải phát cho xong đồng cỏ này, dầu có phải để ra cả tuần lễ đi nữa cũng được.”

Con tiểu quỷ nghe nói như vậy, nghĩ rằng: “Thằng khùng này gớm thật. Không dễ gì mà làm nó nản chí. Phải kiếm mưu chước khác mới được.”

Y Văn về nhà lấy giũa, giũa liềm và trở ra đồng tiếp tục cắt cỏ. Con tiểu quỷ chui vào trong đám cỏ rậm, lấy chân đạp lên trên lưỡi liềm cho mũi chỉa xuống đất, làm Y Văn cắt cỏ rất là mệt nhọc. Tuy vậy chàng cũng ráng hết sức cho công việc được tiếp tục. Chẳng mấy chốc, chỉ còn lại một giải cỏ chưa cắt mà thôi. Chàng đi lại phía ấy cắt nốt.

Con tiểu yêu nói: “Mình phải ngăn nó cho kỳ được, dù nó có cắt đứt tay mình cũng vậy.”

Y Văn thấy cỏ không rậm lắm nhưng chàng không hiểu tại sao cắt rất khó đứt. Chàng nổi giận vung liềm phát lia lịa vào đám cỏ. Con tiểu quỷ không chịu thua trước sức mạnh của chàng. Hắn không thể níu lấy lưỡi liềm được nữa. Hắn nằm nép trong bụi cỏ. Nhưng lưỡi liềm của Y Văn đã tung tới đám cỏ ấy. Y Văn cắt đứt đám cỏ và cắt đứt luôn đuôi của con tiểu quỷ.

Khi đã cắt xong đồng cỏ, Y Văn bảo cô em gái cầm cào cỏ chất lại từng đống, còn mình thì đi nhổ mạ. Con tiểu quỷ làm cho ruộng mạ khô cứng như đá, khiến cho mạ bị đứt gốc hết mỗi khi Y Văn nhổ lên. Chàng trở về lấy gàu sòng tát nước vào ruộng mạ. Nước vào, đất mềm, chàng lại xuống nhổ mạ, bó lại thành từng bó.

“Bây giờ mình chỉ cần bừa ruộng, tát nước vào là có thể cấy lúa được rồi.”

Con tiểu yêu cụt đuôi nghe nói như thế liền nghĩ: “Mình không ngăn được nó nhổ mạ, nhưng mình sẽ không cho nó tát nước vào ruộng. Sáng mai, mình sẽ làm cho nước khô hết để nó chẳng còn nước mà tát.”

Sáng mai, khi con tiểu quỷ tới thì ruộng đã bừa xong và nước đã tát vào ruộng rồi. Thì ra chàng Y Văn đã thức trọn đêm để bừa ruộng và tát nước. Hắn đang bực tức thì thấy Y Văn và cô em gái từ nhà đi ra với một chiếc xe trâu. Hai anh em chất cỏ lên đầy xe cho trâu kéo về nông trại.

“Thằng Khùng này không chịu ngủ. Nó làm việc suốt đêm. Nó làm mình bị thương cùng mình. Nó lại làm mình đứt hết một cái đuôi. Thiệt chưa bao giờ mình bị thất bại nặng nề như vậy. Dù cho ra chiến trận mình cũng chưa từng bao giờ bị đau đớn thế này. Thôi để ta về đốt nhà nó cho biết.”

Nghĩ thế, con tiểu quỷ nhảy lên xe trâu ẩn mình trong rơm cỏ. Khi xe trâu về tới nhà, hai anh em Y Văn đem cỏ ra phơi trên sân; con tiểu quỷ lách rất tài. Nó ẩn mình trong cỏ, không cho hai anh em thấy. Đêm ấy, trong khi mọi người ngủ, con tiểu quỷ cố làm cho cỏ khô mau, định bụng để khi mặt trời lên nó sẽ châm lửa đốt cỏ để cho cỏ bốc cháy và làm cho vựa lúa gần bên cũng cháy thành tro bụi.

Nhưng mệt quá, hắn lăn ra ngủ quên trong một đống cỏ khô. Sáng lại, Y Văn lấy cào ra chất cỏ lại thành đống. Chàng cào nhằm tên tiểu quỷ. Đưa cào lên, chàng thấy con tiểu quỷ mắc cứng giữa các răng cào, tay chân ngoe nguâỷ tuyệt vọng. Đầu cổ nó dính cỏ và rơm, đuôi nó cụt ngủn. Y Văn la lớn: “Lại cái con quỷ này nữa! Mày còn trở lại đây làm gì vậy?”

“Không phải, không phải! Tôi là một con quỷ khác, không phải con bữa trước đâu! Tôi thường theo Xa Mạnh, anh cả của ông.”

Y Văn nói: “Mặc kệ mày, dầu mày là con khác thì mày cũng sẽ chịu chung số phận với nó.”

Y Văn sắp đập đầu con tiểu quỷ xuống sân gạch thì con tiểu quỷ nài nỉ: “Xin ông tha tôi! Tôi sẽ không bao giờ trở lại phá ông nữa. Ông muốn gì thì tôi làm cho ông.”

“Mày có thể làm được gì?”

“Làm gì cũng được. Ví dụ tôi có thể lấy cọng rơm làm ra binh lính.”

“Nhưng mà làm ra lính để làm gì?”

“Làm gì mà không được?

“Lính thổi kèn tò te tí te được không?

“Được chứ?”

“Vậy làm ra một ít lính xem chơi.”

Tên tiểu quỷ liền lượm ra một cọng rơm, dựng đứng cọng rơm lên mặt đất rồi đọc:

Theo lệnh của Ma Vương

Ngươi không còn là rơm

Mỗi cọng rơm nghe lênh

Biến thành một tên lính

Cọng rơm tức tốc biến thành một chú lính, đứng ngẩn tò te. Y Văn rất khoái, bắt chước lượm một cọng rơm khác, dựng đứng trên mặt đất và đọc bài chú mà con tiểu yêu vừa đọc. Cọng rơm cũng lập tức biến thành một chú lính. Y Văn bèn làm ra nhiều chú lính nữa. Rồi chàng ta bảo lính thổi kèn tò te tí te. Lập tức đoàn lính sắp hàng đôi, diễn hành đánh trống, thổi kèn inh ỏi. Y Văn khoái quá, la lên: “Ha, ha! Vui thiệt! Mấy cô gái trong xóm mà thấy thì chắc là thích lắm.”

Con tiểu yêu hỏi: “Bây giờ ông thả tôi ra được chưa?” Y Văn trả lời: “Chưa. Bây giờ ta muốn biết cách làm sao cho lính trở lại thành cọng rơm. Như vậy để khỏi phải tốn cơm nuôi lính mà cũng để có rơm cho trâu bò ăn.” Con tiểu yêu nói: “Thì ông cứ đọc câu này tự khắc bao nhiêu lính đều biến trở lại thành rơm hết thảy:

“Tất cả các tên lính

Hãy sẵn sành chờ lịnh

Nghe lời của Ma Vương

Biến thành những cọng rơm.”

Y Văn đọc xong mấy câu trên, tất cả các chú lính đều biến trở lại thành rơm.

“Bây giờ ông cho tôi đi, được không?”

“Sao lại không? Phật độ cho mày!”

Vừa nghe tơ1i tiếng Phật, con tiểu quỷ rơi thịch ngay xuống đất như một hòn đá rơi tỏm xuống nước. Y Văn nhìn xuống chỉ thấy có một lỗ hổng.

Khi Y Văn về nhà, chàng thấy anh ba của chàng là Ta La Bụng Bự và người chị dâu đang ngồi ăn cơm. Chàng Bụng Bự đã trốn con nợ cùng nhau chạy về đây sống ăn bám đứa em của mình. Thấy Y Văn bước vào. Ta La nói: “Chú nó nghe đây: anh và chị về tạm với chú một thời gian, tới khi nào anh lại làm ra tiền như cũ. Được không?”

Sau lại không? Anh chị cứ ở lại đây bao lâu cũng được. Rồi chàng ngồi xuống cầm đũa. Nhưng bà chị dâu phản đối: “Tôi ngồi ăn chung với chú Khùng không được đâu. Chú ấy mồ hôi nặng quá. Ta La Bụng Bự chiều vợ, nói với Y Văn: “Chú nó xới cơm ra ngồi ngoài bậc cửa mà ăn cho mát, được không?”

Sao lại không? Với lại cũng đã đến lúc em phải đi lấy rơm cỏ cho trâu ăn rồi.

V

Con tiểu quỷ theo ám Ta La sau khi đã thành công rồi liền y hẹn tới giúp hai đứa bạn quỷ phá Y Văn Khùng. Khi tới đám ruộng, hắn đi tìm mãi mà chẳng thấy hai bạn, chỉ thấy một lỗ hổng dưới đất. Hắn đi sang đồng cỏ, tìm mãi mới thấy được một cái đuôi của một đứa bạn. Tìm về đến sân nhà Y Văn, hắn thấy một cái lỗ hổng thứ hai. Hắn chép miệng: “Thôi rồi, hai thằng bạn của mình chắc chắn đã bị hại rồi. Mình phải thay thế chúng mà trị cái thằng Khùng này mới được.”

Thế là hắn đi tìm Y Văn. Nhưng lúc bấy giờ Y Văn đang đốn củi ngoài rừng. Anh chàng đi đốn gỗ để làm nhà mới cho hai ông anh và cho hai bà chị dâu ở, bởi vì họ chê căn nhà chật quá.

Tên tiểu quỷ chạy ra ngoài rừng núp vào trong cành lá và cố làm cho cây ngã vướng vào bụi. Y Văn biết đốn cây rất giỏi: Chàng đốn thế nào để cho cây ngã xuống phía đất trống. Nhưng con quỷ cứ xô cho cây ngã vào bụi rậm để vướng vào cành lá. Y Văn phải đốn một cây và làm đòn bẩy các thân cây về phía đất trống. Rồi chàng đi đốn cây khác. Con tiểu quỷ lại dở trò xô ngã cây vào phía bụi rậm như trước.

Y Văn đã dự tính đốn chừng năm chục cây để cất nhà nhưng đến tối chàng mới đốn ngã được có mười hai cây. Chàng mệt nhoài. Người chàng nóng bức, mồ hôi chảy lộp độp xuống cành lá gần như mưa mà chàng vẫn nhất định không chịu thua. Chàng đốn ngã thêm một cây nữa. Nhưng sau đó, lưng đau quá, chàng không chịu nỗi nữa. Chàng phập chiếc rìu vào gốc cây và ngồi xuống nghỉ.

Thấy Y Văn ngưng làm việc, con tiểu quỷ mừng quá: “Thằng Khùng mệt rồi! Nó sẽ phải bỏ cuộc! Mình cũng mệt quá. Mình cũng phải nghỉ một chút. Con tiểu quỷ nói xong đeo trên một cành cây mà ngủ. Ai ngờ Y Văn đã choàng dậy rút lưỡi rìu ra, nhằm phía bên kia của thân cây mà giáng xuống một rìu mạnh như như trời giáng, khiến cho thân cây ngã rầm xuống một cái. Con tiểu yêu đang ngủ lơ mơ, không kịp né tránh, bị cây đè lên mình, không thể nào vẫy vùng ra khỏi được.

Khi Y Văn trẩy cành, chàng trông thấy nó. “Lại mầy nữa! Tởm quá! Mày trở lại làm gì?”

– “Không! Không! Tôi không phải là hai con trước đâu. Tôi là một con khác. Tôi thường theo ám người anh thứ ba của ông, tên là Ta La Bụng Bự.”

– “Mày là đứa nào cũng thây kệ. Mày phá tao thì tao phải cho mày đi theo mấy đứa kia về thăm ông bà mày mới được.”

Nói xong tên Y Văn đưa cán rìu lên định đập vào đầu tên tiểu quỷ, nhưng tên này năng nỉ: “Đừng đập tôi, tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông muốn.”

– “Mày làm được gì?”

– “ Tôi có thể làm ra cho ông rất nhiều đồng tiền bằng vàng.”

– “Vậy làm thử vài đồng xem.”

– “Tên tiểu quỷ hái một cái lá trên cây vông và bảo Y Văn hái một cái lá khác rồi nói: “Hái một lá vông trên cây vông này, rồi xát lá vông vào lòng bàn tay trái. Tự khắc có nhiều đồng vàng từ lòng bàn tay trái rơi ra.”

Nói xong, nó xát lá vông vào lòng bàn tay trái của nó. Y Văn bắt chước. Tiền vàng từ lòng bàn tay trái của chàng cũng rơi ra thành một đống. Y Văn reo:

– “A ha ! Bọn con nít có thể lấy đánh đáo chơi với nhau được đấy. Chúng sẽ rất khoái.

–    “Bây giờ ông cho tôi đi được không?”

Y Văn lấy cây gậy của chàng nạy cây lên cho tên tiểu quỷ khỏi kẹt. Chàng nói: “Đừng làm ác nữa. Phật  sẽ độ cho mầy.”

Vừa nghe đến chữ “Phật” con tiểu yêu rớt xuống mặt đất như một hòn đá rơi xuống mặt nước. Y Văn nhìn xuống. Chàng chỉ thấy một lỗ hổng.

VI

Ba anh em Y Văn đã dựng thêm hai căn nhà mới và mỗi gia đình ở riêng một nhà. Đến mùa gặt lúa, chàng chứa lúa đầy lẫm. Chàng cho nấu xôi nếp mới, làm thịt heo, mời hàng xóm tới ăn mừng. Chàng cũng mời hai anh và hai bà chị dâu tới, nhưng cả bốn đều từ chối. Họ biết “Tiệc tùng nhà quê, không thèm!”

Cho nên Y Văn chỉ có dịp thết đãi hàng xóm, toàn là cô bác nhà quê trong làng. Y Văn cũng ăn uống no say như mọi người. Khi ăn xong, mọi người ra sân hóng mát, xem trăng, và Y Văn mời các cô gái trong xóm ca vọng cổ.

– “Cô ca vọng cổ đi, rồi tôi sẽ cho cô xem trò này hay lắm.”

Cô gái không tin là Y Văn có trò gì hay lắm nhưng cô cũng ca đủ sáu câu vọng cổ mừng ngày được mùa. Cô ca xong tất cả cô bác đều nhìn về phía Y Văn và nói:

– “Có trò gì làm đi,chú Văn?”

– “Đợi chút xíu nghe. Chàng nói như vậy và vào lấy một cái thúng chạy vào rừng, phía có cây vông.

Mấy người đàn bà nhìn theo, cười: “ Đúng là một thằng Khùng.” Nhưng Y Văn đã trở lại với một cái thúng đầy lá vông. Chàng hỏi:

– “Bây giờ tôi chia cho cô bác mỗi người một ít được không?”

Mọi người nói: “chia thì chia.” Chia xong Y Văn cầm một chiếc lá xát vào lòng tay trái mà nói câu thần chú mà con tiểu yêu dạy cho chàng, tức thì những chiếc lá đều biến thành vô số những đồng tiền bằng vàng.

Y Văn nắm một nắm tiền vàng ném vào các cô giống như người ta ném những bông hoa vào người đẹp. Các cô tranh nhau lượm tiền vàng, dẫm lên cả áo nhau. Mấy người đàn ông cũng chen vào lượm. Họ xô nhau, dẫm đạp lên nhau, xé rách áo nhau. Có một bà té bị đạp gần gãy cả cánh tay.

Y Văn la lớn: “Cô bác khùng hay sao? Tại sao tranh nhau quá xá như vậy? Còn đây, còn nhiều đây mà. Chàng bắt đâù tụng thêm thần chú và tung thêm tiền vàng. Mọi người bao quanh lấy chàng. Khi chàng đã phân phát xong thúng tiền vàng, họ còn theo xin thêm nữa.

Y Văn nói: Để khi khác tôi sẽ tặng cô bác thêm. Bây giờ có ai biết đờn cò hay đờn gáo gì không? Đem ra đờn để ca bình bán cho vui.

Không ai có đờn hết. Một anh chàng tước lá chuối cuốn lại làm cái kèn, thổi tò te.

Kèn của anh nghe nhức lỗ tai lắm. Để tôi làm băng nhạc nhà binh nghe hay hơn. Y Văn đi ra đống rơm rút một nắm rơm. Chàng dựng một nắm cọng rơm trên đất và đọc:

Theo lịnh của Ma Vương

Ngươi không còn là rơm

Mỗi cọng rơm tức khắc

Biến thành một tên lính

Lập tức các cọng rơm biến thành một đội lính đi nhịp đều, đánh trống thổi kèn rất nhộn và rất vui mắt. Mọi người đều sửng sốt. Sau khi đội lính đã diễn hành quanh xóm và thổi nhiều bài nhạc, Y Văn ra lịnh cho lính trở lại thành cọng rơm. Chàng ném rơm vào đống rơm và đi về nhà ngủ.

VII

Sáng hôm sau, nghe đồn về những gì xảy ra hồi hôm, anh Cả chàng là Xa Mạnh tìm tới.

– “Này chú nó, hồi hôm chú nó lấy đâu ra một toán lính đông như vậy? Và bây giờ chú nó đem đi đâu hết rồi?”

– “Anh muốn biết để làm gì?” Y Văn hỏi.

– “Để làm gì hả? Có lính thì muốn làm gì cũng được tất. Muốn làm Vua một nước cũng được nữa mà.”

Y Văn sửng sốt: “Vậy hả? Tại sao anh không cho em biết trước? Em có thể làm cho anh bao nhiêu lính cũng được. Đêm qua đó, em đã làm ra bao nhiêu là lính.”

Y Văn đưa anh ra đống rơm: em sẽ làm cho anh vô khối lính. Nhưng anh phải hứa với em là anh sẽ đem tất cả đi nơi khác. Nếu để lính lại đây thì họ ăn hết gạo của làng trong một ngày.

Xa Mạnh hứa. Y Văn bắt đầu làm ra lính. Chàng nắm một nắm rơm, dựng đầu xuống đất. Một tiểu đội lính hiện ra. Một nắm cọng rơm khác. Một tiểu đội khác. Cho đến khi tất cả ruộng vườn chung quanh đều chật ních những lính và lính. Y Văn hỏi: “Chừng đó đủ chứ?”

– “Đủ rồi. Anh cám ơn chú nó.”

– “Khi nào anh cần thêm, anh cứ về đây. Em sẽ làm thêm. Rơm rạ nhà mình còn vô khối.”

Xa Mạnh liền điểm binh, thống lĩnh quân đội, lên đường chinh phục. Xa Mạnh mới kéo binh đi khỏi thì Ta La Bụng Bự tới. Anh ta đã nghe đồn về thúng tiền vàng hồi hôm.

– “Chú nó lấy tiền vàng ở đâu ra nhiều thế? Nếu anh có được một thúng đầy tiền vàng như vậy, anh có thể làm lời ra nhiều nữa, và khiến cho tiền bạc khắp thế giới tìm về.”

Y Văn sửng sốt: Vậy hả? Tại sao lâu nay anh không nói điều đó cho em nghe? Em sẽ làm tiền vàng cho anh, muốn bao nhiêu cũng có.

– “Chú nó làm cho anh ba thúng đầy,” Ta La mừng rỡ mà nói như vậy và tiếp, “Chú nó chịu không?”

– “Sao lại không? Anh hãy đi với em vào rừng. Nhưng khoan, để em buộc trâu vào xe cái đã. Ba thúng nặng lắm, một mình anh làm sao mang nổi?”

Vào rừng Y Văn hái nhiều lá vông và xát vào lòng tay, làm ra một đống tiền vàng cao nghệu.

– “Đủ chưa?” Chàng hỏi. Ta La mừng rỡ:

– “Thôi, tạm đủ. Cám ơn chú nó.”

– “Có gì đâu anh. Nếu sau này anh cần thêm thì anh cứ về đây, em làm thêm cho. Còn nhiều lá vông lắm.”

Ta La Bụng Bự bèn chở vàng đi buôn bán.

Hai người anh của Y Văn như vậy đều đã lên đường: Xa Mạnh đi làm chiến tranh và Ta La đi buôn. Xa Mạnh đánh chiếm được một nước và lên làm Vua. Còn Ta La trở thành giàu có, tiền bạc mua bán vào ra như nước chảy.

Hai người gặp nhau. Xa Mạnh kể cho Ta La nghe làm sao mà chàng có nhiều lính. Còn Ta La kể cho anh nghe làm sao chàng có nhiều vàng. Xa Mạnh than thở: “Bây giờ làm Vua, anh có thể sống sung túc, nhưng mà anh không có tiền để nuôi quân đội.”

Còn Ta La thì than thở: “Em thì em có quá nhiều tiền nhưng chẳng có ai canh giữ. Sợ trộm cướp quá.”

Xa Mạnh đề nghị: “Bây giờ anh em mình về tìm Y Văn, Anh sẽ bảo Y Văn làm thêm lính để canh giữ tiền bạc cho chú nó,  và chú nó sẽ bảo Y Văn làm thêm tiền bạc để nuôi quân lính của anh.”

Họ tìm về nhà, rồi Xa Mạnh nói với Y Văn: “Anh không có đủ lính chú nó ạ. Chú nó làm cho anh thêm ít lính nữa. Chừng một hai bó rơm lính là đủ.”

Y Văn lắc đầu: “Em không làm nữa. Em quyết không làm thêm một chú lính nào nữa.”

– “Sao vậy? Chú nó đã hứa với anh là khi nào anh cần thêm thì chú nó sẽ làm thêm rồi mà.”

– “Em có hứa. Nhưng em nhất định không làm thêm.”

– “Tại sao thế, hả thằng Khùng?”

– “Tại vì lính của anh đã giết người. Mới mấy hôm trước đây. Khi em đang cày ở một đám ruộng gần đường cái, có một người đàn bà chở quan tài đi ngang qua trên một chiếc xe bò. Bà ta khóc lóc thảm thiết. Em hỏi bà ta: ai chết? Bà nói: Chồng tôi ra trận bị quân lính của Xa Mạnh giết chết. Em tưởng làm ra lính là để mà chơi nhạc cho nên em mới làm. Ai ngờ lính đã giết người. Em sẽ không làm cho anh thêm một tên lính nào nữa hết.”

Và Y Văn cương quyết từ chối. Bây giờ Ta La Bụng Bự lên tiếng, xin Y Văn làm thêm tiền vàng. Y Văn lắc đầu: “Thôi, em không làm thêm đồng nào nữa hết.”

– “Tại sao? Chú đã hứa rồi mà!”

– “Phải rồi, em có hứa. Nhưng bây giờ em quyết không làm ra đồng tiền vàng nào nữa.”

– “Tại sao thế hả thằng Khùng?”

– “Tại vì tiền vàng mà thím Tám mất bò rồi.”

– “Mất bò rồi? Tại sao?”

– “Người ta dắt đi. Thím Tám có một con bò cái, mấy đứa con của thím nhờ đó mà có sữa để uống hàng ngày. Mới hôm qua đây, chúng nó qua xin sữa. Em hỏi: Vậy chớ con bò nhà các cháu đâu rồi? Bộ nó hết sữa rồi à? Chúng nó nói rằng: Người quản lý của ông Ta La Bụng Bự tới đưa cho má chúng ba đồng tiền vàng và dắt con bò đi rồi. Bây giờ tụi cháu không có sữa mà uống. Em tưởng làm ra tiền vàng là để đeo cổ cho đẹp hay đánh đáo chơi, ai có biết rằng tiền vàng có thể cướp bò của người ta và làm cho trẻ con không có sữa uống. Em nhất định không làm ra đồng nào nữa hết.”

Rồi Y Văn cương quyết từ chối. Hai người anh, rốt cuộc phải bỏ đi tìm cách khác. Xa Mạnh nói: “Bây giờ tôi đề nghị thế này: Chú đưa tiền để tôi nuôi lính; còn tôi, tôi sẽ cho chú một nửa giang sơn và một số lính để canh giữ của cải cho chú nó.”

Ta La bằng lòng đề nghị đó. Hai anh em chia nhau sự sản. Cả hai đều làm Vua. Mỗi người một nửa giang sơn và cả hai đều giàu có.

VIII

Trong lúc ấy thì Y Văn vẫn sống an ổn tại nhà. Chàng và cô em gái câm làm việc ngoài đồng áng và nuôi cha mẹ già.

Một hôm con chó trong nhà bịnh nặng. Nó cứ ốm dần, ốm dần, làm như sắp chết. Y Văn thương quá, liền lấy cơm của cô em gái cho nó ăn. Nhưng khi chàng đang lấy cơm thì một cái rễ trong lưng quần chàng văng ra và con chó nhảy tới đốp cái rễ và nhai nuốt hết. Ăn xong cái rễ cây ấy, con chó lành hẳn bịnh. Nó quâỷ đuôi và nhảy cỡn xung quanh Y Văn. Cha mẹ chàng thấy con chó lành bịnh mau chóng một cách dị thường, lấy làm kinh dị, liền hỏi chàng:

– “Con làm sao mà con chó lành bịnh mau dữ vậy?”

– Y Văn trả lời: “Con có hai cái rễ cây có thể trị lành bá chứng, mà nó đã nhai nuốt hết một cái.”

Hồi đó, Công Chúa con Vua đau nặng. Nhà Vua ban chiếu cho thần dân trong nước, từ thành thị đến thôn quê rằng nếu ai chữa được bịnh cho Công Chúa thì sẽ được trọng thưởng, và nếu chưa có gia đình thì Vua sẽ gả Công Chúa cho. Chiếu truyền đến làng của Y Văn. Cha mẹ chàng gọi chàng và nói: “Con đã nghe chiếu tryền của đức Kim Thượng chưa? Con nói con còn một cái rễ nhỏ có thể chữa được bá bịnh. Vậy con nên đem rễ cây đi chữa cho Công Chúa đi. Như thế con sẽ được ban thưởng và sẽ được sung sướng suốt đời. Con chịu không?”

Y Văn đáp: “Sao lại không?” Và chàng sửa soạn lên kinh đô. Chàng lấy áo tốt nhất của mình ra mặc. Nhưng khi mới bước ra đường thì Y Văn gặp một bà già ăn xin. Cánh tay của bà có tật, không co vào và duỗi ra được. Bà già ăn xin nói: “Gìa nghe nói ông biết chữa bịnh. Gìa tới xin ông chữa dùm cánh tay có tật của già. Ông vui lòng chữa cho già không?”

Y Văn đáp: “Sao lại không?” và lấy chiếc rễ còn lại ra đưa cho bà lão, bảo bà nhai và nuốt. Bà lão làm theo lời và cánh tay của bà tự khắc co và duỗi ra được.

Lúc ấy cha mẹ của Y Văn cũng mới từ trong nhà bước ra để cùng với chàng đi đến Kinh đô. Y Văn cho cha mẹ chàng biết là mình đã dùng chiếc rễ cây để chữa cho bà lão rồi và không còn gì nữa để đi chữa bịnh cho Công Chúa. Hai ông bà trách Y Văn: “Mày chỉ biết thương xót bà lão ăn mày mà mày không biết thương xót Công chúa chút nào hết.”

Y Văn, kỳ thực, cũng có thương xót Công chúa. Chàng chẳng nói chẳng rằng, buộc bò vào xe, đem theo ít rơm và leo lên xe để khởi hành.

Cha mẹ chàng hỏi: “Bây giờ mày đi đâu?”

– “Con đi chữa bịnh cho Công Chúa.”

– “Mày không còn chiếc rễ nào thì lấy đâu ra mà chữa bịnh cho Công Chúa được?”

– “Sao lại không?” Y Văn cười và cho xe đi.

Tới Kinh đô, chàng bỏ xe đi bộ vào đền Vua. Chàng vừa đặt chân lên cổng thì Công Chúa lành bịnh ngay lập tức. Đức Vua vui mừng quá đổi. Ngài cho gọi Y Văn vào chầu, cho mặc áo đẹp, và ban thưởng cho chàng.

– “Ta muốn con làm phò mã, con chịu không?”

– “Sao lại không?” Y Văn nói vậy, và chàng nhận lời. Đám cưới cử hành rất trọng thể. Y Văn ở lại triều làm phò mã. Sau đó không lâu, đức Vua băng hà, và Y Văn lên nối ngôi Vua. Như vậy là ba anh em Y Văn đều ở ngôi cư4u ngũ.

IX

Ba anh em là ba ông Vua, trị ba quốc gia khác nhau. Người anh cả là Xa Mạnh, tổ chức quân đội rất kỹ lưỡng. Nhà Vua này bắt dân đi lính thật nhiều để tăng cường số binh lính bằng rơm có sẵn. Hễ mười nhà là phải có một nhà có con đinh lính. Người con trai đi lính phải cao lớn, mạnh khoẻ, tinh anh. Xa Mạnh huấn luyện binh lính rất tinh nhuệ. Hễ có ai chống đối mình thì lập tức Xa Mạnh gọi quân lính đi đàn áp. Vua muốn làm gì ai cũng được. Người ta bắt đầu sợ hãi.

Hễ ưa thích cái gì là Xa Mạnh gởi quân lính đi chiếm cho kỳ được.

Người anh thứ là Ta La Bụng Bự chú trọng nhiều hơn kinh tế thương mãi. Tiền vàng của Y Văn cho, Vua đã không làm mất đồng nào mà còn làm cho sanh lợi rất nhiều. Vua cũng thiết lập trật tự trong nước. Vua cất chứa tiền bạc trong kho, và còn thu thuế của dân để chất chứa thêm. Vua đánh thuế tất cả mọi người dân, đánh thuế rượu, đánh thuế lúa, đánh thuế áo quần, đánh thuế mọi thứ. Thích gì là tung tiền ra mua. Ta La mua gi cũng được.

Còn Y Văn Khùng làm ăn cũng khá. Sau khi chôn cất Vua cha, chàng cởi áo hoàng bào, bảo hoàng hậu bỏ vào cất trong rương, rồi lấy quần áo nông dân ngày xưa của mình mặc vào. Và Vua lại bắt đầu làm ruộng. Vua nói:

– “Làm Vua kiểu này chán chết. Ngồi không hoài, ăn đã không biết ngon, bụng thì càng ngày càng lớn thêm mà đêm lại cũng không ngủ được.”

Vua cho đi mời cha mẹ và cô em gái câm tới ở chung và Vua bắt đầu làm ruộng trở lại. Mọi người nói:

– “Nhưng mà Vua là một bậc Nhân Chủ kia mà. Tại sao Vua lại cần lao động?

– “Vua cũng như mọi người.” Y Văn đáp.

Một viên quan đại thần tâu: “Tâu bệ hạ, mình chẳng có tiền để trả lương cho các quan.”

– “Không có tiền thì khỏi trả.”

– “Tâu bệ hạ, nếu không trả thì họ không chịu theo phò chúng ta nữa.

– “Thì để cho họ thôi. Để cho họ đi làm việc. Nói với họ là có bao nhiêu việc phải làm. Ví dụ lấy xe chở phân ra ruộng. Phân của họ chất từng đống cao nghệu rồi đó.”

Nhiều người kéo đến nhà vua nhờ xử kiện. Một người nói: “Tâu Hoàng Thượng, nó ăn cắp tiền của hạ thần.”

Y Văn nói: “Thì tại vì nó cần tiền nên nó mới ăn cắp.” Mọi người cho rằng Y Văn là một ông Vua khùng. Một hôm, Hoàng Hậu nói nhỏ với Vua: “Người ta nói là Bệ Hạ Khùng.”

Y Văn cười: “Thì cứ để họ nói.” Hoàng Hậu suy nghĩ mãi về câu trả lời của Vua. Và vì bà cũng thuộc loại khùng như Vua, cho nên một hôm bà tự nhủ:

“Tại sao ta lại đi ngược lại chồng ta? Kim đi dâu thì chỉ phải theo đấy.”

Nghĩ thế, bà liền cởi áo Hoàng Hậu, cất vào rương, và đi tìm cô em gái câm của Y Văn để học làm ruộng, và bắt đầu giúp chồng trong công việc đồng áng. Những nhà tri thức trong vương quốc thấy thế liền bỏ nước đi sang sinh sống ở một nước khác. Chỉ có những người khùng là chịu ở lại. Họ làm việc chân tay, sản xuất cơm ăn áo mặc, nuôi mình và nuôi người.

X

Ma Vương, Vua của các loài Ma, đã chờ đợi năm này qua năm khác nhưng không thấy ba tên tiểu yêu trở về báo cáo về kết quả của việc xúi ba anh em Y Văn choảng nhau đến vỡ đầu. Cuối vùng không đợi được nữa, Ma Vương đích thân lên đường tìm kiếm. Tìm kiếm mãi mà chẳng thấy ba tên tiểu quỷ đâu, chỉ thấy ba cái lỗ hổng dưới đất. Ma Vương nghĩ thầm:

– “Rõ ràng là ba chú nhỏ bị thất bại. Ta phải tự mình ra tay mới được.”

Ma Vương đi tìm ba anh em Y Văn, nhưng ba anh em nhà này đâu còn ở chỗ cũ nữa. Ma Vương lên đường đi tìm nữa, và biết được rằng cả ba đều đang làm Vua. Điều này làm cho hắn ta rất bực bội.

“Ta phải đích thân ra tay mới được,” Ma Vương lặp lại quyết định của mình. Trước hết Ma Vương tìm tới Hoàng Đế Xa Mạnh. Ông ta biến hình ra một viên dũng tướng và xin vào ra mắt nhà Vua.

– “Thần nghe nói Hoàng Thượng là một người thông hiểu binh pháp. Thần cũng là người rất am tường về việc dụng binh, nên tìm đến đây để phò Hoàng Thượng.” Hoàng Đế Xa Mạnh chất vấn vài câu và thấy rằng vị võ tướng này là là một người rất mực khôn khéo, nên vui lòng chấp nhận. Vị tướng lãnh mới này bắt đầu chỉ cho Vua cách thức tổ chứa một binh lực hùng mạnh.

– “Trước hết, chúng ta phải bắt lính thêm nhiều nữa, nếu không, chúng ta sẽ có quá nhiều người làm biếng trong xứ. Động viên tất cả mọi người trẻ, như vậy ta sẽ có một quân đội lớn bằng năm lần quân đội hiện giờ. Rồi chúng ta phải đúc thêm nhiều súng ống. Thần sẽ chế tạo cho Bệ Hạ một loại súng có thể bắn một lần một trăm viên đạn, giống như người ta ném ra một nắm đậu vậy. Thần cũng sẽ chế tạo ra một loại súng phun lửa có thể đốt cháy người, ngựa, thành trì, và mọi thứ chướng ngại.”

Nghe lời vị tướng lãnh mới, Hoàng Đế Xa Mạnh ra lệnh động viên tất cả mọi người trẻ tuổi. Không ai được phép miễn dịch. Vua đã thiết lập nhiều xưởng đúc súng đạn để đúc những thứ súng mới và đạn mới. Và Vua đưa binh đi đánh nước lánh giềng. Xa Mạnh ra lệnh bắn súng và phun lửa vào quân địch. Lửa đạn của Vua lập tức tiêu diệt quá nửa binh đội của nước lánh giềng. Vua láng giềng sợ quá, đầu hàng. Vua thôn tính nước đó. Và Vua dự định đi chinh phục luôn nước Ấn Độ.

Nhưng Hoàng Đế Ấn Độ đã biết trước chuyện này. Thám tử đã báo cáo mọi sự về vương quốc của Xa Mạnh, cho nên Vua Ấn Độ đã cho chế tạo súng đạn theo kiểu mẫu lấy được của Xa Mạnh và còn chế tạo thêm vài loại súng mới nữa. Hoàng Đế Ấn Độ lại động viên thêm, bắt tất cả mọi người trẻ tuổi đi lính đã đành, lại còn bắt tất cả mọi phụ nữ không có gia đình đi lính. Bây giờ đây, binh đội của Ấn Độ còn lớn hơn và đông đào hơn binh đội của Xa Mạnh nữa. Vua Ấn Độ lại phát minh ra một loại máy bay có thể bay sang đất địch để thả bom.

Hoàng Đế Xa Mạnh điều động binh mã qua đánh Ấn Độ, tưởng rằng sẽ chiến thắng dễ dàng như đã chiến thắng nước láng giềng. Nhưng Vua thất bại nặng nề. Hoàng Đế Ấn Độ không đợi chờ quân đội của Xa Mạnh tiến tới gần tầm súng; trước đó, Vua đã cho nữ binh bay máy bay lên trời và thả bom xuống trên quân đội của Xa Mạnh. Bom thả xuống như mưa. Cả binh đội của Xa Mạnh tan vỡ, tẩu tán hết, chỉ còn lại một mình Xa Mạnh. Hoàng Đế Ấn Độ chiếm đóng Vương quốc của Xa Mạnh. Xa Mạnh phải tìm đường trốn tránh.

Sau khi đã thanh toán được một người trong số ba anh em, Ma Vương tìm tới Hoàng Đế Ta La Bụng Bự. Kỳ này Ma Vương biến thành một thương gia và vào kinh doanh nơi vương quốc của Ta La. Ma Vương xài tiền như rác, mua đủ mọi thứ với giá rất cao. Thiên hạ tìm tới rần rần để bán sản phẩm cho Ma Vương và để được Ma Vương trả tiền. Tiền của Ma Vương đi vào thị trường nhiều quá khiến cho dân chúng có dư dã để trả thuế cho Vua rất đúng hẹn. Hoàng Đế Ta La rất hoan hỷ: “Nhờ người đại thương gia mới tới này mà ta có tiền nhiều hơn bao giờ hết. Đời sống thật là dễ chịu hơn bao giờ hết.

Vua dự tính nhiều chuyện. Trước hết Vua muốn xây dựng một cung điện mới và ra lệnh cho mọi người đem gỗ đá đến để khởi công. Vua cho giá rất cao và nghĩ rằng dân chúng sẽ đổ xô tới để mang gỗ và đá cho Vua xây dựng. Nhưng không! Dân chúng chỉ chịu chở đá và gỗ tới cho đại thương gia kia. Thợ thuyền cũng thế… Vua trả giá cao thì vị đại thương gia lại trả giá cao hơn. Vua có nhiều tiền nhưng tên đại thương lại có nhiều tiền hơn. Nó hơn Vua mọi mặt. Cuối cùng công việc xây dựng cung điện phải bị đình chỉ.

Vua cũng đã khởi công tạo lập một vườn thượng uyển. Mùa thu năm nay Vua ra lịnh cho dân chúng đến đào đất, trồng cây, nhưng không ai chịu tới: ai cũng đang bận đi đào hồ cho tên đại thương gia.

Mùa Đông tới. Vua cho người đi mua da thú về may áo ấm. Người đi mua trở về tay không, bởi vì tên đại thương gia đã cho người đi mua hết da thú trong nước về đề làm nệm trải nhà.

Khi nhà Vua cho người đi mua ngựa thì cũng không còn ngựa để mà mua. Tất cả mọi con ngựa trong xứ đều đang đi chở nước đổ vào chiếc hồ lớn của tên đại thương gia.

Mọi công trình của Vua bị đình đốn. Không ai chịu tới phục vụ cho Vua nữa. Ai cũng tới phục vụ cho tên đại thương gia. Không ai đem cho Vua vật gì hết, họ chỉ đem tiền nạp thuế cho Vua mà thôi.

Hoàng Đế Ta La thu góp quá nhiều tiền bạc đến nỗi Vua không còn kho để chứa tiền nữa. Tuy vậy đời sống của Vua đã trở nên khó khăn, khổ sở. Vua đình chỉ hết mọi công tác, chỉ mong có đủ thực phẩm và áo quần, nhưng mà thực phẩm và áo quần cũng đã trở nên hiếm hoi. Bọn ngự y, ngự trù, ngự xa của Vua đều đã bỏ Vua tới làm cho tên đại thương gia. Bây giờ Vua cho người đi chợ mua thức ăn cũng không có thức ăn mà mua nữa. Tên đại thương gia đã mua hết. Vua chỉ còn tiền và tiền.

Ta La giận quá, ra lệnh đuôỉ tên đại thương gia ra khỏi vương quốc. Nhưng tên đại thương gia chỉ lùi ra khỏi ranh giới vương quốc một chút thôi, rồi cắm dùi lập nghiệp ở đó. Và nó vẫn tiếp tục mua tất cả những sản phẩm nào mà vương quốc của Ta La có thể sản xuất.

Tình trạng nguy ngập quá. Có nhiều hôm liên tiếp, Vua và cả Hoàng Gia chẳng có gì ăn. Và bây giờ người ta đồn đại rằng thương gia đang tính chuyện mua luôn cả … Hoàng Hậu. Vua điên đầu, chẳng biết tính sao. Lúc đó, Xa Mạnh tìm tới. Xa Mạnh nói với Vua: “Vương đệ phải giúp ta. Hãy viện trợ cho ta. Ta vừa bị Vua Ấn Độ đánh bại.” Nhưng Hoàng đến Ta La đã đi đến bước đường cùng. Vua nói: “Đã mấy hôm nay chính em cũng không có lấy được một hạt cơm vào bụng.”

XI

Thanh toán xong hai người anh, Ma Vương bắt đầu tấn công Y Văn. Ma Vương biến hình ra một viên võ tướng, đến ra mắt Y Văn, khuyên Vua nên thành lập binh đội. Vị võ tướng nói: “Một vị quốc vương như bệ hạ mà thiếu quân đội thì rất thiếu thể thống. Bệ hạ chỉ cần giao cho hạ thần mọi việc. Hạ thần sẽ tổ chức binh ngũ cho bệ hạ. Bệ hạ bằng lòng không?”

– “Sao lại không? Cứ tổ chức binh đội đi. Nhưng nhớ tập cho lính tráng đánh trống thổi kèn cho giỏi. Ta chỉ thích có chừng ấy.”

Vị tướng lãnh đi khắp vương quốc của Y Văn để chiêu mộ binh lính, hứa hẹn rằng ai nhập ngũ thì sẽ được mặc quân phục, đội nón đỏ, và được phát cho hai lít rượu đế thứ thượng hảo hạng.

Dân chúng trong vương quốc vốn toàn là những người khùng. Nghe vị võ tướng nói thế, ai cũng phì cười: “Cô bác ở đây ai cũng có rượu đế nhâm nhi mỗi ngày, ai cần hai lít rượu mà phải đi lính. Còn quân phục thì mặc vào chật chội khó chịu lắm. Còn nón thì trời ơi, má bầy trẻ muốn may nón màu gì cũng được, cần gì phải nón đỏ. Có khi các bà còn làm cả nón sọc xanh nữa là.” Rồi không ai chịu tình nguyện đi lính cả. Vị võ tướng về báo cáo với Y Văn:

– “Những thằng khùng trong vương quốc không đứa nào chịu tình nguyện đi lính cả. Ta phải cưỡng bách tòng quân mới được. Bệ hạ bằng lòng ra lệnh không?”

– “Sao lại không? Cứ việc cưỡng bách thử xem.”

Vị tướng lãnh liền bố cáo cho thiên hạ biết rằng ai cũng phải đi lính, người nào không đi thì sẽ bị Vua xử tử.

Dân khùng đến gặp vị tướng lãnh và nói: “Ông bảo nếu chúng tôi không đầu quân thì sẽ bị xử tử, nhưng ông không cho chúng tôi biết nếu chúng tôi đi đầu quân thì tánh mạng chúng tôi sẽ ra sao. Chúng tôi nghe nói đi lính cũng chết.”

– “Đúng rồi, đi lính thì có thể chết vì trận mạc.”

– “Nghe nói thế, dân khùng càng trở nên cương quyết. Họ nói: “Vậy thì chúng tôi nhất định không đi! Thà ở nhà mà bị xử tử. Chớ đi mà cũng chết thì đi làm gì?”

Vị tướng lãnh giận quá: “Thật là một bọn khùng. Đi lính thì có thể chết, nhưng cũng có thể may ra được sống; còn nếu không chịu đi thì chắc chắn sẽ bị Vua xử tử.”

Dân khùng suy nghĩ rất lâu, rồi tới trước mặt Vua khùng, họ nói: “Tâu bệ hạ, có một vị tướng lãnh mới ra lệnh cho tất cả chúng tôi đi lính, nói rằng nếu chúng tôi đi thì có thể bị giết hay có thể may mắn sống sót, nhưng nếu chúng tôi không chịu đi lính thì bệ hạ chắc chắn sẽ xử tử chúng tôi. Có phải vậy không?”

Y Văn cười: “Làm sao mà một mình tôi lại có thể ra lệnh giết hết bà con cho được? Nếu tôi không phải là một ông Vua khùng thì tôi có thể giải thích chuyện này cho bà con nghe được. Đàng này tôi là một ông Vua khùng, cho nên chính tôi cũng không hiểu được nữa huống là bà con.”

Dân khùng nói: “Vậy thì chúng tôi không chịu đi lính. Được không?”

Y Văn nói: “Sao lại không? Không muốn đi thì đừng đi.”

Dân khùng bèn đi tới gặp vị tướng lãnh và nói rằng họ nhất định không chịu đi lính.

Vị tướng lãnh thấy mưu mình không thành công, liền sang vương quốc Takaran bên cạnh để cầu thân, rồi xúi nước này đem quân sang chinh phục vương quốc Y Văn.

– “Xin bệ hạ cứ cho binh đội sang đánh nước Y Văn đi. Đành rằng chúng nó không có nhiều tiền, nhưng lúa thóc, trâu bò và các sản phẩm khác thì nhiêù lắm.”

Vua nước Takaran bằng lòng, cho chỉnh đốn binh ngũ, đem quân vượt biên giới, thâm nhập lãnh thổ vương quốc Y Văn.

Dân nước Y Văn tới gặp Vua và nói: “Quân đội Takaran đang tới xâm chiếm nước ta.”

Y Văn nói: “Cứ để họ tới.”

Khi đã vượt biên giới, vua Takaran cho thám tử đi lùng để tìm xem quân đội vương quốc Y Văn đóng ở đâu. Tìm mãi mà không thấy có binh đội. Đợi hàng tháng cũng không thấy một tên lính nào của nước Y Văn xuất hiện. Thì ra vương quốc của Y Văn không có quân đội, làm sao tìm ra được lính mà đánh.

Vua nước Takaran bèn cho binh đội đi chiếm làng mạc. Khi binh lính vào làng, dân chúng đổ ra xem, trai cũng như gái, trẻ cũng như già. Quân đội tịch thâu lúa gạo và trâu bò. Dân chúng vốn khùng, cứ để cho quân đội lấy mà không chống cự. Quân đội đi sang làng khác, rồi đi sang làng khác nữa: ở đâu cũng thế, dân chúng tự động đem lúa gạo trâu bò giao cho mà không hề chống cự. Đã không chống lại mà còn mời đón đãi đằng. Họ nói với lính:

– “Nếu quý ông thấy sống ở bên nước của quý ông khổ cực quá thì cứ sang ở lại đây với chúng tôi.”

Quân đội cứ tiếp tục đi. Đến đâu cũng không thấy có binh lính chống trả, đến đâu cũng chỉ thấy có dân chúng làm lụng để sanh sống, đến đâu cũng được dân chúng mời mọc ân cần, không ai chống cự lại.

Đi riết mãi cũng chán, binh đội trở về báo cáo với Vua của họ rằng:

– “Ở đây không thể hành quân diệt địch được. Xin bệ hạ cho đi đánh nơi khác. Đánh giặc thì phải có giặc mới được, ở đây chẳng có giặc nào hết, cứ giống như là gánh nước bằng hai hai cái giỏ tre.”

Vua nước Takaran giận dữ, ra lệnh chiếm trọn xứ của Y Văn, đốt nhà, giết trâu bò, phá làng, phá xóm.

– “Các người phải tuân lệnh ta, nếu không sẽ bị xử tử.”

Binh lính sợ hãi. Họ bắt đầu thi hành mệnh lệnh của Vua. Họ đốt nhà, đốt vựa lúa, giết trâu bò. Vậy mà dân chúng nước khùng vẫn không kháng cự. Họ đứng khóc. Ông già khóc, bà già khóc, người lớn khóc, trẻ con khóc. Họ khóc như ri. Họ nói:

– “Tại sao quý ông lại tới đốt phá những thứ quý giá đó? Nếu quý ông cần thì tại sao không chở theo về mà dùng, đốt phá làm chi cho tội?”

Cuối cùng quân đội của Vua Takaran không thể nào nhẫn tâm tiếp tục đốt phá được nữa. Họ nhất định không tuân theo cái lệnh tàn ác của Vua nước họ nữa. Và quân đội của nước Takaran tan rã. Cuộc “chiến tranh” chấm dứt.

XII

Ma Vương cũng phải rút lui vì thất bại. Hắn tính mưu chước khác. Lần này hắn hiện ra thành một thương gia hình dung chải chuốt, áo quần bảnh bao và đến sanh cư lập nghiệp trong vương quốc của Y Văn. Ma Vương muốn dùng kế sách mà hắn đã từng dùng để thanh toán Ta La Bụng Bự. Đó là kế sách tiền bạc.

Vị thương gia đến ra mắt Y Văn và nói: “Tôi sẽ giúp cho bệ hạ thêm nhiều thông minh và không khéo. Tôi sẽ làm nhà tại đây và bắt đầu mở việc khuếch trương buôn bán.”

– “Thì cứ khuếch trương buôn bán đi.” Y Văn nói. Sáng ngày hôm sau, vị thương gia ra ngoài ngã tư với một bao tiền vàng và một tờ giấy trắng. Ông ta quảng cáo: “Cô bác ở đây sống cực khổ quá. Để tôi dạy cô bác sống cho đàng hoàng hơn. Trước hết thì cô bác hãy xây cho tôi một ngôi nhà theo họa đồ này. Tôi sẽ chỉ cho cô bác xây cất, và tôi sẽ lấy tiền vàng trong túi này để trả công cho cô bác.”

Nói rồi ông ta đem vàng ra khoe. Dân chúng thấy những đồng tiền vàng xinh xinh thì rất thích. Ở xứ này không ai dùng tiền bạc nên chẳng ai biết giá trị của những đồng vàng. Họ đem sản vật đến đổi tiền vàng để cho trẻ con chơi và đeo cho vui, bởi thấy những đồng tiền vàng có những màu vàng ánh rất đẹp.

Dân chúng bắt đầu đến làm việc cho vị thương gia, đổi công để lấy tiền vàng. Có người thì đem gạo muối hay trái cây đến để đổi. Người thương gia thích lắm, thầm nghĩ: “Công việc của ta đang tiến hàng trôi chảy. Thế nào ta cũng làm cho Y Văn lụn bại như ta đã làm cho Ta La Bụng Bự. Ta sẽ mua nó và sẽ lột hết mọi thứ nó có.”

