Thiền tập cho người bận rộn

Thức dậy vào mỗi buổi sáng

Ngay khi mới thức dậy, bạn có thể mỉm cười liền lập tức, nụ cười này mang tính giác ngộ: bạn ý thức là một ngày mới được bắt đầu và hăm bốn giờ tinh khôi là món quà mà sự sống đang hiến tặng cho bạn. Đó là tặng phẩm quý giá nhất. Bạn có thể đọc thầm hoặc đọc lớn tiếng bài thơ này:

Thức dậy miệng mỉm cười
Hăm bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn vẹn
Mắt thương nhìn cuộc đời.

Bạn có thể vẫn nằm yên trên giường, buông thẳng hai tay và hai chân một cách thoải mái trong khi đọc bài thi kệ ấy. Thở vào, đọc thầm câu đầu. Thở ra, đọc thầm câu thứ hai. Thở vào, đọc câu thứ ba. Thở ra, đọc câu thứ tư. Và với nụ cười, bạn ngồi dậy, quơ dép và đi vào phòng rửa mặt.

Múc nước đổ vào chậu, thau
hay vặn nước máy để rửa mặt

Bạn có thể có nhiều hạnh phúc trong thời gian rửa mặt, súc miệng. chải đầu, cạo râu hay tắm, nếu bạn biết đem ý thức chiếu rọi vào những gì bạn đang làm. Ví dụ khi mở nước, bạn biết là nước bắt đầu chảy ra từ vòi nước và bạn cũng biết được là nước từ đâu chảy tới tận phòng rửa mặt của bạn. Bạn có thể thầm đọc bài thi kệ sau đây:

Nước từ nguồn suối cao
Nước từ lòng đất sâu
Nước mầu nhiệm tuôn chảy
Ơn nước luôn tràn đầy.

Bài thi kệ này giúp bạn thấy được nước từ đâu tới, biết được nước từ đâu tới. Cái thấy đó đã là thiền quán. Bạn cũng biết rằng bạn đang may mắn, vì nước không bị cúp. Cái biết đó đem lại cho bạn hạnh phúc. Cái biết đó là chánh niệm. Chánh niệm là ý thức, là khả năng nhận diện được cái gì đang xảy ra ở đây trong giây phút này. Cái đang xảy ra là bạn đang mở nước và có nước đang chảy ra. Ở làng Mai bên Pháp thỉnh thoảng cũng bị cúp nước. Mỗi lần như thế mình biết được cái khổ khi không có nước và hạnh phúc khi có nước. Cái hạnh phúc chỉ được nhận diện khi mình nhớ tới cái đau khổ! Tôi thường mở nước nhẹ thôi và lấy bàn tay hứng nước mát lạnh phải vào hai mắt. Bên này mùa Đông nước lạnh lạnh lắm! Cái cảm giác do nước lạnh gây nên trên ngón tay, trên hai mắt và trên gò má rấtdễ chịu. Bạn hãy nhận diện cảm giác đó. Bạn tỉnh hẳn ra do cảm giác đó. Bạn hãy tận hưởng cái cảm giác đó. Bạn hạnh phúc cũng nhờ bạn biết trân quý nước và nhờ tâm niệm biết ơn của bạn.

Lấy gáo múc nước trong chum hay trong vại để đổ vào thau rửa mặt cũng thế, bạn hãy để tâm ý vào từng động tác, đừng suy nghĩ đến những chuyện khác và quan trọng nhất là phải thấy có niềm vui trong từng động tác, đừng làm hấp tấp cho mau xong. Thiền là như thế ! Thiền là có mặt thực sự cho mình trong từng giây phút của sự sống, và khả năng nhận diện rằng mỗi giây phút của sự sống là một tặng phẩm của sự sống, một tặng phẩm của đất trời. Cái hạnh phúc này được gọi là thiền duyệt (The joy of meditation).

Chải răng

Đây là một thử thách cho bạn. Bạn có một tới hai phút để chải răng. Làm sao để bạn có hạnh phúc trong thời gian ngắn ngủi ấy? Đừng hấp tấp, đừng cố chải răng cho mau xong. Phải đem hết tâm ý đặt vào việc chải răng. Bạn có thì giờ để chải răng. Bạn có bàn chải, có kem và có răng để chải. Tôi đã trên tám mươi tuổi, vậy mà mỗi khi chải răng tôi đều có hạnh phúc: tôi thấy đến tuổi này mà còn có mấy mươi cái răng để chải là cũng mầu nhiệm lắm. Đây là sự thách thức: chải răng như thế nào để bạn có được thảnh thơi và hạnh phúc trong thời gian từ một phút đến hai phút chải răng. Làm được như thế là có thiền, là thành công rồi đấy.
Đây là một bài kệ bạn có thể sử dụng trong khi chải răng:

Chải răng và súc miệng
Cho sạch nghiệp nói năng
Miệng thơm lời chánh ngữ
Hoa nở tự vườn tâm.

Những bài thi kệ giúp ta đưa ý thức trở về với những gì trong giây phút hiện tại. Ta đừng bị kẹt vào những bài thi kệ, nếu ta có niệm, có định, nếu ta an trú được trong hiện tại thì ta cũng không cần đến những bài thi kệ ấy lắm đâu.

Tắm dưới gương sen, gội đầu, chải đầu, cạo râu, mặc áo
Trong khi kỳ cọ, xoa xà phòng, cạo râu, chải đầu, mặc áo, ta đều có thể thực tập như khi ta chải răng. Ta để tâm ý hoàn toàn vào cái ta đang làm. Ta làm cho thong dong, cho hạnh phúc, như thể cạo râu, chải tóc, cạo đầu là việc quan trọng nhất trên đời. Đừng để suy tư kéo ta đi về quá khứ, đi về tương lai hay làm ta kẹt vào những lo lắng, sầu khổ, giận hờn. Bạn tập đi, vài ba ngày sẽ thấy tiến bộ, giống như tập đàn, chơi bóng bàn, tập hát… Bạn hãy tập sống sâu sắc và thảnh thơi mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Mà muốn được như vậy, tâm ý phải rời bỏ quá khứ, rời bỏ tương lai và rời bỏ ưu tư để trở về với giây phút hiện tại. Giây phút hiện tại là giây phút duy nhất chứa đựng sự sống với tất cả những mầu nhiệm của nó.

 

Ngồi thở

Có người ngồi thiền mỗi lần nửa giờ, bốn mươi lăm phút hoặc nhiều hơn. Ở đây tôi chỉ xin bạn ngồi hai hoặc ba phút. Nếu sau này thấy ngồi thiền dễ chịu, bạn cứ việc ngồi thêm, ngồi bao lâu cũng được.

Nếu trong nhà bạn có bàn thờ Phật thì bạn có thể ngồi trước bàn Phật. Nếu không, bạn chọn một nơi nào thích hợp, có thể là trước cửa sổ, ngồi nhìn ra ngoài trời. Sắm một cái gối nhỏ, dày chừng mười tới mười lăm phân, kê dưới mông; hai bàn chân xếp lại đầu gối đặt xuống bên ngoài chiếc gối nhỏ, như vậy mông và đầu gối trở thành thế ba chân vạc, ngồi rất vững, không kẹt, có thể ngồi lâu không tê chân. Chọn chiếc gối nhỏ có chiều dày thích hợp với bạn. Bạn cũng có thể đốt một cây nhang cho khung cảnh được thanh thoát hơn. Tay cầm cây nhang cho khoan thai, tập trung tâm ý vào việc đốt nhang và cắm nhang vào bình. Làm sao cho có chú tâm (niệm) và tập trung (định) trong khi đốt nhang. Tâm ý hoàn toàn có mặt trong khi đốt nhang. Ngồi xuống, để lưng và đầu thành một đường thật thẳng, thẳng mà không cứng. Thở vào và chú ý tới tác động của hơi thở vào nơi bụng và nơi ngực. Thở ra và chú ý tới tác động của hơi thở ra nơi bụng và nơi ngực.