Nhưng dân chúng không thích giữ tiền vàng. Họ đem tiền vàng cho đàn bà, trẻ con chơi. Có bà thì xâu tiền vàng và đeo như dây chuyền, các cô gái thì lấy tiền vàng ghim lên tóc, còn trẻ con thì dùng tiền vàng để đánh chọi ngoài đường. Khi mà các bà các cô và các em bé ai cũng có tiền vàng để chơi rồi thì các ông không ai đem công hoặc sản vật tới cho người thương gia để đổi thêm tiền vàng nữa. Không ai tới làm công cho nên ngôi nhà của thương gia bị bỏ dở nửa chừng, và ông ta không có chỗ chứa trâu bò và lúa gạo. Ông ta cho gọi dân chúng tới làm việc và mang sản vật đến đổi tiền, nhưng không ai chịu tới, dù ông ta khoe rằng ông ta còn vô khối tiền vàng.

Không ai chịu tới. Thỉnh thoảng mới có một cậu bé con hay một cô bé con đem một cái hột gà tới để đổi một đồng vàng mà thôi. Vì vậy chẳng mấy chốc mà người thương gia không còn gì để ăn nữa.

Không có gì để ăn, người thương gia phải đích thân đi vào xóm để mua thực phẩm. Ông ta thò đầu vào của nhà dân chúng, xin đổi một đồng vàng để lấy một con gà, nhưng các bà nội trợ lắc đầu:

– “Chúng tôi có vô khối tiền vàng rồi.”

Ông ta đưa một đống vàng cho một bà già nghèo để đổi lấy một cái bánh bao. Bà ta trả lời: “Thưa ông, tôi không thấy đồng vàng này có ích lợi gì cho tôi hết. Tôi không có cháu để đổi cho chúng chơi. Với lại vì tò mò, chúng tôi có đổi vài đồng chơi, tôi còn giữ kia, chẳng dùng được vào việc gì.”

Ông ta đi lấy tiền đổi một chén cơm, nhưng các bác nông dân từ chối: “Chúng tôi không cần tiền vàng. Nếu ông muốn xin của bố thí thì chúng tôi sẽ đem cơm cho ông ăn, bởi vì phật dạy bố thí cho người đói sẽ có nhiều công đức.”

Nghe nói tới “Phật” ông ta vụt chạy ra khỏi nhà người nông dân, không còn dám bén mảng trở lại. Vốn là Ma Vương nên nghe nói tới “Phật” thì ông không thể nào chịu nổi, cũng như khi bóng tối thấy ánh sáng đến thì liền tháo chạy.

Dân chúng bảo ông ta: “Đừng đem tiền vàng tới nữa. Có gì khác thì hãy đem đến, xem chúng tôi có thể đổi cơm được không. Hoặc là ông chịu khó làm việc thì tự khắc có cơm ăn.”

Ông ta nổi giận: “Đừng có ngu! Ta đã đưa tiền vàng là thứ quý nhất rồi, còn đòi gì khác nữa? Có tiền vàng mua gì cũng được, biết không?”

Dân chúng trả lời: “Chúng tôi không cần tiền. Ở nước này dân chúng đâu có phải đóng thuế mà cần tiền? Lấy tiền mà làm gì?”

Vậy là nhà thương gia phải đi ngủ với bụng lép xẹp, không có hột cơm nào.

Vua Y Văn có nghe về việc này. Dân chúng đến thăm vua và hỏi: “Chúng tôi phải làm sao đây hả Bệ hạ? Có một ông rất thích mặc áo đẹp, ăn cơm ngon mà không muốn làm việc, cũng không muốn xin của bố thí, mà chỉ muốn đưa ra tiền vàng. Ban đâù chúng tôi đưa đủ mọi thứ cho ông ta dùng, nhưng sau đó chúng tôi có nhiều tiền vàng quá rồi, chúng tôi không muốn đưa ông ta thêm gì nữa. Phải làm sao? Ông ta có thể sẽ chết đói.”

Y Văn nghe chuyện, trả lời:

– “Mình phải cho ông ta ăn. Cứ để cho ông ta đi từ nhà này sang nhà khác, như mấy ông sư đi trì bát vậy.”

Nhờ vậy mà người thương gia có cơm ăn. Một hôm, tới phiên nhà Y Văn cho ông ta ăn. Khi ông ta bước vào nhà thì cô em gái câm đang làm cơm ở dưới bếp. Cô gái câm này vốn có kinh nghiệm về chuyện những người làm biếng. Ngày xưa, khi còn ở nông trại của cha, cô đã có tài nhận biết ai là người làm việc giỏi và ai là người làm biếng, chỉ làm sơ sơ nửa buổi rồi nghỉ và đến giờ cơm thì về ngồi vào bàn ăn. Cô nhận biết bằng cách sờ vào lòng bàn tay họ. Hễ bàn tay của người nào có vết chai cứng thì là người đó siêng năng, làm việc giỏi; còn người nào tay mềm, không có dấu vết lao động thì là người làm biếng. Cô thường mời những người có bàn tay chai cứng ngồi vào bàn ăn, còn những người kia thì cô bắt đứng, khi nào những người nảy ăn xong mới được ngồi vào ăn. Khi người thương gia ngồi vào bàn ăn, cô em gái câm của Y Văn liền cầm tay ông ta theo thói quen để xem xét. Thấy bàn tay không có vết chay cứng, cô ậm ừ không bằng lòng, và đẩy ông ta đứng dậy.

– “Xin ông đừng chấp em nó, bà Hoàng hậu nói. Chúng tôi có luật lệ không cho người có bàn tay mềm và trơn tru ngồi vào bàn ăn. Vậy xin ông hãy đứng một bên, chờ người khác ăn xong rồi hãy ăn sau.”

Thấy mình bị đối đãi như một người ăn xin tại nhà Y Văn, người thương gia giận lắm, nói:

– “Cái luật lệ của các người thật là ngu xuẩn. Luật lệ gì mà lại cho người làm việc tay chân là làm việc, còn làm việc bằng những thứ khác thì không phải là làm việc? Các người có biết khi người ta thông minh thì người ta không làm việc bằng tay chân mà làm việc bằng cái gì không?”

Y Văn chép miệng:

– “Chúng tôi không biết. Có lẽ vì vậy mà chúng tôi mới bị người khác gọi là khùng”.

“ Khi người ta thông minh thì người ta làm việc bằng đầu óc, biết chưa? Các ngươi không cho ta ăn, vì ta không có vết chai cứng trong lòng bàn tay, nhưng các ngươi nên biết làm việc bằng đầu óc còn mệt bằng trăm lần làm việc bằng tay chân. Có khi làm mệt quá, bể luôn cả đầu.”

Y Văn hỏi:

“ Như thế làm việc bằng đầu óc làm chi cho khổ, ông bạn ơi? Làm cho đến nỗi bể đầu, đó không phải là việc dễ. Vậy tại sao ông bạn không chịu làm việc bằng tay chân và bằng chiếc sống lưng như tất cả chúng tôi?”

Người thương gia trả lời:

“ Ta khổ công vì thương vua tôi nhà ngươi ngu ngốc mà thôi. Nếu ta không thương thì vua tôi nhà ngươi se còn ngu ngốc suốt đời. Ta đã từng làm việc bằng đầu óc, và ta sẽ dạy cho các ngươi cách làm việc bằng đầu óc.”

Y Văn vui mừng nói:

“Xin ông bạn cứ dạy cho chúng tôi đi, để rồi sau này mỗi khi làm việc chân tay mõi mệt rồi thì chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc bằng đầu óc.’

Người thương gia bằng long dạy.

Sau đó, vua Y Văn bố cáo cho khắp thần dân trong vương quốc biết rằng một vị quý nhơn vừa mới xuất hiện và sẽ dạy cho dân chúng làm việc bằng đầu óc, rằng làm việc bằng đầu óc sẽ có lợi hơn làm việc bằng tay chân, rằng mọi người phải đến để học.

Ở vương quốc của Y Văn có một cái tháp chuông khá cao, phía trong tháp có một cái cầu thang nhỏ leo quanh từ dưới tầng nhất lên cho đến tầng bảy. Y Văn dắt nhà thương gia lên lên từng thứ bảy để cho dân chúng đứng dưới đất có thể thấy được ông ta một cách dễ dàng. Người thương gia đứng dậy và bắt đầu diễn thuyết.

Quần chúng bu lại để xem. Họ cứ tưởng người thương gia sẽ chỉ cho họ cách làm việc bằng đầu óc, nghĩa là làm bằng cái đầu cái óc, để khỏi phải làm việc bằng cái tay cái chân ; ai dè ông ta chỉ đứng đó mà nói tràng giang đại hải, chẳng chịu làm việc bằng-đầu-óc gì cho họ xem cả.

Quần chúng do đó chẳng học hỏi được gì. Họ đứng xem một hồi rồi chán nản, bỏ đi làm công chuyện. Người thương gia đứng trên lầu tháp suốt ngày hôm đó và suốt một ngày sau nữa để tiếp tục diễn thuyết. Ông ta càng nói thì càng đói, nhưng chẳng có người khùng nào đem thức ăn lên cho ông ta cả. Họ nghĩ rằng nếu ông ta biết làm việc bằng đầu óc giỏi hơn làm việc bằng chân tay thì thế nào ông ta cũng làm ra cơm mà ăn được, chẳng cần họ bố thí.

Người thương gia đứng trên tháp chuông thêm một ngày nữa, miệng vẫn không ngừng diễn thuyết. Người đi ngang qua đấy có xúm lại đứng xem, nhưng một lát sau lại bỏ đi. Trong lúc đó thì Y Văn hỏi thăm: “Thế nào, ông ta đã bắt đầu thực sự làm việc bằng đầu óc chưa? Dân chúng trả lời: “Dạ chưa, ông ta vẫn còn đang lải nhải’.

Người thương gia đứng trên lầu chuông thêm được một ngày nữa, rồi vì đói và yếu quá, ông ta loạng choạng va dập đầu vào một chiếc cột gỗ. Một người dân khùng đi báo tin đó cho hoàng hậu khùng hay. Hoàng hậu lập tức đi báo tin cho Vua khùng lúc ấy còn đang cày ruộng:

“Bệ hạ hãy về mà xem. Người ta nói vị thương gia đã bắt đầu làm việc bằng đầu óc.’

Y Văn ngạc nhiên:

Thật vậy hả? Rồi Vua hấp tấp chạy về lầu chuông. Khi Y Văn tới nơi, thì người thương gia đã đói lả ra rồi. Ông ta lại thấy đầu óc choáng váng và ông ta lại đập đầu vào chiếc cột gỗ trên lầu chuông một lần nữa. Khi Y Văn tới được dưới chân lầu thì người thương gia té xỉu, đập đầu vào nấc thang và toàn thân lăn lông lốc xuống bảy tầng lầu.

“Ông ta nói đúng thật’ Y Văn ngẫm nghĩ. “làm việc bằng đầu óc rất khó, có khi làm nhiều quá đầu cũng phải bể. khi ta làm việc bằng tay chân thì tay chân có thể bị phồng chai lên, còn khi ta làm việc đầu óc, thì đầu óc ta có thể sưng u lên nữa.’

Người thương gia đã lăn xuống tới mặt đất. Y Văn tới gần để xem thử ông ta đã làm việc đầu óc được nhiều hay ít thì bỗng nhiên mặt đất nứt ra, tên Ma Vương rơi xuống, rồi mặt đất khép lại. Không còn gì cả, chỉ còn lại một dấu nứt trên đất.

Y Văn gãi tai gãi đầu:

“Lại hắn ta nữa ! Gớm ghiếc quá ! Có lẽ tên này là chúa trùm của bọn tiểu quỷ !’

Tới ngày nay, Y Văn vẫn còn sống, và người ta vẫn nườm nượp tìm tới vương quốc của chàng để sinh cơ lập nghiệp. Hai người anh của Y Văn cũng tìm tới, và chàng cũng cho cư trú và ăn uống như xưa.

Hễ khi có ai tới và nói: “cho ăn cơm với, được không? thì luôn luôn Y Văn trả lời: “Sao lại không? cứ ở lại đây. Thiếu gì thức ăn’.

Trong vương quốc của Y Văn, có một tục lệ mà mãi đến bây giờ dân chúng còn theo. Đó là: những người có vết chai cứng trong lòng bằng tay thì đến bữa cơm được ngồi vào bàn ăn trước, còn những người không có thì đến bữa ăn phải đứng đợi, đợi khi những người kia ăn xong, thì mới được ăn, và ăn những thực phẩm còn lại.

LEO TOLSTOY 1906

BÀ MẸ CỦA LÍNH

Lê Mai làm công cho một ông chủ ruộng. Chàng ăn ở ngay trong nhà của chủ.

Một hôm ra ruộng, chàng thấy một con cóc nhảy qua bờ ruộng ngay dưới chân chàng …Vừa bước qua khỏi con cóc, chàng nghe một tiếng cười trong trẻo phía sau lưng. Ngảnh lại, Lê Mai thấy một cô gái thật đẹp đang đứng mỉm cười nhìn chàng.

Cô gái hỏi chàng: “Anh Lê Mai, tại sao anh chưa cưới vợ?’

Lê Mai đáp: “Cô thiếu nữ xinh đẹp ơi, ai mà chịu cho tôi cưới? Tôi nghèo mạt rệp cho nên chẳng có cô nào thèm.’

Cô gái nói: “Thì anh cưới em đi.’

Lê Mai nghe nói thế mừng rỡ. “Thế còn gì quý hơn ! Nhưng cưới nhau rồi thì chỗ đâu mà ở?’

“Có thế mà cũng lo. Anh làm việc nhiều hơn lên một chút, ngủ bớt xuống một chút thì tự nhiên đi đâu ta cũng có thể sống được’.

“Được rồi, chúng ta sẽ là vợ chồng. Nhưng bây giờ chúng ta đi đâu đây?’

“Hãy đi về dưới phố.’

Lê Mai và cô gái cùng đi. Nàng đưa chàng tới một căn nhà lá nằm về phía bên kia thành phố. Họ ở lại căn nhà, làm đám cưới và sinh sống tại đó.

Ít lâu sau đó nhà Vua đi du hành. Khi ngự giá đi ngang qua túp lều tranh, cô vợ của Lê Mai cũng chạy ra xem Vua như mọi người. Trông thấy nàng, nhà Vua lấy làm kinh ngạc:

“Sao ở đây lại có một người xinh đẹp đến thế này nhỉ?’

Vua cho ngừng xe lại, gọi vợ Lê Mai tới và hỏi:

“Nàng là ai?’

“Tôi là vợ của một anh chàng nông dân tên là Lê Mai.’

“Tại sao một người đẹp như nàng mà lại chịu đi lấy một anh nông dân? Đánh lý nàng phải lấy một vị Hoàng Đế mới phải.’

“Cám ơn lời khen ngợi của bệ hạ. Nhưng tôi thấy lấy một anh chàng nông dân cũng có hạnh phúc lắm đối với tôi rồi.’

Đức Vua nói chuyện với nàng một lát rồi lại cho xe chạy. Sau chuyến du hành, Vua trở về cung, nhưng không thể nào quên được hình bóng của cô vợ Lê Mai. Cả đêm Vua thao thức nghĩ cách chiếm nàng, nhưng không tìm ra được cách nào cả. Sáng Vua cho mời mấy ông cố vấn và nói cho họ nghe ước muốn của mình.

Mấy ông cố vấn nói: “Xin Vua ra lệnh cho đòi tên Lê Mai vào cung để làm việc. Chúng tôi sẽ bắt hắn ta làm việc thật nặng nhọc đến chết. Khi đó vợ nó sẽ là góa phụ và Bệ hạ có thể cưới nàng.’

Nghe lời cố vấn, Vua ra lệnh cho Lê Mai tới làm trong vườn ngự uyển và đem vợ tới ở ngay trong vườn.

Khi sứ giả tới nhà Lê Mai, vợ chàng nói: “Anh cứ đi vào cung làm việc đi, nhưng đến tối anh lại về đây với em.’

Lê Mai đi vào cung. Thị vệ hỏi: “Sao anh tới một mình? Còn vợ anh đâu?’

“Nhà tôi tới làm gì? Nó ở nhà.’

Viên quan trông nôm vườn ngự uyển giao cho Lê Mai công việc trong ngày, nhiều bằng hai công việc của một người. Lê Mai bắt tay vào việc. Chàng nghĩ không thể nào làm xong công việc vừa được giao phó. Ai dè đến chiều, chàng làm xong xuôi hết. Chàng cũng ngạc nhiên. Khi về đến nhà, Lê Mai thấy nhà cửa sạch sẽ tươm tất, cơm đã dọn, và vợ chàng đang vá may cho chàng. Nàng ra đón chồng, so đũa xới cơm và hai vợ chồng cùng ăn cơm. Rồi nàng hỏi chàng về công việc.

“Rất nguy em ạ. Họ cho anh công việc nhiều quá sức anh có thể làm. Họ muốn cho anh làm cho mệt tới chết.’

“Anh cứ làm mà đừng nghĩ tới công việc, đừng nhìn tới nhìn lui xem mình đã làm được bao nhiêu. Cứ thong thả mà làm, rồi công việc tự khắc sẽ xong trước giờ anh về.’

Lê Mai đi ngủ và sáng dậy chàng trở lại vườn ngự uyển. Lần này viên quan coi sóc vườn giao cho chàng công việc nhiều bằng bốn lần hôm qua. Lê Mai làm việc suốt ngày mà không cần nhìn lui. Đến chiều, nhìn lại bao nhiêu công việc mà người ta giao cho chàng, chàng đã làm xong hết, vẫn còn kịp thu xếp đồ đạc về trước khi trời tối. Mỗi ngày, người ta lại giao cho chàng công việc nhiều hơn lên, gấp tám, gấp mười sáu, gấp ba mươi hai lần. Nhưng luôn luôn Lê Mai làm xong trước giờ  và về nhà trước khi trời tối.

Một tuần lễ qua đi, và mấy ông cố vấn của Vua thấy không thể nào đày đọa Lê Mai đến chết bằng công việc nặng nhọc được. Họ quyết định bắt Lê Mai phải làm những việc phải có tài nghệ mới làm được. Nhưng kế hoạch này cũng không thành công. Họ giao cho chàng việc gì, chàng làm được việc ấy: làm thợ mộc, thợ nề, lợp ngói v..v..Lê Mai luôn luôn làm xong đúng giờ và về nhà trước khi trời tối.

Một tuần lễ khác trôi qua. Nhà Vua cho đòi mấy ông cố vấn lại: “Lũ các ngươi toàn là đồ ăn hại ! Hai tuần lễ đã qua mà các ngươi chẳng làm xong được công trạng gì cả ! Các ngươi đã nói sẽ bắt Lê Mai làm việc thật nặng nhọc cho đến chết, nhưng chiều nào ta cũng thấy hắn huýt gió đi ngang dưới lầu của ta mà về nhà ! Các ngươi muốn phạm tội khi quân hả?’

Mấy ông cố vấn bắt đầu kêu oan:

“Trước hết, chúng tôi giao cho nó thật nhiều công việc, nhưng giao nhiều đến mấy nó cũng làm xong trưới khi trời tối. Nó làm công việc mau chóng như người ta quét nhà vậy. Và nó không bao giờ biết mệt là gì. Thấy thế, chúng tôi cho nó làm những công việc mà chỉ có kẻ có tài nghệ mới có thể làm, nhưng chúng tôi cũng không thành công. Sự thực là công việc khó tới đâu nó cũng có thể làm được. Giống như là nó có phép lạ vậy. Có thể là nó, hoặc vợ nó, có biết bùa phép. Chúng tôi đã phát mệt lên vì nó rồi. Hôm nay, trước khi vào chầu Hoàng thượng, chúng tôi đã có ý định bắt nó phải xây một ngôi đền đồ sộ phía trước cung điện của haòng thượng, và ra điều kiện là phải xây một  ngày cho xong. Đây là đồ án của ngôi đền. Xin bệ hạ cho gọi Lê Mai tới, bắt nó phải thi hành mệnh lệnh. Và nếu trong một ngày mà nó không làm xong thì xin bệ hạ ra lệnh chặt đầu vì tội bất tuân quân lệnh.’

Vua cho đòi Lê Mai vào chầu.

“Nghe lệnh của trẩm đây, Lê Mai. Nhà ngươi phải xây cho ta một ngôi đền thật nguy nga đối diện với cung điện, và ta hẹn cho ngươi đến chiều ngày mai phải xây xong. Đây là bản đồ án ngôi đền. Nếu ngươi làm xong trước kỳ hạn thì sẽ được ban thưởng ; còn nếu làm không xong thì sẽ bị chém đầu.’

Sau khi nghe lệnh Vua, Lê Mai về nhà, nói với vợ:

“Em hay sửa soạn. Chúng ta nên đi trốn ngay trong đêm nay, nếu không thì chết hết.’

“Tại sao anh lại lo lắng quá mức như vậy hả anh? Và tại sao chúnh ta phải đi trốn?’

“Làm sao mà anh không lo sợ cho được? Nhà Vua mới ra lệnh cho anh phải xây một ngôi đền nguy nga đối diện với hoàng cung trong vòng một ngày, nếu không xây xong, thì sẽ bị xử tử. Chỉ còn một nước là đi trốn. Chỉ còn một đêm nay nữa mà thôi.’

Nhưng vợ chàng không chịu. Nàng nói:

“Nhà Vua có lính rất nhiều, ta trốn đâu cho thoát. Tốt hơn là anh nên tuân lệnh.’

“Nhưng làm sao mà tuân lệnh vua được khi công việc vượt quá tầm sức của anh?’

“Anh yêu quý của em ơi, đừng có bi quan quá như thế ! Anh cứ đi ăn cơm đi, rồi đi ngủ. Sánh mai, anh thức dậy sớm hơn một tí. Công việc sẽ làm xong chiều mai cho mà xem.’

“Lê Mai nghe lời vợ, ăn cơm rồi đi ngủ. Sánh mai, vợ chàng đánh thức chàng dậy và nói:

“Anh hãy đi mau tới trước hoàng cung và xây cho xong nốt ngôi đền. Anh cầm lấy chiếc búa và mấy cây đinh này. Chỉ cần độ một ngày công nữa là ngôi đền hoàn tất.’

Khi Lê Mai tới trước hoàng cung, anh thấy một ngôi đền nguy nga đã được xây dựng xong, chỉ còn vài ba chỗ cần được hoàn tất. Chàng bắt đầu công việc, và đến chiều, trước khi trời tối, công việc của chàng đã xong xuôi.

Khi đứa Vua thức dậy và nhìn ra cửa sổ thì đã thấy ngôi đền sừng sững rồi. Vua rất ngạc nhiên thấy Lê Mai đi đi lại lại, đóng them một cây đinh chỗ này, một cái đinh chỗ kia. Vua không vui mừng gì hết khi thấy ngôi đền. Trái lại Vua rất bực mình vì không có lý do gì mà chém đầu Lê Mai để chiếm lấy cô vợ của chàng.

Vua bèn triệu tập mấy ông cố vấn: “Lê Mai đã xây xong ngôi đền trong một ngày, ta không có lý do gì để chém đầu nó. Công việc này đối với nó cũng không nặng nhọc gì lắm. Bây giờ các ngươi phải đề nghị phương pháp khác hưũ hiệu hơn. Cố mà suy nghĩ cho ra kẻo ta sẽ chém đầu các ngươi trước khi ta chém đầu nó.’

Lần này mấy ông cố vấn đề nghị Vua ra lịnh cho Lê Mai đào một con sông đi vòng quanh cung điện trên đó có tàu bè qua lại. Vua liền cho triệu Lê Mai vào và giao cho chàng trách vụ mới:

“Nhà ngươi có thể xây dựng ngôi đền trong vòng một đêm thì cũng có thể làm được việc này. Ngày nai, nếu không xong, ta sẽ chém đầu.’

Lê Mai thất vọng quá, chàng buồn rầu tìm về nhà.

“Sao anh buồn quá vậy? Vua bắt anh phải làm một cái gì khác nữa phải không?

Lê Mai nói cho vợ chàng nghe về lệnh mới của vua, và kết luận: “Chúng at phải trốn.’

“Chúng ta không trốn thoát đâu. Trốn đi đâu thì lính của Vua cũng tìm bắt được. Anh vâng lệnh Vua thì hơn.’

“Nhưng làm sao mà vâng cái lịnh ấy cho nổi?’

“Anh yêu quý của em ơi,đừng có lo. Cứ ăn cơm đi, rồi đi ngủ. Ngày mai dậy sớm hơn chút xíu, rồi công việc sẽ hoàn thành kịp lúc.’

Lê Mai đi ngủ. Sáng sớm vợ chàng thức chàng dậy và nói: “Anh đi tới hoàng cung đi. Tất cả đều đã xong xuôi. Phía mé dưới, đối diện hoàng cung còn một mớ đất trên bến chưa bang ra. Anh cầm cái thuổng này và bang mớ đất ra là xong.

Lê Mai ra đi. Khi đến thàng phố, chàng thấy một dòng sông uống quanh hoàng cung, trên sông có thuyền bè qua lại. Chàng tới bên mé mô đất đối diện hoàng cung và thấy mô đất.

Khi đức Vua thức dậy, ông ta thấy một con sông có tàu bè qua lại. Nhưng Vua đã không mừng mà còn tức giận nữa, Vua cũng không có lý do để xử tử chàng Lê Mai. Vua nghĩ:

Không có việc gì mà nó không làm được. Bây giờ phải làm như thế nào?

Vua liền triệu tập các ông cố vấn để bàn luận. Vua nói: “Các ngươi phải tìm ra một công việc ngoài khả năng của Lê Mai.’

Các ông cố vấn suy nghĩ nát óc, cuối cùng một ông tâu Vua: “Xin bệ hạ đòi Lê Mai và ra lệnh như sau: Mi phải đi tới chốn chẳng ai biết là chốn nào và lấy cho ta vật chẳng ai biết là vật gì. Nó sẽ không bao giờ làm được việc đó. Hễ nó đi tới chốn nào thì ta cũng có thể nói là không phải chốn ấy. Hễ nó lấy bất cứ vật gì đem về ta cũng có thể nói là không phải vật ấy. Sau đó bệ hạ có thể chặt đầu nó và chiếm lấy cô vợ.’

Vua cả mừng nói: lần này các khanh đã nghĩ ra một kế thật hay.’

Nói xong, Vua cho triệu Lê Mai vào chầu và nói:

“Nhà ngươi hãy đi tới chốn chẳng ai biết là chốn nào và lấy về cho trẫm vật chẳng ai biết là vật gì. Nếu nhà ngươi không đem về cho ta được vật đó thì ta sẽ chém đầu.’

Lê Mai về nhà nói cho vợ nghe về cái lệnh mới này của Vua. Vợ chàng ngồi suy nghĩ rồi nói:

“Lần này họ nghĩ ra một cái mưu khá thâm độc. Ta phải suy nghĩ kỹ và hành động cho sáng suốt mới được. Nàng ngồi suy nhgĩ thêm hồi lâu nữa rồi nói:

“Anh phải tìm cho được bà mẹ quê, mẹ của lính, và là bà ngoại của em, để cầu cưú. Nếu bà đưa cho anh một vật gì thì anh phải mang vật ấy về thẳng hoàng cung. Em sẽ có mặt ở đấy, bởi vì họ sẽ cho người tới bắt em sau khi anh đã đi. Nhưng sẽ không bị giam giữ lâu đâu. Nếu anh làm theo đúng lời dặn của bà ngoại thì anh sẽ cưú em ra sớm.’

Nói xong, nàng xếp đặt hành lý cho chồng. Nàng trao cho chàng một chiếc khăn gói đựng vật dụng và một chiếc thoi, dặn chàng:

“Anh đưa cho ngoại chiếc thoi này thì tức khắc ngoại biết anh là chồng của em.’

Nàng chỉ đường cho Lê Mai và chàng lên đường. Sau khi rời khỏi thành phố, chàng đi tới địa phận luyện tập của binh lính. Chành dừng lại để nhìn xem lính tập trận. Khi lính mệt ngồi nghỉ thì Lê Mai đi đến gần họ mà hỏi:

“Các anh có biết cách đi về  chốn chẳng ai biết là chốn nào để lấy cái vật vật chẳng ai biết là vật gì không? Xin chỉ cho tôi với.’

Những người lính nhìn anh kinh ngạc:

“Ai sai anh đi làm việc ấy?’

“Nhà Vua’

“Từ ngày chúng tôi bắt đầu đi lính cho tới bây giờ, không lúc nào mà chúng tôi không đi về chốn chẳng ai biết là chốn nào mà chưa bao giờ tới được chốn ấy, để đi tìm vật chẳng ai biết là vật gì mà chưa bao giờ tìm được vật ấy. Thế thì làm sao chúng tôi có thể chỉ cách cho anh được?

Lê Mai ngồi chơi với bọn lính một hồi rồi tiếp tục cuộc hành trình của mình. Chàng đi, đi mãi cho đến khi chàng tới một khu rừng. Trong khu rừng có một túp nhà lá ; trong nhà có một bà lão rất già, bà mẹ của lính, đang ngồi vừa quay tơ vừa khóc. Thấy Lê Mai bà la lên:

“Ngươi đến đây làm gì vậy?’

Lê Mai đưa cho bà chiếc thoi và nói với bà rằng: vợ chàng bảo chàng tìm đến bà. Thấy chiếc thoi, bà lão lập tức tỏ vẻ ngọt ngào trìu mến và bắt đầu hỏi chuyện chàng. Lê Mai nói cho bà  nghe về cuộc đời mình, về cuộc gặp gỡ giữa chàng và vợ chàng, về việc Vua bắt chàng tới làm việc trong vường ngự uyển, bắt chàng làm một ngôi đền trong một đêm, rồi bắt chàng làm một con sông chảy quanh trong một ngày,và cuối cùng bắt chàng phải đi tới chốn chẳng ai biết là chốn nào để tìm vật chẳng ai biết là vật gì.

Nghe xong bà lão không khóc nữa. Bà lẩm bẩm:

“Đúng là đã đến lúc. Này con, hãy ngồi xuống đây và ăn cơm cho no bụng.’

Sau khi Lê Mai ăn no, bà lão bảo chàng: “Con hãy cầm trái banh này và lăn nó về phía trước mặt. Hễ nó lăn đi đâu thì con chạy theo nó tới đó. Con sẽ đi rất xa, ra tận tới biển cả. Khi tới bờ biển, con sẽ vào một thành phố lớn. Con vượt qua thành phố và xin ngủ lại một cái nhà ở phía chót cùng bên kia thành phố. Tại đó con sẽ tìm ra được vật con cần.’

“Như làm sao con biết được vật con cần là gì?’

“Khi con thấy vật gì mà người ta nghe theo còn hơn cả nghe theo cha và nghe theo mẹ người ta nữa, thì đúng là vật ấy đấy. Con hãy lấy vật đó đem về cho Vua. Ông ta sẽ nói vật đó không phải là vật ông ta muốn tìm. Khi đó con sẽ nói rằng: “Nếu không phải là vật mà Vua muốn tìm thì tôi phải đập bể đi.’ và con sẽ đập vào vật ấy, mang nó xuống mé sông, đập nát nó ra và quăng những mảnh vụn xuống dòng sông. Làm như vậy, con sẽ tìm lại được vợ của con và sẽ làm cho ráo nước mắt của ngoại.

Lê Mai chào bà lão và bắt đầu chạy theo trái banh. Trái banh lăn, lăn mãi cho đến khi đưa chàng tới bờ biển. Gần bờ biển có một thành phố lớn, và qua khỏi thành phố, Lê Mai thấy có một  ngôi nhà cao. Chàng bèn gõ cửa xin nhủ lại. Chủ nhà ưng thuận cho chàng tá túc. Chành nằm xuống ngủ. Sáng sớm chàng nghe người cha  đánh thức người con dậy để đi rừng đốn củi. Nhưng người con không chịu nghe lời.

“Còn sớm lắm mà cha.’

Từ phía giữa nhà, chàng nghe người mẹ nói vọng sang: “Con ơi, dậy đi đốn củi đi con. Cha mày đau lưng, không lý mày bắt cha mày đi làm thay mày sao hả con?’

Nhưng đứa con chỉ chắt lưỡi và ngủ lại. Một lát sau, có tiếng tung tung ngoài đường. Lập tức đứa con chổm dậy, mặc áo vào chạy theo.Lê Mai cũng chồm dậy chạy theo. Bởi vì chàng thấy các tiếng tung tung đó chính là cái vật mà người con nghe theo còn hơn cả nghe theo lời cha mẹ.

Chàng thấy một người đang đi trên đường, mang theo một vật trên bụng và dùng hai chiếc dùi nhỏ đánh vào mặt vật đó kêu tung tung. Vật ấy tròn, hai đầu có bịt da. Chàng hỏi vật đó là vật gì, người ta nói:

“Đó là một cái trống.’

“Cái trống ấy rỗng ruột phải không?’

Đúng rồi, cái trống rỗng ruột.’

Lê Mai ngạc nhiên. Chàng bảo người kia đưa trống cho chàng, nhưng người kia không đưa Lê Mai bèn lẳng lặng đi theo người đánh trống. Chàng đi cả ngày. Đến khi người đánh trống mệt nằm xuống nghỉ chàng mới le làng tới ôm lấy cái trống và chạy.

Chàng chạy mãi cho đến khi về tới nhà. Chàng tưởng là sẽ gặp vợ ở đấy, ai ngờ nàng không có mặt. Người ta bảo là nàng đã bị lính Vua tới bắt giải đi rồi.

Lê Mai tới hoàng cung và nói với lính gác báo cho Vua biết là chàng đã về.

“Xin bác tâu với Vua rằng tôi đã tới chốn chẳng ai biết là chốn nào và đã tìm được đem về cho Vua vật chẳng ai biết là vật gì.”

Lính báo với nhà Vua, nhưng Vua truyền lịnh ra báo với Lê Mai sáng mai hãy đến. Lê Mai không chịu:

“Bác tâu với Vua rằng tôi đã đem tới cho Vua vật mà Vua đã truyền cho tôi đi lấy. Nếu Vua không ra gặp thì tôi sẽ vào gặp Vua.’

Nhà Vua bèn ra gặp chàng.

“Nhà ngươi đã đi tới chốn nào?’ Vua hỏi.

Lê Mai thuật cho Vua chốn mà chàng đã đến.

“Sai rồi, không phải là chốn mà ta bảo ngươi đến. Còn ngươi đem về vật gì đó?’

Lê Mai định đưa trống cho Vua xem, nhưng Vua từ chối không muốn nhìn. Vua nói:

“Sai rồi, không phải vật mà ta bảo ngươi đi tìm.’

“Nếu không phải là  vật mà Vua bảo tôi đi tìm thì tôi phải tiêu hủy nó mới được.’

Nói xong, chàng bước ra khỏi cung điện, hai tay đánh vào chiếc trống. Lập tức bao nhiêu quân lính của nhà Vua đều tập họp lại, chào chàng và đợi lịnh chàng.

Từ cửa sổ của mình, nhà Vua hét to bảo quân lính không đượ theo lịnh cụa Lê Mai, nhưng lhông ai tuân lời Vua cả, và mọi người tiếp tục đi theo tiếng trống của Lê Mai. Thấy cơ sự xẩy ra như thế Vua liền ra lịnh thả vợ của Lê Mai ra và trả về cho chàng. Rồi Vua yêu cầu Lê Mai trao cái trống cho Vua.

Lê Mai nói: “Tôi không thể trao nó cho Vua được. Tôi đã được lịnh tiêu huỷ nó và liệng những mảnh vụn xuống sông.’

Chàng đi ra bờ sông, vừa đi vừa đánh trống, và toàn thể binh đội nghiêm chỉnh đi theo chàng. Tới bờ sông, chàng đập nát cái trống và liệng những mảng vụn xuống dòng sông. Lập tức quân đội chạy tứ tán ai về nhà nấy. Không còn quân đội. Không còn một người lính nào nữa. Lê Mai cũng đưa vợ về nhà.

Từ hôm đó về sau, nhà vua không còn làm khó dê chàng nữa và chàng cùng vợ sống một cuộc đời hạnh phúc hoàn toàn.

LEO TOLSTOY 1891

Lan

Trưa hôm nay chú Tâm Thể ăn cơm tại nhà anh Chiêu, một nông dân ở làng định cư Quảng Khánh.
Cơm gạo mới dẻo và thơm. Trên mâm, có một đĩa đậu xào, một đĩa rau luộc, một đĩa cà muối, một đĩa bắp ram và một chén nước mắm. Chú Tâm Thể không ưa nước mắm, cho nên anh Chiêu đã mang ra để cạnh mâm đĩa muối tiêu dành riêng cho chú.
Cùng ngồi một mâm với chú, ngoài anh Chiêu chủ nhà, còn có anh Thắng, anh Đạo và chị Lành. Ba người này đều là tác viên xã hội trong đoàn công tác Quảng Khánh. Chú Tâm Thể cũng là tác viên xã hội, nhưng chú không thuộc về đoàn công tác này. Chú chỉ là một người khác của làng định cư.
Chị Chiêu nhất định không chịu ra ngoài cùng mâm với khách. Chị bảo chị và hai cháu bé xin ăn cơm sau. Chú Tâm Thể hôm nay rất ít nói. Chú lắng tai nghe anh Chiêu và các bạn nói về những khó khăn và những thành quả đạt được tại làng định cư.
Anh Chiêu là một nông dân trẻ, tuổi ngoài ba mươi. Anh là người quận Gia Linh tỉnh Quảng Trị. Năm 1972, cùng với hàng vạn người dân Quảng Trị khác, gia đình anh đã bỏ làng bỏ xóm chạy vào Thừa Thiên bằng con đường quốc lộ mà sau đó người ta gọi là “Đại Lộ Kinh Hoàng”. Hàng ngàn người đã gục ngã trên con đường tỵ nạn đó. Mẹ anh và đứa con gái lớn của anh mới năm tuổi cũng đã tử nạn trên quãng đường này. Vì tình thế khẩn trương, anh không thể mang theo thi hài của mẹ và của con theo trên đường tỵ nạn. Anh cùng vợ và hai con đã thoát được vào thị xã Huế. Bom đạn của cuộc tấn công Quảng Trị đã buông tha được bốn người trong gia đình anh.
Từ thị xã Huế, gia đình anh đi theo các chuyến di cư vào Nam. Trước hết người ta cho anh vào trại tạm cư Phước Tuy. Rồi người ta cho anh lên trại định cư Suối Nghệ. Ở Suối Nghệ mới được mấy tuần lễ thì chiến tranh lan tới. Bom đạn lại gieo thêm tang tóc. Gia đình anh bỏ chạy về làng Long Khánh và được đưa vào trại tạm cư tại sân vận động tỉnh lỵ. Tại đây, gia đình anh cùng với hai trăm gia đình khác, cũng gốc từ Quảng Trị, được tổ chức Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hướng dẫn về định cư tại trại định cư Quảng Khánh.
Khi anh Chiêu tới Quảng Khánh thì trại định cư còn là núi rừng hoang vu. Đoàn Công Tác Quảng Khánh gồm có sáu tác viên trong đó có hai vị tăng sĩ trẻ dưới ba mươi tuổi. Đoàn công tác này cũng căn lều ở bìa rừng cạnh quốc lộ 20 và chung sống với trên hai trăm gia đình tỵ nạn. Họ thuộc về một tổ chức xã hội Phật Giáo, và không có liên hệ gì tới chánh quyền. Họ đã cùng với đồng bào định cư khám phá khu rừng Quảng Khánh xây dựng các khu gia cư, phát quang trên một trăm sáu mươi mẫu rừng để canh tác. Gia đình anh Chiêu được chia tám sào đất. Làng định cư Quảng Khánh có một diện tích ước trên sáu ngàn mẫu rừng, cách quận lỵ Định Quán chừng sáu cây số, xung quanh có sông Đa Dung và sông La Ngà bao bọc.
Chiều hôm qua từ quận lỵ Định Quán đi bộ về với Thắng, chú Tâm Thể thấy hoa bằng lăng nở tím ở ven rừng, sát khu định cư. “Đất ở đây chắc chắn là tốt hơn đất khu định cư Quảng Phú ở tỉnh Phước Tuy” chú Tâm Thể suy nghĩ. Quảng Phú là nơi chú Tâm Thể đang làm công tác. Thắng lên tiếng bảo chú:
– Tất cả những thức ăn mà sư huynh thấy trên mâm đều là những sản phẩm của Quảng Khánh. Chỉ trừ nước mắm là phải mua ở Định Quán.
Chú Tâm Thể gật đầu. Quảng Khánh đã tự túc được rồi. Mùa gặt vừa hoàn tất. Nồi cơm mới đầu mùa vừa thơm vừa dẻo này, anh Chiêu đã muốn thưởng thức với một số các anh chị trong đoàn công tác. Đĩa “bắp ram” trên mâm là một thứ chả bắp rán: chỉ còn chừng mươi hôm nữa là bắp già, anh Chiêu sẽ thu vào được ba sào bắp tốt.
Thắng cho chú Tâm Thể biết là chỉ trong vòng sáu tháng nữa thì đoàn công tác của Thắng sẽ rút lui khỏi Quảng Khánh và việc điều hành khu định cư lúc đó sẽ hoàn toàn do dân chúng trong khu đảm trách. “Ước mong rằng chiến tranh sẽ không lan rộng tới đây”, Thắng vừa nói vừa nâng bát cơm một cách trầm ngâm. Nhưng rồi Thắng lại mỉm cười: “Trên đất nước mình, hiện không có nơi nào thực sự an ninh cả”.
Nụ cười của Thắng quả đem lại sự an tâm cho anh Chiêu. Anh gắp “bắp ram” bỏ vào bát cho khách. “Chúng tôi đã phải đấu tranh gian nan lắm mới có quyền thực sự làm chủ được khu định cư này, thưa sư huynh”, anh nói. Chú Tâm Thể lại gật đầu.
Chuyện tranh đấu của đồng bào ở đây, chú đã được nghe Thắng kể lại hôm qua. Trên nguyên tắc, nha Khẩn Hoang Lập Ấp đã chịu nhường khu đất này cho giáo hội Phật Giáo để xây khu định cư cho hai trăm gia đình chiến nạn Quảng Trị. Nhưng vì đất ở đây tốt và lâm sản ở đây có giá trị cho nên những ông giàu tại Sài Gòn và Bình Tuy, dựa vào thế lực của chính quyền địa phương để xâm lấn, khai thác và biến đất này thành cơ sở tư của bọn họ. Bọn họ đã cho người tiến vào khu Quảng Khánh để đốn các cây đại thụ và đe dọa người định cư. Trong một cuộc cãi vả với đồng bào định cư vào tháng mười một năm ngoái, họ đã bắn chết một bà lão để thị uy, tin rằng người định cư sẽ hoảng sợ bỏ đất mà chạy.
Ai ngờ sự việc diễn biến một cách khác. Dân tị nạn đã ra ngồi trên quốc lộ 20 gần cây số 109. Các tác viên xã hội trong đó có hai vị tăng sĩ trẻ đã ra ngồi chung với họ. Quốc lộ bị tắt nghẽn. Suốt tám giờ đồng hồ, không có chiếc xe nào lên xuống được. Xe hàng, xe hành khách và xe du lịch sắp hàng dài trên sáu cây số. Các lực lượng bảo an và địa phương quân từ Định Quán gửi tới thấy thái độ vô úy và nhất trí của đồng bào đều không dám động thủ. Đoàn tác viên đã cho đưa ngay tin về Sài Gòn cho trường xã hội, chùa Ấn Quang và các giới báo chí thủ đô.
Chiều hôm đó chính quyền Bình Tuy, trước mặt các giới báo chí, nhân sĩ từ Sài Gòn lên đã long trọng cam kết là sẽ bảo vệ quyền định cư của dân tị nạn tại Quảng Khánh và bắt buộc những người gây hấn phải bồi thường thiệt hại cho đồng bào. Quốc lộ nhờ vậy đã được khai thông.
Bữa cơm tại nhà anh Chiêu vang tiếng cười nói của anh và của những người khách trẻ. Chú Tâm Thể biết bữa cơm hôm nay là một tiệc mừng của gia đình anh Chiêu. Chú biết dưới bếp, chị Chiêu đang lắng nghe mọi câu chuyện và mọi tiếng cười của Anh và của những người khách. Anh Chiêu đã muốn tỏ niềm biết ơn của mình cũng như của dân làng đối với anh chị em trong đoàn công tác. Chú Tâm Thể thật lòng mừng cho anh Chiêu, mừng cho các đồng sự của chú tại đoàn công tác Quảng Khánh, và mừng cho trên hai trăm gia đình định cư ở đây. Chú muốn hòa lòng mình với lòng họ, do đó chú đã lắng nghe mọi người, cười với họ. Nhưng dường như trong lòng chú còn có những nỗi lo âu riêng cho nên chú ít góp ý vào câu chuyện.
Sau bữa cơm trưa, chú xin phép anh Chiêu và các bạn đi dạo chơi một mình trong vùng canh tác của khu định cư.

*     *     *

Đi giữa những hàng bắp, chú Tâm Thể suy nghĩ đến việc chú phải làm vào trưa ngày mai. Chú lên Quảng Khánh với một sứ mạng thật đặc biệt: đó là “khai sinh” cho một người sắp chết. Công việc không có gì khó khăn, nhưng từ hơn một tuần nay, tâm chú cứ nghĩ mãi tới nó. Trong đời chú, đây là lần đầu tiên mà cũng có thể là lần chót chú làm một công việc tương tự.
Đúng hai giờ chiều trưa mai, chú phải có mặt tại địa điểm Phước Hải nơi vùng rừng núi giáp giới giữa Phước Thành và Bình Tuy có con sông Đồng Nai chảy qua. Địa điểm này không xa nơi gặp nhau giữa hai con sông Đồng Nai và La Ngà. Vào khoảng hai giờ mười lăm phút sẽ có một người từ ven sông đi lên, trên người không có quần áo gì hết, ngoài một chiếc quần đùi. Người này sẽ ướt như chuột lột. Chú sẽ đưa người ấy đi lên khu rừng gần đó, lấy dao cạo trong dãy hành lý của chú mà cạo đầu cho ông ta, rồi lấy quần áo tăng sĩ trong dãy hành lý của ông ta mặc. Xong chú đưa người này ra quốc lộ. Đúng ba giờ trưa thì có xe hơi của Thu sẽ đi ngang qua cây số 103 và hai vị tăng sĩ sẽ lên xe để về Sài Gòn. Chú đã có sẵn thẻ căn cước cho vị tăng sĩ mới. Thẻ mang tên Thích Thanh Ân, ba mươi hai tuổi đời.
Chú Tâm Thể mỉm cười khi nghĩ đến anh Lâm xúng xính trong chiếc áo nhật bình và cái đầu trọc lóc. Chú biết anh Lâm đã suy nghĩ nhiều tới chuyện này trước khi chấp nhận việc đi “đầu thai” này. Nội trong ngày mốt tại An Lộc người ta sẽ nghe tin Trung Úy Trần Thanh Lâm chết đuối tại sông Đồng Nai trong lúc đang tắm sông với hai người bạn cùng đơn vị. Hai người kia, sau mấy giờ đồng hồ tìm kiếm, thế nào cũng đưa quân phục của người Trung Úy xấu số về đồn để báo cáo. Đơn vị của Lâm cách An Lộc hơn sáu mươi cây số về phía Đông Nam.
Chú Tâm Thể không ngại gì về việc hai người lính đi tìm anh Lâm, bởi vì theo anh thì hai người lính này là bạn, và sẽ chỉ tìm và ngồi chờ qua loa chừng hai giờ rồi trở về đơn vị báo cáo. Tuy vậy chú vẫn bị kích thích bởi tính cách mạo hiểm của công việc. Chú vốn là một người nhút nhát, không có được cái đức vô úy vủa sư huynh chú là đại đức Nguyên Hưng, cũng không có được cái tánh ưa mạo hiểm của anh Lâm. Cũng vì vậy mà óc chú cứ nghĩ mãi đến công việc ngày mai.