“Thở vào, tôi để ý tới tác động của hơi thở vào nơi bụng tôi và ngực tôi.
Thở ra, tôi để ý tới tác động của hơi thở ra nơi bụng tôi và ngực tôi.”

“Thở vào, tôi ý thức được sự có mặt của toàn thân tôi.
Thở ra, tôi mỉm cười với toàn thân tôi.”

“Thở vào, tôi ý thức về sự có mặt của những căng thẳng và đau nhức trong toàn thân tôi.
Thở ra, tôi buông thả những căng thẳng và đau nhức trong toàn thân tôi.”

“Thở vào, tôi thấy dễ chịu trong khi thở vào.
Thở ra, tôi thấy thoải mái trong khi thở ra.”

Bài tập này nếu muốn, bạn có thể thực tập nhiều lần trong ngày, ngay cả ở sở làm, để có thể dừng lại, thư giãn, và nhiều tươi mát hơn.

Đi cầu, đi tiểu

Bạn cũng có thể tập thiền khi đi cầu hay đi tiểu. Đi cầu và đi tiểu cũng quan trọng như thở, như đi, như ngồi, như ăn, như uống, như thắp hương. Phải có sự sống, phải có niềm vui trong khi đi cầu hay đi tiểu. Phải sống sâu sắc trong giờ phút đi cầu hay đi tiểu. Để hết tâm ý vào việc đi cầu và đi tiểu. Buông thư, có mặt hoàn toàn, và cảm thấy thoải mái, thích thú khi đi cầu hay đi tiểu. Nghĩ đến những trường hợp táo bón, nhiễm trùng đường tiểu, đi cầu đi tiểu không được, hoặc rất đau, bạn mới thấy đi cầu đi tiểu không có vấn đề là một lạc thú. Bạn có cần một bài thi kệ không? Nó đây:

Không dơ cũng không sạch
Không bớt cũng không thêm,
Bát Nhã Ba La Mật
Không có pháp nào trên.

Trong khi đi cầu hoặc đi tiểu, cũng như trong khi chải răng hoặc bước đi, bạn có thể đầu tư 100% thân tâm của bạn vào những việc ấy. Đó là Thiền!

 

Làm thức ăn sáng

Làm thức ăn sáng cũng là thiền tập! Nấu nước sôi, pha trà, lọc cà-phê, nấu cháo trắng, nướng bánh mì, chiên cơm nguội, sắp đặt bàn… tất cả những việc đó đều có thể được làm trong chánh niệm, nghĩa là trong ý thức sáng tỏ rằng bạn đang làm cái đó, bạn đang vui khi làm cái đó, cái đó đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Chánh niệm là năng lượng thắp sáng ý thức chiếu rọi vào những gì đang xảy ra bây giờ và ở đây. Chánh niệm là trái tim của thiền tập. Khi pha trà mà bạn ý thức rằng mình đang pha trà, không nghĩ tới quá khứ, không nghĩ về tương lai, tâm mình đặt hết vào việc pha trà, như thế là bạn đang có chánh niệm. Chánh niệm giúp ta sống sâu sắc từng giây phút của cuộc sống hằng ngày! Ai cũng có khả năng chánh niệm, nhưng với người thực tập chánh niệm hùng hậu hơn, và người ấy có khả năng an trú trong hiện tại nhiều hơn.

Thời gian làm thức ăn sáng có thể được biến thành một buổi thiền tập, vui lắm. Nếu có người khác đã xuống bếp rồi và đang chuẩn bị làm thức ăn sáng, bạn cũng nên đi xuống bếp và giúp người ấy, mời người ấy cùng làm trong chánh niệm, cả hai thực tập sống trong giây phút hiện tại, biến thời gian làm thức ăn sáng thành một niềm vui.