*     *     *

Ra khỏi vùng canh tác, chú Tâm Thể men vào bìa rừng. Ở đây còn là địa phận của khu định cư Quảng Khánh. Chú đi chầm chậm theo lối mòn trong rừng. Mùi ẩm của lá rừng khiến cho chú thích thú. Vừa đi chú vừa để ý nhiền lên các cây lớn xung quanh để xem có chùm phong lan nào không. Chú nghe nói rằng ở đây có nhiều phong lan. Nếu có, chú sẽ gỡ một vài chùng đem về treo ở hiên chùa là Phú Thọ Hòa.
Anh Lâm là bạn thân của thầy Nguyên Hưng, sư huynh của chú. Ngày sư huynh chú còn là một chú tiểu tu ở chùa Linh Thứu thì anh Lâm mới chín mười tuổi, thường đến chơi chùa. Hai người đã trở nên đôi bạn thân thiết. Lâm không đi tu nhưng cũng thuộc lòng cả hai buổi công phát huy sáng tối, có thể đọc vanh vách chú Lăng Nghiêm và Hồng Danh Bảo Sám. Có lần anh Lâm cũng đã định đi tu để theo sư huynh chú, nhưng sau nghĩ lại vì có bà mẹ một thân một mình cho nên đã quyết định không đi tu nữa.
Năm chú Nguyên Hưng học năm thứ hai cấp trung học Phật Giáo tại Phật học đường Phật Quang thì anh Lâm cũng đem mẹ về Sài Gòn. Anh vừa đậu tú tài và xin được công việc làm tại đây. Anh đưa bà cụ về, thuê một căn nhà ở xóm Bàn Cờ để hai mẹ con ở. Anh lại thường lên chùa Phật Quang để gặp gỡ chú Nguyên Hưng. Tình bạn của hai người được nối lại một cách thắm thiết. Anh Lâm có dịp học hỏi thêm về Phật học. Má anh, mà ở chùa Phật Quang đã quen gọi là “cô Tám” cũng thường đến chùa làm công quả. Còn  anh chỉ tham dự vào tổ chức Gia Đình Phật Tử ở đây. Anh tỏ ra là một người có tài năng tổ chức. Gia Đình Phật Tử Phật Quang trở nên một trong những Gia Đình Phật Tử có quy cũ nhất ở thủ đô Sài Gòn.
Thấy Nguyên Hưng tốt nghiệp Phật học đường năm 1960 và được gửi đi làm giảng sư cho các tỉnh hội Phật Giáo Lâm Đồng và Tuyên Đức. Sau ngày ông Diệm bị đảo chánh, thầy được bổn sư gọi về nhận trách vụ Giám đốc một trường đào tạo tác viên xã hội tại Phú Thọ Hòa cách thủ đô Sài Gòn chừng mười lăm cây số về hướng Tây Nam. Chú Tâm Thể cũng được thầy gọi về trường thụ huấn. Chú rất sung sướng được học trong một ngôi trường mà sư huynh chú làm giám đốc. Trong khi đó, anh Lâm bị gọi nhập ngũ. Anh tìm đủ mọi cách xin hoãn dịch mà không được. Người ta đưa anh vè trại Huấn Luyện Sĩ Quan Thủ Đức. Bỏ lại mẹ già một mình bơ vơ trên Sài Gòn anh rất đau lòng. May thay má anh còn tìm được một nguồn an ủi ở chùa. Bà đến chùa mỗi ngày để làm công quả, có khi ngủ luôn tại đó.
Chú Tâm Thể ra trường năm 1966. Chú được gửi đi công tác nhiều nơi, kể cả về miền Quảng Trị xa xăm. Mỗi khi được trở về trung ương, chú thường được sư huynh giám đốc nói cho nghe những khó khăn mà trường thường gặp phải. Sư huynh chú nhiều lần nhắc tới anh Lâm và ước ao được anh về phụ tá cho guồng máy điều hành ở trung ương. Chiến tranh tàn phá, gieo rắc hoạn nạn và tang tóc khắp nơi. Công tác cứu trợ và tái thiết thì nhiều mà trở lực thì đến từ bốn phía. Sư huynh chú bóp trán mãi mà không tìm ra một cách thức nào để vận động cho người bạn cũ được giải ngũ. Anh Lâm thỉnh thoảng được nghỉ phép về Sài Gòn. Anh cũng rất ao ước được giải ngũ, về sống với bà mẹ, và đem hết sức mình để giúp người bạn thân thiết nhất từ thuở tấm bé.
Ước vọng của hai người đã không thành. Đại Đức Nguyên Hưng bị tử thương trong một chuyến đi thị sát công tác miền duyên hải. Trung úy Lâm vẫn còn bị giữ lại trong quân ngũ. Ngày cử hành tang lễ Đại đức Giám đốc trường Xã hội, anh đã xin phép được về Sài Gòn để có thể đi tiễn người bạn thân thiết tới nơi an nghĩ cuối cùng. Anh đã cùng khóc với chú Tâm Thể tại hiên mái chùa lá Pháp Vân đêm hôm đó.
Ban Quản Trị và toàn thể tác viên trường Xã Hội đã họp nhau để suy cử một vị giám đốc mới cho trường. Vị giám đốc này cũng là một tăng sĩ, tuổi cao hơn sư huynh của chú Tâm Thể, nhưng cũng thuộc về thế hệ tăng sĩ trẻ. Đó là Đại Đức Hoàng Minh. Vị giám đốc này có dáng dấp của một nhà nghệ sĩ. Ông ta viết chữ nho rất đẹp, cắm hoa rất khéo. Ông lại có tài điều hợp nhân sự và công tác. Chú Tâm Thể rất mến ông. Chú mến ông một phần cũng là do sự kiện ông là một người bạn thân của sư huynh chú. Nghĩ tới vị sư huynh đã quá cố của mình, chú Tâm Thể lại để rơi hai giọt nước mắt. Chú vội đưa tay áo nhật bình lên quẹt vội những giọt nước mắt này, làm như chú sợ ở trong rừng Quảng Khánh còn có người thấy được chú khóc. Chú nhớ tới cuộc tấn công năm Mậu Thân, khi trọn cả vùng Phú Thọ Hòa bị tan nát vì bom đạn. Gần mười một ngàn đồng bào kéo vào tị nạn tại khuôn viên trường Xã Hội. Cảnh tượng vừa hỗn độn vừa thương tâm. Chú và các tác viên khác suốt ngày chăm lo cho những người bị thương không thể di tản ra khỏi vùng. Kho thuốc men của trường đã cạn sạch, từ thuốc đến bông gòn và băng vải thưa. Những chiếc áo dài trắng của các nữ tác viên đều đã được xé ra để băng bó cho những người bị thương nặng. Các tác viên phái nữ buộc làm công tác hộ sinh mà tuy có học qua nhưng họ chưa bao giờ làm. Họ cầu cứu đến một nam tác viên xưa nay vốn đã hành nghề y tác trong nhiều năm, đó là anh Tuấn. Tuấn tuy dạn tay hơn các bạn gái nhưng cũng đã phải cực nhọc lắm mới có thể giúp ra đời sáu đứa hài nhi. Chú Tâm Thể nhớ tới một buổi sáng nọ, khi chú đang bận rộn cắt đặt công việc cứu trợ thì một em bé chừng bảy tuổi tới bên chú và nắm lấy áo chú định kéo chú đi. Chú xoay lại hỏi em cần gì thì em chú ấp úng nói không trả lời. Trong khi ấy, những người bị thương khác lại được khiêng tới. Chú Tâm Thể vì bận rộn việc cứu thương nên đã quên em bé. Nửa giờ sau chú nghe tiếng người kêu chú. Ngoảnh ra chú thấy em bé lúc nãy cùng một người đàn ông khác đang khiêng tới gần bệnh xá một người máu me đầm đìa. Đó là bà nội của em. Bà bị thương nặng. Lết được từ chợ tới nửa đường đến trường thì bà ngất đi. Em bé đã chạy vào cầu cứu với chú Tâm Thể lúc ấy đang làm việc tại bệnh xá. Không kéo chú theo được, nó trở ra một mình nắm áo bà nội của em, gắng sức kéo bà xềnh xệch trên con đường đất. Em kéo được bà tới cổng trường thì mệt lả. Một người đàn ông trông thấy, liền vội tới giúp em khiêng bà tới bệnh xá.
Sư huynh của chú năm ấy mới hai mươi tám tuổi. Ông đã đem thân mạng ông ra che chở cho trên một vạn đồng bào. Chú còn nhớ hôm đó không biết từ đâu có tin đồn rằng khu Phú Thọ Hòa sẽ bị pháo kích ngày mai. Đồng bào hoảng sợ, nhốn nháo cả lên. Nhiều người thu xếp để rời khỏi khuôn viên của trường. Thấy đồng bào nhốn nháo quá, sư huynh của chú cầm máy vi âm lên định yêu cầu đồng bào giữ bình tĩnh và đừng nên bỏ khu tị nạn mà chạy vì những tin đồn không có căn cứ. Lúc đó chú Tâm Thể đứng sát bên sư huynh mình. Chú trông thấy trán của sư huynh chú nhăn lại. Sư huynh chú đã định lên tiếng, nhưng sau đó, không biết nghĩ thế nào, ông từ từ đặt ống nói xuống. Mặt ông từ ra. Ông tỏ vẻ lo lắng tột độ. Một lát sau ông nói với chú: “Tôi muốn khuyên đồng bào bình tĩnh ở lại, nhưng tôi lại nghĩ, nếu ngày mai có cuộc tấn công thực sự thì sao?”. Chú chợt hiểu nỗi lo lắng của sư huynh chú. Chưa đầy ba mươi tuổi mà sư huynh chú đã phải gánh vác trên vai một trách nhiệm nặng nề như vậy thì hỏi vừng trán ông không nhăn lại sao cho được?
Sự thực là hôm ấy khu Phú Thọ Hòa nằm kẹt vào giữa phòng tuyết của hai bên lâm chiến. Nhiều người bỏ đi từ hồi trưa đã lục đục ẵm con xách gói trở về trường. Có nhiều người bị thương. Có người đã bỏ mạng ở dọc đường. Tối hôm đó một vài tác viên phát giác được là tại góc Tây Nam không xa khuôn viên trường, các binh sĩ của Mặt Trận Giải Phóng đã chuyên chở tới những khẩu súng phòng không và hiện đang chuẩn bị lắp súng. Sư huynh của chú nhận được tin này trong khi còn ngồi trong chùa lá. Sau vài phút trầm ngâm ông bảo là ông sẽ đi về phía họ để cầu xin đặt súng phòng không ở một địa điểm khác. “Nếu họ đặt súng phòng không tại đây thì trên mười ngàn đồng bào trong khuôn viên trường sẽ chết hết vì máy bay oanh tạc”.
Các tác viên có mặt lúc đó bên sư huynh chú đều ngăn cản không cho ông đi. Chú Tâm Thể cũng không muốn cho sư huynh của chú đi. Tuy tánh chú hay sợ sệt thật đấy, nhưng lúc đó chú đã tình nguyện đi thế cho sư huynh chú. Sau mười phút thương nghị, chú và một tác viên khác tên là Hy được phép đại diện sư huynh giám đốc ra cần khẩn với những người đang lắp súng. Chú và Hy mỗi người cầm một chiếc áo sơ mi trắng trong tay, bò từ từ ra tới địa điểm lắp súng. Họ không dám đi thẳng, sợ rằng bên phía quân đội Cộng Hòa trông thấy sẽ nổ súng vào họ. Cuộc du thuyết đêm đó may thay đã thành công. Những người lắp súng đồng ý chuyển súng tới một địa điểm khác.
Sáng hôm sau, sư huynh chú đích thân tìm tới liên lạc với phòng tuyến phía quân đội Cộng Hòa xin mở đường cho đồng bào di tản khỏi Phú Thọ Hòa về phía Cầu Tre mà lần tới thủ đô. Những vị chỉ huy đã tỏ vẻ thông cảm cho tình trạng của đồng bào nhưng họ cho biết rằng việc di tản không thể nào thực hiện được vì quân tấn công đã đào công sự ở phía Cầu Tre và đang cố thủ ở nhiều khu gia cư quanh đó. Sư huynh chú ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “nếu vậy thì xin quý vị cam kết là đừng tấn công vào trường để bảo đảm cho tính mạng của trên một vạn đồng bào. Xin quý vị báo tin cho quân lực Cộng Hòa về việc có trên một vạn đồng bào đang tỵ nạn tại trường và điện về Tổng Tham Mưu xin cho không quân đừng bao giờ oanh tạc vào địa điểm này. Chúng tôi sẽ bảo đảm không để cho bất cứ một ai mang vũ khí hoặc truyền đơn xâm nhập và trà trộn vào khuôn viên trường. Nếu quý vị cho phép, tôi sẽ đi sang tận phòng tuyến của bên kia để xin họ tránh không dùng đất trường làm bàn đạp để tấn công. Tôi sẽ đạo đạt tới họ ước vọng của một vạn đồng bào, cũng như tôi đã đạo đạt với quý vị”. Những người trong cấp chỉ huy đã nói: “Đại Đức không sợ sao? Nguy hiểm lắm! Đừng đi qua bên ấy”. Sư huynh của chú trả lời: “Nếu quý vị hứa sẽ không bắn vào tôi, thì tôi không sợ. Tôi sẽ có thể đi thong thả sang tận bên kia. Tôi sẽ cầm một lá cờ ngũ sắc của Phật”. Các vị chỉ huy quân đội Cộng Hòa cuối cùng đã đồng ý cho sư huynh của chú đi sang bên kia để đưa thỉnh nguyện. Chuyến đi này của sư huynh chú, nhờ Phật gia hộ, cũng đã thành công. Kết quả là mười ngàn đồng bào đã an toàn thoát khỏi tầm súng của hai phe lâm chiến. Tuy vậy ban Quản Trị Trường và tất cả tác viên có mặt đã phải làm hết sức mình mới đi tới được kết quả ấy. Từng nhóm tác viên được cắt đặt đi khắp khuôn viên trường để tổ chức cho đồng bào tự động kiểm soát tình thế. Từ các bô lão cho đến phụ nữ ai cũng lo cho sự an ninh của mình cho nên đã nỗ lực tham dự việc kiểm soát.
Sư huynh của chú Tâm Thể đứng ra làm Giám đốc trường Xã Hội lúc ông mới hai mươi ba tuổi. Tuy còn trẻ nhưng đại đức Nguyên Hưng là một người có căn cơ linh mẫn và giàu tinh thần trách nhiệm. Thầy bổn sư của chú thường nói là ông tin vào thế hệ trẻ. Chỉ nội sáu tháng sau khi sư huynh chú lên làm giám đốc trường Xã Hội thì thầy bổn sư của chú bị bắt giữ vì tội kêu gọi hòa bình. Thầy bổn sư chú năm nay đã trên sáu mươi. Người ta thường gọi ông là “ông đạo khoai” bởi vì ông rất ưa ăn khoai lang, ông ăn cơm thì ít mà ăn khoai thì nhiều. Người ta biết  rằng họ chỉ có thể giam hãm thân xác ông trong nhà tù mà thôi và không ai ngăn cản được tinh thần ông hành động bên ngoài. Những nỗ lực vận động cho hòa bình vẫn được tiếp tục dù không có mặt ông. Có lần được vào thăm ông tại khám Chí Hòa, chú đã được nghe ông nói: “Có chú ở ngoài thì cũng như có tôi ở ngoài. Tôi ngồi đây mà an lạc lắm, chú đừng lo. Trong lúc đất nước điêu linh, đồng bào chết như rạ, chỗ ngồi của tôi phải là ở đây chứ không thể là một nơi nào khác. Tôi ở đây nhưng luôn luôn vẫn ở bên mình chú”.
Sư huynh của chú bị thương vào năm 1972 trong chuyến đi công tác miền duyên hải Nam Phần. Một trái đạn đã làm nổ tung chiếc xe của ông. Ông được chở vào một nhà thương gần đó. Ông bị nội thương, xuất huyết rất nặng bên trong. Chú đã có mặt suốt trong những giờ cuối của vị sư huynh đáng kính. Hai người đã nhìn nhau mà không nói được lời nào. Sư huynh của chú mất vào năm ba mươi hai tuổi.
Không biết từ trong khám Chí Hòa thầy của chú Tâm Thể làm thế nào mà biết được tin dữ này. Một tuần sau tang lễ, chú mới xin được vào khám để báo tin cho thầy. Hôm ấy, lần đầu trong đời, chú thấy hai giọt nước mắt đọng trên mắt thầy. Nguyên Hưng không phải là học trò đầu của thầy, nhưng là một người được thầy thương yêu rất mực.
Tại hiên chùa Pháp Vân tối hôm ấy, anh Lâm bứt đầu bứt tai nói với chú là anh rất ân hận đã không chịu đào ngũ để được ra sống với bạn trong những năm cuối của cuộc đời phụng sự của bạn. Dù chỉ là sĩ quan truyền tin trong quân ngũ, anh vẫn biết là mình đang tham dự vào cuộc chém giết giữa những người đồng loại, và trong thâm tâm, anh thấy cuộc chiến tranh này mỗi ngày một đưa quê hương và dân tộc đến gần hố diệt vong. Đất nước đã trở nên một bãi chiến trường, một miếng đất tranh hùng giữa hai khối lớn. Con đường giải thoát là con đường hòa giải dân tộc: cuộc chiến càng kéo dài ngày nào thì con đường đó càng hẹp lại ngày ấy. Anh bảo thà là anh đào ngũ để được về sống với mẹ và tham dự một phần vào công cuộc hàn gắn những vết thương của xứ sở mà đời anh còn có lý hơn. chú Tâm Thể đã lắng tai nghe những lời tâm tư này. Hai tiếng “đào ngũ” đã làm cho chú suy nghĩ. Chú nghĩ, nếu anh Lâm được trở về sống với mẹ và phụ tá cho thầy giám đốc mới trong việc điều hành các công tác cứu trợ và tái thiết thì sư huynh chú ở nơi chín suối ắt cũng rất hài lòng. Thế là hai người bàn tính về cuộc “thoát xác” của Trung úy Trần Thanh Lâm.
Đại đức Hoằng Minh, vị giám đốc tân nhiệm của trường đã đồng ý cho chú Tâm Thể thi hành kế hoạch khai sinh trở lại cho Trần Thanh Lâm. Chú Tâm Thể nhận thấy ông là người rất “chịu chơi”. Ông nói: “Chúng ta sống trong một tình trạng bất công cực độ. Luật lệ của công trình đã khiến cho thanh niên, phụ nữ và trẻ em chết oan ức mỗi ngày. Mạng người như rơm rạ. Luật lệ đó lại dung túng những kẻ có quyền thế làm giàu trên xương máu của đồng loại. Đưa một người con về sống với mẹ, để cho người con ấy có dịp phụng sự đồng loại đang khốn khổ, tôi thấy việc đó không đi trái luật pháp của lương tri. Nó chỉ đi trái với luật pháp của chiến tranh mà thôi?. Thầy Hoằng Minh cũng có quen biết với anh Lâm, và cũng ao ước có anh Lâm về phụ tá. Ông đề nghị chú Tâm Thể đi tìm thuê một căn nhà có vườn gần khu Phú Thọ Hòa để cho cô Tám về ở. Cô sẽ tới làm việc cho trường và khi rước anh Lâm về thì chú có thể rước anh thẳng về nhà. Tuy ăn ở và làm việc tại trường nhưng anh Lâm có thể về thăm mẹ bất cứ lúc nào anh muốn, bởi vì nhà của mẹ anh ở sát ngay bên cạnh.
Cái thể kiểm tra mang tên Thích Thanh Ân mà anh Lâm sẽ sử dụng trên con đường Định Quán – Sài Gòn là thẻ của một tác viên xã hội đã mất tích năm 1968 trong khi đang làm công tác ở xã Bình Quý tỉnh Bình Dương. Khuôn mặt thầy Thanh Ân trông hao hao giống anh Lâm. Chú Tâm Thể dự định sẽ đi làm cho anh Lâm một thẻ kiểm tra mới sau khi đã chụp hình cho anh Lâm trong chiếc áo nhật bình. Hai người đã đồng ý là khi làm thẻ kiểm tra lại, họ sẽ thêm vào chữ Ân một dấu sắc, để cho Thích Thanh Ân trở thành Thích Thanh Ấn. Sau này chú sẽ phải gọi anh Lâm là chú Thanh Ấn. Chú Thanh Ấn tuy mới tu nhưng căn bản Phật học của chú đã khá vững rồi, và kinh kệ cũng đã thuộc nhiều rồi. Chú Tâm Thể nghĩ mình không cần phải lo lắng về điểm đó.
Tác viên Thích Thanh Ân ngày xưa đã mất tích cùng với bảy đồng sự khác trong khi thi hành công tác xã hội. Không biết tám người có còn sống trên đời này nữa hay không, bởi vì năm năm đã trôi qua mà trường không tìm thấy được một tung tích nào của họ. Người ta đã bắt cóc, thủ tiêu và bắn chết những tác viên xã hội của trường, chỉ vì người ta nghi ngờ những tác viên nay hoạt động cho phe chống đối. Tác viên được dân làng thương mến bao nhiêu thì lại bị các phe lâm chiến nghi ngờ bấy nhiêu. Cả hai bên không bên nào muốn sự có mặt của người “lưng chừng”. Những tang tóc mà trường phải chịu đựng đã tới từ cả hai phía. Người ta đã tới tấn công ngay tại sở trung ương của trường ở Phú Thọ Hòa bằng súng và lựu đạn. Người ta bắt cóc và thủ tiêu các tác viên trong khi học thi hành nhiệm vụ tại các thôn lạc. Hồi mới bước chân vào thụ huấn ở trường, chú Tâm Thể đâu có ngờ rằng cuộc đời tác viên phụng sự lại có thể là một cuộc đời sóng gió hiểm nguy đến thế. Mới có tám năm trời mà số tác viên xã hội bị hy sinh đã lên tới mười sáu người trong đó có cả vị sư huynh đáng kính của chú.
Bây giờ đây, đi trong khu rừng này, chú Tâm Thể nhớ lại hết khuôn mặt của từng người, của tất cả những người đã bỏ thân vì con người bất bạo động: từ Tuấn, Thơ cho đến Liên, Vui, Lành, cô Hải, thầy Huyền Vinh, chú Thanh Ân… Lại còn những tác viên tuy còn sống nhưng trong mình còn mang đầy thương tích như Vinh và Hương. Nghĩ cho kỹ thì sự hy vinh của các người đồng sự này đã mở mắt cho rất nhiều người. Thiên hạ chết vì chiến tranh ngày nào là không có. Những người đồng sự của chú đã chết vì thương yêu hòa giải. Họ chết, nhưng họ còn sống mãi trong lòng chú. Công tác mà chú được giao phó tại các vùng đau nhức của quê hương không hẳn chỉ là công tác cứu trợ và tái thiết mà thực sự còn là những công tác cởi mở hận thù và gây lại niềm tin. Làng Trà Lộc ở Quảng Trị bị bom dội tan nát tới bốn lần: bốn lần sư huynh chú ra lệnh tái thiết lại. “Công là công dã tràng”, có người nói như thế. Nhưng nếu không tái thiết thì làm sao gây được niềm tin nơi tương lai? Phế bỏ và buông xuôi hay sao? Chú hiểu được tâm sự của sư huynh chú và chú đã hết lòng với công việc. Nhưng công việc nào có dễ dàng. Khắp nơi, chú và các đồng sự đã gặp khó khăn. Nào Chánh Môn, nào Bình Đào, nào Suối Cát, nào Quảng Lợi, nào Phong Lộc, nào Sơn Trung, nào Bình Lãnh… Còn hàng mấy chục địa điểm công tác khác trên khắp lãnh thổ. Khuyến khích không phải chỉ do tình trạng chiến tranh và những tranh chấp chính trị: khó khăn còn do ở chính tâm lý người dân nữa. Nhiều khi người dân chán nản buông thả và phó mặc. Có lẽ họ đã trải qua nhiều đau khổ và thất vọng quá. Gây lại niềm tin nơi họ là một công trình lớn. Nếu mình không có niềm tin ấy thì làm sao mình có thể nhen nhúm cho họ một niềm tin tương tự?
Ngày xưa, vào tuổi chú, các vị tăng sĩ trẻ chắc hẳn dã được ở yên trong tu viện để học tập giáo điển và thực hành thiền quán. Bây giờ chú phải lăn lóc trong cuộc đời như một chiến sĩ. Sư huynh của chú cũng bước vào đời phụng sự hồi mới hai mươi hai tuổi. Tu học làm sao cho yên thân khi bom đạn tàn phá cả xóm làng, cả chùa tháp? Người ta nói đi tu trong thời buổi này là đi trốn lính. Thực ra đối với những người như chú, đi tu trong thời buổi này là đi vào vòng lửa đạn mà giúp người. Tiếng gọi của thiền môn với tiếng gọi của lòng từ bi là một. Thầy bổn sư của chú đã nói: “Con đường duy nhất của chúng ta trong thời gian buổi này là con đường tự nguyện dấn thân vào cõi sinh tử. Phải học Phật và thực tập thiền quán ngay trong công tác hàng ngày”.
Nghĩ tới đây, bất giác chú Tâm Thể chậm bước lại; chú nhìn xuống con đường rụng đầy lá mùa thu ẩm mục, rồi chú nhìn ra cây lá chung quanh. Hồi nãy đến giờ chú đã để cho dòng tư tưởng chú đi miên man bất đoạn. Đáng lý chú phải thực tập phép niệm xứ trong mỗi bước chân, trong mỗi tư tưởng mới phai. Nghĩ thế chú liền bắt đầu thở ra và thở vào có ý thức, theo đúng phép mà thầy chú đã dạy trong cuốn thiền phổ mà thầy chú đã trao cho chú trên một năm nay. Miệng chú nở một nụ cười hàm tiếu.
Thiền phổ nói đây được mệnh danh là “Hàm Tiếu Thiền”. Nói được thầy bổn sư của chú biên tập trong khám Chí Hòa. Nó gồm một đoạn văn và ba mươi bài thực tập. Thầy của chú đã sáng chế thiền phổ này cho những người trẻ tuổi chuộng hoạt động như chú. Ông đã viết thiền phổ này bằng bút chì trên một xấp giấy mà chú đã mang vào cho ông một cách bất hợp pháp. Hôm trao thiền phổ cho chú, ông dặn là nên hết lòng thực tập thiền phổ cho chú, ông dặn là nên hết lòng thực tập thiền phổ để cho công tác xã hội hàng ngày được thực sự thấm nhuần tính cách từ bi của Phật. Ông đã để thiền phổ vào trong chiếc gào mên thực phẩm mà chú đưa vào Chí Hòa cho ông. Chú được phép đi thăm ông mỗi tháng một lần. Sư huynh của chú đã cho tất cả tác viên chép tay thiền phổ này để thực tập.
Chú Tâm Thể nhận thấy Hàm Tiếu Thiền là một phép tu nuôi dưỡng và phát triển được lòng từ bi và đức kiên nhẫn một cách hiệu nghiệm. Trong những thời gian thiếu thực tập theo thiền phổ, chú cảm thấy mình dễ chán nản hơn và cũng dễ bị bực mình vì các việc bất như ý thường xảy ra trong lúc làm công tác. Những lúc đó, chú cảm thấy mình khó “từ nhãn thị chúng sanh”, nghĩa là khó “nhìn mọi người bằng con mắt thương yêu” hơn. Thiền phổ dạy rằng phải thực tập thiền quán hàng ngày trong mọi công việc, từ việc rửa tay giặt áo cho đến việc giao tế, đàm luận và công tác. Thiền phổ cũng dạy là mỗi tuần phải để ra ít nhất là một ngày để sống thanh thản qua thực tập thiền quán. Thầy chú gọi ngày ấy là ngày quán niệm: trong thời gian này người hành giả phải thực sự sống thanh thản để có thể tự nuôi dưỡng mình bằng chất liệu an lạc và từ bi. Chất liệu nuôi dưỡng này nằm sẵn trong suối tâm linh của mỗi người, và phép quán niệm có thể làm phát khởi nó để nó tuôn tràn và thấm nhuần vào đời sống bản thân, cũng như người đào giếng làm phun lên một mạch nước mát. Hơn một năm chú đã vâng theo thiền phổ, mỗi tuần để một ngày trọng cho việc thực tập. Chú không chịu để cho công việc tràn ngập và lôi cuốn chú nữa. Chú trở thành chủ động lấy công việc, và chú coi đời sống tâm linh là căn bản cho đời sống phụng sự. Thầy Hoằng Minh, vị giám đốc mới của trường đã có ý định lập một làng riêng cho tác viên gọi là làng Hồng bởi vì nơi đó thầy dự trù trồng nhiều hồng ăn trái. Mỗi tác viên sẽ có một lô đất và một căn nhà. Cứ sau thời hạn công tác ba tháng là mỗi tác viên được về một tuần lễ tại làng Hồng để nghỉ ngơi, tĩnh tu và bồi dưỡng đời sống tâm linh. Tại làng Hồng sẽ có nhà trẻ cho con cháu của tác viên, sẽ có thư viện, sẽ có công viên và cũng sẽ có thiền thất cho tác viên tu tập nữa. Mọi người đang mơ tưởng tới làng Hồng như mơ tưởng tới một bóng mát êm dịu trong cơn nắng hạn. Chú Tâm Thể bỗng giật mình. Chú nhớ rằng thầy giám đốc nói đã dành một khu rừng khá đẹp ở tỉnh Bình Tuy vào việc tạo dựng làng Hồng này. Khu đất đó sát làng định cư Quảng Khánh. Như vậy thì khu đất đó ở sát ngay đây. Chú đưa mắt quan sát rừng cây. Quả có những cây đại thọ cành lá xanh tốt lạ kỳ. Thầy Hoằng Minh nói là ông đã đi thám hiểm trong vùng và đã tìm thấy một vùng đất khoảng mười mẫu rất đẹp trong đó có nhiều tảng đá lớn và một dòng suối mát. Dòng suối chảy qua khu rừng và đổ vào sông La Ngà. Ông nói nội trong năm tới, thế nào khu rừng làng Hồng cũng được thực hiện.
Lâu nay sống đời tăng sĩ không cửa không nhà chú Tâm Thể cũng ao ước có một căn nhà lác cất trên một lô đất ở làng Hồng. Chú sẽ đi tìm phong lan về làm thành nhiều chậu và treo trước hiên nhà. Chú sẽ trồng hoa bằng lăng và hoa lim trước cổng. Chú sẽ làm giàn hoa thiên lý, sẽ trồng nhiều bụi hoa hồng. Và chú sẽ làm tất cả những công việc ấy trong tinh thần quán niệm. Chú sẽ xin một em bé mồ côi về ở chung với chú và em sẽ coi sóc nhà cửa, vun bón những gốc cây và chăm sóc vườn rau sau nhà. Anh Lâm, à quên, chú Thanh Ấn cũng sẽ có một căn nhà tại đây, bởi vì chú cũng đã thành tác viên xã hội.
Vào giờ ngày ngày mai chú và chú Thanh Ấn đã ngồi trên chiếc xe do anh Thu cầm lái và cả ba người sẽ về tới Phú Thọ Hòa vào khoảng chạng vạng tối. Chiếc xe của Thu trông bề ngoài cũng có vẻ một chiếc xe du lịch lắm, chắc cảnh sát sẽ không nghi ngờ gì đâu. Biết thế nhưng chú Tâm Thể vẫn thấy trong lòng lo lo ngại ngại thế nào ấy. Chú chưa bao giờ làm một chuyện gì có tính cách “bất hợp pháp” như chuyện này. Chú tự nhủ: mình phải học thái độ “bất cần” mới được. Có gì thì vào ngồi tù, như thầy mình đấy thì đã sao đâu. Miễn là mình dám làm điều mà mình tin chắc là phải. Chú là con mồ côi; thầy của chú đã nhận chú và đưa chú về gửi ở chùa Đại Lão miền Cao Nguyên cho tới ngày chú được gửi về Phật học đường. Chú muốn học hạnh vô úy của thầy mình. Chú hơi thèn thẹn nghĩ đến cái đêm mà chú đi theo đoàn thuyền cứu trợ nạn lụt ở quận Đức Dục. Năm đó là năm Giáp Thìn. Đêm ấy, trên sông Thu Bồn, súng đã bắn rào rào, tiếng đạn bay vèo vèo phía trên mui thuyền. Hoảng quá, chú đã nhảy tõm xuống sông. Một lát sau, khi tiếng súng đã êm, chú ngoi ngóp trèo lên. Chú thấy mọi người vẫn còn ngồi an tĩnh và giữ thuyền, thầy chú đang ngồi thẳng trong tư thế kiết già. Mọi người hỏi chú: “Tắm có mát không chú Tâm Thể?”. May mà lúc đó còn là ban đêm nên không ai thấy chú đỏ mặt. Chú còn nhớ đêm ấy là một đêm có nhiều sao trên trời.
Trước khi trường Xã Hội được thành lập, thầy chú đã gọi chú về thực tập tại những địa điểm thí nghiệm về phương pháp cải tổ và phát triển thôn ấp. Chú đã làm việc tại các làng Cầu Kinh và Thảo Đền trên tám tháng. Cùng với các bạn khác, chú đã học cách tổ chức hợp tác xã, lập trạm y tế hương thôn, dựng trường tiểu học cộng đồng, xây cầu tiêu vệ sinh và đào hố rác để tránh cho dân làng các bệnh kiết lỵ và đi tả. Phương châm căn bản của thầy chú để ra là sự xây dựng phải được khởi đầu từ dưới lên trên, bằng sự tự giác và ý chí của người dân. Phải bắt đầu bằng những gì của người dân có và trên những gì mà người dân biết, không trông cậy và chính quyền cũng không ỷ lại vào bất cứ một thế lực chính trị hoặc kinh tế nào. Tóm lại, tất cả đều dựa vào tinh thần tự giác và tự nguyện của người dân, không cần ai bắt buộc, không do ai kềm thúc. Người tác viên phải được dân làng thương yêu và tin cậy mới đủ sức thuyết phục dân làng tự lực đứng ra chủ động công cuộc cải tiến nếp sống kinh tế, y tế và giáo dục của thôn làng mình. Chú làm việc giỏi quá khiến cho cô bác ở xã Thảo Điền đem lòng thương yêu: có mấy bà đã ngỏ ý gả con gái cho chú. Chú lắc đầu nguầy nguậy. Người ta đi tu rồi mà còn đòi gả con gái sao cho được, chú nói đùa với các bạn tập sự. Những năm gần đây, khi chiến tranh bộc phát dữ dội, phong trào đòi hỏi hòa bình lên rất cao. Có lần, đi bộ trên con đường Trịnh Minh Thế chú bị một người lính Hoa Kỳ từ trên một chiếc xe GMC cao nhiệu nhổ nước bọt lên đầu chú. Chú biết hành động đó chứng tỏ những người lính Mỹ ở Việt Nam thù ghét những người tu hành theo đạo Phật bởi vì những người này chống đối chiến tranh, làm hại tới chiến dịch bình định của Hoa Kỳ. Đêm đó, về trường chú đã khóc với sư huynh chú. Chú bảo có thể chú sẽ bỏ tất cả để đi vào chiến khu của Mặt Trận. Sư huynh chú mỉm cười, vỗ vai chú và nói: “Chú giận ai thì cũng chỉ giận được vài giờ đồng hồ thoi, chứ gì. Bàn tay của chú sanh ra là để săn sóc trẻ thơ và băng bó những vết thương cho người chiến nạn, và để “làm làng” chớ không phải để cầm súng”. Chú biết lời nói của sư huynh chú là phải. Trong thâm tâm, bao giờ chú cũng nghĩ như thế. Trong giây phút tức tối, chú chỉ nói cho hả giận một chút mà thôi.
Trời đã ngã chiều. Hình như chú Tâm Thể đã đi khá sâu vào trong rừng Quảng Khánh. Chú quay lại, tìm lối trở ra. Tối nay chú sẽ ngủ lại ở trạm y tế của làng định cư. Trưa mai, sau bữa cơm trưa, chú sẽ từ giã các bạn, nói rằng ra quốc lộ đón xe về Sài Gòn. Chắc là chú phải gói một ít thực phẩm mang theo. Có thể là anh Lâm sẽ đói. Cái bến nước ở bên kia sông Đồng Nai ấy, anh Lâm bảo là đã tới tắm nhiều lần rồi. Kỳ này anh tắm ở đấy lần chót rồi anh đi luôn. Anh sẽ để lại cả cuộc đời binh sĩ ở bên đó. Để lại bộ quân phục và cả tay súng của anh nữa. Anh sẽ sang bờ bên này với hai bàn tay trắng và một trái tim mà anh muốn dâng cho mẹ và cho quê hương, cho những người khốn khổ. Tuy sư huynh mình không còn sống để đón tiếp anh, nhưng đã có mình đón tiếp anh. Lạy Phật cho trong kiếp đầu thai này, anh sẽ hoàn tất được bản nguyện.
Có tiếng ai gọi phía cửa rừng. Chú Tâm Thể lắng nghe. Đúng là tiếng gọi tên chú. Có lẽ Thắng thấy chú đi lâu không về nên đã ra tới tận đây để tìm. Chú Tâm Thể mỉm cười. Chú thấy lòng nhẹ nhõm. Chú lên tiếng đáp lại. Đồng thời chú nhác thấy, trên một thân cây ẩm mốc gần đó, một chùm hoa phong lan thật đẹp. Giò hoa vươn dài, lả lướt: có đến trên mười chiếc hoa phong lan nối nhau buông xuống. Những cánh hoa màu hồng điểm những chấm trắng và tím, rạng rỡ như ánh mắt và vành môi của một đàn bé thơ từ trên cao đang tươi cười nhìn xuống đón mời chú. Chà, chùm phong lan này đã được “thỉnh” về treo ở hiên nhà lá Pháp Vân thì tuyệt. Chú hô lớn thêm mấy tiếng nựa để cho Thắng xác định được vị trí của mình, rồi chú tiến tới gần thân cây có chùm phong lan. Chú cởi chiếc áo nhật bình, vắt lên trên một cành cây gần đó. Lấy mắt đo thân cây, chú chuẩn bị leo lên. Chú tự nhủ sẽ rất cẩn thận để đừng làm hư nát bất cứ một cành hoa nào trong chùm hoa quý giá này.

*     *     *

Đây là lần đầu tiên chú Thanh Ấn được đến thăm làng định cư Quảng Khánh. Chú đã được ban Quản Trị Trung Ương cử về tham dự lễ bàn giao giữa đoàn công tác Quảng Khánh và ban Đại diện đồng bào làng định cư.
Từ ngày về làm việc tại trường Xã Hội, chú Thanh Ấn đã được nghe nói nhiều về Quảng Khánh và cũng đã được đọc nhiều bản báo cáo về Quảng Khánh. Nhưng lý do sâu sắc của sự viếng thăm Quảng Khánh kỳ này là ước ao của chú muốn được thấy tận mắt nơi mà chú Tâm Thể đã sống những giờ cuối cùng trước khi mất tích.
Phải, chú Thanh Ấn đã về trường Xã Hội và đã được thầy Giám đốc thu nhận, nhưng không phải là do chú Tâm Thể đem về như dự định trước. Chú Tâm Thể đã mất tích khi đi tới được chỗ hẹn ở bến sông La Ngà.
Chiều hôm ấy, từ bến sông đi lên, chú Thanh Ấn đã đợi và đã đi tìm chú Tâm Thể cho tới năm giờ chiều. Biết chú Tâm Thể đã lỡ hẹn và biết rằng mình không thể lội trở về bên kia sông được nữa, chú bèn đánh liều đi bộ, hướng về phía Nam. Chú định bụng vượt rừng tìm tới một xóm nhà nào đó xin tá túc và tìm cách liên lạc với chú Tâm Thể.
Đi bộ được chừng hai giờ thì trời bắt đầu tối, và chú vẫn chưa ra khỏi được khu rừng. Chú biết thế nào cũng phải ngủ lại trong rừng tối hôm ấy. Trời đã lành lạnh, và chú không có một manh áo mỏng trên người. Chú lại không có hộp diêm để đốt lửa. Chú đi vun lá khô lại thành một đống lớn, rồi chú nằm tựa vào một gốc cây, lấy lá khô phủ lên người cho bớt lạnh. Chú dự định không ngủ. Chú tự báo không ngủ một đêm cũng không sao. Cứ nằm đợi cho tới khi trời hé sáng sẽ tiếp tục đi.
Nhưng chú đã ngủ quên và khi chú thức dậy, trời đã sáng tỏ. Chú vùng đứng dậy lấy hướng và đi. Chú biết nếu hướng về phía Nam thì đi mãi chú cũng sẽ tới Xuân Lộc. Nhưng Xuân Lộc còn xa lắm: chú hy vọng gặp một thôn xóm nhỏ trên đường tới Xuân Lộc. Chú đi về phương Nam vì lúc ấy chú đã không biết có làng định cư Quảng Khánh cách đó có mười mấy cây số và nơi kia có những người bạn rất thân của chú Tâm Thể. Chú đi về phương Nam vì chú có cảm tưởng tất cả những người thân của chú đều ở về phương Nam. Chiều hôm ấy chú ra khỏi rừng và tới được một làng nhỏ. Chú đi băng qua những nương khoai và tới gần một xóm nhà lá. Bỗng chú nghe văng vẳng tiếng chuông mỏ của một buổi công phát huy chiều. Theo tiếng tụng kinh, chú tìm tới một ngôi chùa lá. Từ phía vườn rau, chú tìm lối đi vào nhà bếp chùa. Bếp lạnh tanh. Chú nghe tiếng tụng kinh của một nhà sư tuổi độ ngũ tuần, chen lẫn với tiếng tụng kinh của một nhà chú điệu còn rất trẻ. Hai thầy trò đang tụng đến nghi thức thí thực.
Sẵn thấy hộp quẹt ở gần bếp, chú nhen lửa và hơ cho ấm hai tay. Lửa nổ lép bép. Một lát sau, buổi công phu chấm dứt. Hai thầy trò trở ra. Nghe tiếng lửa lép bép dưới bếp, họ tưởng là có người bổn đạo nào tới công quả. Họ đi xuống bếp để xem thử là ai. Trung Úy Trần Thanh Lâm đứng dậy chắp hai tay chào theo lối kiểu nhà chùa. Thấy người lạ, thầy trú trì hơi ngạc nhiên. Nhưng ông ra hiệu mời chú ngồi xuống bếp tiếp tục hơ lửa và bảo chú điệu đi nấu một ấm nước. Chú điệu khoảng mười một tuổi, mặt mày rất xinh đẹp.
Thầy trú trì đi lên hậu liêu rồi trở xuống với một chiếc áo năm thân và một cái quần dài màu dà. Thầy đưa bộ quần áo cho người khách với một nụ cười. Có lẽ đây là một bộ đồ của thầy trú trì. Rồi thầy nói:
– Ông mặc áo rồi tiếp tục ngồi sưởi cho ấm. Để tôi bảo chú Đăng nấu cơm. Nói xong thầy lên hậu liêu. Nửa giờ đồng hồ sau đó, cơm đã chín. Chú Đăng dọn cơm, thắp đèn và mời ông khách lạ ăn cơm. Hai thầy trò không ăn cơm chiều. Trung Úy Lâm, trong bộ áo năm thân màu đà, điềm đạm ăn cơm. Lâm đói lắm. Chú ăn sạch niêu cơm và tất cả thức ăn trên mâm. Dưa cà chấm tương và một bát đậu hũ kho măng.
Chú Đăng mang nước trà đến cho khách. Lâm nhận ly nước trà, cám ơn chú điệu. Rồi nhìn chú, Lâm nói:
– Tiếng chú Đăng tụng kinh tốt lắm. Chú tu đã được mấy năm rồi, chú?
Chú điệu trả lời:
– Dạ thưa hai năm.
Vừa lúc ấy thì thầy trú trì đi xuống. Thầy bảo với chú Đăng là thầy đã dọn một cái giường cho khách ngủ tạm trên nhà ngang, và khi khách uống nước xong thì chú Đăng phải đưa khách lên trên ấy để nghỉ. Thầy bảo thầy biết ông ấy đang mệt lắm.
Lâm lên tiếng:
– Bạch thầy, con phiền thầy nhiều quá.
Đó là câu nói đầu tiên của Lâm với thầy trú trì từ khi gặp thầy. Vị sư cười, nói:
– Có gì đâu mà phiền, ông. Ông cứ đi nghỉ rồi sáng mai mình hãy nói chuyện.
Đêm ấy chú điệu Đăng cho Lâm một cái mền và một chiếc chiếu. Lâm ngủ rất ngon. Vào khoảng bốn giờ khuya, tiếng công phát huy của hai thầy trò làm Lâm thức dậy. Chú đi xuống bếp rửa mặt, lấy mười ngón tay chải tóc cho gọn ra phía sau, rồi tìm lên chùa, quỳ phía sau chú điệu Đăng. Hai thầy trò vừa tụng hết Lăng Nghiêm, bắt đầu qua Thập Chú. Lâm cất tiếng tụng theo. Lạ quá, lâm không quên một chữ nào. Tiếng của Lâm rõ rằng, phụ họa rất hòa hợp với giọng của thầy trú trì và của chú điệu Đăng. Hai người quỳ trước chắc là ngạc nhiên lắm, nhưng họ không hề quay mặt lại nhìn Lâm.
Đến lúc hai thầy trò niệm danh hiệu Thích Ca Mâu Ni và bắt đầu đi nhiễu quanh bàn Phật thì Lâm cũng chắp tay bước từng bước một đi theo chú Đăng. Sau ba vòng kinh thành, họ trở về quỳ trước bàn Phật, tụng bài hồi hướng và tam tự quy.
Buổi sáng đó, chùa ăn cháo sáng rất vui dù không ai được phép nói chuyện trong khi ăn. Trung Úy Lâm được ngồi đối diện với chú Đăng. Cháo sáng xong, Lâm xin phép được ở lại chùa ít hôm để liên lạc về nhà. Thầy trú trì nói chú muốn ở bao nhiêu ngày cũng được.
Trưa hôm ấy, Lâm viết một lá thư ngắn nhờ chú Đăng đem bỏ tại nhà dây thép quận. Chú Đăng phải đi xe Lam đến hơn một tiếng đồng hồ mới ra tới Xuân Lộc để bỏ được lá thư cho Lâm. Ở nhà một mình, Lâm nói thật tất cả cơ sự với thầy trú trì. Thầy đề nghị xuống tóc và làm lễ xuất gia tức khắp cho Lâm. Trưa hôm ấy, chú Đăng đã về kịp để dự lễ xuống tóc cho Lâm. Thầy trú trì bảo chú Đăng từ nay gọi Lâm là chú Thanh Ấn. Thầy lại ban cho chú Thanh Ấn một chiếc áo tràng cũ của thầy.
Tối hôm đó, chú Đăng bệnh. Trong hai ngày hai đêm chú lên cơn sốt. Chú nóng đến mê sảng. Cho uống ký ninh và át-pi-rin không thấy bớt. Các buổi công phu vắng chú, chỉ có thầy trú trì và chú Thanh Ấn. Một buổi kia, sau giờ cháo sáng, chú Thanh Ấn xin phép thầy để đi ra quận mua Tifomycine về cho điệu Đăng. Thầy trú trì bảo chú không nên đi ra khỏi chùa. Thầy bảo chú viết tên thuốc trên một mảnh giấy để thầy đi mua.
Trưa hôm ấy, khi thầy trú trì đem thuốc về, chú Thanh Ấn liền lấy cho chú Đăng uống ngay một viên. Rồi chú xuống bếp sửa soạn nấu cơm cúng ngọ. Vừa lúc ấy, có người tới tìm thầy trú trì. Hỏi ra thì đó là người của thầy giám đốc trường Xã Hội gửi xuống. Có cả một chiếc xe hơi để rước chú Thanh Ấn về Sài Gòn. Thầy trú trì giục chú Thanh Ấn lên đường lập tức:
– Để tôi xới cơm cúng ngọ cho. Chú đi đi, kẻo muộn. Khỏi ăn cơm trưa cũng được. Để trời tối không nên. Cuối năm, hoặc sang năm sau nhớ ghé về thăm tôi, nghe không chú?
Chú Thanh Ấn sụp xuống đảnh lễ thầy, rồi vào thăm chú Đăng. Chú Đăng còn mê, chưa tỉnh. Chú ra dặn thầy trú trì cho chú Đăng uống thuốc mỗi ngày ba lần và tám ngày liên tiếp. Rồi chú vái chào thầy, đi theo người khách.
Người bạn này không phải ai xa lạ mà chính là Thu, bạn của chú Tâm Thể. Anh giục chú ra xe. Chỉ trong nửa tiếng đồng hồ, xe đã ra tới quốc lộ. Thu ngồi trước lái xe. Anh bảo chú Thanh Ấn ngồi sau, như một vị Đại Đức lớn. Xe chạy bon bon trên đường tráng nhựa. Thu cho chú Thanh Ấn biết là tuần trước, xe Thu đã ghé tới cây số 103 trên quốc lộ 20 sớm hơn tới mười lăm phút. Thu đã cho xe chờ ở đó tới sáu giờ chiều, rồi mới bỏ về Sài Gòn. Ngày hôm sau, Thu được lệnh trở lên Quảng Khánh để tìm chú Tâm Thể. Anh Thắng nói chú Tâm Thể đã rời văn phòng trụ sở của đoàn công tác vào lúc mười hai giờ rưỡi trưa hôm trước. Thu và Thắng cũng định đi Định Quán để hỏi thăm. Không ai thấy chú Tâm Thể đi về hướng nào cả. Hai người đi thăm hỏi các làng mạc lân cận. Cũng không có dấu vết gì của chú. Thu liền về Phú Thọ Hòa báo tin cho thầy Giám đốc.
Mãi tối hôm qua, lá thư của chú Thanh Ấn gửi cho chú Tâm Thể mới tới văn phòng trường. Thầy giám đốc mở thơ ra xem và lập tức phái Thu về rước chú Thanh Ấn. Thu kết luận có thể là Tâm Thể đã bị một toán người lạ mặt trong rừng bắt đi theo họ.
Chú Thanh Ấn về đến trường vào sáu giờ rưỡi tối, bình an. Dọc đường không có ai chặn xe lại khám xét. Chú được gặp mặt cô Tám tại trường. Thầy Giám đốc nói chuyện với chú chừng nửa giờ, và cho phép chú về nhà với cô Tám. Sáng lại, khi chú tới trình diện, thầy bắt đầu trao công tác cho chú. Thầy lại còn dặn chú trong những giờ rỗi rảnh phải học thuộc bộ Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu và sáng nào cũng phải đi công phu khuya tại chùa lá Pháp Vân.
Một tháng sau, chú Thanh Ấn được chính thức thọ giới Sa Di tại chùa Pháp Vân. Chú lại có một giấy căn cước mới, với hình chú mới chụp.
Trong suốt ba tháng thầy giám đốc đã hỏi thăm khắp nơi về chú Tâm Thể. Chánh quyền tỉnh Bình Tuy xác định với thầy là các chính quyền quận và xã trong tỉnh không hề có bắt giữ đại đức Tâm Thể. Thầy giám đốc cũng đã nhờ người quen ở Paris thăm hỏi với chính phủ Cách mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam có đại diện tại hội nghị Paris. Cũng không có kết quả. Hàng trăm tác viên và trợ tác viên của trường nghe tin chú Tâm Thể mất tích đều lấy làm lo lắng. Ai cũng thương mến chú Tâm Thể. Ai cũng thấy chú là người tác viên gương mẫu. Ai cũng nhớ chú và thấy thiếu chú. Nụ cười ấy, cặp mắt ấy, hai cánh tay ấy, chiếc áo nhật bình ấy. Ai cũng thầm cầu nguyện cho chú.
Hôm qua, trên đường lên Quảng Khánh, chú Thanh Ấn đã ghé lại chùa Thoại Quang ở Mỹ Phước thuộc tỉnh Long Khánh để thăm thầy trú trì và chú điệu Đăng. Thầy trụ trì rất mừng khi được gặp lại chú. Chú điệu Đăng bây giờ trông lớn ra và mạnh khỏe hơn trước nhiều. Chú đã học thuộc bốn cuốn luật Sa Di. Chú sắp được thầy chú gửi lên học tại Phật Học đường Phật Quang, lớp tiểu học nhất niên. “Chú học ở đó thì mỗi tháng tôi có thể tới thăm chú hai lần”, chú Thanh Ấn nói.
Gặp thầy trú trì lần này, chú Thanh Ấn đã hỏi thật thầy tại sao lần đầu tiên gặp chú thầy đã cho chú ở lại chùa mà không cần hỏi chú là ai. “Con có thể là Việt Cộng, hoặc là một người tội nhân vượt ngục, hoặc là một quân nhân đào ngũ”. Thầy trụ trì vỗ vai chú. Thầy nói:
– Lúc ấy tôi chỉ biết có một người đang lạnh, đang đói và đang cần nơi ẩn thân. Tôi không thấy có Việt Cộng nào, hoặc tội nhân vượt ngục nào, hoặc quân nhân đào ngũ nào cả.
Rồi thầy cười lớn lên: “Khuya đó tôi nghe chú tụng kinh rành quá, tôi thấy vui trong bụng ghê”.
Thầy đã năn nỉ chú ở lại chùa đêm ấy. Một cuộc tái ngộ làm ấm cả lòng ba người.
Trưa hôm nay, ngồi nói chuyện với anh Thắng ở văn phòng công tác, chú Thanh Ấn hỏi anh về những chi tiết của cuộc viếng thăm sáu tháng về trước của chú Tâm Thể. Anh Thắng kể lại bữa cơm tại nhà anh Chiêu. Anh Thắng kể lại những câu chuyện mà chú Tâm Thể trao đổi với các anh em tác viên tối hôm đó tại trạm y tế trước khi đi ngủ. Và anh nói tới chùm hoa phong lan mà chú Tâm Thể đã gửi lại trụ sở của đoàn công tác, hẹn sẽ trở về lấy đem theo. Nhưng sáu tháng đã đi qua, và chú chưa bao giờ trở về. Câu chuyện của chú Thanh Ấn tại trường chỉ có thầy Giám đốc, chú Tâm Thể và anh Thu biết. Anh Thắng chỉ cho chú Thanh Ấn thấy chậu phong lan treo ở ngoài hành lang. Chú Thanh Ấn đứng dậy, đi ra ngoài. Anh Thắng theo sau.
Cây phong lan được nuôi trong một thứ chậu vuông mà chú Tâm Thể đã ghép thành bằng những cành gỗ nhỏ. Chú đã để vào chậu nhiều chất rong rêu để giữ chất ẩm cho rễ hoa. Các lá phong lan đầy đặn và xanh mướt. Chồi hoa năm ngoái chắc đã tàn, bởi vì đang nở đây là một chồi hoa mới, mạnh khỏe, bụ bẫm. Chồi hoa chỉ mới nở được hai bông đầu. Theo chú Thanh Ấn, ít ra chồi hoa này cũng sẽ nở ít nhất là mười bông. Những cánh hoa màu hồng điểm những chấm trắng và tím, rạng rỡ như những chiếc miệng trẻ em đang cười. Chú Thanh Ấn lặng người đi. Chú chợt thấy chú Tâm Thể đang cười với chú. Nụ cười ấy, cặp mắt ấy, hai cánh tay ấy, chiếc áo nhật bình ấy. Chú Tâm Thể đã có mặt rồi, nụ cười chú Tâm Thể không bao giờ phai lạt trong lòng chú, trong lòng của những người như chú.
Và chú ngỏ ý với Thắng là, ngày mai, sau lễ bàn giao, chú sẽ xin phép mang chậu phong lan về chùa Pháp Vân.