Ăn sáng

Bạn có thể sắp đặt để buổi ăn sáng được thảnh thơi và yên vui. Đừng đọc báo, đừng mở máy truyền hình, đừng nghe đài phát thanh. Ngồi thẳng, nhìn thức ăn trên bàn, nhìn mọi người, thở và mỉm cười, để nhận diện và trân quý. Bạn có thể nói một câu gì đó với người ngồi trước mặt bạn. Ví dụ: Có mẹ đang ngồi ăn sáng với con, con hạnh phúc quá! Hoặc: Hôm nay trời nắng đẹp, bố nhớ ra thăm vườn và nằm võng cho con nhé. Hoặc: Hôm nay anh sẽ thu xếp về sớm một chút để có dịp giúp em làm cơm chiều, v.v… Những câu nói như thế là để công nhận sự có mặt quý giá của những người thương, đó là sự thực tập chánh niệm. Có chánh niệm thì tất cả những trao đổi trong bữa ăn sáng đều có công năng giúp bạn và những người khác nhận diện và trân quý những điều kiện hạnh phúc mình đang có. Rửa bát, dọn bàn sau khi ăn sáng có thể trở thành niềm vui như vào một ngày đẹp trời.

Đối trị tập khí

Tập khí là thói quen, và đây là thói quen xấu, được lặp lại rất nhiều lần. Thói quen đầu tiên mà ta phải nhận diện là chạy về tương lai. Có thể thói quen (tập khí) này đã được truyền xuống từ tổ tiên và cha mẹ. Ta mải lo lắng cho tương lai nên không có khả năng sống sâu sắc và an lạc trong hiện tại. Ta có niềm tin âm ỉ trong lòng là hiện giờ ta chưa thể có hạnh phúc được và ta còn cần một số điều kiện khác, thì mới thực sự có hạnh phúc. Ta suy đoán, dự kiến, chuẩn bị, mơ ước về những “điều kiện hạnh phúc” ấy mà ta sẽ có trong tương lai. Và ta chạy về tương lai, cả trong những giấc ngủ. Hoặc ta có quá nhiều lo lắng, sợ hãi về tương lai, không biết tương lai của mình sẽ ra sao, và những lo lắng, bồn chồn ấy cũng không cho phép ta an trú được trong hiện tại. Phép thiền tập của bạn là đem tâm về hiện tại. Làm thế nào để bạn nhận diện được tập khí ấy mỗi khi bạn bị nó lôi đi. Bạn chỉ cần chú ý tới hơi thở và mỉm cười với tập khí ấy: Ô hay, mình lại bị tập khí kéo đi rồi. Nhận diện được tập khí, thì tập khí buông bỏ bạn, bạn có tự do để sống an vui trong hiện tại. Mới bắt đầu thiền tập, bạn sẽ phải nhận diện nó mỗi ngày nhiều lần. Biết sống an lạc trong hiện tại cũng là một tập khí, một thói quen tốt. Những thói quen này, bạn cần phải tập luyện mới có được.

Chải răng, mặc áo, tắm gội, lái xe, đi bộ… bạn hãy để hết tâm ý vào việc bạn đang làm, tìm an lạc và hạnh phúc ngay trong những giây phút ấy. Nếu bạn có thực tập hơi thở ý thức, thì bạn có cơ hội nhận diện tập khí bạn nhiều hơn và mỗi lần nhận diện, thì tập khí kia sẽ không kéo bạn đi theo nữa. Đây đã là bắt đầu của thảnh thơi, của giải thoát, của an lạc. Phép tu này gọi là nhận diện đơn thuần. Tập khí của ta ơi, ta biết mi đang biểu hiện. Bạn không cần vật lộn với nó, không cần đàn áp nó, chỉ cần nhận diện. Chánh niệm là năng lượng có khả năng nhận diện bất cứ cái gì đang xảy ra, trong đó có tập khí của bạn.

Phá bỏ ngục tù quá khứ

Có những người luôn bị quá khứ ám ảnh, tiếc thương, hờn oán, hối hận và khổ đau làm cho họ suốt ngày bị giam hãn trong ngục tù quá khứ, và do đó cũng không thể sống thảnh thơi trong giây phút hiện tại.

Quá khứ thật ra không còn nữa, chỉ có những ấn tượng, những hình ảnh còn lại trong chiều sâu tâm thức. Những cái đó có thể ám ảnh ta, phong tỏa ta, ảnh hưởng đến cách hành xử của ta trong giây phút hiện tại. Những cái ta nói và ta làm có thể do bị chúng thúc đẩy. Như vậy là ta mất tự do.
Hơi thở chánh niệm cho ta biết rằng trong giờ phút hiện tại những đe dọa đó, những đau thương đó, những tàn ác đó không còn có mặt và ta có thể an trú được một cách an toàn trong giây phút hiện tại. Hơi thở chánh niệm cho ta biết là những ấn tượng ấy, những hình ảnh ấy không phải là thực tại và cái ý thức ấy giúp cho ta thoát khỏi vòng ảnh hưởng của những ám ảnh và ấn tượng kia. Cũng như khi Tôn Ngộ Không trước khi đi cầu cứu với Phật Bà Quan Âm đã vẽ một vòng tròn và dặn Tam Tạng đừng bước ra khỏi vòng tròn đó, thì yêu quái sẽ không thể làm gì được Tam Tạng trong khi Tôn Ngộ Không vắng mặt. Nhưng trong khi Tôn Ngộ Không đi rồi, yêu quái hiện hình thành một phụ nữ lâm nguy cầu Tam Tạng tới cứu giúp, và khi Tam Tạng bị lừa, bước ra khỏi vòng tròn thì yêu quái bắt đầu nắm được Tam Tạng. Cái vòng tròn đó tượng trưng cho sự sống có thật trong giây phút hiện tại. Nếu ta biết thở, biết ngồi yên, biết đi trong chánh niệm thì ta còn ở trong vòng tròn, và ta tiếp xúc được với sự sống đang có mặt mà không còm bị ma quỷ của đau thương, của hiểm nguy quá khứ điều khiển ta nữa. Nếu trong quá khứ, bạn đã từng bị đối xử độc ác, lợi dụng tình dục, trải nghiệm khổ đau, bạn phải biết cách thực tập để trong mỗi phút giây có thể thấy được là những cái ấy đã chỉ xảy ra trong quá khứ, còn trong giây phút hiện tại thì bạn an toàn, không có những hiểm nguy và ác độc nào cả. Nhận diện bóng ma quá khứ, nói với chúng rằng chúng chỉ là bóng ma không có thật, là cách tự giải phóng mình ra khỏi ngục tù quá khứ. Thực tập thở, đi, ngồi, và làm việc trong chánh niệm trong vài tuần lễ, bạn sẽ thành công và những cảm xúc đau buồn sẽ không còn trở lại.

Thiền đi

Thiền đi là một phép tu mầu nhiệm giúp cho ta có mặt từng giây phút trong giờ phút hiện tại. Mỗi bước chân có ý thức giúp ta tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt. Bạn có thể phối hợp hơi thở và bước chân và đi một cách bình thường dù là trên hè phố, trước sân ga hay bên bờ sông. Thở vào bạn có thể bước hai bước, và quán chiếu đã về, đã tới. Đã về tức là đã về với sự sống trong giây phút hiện tại, đã tới tức là gặp sự sống rồi, không cần vội vã, bôn ba, tìm kiếm gì nữa. Quê hương của mình là sự sống nằm trong giây phút hiện tại. Chỉ giây phút hiện tại mới có thật, trong khi đó quá khứ và tương lai chỉ là những bóng ma. Những bóng ma này có thể tác dụng đưa tới tiếc nuối, khổ đau, lo lắng, và sợ hãi. Nếu mỗi bước chân của bạn đưa bạn về được với hiện tại thì những bóng ma này không còn có quyền hành gì trên bạn nữa cả.