Thiều

Tấn bấm chuông, đợi bé Thiều ra mở cổng. Sáng thứ bảy nào Tấn cũng đến thăm anh chị Đoàn và lần nào người ra mở cổng cho chàng cũng là đứa cháu trai kháu khỉnh ấy của Tấn. Thiều năm nay tám tuổi. Hai mắt nó to và đen. Nước da nó trắng xanh. Dáng người nó mảnh khảnh. Thiều rất yêu cậu Tấn của nó. Lần nào cậu Tấn đến nhà, nó cũng kèo nài cậu Tấn đi chơi một vòng trong vườn với nó. Hai cậu cháu đi chơi trong vườn, la cà ít nhất cũng đến nửa giờ, trong thời gian ấy Thiều bắt cậu nó trả lời không biết bao nhiêu là câu hỏi. Anh chị Đoàn ở trong một ngôi nhà xinh xắn, xung quanh là một vườn cây khá rộng khoảng sáu ngàn thước vuông. Gần thành phố Montpellier này mà có được một ngôi nhà và một mảnh vườn như thế, thật anh chị Đoàn thuộc về số những người may mắn nhất. Anh Đoàn làm việc tại Viện Nghiên cứu Vật lý học và cũng là giáo sư dạy tại trường Đại học Montpellier.
Tấn ngạc nhiên thấy người ra mở cổng cho chàng sáng nay không phải là bé Thiều mà là chị của chàng.
– Cháu ốm từ hôm qua, chị Tuyết nói, giọng nhỏ nhẹ và hơi đượm lo âu.
Hai chị em đi theo con đường trải sỏi trắng vào nhà. Chị Tuyết đưa Tấn vào phòng Thiều. Cậu bé nằm nhắm mắt như ngủ. Có lẽ Thiều đã ngủ, vì nếu không thì cậu bé đã mở mắt và cười với cậu Tấn của nó rồi. Tuyết nhè nhẹ đến đặt tay lên trán con, kéo cái chăn lại cho ngay ngắn trên ngực Thiều, rồi trở ra thầm thì với Tấn.
– Nó mới vừa thiếp đi đấy. Thôi chúng ta ra ngoài này chơi.
Tại phòng khách, chị của Tấn kể cho chàng nghe về bệnh tình của đứa bé. Sáng hôm qua, thứ sáu, Thiều không đi học. Nó than nhức đầu. Tuyết cho nó uống một viên Aspirine bọc đường, và ép nó uống được một tách sữa. Trưa đó Thiều không ăn cơm, nó bắt đầu lên cơn sốt. Tuyết gọi điện thoại cho bác sĩ Peltier. Ba giờ chiều bác sĩ đến. Sau khi xem mạch cho Thiều, ông bảo đứa bé chỉ cảm sốt thường. Ông cho nó vài thứ thuốc, vừa thuốc nước ngọt vừa viên bọc đường. Vào khoảng sáu giờ chiều, nó có vẻ khá hơn và chịu xuống phòng ăn, ăn được vài muỗng súp. Nhưng đến chín giờ tối thì nó lên cơn sốt trở lại. Người nó nóng hầm. Lấy thủy đo thì tới hơn ba mươi chín độ. Tuyết hoảng kinh, điện thoại cho bác sĩ. Ông Peltier tới ngay nửa giờ sau đó. Sau khi khám xét trở lại, ông chính Thiều một mũi thuốc và bảo rằng tình trạng của cháu không có gì đáng lo ngại. Ông bảo ngủ một đêm, sáng mai Thiều sẽ khoẻ. Ông ra về, bảo sẽ trở lại chiều mai, tức là chiều hôm nay. Đêm ấy Thiều không ngủ. Nó hành mẹ nó cả đêm. Tuyết định gọi ông Peltier nhưng sợ phiền ông ta quá, lại thôi. Dù sao chiều hôm nay ông cũng sẽ đến kia mà. Buổi sáng, sau khi ngồi với con một lát. Tuyết ra dọn dẹp ngoài phòng khách. Một lát sau, Tấn tới. Khi hai chị em đi vào phòng Thiều thì đứa bé đã thiếp đi.
– Cầu Phật cho nó ngủ yên được một giấc.
Tấn cũng nghĩ là Thiều chỉ cảm sốt xoàng, nên bảo với chị đừng lo. Hai chị em ngồi nói chuyện về tin tức quê nhà một hồi thì Đoàn từ trong thư phòng đi ra. Đoàn tiến tới bắt tay Tấn, hỏi thăm sức khỏe của chàng, rồi nói:
– Hôm nay tôi bận đi họp trong trường tới chiều mới về. Tấn ở lại chơi ăn cơm trưa với chị nhé. Cháu Thiều ốm, chị có vẻ hơi lo.
Nói được từng ấy câu, Đoàn xin lỗi vào trong thay áo để đi họp. Chị Tuyết nói:
– Phải đấy Tấn, Tấn ở lại đây ăn cơm trưa với chị. Để chị đi vào xem tình trạng bếp núc ra sao, chị ra ngay bây giờ,
Tấn nói:
– Chị cứ thong thả. Em đi ra sau vườn chơi một lát. Lúc em trở vào, chị cho uống nước cũng không muộn.
Nói xong, Tấn đứng dậy, mở cửa đi ra vườn.
Khu vườn nhà Đoàn rất thịnh mậu. Bây giờ đầu tháng năm, lá còn xanh non. Các cây tilleul đã đầy lá. Chừng ba tuần lễ nữa mình đã có thể tới hái hình ảnh tilleul về uống nước rồi đây, Tấn nghĩ. Vào những đêm làm việc khuya, Tấn thường pha tilleul uống cho khỏe người và cũng cho dễ ngủ. Đã hai năm nay, đến mùa xuân nào Tấn cũng tới đây để hái tilleul. Cũng lạ, người Trung Hoặca gọi tilleul là cây bồ đề, và hoa tilleul là bồ đề hoa.
Tấn tới ngồi trên một cái băng gỗ bên gốc cây châtaigner. Hoa châtaigner đã ra. Các cành cây nâng những chùm hoa lên như những chân đèn cắm đầy hồng lạp. Tấn rất ưa hình dáng những cây châtaigner này. Nó gợi lên cho Tấn hình ảnh một cây đèn Dược sư mà chàng trông thấy ở chùa.
Có Thiều đi bên cạnh thì Tấn đâu được tự do một mình để quan sát cảnh vật xung quanh như thế này. Thiều hỏi Tấn một trăm chuyện, có chuyện Tấn không biết làm sao trả lời.
Có một lần Thiều chỉ vào một thân cây và hỏi Tấn cái thân cây chỗ đó màu gì. Nơi ngón tay Thiều chỉ là một thứ rêu màu giữa lục, giữa tím nhưng không phải xanh, một màu mà Tấn rất quen thuộc, nhưng Tấn không biết gọi là màu gì. Bí quá, Tấn nói liều:
– Thì đó là cái màu cháu đang thấy đấy, cái màu này này.
Tấn vừa nói vừa lấy ngón tay chỉ vào chỗ Thiều đang chỉ, nghĩ bụng rằng Thiều sẽ không bằng lòng cái kiểu trả lời của Tấn.
Tại sao Tấn không nói với Thiều: “Câu không biết người ta gọi màu này là màu gì”. Trả lời như vậy có phải giản tiện hơn không, và Thiều sẽ không thể nói là Tấn né tránh không muốn thú nhận cái không biết của mình. Nhưng lạ quá, cậu bé đã rất bằng lòng câu trả lời của Tấn. Nó gật đầu tán đồng với Tấn cho rằng cái màu đó là cái màu đó, còn cái tên của nó, mình biết hay không biết cũng không quan hệ gì.
Cái gật đầu thỏa mãn của Thiều làm cho Tấn thấy mình gần gũi đứa cháu không biết ngần nào. Tấn là họa sĩ. Cái màu giữa lục và tím ấy, chàng thường hay dùng trong các tranh sơn dầu của chàng; chàng quen thân với nó đến nỗi không cần biết tên của nó là gì nữa. Tấn nhận ra rằng ở đất nước chàng, sự giao tiếp giữa con người với nhau có khác sự giao tiếp ở xã hội Tây phương. Ở bên này, gặp nhau mà quên tên nhau thì người ta cho đó là một sự ơ hờ, thiếu sót. Còn ở bên nhà, cái tên không quan trọng. Gặp nhau hễ tay bắt mặt mừng nhận ra nhau là đủ. Người ta là anh Ba mà mình gọi lầm là anh Năm thì cũng không sao. Cái thiết yếu là sự nhớ mặt người mà không phải là sự thuộc lòng tên tuổi của nhau.
Thằng cháu Thiều của Tấn rất yêu mến Tấn bởi hai cậu cháu rất hợp ý nhau. Thiều ít khi thân cận với ba nó, bởi vì Đoàn hầu như để hết thì giờ vào công việc dạy học và nghiên cứu của mình. Thiều kể là rất ít khi bố nó chịu đi chơi trong vườn với nó. Đầu óc của bố nó cứ để ở đâu đâu ấy. Không phải là Đoàn không thương mến vợ con. Đoàn rất quý chuộng Tuyết và rất nâng niu Tuyết. Đoàn có thể chiều vợ và con trong mọi chuyện, nhưng Đoàn không thể để nhiều thì giờ cho họ, có thế thôi. Vật lý học là cái say mê của Đoàn. Đoàn say mê Vật lý như người ta say mê cờ tướng.
Tấn hiểu Đoàn, bởi Tấn là một nghệ sĩ. Khoa học, đối với Đoàn, là một sự theo đuổi có thể làm cho người ta say mê không kém gì nghệ thuật. Đi vào thế giới nghệ thuật, mình có thể trở nên thờ ơ với cái thế giới hiện thực. Có điều Tấn nhận ra là đối với chàng, cái thế giới nghệ thuật của chàng không bao giờ bị biệt lập với cái thế giới hiện thực. Tấn nghĩ là nếu Tấn có vợ con thì vợ con của Tấn cũng vẫn còn nằm trong thế giới nghệ thuật của chàng.
Tấn mỉm cười khi nghĩ đến những liên hệ giữa cái thế giới của những phương thức toán học của Đoàn với cái vầng trán rộng và hai con mắt tinh anh của Thiều, Đoàn có thể dùng toán học để miêu tả những định luật chi phối thế giới vật lý trong các hiện tượng phản xạ và sự truyền đi của ánh sáng, nhưng Đoàn chưa chắc thấy được ước mơ đơn giản mỗi sáng thứ bảy của đứa con trai mình.
Cái thế giới vật thể cực vi của Đoàn đôi khi có thể thực với Đoàn hơn là cái thế giới cảm giác.
Tấn nhớ lại có hôm giữa bàn ăn, trong giờ ăn tráng miệng, mẹ Thiều đưa cho Thiều một trái đào. Thiều mân mê mãi trái đào trong tay mà chưa chịu ăn. Nó ngắm nghía trái đào, đưa trái đào lên mũi ngửi rồi lại áp trái đào vào má nó. Tuyết nói:
– Con muốn có một trái đào để dành thì cứ ăn trái đào đó đi, mẹ sẽ cho con một trái đào khác. Cậu Tấn đem đến cho mình cả hai cân đào kia mà.
Thiều lắc đầu. Nó không muốn một trái đào khác. Nó chỉ muốn có một trái đào ấy mà thôi. Một lát sau, nó ăn trái đào.
Tấn nghĩ rằng thằng bé “cư xử” với trái đào không phải chỉ như một thức ăn mà là một hiện tượng gợi lên được sự chú ý của nó. Chiều hôm ấy đi chơi ngoài vườn với Thiều, Tấn hỏi nó tại sao trong bữa ăn nó không ăn trái đào sau khi mẹ nó trao cho nó. Thằng bé ngạc nhiên không nhớ là nó đã làm như vậy. Một lát sau nhớ ra, nó cười lên khanh khách, đưa hai tay làm hiệu cho Tấn cúi xuống để nó bá cổ, rồi nó nói:
– Cháu cầm trái đào lên rồi cháu nghĩ: cây đào phải để ra không biết là mấy tháng mới làm được thành một trái đào. Rồi cháu nhìn trái đào cho kỹ để thấy nó mấy tuổi, và để hỏi xem nó có bao nhiêu anh em.
Tấn ngạc nhiên thích thú, nhìn thằng cháu như nhìn một tác phẩm hội họa. Đúng rồi, ban đầu thằng bé đã không “cư xử” với trái đào như một miếng ăn, mà như một hiện tượng nó mới thấy lần đầu, tuy rằng nó đã được ăn đào nhiều lần rồi. Trái đào có thể như một đứa bạn mới mà nó gặp ngày tựu trường trong lớp học: nó quan sát, ngắm nghía xem thằng bạn chừng mấy tuổi, con mắt và cái mũi ra sao, bố mẹ nó có thể giống như bố mẹ mình hay không, v.v… Thiều có thể đã coi trái đào như một “nhân vật” ngang hàng với nó, đưa trái đào áp vào má như là ôm hôn một đứa bạn, nhưng rồi Tấn cũng cười lên khanh khách khi nhớ là thằng cháu đã cắn trái đào, ăn trái đào và nuốt trái đào vào bụng nó. Đi đời “đứa bạn” của Thiều rồi.
Thiều thấy cậu cười cũng cười theo. Hai cậu cháu tiếp tục đi chơi trong vườn.
Bây giờ thì Thiều ốm nằm trong phòng nó, Tấn ngồi một mình trên một tảng đá dưới gốc cây châtaigner. Chàng lại nghĩ đến cái khác nhau giữa thế giới vật thể cực vi của Đoàn và thế giới cảm giác của Thiều. Tấn không có toán học cao cấp nên không “đối thoại” được với Đoàn bằng thứ ngôn ngữ ấy. Nhưng dù những công thức toán học của Đoàn chính xác đến mấy đi nữa thì cũng không chắc rằng cái thế giới vật lý cực vi của Đoàn hiện thực với Đoàn hơn cái thế giới cảm giác của những người thường như Tấn và Thiều. Có lần, ngồi uống cà phê với Đoàn sau bữa cơm, Tấn cười bảo Đoàn:
– Cái thế giới vật thể cực vi của anh có thể chỉ là một thế giới ma quái mà thôi, anh Đoàn.
Đoàn cười:
– Có khi tôi cũng nghĩ như vậy. Tuy nhiên tôi vẫn tin là những con ma trong thế giới đó có thực cho nên tôi mới can đảm tiếp tục đi tìm, mong thấy rõ thêm phần nào mặt mũi của chúng. Tấn xem, cái thời người ta cứ cho rằng nguyên tử là những đơn vị bất di bất dịch cấu tạo thành vật chất, cái thời ấy đã qua lâu rồi. Bây giờ thì người ta không thể hình dung được các nguyên tử và các điện tử như những hòn bi có vị trí nhất định trong không gian và trong thời gian nữa. Càng tới gần chúng thì chúng càng trở nên mờ ảo. Cái tính chất đồng nhất và thường tại mà ta thấy trong thế giới hàng ngày của ta, ta không thể thấy trong thế giới vật thể cực vi.
Tấn cười:
– Như vậy là trong thế giới vật thể cực vi của anh, người ta có thể chứng nghiệm cái lý vô thường và vô dễ dàng hơn là trong cái thế giới sinh hoạt hàng ngày của mình.
Đoàn gật đầu:
– Chứ sao, Tấn cứ nghĩ xem. Trong cái thế giới cảm quan của mình, cái tách cà phê là cái tách cà phê, chứ không thể vừa là cái tách cà phê vừa là cái ly rượu, và cậu Tấn là cậu Tấn chứ không phải vừa là cậu Tấn vừa là bố Đoàn. Vậy mà trong thế giới vật thể cực vi những điện tử ma quái kia có khi ló đầu ra như những cái hạt (particule – chất điểm), có khi lại ló đầu ra như một làn sóng (onde). Là cái gì thì đúng ra phải là một cái thôi chứ, đằng này nó là một lần cả hai cái, khiến thiên hạ điên đầu trong suốt mất chục năm.
– Và bây giờ thiên hạ chịu thua rồi nên gọi các ông điện tử ấy là những hạt sóng (onduscule) phải không?
– Nói chịu thua thì không đúng. Bởi vì cái mâu thuẫn hạt và sóng ấy đã dạy cho người ta một bài học quý giá: người ta bắt buộc phải chấp nhận rằng không thể mượn những phạm trù hoặc hình ảnh quen thuộc trong thế giới con người để hình dung những vật thể cực vi được, bởi vì những vật thể này không có thường cũng không có ngã. Này nhé, cậu xem làm sao mà ta gọi một điện từ là thường được khi nó chỉ là một ba động; người ta cũng không thể theo dõi nó trên một đường đi nhất định (trajectoire définie) nào cả. Mà đã không thường thì làm gì có ngã. Người ta có thể phân biệt được cậu Tấn với bố Đoàn, phát hai thẻ căn cước khác nhau cho hai người, nhưng người ta không thể phân biệt được hai điện tử. Ta không thể nào “nhận diện” được một điện tử vì không thể nắm được đồng nhất tính của nó.
Tấn biết rằng những vật thể cực vi không có tính cách thường ngã mà cũng không chịu tuân theo những quy luật nhân quả và quy luật thống kê học cổ điển. Chàng nghĩ tới nhà bác học với những dụng cụ đo lường của ông ta mà thương hại. Tới với các vật thể cực vi, nhà bác học không những phải quăng bỏ hết mọi thứ thước đo, căn lường và đồng hồ mà ông ta dùng trong thế giới hàng ngày, mà trái lại, còn phải quăng bỏ luôn những lề lối suy tư và khái niệm thực dụng tức là cái “tâm hàng ngày” của ông ta nữa. Vậy ông ta tới với vật thể cực vi bằng cái tâm nào? Toán học có phải là một cái tâm hay không?
Đoàn cũng ưa đàm luận với Tấn về khoa học và Phật học. Hơn một năm nay, đã có nhiều đêm Tấn thức với Đoàn tới hai ba giờ khuya. Tấn ưa sự cởi mở của Đoàn và chàng đã tiện dịp nói cho Đoàn nghe những điều căn bản về nhận thức luận trong giáo lý Duy thức và Trung luận. Tấn biết Đoàn say mê công việc nghiên cứu của Đoàn và trong khi đàm luận với Đoàn, chàng biết được một ít những sự khó khăn mà những người như Đoàn đang gặp phải trong công cuộc nghiên cứu của họ.
Tấn suy nghĩ tới đó thì chị Tuyết ra tìm chàng, bảo rằng cháu Thiều đã tỉnh ngủ và đang đòi để được gặp cậu nó. Tấn đi vào nhà tới Tuyết. Tuyết nói:
– Cháu nó có vẻ khoẻ. Cậu vào chơi với nó một lát để chị đi làm cơm. Hôm nay Tấn ở lại chơi với chị đến chiều nhé.
Tấn gật đầu.
Thiều nằm trên giường, đưa hai cánh tay ra. Tấn đến cúi xuống sát giường cho Thiều bá cổ một lát. Tấn nói:
– Hôm nay Thiều ốm nên cậu đi chơi ngoài vườn có một mình.
Mắt Thiều sáng lên khi nghe tới chuyện đi chơi vườn. Nó nói:
– Lần sau cậu đến thế nào cháu cũng đi chơi vườn với cậu. Mấy bụi pivoines nở rồi, đẹp lắm. Cậu thấy chưa?
– Chưa, cậu mới đi tới cây châtaignier thôi, chưa đi tới bụi pivoines. Hay là để lần sau cậu tới rồi hai cậu cháu mình cùng đi thăm hoa pivoines. Hoa pivoines gọi tiếng Việt là hoa mẫu đơn, cháu biết chứ?
Thiều học ở trường tiểu học Pháp cho nên nó nói tiếng Pháp giỏi hơn tiếng Việt. Một đôi khi Tấn cũng nói tiếng Pháp với cháu cho có vẻ “copain”, nhưng chàng thường tập cho Thiều diễn tả bằng tiếng Việt. Tấn rất kiên nhẫn trong công việc này và chị của Tấn cũng rất sung sướng khi thấy hai cậu cháu Tấn nói chuyện với nhau bằng tiếng mẹ đẻ. Bây giờ Thiều đã nói tiếng Việt giỏi không kém gì tiếp Pháp. Tấn có cảm tưởng là khi thằng Thiều nói tiếng Pháp, nó không phải là “một” với thằng Thiều nói tiếng Việt, giống như nó có hai linh hồn khác nhau. Tấn lại mỉm cười nhớ lại hai cái tác dụng hạt và sóng của một điện tử.
Nói chuyện chơi với Thiều được mấy phút, Tấn để cho Thiều nằm nghỉ. Chàng ra phòng khách với Tuyết. Chị chàng hỏi thăm về công việc sáng tác của chàng. Tấn nói với chị là cả mấy tháng nay Tấn không có vẽ.
– Em không vẽ là tại trong người em có một sự thay đổi nào đó mà em biết là quan trọng. Em đang theo dõi sự thay đổi đó mà không muốn can thiệp vào.
Chị Tuyết thường hay tỏ vẻ lo ngại về sự sống của Tấn. “Sự sống” nơi đây không phải là sự sống tâm linh hay nghệ thuật mà là tiền bán tranh của Tấn. Tấn là một họa sĩ không chịu chiều theo thị hiếu của người mua tranh. Chàng rất ghét vẽ phụ nữ và trẻ em Đông Phương với những nét dịu dàng bụ bẫm để cho bọn nhà giàu mua trang trí trong phòng khách của họ. Chàng cũng không chịu để thì giờ bươi móc và tìm tòi những thủ thuật tân kỳ để mong khoác lên cho tranh chàng những hình thức mới lạ. Theo Tấn, cái mà chàng đi tìm không phải là phương tiện diễn tả. Dụng cụ ngôn ngữ của hội họa, Tấn nghĩ, chỉ là đường nét, màu sắc, sự sáng tối và chất liệu dùng dưới cây cọ. Ngôn ngữ hội họa giàu sang không kém ngôn ngữ của nhà thơ hoặc nhà văn. Người ta không cần dùng một lượt tất cả chữ nghĩa trong từ điển để làm thơ hay viết văn: người ta chỉ cần chọn một số chữ cần dùng mà thôi. Trong hội họa cũng vậy, Tấn không bao giờ cảm thấy lúng túng vì phương tiện diễn tả. Sự lúng túng về phương diện diễn tả chẳng qua chỉ là những biến hình của sự trống rỗng về phương diện sinh hoạt nội tâm.
Có nhiều khi Tấn cảm nhận được sự có mặt của những băn khoăn, thao thức và sôi động trong nội tâm, nhưng Tấn không cầm cọ. Chàng không cầm cọ bởi vì nếu cầm cọ, Tấn sẽ có một cảm giác tương tự như cảm giác lúng túng về phương tiện diễn tả. Tấn biết rằng đó không phải là sự thiếu thốn phương tiện diễn tả mà chỉ là sự “chưa chín” của chất liệu nội tâm. Công việc hội họa, theo Tấn, phải được bắt đầu ngay từ sự nhận diện những biến cố lớn trong tâm hồn. Những khổ đau, băn khoăn và thao thức của nội tâm cũng trải qua những tiến trình phát sinh, triển khai và biến động như bất cứ những hiện tượng nào khác của cuộc sống. Người nghệ sĩ phải quan sát chúng một cách thường trực, theo dõi chúng và chấp nhận chúng. Đến khi những nỗi đau, niềm thương hoặc sự phẫn nộ kia dâng lên như sóng cuộn và hình thành trong nội tâm mình thì người nghệ sĩ đã trở thành một với chúng: sự diễn tả trở nên cấp bách, cầm đến cây cọ là phương tiện diễn tả tự nhiên tìm đến, mình không cần phải đi lục lọi tìm kiếm nó. Kỹ thuật không phải chỉ là kỹ thuật pha màu và sử dụng cây cọ. Kỹ thuật còn là cách thức quan sát, theo dõi và thể nhập vào sự sống – sự sống ở nội tâm cũng như sự sống xảy ra từng giây từng phút quanh mình. Do đó kỹ thuật nằm ở sự tu luyện nội tâm mà không phải là ở sự tìm kiếm những thủ thuật mới lạ.
Tấn nghĩ như vậy cho nên Tấn không cho thì giờ ở không của chàng là thì giờ uổng phí. Không có tranh để bán thì Tấn đi làm việc trang trí cho các cửa tiệm để sống qua ngày. Tấn nói với chị Tuyết đừng lo Tấn chết đói:
– Khi nào đói thì em đến đây ăn cơm chực của anh chị, chị đừng lo.
Chị Tuyết cười:
– Em đến chơi thì trong nhà này ai cũng mừng, nhất là bé Thiều. Thôi, chị không lo Tấn thất nghiệp nữa. Em cứ lại đây ở luôn với anh chị và cháu Thiều cũng được. Có một cái phòng để riêng cho em đó. Chỉ tiếc ở đây không có chỗ rộng làm xưởng vẽ cho em. Mà tại sao lại không có? Có cave rộng lắm, có thể làm thành xưởng vẽ được. Như vậy em khỏi phải trả tiền nhà đằng đó, có phải hơn không?
Tấn cười:
– Căn nhà và cái xưởng vẽ của em đằng ấy khá tiện lợi và cũng rất thích hợp với em. Giá thuê lại rất rẻ. Chị cứ để em ở đằng đó, như vậy em có hai nhà, đi lại vui hơn.
– Chị nói thế nhưng tùy Tấn chứ. Có thể em ở đằng ấy một mình tự do hơn. Thôi để chị vào dọn cơm kẻo trời đã trưa rồi.
*     *
*
Tấn thức giấc, nhìn đồng hồ trên mặt bàn thì thấy chỉ mới hai giờ sáng. Chàng vừa nằm mơ một giấc mơ quái lạ. Giấc mơ chưa tan biến hẳn. Những hình ảnh trong giấc mơ còn lảng vảng trong đầu óc chàng, và mồ hôi còn lấm tấm trên trán. Tấn với lấy chiếc khăn lau mồ hôi rồi nằm buông xuôi hai tay hai chân, bắt đầu thở những hơi thở nhẹ và dài để lấy lại sự thư thái cho thân tâm mình.
Trong giấc mơ, Tấn thấy mình nắm tay bé Thiều đi chơi trong một khu rừng đầy hoa thơm cỏ lạ. Hai cậu cháu đang bẻ lá bẻ cành để xây dựng một tòa lâu đài, thì tự nhiên trời tối sầm lại và hai người không còn trông thấy nhau nữa.
Tấn lên tiếng gọi bé Thiều nhưng không nghe tiếng bé Thiều đáp lại. Trời bây giờ hoàn toàn tối đen như mực. Tấn đưa tay ra sờ soạng tìm bé Thiều, nhưng tay Tấn chỉ chạm tới khoảng không. Lạ quá, cây lá trong rừng hình như cũng đã biến đi đâu mất hết. Tấn đưa tay sờ mặt đất, thì lạ quá, mặt đất đã trở thành một chất loãng như nước. Tiếp theo đó, Tấn mất thăng bằng. Chàng ngã xuống.
Đang chới với trong nước thì Tấn nắm được cánh tay của bé Thiều. Hai cậu cháu ngoi ngóp hồi lâu thì vịn được một cành cây, leo lên. Bây giờ trời đã sáng trở lại, nhưng rừng cây không còn nữa. Tấn thấy Tấn đang nắm tay Thiều chạy qua một vùng đất hoang vu lởm chởm những tảng đá nhọn, những miểng chai và những bụi cây cháy xém hết cành lá, chỉ còn trơ lại những thân cây đen đúa và nhọn hoắt. Trên đầu hai người, hình như có giông bão sắp trút xuống, và phía sau hai người có tiếng reo hò của những đoàn người đang đuổi theo. Tấn có tìm một nơi kín đáo nào để hai cậu cháu có thể ẩn nấp, nhưng khắp chốn chỉ là cảnh tượng hoang tàn của rừng núi tàn phá. Nhìn tới phía trước, Tấn thấy ngả nào cũng đầy chông nhọn và gai góc, biết rằng có chạy trốn nữa thì cũng không đi đến đâu. Nghĩ tới đó Tấn liền nắm tay bé Thiều đứng lại, sẵn sàng chờ đón những đoàn người rầm rộ đuổi theo mà Tấn biết là rất hung dữ. Nhưng khi hai cậu cháu vừa dừng lại thì tiếng reo hò phía sau im bặt và giống tố trên đầu cũng lặng thinh. Vừa lúc đó, Tấn giật mình tỉnh dậy.
Một cơn ác mộng như thế, ít khi Tấn nằm thấy lắm. Chàng tiếp tục thở những hơi thở nhẹ, tập trung tâm ý vào hơi thở, và chờ đợi một vài ý tưởng có thể bất ngờ đến soi sáng về ý nghĩa của giấc mộng.
Một hồi lâu sau đó, Tấn vẫn không thấy có tư tưởng nào tự nhiên tìm đến để giải đáp về giấc mộng cho chàng. Tấn không muốn dùng trí năng để phân tích giấc mộng, bởi vì Tấn không tin tưởng ở phương pháp đó. Đối với những vấn đề thuộc tiềm thức và tâm linh, Tấn thường tin cậy ở tác động trực giác tự nhiên hơn là ở khả năng phân tích của lý trí.
Bây giờ Tấn đã khỏe khoắn trở lại. Không muốn tiếp tục ngủ nữa, chàng choàng dậy, đi tắm. Nước ấm trên gương sen tuôn xuống ào ào như tiếng mưa làm Tấn dễ chịu, chàng lau mình thật khô, lấy một bộ đồ bà ba trong tủ còn thơm mùi long não ra mặc. Xong xuôi, Tấn ra thư phòng, đốt một cây hương bạch mai cho thơm và đến ngồi tĩnh tọa trên một chiếc chăn gấp tư để ở giữa phòng. Tĩnh tọa là một phần quan trọng trong nghề hội họa của Tấn.
Tấn tập trung tâm ý vào hơi thở như thường lệ. Khoảng hai mươi phút sau, chàng buông hơi thở và thả lỏng cho tâm ý muốn đi hướng nào thì đi trong khi chàng vẫn để ý theo dõi như một đứa bé chăn trâu để trâu tự do đi ăn trên đồng cỏ nhưng vẫn không rời mắt khỏi trâu. Đột nhiên Tấn thấy được mình đang trở về bến sông nơi quê hương chàng sinh trưởng.
Nơi sinh trưởng của chàng là một thôn xã thuộc tỉnh Long Xuyên, nơi có con sông Hậu Giang chảy qua. Dọc bờ sông là những thửa ruộng phì nhiêu. Trên những bờ ruộng này ngày xưa Tấn đã từng chạy chơi, đào trùng, câu cá, bắt dế, đặt lờ với những đứa bạn trong làng. Những đứa bạn ấy bây giờ đứa thì đã chết ở chiến trường, đứa còn đang học trong trại học tập, đứa thì biệt tích. Thằng Quế, bạn thân nhất của Tấn từ ngày học lớp nhất, chết ở chiến trường Pleime, bây giờ chắc đã thành đất. Con cháu của thế hệ Tấn cũng đã có nhiều đứa chết vì đạn lạc, bom rơi. Thằng Thiều là một đứa trẻ may mắn. Nó là một đứa trẻ cha Việt mẹ Việt nhưng sinh ra ở đất Pháp. Nó có cộng nghiệp với những đứa trẻ Việt Nam cùng tuổi với nó, nhưng nó lại có cái biệt nghiệp may mắn của nó mà phần lớn trẻ em xứ nó không được thọ hưởng.
Từ khi qua Pháp tới nay, hễ khi nào nhìn thấy trẻ em nô đùa ở sân trường hoặc bên đường phố là Tấn nghĩ đến trẻ em xứ nó không được thọ hưởng.
Từ khi qua Pháp tới nay, hễ khi nào nhìn thấy trẻ em nô đùa ở sân trường hoặc bên đường phố là Tấn nghĩ đến trẻ em xứ Tấn. Ngày còn ở Việt Nam, Tấn đã nhiều lần ôm trong tay những thân hình trẻ em bị thương vì viên đạn, mảnh bom, và có khi chàng cũng đã đem chôn những thân hình bé bỏng kia trong lòng đất. Hồi ấy Tấn làm việc trong ban cứu thương của tổ chức Gia đình Phật tử Quy Nhơn. Trong những trận đánh lớn, đoàn của Tấn đã xông pha đi tải thương dân sự, bất chấp lửa đạn. Một đoàn sinh trong đoàn của Tấn đã bị tử thương trong công tác cứu trợ năm 1974.
Không bao giờ, có lẽ không bao giờ Tấn quên được giây phút chàng nâng một xác em bé đồng nữ bốn tuổi trên tay, biết rằng em bé đã chết thật rồi, không có cách nào cứu chữa được nữa. Trong hai tay Tấn, em bé nằm buông xuôi như một con chim trúng đạn. Đầu của nó ngả về một bên, tóc của nó bê bết máu. Tấn có khóc được đâu lúc đó. Thì giờ đâu mà khóc, tâm sự đâu mà khóc. Còn có hàng trăm trường hợp nguy cấp đang đợi Tấn và các bạn Tấn. Tấn không có thì giờ nhìn em bé lâu. Chỉ chừng một phút thôi. Một phút, nhưng ngàn đời không quên.
Cái ngày bước lên máy bay đi Paris để “đoàn tụ gia đình” cách đây gần bốn năm. Tấn cảm thấy đau xót một cách lạ lùng. Đất nước đang đau khổ từng nào, tâm hồn chàng càng mọc rễ sâu vào đất nước từng ấy. Đi như thế sao lành? Nhưng chàng đã đi. Không phải vì tương lai chàng. Không phải vì nghệ thuật. Không phải vì cơm áo. Vì cái gì? Có thực sự vì tự do không? Cái tự do riêng cho một cá nhân mình, một cá nhân mà gốc rễ đã ăn sâu vào đất nước đến mức độ của chàng, cái tự do ấy có thể có hay không? Tấn lắc đầu hoài nghi. Chàng không muốn nghĩ tiếp.
Xương cốt của thằng Quế bây giờ có thể đã hoàn toàn mục nát thành đất. Xương của anh Trúc, anh cả của Tấn, chắc cũng đã mục nát hết rồi trong miền rừng núi nào ở biên giới Lào Việt. Anh Trúc là sĩ quan truyền tin trong quân đội. Anh chết từ năm 1972 trên chiến trường rừng núi, không tìm ra được thân xác. Còn xương cốt của em bé gái bốn tuổi kia bây giờ đã mục nát hết hay chưa? Tấn còn nhớ vị trí ngôi một con con trong cái phần đất nghĩa địa của Giáo hội Bình Định ấy, nhớ rất rõ ràng. Con chim con đã hoàn toàn biến thành đất hay chưa? Tấn đã tự tay chôn em bé, chôn sâu xuống lòng đất, không có hòm gỗ, không có tang lễ. Tấn không biết đứa bé tên gì, con ai. Chàng nhớ là khi lấp đất, chàng đã không ngớt niệm “Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật”.
Gia đình Tấn chỉ có một người chết ở chiến trận là anh Trúc. Ba má Tấn qua đời năm Tấn mười chín tuổi. Ông bà chết trong ngôi nhà do tổ tiên mấy đời để lại. Khi ngôi nhà này bị bom dội sập. Tấn được ông chú của chàng nuôi cho ăn học tiếp tục cho đến khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật. Ông chú đã chạy lo cho chàng được hoãn dịch suốt trong sáu năm liên tiếp.
Ngôi nhà của cha mẹ chàng tại Long Xuyên từ khi bị sập đã không được ai xây dựng lại. Vôi, gạch, gỗ và ngói chồng chất hoang tàn. Có một lần về thăm quê Tấn ngồi trên một tảng đá ở bên đống vôi gạch để chiêm nghiệm. Chàng chợt thấy một bông hoa nhỏ, năm cánh, màu tím, gọi chàng. Bông hoa từ dưới kẹt đá chui lên, năm cánh mơn mởn của nó bất giác làm cho lòng Tấn rung động. Bông hoa mảnh mai nhưng không nề hà gì về sự sụp đổ hoang tàn trong cảnh vật cũng như trong lòng Tấn. Tấn cảm nhận được, qua sự có mặt của bông hoa, sức sống mãnh liệt và mầu nhiệm đang vươn lên, bất chấp tang tóc, đổ nát, uất hận và căm thù.
Từ ngày ấy trở đi, Tấn có cảm tưởng mình hiểu được ông Toàn, vị giáo sư lớn tuổi dạy trong trường Cao đẳng Mỹ thuật. Ông Toàn là người điềm đạm, ít nói. Kiến thức về lịch sử mỹ thuật Đông phương cũng như Tây phương rất vững vàng nơi con người có dáng điệu gầy gầy ấy. Hai bàn tay ông trong khi cầm dùi đục hoặc nắn chất đất dẻo, có dáng điệu của những bàn tay đang bắt ấn quyết, vừa dịu dàng, vừa vững mạnh, vừa trang trọng. Ông sáng tác rất ít, nhưng các tác phẩm của ông, những tác phẩm mà Tấn được nhìn ngắm, đều tràn đầy tính cách sinh động. Có lần ông đưa Tấn lên chùa Ấn Quang để nhìn bức tượng Bồ Tát Văn Thù chạm nổi của ông gắn trên chánh điện. Tấn đã trở lại chùa nhiều lần sau đó, không phải để gặp chư tăng trong chùa, mà là để nhìn ngắm lại pho tượng. Một nghệ sĩ chưa từng đau khổ và thương yêu đến mức thảm thiết thì không thể nào tạo dựng được một bức tượng như thế, Tấn nghĩ. Trên nét mặt của bức tượng, Tấn không thấy một nét ước lệ nào. Những nét lông mày, mí mắt, và cả nét trán nữa, tất cả đều phụ họa lại với nhau để diễn tả một cái thấy sâu sắc về cuộc đời, một cái thấy đi sâu vào lòng muôn vật, một cái thấy quán xuyến hết những trầm luân cũng như những thăng hoa của con người. Trước một cái nhìn như vậy, không có vật gì có thể che dấu được chân tưởng nữa cả. Tất cả đều phải tự cởi mở ra, tự trình bày ra, như khi ánh sáng mặt trời chiếu đến thì tất cả các loài hoa đều xòe cánh để làm cho đài hoa hiển lộ. Cái nhìn không phải là một cái nhìn soi mói mà là một cái nhìn trầm tĩnh và cảm thông, thấm nhuần chất lượng từ bi. Nụ cười trên môi pho tượng Bồ Tát chứng thực một cách hùng hồn điều đó. Một kẻ đã không từng đau khổ cùng cực thì không thể cười một cái cười hiền dịu đến thế, và không thể nhìn bằng cái nhìn bao dung đến thế.
Những nét về tư thế ngồi của bức tượng và về dáng điệu của hai bàn tay cũng không hề phảng phất tính cách ước lệ của nghệ thuật tạo tượng, trong sách vở cũng như ở nhân gian. Nhìn bức tượng, người ta không nhìn thấy Phật mà chỉ thấy người, một con người rất người và do đó đã thành Phật. Bồ Tát ngồi an ổn trong vị thế của mình, không xa cách cuộc đời. Bồ Tát có những cánh tay như cánh tay của thường nhân, nhưng những cánh tay ấy đã ở vào vị trí biết mình đang cần làm gì và phải làm gì.
Tấn thường đến chơi nhà ông Toàn và bắt đầu học ngồi thiền từ độ ấy. Ngồi thiền, ông Toàn nói, là để làm hiển lộ cảm hứng, đưa chất liệu nghệ thuật đến chỗ chín muồi trước khi nghệ thuật đầu thai vào tác phẩm.
Dân tộc nào cũng có những giai đoạn thăng trầm vinh nhục, những thất vọng và những ao ước cũng như những đau khổ và những niềm kiêu hãnh của mình. Mỗi dân tộc đi tìm những phương cách để tự thể hiện và con người nghệ sĩ trong khi diễn tả những nỗi niềm của tâm tư mình cũng nói lên được những ước vọng và những đau khổ của dân tộc mình. Tấn thấy nỗi khổ đau và niềm hoan lạc không phải là những hiện tượng trái chống nhau mà lại là những yếu tố bổ sung cho nhau, cũng như sự sinh thành và sự hoại diệt, cũng như sự tan rã và sự tập hợp.
Khổ đau của cuộc đời là hiện thực, bởi vì bản chất của sự sống là vô thường vô ngã. Nếu không có vô thưởng và vô ngã thì cuộc sống không còn là cuộc sống, nghĩa là một thực tại sinh diệt biến động không ngừng. Cái bông hoa mong manh từ kẽ đá đó ló ra gọi Tấn là chỉ để nói với chàng điều đó.
Hình ảnh của đứa cháu trai sống an lành trên một đất nước không có chiến tranh, vây bọc bởi những săn sóc của người lớn và những tiện nghi của một xã hội tương đối khéo tổ chức lâu nay đã thường xuyên gợi lại hình ảnh của những đứa trẻ thân hình dập nát vì bom đạn hoặc thiếu ăn thiếu mặc, hoặc lạc lõng trong thế giới hận thù, không nhìn thấy con đường trước mắt. Tấn bàng hoàng sực nhớ lại cơn ác mộng. Tấn đã nắm tay bé Thiều chạy trong một cơn bão lửa. Chiến tranh đã chấm dứt từ năm năm nay, bé Thiều và Tấn sống an toàn trong một xứ tương đối có hòa bình và dân chủ, vậy mà thực tại Việt Nam vẫn hiện thực từng giây từng phút trong lòng Tấn, trong từng tế bào, trong từng kẽ tóc, chân lông của Tấn. Giấc mộng kia không phải là một cái bóng. Nó là một sự thật xác thực như bất cứ hiện tượng vật chất nào chung quanh Tấn lúc này. Tấn đã lên máy bay qua Pháp, nhưng rốt cuộc, Tấn vẫn không đi khỏi đất nước chàng. Chính Tấn là đất nước của chàng. Chạy trốn cái chết, chạy trốn sự thất vọng. Chạy trốn vô thường vô ngã.
Tấn chợt nhớ lại đoạn cuối của giấc mơ, khi chàng biết không chạy trốn vào đâu được nữa và nhất quyết cùng bé Thiều đứng lại, thì tiếng hò reo theo đuổi dữ dội phía sau lưng chàng đột nhiên bặt mất. Có phải tất cả những lo âu sợ hãi và đau buồn của chúng ta đều phát xuất từ ước mơ thường ngã của chúng ta không? Cuộc sống như một bà mẹ: bà sanh ra chúng ta để rồi bà cũng vùi dập chúng ta; sinh và diệt nối tiếp không ngừng; không có diệt thì không có sinh, không có sinh thì không có diệt. Chấp nhận sự sống là chấp nhận cả hai mặt sinh diệt của cuộc đời.
Chiêm nghiệm đến đây, Tấn bỗng thấy em bé đồng nữ bốn tuổi mà mình đã ôm trong lòng hai tay bảy năm về trước nhoẻn miệng mỉm cười. Ôi, cái nụ cười huyền diệu quá. Đó là nụ cười của bé Thiều. Đúng rồi, em bé đó với bé Thiều là một.
Tấn nhè nhẹ xuất thần, đứng dậy, bắt đầu đi bách bộ trong thư phòng. Chàng đặt những bước chân chậm rãi trên bức thảm lót, từng bước chân trang nghiêm trân trọng như muốn in hình dấu chân dày đặc trên mặt đất.
Buổi sáng đó, Tấn khởi sự vẽ Thiều bên cạnh một khóm mẫu đơn với những bông hoa mãn khai rực rỡ.
Chàng làm việc suốt ngày và suốt đêm hôm đó, chỉ dừng lại để ăn một miếng bánh mình phết bơ, một trái cam và uống một ly nước lọc. Buổi tối đó chàng ngủ được chừng bốn giờ đồng hồ. Sáng lại, sau nửa giờ thiền tọa, chàng xuống xưởng vẽ bật đèn tiếp tục công việc. Nhiều lần nghe tiếng chuông cổng reo, chàng làm lơ. Chàng không muốn tiếp ai, không muốn nói chuyện với ai trong khi chàng vẽ bé Thiều.
Cho đến trưa ngày thứ năm.
Trưa ngày thứ năm, bức tranh được xem như gần hoàn tất. Chỉ còn một vài chi tiết nhỏ cần phải chỉnh lại mà thôi. Tấn dọn dẹp xưởng vẽ của chàng cho gọn gàng, quang đãng. Chàng đi lấy thêm một bóng điện nữa gắn vào phía tường bên trái để soi sáng bức họa, và lùi xa, bắc một chiếc ghế, ngồi ngắm.
Nụ cười của Thiều rạng rỡ không thua gì bông hoa mẫu đơn nó đang mân mê trong hai tay. Nụ cười đó chính là nụ cười Tấn trông thấy trên môi em bé đồng nữ trong giờ thiền định. Tấn đã vẽ bé Thiều trong một bộ đồ bà ba trẻ em, thay vì trong bộ y phục trẻ em Tây phương. Em bé đồng nữ ngày xưa cũng mặc bộ đồ như thế. Em bé đã sống dậy rồi, nơi Thiều và nơi bao nhiêu em bé khác trên đất nước chàng. Này hỡi tất cả các em bé đang đi về tương lai, hãy mang theo với các em những em bé đã từng ngã gục trong suốt cuộc chiến tranh thảm khốc. Và những người lớn si mê kia, hãy đứng qua một bên, để đường cho các em bước tới. Đừng có cản đường bít lối các em.
Một bé Thiều như bé Thiều trong tranh không bao giờ chết được. Nó không phải là của riêng hiện tại. Nó chuyên chở quá khứ, và nó thể hiện tương lai.
Tấn tắt mấy ngọn đèn, khép cửa xưởng vẽ, đi lên. Lòng chàng thoải mái. Chàng định lên phòng nghỉ ngơi chốc lát, làm một vài thức ăn để ăn trưa rồi sẽ xuống xưởng vẽ hoàn tất những chi tiết còn lại của bức tranh. Nhưng khi đi ngang qua hộp thơ mình, Tấn thấy một dấu hiệu đỏ, một mẩu giấy báo pli urgent. Chàng móc túi quần lấy chìa khóa mở hộp thư. Có một điện tín của chị Tuyết. Nội dung: “Chị rất cần em, đến ngay. Tuyết”.
Tấn lập tức lên thay áo rồi ra trạm xe buýt.
*     *
*
Cơn bệnh của bé Thiều trở nặng vào ngày thứ tư. Vào khoảng một giờ rưỡi trưa, Thiều bỗng trở nóng trên 40 độ và bắt đầu nôn ọe. Sau đó nó ôm đầu hét lên những tiếng hét kinh khủng làm chấn động cả tâm can của Đoàn. Trong khi Tuyết cuống cuồng ôm chặt lấy Thiều thì Đoàn đi gọi điện thoại cho bác sĩ Peltier. Bác sĩ bảo chàng lấy xe chở ngay Thiều vào bệnh viện nhi đồng. Ông bảo ông cũng sẽ đến bệnh viện này và sẽ đứng chờ ngoài cổng chính bệnh viện. Lập tức hai vợ chồng đưa Thiều đi. Vào tới bệnh viện Thiều đã bắt đầu hôn mê. Sau khi xem xét và làm electro-encéphalographie, các bác sĩ đề nghị giải phẫu cho Thiều ngay lập tức. Thiều vừa bị tumeur cérébral vừa bị méningite. Sự nhiễm độc đã đưa tới giai đoạn nguy hiểm.
May mắn cho Đoàn là vị bác sĩ chuyên môn giải phẫu óc giỏi nhất bệnh viện hôm ấy có mặt. Các bác sĩ chuẩn bị ba giờ đồng hồ mới bắt đầu sẵn sàng đi vào công việc giải phẫu. Thiều được đem đặt nằm sấp trên một chiếc bàn đặc biệt. Tuyết và Đoàn không được phép vào phòng. Nghe nói phòng giải phẫu thần kinh này rất tối tân vào được trang bị một hệ thống ánh sáng rất đặc biệt.
Cuộc giải phẫu kéo dài, Đoàn và Tuyết ngồi ở phòng ngoài chờ đợi. Tuyết thầm niệm đức Quan Âm không ngớt. Đoàn không biết niệm Phật. Lòng chàng nóng như lửa đốt. Càng nghĩ, chàng càng giận bác sĩ Peltier. Ông này đã quá dễ ngươi và đã ba lần liên tiếp chẩn đoán bệnh trạng của Thiều một cách hời hợt quá. Một bác sĩ như thế, Đoàn nghĩ, không thể tin cậy được. Mặt chàng nóng bừng.
*     *
*
Các bác sĩ giải phẫu cho Thiều xong thì đêm đã xuống. Thiều vẫn còn bất tỉnh. Bác sĩ nói cho Đoàn biết rằng cuộc giải phẫu đã được thực hiện, tình trạng của Thiều vẫn còn nguy hiểm nhiều. Phải tiếp tục chữa trị cho Thiều bằng các loại sérum, trụ sinh và corticcides. Nếu trong vòng sáu tiếng đồng hồ nữa mà Thiều tỉnh được thì tình trạng mới thật có nhiều hy vọng.
Nhà thương chỉ cho phép một trong hai người ở lại túc trực. Tuyết ở lại. Đoàn dặn Tuyết hễ có tin gì mới thì gọi điện thoại ngay về cho chàng, nhất là khi biết tin Thiều tỉnh dậy. Hai người dặn nhau là hễ tình trạng vẫn y nguyên thì Tuyết không cần điện thoại. Trước khi Đoàn ra về, Tuyết còn dặn chàng niệm Phật cầu nguyện cho con. Tuyết lại dặn chàng đánh điện tín cho Tấn.
*     *
*
Tối hôm đó, Đoàn không ăn cơm; chàng chỉ uống một cốc sữa và ngồi chờ điện thoại của Tuyết. Bắt đầu từ lúc đó, Đoàn mới từ từ cảm nhận thấy cái dung tích của sự bất an trong lòng mình. Cái ghế dựa trên đó chàng ngồi hình như có lửa ở dưới. Đoàn không ngồi yên được. Chàng đứng dậy đi bách bộ, từ phòng khách sang nhà bếp, từ nhà bếp sang phòng khách, từ phòng khách sang phòng đọc sách, từ phòng đọc sách sang phòng ngủ của Thiều, rồi từ phòng ngủ của Thiều sang phòng ngủ của mình. Sàn nhà hình như cũng có lửa. Chân chàng bước trên than hồng. Chàng bước vội về phòng khác, ngồi xuống trên chiếc ghế dựa quen thuộc. Chỉ mấy phút sau, chàng lại đứng dậy. Lòng ghế cũng như đầy lửa.
Mười một giờ khuya, vẫn không có điện thoại của Tuyết. Thiều vẫn còn bất tỉnh. Sự bất an trong lòng chàng lớn quá. Đoàn muốn trấn áp nó, nhưng Đoàn không biết làm thế nào để trấn áp. Đoàn biết giờ này Tuyết đang niệm Phật. Đoàn cũng muốn niệm Phật cho tâm hồn lắng dịu xuống nhưng chàng tự cho là mình “không biết niệm Phật”. Đoàn cho rằng niệm Phật không thể có ảnh hưởng tốt đến tình trạng cho bé Thiều. Và trong thâm tâm, chàng cho rằng chỉ có khi nào tình trạng của Thiều khả quan thì chàng mới có được sự an tâm mà thôi. Đoàn ao ước giờ này chàng có được niềm tin đơn thuần của Tuyết để chàng có thể niệm Phật, và để tâm chàng được an. Tuyết đã dặn chàng niệm Phật cho Thiều. Ít khi nào chàng không chiều Tuyết. Nhưng chàng không niệm Phật, và chàng cho rằng đó là vì chàng “không biết” niệm Phật, chớ không phải vì chàng “không muốn” niệm.
Chuông đồng hồ báo nửa đêm. Đoàn thay áo ngủ, lên giường nằm, hy vọng chợp mắt đi được để có thể quên đi sự lo âu. Nhưng chàng không sao ngủ được. Niềm lo âu lớn quá. Hình ảnh bé Thiều luôn luôn hiện ra trước mắt. Đoàn rùng mình mỗi khi nghĩ tới cái chết của bé Thiều. Đoàn trăn trở, tìm một tư thế nằm có thể cho chàng một sự an ổn. Nhưng tư thế đó, chàng tìm mãi không ra. Giường chàng cũng như có lửa. Đoàn có cảm tưởng rằng chàng, Tuyết và Thiều cùng cả ngôi nhà của chàng đang trôi bềnh bồng trên đại dương, và có thể bị sóng gió làm chìm đắm bất cứ lúc nào. Chưa bao giờ Đoàn thấy rõ sinh mạng của Thiều liên hệ tới sinh mạng của mình một cách lạ lùng như thế. Đoàn thấy rằng nếu Thiều chết thì chàng không còn là chàng nữa, nói một cách khác hơn là chàng cũng chết. Chàng thấy Thiều là chính chàng. Lâu nay, Đoàn cứ có cảm tưởng là Thiều đang ở vào một vị trí rất an ninh. Đất nước này không có chiến tranh. Thiều được bao bọc bởi sự săn sóc của gia đình, của học đường, của quỹ bảo hiểm xã hội. Lâu nay, Đoàn cứ yên trí rằng mình đã làm hết bổn phận của mình đối với Thiều, cũng như sau khi đã trồng trọt một cái cây mạnh khỏe vào một khu vườn đất tốt, có dậu che gió bốn bề, người làm vườn có thể an tâm phó mặc cây kia cho đất vườn để đi lo làm những công việc khác. Bây giờ thì Đoàn thấy rõ là Thiều không phải là cái cây nữa mà chính là người làm vườn, là trái tim hoặc lá gan của người làm vườn. Trái tim ấy hoặc lá gan ấy mà khô héo thì người làm vườn cũng khô héo. Trong suốt mấy năm qua, Đoàn thường nghe nói đến những người tị nạn bằng đường biển và những nguy hiểm họ gặp trên biển cả: nào sóng gió, nào hải tặc. Mới tháng trước đây chàng có được đọc lá tâm thư của nữ Tu sĩ Savier hiện đang phục vụ đồng bào tị nạn tại các đảo Bidong vàTengah. Soeur Savier nói rằng số người sống sót tới được các trại tị nạn có thể ít hơn 50 phần trăm tổng số những người ra đi tị nạn. Mỗi khi nghĩ đến nỗi gian nguy trên biển cả của đồng bào tị nạn, Đoàn lại thấy được sự may mắn của gia đình chàng. Chàng thấy gia đình mình ở trên đất liền, trong một quốc gia không có chiến tranh, tại một thành phố nơi đó chàng có thể thi thố khả năng nghiên cứu học hỏi của mình, trong một ngôi nhà xinh xắn có vườn cây xanh um, bên cạnh những người chàng thương yêu nhất trên đời. Ấy vậy mà thoạt một cái, chàng thấy tất cả những an ninh ấy biến mất. Chàng cảm thấy rất rõ là giờ này mình cũng đang lênh đênh trên biển cả; số phận chàng không khác gì số phận của những “thuyền nhân”.
Cái điều phát kiến lớn nhất của Đoàn trong lúc đó là Thiều không phải chỉ là đứa con của chàng; nó chính là chàng. Nó mà chết thì chàng cũng chết. Nếu chàng có sống đi nữa thì chàng cũng sẽ chỉ là một bóng ma mà thôi. Chàng giật mình khi tìm ra sự thật kia. Với một niềm thao thức lớn lao như thế, làm sao người ta có thể ngủ thiếp đi được, chàng nghĩ. Đoàn có cảm tưởng là mình đang mang một mũi tên bên bả vai; mũi tên cắm sâu, nhức nhối, và người mang tên không thể nào thiếp ngủ. Đoàn từ bỏ hy vọng ngủ để quên, biết rằng hy vọng đó rất hão huyền. Chàng đi xuống bếp, pha cho mình một tách cà phê khá đậm.
Đoàn biết mình đang đối diện với một thực tại, và chàng phải chiến đấu. Chàng chiến đấu như một thuyền nhân chiến đấu với biển cả. Chàng chiến đấu để không bị chìm đắm trong sự lo âu, cũng to lớn, cũng mênh mông, cũng nguy hiểm như biển cả. Tuyết vẫn chưa điện thoại về, mà nếu Tuyết điện thoại về thì chưa chắc là để báo tin rằng Thiều đã tỉnh. Rất có thể là điện thoại sẽ báo hung tin. Từ đầu hôm đến giờ, Đoàn trông điện thoại reo. Bây giờ chàng lại bắt đầu e ngại điện thoại. Đoàn biết chàng phải đứng vững trước cơn bão tố đe dọa. Cơn bão tố có thể kéo cả Thiều, cả chàng và cả Tuyết xuống biển sâu. Nội một sự lo sợ của chàng cũng đã có thể làm chàng phát điên lên được rồi. Mới có nửa đêm thôi mà Đoàn có cảm tưởng là tóc mình sắp bạc. Chàng biết chàng phải chiến đấu. Nhưng chiến đấu với thứ vũ khí nào đây? Tuyết còn có đức tin của nàng, Tuyết niệm Phật. Tuyết treo tất cả hy vọng của nàng vào đức Phật. Cậu Tấn cũng là Phật tử, nhưng chắc cậu Tấn không chiến đấu theo kiểu Tuyết. Cậu Tấn có phương pháp tọa thiền. Đoàn không có đức tin của Tuyết, không có thiền pháp của Tấn, Đoàn biết chiến đấu bằng gì bây giờ? Cái mớ kiến thức khoa học của Đoàn hay chăng? Cái mớ kiến thức ấy của Đoàn trong tình cảnh nguy nan này, có thể dùng vào việc gì? Nó có thể giúp Đoàn trấn áp được nỗi lo sợ như đang chực làm nổ tung Đoàn ra từng mảnh hay không?
Bây giờ đã hai giờ rưỡi khuya. Đoàn đã đi bách bộ không biết mấy trăm lần từ phòng này qua phòng khác. Đoàn đã trăn trở hàng trăm cách trên giường chàng. Đoàn đã ngồi xuống, đứng dậy hàng trăm lần từ chiếc ghế dựa quen thuộc ngoài phòng khác. Chàng đã thử đọc báo, đọc sách, nhưng mỗi lần cầm cuốn sách hay tờ báo lên, chàng chỉ đọc được nhiều nhất là hai dòng. Chàng biết giờ này Tuyết cũng còn thức và Tuyết chắc chắn đang niệm Phật. Chàng thử hỏi xem giờ này chàng muốn có ai ngồi bên cạnh chàng để có thể chia xẻ một ít lo âu. Chàng nghĩ tới các bạn bè của mình, và cảm thấy không ai có thể chia xẻ được cái lo âu hiện tại của mình. Không ai có thể đi vào thế giới cô đơn của Đoàn được. Chàng có cảm tưởng là ngồi đối diện với chính mình còn dễ chịu hơn ngồi với một người không thể chia xẻ nỗi cô đơn và lo sợ của mình. Bỗng chàng nhớ đến Tấn. Có thể là chàng sẽ cảm thấy ít cô đơn hơn khi có Tấn ngồi đó, đối diện chàng, dù Tấn không nói lời nào. Cái gì đã khiến Đoàn có cảm giác thân thiết đó đối với Tấn? Chàng nghĩ đó là sự kiện Tấn yêu bé Thiều không kém Tuyết và chàng.
Nếu nhà Tấn có điện thoại thì có thể chàng đã gọi điện thoại cho Tấn ngay lúc này. Tấn hay đi lông bông lắm, có thể là đêm nay chàng không có nhà. Đoàn chợt nhớ mình chưa đánh điện cho Tấn theo lời dặn của Tuyết. Chàng đến máy điện thoại, gọi số, và gửi một message téléphone cho Tấn, ký tên Tuyết, yêu cầu Tấn đến gấp.
Bỏ ống điện thoại xuống, Đoàn đi bật hết đèn phòng khách cho thật sáng, và ngồi xuống chiếc ghế dựa. Message téléphone chắc là tám giờ mới đến và nếu Tấn có nhà, Tấn sẽ đến và khoảng mười giờ. Biết được tin Thiều chắc Tấn cũng hoảng gần như mình. Nhưng chắc chắn phản ứng của Tấn không giống phản ứng của mình. Dù yêu Thiều đến mấy Tấn cũng không thể có phản ứng giống mình được, Đoàn nghĩ.
Đồng hồ treo điểm ba giờ một khắc. Như vậy là giờ này Thiều còn mê man bất tỉnh. Tình trạng Thiều thật là nguy kịch. Một thân hình bé bỏng như thế mà vừa có tumeur cérébral lại vừa méningites, không nguy sao được. Có Peltier ở đây, có thể là Tấn đã chửi vào mặt ông ta như tát nước rồi.
Đoàn tin vào khả năng khoa học, nhưng chàng cũng biết rằng bệnh trạng của con chàng rất trầm trọng. Mới hồi tháng giêng, Bính, bạn chàng đã mất tại bệnh viện Lariboisière ở Paris mặc dù cuộc giải phẫu óc đã thành công. Tin ở khoa học thì tin, nhưng có lẽ phải trông chờ vào một phép lạ nào đó nữa. Tuyết đang khẩn cầu phép lạ đó. Nàng đang niệm đức Quan Âm và đức Dược Sư. Đoàn muốn có một đức tin để có thể bám víu vào trong những trường hợp như đêm nay. Đoàn đã nghe Tấn nói về đạo Phật và thấy được chiều sâu của nếp sống tâm linh này. Nhưng lòng mến chuộng đạo Phật của chàng không phải là niềm tín ngưỡng của Tuyết.
Thần kinh của Đoàn căng thẳng quá, và chàng có cảm tưởng rằng nếu không có gì xảy ra thì trong một vài giờ đồng hồ nữa chàng sẽ nổ tung ra như một trái tạc đạn. Chàng nhìn máy điện thoại. Chàng muốn gọi vào nhà thương. Nhưng chàng biết làm như thế là vô ích. Tuyết đang ngồi ở đó và đang chờ đợi Thiều tỉnh dậy. Nếu Thiều tỉnh dậy thì tức khắc nàng chạy đi gọi điện thoại cho chàng.
Đã bốn giờ sáng rồi. Đoàn nằm buông duỗi tay trên giường như một cái xác chết, nhưng hệ thống thần kinh của chàng không buông duỗi chút nào hết. Nó căng thẳng đến tột độ. Chàng bật dậy đi lấy hai viên Séresta. Chàng chiêu hai viên thuốc an thần với một hớp nước lạnh, rồi trở về giường nằm nhắm mắt, buông duỗi hai chân hai tay, hy vọng thần kinh sẽ bớt căng thẳng. Vào lúc bốn giờ rưỡi sáng, chàng nhận ra rằng hai viên thuốc không có hiệu lực gì hết. Đầu chàng nóng bừng. Sau khi bưng đầu trong hai tay một lúc lâu, chàng chặc lưỡi, buông mình theo sự cám dỗ. Chàng vào lục tủ lấy hai viên Imménoctal, loại thuốc ngủ khá mạnh. Uống xong hai viên thuốc, chàng đi tắt hết đèn trong phòng khách, nhà bếp, và vào nằm trên giường, tắt đèn đầu giường và đắp chăn cẩn thận. Năm giờ sáng rồi, chàng vẫn không ngủ. Vào khoảng năm giờ một khắc, Đoàn thiếp đi. Chàng rơi vào một loạt nhiều cơn ác mộng. Trong cơn ác mộng cuối cùng, chàng thấy Thiều, Tuyết và chàng đi trên một chiếc thuyền con trên biển, và bão tố đã làm lật ngã chiếc thuyền, cả ba người chìm xuống đáy biển. Chàng hét lên và tỉnh dậy.
Đoàn sờ tay lên trán thấy mồ hôi mình lấm tấm. Đồng hồ đeo tay của chàng chỉ tám giờ mười lăm. Như vậy là chàng đã ngủ mê khoảng ba giờ đồng hồ. Người chàng nhọc mệt hơn trước và những dây thần kinh của chàng vẫn còn căng thẳng. Chàng biết càng bị đàn áp nỗi lo âu của chàng càng tàn phá con người của chàng. Vừa thức dậy được chừng năm phút, Đoàn nghe chuông điện thoại reo. Trái tim chàng đập thình thịch. Chàng chạy vào phòng khách. Ở đầu dây bên kia quả là Tuyết. Tuyết cho chàng biết Thiều vẫn chưa tỉnh; các bác sĩ túc trực bảo tình trạng của Thiều chưa thấy khả quan hơn và trong lúc này nếu Thiều tỉnh dậy thì cũng phải chích các loại sédatifs vào cho Thiều tiếp tục ngủ. Giọng nói của Tuyết đầy nước mắt. Đoàn bảo Tuyết là chàng đã gửi điện cho Tấn và có lẽ khoảng mười giờ trưa nay thì Tấn đến. Tuyết bảo Đoàn chờ Tấn đến rồi hai người sẽ vào nhà thương một lượt. Nàng hứa là từ đây đến đó hễ có tin tức gì mới về tình trạng của Thiều thì nàng sẽ gọi trở lại.
Buông ống điện thoại xuống, Đoàn mới thấy là bệnh tình của Thiều có vẻ nguy kịch hơn là mình đã tưởng từ tối hôm qua tới giờ. Sau khi nói chuyện với Tuyết, Đoàn thấy niềm lo lắng của chàng tăng thêm cường độ. Biết đến lúc nào bệnh tình của Thiều mới có dấu hiệu thuyên giảm? Chiều nay, ngày mai, hoặc ngày mốt? Thần kinh của Đoàn có thể chịu đựng được tới ngày mốt không?
Đoàn ngồi thừ trong chiếc ghế dựa. Chàng thấy giờ này đây Thiều đang chiến đấu với tử thần. “Gắng lên con, gắng lên con”, chàng nói nhỏ. Tuyết cũng đang chiến đấu. Chàng cũng đang chiến đấu. Chàng nhớ lại hôm qua chàng đã đặt vấn đề về vũ khí chiến đấu. Tuyết được vũ trang bằng đức tin. Tấn được vũ trang bằng phép tu thiền. Chàng không được vũ trang bằng cái gì hết. Chàng không thể mượn khí cụ chiến đấu của kẻ khác. Khí cụ chiến đấu phải do chính mình tạo ra cho mình. Như con ốc hoặc con sò. Cái vỏ ốc hoặc vỏ sò là do chính con ốc hay con sò tạo ra để tự bảo vệ mình. Đức tin của Tuyết cũng từ lòng Tuyết phát sinh, phép thiền của Tấn cũng do sự sống của Tấn đúc kết mà thành. Chàng không thể mượn của họ. Chàng chỉ có sự theo đuổi khoa học vật lý. Cái khí cụ mà chàng đang cần đến có thể là cái môn khảo cứu mà chàng đã để vào thật nhiều tâm huyết từ bao nhiêu năm nay hay không? Nó có thể là cái vỏ ốc của chàng hay không?
Nghĩ đến đây, Đoàn bỗng thấy nhu yếu muốn đi vào ngồi trong phòng làm việc của mình. Chàng đi rửa mặt, thay áo và vào phòng làm việc. Sáng nay thứ năm, đáng lý chàng phải có mặt tại sở vào lúc mười giờ. Chàng biết là chàng sẽ không thể vào sở sáng nay. Nếu vào sở sáng nay chàng sẽ tham dự vào một cuộc hội thảo có sinh viên tham dự, về tính chất bất chính xác của thời gian và không gian trong những lãnh vực vô hạn tiểu của các vị trần như điện tử và trung hòa điện tử. L’imprécision de l’espace du temps dans les domaines infinitésimaux de l’ordre des corpuscules.
Cảm giác đầu tiên mà Đoàn nhận thấy khi ngồi xuống trước cái bàn giấy làm việc của chàng là một cảm giác dễ chịu. Thần kinh chàng có vẻ như dịu xuống; chàng như bước vào trong một môi trường quen thuộc. Chàng như tự khép vào trong cái vỏ ốc của chính chàng. Hoặc như con nhện nằm đúng giữa trung tâm của cái lưới mà nó vừa dày công bủa giăng. Có phải là mình đang chui vào trốn trong chiếc tháp ngã của mình chăng, Đoàn tự hỏi. Niềm lo âu của chàng to lớn quá, cảm giác về sự hiểm nguy của chàng mênh mang quá, cái tháp ngã của chàng làm sao đủ sức dung chứa được chàng lúc này? Mới có một đêm trôi qua thôi mà Đoàn thấy như là một thế kỷ. Thời gian, thời gian. Thời gian của chàng, thời gian của Thiều, thời gian của những điện tử (électrons) và những giới tử (mésons). Thời gian của vật lý có độc lập với thời gian của tâm người hay không?
Đoàn đã từng suy tư chung với Tấn về vấn đề thời gian. Đoàn với Tấn cũng đã đề cập đến quan niệm thời gian của thuyết Tương đối trong đó thời gian không phải là một thực tại phổ quát và độc lập ngoài không gian. Tấn từng nói rằng thời gian cũng như không gian và mọi hiện tượng khác mà ta gọi là hiện tượng vật lý có liên hệ mật thiết đến nhận thức con người và chỉ qua tâm trí con người nó mới có được cái hình thức và bản chất mà con người nhận biết. Điều mà Tấn nói đó, Đoàn thấy gần như chàng có thể chấp nhận hoàn toàn được. Những khám phá trong mấy mươi năm qua trong lĩnh vực vật lý cực vi đã làm sụp đổ nền vật lý học duy vật. Cái mà người ta tưởng là nền tảng của hiện hữu, kể từ Démocrite đến nay, tự nhiên đã mất hết bản chất. Các nhà khoa học không tìm thấy một cái gì có thể gọi là bản chất tự thân của các vật thể cực vi cả. Khi người ta thực hiện những cuộc thí nghiệm trên các vật thể cực vi, người ta chỉ được các vật thể này phản ứng khi thì như là một làn sóng, khi thì như một hạt… Đối tượng mà ta quan sát có vẻ không phải là tự thân của các vật thể cực vi, mà là khái niệm của ta về các vật thể cực vi. Đoàn biết rằng vật chất, không gian và thời gian liên hệ với nhau một cách mật thiết không thể tách rời ra khỏi nhau, và chàng tin rằng hình thái hiện hữu của chúng được quy định nhiều bởi nhận thức của con người. Ai cũng nghĩ rằng giữa quá khứ và tương lai có một lằn phân biệt: lằn phân biệt đó là hiện tại. Theo thuyết Tương đối của Einstein, hiện tại dài hay ngắn là tùy theo khoảng cách không gian giữa người quan sát và sự kiện xảy ra. Hiện tại do đó không nhất định phải là một khoảng thời gian ngắn ngủi của một phần trăm giây (hoặc một niệm hay một sát na theo danh từ của Tấn thường dùng) mà có thể kéo dài cả hàng năm, hàng chục năm hoặc hàng chục triệu năm. Đứng trên trái đất này ta thấy ngôi sao kia đang băng, nhưng đứng ở một nơi khác có thể là ngôi sao kia chưa băng hoặc đã băng từ hàng chục triệu năm rồi. Như vậy là cái hiện tại không những đã không có tính cách phổ quát mà lại còn có thể được đồng nhất với cái quá khứ hoặc cái tương lai nữa. Lĩnh vực nghiên cứu lâu nay của Đoàn là lĩnh vực lực học lượng tử (mécanique quantique). Chàng thấy trong thế giới vật thể cực vi, mỗi khi người ta cố mình định đích xác vị trí của một điện tử hoặc phân ranh không gian một cách chính xác thì người ta vấp ngay vào một sự bất định vô cùng tận về tốc độ cũng như về năng lực. La théorie des quanta a montré que quand on précise la position et qu’on délimite strictement l’escape, il en résulte une indétermination infinie de la vitesse ainsi que de l’impulsion et de l’énergie (1). Điều đó khiến cho người ta không thể diễn tả được bằng toán học một cách thỏa đáng những tác động hỗ tương của các vật thể cực vi. Trong lĩnh vực vật lý cực vi, tính cách của thời gian và không gian trở thành không chính xác, và lắm khi ta không thể phân định được đâu là quá khứ, đâu là vị lai nữa cả. Pour l’instant il faul se contenter de l’hypothèse que dans les domaines infinitésimaux de l’ordre de grandeurs des corpuscules, l’escape et le temp ont une imprécision particulière, ce qui veut dire que même les concepts d’avant et d’après deviennent indéfinissable pour des intervalles de temps aussi réduits (1). Các khoa học gia lại còn nói rằng lắm khi trong địa vức không – thời – gian của các vật thể cực vi, sự vật lại còn như đi ngược chiều thời gian, nghĩa là đi ngược cả tiến trình nhân quả nữa. Il faudrait compter avec la possibilité que des expériences concernant des processus dans des domaines infinitésimaux de l’escape-temps montren que certains d’entre eux se déroulent apparemment en sens inverse de l’ordre causal (1).
Đoàn có cảm tưởng mình vừa từ một giấc mơ này đi qua một giấc mơ khác. Trong gần tám năm trời, Thiều có mặt đó nhưng chưa bao giờ đứa con trai yêu quý của Đoàn trở nên hiện thực một cách thấm thía như bây giờ. Trong giờ phút này đây, Thiều không còn là đứa con của chàng nữa, mà là chính chàng. Đoàn thấy Thiều rõ hơn và do đó chàng cũng thấy mình rõ hơn. Những ảo tưởng về an ninh và thường còn chợt tan biến; hiện hữu và sinh mạng con người trở nên mong manh như sợi chỉ mành treo chuông. Quá khứ quả như một giấc mộng. Nhưng cái hiện tại phập phồng mà Đoàn đang sống đây sao lại không có thể là một giấc mơ?
Trong lòng Đoàn chợt nẩy sinh một thứ ước muốn mới mẻ và kỳ lạ: làm sao rũ bỏ được cảnh giới một để thoát được ra đến cõi thức tỉnh. Lần đầu tiên chàng nhìn thời gian và không gian như một cái lưới bủa vây và giam giữ lấy chàng. Tình trạng nguy kịch của Thiều từ trưa hôm qua đã làm cho Đoàn lo lắng khốn đốn đến phát điên. Nhưng cũng chính biến cố này đã mở toang được một cánh cửa mà từ lâu nay Đoàn chỉ thấy he hé khép. Biến cố tới giáng trên đầu chàng một đòn chí mạng: nó chỉ cho Đoàn thấy rằng cái thế giới của những khám phá khoa học mà chàng hé thấy trong sự nghiên tầm và quan sát có thể là hiện thực không kém cái thế giới sinh hoạt ăn ngủ giao tiếp hàng ngày của chàng. Lâu nay Đoàn tưởng mình mân mê những khám phá khoa học của chàng như người sưu tầm tem thơ chơi với tem thơ, như người họa sĩ chơi với màu sắc, như người thi sĩ chơi với hình ảnh và âm vận. Nhưng công trình nghiên cứu và hội thảo của chàng không hoặc chưa có ảnh hưởng thực sự nào đến đời sống thường nhật: ăn, ngủ, giải trí, giao tiếp, hạnh phúc gia đình, v.v… Trong khi đó Đoàn thấy rằng cái mà người ta thường gọi là “nhận thức thông thường” (le bon sens), cái nhận thức căn bản của đời sống giao tiếp hàng ngày, so với những nhận thức khoa học, đã chứng tỏ chứa đựng đầy dẫy những sai lầm và ảo tưởng. Những sự vật mà ta thấy, nghe, cầm, nắm hàng ngày, những sự vật mà ta cho là hiện thực một cách chắc chắn, tự nhiên trở thành những ảo tưởng khi ta đi sâu vào bản chất cực vi của chúng. Một khi đã vào thế giới cực vi và quan sát vật chất qua hai biểu tượng sóng và hạt của nó rồi thì ta không còn có thể nhìn sự vật hàng ngày như bình trà và trái cam như trước nữa. Chúng ta đã mất đi tính cách hiện thực tuyệt đối mà trước ta tưởng chúng có. Il faut considérer la matière sous ses deux aspects comolémentaires, onde et particule, etrenoncer à ces objects ou à ces choses don’t était constituée pour nous depuis toujours la nature. Câu nói đó của Alfred Kastler cũng là câu nói chung của người đã từng làm quen với phép lực học lượng tử (2).
Đi xa vào thế giới tinh tú, người ta cũng khám phá được tính cách ảo tưởng của nhận thức thông thường. Cái mặt trời đỏ chói kia sáng lạn trên đầu núi, ánh sáng của nó còn làm cho da mặt ta ấm áp thế này, ai ngờ nó đã lặn cách đây tám phút rồi. Mặt trời ta đang thấy không bao giờ là mặt trời của hiện tại cả. Ngôi sao kia mà nhà thi sĩ muốn gỡ ra để cài vào tóc người yêu có thể đã tắt ngấm hàng triệu năm về trước. Và dù nếu ngôi sao đó chưa tắt thì đầu tóc người yêu của thi sĩ cũng làm sao chịu nổi một khối lượng nặng và to lớn bằng mấy triệu lần trái đất? Thi sĩ mang đôi găng tay nào để gỡ ngôi sao ra khỏi nền trời mà không bị cháy tay? Thiều sanh năm 1972. Đứng tại thời điểm nào đó trong vũ trụ để quan sát thì có thể thấy rằng Thiều chưa sanh. Một ngàn năm sau đứng tại một địa điểm khác thì vẫn có thể thấy Thiều đang cười nói. Những điều đó có thể là những điều ngộ nghĩnh mà người khác có thể lặp lại trong lúc trà dư tửu hậu, nhưng đối với Đoàn, đó là những sự thực quan trọng phải được xác nhận. Những phát kiến lớn lao trong lĩnh vực các vật thể cực vi cũng như trong lĩnh vực thế giới thiên tượng đã làm cho những con người như Đoàn nhận thức được tính cách mê vọng của cái mà ta gọi là “nhận thức thông thường” trong cuộc sống thường nhật. Tuy vậy cuộc sống của nhân loại vẫn tiếp diễn trên căn bản cái “nhận thức thông thường” kia, và mọi khổ đau, mọi dằn vặt của kiếp người vẫn tiếp tục phát sinh trên cái căn bản nhận thức này.
Đạo Phật thường nói con người sống trong vô minh hoặc trong mê vọng, và phần lớn khổ đau đã phát sinh từ những vô minh và mê vọng đó. Đối với chân lý của vũ trụ, những khám phá của khoa học còn thật là nhỏ bé và khiêm nhượng. Tuy vậy những khám phá này cũng đủ để hé cho con người thấy được tính cách vô minh và mê vọng đó. Liệu khoa học có thể thực sự lay tỉnh được con người ra khỏi giấc mơ mê vọng không? Đoàn tin rằng khoa học có thể đóng góp rất nhiều trong nỗ lực đạt đến một cái nhìn càng lúc càng gần với thực tại, càng lúc càng xa mê vọng, cái nhìn mà Tấn ưa gọi là chính kiến. Đoàn chợt thấy rằng ước vọng của mình không khác mấy với ước vọng của Tấn: rũ bỏ được nhận thức mê vọng để được thênh thang tự do đi vào thế giới thực tại. Tấn thường nói đến giải thoát như là một trạng thái tâm linh. “Mình bị ràng buộc bởi chính nhận thức của mình”. Là khoa học gia, Đoàn rất ưa cái ý niệm sở tri chướng của đạo Phật. Cái sở tri của mình chính là chướng ngại cho sự tiến bộ của mình. Mỗi một phát minh mới trong lĩnh vực khoa học là một sự giải phóng của nhà khoa học đối với cái kiến thức khoa học cũ. Không có nấc thang này thì không thể leo lên nấc thang khác. Cái thế giới kỹ hà học của Euclide đã giam hãm bao nhiêu thế hệ học giả?
Giờ đây, Đoàn ngồi im lặng trong thư phòng nhà chàng như một đạo sĩ ngồi tĩnh tọa trên bồ đoàn. Nếu ai hỏi ước ao thâm trầm nhất của chàng lúc này là gì, có lẽ chàng sẽ nói rằng đó là một sự thức tỉnh. Tại sao không ước mong trở lại giấc mơ đầu tiên, tức là giấc mơ trong đó con chàng không có bệnh hoạn và chàng tiếp tục cuộc sống hàng ngày, chia thì giờ của mình cho sở làm và gia đình? Có thể đó là một giấc mơ êm đẹp, nhưng vẫn là một giấc mơ. Một giấc mơ được xây dựng trên “nhận thức thông thường”. Mà hễ có giấc mơ thứ nhất đó thì có giấc mơ hãi hùng thứ hai mà chàng đang trải qua, một cơn ác mộng mà cường độ đã suýt làm nổ tung cả bản thể chàng.
Đoàn chợt cảm thấy thần kinh mình êm dịu lại và chàng không khỏi lấy làm lạ. Suốt thời gian ngồi ở phòng sách, chàng vẫn có ý thức minh mẫn về tình trạng nguy cập của đứa con mình, nhưng chàng thấy chàng không còn hoảng hốt như trước. Chàng biết rằng thần kinh chàng êm dịu lại không phải là vì chàng đã trốn vào tháp ngà của những suy tư về khoa học để tìm sự lãng quên, như chàng đã thử tìm sự lãng quên trong hai viên thuốc ngủ. Chàng biết niềm lo âu của chàng lớn lao quá và chàng không thể nào đàn áp nó hoặc ru ngủ nó. Nó hung bạo như mặt biển trong một cơn phong vũ điên cuồng, không có gì để trấn áp. Vấn đề không phải là trấn áp mà là thăng vượt. Đột nhiên Đoàn nhận ra rằng những điều chàng phát kiến trong lĩnh vực nghiên cứu của chàng không phải chỉ là những ý tưởng. Chúng đã trở thành một phần của tâm não chàng. Chúng đã ăn sâu vào tim óc chàng và chính tim óc chàng đã dự phần vào sự đúc kết nên chúng. Đúng rồi, chúng đã trở nên cái vỏ ốc và cái lưới nhện của chàng. Chúng là thứ khí giới chiến đấu duy nhất mà chàng có thể có. Chính chúng đã đứng dậy với chàng trong cơn sóng gió. Sự phát kiến này đến với Đoàn nhanh như một làn chớp giật.
Đột nhiên, Đoàn ngồi ngay ngắn lại. Chàng bắt đầu thở những hơi thở thật dài và thật nhẹ. Chàng khao khát buông bỏ mọi kiến thức, mọi quan niệm để có thể được thực sự tự do. Chàng nhớ lại rằng đã nhiều lần chàng suy tư về cái chết, và chàng đã không xua đuổi ý niệm về cái chết khi nó lảng vảng trở về trong tâm trí, như nhiều người khác đã làm. Là người nghiên cứu về khoa Vật lý học nhưng Đoàn không thờ ơ về khoa Sinh vật học. Chàng chấp nhận dễ dàng thuyết tiến hóa và không hề thấy có một mặc cảm nào khi biết rằng loài người đã tiến hóa từ những loài sinh vật đơn tế bào như loại a-míp. Tiến hóa là sinh diệt nhưng đồng thời cũng là bất sinh bất diệt. Chàng mỉm cười nghĩ rằng từ con a-míp đến chàng, sự sống đã luôn luôn liên tục. Con a-míp kia chưa bao giờ chết, cũng như chàng, chàng chưa bao giờ chết. Chàng đã sinh ra từ lúc nào? Có phải là chàng đã bắt đầu hiện hữu cả trước những con a-míp đầu tiên trên trái đất, hiện hữu trong những điều kiện đã đưa đến sự tiến hóa thành những con a-míp. Chàng chưa bao giờ chết, từ hồi vô thỉ, thì làm sao một ngày kia chàng sẽ chết được. Có một lần Tấn nói với chàng rằng “sinh diệt là họa đốm giữa hư không”, chàng đã không hiểu Tấn nói gì. “Rien ne se crée, rien ne se perd”. Lavoisier nói về tính cách bất sinh bất diệt của các vật thể vô cơ, của vật chất và năng lực. Định luật của Lavoisier chàng thấy có thể áp dụng vào địa vức sinh vật hữu cơ: tất cả mọi loại hữu tình đều bất sinh bất diệt. Những biểu tướng sinh diệt của vật thể vô cơ nếu đã là “hoa đốm giữa hư không” thì tại sao những biểu tướng sinh diệt của các vật thể hữu cơ lại không là “hoa đốm giữa hư không”? Sự sống nơi chàng và nơi Thiều sẽ truyền đi, bất diệt. Dòng sông mãi mãi còn đó và những biểu tượng sinh diệt có tính cách “không hoa” của những giọt nước không hề làm suy suyển đến tính cách bất sinh bất diệt của dòng sông. “Không có gì sinh ra, không có gì diệt đi”. Lạ thay, ngôn ngữ của một nhà khoa học và ngôn ngữ của một nhà đạo học tại sao lại trùng nhau từng chữ như vậy? Bất Nhã Tâm Kinh đã chẳng nói “thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt đó hay sao?”.
Tới đây Đoàn chợt nhớ đã từng nghe một triết gia hiện đại nào đó khuyên người đừng nên thắc mắc rằng “ngày mai mình sẽ chết”. Triết gia kia nói: “Đời người được giới hạn trong không gian cũng như trong thời gian. Tôi không thể sống một lần ở khắp nơi trong vũ trụ được, tôi không biết đến thành phố Bắc Kinh nhưng tôi vẫn sống, và chấp nhận giới hạn của đời sống tôi trong không gian. Như vậy tại sao tôi lại không chấp nhận giới hạn của tôi trong thời gian? Đến năm 2000 thì trong tổng số những người hiện đang sống trên mặt đất sẽ chỉ còn một số người còn sống, và chẳng có ai đang sống bây giờ có thể sống tới năm 3000”. Đoàn không chấp nhận được sự cắt xén đó. Không có Bắc Kinh thì làm sao có được Princeton, bởi vì mọi hiện tượng liên hệ nhau mà hiện hữu, “cái này có cho nên cái kia có” (3). Ta liên hệ tới tất cả vũ trụ, có ta là có cả vũ trụ, ta sống với toàn thể vũ trụ, tại sao có thể cắt xén đi được? Ai bảo là trong mỗi hơi thở vào của tôi không có một vài phần tử không khí mà ngày xưa Jules César đã thở?
Về phương diện thời gian cũng thế, Đoàn thấy là mình cũng không thể giới hạn và cắt xén được thời gian. Đã sống, là sống tột cùng với thời gian vô thủy vô chung. Không có quá khứ thì làm gì có vị lai và hiện tại; không có vị lai thì làm gì có hiện tại và quá khứ? Hiện tại có phải là một cái mốc giả tạo để chia cắt thời gian làm hai phần quá khứ và vị lai? Chỉ vì ta vạch một đường phân chia trước mắt cho nên ta mới có hai bên tả hữu. Xóa bỏ đường phân chia thì làm sao còn tả và còn hữu? Tả hữu và trung ương, cũng như quá khứ, vị lai và hiện tại, có thể cũng chỉ là những biểu tướng sinh diệt che lấp thực tại bất sinh bất diệt. Đoàn chợt thấy là một khi mình đã hiện thể, mình chỉ có thể hiện thể cùng không gian vô cùng và thời gian vô tận mà thôi. Có phải ngục tù giam hãm nhận thức con người là những biểu tướng sinh diệt do chính nhận thức con người sáng tạo?
Những điều mà từ hơn một năm nay Đoàn đàm luận với Tấn đột nhiên mang lại một tầm quan trọng lớn lao vô cùng. Đoàn nhớ tới những điều Tấn nói liên hệ với óc “phân biệt biến kế”. Tấn nói chính nhận thức của mình cắt xén thực tại và phân chia thực tại thành sinh và diệt, một và nhiều, thường và đoạn, quá khứ và vị lai. Tấn đã nói với chàng về triết gia Long Thọ (4) với tác phẩm Trung Quán Luận của người, một tác phẩm chuyên sử dụng phép biện chứng để chỉ rõ sự vô lý của những quan niệm sinh và diệt, thường và đoạn, quá khứ và vị lai. Einstein trong thuyết Tương đối của ông đã chứng minh rằng quán tính (inertie) và trọng lực (pesanteur) là một. Thời gian và không gian cũng đã được xem như không phải là hai. Vật chất và năng lượng cũng không phải là hai. Và Đoàn hiện có khuynh hướng cho rằng sóng và hạt rốt cuộc cũng không phải là hai. Chướng ngại trên đường đi, theo chàng, là cái biến kế phân biệt của nhận thức. Nó cắt xén thực tại, tạo ra ảo tưởng về sinh diệt trên bình diện biểu tướng.
Có lần Tấn đã vừa cười vừa nói với Đoàn rằng cái thế giới vật thể cực vi của Đoàn chỉ là một thế giới ma quái. Đoàn đã trả lời rằng chàng tin những “con ma” trong thế giới đó có thực. Dù sao cũng nhờ đi vào thế giới đó mà những nhà khoa học như Đoàn phát giác ra được tính cách ảo hóa của thế giới vật thể mà con người tiếp xúc bằng cảm quan trong đời sống thường nhật. Nhờ đi vào thế giới đó mà chàng mới biết được rằng cái “nhận thức thông thường” của con người đầy dẫy ảo tưởng. Những khám phá của khoa học vật lý trong vòng năm mươi năm nay đã đủ để cho ta thấy được điều đó. Đi vào thế giới vật lý cực vi mà còn mang theo nhận thức phân biệt biến kế đã từng sử dụng trong thế giới vật thể thông thường thì sẽ không thấy, không hiểu được gì. Cho nên chàng đã từng nói: phải bỏ lại cái lề lối nhận thức hàng ngày trước khi khởi hành đi vào thế giới vật thể cực vi.
Tuy Đoàn và nhiều đồng sự đã đồng ý về điểm đó, trong nhiều năm nay các khoa học gia vẫn còn đứng ở trong một cái thế giới kẹt lớn. Chàng nhớ rằng nội cuộc cãi vã về “sóng và hạt” cũng đã kéo dài có tới gần hai chục năm trời. Đoàn cho rằng sở dĩ các nhà khoa học gia còn kẹt là tại vì họ chưa rũ bỏ được nhiều những lề thói nhận thức thông thường. Dù rằng bây giờ ít ai còn có ảo tưởng muốn “miêu tả” các vật thể cực vi bằng hình ảnh thị giác, nhưng những khái niệm như hạt và sóng vẫn còn là những khái niệm hoàn toàn đối lập và nhận thức của nhà khoa học vẫn còn kẹt vào “nhị kiến” nghĩa là cái nhìn phân biệt ra từng cặp đối lập. Cái nhìn nhị kiến đã bắt đầu nứt rạn đối với các hiện tượng có biểu tướng đối lập như vật chất và năng lực, quán tính và trọng lực, thời gian và không gian, không gian vật chất, sóng và hạt,… nhưng vẫn còn nguyên vẹn đối với các biểu tướng tâm và vật, chủ thể và đối tượng. Hơn nữa sự rạn nứt đó chưa đủ để phá tan cái nhìn nhị kiến. Một mặt công nhận tính cách bất nhị của thời gian và không gian, mặt khác lại vẫn đi tìm cái khởi thủy và cái giới hạn của vũ trụ: hai điều đó thì làm sao phù hợp với nhau được? Những giả định về thuyết Big Bang, những đàm luận về thuyết vũ trụ phình giãn (dilatation) hoặc về giới hạn của vũ trụ, há không phải trái chống với lập trường “thời – không phị nhị” hay sao?
Gần đây Đoàn lại nghe một vài lý thuyết gia khoa học đàm luận về thời gian bên trong các hố đen (black holes) và bên trong các vật thể cực vi. Làm như thế là các loại thời gian ấy là những hiện tượng hoàn toàn khách quan không liên hệ gì tới nhận thức. Thời gian chỉ có tính cách địa phương, và sở dĩ như thế là vì nó là một phương trình của nhận thức. Không gian, theo chàng, cũng có tính cách địa phương. Thuyết Tương đối cho biết vật chất và không gian là đồng thể, đồng thời cũng cho biết thời gian không độc lập ngoài không gian. Như vậy cả ba thứ thời, không và vật dưới nhận thức phi nhị kiến có thể chỉ là đồng thể. Tuy nhiên chúng không phải là một thực tại độc lập với nhận thức: phá bỏ nhận thức nhị kiến, sự đối lập tâm và vật không còn tồn tại.
Các nhà khoa học đã gần như đồng thanh mà lên tiếng: tự thân của các vật thể cực vi ra sao, ta không thể nào biết được; chỉ có thể quan sát các vật thể đó qua nhận thức con người mà thôi. Bất cứ cuộc quan sát nào về các vật thể cực vi cũng đều làm sai lệch hoặc biến đổi đối tượng quan sát, vì vậy cái mà ta gọi là thực tại khách quan ta không bao giờ đạt đến được. Đoàn nghĩ rằng sở dĩ như vậy là tại sự quan sát đã được đặt trên nền tảng nhị kiến: ở đây đối tượng quán sát hoàn toàn độc lập với chủ thể quán sát. Khởi thủy sai lầm thì cứu cánh phải sai lầm. Tấn nói rằng trong đạo Phật danh từ quán sát không được xem trọng bằng danh từ quán niệm hoặc danh từ thể nhập: trong khi thể nhập, sự phân biệt chủ thể đối tượng không còn. Cái kẹt lớn nhất của khoa học có thể nằm tại điểm đó, Đoàn nghĩ.
Các nhà khoa học đã thoáng thấy được sự vô vọng của sự sử dụng khái niệm để miêu tả các vật thể cực vi và hành tung của các vật thể này. Họ có một nẻo thoát: đó là ngôn từ toán học. Nhưng ngôn từ này lại hoàn toàn trừu tượng. Hơn thế nữa, Toán học lại cũng chỉ là một sáng tạo ước lệ của trí óc con người; nó diễn tả cái nhận thức của tâm trí con người về các vật thể nhiều hơn là diễn tả tự thân của vật thể. Nói tóm lại là đi tới đâu con người cũng chỉ đối diện với chính mình.
Nếu có Tấn ở đây chắc Tấn đã kêu gọi tới cái nhận thức gọi là vô phân biệt trí của đạo Phật. Vô phân biệt trí là cái nhận thức không bị cái nhìn nhị kiến về chủ thể và đối tượng gò ép sai sử. Đoàn không biết khi đạt tới cái nhìn ấy thì người ta phải dùng thứ ngôn ngữ nào để diễn tả cái thấy của mình. Cố nhiên là không thể dùng những hình ảnh và khái niệm dựa trên nhị kiến. Cố nhiên là ngôn ngữ đó trở thành khó hiểu đối với những kẻ chưa bao giờ thoát ra cái nhìn nhị kiến. Ngôn ngữ đó có thể bị người đời cho là bí hiểm. Cái liên thể thời không (continuum d’espace-temps) và cái vũ trụ bốn chiều (l’univers à quatre dimensions) của Einstein, các thực thể vừa là hạt vừa là sóng của các nhà cực vi vật lý học phải chăng là những khái niệm mới dùng để đánh đổ những khái niệm nhị kiến cổ điển?
Tuy nhiên Tấn bảo rằng đạo Phật phá cái nhìn nhị kiến không phải để đi đến cái nhìn nhất kiến. Đã có một thì phải có hai, có ba. Vậy cái nhìn nhất kiến cũng không phù hợp với thực tại. Thực tại không phải là một cũng không phải là hai, “phi nhất phi dị”. Điều này sẵn sàng chấp nhận. Chàng cũng thấy rằng các cặp hiện tượng sóng và hạt, thời gian và không gian, v.v… tuy không phải là hai nhưng cũng không hẳn là một. Sự thực nằm ở đâu đó trên một con đường trung đạo.
Tấn có nói rằng để đánh đổ các khái niệm nhị kiến và biến kế, đạo Phật đã trình bày khái niệm vô ngã, tháo tung mọi biên giới chia cách giữa vật thể, chia các không gian và thời gian. Những quan hệ trắc bất chuẩn (relations d’indétermination) của Heisenberg há không phải là một thứ dụng cụ nhằm phá vỡ thói quen miêu tả thực tại bằng những biểu thị có tính cách quyết định (représentations déterministes) hay sao? Cái nền đạo học thiền học chủ trương phá bỏ thứ ngữ ngôn văn tự phát xuất từ biến kế ấy cũng đã dựng ra thứ ngữ ngôn văn tự của chính mình. Thì khoa học đã không đang dựng ra thứ ngôn ngữ riêng biệt của khoa học hay chăng?