Thở ra, bạn bước ba bước và nói thầm ta đã về, ta đã tới. Hoặc con đã về, con đã tới. Con đã về tới quê hương đích thực của con là sự sống mầu nhiệm đang có mặt, con không còn lang thang đi tìm kiếm gì nữa. Đi như vậy tức là đã dừng lại. Dừng lại, đó là thiền chỉ, samatha. Ta dừng lại được thì tổ tiên, ông bà và cha mẹ trong ta cũng dừng lại được. Ta bước được một bước thảnh thơi thì tất cả tổ tiên có mặt trong từng tế bào cơ thể ta đều cũng bước được một bước thảnh thơi như ta. Bạn là người có hiếu nhất trên trần gian nếu bạn dừng lại được và bước được những bước thảnh thơi như thế cho tổ tiên và cho cha mẹ.

Đã về
Đã tới
Bây giờ
Ở đây
Vững chãi
Thảnh thơi
Quay về
Nương tựa.

Bài kệ trên đây là những lời thiền ngữ để giúp cho bạn an trú được vững chãi trong giây phút hiện tại, nắm lấy những lời thiền ngữ này cho vững thì bạn sẽ thiết lập được sự có mặt của bạn một cách vững chãi trong hiện tại, cũng như lên cầu thang bạn nắm vững thành vịn cầu thang thì sẽ không bao giờ té.

“Bây giờ, ở đây” là địa chỉ của sự sống, là nơi ta về, nơi ta tới, nơi ta có quê hương, có bình an, có hạnh phúc, nơi ta gặp gỡ được tổ tiên, bạn bè và con cháu của ta. Thiền tập là để ta luôn luôn trở về nơi chốn ấy. Mỗi bước chân của bạn đưa bạn về với sự sống trong giây phút hiện tại. Bạn hãy thử thực tập thiền đi chậm xem. Bước một bước, thở vào trong khi bước, và nói: “Con đã về”. Mình phải đầu tư một trăm phần trăm thân thể và tâm trí mình vào bước chân và hơi thở mình thì mình mới thực sự đã về, đã tới. Nếu ý thức (Niệm) và sự tập trung (Định) của bạn vững vàng thì bạn có thể về được 100%, tới được 100%. Nếu chưa thực sự về tới 100% nơi địa chỉ “bây giờ và ở đây” thì bạn đừng bước thêm bước nào nữa cả. Cứ để mình trong tư thế ấy mà thở cho đến khi bạn dừng lại được sự rong ruổi của tâm ý, cho đến khi bạn đã thực sự đã về đã tới một trăm phần trăm trong giây phút hiện tại. Lúc ấy, bạn sẽ mỉm cười, nụ cười của thành công, chiến thắng, và bạn bước thêm một bước nữa, với thiền ngữ “Đã tới”. Bước chân vững chãi như dấu ấn của vị quốc vương trên một sắc lệnh. Bàn chân bạn ghi dấu ấn đã về đã tới trên mặt đất. Đi như thế thì chế tác được năng lượng thảnh thơi và vững chãi. Đi như thế thì tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống. Đi như thế thì được nuôi dưỡng, được trị liệu. Có những người chỉ nhờ thiền đi mà chữa được bệnh của mình.

“Vững chãi, thảnh thơi” nghĩa là bạn không bị quá khứ lôi kéo, không bị tương lai lôi kéo, bạn có tự do. Đây không phải là tự kỷ ám thị, đây không phải là sự mong cầu, bởi vì nếu bạn an trú được trong hiện tại thì bạn đang có vững chãi và đang có tự do. Thảnh thơi là không bị những con ma quá khứ và tương lai lôi kéo. Thảnh thơi là không còn hấp tấp chạy về tương lai. Vững chãi và thảnh thơi là nền tảng của hạnh phúc đích thực.