*     *    *

Đoàn thong thả đứng dậy. Nhìn qua cửa sổ chàng thấy nắng chiếu rực rỡ ngoài vườn. Lá cành thấp thoáng. Chàng khao khát được đi ra vườn giữa những thân cây khỏe mạnh. Nỗi lo âu của chàng, chàng biết nó vẫn còn nguyên vẹn, nhưng chàng cảm thấy lòng chàng bình tĩnh hơn và chàng có nhiều nghị lực hơn. Nghĩ đến Tuyết, chàng thấy lòng tràn ngập một niềm thương. Tuyết hiện cũng đang chiến đấu như chàng với cảnh ngộ. Cảnh ngộ bên ngoài cũng như cảnh ngộ nội tâm. Hai thứ cảnh ngộ mà thật ra chỉ là một. Nhớ tới đêm qua, Đoàn chợt rùng mình thấy rằng trong cơn hiểm nguy, mình chỉ là một cành sậy mong manh phất phơ trong cơn gió dữ. Chàng biết là chàng sẽ đau xót cùng cực nếu con chàng không qua khỏi tình trạng hiểm nghèo này. Nhưng chàng cũng biết là từ đây, chàng có một khả năng chịu đựng lớn lao hơn. Chỉ trong một đêm một ngày, chàng đã thay đổi. Sự thay đổi vừa xảy ra có thể đã là sự thay đổi lớn lao nhất trong đời chàng. Chàng có cảm tưởng là giờ đây chàng có thể lấy chàng làm chỗ tựa cho Tuyết. Một cành sậy thì không có thể làm chỗ tựa cho bất cứ ai. Nhưng chàng đã không còn là một cành sậy. Cũng như Tuyết, cũng như Tấn, chàng đã được trang bị trên phương diện tâm linh để đối phó với những cuộc giông bão của cuộc đời. Chàng cũng đã phát giác ra cái vỏ ốc do chính tâm não và huyết mạch chàng tạo dựng.
Nghĩ tới đây, Đoàn đã ra tới vườn cây. Đoàn nhận ra lâu nay mình đã bị thế giới vật thể cực vi thâu hút và đã ít khi được nắm tay Thiều đi chơi trong khu vườn mát mẻ và rộng rãi này. Cố nhiên là chàng đã từng cùng Tuyết và Thiều đi dạo nhiều lần trong vườn cây, nhưng những lúc ấy, lòng chàng đã không hoàn toàn có mặt trong vườn cây với Thiều và Tuyết. Bây giờ đây, chàng biết mình thực sự có mặt. Đoàn ước ao giờ này có mặt Tuyết và Thiều ở bên cạnh chàng. Chàng đã thực sự đi vào thế giới vật thể cực vi, và nhờ đó chàng đã thực sự trở về thế giới của Thiều và của Tuyết.

*     *     *
Nhìn lại đồng hồ tay, Đoàn thấy đã một giờ hai mươi phút. Chàng rời khu vườn, chầm chậm bước vào nhà. Vừa tới phòng khách, chàng bỗng nghe tiếng chuông cổng. Nhìn ra ngoài, Đoàn thấy Tấn. Chàng quay lại, mở cửa bước xuống con đường trải sỏi. Đoàn biết ngay rằng người mà chàng có thể cởi mở nỗi lòng bây giờ là Tấn. Trong khi chờ ngoài cổng, Tấn thấy Đoàn bước từng bước chậm rãi trên lối đi trải sỏi. Phong thái của Đoàn thật nghiêm nghị, nhưng quanh đầu chàng như tỏa hào quang. Tấn lấy làm lạ. Một biến cố lớn lao nào vừa tới với Đoàn, Tấn cảm thấy như thế. Nhưng chàng quên rằng một biến cố lớn cũng vừa mới xảy đến cho chàng. Và cả hai đều không biết rằng chính cậu bé tám tuổi kia đã gây nên những thay đổi đó. Một mũi tên của Thiều bắn đi đã trúng một lần hai cái đích.

(1) Werner Heisenberg, La Nature dans la Physique contemporaine, Gallimard 1962.
(2) Alfred Kastler. Cette étrange matière, Stock 1976.
(3) “thử hữu cố bỉ hữu” Kinh A Hàm.
(4) nagarjuna, tăng sĩ Phật giáo Ấn Độ, thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, tác giả Madhyamika Sastra.

Tố

Tố ngừng thổi sáo vì nó biết nó đang khóc. Một giọt nước mắt lăn trên gò má nó, đi qua vành môi, rồi thấm vào miệng nó, mằn mặn. Con bé đặt ống sáo xuống đùi, cầm lấy chéo áo bà ba đưa lên chùi nước mắt. Lau nước mắt xong, Tố lại mỉm cười. Rừng buổi sáng mát mẻ quá. Tố nghe tiếng lá thì thào. Nó biết nếu nó không mù thì bây giờ ngẩng lên nó sẽ trông thấy những chiếc lá đang vẫy tay gọi nó. Bây giờ là giữa mùa xuân, lá đang non, và ánh sáng Mặt Trời tháng tư đang đi xuyên ngang những tờ lá xanh non ấy mà tìm tới hai mắt Tố. Tố biết tuy mình bị mù, ánh sáng dịu dàng đó cũng vẫn đi tới tận mắt mình. Tố quên mất màu xanh non ấy rồi vì nó đã bị mù từ sáu tháng trước. Tố cũng quên mất vẻ mặt của ba nó, bởi vì ba nó đã chết cách đây hai năm rồi. Riêng vẻ mặt của má nó thì Tố còn nhớ, bởi vì đêm nào trước khi đi ngủ nó cũng đưa hai bàn tay lên mà rờ rẫm khuôn mặt của má nó, rờ rẫm để mà khám phá lại, cũng là để ôn lại cho đừng quên, những đường nét quen thuộc. Những đường nhăn trên mặt bà, Tố thấy mỗi ngày như mỗi sâu đậm thêm.
Tố mới có chín tuổi, nhưng nó thổi sáo rất hay. Chính ba của Tố đã dạy cho Tố thổi sáo. Ba Tố là một tiều phu sống ở ven rừng. Ông chỉ có một mình Tố là con nên ông thương yêu Tố rất mực. Hồi ông còn sống, Tố sung sướng lắm. Nó được đi học ở trường xóm Thượng. Buổi sáng nào hai cha con cũng chia tay ở ngã ba dưới chân đồi. Ba Tố xách rìu lên rừng, còn Tố theo con đường mòn vượt thêm hai cánh đồi nữa để xuống xóm Thượng. Tố xách theo một chiếc cặp gỗ trong đó có cuốn tập của Tố, bút mực, bút chì, gôm, và cái ống sáo mà ba Tố đã dạy cho Tố làm. Cô học trò ôm cái cặp gỗ dưới cánh tay mặt. Tay trái cô xách bình mực tím. Bình mực tím đậy nút chai rất kỹ, đong đưa dưới sợi dây mà Tố móc vào ngón tay trỏ của mình.
Chiếc cặp gỗ của Tố nhẹ lắm, bởi vì ông Ba đã dùng những tấm ván rất mỏng để đóng cho Tố. Ba Tố không dùng một chiếc đinh nào. Ông chỉ dùng tòan những cái chốt gỗ. Cái cặp của Tố đã lên màu đen bóng, có nhiều chỗ thấm đen vì vết mực mà Tố đã làm đổ trên đó. Ống sáo của Tố cũng đã lên nước. Ống sáo này làm bằng cây trúc lấy ở trên rừng. Tố đã lấy lá chuối khô đánh cho ống sáo mình thật bóng.
Vào khoảng hai giờ trưa thì Tố đi học về. Tố được má cho ăn cơm. Ba của Tố mãi đến bốn giờ chiều mới gánh củi về tới nhà. Ăn cơm xong hai cha con rủ nhau xuống bờ suối hay lên bìa rừng chơi. Mỗi tuần đến ngày thứ tư là có phiên chợ xóm Hạ. Ba má Tố và Tố đẩy một xe củi xuống tận chợ để bán. Họ khởi hành từ sáng sớm. Đi tới xóm Thượng thì Tố mỏi chân. Ba Tố ngừng lại để cho Tố leo lên ngồi trên những bó củi. Tại chợ, bán củi xong, mẹ Tố đi mua gạo, mắm và quà cho Tố. Khoảng một giờ trưa thì họ vừa về tới nhà. Má Tố đi nấu cơm. Tố đã được ăn quà trên đường về cho nên Tố không đói. Tố không đợi cơm. Tố đi ra bìa rừng chơi.
Nhà Tố là một căn nhà gỗ dựng bên mé đồi không xa ven rừng. Có một con suối chảy ngang dưới đồi, cách nhà chừng ba trăm thước. Tố rất ham chạy chơi nhởn nhơ bên bờ suối. Nhiều lúc Tố hái được những bông hoa thật lạ thật đẹp, những bông hoa mà Tố không biết tên.
Ấy vậy mà ba Tố chết. Ba Tố chết vì người ta bắt ông đi lính đánh giặc. Ông đi lính chưa đầy một năm thì chết. Ngày được tin ba Tố chết, má Tố gào khóc thảm thiết. Hồi ấy Tố mới bảy tuổi, Tố chưa biết được một cách tường tận thế nào là chết. Thấy má lăn lộn gào thét, Tố rất đau lòng. Nó tới ôm lấy má nó. Hai má con ôm lấy nhau. Tố biết ba nó không bao giờ trở về nữa. Ba nó chết rồi. Chết như một con chim. Tố đã gặp một con chim chết bên bờ suối. Con chim không cựa quậy. Nó nằm xuôi xị, không biết gì, không nghe gì, không thấy gì. Lâu ngày con chim mục nát thành đất. Sau không hiểu thấy được thế nào là chết, Tố thấy buồn. Cái buồn thấm dần, thấm dần vào người nó, vào tim nó, vào óc nó. Ba Tố chết, ba Tố đang mục nát dần dần để thành đất. Ba Tố không còn trở về mỗi chiều với một gánh củi trên vai. Ba Tố không còn đi chơi với Tố ở cửa rừng, bên bờ suối. Ba Tố sẽ không còn bao giờ cười đùa với Tố, bế xốc nó lên, nhìn vào mắt nó. Tố thiệt là buồn. Càng lúc cái buồn càng trở thành sâu đậm trong lòng Tố.
Từ ngày ba mất, Tố phải ở nhà, trong coi việc nhà cửa bếp núc. Nó biết thổi cơm, lặt rau, làm thức ăn. Má nó phải lên rừng làm củi thay ba nó. Gánh củi của má Tố nhỏ hơn, nhẹ hơn, bởi vì sức bà yếu hơn. Tố nấu cơm chờ mẹ về. Hai mẹ con ăn cơm xong, Tố được đi xuống suối chơi. Hoặc Tố lên bìa rừng chơi. Tố đem theo ống sáo. Ngồi ở ven rừng, Tố thổi sáo. Tố thường hay đến ngồi ở chỗ ngày xưa hai cha con nó hay ngồi để thổi sáo. Nó thổi những khúc mà cha nó đã dạy cho nó hồi xưa.
Những lần thổi sáo một mình như vậy, Tố hay buồn. Cái buồn như cái càng con cua, nó kẹp Tố vào giữa. Tố đau lắm. Nó không muốn thổi những khúc sáo mà ba nó đã dạy hồi xưa nữa. Nó thổi những hơi sáo do nó tự chế ra. Lần hồi nó chế ra những khúc sáo hoàn toàn mới lạ. Thổi lên những khúc sáo này, Tố thấy trong người khỏe khoắn ra. Trái tim nó không còn đau nhói như bị cái gọng kềm của con cua siết chặt lại nữa. Nó có khóc thật, nhưng nước mắt làm cho trái tim nó thư thái hơn, bớt thổn thức hơn. Chắc rằng nước mắt đó từ trong trái tim trào ra; nước mắt làm cho trái tim đau nhức, càng khóc thì trái tim càng nhẹ nhàng.
Có một hôm nó đang say mê thổi sáo thì một chiếc máy ba sà ngang khu rừng. Máy ba bay gần quá khiến cả khu rừng chuyển động. Máy bay bay sát ngọn cây, Tố ngửng nhìn lên: nó thấy một đám bụi màu trắng đục đang sà xuống. Nó không biết đó là thuốc khai quang từ máy bay đang rải xuống. Thuốc khai quang rơi vào mắt nó, mũi nó. Sặc sụa, nó nằm ngả xuống úp mặt trên đất rừng ẩm thấp, ngất đi.
Một giờ đồng hồ sau, má của Tố tìm thấy Tố, ôm xốc Tố về. Lay gọi mãi không thấy Tố tỉnh lại, bà hối hả chạy về xóm Thượng gọi cô y tá. Khi bà và cô y tá trở lại thì Tố đã tỉnh và đang gọi mẹ. Cô y tá chích cho Tố một mũi thuốc khoẻ. Tố kêu nhức mắt và không thấy đường. Cô y tá lấy bông gòn nhúng thuốc rửa mắt cho Tố, nhưng Tố vẫn không bớt đau nhức. Cô y tá ra về, hẹn ngày mai trở lại. Khi cô trở lại thì hai mắt Tố đã sưng húp lên. Cô bàn với má Tố chở Tố đi nhà thương quận. Nhà thương cách xóm tới hơn một ngày đường. Tại nhà thương, bác sĩ chịu thua, bó tay. Tố bị mù từ dạo ấy.
Một đứa bạn học của Tố tên là Mai nghe Tố bị mù đã từ dưới xóm Hạ tìm lên thăm Tố. Mai lớn hơn Tố một tuổi. Tóc Mai cắt ngắn chứ không buông dài trên vai như tóc Tố. Mai cầm lấy tay Tố. Hai đứa ngồi thút thít khóc. Mai ra về, hứa sẽ thỉnh thoảng trở lại thăm Tố. Nhưng đó là lần thăm chót. Gia đình Mai đã dời đi phương khác tìm cách sống.
Đã quen với công việc nhà, Tố tiếp tục coi sóc nhà cửa cho má trong khi bà làm củi trên rừng. Tố quét nhà, vo gạo, nấu cơm, Tố nhặt được cả rau nữa. Mỗi buổi chiều, khi má ở rừng về, Tố đã lo xong cơm nước. Hai mẹ con ăn cơm với nhau. Rồi má Tố đi dọn dẹp chén bát. Tố đi xuống ngồi dưới tảng đá bên suối. Hoặc Tố đi lên ven rừng.
Ngồi bên bờ suối hoặc bên ven rừng, Tố nghe được nhiều thứ tiếng mà trước kia nó không nghe, có lẽ vì trước đây nó thiếu chú ý. Thính giác của Tố trở nên tinh vi hơn. Nước suối chảy róc rách như người nói chuyện và ca hát. Nghe tiếng nước chảy có khi tố cảm thấy cây lá quanh mình Tố đang đứng dậy nhảy múa linh động. Tố lại thấy cả ánh sáng nhảy múa nữa. Có lúc nghe tiếng gió rù rì trong cây, Tố thấy hàng vạn bàn tay đưa lên xôn xao vẫy Tố. Ngồi trong rừng, lưng dựa vào một thân cây, ban đầu Tố có cảm giác rừng là một cung điện thâm u, im lặng. Nhưng ngồi lâu thì Tố nghe đủ mọi thứ âm thanh. Tố cảm thấy sự có mặt của hàng ngàn hàng vạn loài sinh vật đang chung sống với nhau, loài nào yên phận theo loài ấy. Dưới thảm rêu, trong lòng đất, trên vỏ cây, nơi nào cũng có những sinh vật đang dùng âm thanh để báo hiệu cho Tố biết sự có mặt của chúng. Tố đã nghe hàng trăm tiếng chim, và mỗi tiếng chim truyền đi một tình cảm hoặc một dấu hiệu tâm ý khác nhau. Và để trả lời các sinh vật muốn làm quen với mình, Tố nâng ống sáo lên thổi.
Từ hôm bị mù, gần như ngày nào Tố cũng thổi sáo hoặc bên bờ suối, hoặc tại cửa rừng. Má Tố không muốn cho Tố đi sâu quá vào rừng, sợ máy bay lại rải thuốc khai quang lần nữa. Bà dặn hễ nghe tiếng máy bay thì Tố phải lập tức đi ra khỏi rừng.
Tố nghĩ hình như trời sinh ra Tố là để cho Tố thổi sáo. Tùy theo những cảm nghĩ của mình, Tố làm ra âm điệu để thiết lập cảm thông với mọi loài. Có một lần Tố thổi sáo để trả lời một con chim lạ mà Tố không biết tên. Không biết tên nhưng khi nghe tiếng chim, Tố hình dung ra một con chim đuôi dài có bộ lông màu vàng rất mướt, có cái lông trắng trên đầu và một cặp mắt thật tinh anh, một cái đầu hất nghiêng nhìn bên này lại nghiêng nhìn bên kia không bao giờ biết mỏi. Con chim hót một hồi rồi nín bặt. Tố cầm ống sáo lên thổi, nói chuyện với chim. Khi Tố ngưng thổi, con chim lại lên tiếng. Tố biết nó trả lời Tố. Con chim bộc lộ với Tố sự ngạc nhiên và nỗi vui mừng của nó. Tố cũng nói cho chim biết tâm sự của mình, và cuối cùng đã đùa nghịch với chim và nhại lại giọng chim bằng tiếng sáo. Khi buông ống sáo xuống, Tố cười lên như một bông hoa nắc nẻ.
Con chim trở lại suốt chín hôm liền, nói chuyện với Tố. Sau đó, không biết con chim đi đâu. Từ đó nó không còn trở lại nữa. Những lúc nâng ống sáo lên mà tâm hồn thấm thía nỗi buồn, Tố thường bắt đầu bằng một điệu sáo mơ hồ, than thở nhẹ nhàng với loài côn trùng dưới đất. Giọng sáo của Tố hòa trong âm điệu trùng điệp của lá cành, của tiếng thì thào không biết xuất phát tự nơi nào, và của những tiếng nỉ non của các loài sinh vật ẩn náu dưới đám lá mục phủ trên mặt đất. Rồi Tố quên đi là mình đang thổi sáo. Tố cảm thấy mình là một sinh vật nhỏ sống trong rừng cùng với hàng ngàn hàng vạn loài sinh vật khác; tiếng sáo của Tố là tiếng nói tiếng kêu của Tố đang hòa theo tiếng nói và tiếng kêu của mọi loài. Tố thấy mình là rừng, là cây, là rêu cỏ, là lá cành, là gốc rễ, là ánh sáng nô giỡn trên lá non. Niềm đau của Tố như tan biến, bởi vì Tố không còn chỉ là Tố. Những lúc đó, nước mắt của Tố trào ra và Tố cảm thấy khỏe khoắn, nhẹ nhàng. Nước mắt thấm như nắng mùa xuân và cũng mát mẻ như nước suối ngọt chảy dưới chân đồi nhà Tố. Sáng hôm ấy, sau khi đặt ống sáo xuống bắp đùi và kéo chéo áo bà ba lên lau khô nước mắt, Tố lại mỉm cười. Trong suốt mấy tháng trời, thuốc khai quang đã làm cho tất cả lá trên khu rừng gần nhà Tố rụng hết. Nhưng trời đã mưa suốt một mùa đông. Nước mưa đã gội sạch cho khu rừng và lá xanh đã mọc trở lại trên cành. Tố biết điều đó. Nó không cần nhìn bằng mắt mà cũng thấy được sự có mặt của lá. Những loài côn trùng dưới đất và trên cây cũng đã trở về sinh hoạt trở lại. Khu rừng đã khôi phục được sức sống cố hữu của nó. Tố cũng vậy. Suốt một tháng nay, không ngày nào mà Tố không lên rừng. Bỗng nhiên Tố ngỡ ngàng. Nó biết là có một người đứng trước mặt nó, và người đó đang quan sát nó. Mải mê hòa mình trong sự sống của khu rừng, Tố đã không nghe bước chân của người kia. Nhưng bây giờ thì người kia đã tới trước mặt Tố. Hơi thở của người đó rất nhẹ và thơm. Chỉ từng đó cũng đủ cho Tố cảm thấy sự có mặt của người đó là một sự có mặt dễ chịu. Chưa bao giờ Tố từng đối diện với một người mà hơi thở nhẹ nhàng và tinh khiết như người đang đứng bây giờ trước mặt Tố.
– Ai đó, Tố hỏi, giọng của nó thì thào như một hơi gió thoảng. Người đó không trả lời.
– Ai đó, tên là gì, ở đâu tới vậy? Tố lại lên tiếng.
Người trước mặt trả lời, giọng ngập ngừng:
– Thạch Lang, tôi tên là Thạch Lang, từ … trên núi xuống.
Giọng của Thạch Lang nghe nhẹ như mây khói. Giọng của Thạch Lang còn chứa đầy bỡ ngỡ, lạ lùng, không khác mấy với giọng con chim đã từng đối thoại với Tố ngày xưa. Thạch Lang chỉ nói có mười hai tiếng ngập ngừng, nhưng từng đó đủ để cho Tố hình dung được người đối diện: Thạch Lang là một người con trai, khoảng mười một hay mười hai tuổi, khuôn mặt thanh tú, tròn đầy như một trái xoài, và hai con mắt trong xanh như da trời mùa hạ. Tố có cảm tình ngay với người bạn mới. Nó chỉ tay xuống gốc cây, gần chỗ nó ngồi:
– Thạch Lang, anh ngồi xuống đây.
Thạch Lang ngồi xuống. Tố hỏi tiếp:
– Nhà anh ở đâu? Trên núi hả?
Người con trai yên lặng. Một lát sau, Tố lại hỏi:
– Anh mấy tuổi rồi, mười một tuổi phải không?
Thạch Lang đáp:
– Tôi không biết tôi mấy tuổi. Chắc là tôi … nhiều tuổi lắm.
Tố bật cười, quay sang làm dấu cho Thạch Lang tới gần, và đưa hai tay lên rờ mặt Thạch Lang. Đúng là một khuôn mặt trái xoài, mát như suối mùa hè. Tóc của Thạch Lang khá dài, buông xõa trên trán và phía sau chạm gáy. Thạch Lang để yên cho Tố khám phá những đường nét trên mặt mình. Rờ mặt và tóc của Thạch Lang xong, Tố cười:
– Đúng như Tố đã nghĩ. Anh khoảng mười một tuổi, nhiều lắm là mười hai. Nói cho Tố biết là nhà anh ở đâu đi, và ba má anh làm gì. Em tên là Tố, em ở với má em. Nhà ở gần đây lắm.
Thạch Lang lại lặng thinh. Người con trai này ít nói quá. Con người của Thạch Lang hình như chứa đầy chất thơ dại và bỡ ngỡ. Thạch nói là nhà Thạch ở trên đỉnh núi. Thạch Lang không muốn nói nhiều. Thôi thì như vậy cũng đủ, mình đừng nên hỏi thêm nữa, Tố nghĩ vậy, và im lặng ngồi bên cạnh người bạn mới.
Bỗng Thạch lên tiếng:
– Chị thổi sáo nữa đi.
Tố cười:
– Thạch Lang đừng gọi Tố là chị. Tố mới có chín tuổi, đáng là em của Thạch Lang. anh nói lại đi, rồi em sẽ thổi sáo cho anh nghe. Anh nói: “Em Tố thổi sáo cho anh Thạch Lang nghe đi”.
Thạch Lang lặp lại đúng lời Tố nói:
– Em Tố thổi sáo cho anh Thạch Lang nghe đi.
Tố cười khanh khách, khen Thạch “giỏi lắm”, và nâng ống sáo lên thổi.
Chưa bao giờ tiếng sáo của Tố vui vẻ và thảnh thơi như vậy. Tố thấy lòng mình lâng lâng như đám mây trên trời, đám mây bay cao trên nắng và trên gió. Trong phút chốc, rừng cùng Tố bay cao, trở thành đám mây. Tiếng sáo của Tố như một chiếc ghe lớn chở bềnh bồng cả một mùa xuân trên trái đất. Tố không còn biết là mình mù hai mắt. Tố không còn nhớ là ba mình đã chết. Tố trở về trạng thái nguyên sơ. Tố như đang chạy chơi trên đồi, nắm tay ba nó, cười vang. Này là tiếng suối reo như nắng mùa xuân; này là tiếng chim ca như ngọc rơi bàn thạch; này là tiếng gọi tha thiết của núi rừng, của đồi nương, quen thuộc như tiếng má của Tố gọi Tố về mỗi buổi chiều để đi rửa chân bên ảng nước trước khi thắp đèn ăn cơm tố. Bên cạnh Tố, Thạch Lang ngồi im lặng nghe. Nước mắt Tố lại trào lên rồi, chắc Thạch Lang đã nhìn thấy. Tố ngừng thổi. Tố lại đặt ống sáo xuống đùi. Tố lại lấy chéo áo bà ba lau nước mắt. Tố lại nhoẻn cười. Thạch Lang vẫn không nói gì. Chắc Thạch Lang cũng vui như mình, Tố nghĩ. Nhưng Tố vẫn nói:
– Tố khóc, nhưng Tố không buồn đâu, anh Thạch Lang vui, Tố vui lắm.
Thạch lên tiếng:
– Tại sao mấy hôm trước Tố không thổi sáo vui như hôm nay? Mấy hôm trước Tố thổi sáo buồn lắm.
Không trả lời Thạch, Tố hỏi lại:
– Mấy hôm trước anh Thạch Lang ở đâu mà nghe được Tố thổi sáo?
– Thì Thạch Lang ở trên đỉnh núi ấy. Tiếng sáo của Tố hôm nào cũng lên tới đỉnh núi.
– Đỉnh núi xa không anh? Tiếng sáo của Tố làm sao leo lên được tới đỉnh núi hả anh?
– Tiếng sáo của Tố bay được cả lên mây nữa. Hôm nào anh Thạch Lang cũng nghe rất rõ.
– Anh Thạch Lang, anh gọi Tố là em đi. Và xưng anh với Tố đi.
– Từ, hôm nào anh cũng nghe tiếng sáo của Tố rất rõ.
Tố rất bằng lòng. Thạch Lang nói được thêm một câu thì hình ảnh của Thạch Lang trong trí tưởng của Tố lại rõ ràng thêm lên một chút. Tại trường học xóm Thượng, Tố có nhiều người bạn, cả trai lẫn gái, nhưng chưa có ai lạ lùng như người con trai ngồi bên Tố lúc này. Thạch ít nói, nhưng không phải là người con trai nhút nhát. Thạch Lang không vồn vã, nhưng con người của Thạch chân thành và thuần hậu. Chắc là Thạch Lang chưa từng đi học. Chắc là Thạch Lang chưa từng có bạn. Chắc đây là lần đầu Thạch Lang bỏ nhà trên đỉnh cao mà xuống núi. Tố vừa nghĩ tới đó thì Thạch nói:
– Thạch Lang nghe tiếng sáo của Tố cho nên Thạch Lang tìm xuống với Tố. Thạch Lang đã đi hai ngày mới xuống tới chỗ Tố ngồi.
Đi hai ngày? Như vậy thì nhà của Thạch Lang xa lắm? Tố không ngờ tiếng sáo của Tố bay đi xa như thế. Tiếng sáo của Tố đã gọi tới cho Tố một người bạn. Người bạn mới của Tố giống hệt như một tờ giấy trắng, một tờ giấy trắng tinh chưa có nét chữ nào, chưa có nét vẽ nào. Ngồi bên cạnh Thạch Lang, Tố không dám cử động mạnh. Tố cũng không dám nói cười vồn vã như là Tố đã từng nói cười với mấy đứa bạn học ở xóm Thượng. Không phải là Tố sợ Thạch Lang. không, Tố không sợ Thạch Lang. Tố chỉ kính trọng Thạch Lang thôi. Tố kính trọng Thạch Lang như là kính trọng một tờ giấy trắng. Tố không dám vạch lên tờ giấy đó những nét chữ hoặc những nét vẽ thiếu cẩn trọng. Tự nhiên Tố thấy mình trở thành ít nói, giống như Thạch Lang. Hình như Thạch Lang cũng biết như vậy. Bởi vì sau đó, Tố nghe Thạch Lang nói với Tố:
– Tố kể chuyện dưới này cho Thạch Lang nghe đi.
Tố lại muốn được Thạch Lang gọi bằng em, nhưng mà Tố không dám nhắc. Tố bắt đầu kể chuyện ba má Tố, đời sống của Tố, những đứa bạn học của Tố. Rồi kể đến chuyện trường học, cô giáo, chợ búa và dân cư xóm Hạ. Tố kể thong thả, thỉnh thoảng dừng lại để cắt nghĩa những chữ mà Tố có cảm tưởng là Thạch Lang chưa hiểu, hoặc không quên. Hình như Thạch Lang biết ít lắm. Cả chữ “chợ” mà Thạch Lang cũng không hiểu là gì. “Chợ là một khoảng đất rộng, nơi đó người ta tụ tập để mua bán. Ai có gì thì đem bán ở đó, như là rau, củi, cá, gạo, vân vân. Ai thiếu gì thì tới đó để mua”. Thỉnh thoảng, Thạch Lang cũng bảo Tố ngừng lại để hỏi một vài điều chưa rõ. Tố có cảm tưởng mình là cô giáo. Tố dạy cho Thạch Lang được rất nhiều chuyện.
Trời đã trưa. Tố hẹn chiều nay sẽ kể chuyện tiếp về xóm làng cho Thạch Lang nghe. Bây giờ Tố mời Thạch Lang về nhà Tố. Tố còn phải làm cơm cho má. Tố nắm tay Thạch Lang. Hai đứa đi ra khỏi rừng, tìm về căn nhà bên sườn đồi. Tố líu lo nói cho Thạch Lang nghe, chỉ cho Thạch thấy những cây cối và những dụng cụ quen thuộc ngoài sân và trong nhà. Tố gọi tên những thứ ấy. Thạch Lang là một chú bé sáng dạ, Tố nghĩ. Nghe qua một lần là Thạch Lang nhớ, không bao giờ Thạch Lang hỏi lại lần thứ hai.
Tố hỏi bạn đã đói bụng chưa, Thạch Lang làm như không biết đói bụng là gì và ăn cơm là gì khiến cho Tố bật cười. Nhưng mà Tố đã dắt Thạch vào bếp. Tố đi lấy nồi, vo gạo, nấu cơm. Rồi Tố đi ra vườn hái rau. Tố biết Thạch Lang đang quan sát mình. Lúc đầu, Tố hơi mất tự nhiên. Thạch Lang tới giúp Tố lặt rau, rửa rau. Chẳng mấy chốc, cơm đã chín.
Hai đứa ra ngồi ngoài bậc cửa để đợi má của Tố về. Thạch Lang bảo Tố nói thêm cho mình nghe về chuyện ba Tố đi lính và chuyện Tố bị thuốc khai quang làm cho mù mắt.
Rồi má của Tố về. Tố đem Thạch Lang tới giới thiệu với má và nói hết cơ sự, thành ra Thạch Lang khỏi phải nói năng gì cả. Má của Tố cũng có hỏi cậu bé sơ qua gốc tích của cậu, nhà cửa ở đâu và cha mẹ làm gì. Thấy cậu bé ngập ngừng, bà ngỡ là Thạch Lang cũng có một tâm trạng đau buồn như con mình, nên bà không hỏi nữa. Bà cho rằng gia đình cậu bé cũng từng là nạn nhân cho cuộc chiến tranh dai dẳng và tàn ác. Bà rửa tay và bảo hai trẻ vào ăn cơm.
Tố biết là Thạch Lang ăn rất ít, và Thạch Lang nhìn mình để làm giống như mình. Tố xin má cho Thạch Lang ở nhà mình. Má của Tố rất hoan hỷ thấy con mình có được một đứa bạn hiền lành và dễ thương. Cơm nước xong, bà bảo hai trẻ xuống bờ suối chơi.
Ngồi bên bờ suối, Tố bảo Thạch Lang nói cho mình nghe về những sự vật mà Thạch Lang nhìn thấy quanh mình. Ban đầu cậu bé ngập ngừng nhưng sau đó cũng thong thả nói. Cậu bắt đầu nói về màu trời, những đám mây, rồi cậu nói tới mành xanh đậm của khu rừng trước mặt. Mặt Tố sáng rỡ lên. Thạch Lang nói tới đâu thì Tố hình dung sự vật rõ tới đó, giống hệt như Tố đang nhìn ngắm cảnh vật bằng hai con mắt mượn của Thạch Lang. Mỗi khi cậu bé ngập ngừng tìm tiếng nói, Tố lập tức nói lên đúng tiếng mà Thạch Lang muốn dùng. Cứ như vậy cho đến khi cậu bé tả được rành mạch những chi tiết của cảnh vật xung quanh. Tiếng nói của cậu bé có khi trong và vui như tiếng nói của loài chim, có khi trầm như tiếng của lòng đất, có khi lại bay bổng như ngọn gió, có khi lại phơn phớt như sương mù. Hoàng hôn đã xuống. Thạch Lang ngồi lặng thinh. Tố đem ống sáo ra thổi. Tố nghĩ tới chim, tới đất, tới gió, tới sương mù. Tố có cảm tưởng là mình đang ngồi với Thạch Lang trên một mỏm núi, lẫn khuất trong sương.
Má của Tố ra gọi hai trẻ về. Bà thắp đèn, dọn cơm. Ăn cơm xong, bà thu xếp làm cho Thạch Lang một cái giường. Lần đầu tiên trong đời, Tố có một người bạn ngủ lại nhà của Tố.
Buổi sáng Tố và Thạch Lang thức dậy như hai con chim non. Tố rủ Thạch Lang ra vườn và dạy Thạch Lang chơi trò “đi trốn tìm”. Cậu bé tham dự vào các trò chơi của Tố với tất cả sự hồn nhiên. Rồi hai đứa nhào lăn trên cỏ, giữa muôn ngàn bông hoa vàng tím lấm tấm trên sườn đồi. Một lát sau, Thạch Lang rủ Tố xuống đồi ngồi nghe tiếng suối. Hai đứa ngồi nghe suối nói rất lâu. Rồi Thạch Lang nhìn trời, nhìn đất và nói cho Tố nghe những gì mình trông thấy trong buổi sáng mùa xuân tươi mát. Sáng nay cậu bé nói giỏi lắm rồi, không còn vấp váp như ngày hôm qua nữa. Tố sung sướng ngồi nghe. Nó rất ưa giọng nói của Thạch Lang. Nghe Thạch Lang nói, Tố tưởng như đất trời trực tiếp nói chuyện với mình. Tố nghĩ tiếng nói của Thạch Lang không còn là tiếng nói của một người nói với một người. Đó là tiếng của chim, của cây, của gió, của trời và của mây nói thẳng với Tố. Thạch Lang im lặng lâu rồi mà Tố vẫn còn nghe tiếng nói của đất trời tiếp tục bên tai. Có Thạch Lang bên mình thì Tố tuy không có hai mắt mà cũng như là có hai mắt.
Trưa hôm ấy ăn cơm xong, má của Tố đem vải nâu và kim chỉ ra may cho Thạch Lang một bộ đồ bà ba. Cậu bé đã có thể nói chuyện tự nhiên với mẹ của Tố. Bắt chước Tố, Thạch Lang cũng gọi bà Ba là má. Má của Tố rất bằng lòng, và Tố cảm nhận được điều này trong giọng nói của bà. Bà bảo sáng ngày mai ba mẹ con sẽ đi chợ bán củi và mua gạo. Vui quá, đi chợ thì Tố sẽ có dịp chỉ cho Thạch Lang biết bao nhiêu là điều mới lạ. Thạch Lang sẽ nhìn cho cả hai người và Tố sẽ nói cho bạn nghe những gì Thạch Lang trông thấy.
Sáng ngày mai, trên đường xuống chợ, Thạch Lang và Tố đi sau để đẩy xe. Má Tố đi phía trước. Hai tay bà vịn hai càng xe, vai bà quàng một cái đai buộc vào thành xe. Bà chúi mình về phía trước để kéo, chống chân mà bước để cho xe đi tới. Có hai đứa trẻ phía sau, xe củi hôm nay đi tới một cách nhẹ nhàng. Như kỳ trước không có Thạch Lang, Tố luôn đi sau một mình để đẩy xe giúp má.
Trên con đường từ xóm Thượng xuống xóm Hạ, Tố nói tíu tít. Tố bảo Thạch Lang nhìn sang bên phải, rồi nhìn sang bên trái, rồi bên phải, và hỏi Thạch Lang xem cậu bé có thấy ngôi nhà này, cây mít kia và vườn dâu nọ hay không. Nhờ vậy mà đi đến đâu Tố biết mình đi đến đó. Chẳng mấy chốc mà họ đến chợ xóm Hạ. Đây là một cái chợ xép, tuy vậy người mua bán khá đông, có cả trên một trăm người. Thạch Lang bận quan sát nên ít nói, làm Tố nhắc mãi. Bán được củi, má của Tố mua gạo, mua muối, một chai nước mắm và một mớ cá tương con còn sống. Mớ cá này được gói trong một tờ lá chuối. Má Tố lại mua cho Thạch Lang và Tố mỗi đứa một cái bánh cam và hai cái bánh ít. Bà bảo hai đứa trẻ chất tất cả những thứ ấy lên xe và đứng đợi bà trong khi bà đi mua một ít dầu hôi về thắp đèn. Rồi bà cầm cái chai đựng dầu đi về phía tiệm chạp phô.
Hai đứa trẻ ngồi dưới gốc cây điệp gần ngay chiếc xe bò chở củi. Chúng lấy bánh ra ăn, sung sướng được cùng ăn bánh với nhau tại ngoài chợ. Mới ăn được một cái bánh cam và bắt đầu ăn tới một cái bánh ít thì Tố nghe tiếng súng nổ phía ngoài chợ và tiếng kêu “đánh nhau, đánh nhau”. Cả chợ náo động. Tiếng đạn bay vèo vèo. Thiên hạ bỏ gánh bỏ gồng chạy hỗn loạn. Tố kéo Thạch Lang nép vào gốc cây điệp. Hai đứa nằm sát xuống đất. Tiếng người lớn và trẻ con gọi nhau ơi ới. Bỗng Tố nghe một tiếng nổ ầm ngay phía giữa chợ. Tiếng nổ lớn quá làm rung chuyển cả trời đất. Tiếng gạch đất vang rào rào bốn phía. Gạch đất rơi ào ào cả trên cây điệp và trên đầu hai đứa. Có tiếng nhiều người kêu thét và rên la. Tố biết là đạn biệt kích đã được bắn vào giữa chợ. Tiếng súng hai mặt rền lên. Chết rồi, má của Tố bị kẹt rồi, có thể là má Tố chết rồi. Tố la lên: “Má ơi! Má ơi!” và run rẩy ôm chặt lấy Thạch Lang. Cậu bé hình như không biết sợ sệt là gì. Cậu ngồi dậy, đỡ Tố ngồi dậy và nói: “Tố đừng khóc, Tố đừng la, má không sao đâu. Tố ngồi yên đây để Thạch Lang đi tìm má”. Nói xong Thạch Lang đứng dậy định đi. Bỗng có tiếng đạn bay vèo vèo trên đầu, tiếp theo là một tiếng nổ kinh hoàng khác. Tố vội kéo Thạch Lang ngã xuống, Tố nằm nép sát đất và lấy tay dúi Thạch Lang nằm sát xuống đất. Tiếng nổ lần này cũng làm rung động cả đất trời như tiếng nổ lần trước. Tiếp đến là tiếng ào ào, loảng xoảng và gạch đất lại bay tung tóe. Tiếng người kêu thét lại nổi lên. Rồi tiếng chân người rầm rập chạy lại. Tiếng súng phía đồn im hẳn. Hai đứa bé nằm im như những khúc gỗ. Rồi Tố nghe tiếng nổ lép bép và tiếng gió u u. Tố hỏi nhỏ Thạch Lang xem cậu bé nhìn thấy gì. Thạch Lang bảo người ta đang đốt những dãy nhà hai bên chợ và lửa đang bốc cháy hừng hực. Thạch Lang lại cho Tố biết có nhiều người cầm súng đang bắt trói những người không có súng và áp giải đi.
Hai đứa nằm im thin thít trong một lúc khá lâu. Bây giờ chúng nó chỉ nghe có tiếng tre nứa nổ lốp bốp, tiếng lửa cháy phần phật và tiếng rên la của những người trúng đạn. Thạch Lang bảo Tố:
– Có những người kêu khóc tội nghiệp lắm, ta tới giúp gì cho họ đi.
Tố nắm lấy tay Thạch Lang lại:
– Khoan đã, anh Thạch Lang. Anh nhìn xem những người cầm súng có còn đó hay không đã.
Thạch Lang nói:
– Họ đi hết rồi. Bây giờ trong chợ chỉ có những người bị thương chạy không được mà thôi.
Nghe cậu bé nói thế, Tố vội chồm ngay dậy. Nó bảo cậu bé dắt tay nói đi tới nơi có những người đang kêu khóc. Vừa lúc đó, năm bảy người dân làng đã từ những nơi ẩn nấp khác trở lại. Họ tìm cách cứu chữa những người bị thương. Họ khiêng những người bị thương về trạm y tế xã. Thạch Lang cho Tố biết có những người đứt tay, dập chân, bể mặt hoặc nát đầu. Có những đứa trẻ con nằm trên vũng máu.
Người trong làng tìm ra chợ càng lúc càng đông hơn. Bây giờ đã có đến gần hai chục người. Trong khi họ chở những người chết và người bệnh về trạm y tế, hai đứa trẻ đi tìm má. Chúng nó tìm tới tiệm chạp phô ở cuối xóm. Tiệm chạp phô không còn nữa. Tiệm chạp phô bây giờ chỉ là một đống tro âm ỉ cháy. Thạch Lang nói cho Tố nghe những gì cậu trông thấy.
– Má ơi, má ơi – Tố khóc rưng rức – ai có thấy má tui ở đâu không, chỉ giùm tui, tội nghiệp.
Mấy người đàn bà gần đó nhìn hai đứa trẻ, lắc đầu. Thạch Lang nói với Tố:
– Mấy bà này không thấy má. Hình như họ cũng đang đi tìm người quen. Thôi chúng ta đi nơi khác tìm má.
Tố chỉ dẫn cho Thạch Lang đi vòng quanh xóm để tìm má. Thạch Lang dắt Tố đi. Tố không nhìn thấy cảnh vật xung quanh mình, nhưng Tố nghe được tất cả những vẻ tiêu điều của thôn xóm. Trời mùa xuân mà rời rã, ảm đạm. Không có tiếng trẻ em chơi đùa, không có tiếng người lớn chuyện trò, thăm hỏi. Hễ nghe có tiếng chân người là Tố ngừng lại, hỏi:
– Thưa bác, bác có thấy má cháy ở đâu không?
Ai cũng trả lời là không trông thấy. Trong số những người chết và bị thương ở ngoài chợ không có má Tố. Vậy má Tố ở đâu? Khi trở về tới chợ, hai anh em đến hỏi thăm từng người. Tại đây một người nói có trông thấy má Tố. Đó là một bà cụ trên bảy mươi. Bà nói:
– Tao thấy má con Tố xách chai dầu hôi từ trong tiệm chạp phô đi ra. Nó chạy về phía chợ. Lúc đó đạn trái phá đã nổ rồi.
Đó là mảnh tin tức độc nhất mà hai đứa lượm được về má chúng. Những người đàn ông có mặt ở chợ lúc đó nói rằng những người cầm súng đã bắt và dẫn đi nhiều người đàn ông trong làng. Má của Tố đâu phải là đàn ông, họ bắt bà đi làm chi? Hai đứa lại tiếp tục đi vòng trong xóm. Chúng tìm vào từng nhà để hỏi và để tìm má chúng. Chúng không bỏ qua hốc nào, kẹt nào trong xóm. Chúng vẫn không tìm ra được má chúng.
Trời đã tối rồi, bây giờ hai đứa phải đi ngủ lại. Tố bảo Thạch Lang trở về gốc cây điệp tìm lại mấy cái bánh ít. Hai cái bánh ít chưa ăn vẫn còn nguyên vẹn trên chiếc xe củi. Ăn bánh xong hai đứa leo lên xe ngủ. Đêm đó trời lạnh. Có cây điệp che phía trên thành ra sương ít xuống, tuy vậy hai đứa vẫn cảm thấy lạnh quá. Chúng nằm co quắp bên nhau.
Sáng ngày mai, khi thức dậy, Tố nghe có tiếng nhiều người ở chợ. Nó biết Thạch Lang đã thức dậy và ngồi trên chiếc xe quan sát. Thạch Lang cho nó biết là có rất nhiều người mang súng đang đứng nói chuyện với những người trong làng, hết chỉ trỏ cái này rồi chỉ trỏ cái khác. Tố biết đó là quân đội từ trên quận đi xuống. Nó leo xuống xe và nói với cậu bé:
– Anh Thạch Lang, mình tới nhờ họ đi tìm má.
Thạch Lang leo xuống.
Hai đứa tìm tới một ông lính. Tố thưa với người lính:
– Thưa ông, nhờ ông tìm má cháu giùm cho cháu.
Thạch Lang đỡ lời Tố:
– Thưa ông, em cháu không thấy đường. Nó bị mù hai mắt. Hôm qua chúng cháu từ xóm Thượng xuống đi chợ với má. Trong khi hai bên đánh nhau, chúng cháu lạc mất má chúng cháu rồi.
Thạch Lang nói những lời trên rất trôi chảy và lễ phép, khiến cho cả Tố cũng phải ngạc nhiên. Tố không nghe người lính trả lời. Ông ta bước tới gần một người lính khác và thì thào. Người lícnh này có giọng nói oai vệ hơn. Ông ta hỏi tên của má Tố. Tố đáp:
– Thưa ông, má cháu tên là bà Ba Tý, làm nghề đốn củi, nhà ở gần rừng Đại Lão, thuộc xóm Thượng.
Người lính này, mà Tố đoán là một vị chỉ huy trưởng, quay lại hỏi chuyện những người dân làng về má Tố. Những người này nói rằng má Tố không có trong số những người chết và bị thương trong trận đánh hôm qua. Chắc là má Tố đã bị áp giải đi với quân tấn công rồi. Người lính quay lại khuyên hai đứa trở về nhà mà đợi má. Ông nói:
Hai đứa cứ về nhà đi. Khi nào có tin tức má thì các bác ở đây sẽ báo cho mà biết.
Ngoan ngoãn, Thạch Lang và Tố đi về phía cây điệp. Cậu bé đi trước để kéo xe. Tố đi sau để đẩy. Hai đứa tìm đường về xóm Thượng.
Xe không có củi nên nhẹ. Hai đứa không còn nói năng vui vẻ như khi đi. Chẳng mấy chốc chúng về tới xóm Thượng. Thạch Lang nhớ đường rất giỏi. Cậu bé không cần hỏi Tố mà tìm đúng được con đường đi từ xóm Thượng về cánh đồi sát rừng Đại Lão.
Khi hai đứa về tới nhà thì trời đã đứng bóng. Thạch Lang ôm xuống những thứ mà bà Ba Tý đã mua hôm qua tại chợ và thong thả leo lên đồi vào nhà. Bé Tố ủ rũ đi sau. Hai đứa vào tới nhà. Căn nhà vắng bóng bà Ba có vẻ trống lạnh quá đối với Tố. Tố hỏi Thạch Lang có đói bụng không để nó đi nấu cơm. Thạch Lang trả lời là không. Hai anh em ra ngồi ở bậc cửa, ngó mông lung ra ngoài. Hai đứa không nói với nhau lời nào.
Thạch Lang rủ Tố xuống bờ suối chơi. Nó bảo Tố đem cái ống sáo theo. Tố không có lòng nào để thổi sáo nhưng nó chiều theo ý của cậu bé.
– Mấy con cá chắc chết hết rồi. Tố nghe Thạch Lang nói như thế. Nó bảo Thạch Lang mở gói lá chuối ra xem. Cậu bé đi tìm một cái chậu, đổ đầy nước và bỏ mớ cá vào. Một lúc sau, nó nói với Tố:
– Cá chết hết rồi Tố ạ. Chỉ còn có hai con còn sống. Hai con nhỏ tí. Một con màu hồng, một con màu bạc. Chúng ta đem chúng nó ra sông suối mà thả, nhé Tố.
Hai đứa đi xuống suối. Thạch Lang bưng chậu cá, còn Tố xách ống sáo. Tới nơi, cậu bé bụm hai tay lại để bắt hai con cá còn sống. Nó quỳ xuống bên bờ cỏ và thả chúng xuống suối.
– Anh đã thả hai con cá xuống suối rồi, Tố.
Tố hình dung ra hai con cá nhỏ xíu, một con màu hồng, một con màu bạc, đang sung sướng lội đi. Môi nó thoáng một nụ cười nhưng mà nụ cười của nó tan biến ngay sau đó. Ngồi trên một tảng đá bên bờ suối, nó nghĩ tới những gì đã nghe trưa ngày hôm qua tại chợ xóm Hạ. Tiếng khóc thét của trẻ em, tiếng rên la của người lớn. Nó đã không nhìn bằng mắt nhưng nó thấy cảnh tưởng những đứa bé như nó cụt tay, nát đầu, gãy chân, cảnh tượng những người lớn lòi ruột, nằm chết giữa chợ, cảnh tượng xóm làng tan hoang với những căn nhà bốc lửa. Nó nghĩ tới má nó bây giờ hai tay bị trói, đang bị những người cầm súng dẫn đi. Thạch Lang ngồi im trên bờ có lẽ cũng đang nghĩ tới những cảnh tượng đó. Bây giờ nó với Thạch Lang ngồi đây, không biết bao giờ mới có hy vọng gặp lại má. Có thể người ta sẽ giết má nó chăng. Có thể má nó sẽ chết như ba nó chăng, chết như một con chim ngoẻo đầu, hai chân chim co quắp như hai cánh tay người, bên cạnh một bụi cây gai nào đó trong rừng, như nó đã trông thấy? Nghĩ đến đó, Tố cảm thấy có một cái gì đè nặng trên ngực nó khiến nó thở không nổi. Nó muốn òa lên khóc, nhưng mà nó không òa lên được. Tảng đá trên chỗ nó ngồi bỗng nóng bỏng giống như một cục lửa. Nó thấy ngợp thở, giống hệt như mỗi khi nó lặn quá lâu dưới nước.
Vừa lúc đó, nó bỗng nghe Thạch Lang cất tiếng hát: tiếng hát của Thạch Lang thật là lạ kỳ, thật là vi diệu. Chưa bao giờ nó nghe một thứ tiếng trang nghiêm dường ấy. Tiếng hát ban đầu như một sợi khói mỏng bốc lên từ mái nhà tranh khi má nó nấu cơm chiều. Sợi khói này tỏa ra chiều ngang, lơ lửng trên không rồi đột nhiên xòa cánh rộng như một con chim đại bàng bay liệng trong khoảng trời bát ngát, không có ngằn mé. Đột nhiên con chim đại bàng vỗ cánh; gió vi vút nẩy sinh ở trên cao, gọi mây bốn phương về quy tụ lại trên đỉnh đầu. Những đám mây năm màu chói lọi đến chắp cánh với nhau, nhảy múa. Tố nghe có tiếng vi vút như tiếng hàng vạn cây thông reo lên đỉnh núi, rồi tiếng thì thào mơ hồ như tiếng mưa bụi theo gió Xuân về lất phất vào những cành tơ liễu bên bờ hồ. Rồi Tố nghe tiếng rộn rịp của những bước chân trẻ em: một đoàn con nít mặc áo đủ màu cầm tay nhau nhảy múa trên đồi cỏ.
Cảm giác nặng nề trên ngực Tố đã biến mất. Nó cảm thấy hơi thở của nó được khai thông. Nó cảm thấy tâm hồn nó êm dịu lại và tảng đá trên chỗ nó đang ngồi đã trở thành một đám mây, bay phiêu diêu trong không gian. Rồi bỗng nhiên nó có cảm tưởng một cái gì rất lạ lùng vừa xảy tới. Nó nghe như có tiếng hàng vạn cánh chim bay liệng trên trời. Đúng rồi, có tiếng chim kêu trên không gian, không phải tiếng kêu của một con chim hay năm bảy con chim mà là tiếng kêu của hàng vạn con chim cùng một lúc. Bây giờ cái âm thanh mà nó đang nghe không còn là tiếng hát của Thạch Lang nữa. Thạch Lang hình như đã lặng tiếng. Bây giờ Tố chỉ nghe có tiếng chim kêu và tiếng cánh chim xôn xao. Theo nhận xét của Tố thì bây giờ trên trời có đến hàng vạn con chim, và có lẽ là tất cả chim chóc trên rừng đã bay về rợp cả khung trời trên đầu hai đứa.
Chính vào lúc đó, nó nghe tiếng Thạch Lang:
– Tố có biết là chim trên rừng bay về nhiều lắm không?
Tố trả lời:
– Dạ biết. Chim ở đâu bay về nhiều thế hả anh Thạch Lang? Tại sao vậy anh?
– Anh cũng không biết tại sao chim bay về nhiều như vậy. Chắc là tất cả chim trên rừng đều bay về đây. Chim che kín cả trời. Anh đang hát thì chim đến.
Đột nhiên Tố nghe một tiếng chim quen thuộc. Con chim hình như bay thấp lắm, ngay trên đầu hai đứa. Nó buông ra một tràng âm thanh như một chuỗi ngọc sáng ngời treo lơ lửng giữa không gian. Tố nhận ra đó là con chim ngày trước đã từng trả lời tiếng sáo của mình. Nó nâng vội ống sáo lên và gọi chim. Tiếng sáo của Tố buồn như một buổi chiều tím. Tất cả đàn chim gồm hàng vạn con đều lặng lẽ lắng nghe, trong khi cánh vẫn không ngừng bay lượn. Tố đem tất cả những đau buồn của mình, gửi vào tiếng sáo. Nó năn nỉ đàn chim đi bốn phương trời tìm giùm má nó. Tiếng sáo trở nên thiết tha, van lơn, khẩn cầu, bay vút lên cao rồi lại dập dìu trầm xuống. Bây giờ đàn chim bắt đầu bay tứ tán. Trong phút chốc, chỉ còn con chim màu vàng, đuôi dài và trên đầu có mấy cái lông trắng xòe ra là còn bay quanh quẩn. Sau khi trút ra một tràng âm thanh dòn dã nữa, nó liệng cánh vút theo những con chim khác vào rừng.
Bây giờ là khoảng hai giờ chiều. Thạch Lang và Tố còn ngồi bên bờ suối. Đàn chim đã bay đi hết, hai đứa chỉ còn nghe được những âm thanh quen thuộc mọi ngày. Sau một lúc im lặng, Tố lên tiếng hỏi Thạch:
– Anh Thạch Lang, anh có thấy con chim liệng gần trên đầu chúng mình hay không? Con chim nó trả lời lại tiếng sáo của Tố đó, hả anh? Lông nó vàng mướt, có phải không?
– Đúng rồi, lông nó vàng mướt. Đuôi nó dài, xòe ra, và trên đầu có một túm lông trắng. Tố có quen con chim đó hả?
– Tố chưa từng thấy con chim đó. Tố chỉ mới nói chuyện với nó trên rừng thôi, bằng ống sáo, cách đây chừng hơn một tháng. Tố nói chuyện với nó đã chín lần rồi. Tố chỉ nghe tiếng nó hót nhưng Tố đoán rằng nó có bộ lông màu vàng rất mướt, một cái đuôi dài, và khi đậu trên cành thì hai mắt nó láo liên hết nhìn bên này lại nhìn bên kia không ngớt. Anh Thạch Lang, anh hát hay quá. Tố chưa bao giờ nghe ai hát như vậy. Hồi đó Tố đã bắt đầu nghẹt thở rồi mà nghe tiếng anh hát Tố thấy khỏe liền. Tiếng hát của anh như là có thể đuổi đi được một cơn giông bão đó anh. Hồi nãy nếu anh không hát thì có lẽ bây giờ Tố đã chết rồi.
Tố lặng yên. Thạch Lang cũng lặng yên. Một lúc sau, Tố lại hỏi:
– Ai đã dạy cho anh hát vậy, hả anh Thạch Lang?
– Anh ở trên đỉnh núi, lâu lắm. Anh nghe tiếng gió, tiếng mây, tiếng sương, tiếng mưa và nhiều thứ tiếng khác nữa, rồi lâu ngày, tự nhiên anh hát được. Anh chỉ hát những lúc trời rất nặng và rất thấp, những lúc trời đất bứt rứt khó chịu, những khi mây đen sa xuống thấp và trời đất như muốn nổ tung ra. Em nói đúng đó. Anh có thể hát để đuổi được một cơn giông tố. Còn em, ai dạy cho em thổi sáo mà em thổi hay như vậy, buồn như vậy? Có phải là má em dạy không?
– Không, má không dạy, má chỉ sanh ra em thôi. Ba thì ngày xưa có dạy, nhưng ba chỉ dạy Tố thổi một ít bài dân ca đồng ruộng và núi đồi mà thôi. Tố cũng như anh. Tố thổi sáo được là vì Tố đã từng ngồi lắng nghe các thứ tiếng: tiếng cây, tiếng gió, tiếng suối, tiếng chim. Nhưng mà tiếng hát của anh lạ lắm, anh Thạch Lang ơi. Nó làm cho Tố khỏe trong người. Nó làm cho Tố sống lại. Anh hát làm sao mà tất cả chim trên rừng đều bay về liệng trên đầu anh, lạ quá.
Thạch Lang lặng thinh. Một hồi sau cậu bé mới nói:
– Có phải là em đã nhờ bọn chim đi tìm má phải không? Chúng nó nghe lời em, nhưng chúng có biết mặt má đâu mà tìm? Em và anh phải đích thân đi tìm má mới được.
Tố ngước mắt, lóng tai:
– Anh nói anh với em đi tìm má hả? Biết má ở đâu mà đi tìm bây giờ?
– Thì đi tìm như hôm qua mình đi tìm ở xóm Hạ đó. Chúng minh sẽ đi cùng khắp hết đất nước, ở đâu mình cũng phải tìm cho đến. Cuối cùng mình cũng sẽ tìm ra được má. Không lý chúng mình cứ ngồi chờ ở đây mãi mãi hay sao?
Tố bỗng thấy Thạch Lang có lý. Mình phải đi tìm má. Mình phải lặn lội, dù phải vượt núi qua đèo. Một tháng tìm chưa ra thì hai tháng. Một năm tìm chưa ra thì hai năm. Phải tìm cho ra má. Tố có cảm tưởng là tìm ra được má thì mọi chuyện đâu sẽ vào đấy hết. Tất cả những đau thương hãi hùng mà mấy hôm nay hai đứa phải chịu đựng đều là do không có má. Tìm được má thì mọi sự sẽ an lành, trẻ em sẽ không còn bị tan xương nát thịt, người lớn sẽ không còn bắn giết lẫn nhau, nhà cửa xóm làng sẽ không còn bị lửa đạn tàn phá. Đúng rồi, nó với anh Thạch Lang của nó sẽ lên đường đi tìm má. Nó hỏi:
– Bao giờ thì chúng mình đi hả anh?
– Chúng mình nên đi ngay bây giờ. Tố biết không? Hai con cá hồi trưa, một con màu hồng, một con cá màu bạc, chúng đã đi tìm má của chúng rồi. Ta cũng phải đi tìm má của ta thôi.
Tố đứng dậy. Thạch Lang đứng dậy. Hai đứa đi lên đồi, vào nhà. Tố lấy một cái đãy vải, bỏ vào đấy gạo, muối, hộp diêm, một cái nồi nhỏ, hai đôi đũa, hai cái chén, một cái ca múc nước. Nó đưa cái đãy cho Thạch Lang vác trên vai. Nó lấy một sợi dây cột ống sáo vào ngang lưng. Nó lại mang theo cái áo mưa cũng bằng vải cao su mà ông Ba ngày xưa thường hay đem theo lên rừng. Hai đứa khép cửa nhà lại, và lên đường.
Thạch Lang và Tố hướng về xóm Thượng. Ngừng lại trước trường học, chúng hỏi thăm về bà Ba Tý, nhưng ở đây không ai biết được tin tức gì của bà. Chúng lại đi về xóm Hạ. Ở đây có nhiều lính tráng đứng canh gác. Những đống tro than ngày hôm qua giờ đây vẫn còn ngún cháy. Cảnh tượng hoang tàn. Thạch Lang cho Tố biết là dân làng đang lo dọn dẹp những hỗn độn gây ra do trận đánh ngày hôm qua. Hai đứa dừng lại để hỏi han. Vẫn không có ai biết tin tức gì về má chúng. Hai đứa lại kiên nhẫn đi vòng trong vòng ngoài của cả xóm để tìm tòi và hỏi han. Cũng không có ai thấy gì hoặc nghe gì về ba Ba Tý. Cuối cùng hai đứa ra khỏi xóm Hạ.
Ra khỏi xóm Hạ, Tố không biết đường sẽ dẫn đi đâu. Thạch Lang cũng vậy. Hai đứa chỉ biết đi, không chú ý đi về phương nào. Có đường là đi. Đi để tìm má, vậy thôi. Chúng không biết là cái làng kế cận ở cách đó bao nhiêu dặm đường.
Hai đứa đi băng qua nhiều ngọn đồi và nhiều cụm rừng. Trời xẩm tối rồi mà chúng nó chưa thấy một cái nhà hoặc một cái quán nào. Phía trước còn là đồi và rừng. Hai đứa dừng chân trên một cái cầu gỗ bắc qua một con suối, và ngồi xuống thành cầu, đong đưa hai chân cho đỡ mỏi. Tố bảo Thạch Lang đi kiếm ba cục đá và một nắm củi để nó nấu cơm. Nó mở đãy, xúc gạo và nồi cho Thạch Lang đi vo ở dưới suối. Rồi nó lấy hộp diêm nhúm lửa.
Khi cơm chín thì trời đã tối hẳn. Một cái mặt trăng không đầy hiện ra ở trên trời. Đối với Tố, trời sáng hay trời tối cũng không khác nhau, nhưng đối với Thạch Lang ăn cơm trong bóng tối không dễ dàng gì. Hai đứa ăn cơm với muối hột. Đói bụng cho nên chúng nó ăn sạch hết nồi cơm. Sau khi dọn dẹp, Tố bảo Thạch Lang đi múc nước suối lên uống. Uống nước và súc miệng xong, hai đứa nằm co sát bên nhau trên cầu mà ngủ. Chúng đắp chung chiếc áo mưa bằng cao su.
Sáng hôm sau, hai đứa thức dậy khi mặt trời đã bắt đầu chiếu ấm. Chúng xuống suối rửa mặt trước khi lên đường. Tuy không thấy đường nhưng Tố đi rất tự nhiên. Nó đi bên cạnh Thạch Lang, tay trái của nó nắm lấy cánh tay mặt của cậu bé. Ngày hôm đó, chúng đi ngang một khu rừng lớn. Hai đứa tưởng rằng băng qua khu rừng là có thể thấy được xóm làng, ai ngờ chúng đi cho đến chiều tối mà đường rừng vẫn còn hun hút. Con đường rừng chật hẹp, không đủ để cho hai đứa đi ngang nhau. Thạch Lang phải đi trước, Tố để tay trái lên cái đãy gạo của Thạch Lang mà lần bước theo. Hai đứa đi chậm lại. Rừng càng lúc càng trở nên rậm rạp, nhưng không có đứa nào tỏ vẻ sợ hãi. Tố biết là chiều đã xuống. Nghe tiếng suối róc rách, nó bàn với Thạch Lang nghỉ chân để nấu cơm ăn rồi tìm chỗ mà ngủ cho qua đêm. Hai đứa tìm được dòng suối. Thạch Lang lại đi xây bếp và kiếm củi.
Trong khi Tố nấu cơm, cậu bé tìm được một chỗ mà hai đứa có thể nằm ngủ. Đó là một phiến đá lớn, nằm trên một cái dốc núi cheo leo, có cây cối um tùm bao phủ. Nó bẻ đi những cành gai cắm chung quanh tảng đá để ngừa các loài dã thú có thể bén mảng tới trong khi hai đứa nằm ngủ.
Trong rừng, trời tối rất mau. Sợ ăn cơm xong thì không còn thấy đường leo lên dốc núi, hai đứa bàn nhau đem cơm lên tảng đá ngồi ăn. Thạch Lang đưa Tố lên trước rồi trở lại đem nồi cơm và những dụng cụ khác. Nó không quên xuống suối múc một ca nước để hai đứa cùng uống.
Nửa đêm hôm ấy, Tố thức dậy vì tiếng nổ lốp bốp của một đống lửa cháy đâu gần đấy. Nó đưa tay đi tìm Thạch Lang, định đánh thức cậu bé dậy, nhưng Thạch Lang đã thức tự lúc nào. Cậu bé nắm tay nó và thì thầm bảo nó nằm yên đừng lên tiếng. Cậu cho Tố biết là phía dưới suối có rất nhiều người, hàng trăm người. Họ quây quần bên một đống lửa lớn. Họ đã nấu cơm xong, bây giờ họ bắt đầu ăn. Thạch Lang nói với Tố là những người này có súng. Không muốn cho họ biết tới mình, hai đứa nằm yên không cử động. Một lúc sau, những người cầm súng ăn cơm xong. Họ ngồi quây quần quanh đống lửa và hát. Họ hát những bài rất lạ, nhịp điệu rất mạnh, âm thanh như sóng biển nối tiếp xô nhau vào bờ. Họ hát như là họ đang muốn ào tới để đập phá một cái gì đó. Tố có cảm tưởng là nếu họ muốn đập phá một cái núi đá lớn, họ cũng có thể đập phá được. Họ như đang giận dữ một điều gì.
Một lúc lâu sau đó, họ lại hát những bài hát êm dịu hơn. Rồi có người đứng lên kể những câu chuyện làm cho cả trăm người cùng cười. Nghe những bài hát này, Tố thấy dễ chịu. Nghe tiếng cười của những người cầm súng, Tố lại cảm thấy có thân tình với họ. Bỗng Thạch Lang nắm tay Tố thì thầm. Dưới kia có một người đứng lên, đội một chiếc nón lá trên đầu. Chiếc nón lá được đan tạm bằng những chiếc lá kè mới hái còn xanh. Tay phải ông ta chống cây gậy dài như chiếc giáo, còn tay trái ông cầm một thanh củi lớn, đầu củi còn cháy. Ông ta huơ thanh củi lên như một bó đuốc soi đường và bắt đầu hát. Tố nghe tiếng hát rõ mồn một:
Đất người đây thanh lịch, đất (có) hữu tình
Có đường vô sãnh tới dinh quan lưu đồn
Ba năm bác còn đương trấn thủ (tình dẫu mà tình ơi)
Trấn thủ lưu đồn (ú ù u, ú ù u)
Ngày thì canh điếm, sớm tối dồn việc quan.
Anh chém cành tre, (còn như) ngả gỗ (tình dẫu mà tình ơi)
Ngả gỡ trên ngàn (ú ù u, ú ù u)
Than thân rằng khổ biết phàn nàn cùng ai
Anh hãy phàn nàn với những trúc cùng mai
Có cái cây măng nứa, có cái cây ngô đồng
Xót (xót) xa còn như muối đổ (tình dẫu mà
tình ơi)
Muối đổ trong lòng (ú ù u, ú ù u)
Tiếng hát lạ tai nhưng đã làm cho Tố bồi hồi cảm động. Nó nghĩ tới ba nó những ngày còn làm lính sống ở chốn rừng sâu nước độc, ăn uống kham khổ, gối đất nằm sương, khi đau ốm không có má nó và nó săn sóc một bên… Nó biết những người có súng ở dưới suối kia cũng là lính, cũng đang sống trong cảnh rừng sâu nước độc như ba nó, và cũng sẽ có thể một ngày kia ngã chết như ba nó, chết vì bệnh tật hoặc vì bom đạn hoặc vì những người cầm súng khác giết. Chết như một con chim ngoẻo đầu, hai chân co rúm bên bụi gai. Tiếng hát của người lính cũng buồn như tiếng sáo của Tố một buổi chiều nào. Nó nói lên cả vừa sự nhớ thương vừa sự cam phận. Nó không giống tí nào với tiếng hát mà đoàn người vừa cất lên hồi nãy, những tiếng hát dồn dập như voi chạy, như ngựa phi, như gió gào mưa thét vào những ngày giông bão. Tố không hiểu sao một người mà có thể hát hai giọng khác nhau như thế.
Tiếng hát chấm dứt rồi nhưng không có ai vỗ tay, cũng không có ai reo hò tán thưởng. Đám người yên lặng. Sau đó, Tố nghe có người lên tiếng trách móc. Tiếp theo đoàn người lại cất lên giọng hát hùng dũng lúc trước. Họ hát một hồi, rồi họ đi tìm chỗ ngả lưng để nghỉ ngơi.
Sau đó, Thạch Lang và Tố không nghe họ nói gì nữa. Chỉ nghe tiếng nổ lép bép rời rạc của đống lửa đang cháy dở. Hai đứa nằm yên một hồi rồi thiếp đi. Đến khi chúng thức dậy thì trời đã sáng và đoàn người đã đi mất. Đoàn người không để lại dấu tích gì hết. Đống lửa cũng không còn. Tro than bị xúc đổ vào nơi nào không biết. Đoàn người đã phủ lên chỗ họ đốt lửa một ít rong rêu mà họ lấy bên bờ suối.
Hai đứa lại lên đường. Cho mãi đến chiều hôm đó chúng mới ra khỏi khu rừng, và đến tối mịt chúng mới tới được một khu dân cư. Đây là một cái làng có hàng rào cây nhọn bao quanh rất kiên cố. Có những cái chòi canh thiết lập trên cao. Thạch Lang và Tố vào tới khu chợ thì nhà cửa cũng bắt đầu lên đèn. Tố bàn với Thạch Lang là nên ngủ nhờ tại một túp lều ngoài chợ, để sáng mai khi họp chợ thì chúng có thể hỏi thăm về bà Ba Tý.
Đêm đó, vào khoảng hai giờ khuya, làng bị tấn công. Tiếng pháo biệt kích ầm ầm vang dậy làm hai đứa tỉnh thức. Bốn mặt, tiếng súng nổ rền. Trong làng, tiếng phèng la báo động được đánh lên tới tấp. Từ túp lều ngoài chợ, hai đứa trẻ nghe tiếng chân rầm rập của từng đoàn người chạy qua chạy lại; có lẽ là dân quân và địa phương quân đang phối hợp với nhau để bảo vệ thôn làng và đẩy lui cuộc tấn công. Tiếng súng từ bên trong bắn ra như pháo. Thỉnh thoảng một trái hỏa châu nở sáng trên trời, soi rạng bốn phía, tiếp đến là nhiều loạt súng đủ loại, âm thanh nổ dồn như sấm. Pháo biệt kích đã làm sập mái nhà trung ương chợ, các miếng gạch ngói và tre gỗ bay tới tấp vào túp lều trong trại nơi hai đứa bé nằm. Trận đánh kéo dài. Tố và Thạch Lang nghe nhiều tiếng la của người lớn và trẻ em cùng tiếng thét gọi của những người lính. Lửa của căn nhà nào đó trong xóm đang bốc cháy, tiếng gọi nhau của dân làng vang lên ơi ới. Có lẽ người ta đang chạy đi chữa lửa trong khi trận đánh kéo dài. Những người tấn công hình như đã phá thủng được một mặt rào phòng thủ. Hai đứa bé nghe những tiếng hét to: “Xung phong” dữ dội. Tiếng súng lại nổ dồn. Đạn bay vèo vèo bên tai hai đứa. Tố níu chặt lấy Thạch Lang, đè cậu bé xuống sát đất, bởi vì Thạch Lang cứ muốn lồm cồm đứng dậy. Người ta bắn nhau, giết nhau ngay giữa chợ, ngay bên cạnh hai đứa bé. Tố nằm run rẩy như một con chim nhỏ. Nó không còn đủ sức kềm Thạch Lang nằm sát đất nữa. Nó biết xung quanh nó nhà cửa đang cháy, đàn ông, đàn bà và trẻ con đang chết hoặc bị thương và những người lính cầm súng của hai bên đang đâm chém nhau. Đột nhiên nó buột miệng kêu to lên “Má ơi! Má ơi!”, rồi như không còn biết sợ sệt là gì, nó ngồi dậy, cao tiếng gào khóc.
Gào thét được một lát, bỗng Tố nghe tiếng Thạch Lang. Thạch Lang đang hát. Thạch Lang đã đứng dậy và ra đứng giữa trời cất giọng hát. Hoảng sợ, nó vội kêu lên:
– Thạch Lang! Nằm xuống đất! Thạch Lang, anh nằm ngay xuống đất!
Nhưng Thạch Lang không nghe nó. Tiếng hát của Thạch Lang cất lên càng lúc càng cao. Hình như bốn phía có tiếng gió thổi xôn xao, rồi tiếng cây rừng xa bắt đầu phụ họa vào giọng hát. Thạch Lang đứng hát, thản nhiên và ung dung như đang đứng hát trên một đồi cỏ mướt. Giọng Thạch Lang không chứa đựng một chút sợ hãi nào. Nghe tiếng hát của cậu bé, Tố cảm thấy bao nhiêu sợ hãi và đau buồn của nó tan biến. Nó rút ống sáo của nó ra, phụ họa vào tiếng hát của Thạch Lang. Trên không, Tố đã nghe tiếng của nhiều con chim bay lượn. Phút chốc, tiếng đập cánh của loài chim càng lúc càng lớn. Trận chiến ở dưới đất bỗng nhiên dịu lại, tiếng súng thưa dần, tiếng reo hò và la hét im bặt. Tiếng sáo của Tố vọng lên, nỉ non ai oán, khóc thương cho thân phận của những bác tiều phu đi lính không về, của những bà bán củi ngoài chợ chạy loạn mất con, của những đứa trẻ bơ vơ không nơi nương tựa, của những người lính chết một thân một mình nơi chốn thâm sơn cùng cốc, của những bà cụ già, những em bé bỏ mình trong cơn lửa đạn. Trời đất đang lắng nghe Tố, chim chóc đang lắng nghe Tố, trẻ con và người lớn đang lắng nghe Tố, những người lính đang bắn giết nhau, hình như cũng đang ôm súng nằm yên để lắng nghe Tố. Tố đang than vãn với đất trời, với muôn loài, như ngày xưa Tố đã than vãn với các loài côn trùng trên cây, dưới đất. Tiếng sáng của Tố vừa dứt thì tiếng hát của Thạch Lang cũng vừa tái sanh; tiếng hát vút lên cao như một niềm hy vọng, như lòng tin tưởng ở tình thương yêu giữa muôn loài muôn vật. Tiếng hát êm ấm như gió Xuân xoa dịu niềm đau trong trái tim người; tiếng hát mát rượu như sương thu, làm nguội lạnh lửa hận thù đang ngún cháy; tiếng hát như những giọt nước cam lộ làm nẩy chồi trên cây hy vọng đã sắp khô cạn.
Bây giờ tiếng súng đã im. Tố có cảm tưởng là trận đánh chưa bao giờ xảy ra. Trận đánh như chỉ là một cơn ác mộng. Bầy chim đã ra đi. Tiếng gió xôn xao bốn bề đã bặt. Thạch Lang và Tố nắm tay nhau đứng yên lặng rất lâu, bởi vì xung quanh hai đứa, hình như vạn vật đều cùng im lặng. Chân trời phía đông đã rạng. Những người tấn công đã rút lui vào rừng sâu tự bao giờ, không ai hay biết.
Sự sống dần dần trở lại trong làng. Trời chưa sáng, và sương mù còn bao phủ. Người ta đốt đuốc gọi nhau, tìm nhau. Người ta lo cấp cứu những người bị thương. Người ta khiêng các xác chết dân sự và binh lính về trạm y tế. Người ta lo xây đắp lại những công sự vừa bị phá vỡ, sắp đặt lại sự phòng thủ và gửi người xin thêm quân tiếp viện.
Trời đã sáng rõ. Đám quân nhân đi tuần hành thấy hai đứa trẻ lạ liền bắt về đồn. Thạch Lang và Tố bị tình nghi là giao liên đi do thám và liên lạc cho địch. Có nhiều người nét mặt hung dữ đề nghị bắn bỏ cả hai đứa. Trong số những người này, Thạch Lang thấy có cả nhà binh lẫn dân sự. Cậu bé giương mắt lên nhìn, không hiểu giao liên là gì, do thám là gì, liên lạc cho địch là gì. Nhưng Tố sợ run. Nó òa khóc và kể hết câu chuyện của anh em nó. Ở đây không ai biết ông Ba Tý và bà Ba Tý là ai. Người ta nghi hai đứa bịa ra câu chuyện đi tìm má. Tuy nhiên, viên chỉ huy không đồng ý việc bắn bỏ hai đứa. Thấy Tố là một đứa bé mù, ông nghĩ nó không thể làm giao liên được. Ông ra lệnh đưa hai đứa về quận lỵ, giao cho phía chính quyền dân sự của quận giải quyết.
Trưa hôm đó hai đứa được đưa lên xe nhà binh chở về quận lỵ. Tại đây Thạch Lang và Tố được người ta giao cho bót cảnh sát. Hai đứa được bót cảnh sát cho ăn cơm tối. Tối đến chúng được lãnh một chiếc chiếu và một cái mền để ngủ lại trong bót. Chúng ở lại đây được ba ngày thì người ta cho chúng về tỉnh lỵ giao cho Trung tâm Cải huấn Thiếu nhi.
Đây là một khu đất rộng có nhiều dãy nhà dài, xung quanh có tường thành bao bọc, trên thành có gắn miểng chai. Hai đứa được đưa vào một nơi có người đánh máy lóc cóc và có người ngồi hỏi họ, tên, lý lịch hai đứa. Tố lên tiếng thay cho cả hai đứa. Nó khai nó tên Hoàng Thị Tố, chín tuổi, học lớp năm, con của ông Hoàng Văn Tý và của bà Nguyễn Thị Cháu, làm nghề đốn củi ở xóm Thượng, xã An Lạc. Nó khai Thạch Lang là anh nó, tên Hoàng Thạch Lang, mười hai tuổi, ở nhà giúp má, không được đi học. Nó cũng khai ba nó là tử sĩ. Người kia lên tiếng hỏi Thạch Lang về vụ đụng độ tại xã Phước Bình bốn hôm về trước và bảo nó nói thiệt xem hai đứa có làm việc cho quân phiến loạn không. Cậu bé thẳng thắn kể lại mọi chi tiết chuyến đi tìm má của hai đứa, từ lúc lên đường tới lúc ngủ ở trong rừng gặp những người mang súng cho đến khi cả hai đứa bị bắt giam và chở về giam tại bót cảnh sát quận. Tố cho rằng chi tiết gặp một toán người cầm súng đốt lửa trong rừng mà Thạch Lang kể đã gợi lên những nghi ngờ trong óc người thẩm vấn. Ông ta trầm ngâm không nói gì, sau đó ra lệnh đưa tên Hoàng Thạch Lang về trại A và tên Hoàng Thị Tố về trại D. Một cô thư ký người ôm ốm cao đưa hai đứa ra khỏi văn phòng. Cô cầm tay Tố dắt đi và bảo Thạch Lang đi theo. Cô bảo rằng tuy hai đứa ở hai trại khác nhau, nhưng mỗi ngày có thể gặp nhau buổi trưa và buổi chiều sau giờ cơm. Cô lại còn dặn hai đứa mỗi khi có chuyện cần thiết cũng có thể đến trại của nhau để xin phép gặp mặt nhau.
Thạch Lang được ở chung phòng với một cậu con trai lớn hơn nó hai tuổi. Bên trại D, Tố được ở chung với một cô bé lớn hơn nó bốn tuổi nhưng chỉ cao hơn nó có một cái đầu. Cô bé tên là Lệ. Nó kêu Lệ là chị ngay từ khi mới gặp.
Trường hợp của Tố rất đặc biệt vì Tố là một đứa trẻ mù. Tuy nó được dự vào những lớp học, nhưng nó không thấy được những gì thầy giáo viết trên bảng đen và nó cũng không đọc được sách. Tuy vậy trong những giờ làm việc chân tay nó không thua ai. Chỉ năm hôm sau, nó đã có thể đi khắp Trung tâm Cải huấn một mình không cần ai đưa dắt. Lệ tuy hơi đanh đá nhưng Lệ không ghét Tố bởi vì Tố không bao giờ làm trái ý Lệ. Nó luôn luôn ngọt ngào với cô bạn cùng phòng.
Thạch Lang vào lớp nhưng không theo được bài giảng bởi vì cậu bé không biết chữ. Nó xin vào học trong lớp của Tố và ngồi bên cạnh Tố. Sau mỗi bữa cơm, Tố dạy vần quốc ngữ cho Thạch Lang. Cậu bé học mau lạ thường. Chỉ trong vòng bảy hôm, cậu đã đọc được và viết được. Tố chỉ cho Thạch Lang làm toán, Thạch Lang học trong vòng một ngày mà làm được bốn phép toán, kể cả những bài toán chia rắc rối nhất.
Trong Trung tâm Cải huấn có đứa dễ thương nhưng cũng có nhiều đứa lỗ mãng, kỳ cục, chuyên ăn hiếp và gây gổ, mặc dù những hình phạt của ban Giám đốc rất gắt gao. Có lần Thạch Lang bị hai đứa lớn tuổi hơn nó đánh đến chảy máu đầu chỉ vì lý do duy nhất là Thạch Lang đã thản nhiên đứng cười, không tỏ vẻ sợ sệt khi chúng sán lại định đánh cậu. Cậu bé bị đánh nhưng không chịu đánh trả, chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên không hiểu tại sao mình không làm gì người khác mà người khác lại đánh mình. Hôm đó Tố cũng có mặt nhưng nó có trông thấy gì đâu. Nó chỉ biết là Thạch Lang đang bị đánh. Nó chạy đi kêu cứu. Không người lớn đến thì Thạch Lang đã ngã ra bất tỉnh vì máu trên đầu đã chảy ra nhiều quá. Người ta đem cậu bé về phòng y tế để băng bó. Tố xin phép ngồi bên giường của Thạch để săn sóc cho anh.
Từ hôm đó trở đi, bọn trẻ con Trung tâm Cải huấn gọi Thạch là thằng khờ và Tố là con mù. Chúng gọi Thạch Lang là thằng khờ vì Thạch Lang bị người ta đánh mà không biết chống trả lại, cũng không tỏ vẻ giận hờn. Còn chúng gọi Tố là con mù là để cho nhớ vậy thôi, chứ cũng không phải vì một ác tâm nào. Hai anh em Tố cũng không vì những tên gọi ấy mà lấy làm phiền giận.
Cuối năm đó Thạch Lang được ra khỏi Trung tâm Cải huấn mà lại còn được gửi vào trường Quốc gia Nghĩa Tử ở thủ đô, bởi vì hạnh kiểm nó tốt và sức học nó khá. Tố cũng được gửi về trường mù dành cho trẻ em tại Biên Hòa. Được tin này cả hai đứa đều hoảng hốt. Cả hai đứa đều nghĩ rằng nếu xa nhau, chúng không còn có hy vọng nào tìm ra được má. Lâu nay hai đứa đã nương tựa vào nhau; có Thạch Lang, Tố như có thêm hai mắt và thiếu Tố, Thạch Lang không biết sẽ phải làm gì và phải đi về đâu. Nhưng người lớn đã quyết định, trẻ con phải tuân theo. Ban Giám đốc Trung tâm Cải huấn hứa sẽ sắp xếp cho hai đứa liên lạc với nhau bằng thư từ và thỉnh thoảng Thạch Lang sẽ được phép về trường mù thăm Tố.