“Quay về nương tựa” là một bài tập mà đức Thế Tôn trao truyền cho các vị đệ tử trong những ngày gặp gỡ cuối trước khi Ngài qua đời.

Quay về nương tựa

Bụt nói rằng có một nơi rất an toàn mà mình có thể trở về bất cứ lúc nào mình muốn: đó là hải đảo tự thân. Trong tự thân bạn có một hải đảo an toàn, nếu trở về đấy thì bạn sẽ không còn bị sóng gió cuộc đời kéo đi nữa. Attadipasaranam có nghĩa là quay về nương tựa (saranam) nơi hải đảo (dìpa) của tự thân. Khi bạn trở về với hơi thở ý thức, bạn trở về với chính bạn, bạn tiếp xúc với hải đảo an toàn nơi tự thân bạn, nơi ấy có tổ tiên, quê hương và tam bảo là Bụt, Pháp và Tăng. Thở và để ý tới hơi thở là bắt đầu quay về. Quay về với hơi thở, với thân thể, với cảm thọ, với tri giác, tâm tư và với tâm thức mình. Đó là năm yếu tố làm nên tự thân: thân thể (sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), tâm tư (hành), và nhận thức (thức) của mình. Năm yếu tố ấy được gọi là năm uẩn (skandha). Hơi thở có ý thức đem thân tâm về một mối, trong khi thở, tất cả thân thể, cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức của bạn đều trở về tiếp xúc với hơi thở ấy, như khi bạn cất lwn tiếng hát thì mọi người trong gia đình đều im lặng lắng nghe! Hơi thở sẽ làm lắng dịu thân và tâm, đưa thân và tâm về một mối và tạo ra được sự hài hòa giữa năm uẩn. Chính lúc ấy, hải đảo tự thân biểu hiện làm chỗ nương tựa an toàn cho tất cả năm uẩn.

Bài kệ đầy đủ như sau:

Quay về nương tựa hải đảo tự thân
Chánh niệm là Bụt soi sáng xa gần
Hơi thở là pháp bảo hộ thân tâm
Năm uẩn là Tăng, phối hợp tinh cần.
Thở vào, thở ra
Là hoa tươi mát
Là núi vững vàng
Nước tĩnh lặng chiếu
Không gian thênh thang.

Bài kệ này bạn có thể thực tập trong những lúc gặp khó khăn, hiểm nguy, lúc bạn cần phải có đủ bình tĩnh để biết được mình nên làm gì và không nên làm gì trong giây phút ấy. Ví dụ ngồi trên máy bay nghe báo có không tặc đang đe dọa phi hành đoàn, thay vì cuống cuồng lo sợ và có những hành động làm cho tình thế trở thành nguy hiểm hơn, thì bạn trở về với hơi thở và thực tập phần đầu của bài kệ này. Sự có mặt của chánh niệm là sự có mặt của Bụt, đang soi sáng cho mình để mình biết nên làm gì và không nên làm gì. Hơi thở chánh niệm là sự có mặt của chánh pháp đang bảo hộ cho thân và tâm. Và năm uẩn của bạn đang nương tựa vào Bụt và Pháp, đang được đặt trong sự che chở của Bụt và Pháp, và đại diện cho Tăng, có hòa hợp, có trầm tĩnh, có lắng dịu, được hơi thở điều hợp thành một thực tại, năm uẩn đó là ngôi báu thứ ba, đó là Tăng. Có Bụt, Pháp và Tăng bảo hộ, bạn không cần phải lo lắng gì nữa cả. Trong trạng thái trầm tĩnh ấy, bạn sẽ hành xử đúng pháp để giúp cho tình trạng trở nên an toàn.

Vào những lúc bình thường, thực tập bài kệ này đem lại nhiều vững chãi và an lạc; đây là thực tập quy y (quay về nương tựa) nơi tam bảo một cách đích thực, vì trong khi thực tập, năng lượng của Bụt, Pháp và Tăng đang thực sự có mặt cho bạn. Không thể có sự an toàn nào lớn hơn nữa. Dù có chết ta cũng chết trong sự bình an.