 

*      *
*

Tố thức dậy giữa đêm khuya. Nó lắng nghe tiếng súng nổ xa xa và lòng nó nặng đầy sầu thương. Nó vừa nằm mơ thấy Thạch Lang. Đó là một giấc mơ đầy gian truân nhưng mà cũng đầy hy vọng. Trong giấc mơ, Thạch Lang đã về với nó, đã đi bên cạnh nó. Nhưng đó chỉ là một giấc mơ. Nó nghĩ tới Thạch Lang một cách xót xa. Đã hơn sáu tháng nay nó không được tin tức gì của Thạch Lang. Nó đã lạc mất Thạch Lang như ngày xưa nó đã lạc mất má nó.
Trước kia, khi còn ở nội trú trong trường Quốc gia Nghĩa Tử ở Sài Gòn, Thạch Lang có viết cho nó bốn lá thư. Và khi Thạch Lang bị đưa về trường Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu, Thạch Lang chỉ viết được cho nó một lá. Thế rồi Thạch Lang bặt tin luôn. Những lá thư này nó còn cất giữ, và lâu lâu nó lại nhờ chị Tám, một chị nhân công của trường mù đọc lại cho nó nghe. Năm lá thư của Thạch Lang được nó giữ gìn cẩn trọng trong một cái hộp thiếc mà nó để trong cái tráp áo quần của nó. Từ khi mất liên lạc với Thạch Lang, Tố đã nhờ ban Giám đốc trường mù viết thư hỏi thăm về Thạch Lang. Trường Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu trả lời là Thạch Lang vì hạnh kiểm xấu đã được gửi về Trung tâm Cải huấn Chí Hòa ở Sài Gòn và sau đó trường không còn biết gì về cậu bé nữa. Ban Giám đốc đã viết thư cho Trung tâm Cải huấn Chí Hòa thì Trung tâm trả lời là Thạch Lang bị chuyển về một trại Cải huấn tại Vùng Một Chiến Thuật, không rõ là nơi nào.
Nghe nói vì hạnh kiểm xấu cho nên Thạch Lang bị tống về Trung tâm Cải huấn, Tố không tin. Nó chưa từng gặp hay chưa từng thấy một cậu con trai nào hiền lành và tốt bụng như Thạch Lang. Thạch Lang chỉ có một cái tính là không bao giờ biết sợ ai, dù đó là những người có nhiều quyền lực, như những người trong Ban Giám đốc chẳng hạn. Nhưng Thạch Lang không bao giờ khiêu khích ai hoặc tỏ vẻ khinh thường ai. Tố chảy nước mắt, nhớ tới Thạch Lang. Nếu có Tố một bên, có thể Thạch Lang đã không bị tai nạn như thế. Bây giờ nó lạc mất Thạch Lang rồi. Thân nó mù lòa, làm sao mà một mình tìm ra được hai người thân nhất trên đời của nó.
Trong hơn nửa năm ở trường mù, Tố đã học được rất nhiều. Trước hết nó đã học được cách đọc sách, đọc bằng những ngón tay của nó. Những cuốn sách nó đọc gồm những tờ cứng trên đó mẫu tự được thay thế bằng các dấu lồi lõm khắc thành từng hàng. Nó rất ham đọc sách. Ngón tay nó đi tới đâu là hình ảnh hiện ra trong trí nó tới đó và miệng nó mỉm cười thích thú. Chỉ tiếc là sách không có nhiều. Nó cũng đã học cách viết lách thứ chữ lồi lõm này bằng một thứ bút nhọn không cần mực. Nó cũng đã được bà Giám đốc cho phép học viết bằng một cái máy đánh chữ. Cái máy chữ này cũng viết ra thành hàng những dòng chữ có thể đọc được bằng những ngón tay.
Tố lại còn học tiểu công nghệ, đan rổ, đan giỏ và cả cắt may nữa. Nó có chân trong ban âm nhạc của trường bởi vì nó thổi sáo giỏi. Tuy vậy Ban Giám đốc chỉ cho phép nó thổi những bài dân ca ca ngợi sinh hoạt đồng ruộng những thời thanh bình. Nó cảm thấy ấm ức về chuyện này. Nếu nó được tự do, nó sẽ thổi những khúc sáo do chính nó chế tác, những khúc sáo nói được nỗi lòng của nó cũng như nỗi lòng của hàng vạn đứa trẻ như nó. Tố thấy xung quanh nó có bao nhiêu người có cảm nghĩ giống hệt như nó và nó nghĩ rằng họ sẽ rất hài lòng khi nghe Tố thổi những khúc sáo nói được tâm tình chân thực của nó. Người lớn ở đây hình như cố tình bưng bít sự thật. Họ muốn bày ra một khung cảnh giả tạo để mà sống cho yên ổn một cách giả tạo. Tố không biết tại sao mà họ phải che giấy. Ở miền quê, những nơi mà Thạch Lang và Tố đi qua, nơi đâu cũng có giặc giã, bom đạn, chết chóc. Tưởng rằng ở thành phố thì yên ổn hơn ai, ai dè Tết vừa qua, dân chúng cũng đã sống trong cảnh bom đạn hãi hùng. Tố nghe nói trong cuộc tấn công vừa qua tại Sài Gòn, có nhiều khu nhà cửa tan nát, xác chết đầy đường, hôi hám ghê rợn. Có người từ Sài Gòn về kể chuyện rằng người ta đã dùng xe ủi đất vào hàng trăm xác người chôn chung từng hố. Họ còn kể rằng các nhà thương đầy ứ những trẻ em và người lớn bị thương. Ngay tại Biên Hòa này, trường của Tố cũng đã bị pháo kích và nhiều đứa bạn của Tố đã chết. Đất nước loạn lạc khắp nơi như vậy, mà người ta còn ráng làm như không có chuyện gì xảy ra.
Tuy nhiên, Tố biết rằng không ai có thể ngăn được tiếng nói của lòng người. Đó đây thỉnh thoảng nó đã nghe được những lời hát nói lên cái sầu đau của dân tộc nó, cái ước vọng xóa bỏ hận thù để mà xây dựng lại cuộc đời đã đổ nát. Mới hôm qua đây, khi xe trường mù dừng lại một lát trước cổng nhà thương thị xã, nó đã nghe một em bé gái hát theo tiếng đàn bầu bên vệ đường:
Giọt nước mắt thương mây, mây hãy ngủ trên ngàn
Giọt nước mắt thương cây, cây ngả trên non
Giọt nước mắt thương anh, khô dòng máu châu thân
Giọt nước mắt thương quê hương, ôi còn chảy miên man.
Giọt nước mắt thương chim, chim bỏ xa rừng
Giọt nước mắt thương đêm, đêm đẩy xe tang
Giọt nước mắt thương em, trên vận nước điêu linh
Giọt nước mắt không tên xin để lại quê hương. (*)
Tố biết em bé đang hát lên bài hát đó cũng chỉ độ vào trạc tuổi nó. Nghe tiếng hát, Tố biết ngay là em bé kia cũng đang bị mù lòa như nó. Tiếng đàn bầu lại cho Tố biết rằng người đàn cho em bé hát cũng là một người tàn phế vì chiến tranh, đành đưa em bé ra đường hát dạo để kiếm tiền độ nhật.
Em bé mù kia hát như là em thấy được hết sự thật đang xảy ra trên đất nước quê hương. Đâu cần tới hai con mắt mà những đứa trẻ như Tố cũng thấy được tất cả những thống khổ điêu linh trên đất nước? Riết rồi Tố không biết những người lớn có mắt để làm chi.
Vừa mới hồi nãy đây, Tố nằm mơ một giấc mơ thật kỳ lạ. Trong giấc mơ ấy, Tố thấy mình cùng Thạch Lang đi xông pha khắp nơi để tìm má. Trước hết nó thấy nó cùng Thạch Lang đứng chơi trên một cánh đồi buổi mai, ánh sáng đầu hè chói lọi. Trên trời có cả thảy bảy tám mặt trời và rất nhiều trăng sao. Đã có mặt trời, mà lại có trăng sao, Tố không biết tại sao; nó chỉ biết là trời đất vui như một ngày hội. Bỗng nhiên nó nghe có những tiếng nổ lớn, rồi những cái mặt trời thay nhau rụng xuống, tắt lịm. Bầu trời bây giờ tối om. Trăng sao cũng mất dạng từ hồi nào. Tiếng khóc than vãn lại tự bốn phía. Ngay lúc đó, Tố đột nhiên nhớ lại rằng mình mất má: nó đinh ninh tất cả cơ sự ấy xảy ra chỉ tại vì nó lạc mất bà Ba Tý. Nếu nó tìm được má nó, tức khắc trời sẽ sáng trở lại, bảy cái mặt trời sẽ trở về chói lọi trên không trung, và trăng sao cũng lại hiện ra đầy đủ như những đêm rằm. Nó đang thất thểu một mình trong đêm đen giữa những tiếng kêu khóc của hàng vạn đứa trẻ khác chắc cũng vừa bị lạc má như nó, thì nó bỗng thấy Thạch Lang từ đâu chạy về bên nó, tay phải Thạch Lang cầm một bông hoa hướng dương. Bông hướng dương lớn bằng một trái bưởi Biên Hòa, nhưng mỏng manh hơn, đang tỏa ánh sáng. Cuống hoa dài lắm. Thạch Lang cầm cuống hoa đưa lên cao để soi đường. Nó gọi Tố, Tố mừng rỡ chạy tới. Thế là hai đứa cùng nhau lên đường đi tìm má dưới ánh sáng của bông hoa. Ánh sáng tuy không chói lọi như ánh đèn nhưng cũng đủ để soi đường cho hai đứa.
Tố và Thạch Lang đi vào những xóm làng chìm đắm trong màn đêm u tịch. Thạch Lang dừng lại, đưa cao bông hướng dương, đứng hát. Thạch Lang hát một hồi lâu thì thấy một cái cửa hé mở, rồi có ánh đèn lọt ra ngoài. Một bóng người hiện ra trước cửa đưa tay vẫy chào hai đứa làm hiệu. Lúc đó tại sao nó và Thạch Lang không đi tới để hỏi thăm người kia về má nó, nó không hiểu. Nó chỉ nhớ là sau khi người kia vẫy tay chào, nó và Thạch Lang đưa tay vẫy đáp lại và tìm tới những khu làng khác. Rồi nó thấy hai đứa đứng trước những tòa nhà san sát nhau, sừng sững như những quả núi, lạnh lẽo và âm thầm trong bóng đêm, không mang một dấu hiệu nào của sự sống. Thạch Lang đưa bông hoa lên, và cất tiếng hát. Lâu, lâu lắm, nó thấy một cái cửa sổ mở ra, và một bóng người lại hiện trên cửa sổ, phía sau người đó lại có ánh đèn. Rồi sau đó lại có những cái cửa sổ khác mở ra nữa, và những bóng người khác nữa hiện ra. Tới khi nhiều cửa sổ được mở và có nhiều người đưa tay ra vẫy chào hai đứa, thì Tố nghe có tiếng gầm gừ của một đàn dã thú xông ra như để vồ lấy và cắn xét hai đứa. Nó kéo Thạch Lang chạy trốn.
Rồi Tố thấy Thạch Lang và nó đi vào rừng cao, lấy bông hoa hướng dương soi trên từng thân cây, từng hốc đá. Nó lại thấy hai đứa đi xuống tận biển sâu, cầm bông hướng dương soi từng con cá, từng cọng rêu. Không nơi nào mà hai đứa không đi tới. Chúng đi cho tới khi gặp một ông già râu tóc bạc phơ. Ông già đưa cho Thạch Lang một khối tròn lớn như một trái bí rợ, màu sáng như vỏ ốc. Ông nói đó là một cái mặt trời dưới thủy cung, ông cho hai đứa mượn lên mặt đất để đi tìm má. Tố vừa mới đưa hai tay đỡ lấy thì nó giật mình tỉnh thức.
Tố muốn ngủ trở lại, hy vọng giấc mộng tiếp tục, nhưng nó không ngủ được nữa. Tiếng súng xa nghe buồn bã và xốn xang quá. Bây giờ có lẽ đã khuya lắm, và mọi người đều đang ngủ say. Nó ngồi dậy, mở rộng cửa sổ. Không khí mát lạnh bên ngoài ùa vào làm nó khoan khoái dễ chịu. Tố lần mép giường, lấy ống sáo đưa lên, nhè nhẹ thổi. Nó muốn liên lạc với đất trời bên ngoài. Nó định bụng thổi sáo rất nhẹ để không làm thức giấc một ai trong khu trường này hết.
Không biết Tố thổi sáo như vậy trong bao lâu thì nó nghe có tiếng gọi quen thuộc. Tố ngừng hơi sáo. Tiếng gọi đó là tiếng gọi của một con chim. Và con chim này rất quen. Tố bỗng nhớ ra: đây là con chim đã từng đối đáp với Tố nhiều lần trên rừng và một lần dưới suối. Nó mừng rỡ không khác được gặp lại Thạch Lang. Con chim chuyển cho nó một cách rõ ràng cái tin Thạch Lang đang tới gần bên nó. Tố đưa ống sáo lên bảo con chim xác định lại điều mới nói. Đúng rồi, Tố không thể nào nghe lầm được. Nó và con chim đã thông hiểu ngôn ngữ nhau một cách thấu triệt từ lâu rồi mà. Thạch Lang đã trở về. Thạch Lang đã trở về gần bên Tố. Nó khoác thêm lên mình một cái áo cho ấm, và cầm ống sáo, mở cửa phòng đi ra sân. Con chim bay trên đầu nó. Ra tới ngõ trường mù, Tố tháo chốt, hé cánh cửa, lách ra ngoài. Nó nghe tiếng Thạch Lang gọi nó:
– Tố!
Nó quay lại phía có tiếng Thạch Lang phát ra, thì vừa lúc đó, Thạch Lang đã tới ôm nó vào lòng. Tố đứng yên trong vòng tay Thạch Lang, khóc thút thít.
Một lát sau, nghe tiếng chim bay gọi trên không, Thạch Lang bảo Tố:
– Thôi, chúng ta nên mau đi khỏi nơi này kẻo trời đã gần sáng.
Nói xong, nó nắm lấy tay của Tố, dắt đi. Hai đứa theo con đường phía hông của trường mù, lần ra khỏi thành phố. Con chim vàng vẫn bay liệng trên cao, chỉ đường cho chúng.
– Chúng ta đi đâu đây, Tố vừa lấy chéo áo bà ba lau nước mắt vừa hỏi Thạch Lang. Nó biết bây giờ Thạch Lang đã lớn hơn trước và cũng đã rắn rỏi hơn trước. Nghe một câu nói của Thạch Lang và thấy cách hành động mau lẹ của Thạch Lang, Tố cảm thấy ngay điều đó. Hai đứa mới xa nhau có chín tháng mà nó cảm thấy nó đã xa Thạch Lang có đến chín mười năm trời.
– Chúng ta đi ra khỏi thành phố rồi chúng ta tìm đường trở về rừng Đại Lão. Chúng ta về nhà xem má đã về tới đó hay không. Rồi anh lại sẽ phải trở về nhà cũ của anh trên đỉnh núi. Anh đã vắng nhà gần đúng mười hai lần trăng tròn rồi.
– Nhưng anh có biết đường về nhà không, anh Thạch Lang? Từ đây về nhà xa lắm, xa lắm. Chúng ta sẽ đi lạc.
– Em đừng lo, có con chim vàng sẽ đi dẫn đường cho chúng ta. Nó đã đưa anh từ miền rừng núi Lạng sơn vào đây tìm em rồi mà.
Thạch Lang từ miền rừng núi phía Bắc trở vào tận đây tìm nó! Tố sung sướng quá. Thạch Lang tìm được nó thì thế nào Thạch Lang cũng tìm được má. Tố nhớ lại giấc mơ hồi hôm, khi ông già râu bạc dưới thủy cung trao cho hai anh em một cái mặt trời. Cái mặt trời lớn như một trái bí rợ, màu trắng đục như long não, và có khi lấp lánh như xa cừ. Có thể là giấc mộng đã báo trước sự thực. Vừa đi nó vừa kể lại chuyện giấc mộng cho Thạch Lang nghe. Nó vòng cánh tay phải của nó qua cánh tay trái của Thạch Lang và đi ngang một hàng với Thạch Lang. Cậu bé lắng tai nghe Tố kể lại những gì đã xảy ra cho Tố từ khi nó được gửi tới trường mù trẻ em tại Biên Hòa. Tố kể cho Thạch Lang nghe đủ mọi chi tiết của cuộc đời nó trong trường. Nó nói về những đứa bạn nó, những đứa còn sống và những đứa đã chết trong trận tấn công Tết Mậu Thân vừa qua. Nó kể lể tất cả những nối nhớ thương, khổ đau, thất vọng và hy vọng của nó. Thạch Lang im lặng nghe; thỉnh thoảng nó lại ngắt lời Tố để hỏi thêm một vài chi tiết. Chẳng mấy lúc mà hai đứa đã ra khỏi thành phố. Bây giờ hai đứa đã đang bắt đầu đi sâu vào một khu rừng trồng toàn cây cao su. Chúng đi suốt ngày hôm đó, thỉnh thoảng lại ngừng chân để nghỉ ngơi. Con chim vàng luôn luôn bay theo trên trời để hộ vệ cho chúng. Tối hôm đó hai đứa ngủ lại trên một chiếc xuống của ai bỏ hoang ở bên một con kinh mà nước gần cạn.
Chúng đi như thế trong nhiều ngày, vượt rừng, trèo núi, hướng về phía Tây Bắc. Có lúc hai đứa đi ngang một rừng chuối. Chúng bẻ chuối chín để ăn. Những trái chuối hoang nhỏ bé nhưng rất ngọt. Ăn chuối xong, chúng đi tìm suối để uống nước. Có lúc hai đứa đi ngang một khu rừng dày đặc những cây tre, chúng lại bẻ măng nướng trong một đống lá để ăn thay cơm. Đi như vậy trong vòng bảy hôm thì chúng trở lại được khu rừng, nơi đó chúng từng gặp một đoàn quân cắm trại bên suối. Tố còn nhớ mãi tới bài hát “trấn thủ lưu đồn” mà nó đã nghe lén được đêm ấy.
Trên con đường trèo non lội suối về nhà, Thạch Lang kể chuyện về bước đường phiêu lưu của nó cho Tố nghe. Tại trường Quốc gia Nghĩa Tử, Thạch Lang đã kết thân với bao nhiêu đứa bạn, tất cả đều là những đứa con trai và con gái mà cha hoặc anh đã bỏ mình trên các chiến địa. Chúng thành lập một đoàn ca nhạc và hát lên nỗi lòng thù hận chiến tranh và ao ước hòa bình của chúng. Thạch Lang hát hay và làm cảm động tất cả những bạn đồng học khiến cả bọn bầu nó làm trưởng đoàn văn nghệ. Đoàn của chúng trình diễn không những trong trường Quốc gia Nghĩa Tử mà còn ở các buổi tập họp liên trường. Những bài hát của chúng nói lên được tâm sự của trẻ em lẫn người lớn, khiến ai nấy đều nức lòng hoan hô chúng. Nhưng đoàn văn nghệ của chúng chỉ hoạt động được khoảng một tháng thì Ban Giám đốc của trường chỉnh lý. Họ không cho phép chúng muốn hát gì thì hát. Họ phát cho chúng những bài hát do họ làm ra, và bảo chúng chỉ được hát những bài hát ấy. Thạch Lang ấm ức không chịu. Các bạn nó cũng ấm ức không chịu. Chúng không tuân lệnh Ban Giám đốc. Chúng bị Ban Giám đốc khủng bố. Sau nhiều lần dọa nạt Thạch Lang mà không khuất phục được nó, Ban Giám đốc trường Quốc gia Nghĩa Tử quyết định đuổi Thạch Lang vì “hạnh kiểm xấu”. Nó bị gửi về trường Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu, ở đó họ biết kỷ luật sẽ không còn là kỷ luật của trường học nữa, mà là kỷ luật của quân đội.
Tại trường Thiếu Sinh Quân, Thạch Lang chinh phục nhiều bạn mới, Các bạn của Thạch Lang đông đến hơn một trăm đứa. Chúng làm kiến nghị xin Ban Giám đốc trường thay vì đào tạo lính thiếu niên để đưa vào chốn lửa đạn thì đào tạo những cán bộ trẻ đi hoạt động kiến thiết tại thôn xóm và vận động hòa bình. Vụ này xảy ra làm chấn động không những cả trường Thiếu Sinh Quân mà còn cả quân khu phụ trách về cơ sở này nữa. Thạch Lang bị khép vào tội “tuyên truyền cho địch” và bị đưa về giam tại khám Chí Hòa. Tại Chí Hòa, nó gặp một số các ông thầy tu bị còng tay. Hỏi tội gì, các vị nói rằng họ đã kêu gọi hai bên ngừng đánh nhau để mà thương thuyết. Nó ở Chí Hòa được nửa tháng thì ba trăm ông thầy tu cùng với gần hai trăm người trong khám Chí Hòa bắt đầu một cuộc nhịn ăn. Người ta tố cáo là nó đã xui khiến các ông thầy tu này bằng những bài hát tuyên truyền của nó.
Một đêm nọ, giữa lúc nó đang ngủ, có người vào tận khám còng tay nó và áp giải ra xe. Thạch Lang được chở ra miền Trung và đem giam tại một trại giam chính trị ở Vùng Một Chiến Thuật.
Tại đây nó gặp một ông Đạo tóc dài che cả hai tai, người ốm yếu nhưng hai mắt quắc thước. Ông Đạo mặc một bộ đồ bà ba màu nâu đã trở thành bạc thếch. Ông bị giam trong khám với một cái lồng, trong lồng có một con mèo và hai con chuột được nhốt chung. Chuyện lạ người ta bàn tán ở đây là con mèo không ăn thịt hai con chuột.
Ông Đạo kể rằng ông bị bắt vì ông đã tới trước tỉnh đường với cái lồng của ông để xin gặp đại tá tỉnh trưởng. Người ta không cho ông vào gặp, ông ngồi trước dinh đại tá, không chịu ra về.
Những người bộ hành xúm lại quan sát. Ông phân bua với mọi người: “Tôi đến đây cốt là để thưa với chính quyền rằng một con mèo và hai con chuột còn có thể ở chung với nhau, huống hồ là con người với con người. Tôi tin rằng là chúng ta có thể ngưng chém giết nhau để chung sống với nhau được”.
Có người nghe ông nói thì bưng mặt khóc. Có người thì lên tiếng chửi rủa ông, bảo ông là khờ khạo. Họ nói là: “Làm sao mà mèo với chuột lại ở chung với nhau được. Đem cái ông Đạo khùng này mà bỏ tù đi”. Vậy là người ta đem ông Đạo bỏ tù thực. Ông Đạo nhìn Thạch Lang nói như phân bua: “Đã hơn một tháng rồi, con mèo có ăn hai con chuột đâu?”.
Thạch Lang rất ưa nghe ông Đạo già kể chuyện. Ông có kể cho Thạch Lang nghe việc ông đi lượm những viên đạn và những mảnh bỏm ở khắp các làng mạc miền Đông để đúc thành một cái chuông lớn. Ông bảo Thạch Lang rằng trong suốt mấy năm qua đêm nào ông cũng thức khuya để thỉnh chuông, hy vọng tiếng chuông sẽ thức tỉnh được những người cùng trong một nước. Ông nói: “Những mảnh thép giết người kia, qua đã bắt chúng đi tu”. Thạch Lang nghe nói những mảnh thép đi tu thì mỉm cười thích chí, trong khi nó biết rằng khi nghe ông Đạo nói, có người sẽ cho là ông Đạo khùng.
Ông Đạo và Thạch Lang trở nên hai người bạn thân. Rồi cũng như ở khám Chí Hòa, hai người lại xin nhịn ăn để được trực tiếp bày tỏ nguyện vọng với nhà cầm quyền. Hàng trăm phạm nhân chính trị tham dự vào cuộc nhịn ăn này. Một tuần lễ sau đó, ông Đạo và Thạch Lang bị chính quyền đem xe chở ra Quảng Trị, đẩy qua cầu Bến Hải: “Qua bên đó tha hồ mà nhịn đói” những người võ quan mặc áo rằn ri nói với họ như vậy.
Qua tới cầu bên kia, họ được dân chúng và chính quyền địa phương ra tiếp đón. Chính quyền hỏi họ về lý do tại sao họ bị nhà cầm quyền bên kia bắt bớ tù đày. Ông Đạo và Thạch Lang cứ sự thực mà nói ra. Chính quyền rất bằng lòng. Họ bảo hai người nên thuật lại tất cả những việc đó cho dân chúng nghe. Rồi họ dặn dò Thạch Lang: phải nói thêm cho dân chúng nghe là bên kia người ta sống cơ cực lắm, và người bên này cần phải cho con cái đi tòng quân qua bên ấy để mà cứu vớt người đồng hương, đuổi bọn xâm lăng về nước, không để cho họ đè đầu đè cổ dân ta. Thạch Lang lắng tai nghe. Nó biết đó không phải đúng với điều nó thấy. Ở bên kia có người ăn trên ngồi trước, biết tránh né, không bị tổn thất một mảy may trong chiến tranh, mà còn làm giàu trong khi hàng vạn quân dân ngã chết mỗi ngày trong lửa đạn. Ở bên kia, giới cầm quyền bưng bít sự thực về chiến tranh, cấm đoán và tù đày những người kêu gọi thương thuyết và ngưng chiến. Nhưng dân chúng bên kia cũng đau khổ, chết chóc vì những người bên này gửi qua. Bên kia, hàng vạn người đã tan nát cửa nhà, mất cha, mất mẹ, lạc con, gãy tay, nát đầu trong những cuộc chạm súng với những người phía bên này. Cái khổ thật sự là do người cùng một dòng giống không ngồi lại được với nhau chớ không phải do người ngoại quốc tới xâm lăng và cướp hết sự sống của dân. Điều mà Thạch Lang thấy rõ nhất là súng đạn mà cả hai bên giết nhau đều do người nước ngoài đưa cho cả.
Khi những người chính quyền đã đi. Thạch Lang đem những điều mình nghĩ trình bày với ông Đạo, ông Đạo gật đầu bảo những điều nó nghĩ là đúng với sự thật. Trong những ngày kế tiếp, hai người đi thăm dân chúng trong các làng mạc. Họ thấy xóm làng ở đây tuy không bị bom đạn tàn phá nhưng rất khốn khổ nghèo nàn. Hầu hết là người già và trẻ em. Mặt người nào người nấy buồn xo. Những người trẻ đều đã bị gọi đi bộ đội, hoặc để đánh giặc, hoặc để tải lương. Mọi người nghe Thạch Lang nói về tình trạng bên kia đều giật mình chưng hửng. Họ đã tưởng con em của họ đi qua bên kia là để đuổi giặc ngoại xâm. Ai ngờ lính ngoại quốc đã về nước hết rồi và bây giờ chỉ có người cùng một máu mủ giết nhau, bắn nhau. Dân làng bàn bạc với nhau rồi kéo đi tới Tỉnh Ủy để xin cho con em họ được về. Nhiều bà già ôm lấy Thạch Lang mà khóc bù lu bù loa. Họ bảo con trai của họ đã chết trong miền Nam, không biết gửi xương chốn nào.
Được cán bộ địa phương báo cáo về vụ này, chính quyền lấy làm tức giận. Ông Đạo và Thạch Lang lập tức bị đưa đi mỗi người một ngả. Trước lúc chia tay, ông Đạo nắm tay cậu bé, ông bảo Thạch Lang không nên nản chí. Ông cười ha hả và đọc cho Thạch Lang nghe mấy câu thơ của ông:
Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thể nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có cách gì cũng chẳng làm sao. (2)
Người ta đem Thạch Lang tới một trại Học tập Cải tạo, nơi đây nó bị bắt buộc làm việc tay chân rất nặng nhọc. Nó được ăn và ngủ rất ít. Ở đây ai cũng phải tuyệt đối nghe lời Ban Giám đốc của trại. Trong các buổi học tập lý thuyết, người ta chỉ biết nghe mà không có quyền đưa ra bất cứ một nhận xét nào trái chống với lý thuyết nhà nước. Thạch Lang ngạc nhiên thấy sự bưng bít ở đây giống hệt như sự bưng bít ở miền Nam. Có lẽ lại còn khắt khe hơn ở miền Nam nữa. Thạch Lang không bao giờ được mở miệng nói quá một lời. Nó biết nó có nói cũng vô ích. Ở đây, cũng như ở mọi cuộc họp của nhà nước mà Thạch Lang từng chứng kiến từ ngày vượt cầu Bến Hải sang đây, con người đưa tay lên đưa tay xuống để hoan hô và đả đảo những cái máy. Thạch Lang biết từ lâu họ đã tập quen thói ấy. Trong khi tay họ đưa lên đưa xuống và miệng họ hô lên những khẩu hiệu thì khuôn mặt họ chai lỳ, không biểu lộ một thứ tình cảm nào hết. Thạch Lang chỉ đọc thấy trên mặt họ một nỗi cam chịu số phận mà thôi.
Một hôm trong một buổi học tập mà không khí nặng nề như bầu trời trước cơn giông tố, tự nhiên Thạch Lang cất cao tiếng hát. Mọi người hướng về nó. Không còn ai chịu lắng nghe vị thuyết trình nói gì nữa cả. Tiếng hát của nó chinh phục tất cả mọi người. Thuyết trình viên phải im tiếng. Trước hết ông ta tỏ vẻ giận dữ, nhưng cuối cùng, tiếng hát như một dòng nước mát, đã thấm sâu vào con người của ông và làm cho ông dịu lại. Ông ngồi đó, cúi đầu, lắng nghe Thạch Lang hát, mặt tỏ vẻ băn khoăn.
Sau buổi học tập này, Thạch Lang bị hình phạt nặng. Người ta buộc nó phải đi bộ từ Hà Tĩnh ra tới một trại học tập khác ở tận trên chốn rừng thiêng nước độc miền Lạng Sơn. Ở đây, cuộc sống kham khổ lạ lùng. Nhiều người bị tê bại. Nhiều người tay chân đã bầm đen lại. Nhiều người con mắt đục lờ. Nhiều người bị đui mù hẳn. Một hôm vào rừng đốn củi dưới sự canh gác của một cán bộ, Thạch Lang thấy rung động tâm hồn. Nó chợt nhớ rằng nó xuống núi đã gần mười hai mùa trăng, và đã đến lúc nó phải trở về nguyên quán. Nó nhớ tới Tố giờ này chắc đang khổ đau vì bặt tin nó. Tố mù lòa làm sao có thể một mình đi tìm má? Nó phải tìm về với Tố. Nó phải ở bên Tố thì Tố mới có hy vọng tìm ra được bà Ba Tý.
Nghĩ tới đó, Thạch Lang thấy hiện ra trước mắt một ngọn núi cao với một mỏm đá nằm cheo leo trên đỉnh lớn, in hình trên bầu trời xanh biếc. Nó nhớ lại một cái hốc đá, nhỏ bằng một bông hoa hướng dương, trong ấy sương khuya từ trời cao đêm nào cũng đọng lại đầy một nửa. Nước này là một thứ cam lộ: uống vào một hớp là hết khát cả một vạn năm. Uống một hớp nước này vào thì ưu phiền ngàn kiếp cũng tiêu tan theo mây khói. Nó nghĩ rằng nếu Tố được lên tới đây, uống một hớp nước kia và lấy được nước kia rửa lên hai mắt thì Tố sẽ có thể sáng mắt trở lại. Nghĩ tới đó, tự nhiên Thạch Lang cất cao tiếng hát. Người cán bộ còn đang trố mắt nhìn Thạch Lang thì bốn bên núi rừng đã có tiếng xào xạc. Chim chóc bay về trong phút chốc đã dày đặc cả bầu trời. Mặc cho người cán bộ ngơ ngác nhìn lên, Thạch Lang tiếp tục cất cao giọng hát. Một lát sau, Thạch Lang nghe thấy tiếng gọi của con chim vàng. Nó lên tiếng hát bảo chim đưa đường cho nó tìm về với Tố.
Thạch Lang và con chim đi gần hai tuần lễ mới tìm về được tới Biên Hòa. Đến ngoài rào trường mù, nó thoáng nghe tiếng sáo của Tố. Con chim vàng bay vào trong khuôn viên trường để gọi Tố.
Thạch Lang nói cho Tố nghe về ý định của nó muốn đưa Tố lên núi cao để cho Tố được uống nước sương cam lộ trên hốc đá đầu núi, và cũng để nó lấy nước này mà rửa mắt cho Tố. Nghe Thạch Lang nói, Tố thấy một niềm hy vọng nẩy sinh trong lòng nó. Nó thấy niềm hy vọng đó như một cái chồi non nhú mọc lên trong trái tim. Nó có cảm tưởng như nước sương cam lộ đã được tưới lên trái tim nó rồi và vì vậy chồi non kia đã bắt đầu nhú mọc.
Mải nói chuyện, hai đứa về tới xóm Thượng hồi nào mà không hay. Cảnh tượng ở đây tiêu điều. Dân cư thưa thớt hơn trước. Có những dấu tích của sự tàn phá, khiến cho Thạch Lang biết là chiến tranh cũng đã đi qua cả cái xóm nghèo nàn này. Một hồi sau, trông thấy ngôi nhà của bà Ba Tý hiện ra trên sườn đồi, nó reo lên. Tố đưa tay lên ngực. Trái tim của nó đập mạnh. Nó hỏi:
– Nhà mình còn nguyên vẹn không anh? Có thể là có má trong đó không anh?
Thạch Lang nói với Tố là ngôi nhà có vẻ còn lành lặn, nhưng nó bảo nó không thấy có dấu vết gì chứng tỏ bà Ba ở đó. Mặt Tố buồn hiu. Vượt qua suối, hai đứa lần theo con đường đồi thoai thoải để lên nhà. Thạch Lang đẩy liếp cửa bước vào. Tố theo sau. Nhà trống lạnh. Tố đã thuộc từng tấc đất và từng tấc không gian trong ngôi nhà này rồi cho nên nó không cần Thạch Lang dẫn đi nữa. Nó vào phòng, xuống bếp, ra ảnh nước rồi ra vườn rau. Ở đâu nó cũng cảm thấy lạnh tanh. Thì ra má nó chưa từng trở về đây tìm nó. Buồn quá, Tố ra ngồi trên bậc cửa.
Thạch Lang rủ Tố xuống ngồi bên suối. Nơi đây Thạch Lang đã từng thả xuống nước hai con cá nhỏ, một con màu hồng, một con màu bạc. Nó nhắc chuyện này cho Tố nghe. Nó nói:
– Hai con cá đã lên đường cùng một ngày với chúng mình. Không biết chúng đã tìm thấy má chúng hay chưa. Nếu chúng tìm được má chúng thì chưa chừng chúng đã rủ má chúng về đây chơi. Để anh nhìn kỹ xem có hai con cá nào quanh quẩn dưới nước không.
Tố hình dung ra hai con cá nhỏ xíu bơi lội bên nhau. Nó ước ao rằng hai con cá trên đường đi tìm má sẽ không bị chia rẽ ha đường như nó và Thạch Lang. Nếu hai con cá có bị chia rẽ thì Tố cầu mong cho chúng cũng được đoàn tụ như nó với Thạch Lang. Tố bỗng mỉm cười. Ngày lên đường, hai con cá chắc chỉ nhỏ bằng cỡ ngón tay út của nó. Một năm trời đã trôi qua. Hai con cá bây giờ hẳn đã lớn bằng bàn tay.
Thạch Lang và Tố ngủ lại nhà đêm hôm ấy. Sáng hôm sau, hai đứa dậy sớm, vào rừng Đại Lão để tìm lên đỉnh núi.
Chúng băng rừng được chừng nửa ngày thì con đường bắt đầu đi lên. Tuy con chim vàng đã mất dạng từ trưa hôm qua, nhưng bây giờ Thạch Lang đã biết đường lên núi. Gặp những con suối chắn ngang, Thạch Lang phải cõng Tố trên lưng. Đường bắt đầu khó đi. Nhiều khi thấy con đường cheo leo có vẻ nguy hiểm cho một người không thấy đường như Tố, Thạch Lang phải phá một con đường đi vòng ít nguy hiểm hơn để đưa Tố qua. Chúng đi khó nhọc như vậy trong vòng ba hôm thì chạng vạng ngày hôm đó chúng tới được gần chót núi.
– Chỉ còn một quãng đường ngắn nữa thôi, chúng ta hãy dừng lại đây nghỉ chân chút đã.
Thạch Lang nói như vậy và dìu Tố đến ngồi trên một phiến đá. Thấy trán Tố lấm tấm mồ hôi, nó nhặt một tấm lá lớn và quạt cho Tố.
Tố ngồi thở một hồi và bắt đầu cảm thấy khoan khoái. Nó bỗng nhận ra không khí nơi đây trong mát quá chừng. Trong không gian, Tố nghe phảng phất một thứ hương gì rất nhẹ, không biết là của hoa cỏ hay là của mây trời. Lòng nó lâng lâng. Đây là xứ của Thạch Lang. Thạch Lang đã được sinh ra nơi chốn này. Nó hỏi cậu bé:
– Trên này có nhà cửa hả anh Thạch Lang? Anh đưa Tố về thăm nhà của anh nhé. Và cho Tố được thăm ba má anh. Ba má anh gặp lại anh chắc là mừng lắm.
Thạch Lang nhớ ra rằng ngày xưa khi mới gặp nó, bà Ba Tý và Tố có hỏi về nhà cửa của nó và ba má của nó. Nó đã ngập ngừng không trả lời, bởi vì nó không biết trả lời làm sao. Hai người đã nghĩ rằng sở dĩ nó không trả lời là vì nó đang mang trong lòng một nỗi thương tâm nào đó, cho nên họ đã không cố ép. Bây giờ nó cảm thấy nó phải nói cho Tố biết sự thật. Bỏ cái lá xuống, Thạch Lang bảo Tố:
– Anh chỉ biết rằng đây là chốn anh sinh ra, vậy thôi. Anh không có ba má giống như Tố. Anh sinh ra hình như đã lâu lắm rồi. Không biết chính xác là bao lâu. Rất có thể là mặt trăng tròn đã một ngàn lần hoặc một vạn lần đi ngang qua ngọn núi này. Ở trên đây không có nhà cửa gì hết. Cả ngày, cả đêm, anh Thạch Lang ngồi thảnh thơi trên đầu núi, nghe tiếng hát của mây, của trời, của mưa, của gió, của hoa cỏ và chim chóc, và vì vậy lâu ngày tự nhiên anh biết hát.
– Nhưng mà bất cứ đứa trẻ nào sinh ra đời cũng có ba má như em vậy. Ba má anh là ai?
– Anh đã nói là anh không biết. Chắc trời đất đã sinh ra anh, hoặc đá đã sinh ra anh. Mà Tố này, anh có má chớ sao lại không? Má anh là bà Ba Tý, cũng là má của Tố đấy. Anh và em đều là con của má, chúng ta đã chẳng cùng nhau đi tìm má gần suốt một năm rồi sao?
Một giọt nước mắt đọng trên mi, Tố cảm thấy Thạch Lang nói có lý. Khi má nó sinh ra nó thì cùng một lúc má nó cũng sinh ra đất trời nhà cửa cây cối cho nó. Không có má thì làm sao có trời xanh, mây trắng; làm sao có núi rừng, đồng ruộng và cỏ hoa? Nếu không có má nó thì làm sao có Thạch Lang? Vậy thì Thạch Lang cũng do má nó sinh ra, và vì lẽ đó hai đứa đã đi tìm má. Hai con cá nhỏ bé kia, một con hồng, một con bác, chắc cũng là do má sinh ra, và cũng đang đi tìm má. Không ngẩng đầu lên, nó hỏi:
– Anh Thạch Lang, anh nghĩ chúng ta sẽ tìm ra được má hay không, hả anh?
Giọng Thạch Lang vỗ về:
– Sao lại không, Tố? Chắc chắn là chúng ta sẽ tìm ra được má. Má không thể chết được. Má đã sinh ra trời đất, má đã sinh ra rừng núi ruộng vườn. Trời đất, rừng núi và ruộng vườn còn đó thì má còn đó. Chỉ có một việc quan trọng là tìm cho được má. Tìm ra được má thì mọi chuyện sẽ yên lành: người lớn sẽ không còn giết nhau, nhà cửa sẽ không còn bị tàn phá, trẻ con sẽ không còn bị lưu lạc. Anh đi tìm má, Tố đi tìm má. Mà anh chắc má cũng đang đi tìm chúng ta. Tố, em có tin lời anh nói không? Má không bao giờ chết được, và một ngày kia, chắc chắn chúng ta sẽ tìm lại được má.
Tố im lặng. Xưa nay, có lúc nào nó không tin ở lời Thạch Lang đâu. Từ khi nó biết Thạch Lang, Thạch Lang chưa hề nói gạt nó lần nào, dù là trong một trò chơi giữa hai đứa. Thạch Lang mà nói thì là có thật. Nó cảm thấy có nhiều tin tưởng. Thạch Lang nói tiếp:
– Ngày xưa anh ngồi trên này mà nghe được tiếng sáo của Tố từ rừng dưới đưa lên, rõ như là Tố ngồi ngay bên cạnh anh vậy. Nghe tiếng sáo của Tố, anh biết Tố đang đau buồn cho nên anh đã đi xuống tìm Tố. Anh đã quen biết Tố, Tố đã dạy anh nói năng, đọc chữ, làm toán. Anh đã hát cho Tố nghe và dẫn đường cho Tố đi, anh đã làm hai con mắt cho Tố. Hai đứa đi chung cũng như là một đứa. Sự thật thì anh và Tố chỉ là một đứa mà thôi, bởi vì trong Tố cũng có anh và trong anh cũng có Tố. Điều này chắc bây giờ Tố chưa thấy, nhưng mai mốt Tố sẽ thấy. Mà khi Tố thấy rồi thì đi đâu Tố cũng thấy có anh một bên. À này, Tố có biết bây giờ mặt trăng đã lên rồi hay không? Trời sáng lắm. Trăng rất tròn, có lẽ đêm nay là đêm trăng rằm tháng tư. Hôm anh xuống núi cũng là đêm trăng rằm tháng tư. Em khỏe chưa? Còn một đoạn đường ngắn nữa thôi là chúng mình lên tới chóp núi. Đường dễ đi lắm.
Tố đứng dậy; Thạch Lang đưa cánh tay trái cho nó. Hai đứa lần đi dưới ánh trăng vằng vặc.
Chỉ một lát sau là chúng lên tới chót núi. Thạch Lang tìm chỗ cho Tố ngồi, bảo Tố dựa lưng vào một vách đá. Tố im lặng nghe ngóng. Trời đất ở đây thanh tĩnh một cách kỳ lạ. Tố có cảm tưởng là rừng núi ở cách nơi nó ngồi rất xa, và nơi nó ngồi là một hòn đảo hoang xung quanh có đại dương bao bọc. Nó nghe tiếng gió thì thào rất nhẹ. Nó đưa tay lên sờ mặt thì thấy hai gò má nó mát lạnh. Sương đã bắt đầu xuống. Tố nghe tiếng chân của Thạch Lang leo trèo một nơi cách đó không xa. Rồi có tiếng cậu bé vọng lại:
– Phải chờ đến nửa đêm thì mới có sương cam lộ trong hốc đá.
Thạch Lang quanh quẩn bên phía ấy một hồi rồi trở lại ngồi bên Tố. Nó nói:
– Trăng sáng lắm. Phía dưới kia, sương mù che lấp cả rừng cây. Phía trên này cũng có sương, nhưng còn nhẹ lắm. Anh trông thấy rất nhiều sao. Mau quá, mới đó mà đã mười hai mặt trăng tròn đi qua rồi.
Rồi quàng tay trên vai Tố, nó nói:
– Ngày mai, khi xuống núi, ta cứ đi theo hướng mặt trời mọc là tìm về được tới nhà. Thế nào Tố cũng phải nhớ ghé suối để nhìn xem mấy con cá đã trở về chưa, nghe Tố. Tố đang nghĩ gì vậy?
– Em đang nghĩ tới giấc mộng kỳ lạ hôm trước và nhớ lại lúc anh cầm cái bông hướng dương soi đường cho em đi tìm má. Em thấy cái bông hướng dương đó tỏa ra một thứ ánh sáng mờ nhạt, đủ để cho chúng ta thấy đường mà đi. Em nhớ lúc ấy em cũng thấy rõ đường đi như anh, giống hệt như hai mắt em không mù vậy. Này anh Thạch Lang, có anh bên em thì em không còn thấy em mù nữa. Anh là con mắt của em.
Nói xong câu ấy, Tố cười lên khanh khách…
Mặt trăng tròn vành vạnh đã ra tới giữa bầu trời, chính chắn trên đầu hai đứa. Đúng là nửa đêm. Trời đất thanh tĩnh lạ thường. Thạch Lang rời chỗ ngồi tới thăm dò hốc đá. Nó kêu lên:
– Sương cam lộ đã chảy đầy hốc đá rồi, Tố.
Nói xong, nó chạy về đỡ Tố đứng dậy. Từng bước, từng bước, Tố liền tới hốc đá, theo sự hướng dẫn của cánh tay Thạch Lang. Cuối cùng, Thạch Lang dừng lại.
– Đây là nước sương cam lộ mà anh đã nói với Tố. Anh sẽ vốc nước này cho em uống và để cho em rửa mắt. Uống nước này vào em sẽ khỏe khoắn lắm. Không cần ăn uống gì trong nhiều tháng mà thân thể và tinh thần em vẫn khương kiện. Nhất là em sẽ không còn bị khát nước nữa. Anh cũng mong nước này sẽ rửa mắt của em sáng lại.
Trịnh trọng, Thạch Lang đưa hai tay lên vốc một ít nước cam lộ trong hốc đá. Tố nghe như thời gian ngưng đọng xung quanh nó. Tố có cảm tưởng rằng trên không trung, mặt trăng và tất cả mọi vì tinh tú đang chăm chú trang nghiêm nhìn về nó. Nó có cảm tưởng đứng bên cạnh Thạch Lang còn có ông già với bộ râu tuyết mà nó đã được gặp dưới thủy cung trong giấc mơ kỳ lạ đêm trước: ông ta hiện đang cầm một cái mặt trời, sắp sửa đưa cho nó. Hai chân run rẩy, Tố quỳ xuống trên đá, và cảm thấy an lành hơn trong tư thế này. Trong lúc đó, Thạch Lang đưa vốc nước vào tận môi nó. Tố cung kính uống. Nước đi vào tới đâu, Tố thấy ruột gan mát rượi tới đó. Nó thở những hơi thở nhẹ và dài. Nó cảm thấy bao nhiêu ưu phiền và nhọc mệt tích tụ lại trong bấy lâu nay đã tan biến đi đâu mất hết. Nó yên lặng quỳ để cho Thạch Lang lấy nước rửa mắt cho nó.
Cậu bé vốc nước rửa mặt cho Tố nhiều lần với thái độ rất kính cẩn. Rồi cậu dìu Tố ngồi xuống.
– Ở đây có mặt đá bằng phẳng, chúng ta có thể nằm nghỉ. Tố nằm xuống đây, gối đầu lên chỗ này. Được rồi. Để anh cởi bớt một chiếc áo ngoài phủ lên trán cho Tố, cho sương đêm đừng làm Tố nhức đầu vì lạnh. Anh cũng nằm xuống đây để nghỉ ngơi một lát.
Tố nằm yên, lắng nghe. Nó cảm nhận được sự yên tĩnh sâu xa của cảnh vật xung quanh nó. Một lần nữa nó có cảm tưởng đang ở trên một cái đảo nhỏ giữa đại dương mênh mông. Có tiếng gió thì thào ở đâu xa lắm. Thỉnh thoảng lại có những giọt sương từ trên đá rơi nhẹ xuống đất. Nó còn nghe tiếng thở rất đều đặn và êm ái của Thạch Lang. Thạch Lang chắc đã ngủ rồi. Có lẽ nó cũng phải ngủ một chút mới được. Tố theo dõi tiếng thở của Thạch Lang. Dần dần tiếng thở ấy hòa lẫn với tiếng gió thì thào ở xa xa. Một lát sau, nó ngủ thiếp đi.
*      *
*
Tiếng chim hót buổi sáng líu lo khiến Tố tỉnh dậy. Nó đưa tay lên che mắt, đồng thời có một cảm giác vừa quen vừa lạ. Thôi đúng rồi, cái cảm giác chói chang khiến nó đưa tay lên che mắt là do ánh sáng gây ra. Mắt nó đã sáng trở lại; Thạch Lang đã làm cho mắt nó sáng trở lại. Vẫn giữ hai bàn tay che trên mắt cho khỏi chói, nó liếc nhìn cảnh vật qua những kẽ hở nhỏ giữa những ngón tay. Thấp thoáng nó thấy đá, thấy trời. Một lát sau, nó buông hai bàn tay xuống.
Hình ảnh mà nó trông thấy trước nhất là một khối đá lớn, lớn bằng ba lần cái nhà của ba má nó, dựng đứng trên một khung trời xanh biếc không một gợn mây. Trời lớn quá, rộng quá, dàn trải xuống cả phía dưới chân núi. Chỗ nó đứng quả giống như một hòn đảo độc lập. Quay lưng nhìn về phía sau, nó thấy núi rừng phía dưới còn mờ ảo trong sương mù buổi sáng. Hồi hôm, nó và Thạch Lang đã từ phía ấy đi lên. Ở đây, nó có cảm tưởng gần với trời mây hơn là gần với rừng núi. Cảnh tượng vĩ đại quá khiến nó có cảm tưởng là nó đã thoát ra khỏi cuộc đời đầy đau thương và tang tóc rồi.
Đưa mắt nhìn quanh, nó không trông thấy Thạch Lang. Có lẽ cậu bé còn đang đi chơi đâu đó. Nó lên tiếng gọi:
– Anh Thạch Lang!
Tiếng gọi của nó phát ra như một làn sóng gợn. Từng âm thanh được truyền đi, thấm vài không gian, rừng cây, sương mù, vách đá và dội lại, âm nào rành rọt hướng ấy. Nhưng không có tiếng Thạch Lang trả lời. Tố bụm tay lên miệng, gọi Thạch Lang lần nữa. Tiếng gọi của nó nghe như tiếng gọi của một vị nữ chúa rừng xanh có đủ uy quyền, vang dội khắp dưới trên.
Nhưng vẫn không có tiếng Thạch Lang trả lời.
Tố bắt đầu hoảng. Nó leo lên mô đá trước mặt, phóng tầm mắt nhìn về phía mặt trời đang mọc. Không có một hình bóng nào lay động có thể cho là dấu hiệu của Thạch Lang. Thất vọng, nó ngước nhìn lên phía mô đá. Bỗng nhiên nó giật bắn mình như có điện giật. Mỏm đá trên cheo leo cao nhất ở chót núi trông giống hệt như Thạch Lang đang ngồi, đưa tay vẫy nó.
Thật cũng lạ lùng. Từ khi biết Thạch Lang, Tố chưa từng trông thấy hình dáng của Thạch Lang bao giờ, vậy mà bây giờ nó nhận ra được hình dáng ấy nơi mỏm đá. Hình dáng ấy trước đây nó đã hình dung ra từ những âm thanh mà nó đã tiếp nhận được bằng tai và từ những đường nét mà nó đã tiếp nhận được bằng hai bàn tay của nó. Đây là lần đầu tiên Tố thấy được hình dáng Thạch Lang bằng hai mắt nó. Lần đầu tiên mà cũng là mãi mãi.
Tố dụi mắt nhìn kỹ lại mỏm đá. Lần này nó không thấy bàn tay Thạch Lang đưa lên vẫy nó nhưng nó vẫn thấy rõ ràng là mỏm đá có dáng điệu y hệt như Thạch Lang đang ngồi.
Nó biết Thạch Lang đã lui về nơi sinh thành của Thạch Lang, và đã trở lại thành mỏm đá.
“Cả ngày cả đêm anh thảnh thơi trên đầu núi, nghe tiếng hát của mây, của trời, của mưa, của gió, của hoa cỏ và chim chóc, và vì vậy lâu ngày tự nhiên anh biết hát”. Tố nhớ lại lời của Thạch Lang nói với nó hôm qua. “Anh sinh ra hình như đã lâu lắm rồi. Không biết chính xác là bao lâu. Rất có thể là mặt trăng tròn đã một ngàn lần hoặc một vạn lần đi ngang qua ngọn núi này”.
Thôi, Thạch Lang đã bỏ Tố lại một mình trên cõi đời này, Thạch Lang đã về với Tố, tại sao Thạch Lang không ở mãi bên mình Tố? “Sự thật thì anh và Tố chỉ là một đứa mà thôi, bởi vì trong Tố cũng có anh và trong anh cũng có Tố. Điều này chắc bây giờ Tố chưa thấy, nhưng mai mốt Tố sẽ thấy. Mà khi Tố thấy rồi thì đi đâu Tố cũng thấy có anh một bên”. Giọng nói của Thạch Lang như đang văng vẳng bên tai Tố.
Tố khóc sướt mướt, bởi vì Tố chỉ là một đứa trẻ con. Tố khóc rất lâu cho đến khi mặt trời lên cao, cho đến khi mặt trời đã ngự trên đỉnh đầu Tố. Thạch Lang đã bỏ Tố đi rồi. Thạch Lang không thương Tố. Má Tố đã bỏ Tố rồi, bây giờ Thạch Lang lại cũng bỏ Tố nữa sao? Một mình, Tố làm sao đi tìm má? Thạch Lang ơi!
Tố bỗng ước ao hai mắt nó mù trở lại để Thạch Lang có thể trở về ngồi bên nó, để nó có thể nói chuyện với Thạch Lang, nắm lấy tay Thạch Lang và đưa những ngón tay sờ lên mặt Thạch Lang.
Lòng thổn thức, nó lau khô nước mắt, và nâng ống sáo lên. Bao nhiêu thương nhớ trong lòng, nó truyền hết vào tiếng sáo. Tiếng sáo của nó làm cho những đám mây bay ngang phải dừng lại và quy tụ quanh đỉnh núi.
Con chim vàng đã bay đến đậu trên mỏm đá từ lúc nào Tố không hay biết. Con chim lên tiếng trong trẻo khiến Tố chú ý và dừng ngay tiếng sáo. Nó lắng nghe xem con chim muốn nói với nó điều gì. Từng âm, từng ý rõ ràng, rành mạch, con chim chuyển cho Tố những lời sau đây:
“em còn nhớ ngày đầu tiên khi mẹ đưa tôi về
nhờ năm nhóm nhiệm mầu, em mới trông thấy
bóng hình tôi hiển lộ?
ngày mai bóng hình mất đi
em hãy mỉm cười
và bình thản tìm tôi trở lại
tìm tôi qua thanh sắc đã sinh và đã mất
để thấy rằng tôi vẫn còn chân thực
chưa bao giờ đi
chưa bao giờ đến
qua thời gian, qua nhận thức
qua chủ khách tồn sinh…” (3)
Tố nhận được rành mạch những lời của con chim truyền lại, những lời mà nó biết rằng Thạch Lang muốn truyền cho nó. Tố không hiểu những lời trên, nhưng nó cố ghi vào tâm nó để có thể thuộc lòng. Rồi nó nâng ống sáo lên, hỏi chim là tại sao Thạch Lang đi đâu và vì sao Thạch Lang không chịu về cùng nó. Con chim khởi sự lặp lại những lời thơ mà nó đã truyền cho Tố một lần. Nó không thêm thắt một âm nào, một ý nào của riêng nó.
Biết là cố nài nỉ thêm cũng vô ích, Tố chậm rãi đặt ống sáo xuống. Không có Thạch Lang, làm sao nó xuống núi một mình? Bỗng Tố giật mình. Nó biết có một cái gì rất trọng đại đã xảy ra trong nó. Đúng rồi, bây giờ nó đã có hai mắt sáng như xưa và nó có thể đi xuống núi một mình. Nó nhớ lại hôm qua chính nó đã nói với Thạch Lang: “Này anh Thạch Lang, có anh bên em thì em không còn thấy em mù nữa. Anh là hai con mắt của em”. Ô hay, bây giờ nó đã thực sự không mù nữa rồi, thì cũng như là Thạch Lang từ lúc này sẽ luôn luôn có mặt bên nó. Tới đây, Tố cảm thấy như có một luồng ánh sáng đi xẹt qua tâm trí nó. Nó có cảm tưởng nó hiểu câu nói của Thạch Lang hôm qua: “Sự thật thì anh và Tố chỉ là một đứa mà thôi, bởi vì trong Tố cũng có anh và trong anh cũng có Tố. Điều này chắc bây giờ Tố chưa thấy, nhưng mai mốt Tố sẽ thấy. Mà khi Tố thấy rồi thì đi đâu Tố cũng thấy có anh một bên.”
Một giọt nước mắt ấm từ từ lăn trên gò má cô bé. Giọt nước mắt tuy chảy từ một trái tim buồn đã làm êm dịu lại tâm hồn bé bỏng của nó. Hèn gì hôm qua Thạch Lang đã nói: “Ngày mai, khi xuống núi, ta cứ đi theo hướng mặt trời mọc thì tìm về được tới nhà”. “Ta cứ đi theo” có nghĩa là Thạch Lang cũng cùng đi với Tố.
Tố ngước mắt nhìn trời xanh, mây trắng, mỏm đá và rừng cây. Nó cảm thấy là chính Thạch Lang đang nhìn, đang thấy và đang chuyển những hình ảnh kia cho nó. Tố lắng tai nghe. Những âm thanh vi vu của gió, của cây mà nó đang nghe kia, nó nghĩ là tiếng nói của Thạch Lang. Nó có cảm tưởng rằng hễ nó chú ý lắng tai là nó có thể nghe tiếng Thạch Lang. Thạch Lang bây giờ không những là ở trong nó mà còn là ở khắp nơi.
Tố ngước nhìn mỏm đá trên cao. Dáng đá in trên trời xanh đúng là dáng điệu thanh tú, thơ dại và can trường của Thạch Lang. Tố không xuống núi ngay bây giờ đâu. Nó còn muốn ở lại đỉnh núi cho hết hôm nay. Sáng mai nó xuống núi cũng còn kịp. Nó đã đặt niềm tin nơi Thạch Lang. Má nó không thể chết được, nhất định là nó sẽ tìm ra má nó. Nó đi tìm cũng như là cả hai đứa đi tìm. Và còn hai con cá nữa, và còn ông Đạo kia nữa. Một ngày nào đó, gặp được má, nó sẽ kể hết cho má nghe về Thạch Lang. Đến ngày ấy, chắc chắn là người lớn sẽ không còn giết nhau, nhà cửa sẽ không còn bị tàn phá, và trẻ con sẽ không còn bị bơ vơ như bây giờ nữa.
Để xác định niềm tin đo với Thạch Lang, nó nâng ống sáo lên thổi. Trời, mây, đá, núi và rừng cây lắng nghe.

(*) Giọt nước mắt cho quê hương, nhạc Trịnh Công Sơn.
(2) Thơ của Phan Khôi.
(3) Trích trong bài Một mũi tên, ròi hai cờ ảo tượng thơ của Nhất Hạnh. Sau đây là nguyên bản bài thơ, trích trong tập Chấp tay nguyện cầu cho bồ cầu trắng hiện, Lá Bối, Sài Gòn, 1965:
“cũng như dòng suối về gặp đại dương
ngày mai ra đi anh nhớ hát lên khúc ca mùa mới
tiếng hát kia vẳng lại sẽ đủ sức tiễn tôi trên một đoạn đường”
tôi sẽ không ra đi, hoặc sẽ ra đi nhưng không bao giờ tôi đến, nơi khởi hành có trăng mây gió nước, và nơi tôi đến, đón chờ cũng sẽ có hoa vàng trúc tím
là lá là hoa, em đã có tôi từ vô thỉ
và màu xanh trời cao trong mắt em sẽ còn mãi mãi, nhưng vì không thấy, thương tôi, em đã bao lần nhắc chuyện ra đi.
sáng nay sau giấc ngủ của trăng sao, vũ trụ làm rơi những giọt nước mắt trong như pha lê,
êm dịu sương khuya, hãy khóc cho hồn ngươi thêm đẹp
nước mắt sẽ biến hồn hoang vu thành nơi vườn quê tươi sáng, thanh lương thấm lòng trái đất, nâng niu lộc mướt chồi non,
ngày xưa những khi ngồi nhìn em khóc, tôi cũng đã ưng khóc để được dỗ dành
ôi thiên nhiên
bà mẹ tóc xanh, xanh mước đất trời, nụ cười đem về đầy bướm chim, hoa lá,
là lá là hoa, em đã có tôi từ vô thỉ
và trong nhận thức mong manh em, tôi thực chưa bao giờ từng hiện hữu tử sinh.
em có nhớ ngày đầu tiên khi mẹ đưa tôi về, nhờ năm nhóm nhiệm mầu, em mới trông thấy bóng hình tôi hiển lộ?
ngày mai bóng hình mất đi
em hãy mỉm cười
và bình thản tìm tôi trở lại
tìm tôi qua thanh sắc đã sinh và đã mất
để thấy rằng tôi vẫn còn chân thực
chưa bao giờ đi
chưa bao giờ đến
qua thời gian, qua nhận thức qua chủ khách tồn sinh.
tìm tôi và tiện dịp em tìm em
nét khám phá nguyên sơ
chỉ cho em thấy rằng em là bất diệt
em sẽ thấy
không có gì đi, mất
và với một mũi tên thôi, em bắn rơi một lần hai lá cờ huyển tượng
chân như sẽ xuất hiện mầu nhiệm nơi tử sinh
tôi đang mỉm cười an nhiên trong phút giây hiện tại
nụ cười nở mãi trong bài ca mùa xuân bất tận
trong nụ cười kia em cũng sẽ thấy em còn mãi
bởi vì em quả thực chưa từng bao giờ hiện hữu trong ảo tưởng tồn sinh
nụ cười hôm nay, ta sẽ nhìn thấy ngày mai
tận cuối đường ảo tưởng
không có gì đã qua và đã mất
không có gì sẽ qua và sẽ mất
và suối chim khuyên em hôm nay
“hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca”

47. Một mùa hạ không bao giờ chấm dứt

Ðây là lần đầu tiên Tý được nghe kể chuyện đức Quan Âm Nam Hải. Chị Trang nói với Tý là chị đã từng được nghe chuyện này một lần rồi. Sư Ông bảo người tu hành đắc đạo và tỉnh thức thì khi nào cũng có nhiều tay và nhiều mắt. Nhiều mắt để nhìn cho khắp và cho rõ cuộc đời, nhiều tay để có thể tham dự vào mọi hành động giúp đời. Tý ngồi ngay bên trái Sư Ông. Sư Ông cầm lấy cánh tay Tý và nói:
– Nếu cánh tay này mà biết bảo vệ cho sự sống thì nó cũng là một cánh tay của đức Bồ Tát Quan Âm.
Và Sư Ông bảo mọi người đưa bàn tay của mình lên nhìn.
– Nếu bàn tay của các con mà biết giúp người và làm vơi đi sự đau khổ của kẻ khác thì đó cũng là bàn tay của đức Bồ Tát. Bàn tay phá phách và tàn hại thì không phải là bàn tay của Bồ Tát, nhưng bàn tay trồng cây mận để nuôi các bạn thiếu nhi đói thì chắc chắn là bàn tay của Ngài. Bàn tay của các cô các chú đang lo cho thiếu nhi đói khổ và bệnh tật cũng là những bàn tay của Ngài. Bồ Tát có nhiều hơn ngàn mắt và ngàn tay.
Sư Ông nói cho bọn Tý biết là Sư Ông đã từng gặp những bàn tay rất đẹp của đức Bồ Tát. Ở Bắc Âu, Sư Ông có quen với một người đã từng bí mật giúp cho hơn hai mươi ngàn người gốc Do Thái thoát khỏi sự giết hại của quân Phát xít Ðức trong trận thế chiến thứ hai. Bàn tay người ấy nếu không phải là bàn tay của Bồ Tát thì là bàn tay của ai? Người ấy bây giờ đã lớn tuổi bằng Sư Ông nhưng hồi thế chiến thứ hai vẫn còn là một thiếu nữ trẻ bằng công chúa Diệu Thiện. Tên bà là Hebe Kohlbrugge.
Những lời nói của Sư Ông làm cho Tý xúc động. Tý thầm nghĩ sau này mình sẽ sống xứng đáng với lòng thương của các bậc Bồ Tát. Tý phải bắt đầu tập thấy và tập nghe.
Tý nghe Sâm nói năm ngoái về sống ở Am Phương Vân, anh Danh có nhận xét rằng cái gì ở Am Phương Vân cũng vui và cũng đẹp; Am Phương Vân chỉ thiếu một cái mà anh thích, đó là cái máy vô tuyến truyền hình. Anh Danh mê xem vô tuyến truyền hình lắm. Tuy nhiên sau vài tuần cư trú ở Am Phương Vân, anh bảo rằng anh không thấy thiếu và nhớ máy truyền hình nữa. Ba nói với Tý: máy truyền hình làm mất thì giờ của chúng ta lắm. Nếu cả ngày ta cứ đeo sát cái máy truyền hình thì mắt ta và tai ta hoàn toàn bị cái máy truyền hình chiếm đóng; ta không còn cơ hội để tập nhìn và tập nghe như một đức Bồ Tát Quan Âm nữa. Tý và Miêu cũng mê máy truyền hình như anh Danh, nhất là hồi còn ở Việt Nam. Từ hồi tới định cư ở đây, Ba có dặn hai anh em chỉ nên xem máy truyền hình mỗi tuần một lần. Có một hôm chàng Miêu lén qua nhà bác Mounet để xem truyền hình màu; ai dè Mẹ qua thăm và thấy được. Mẹ không rầy, nhưng Tý thấy Miêu có vẻ tiu nghỉu và thẹn thùng vì đã dấu Mẹ.
Trưa hôm nay không có giờ Sử Ðịa vì các thầy giáo và cô giáo đều đã đi hội thảo trên Xóm Thượng về Tương Lai Văn Hóa. Tất cả thiếu nhi đang họp nhau chơi bên gốc cây Sồi. Tiếng la hét vang dội. Họ đang chơi trò Rồng Rắn. Tý đứng với Ba trước Tham Vấn Ðường nhìn ra. Tý không tham dự vào trò chơi, nhưng Miêu lại đang làm đuôi rồng. Chị Trang làm ông thầy thuốc. Con rồng khá dài, có gần tới mười lăm khúc. Khúc đuôi là em Miêu đang chạy trốn chị Trang rất giỏi. Thiếu nhi đứng quanh hò hét khá đông. Ðúng là cảnh tượng mà Tý thấy trong trí hồi giữa mùa Ðông năm rồi. Mùa Ðông lạnh ướt và khó chịu ấy hình như chưa bao giờ xảy ra cả. Trời bây giờ rất nóng, và những ngày mùa hạ khô ráo kéo dài. Ba nói chỉ còn bốn hôm nữa là Làng đóng cửa, và Tý cùng Miêu sẽ lại rời Xóm Thượng về nhà để chuẩn bị đi học. Tý biết như vậy, nhưng Tý thấy khó tin quá. Tý sẽ đi học, lên lớp và một ngày nào đó phải từ giã đời sống thiếu nhi. Tý sẽ thành người lớn và sẽ phải xông pha vào trong cuộc đời. Ai cũng nói vậy, và theo lý lẽ Tý cũng phải chấp nhận điều đó. Nhưng cảnh tượng trước mắt còn hiện thực quá, còn rõ ràng quá. Bọn thiếu nhi đang chơi rồng rắn và la hét ầm vang. Tý không phải là một người đứng ngoài để xem xét. Tý có thể chạy ngay vào để nhập cuộc, nếu Tý muốn.
Tý có cảm tưởng mùa hè sẽ kéo dài bất tận và thiếu nhi Làng Hồng sẽ mãi mãi có mặt chơi đùa và la hét vang dậy tại Làng Hồng. Tý nhìn ngắm cảnh tượng ấy không biết chán. Ba đứng ngay sau lưng Tý. Và trên vai trái của Tý, Tý cảm thấy rất rõ bàn tay của Ba đặt trên ấy, không biết tự bao giờ.