Là Hoa Tươi Mát

Ta chỉ có hạnh phúc khi ta có đủ yếu tố tươi mát. Với yếu tố tươi mát, ta có thể làm cho người khác hạnh phúc. Ta phải là một đóa hoa thật sự trong khu vườn nhân loại. Một em bé đang chơi, đang ngủ; nhìn em bé ta thấy quả thật nó là một bông hoa. Cái mặt nó là một bông hoa, bàn tay nó là một bông hoa, bàn chân nó là một bông hoa, cái miệng nó là một bông hoa. a cũng đã từng là một bông hoa như nó, nhưng những phiền tạp của cuộc đời đã làm cho ta mất bớt rất nhiều tính chất tươi mát của ta. Khóc nhiều quá thì hai mắt bạn đâu còn trong được nữa? Nguyễn Bính viết:

Em không khóc nữa, không than nữa
Đây một bài thơ hận cuối cùng
Không than chắc hẳn hồn tươi lại
Không khóc tha hồ đôi mắt trong.

Bạn hãy thở vào đi, buông thư thân thể và mỉm cười. Nét nhăn trên mặt bạn không còn nữa, nụ cười trên môi bạn giúp bạn phục hồi lại đóa hoa tươi mát. Các nhà điêu khắc trong quá khứ đã cố diễn tả nụ cười tươi mát trầm tĩnh và từ bi trên mặt các tượng Bụt. Trên mặt bạn có gần ba trăm cơ bắp; mỗi khi lo lắng, buồn giận hoặc sợ hãi, những cơ bắp ấy co rúm lại hoặc căng thẳng ra, người khác nhìn và thấy sợ. Nếu bạn thở vào có ý thức về sự căng thẳng đó thì khi bạn thở ra, bạn có thể buông thư và mỉm cười. Như thế thì những căng thẳng đó sẽ biến mất và bạn phục hồi được tính tươi mát của bông hoa nhân loại sẵn có trong bạn. Lắng dịu, thư giãn, phục hồi sự tươi mát, đó là sự thực tập thiền chỉ. Chỉ là dừng lại, là làm cho lắng dịu, cho tươi mát. Thở vào, tôi thấy tôi là một bông hoa; thở ra, tôi cảm thấy sự tươi mát của bông hoa là tôi.

Là Núi Vững Vàng

Hạnh phúc và bình an không thể có mặt nếu ta không có yếu tố vững chãi. Thiếu sự ổn định trong thân và tâm, ta trở nên bất an, và kẻ khác không thể nương tựa và trông cậy nơi ta. Cho nên, tu tập để đem lại sự vững chãi và ổn định nơi thân và tâm là việc rất thiết yếu. Với hơi thở chánh niệm, với thế ngồi vững chãi, ta có thể thiết lập lại sự vững vàng trong ta. Trong tư thế kiết già hay bán già (gọi là tư thế hoa sen), thân tâm bạn dễ có được sự vững chãi, nhất là khi bạn biết điều phục hơi thở để đem năm uẩn về một mối. (Năm uẩn: hình hài, cảm giác, tri giác, tâm hành và nhận thức). Nếu bạn nắm vững được hơi thở, nhận diện được những cảm giác và cảm xúc trong bạn, biết chấp nhận và ôm ấp chúng, thì bạn sẽ có nhiều niềm tin nơi khả năng của bạn và điều này sẽ làm tăng tiến tính cách vững chãi nơi bạn. Biết sử dụng thông minh và tình thương, bạn có thể giải quyết được những khó khăn trong sự sống hằng ngày, đức tự tin này cũng sẽ làm tăng tiến tính cách vững chãi nơi bạn. Thở vào, tôi ngồi vững như một trái núi; thở ra, tôi cảm thấy sự vững chãi và ổn định trong tôi. Thực tập quay về nương tựa nơi hải đảo của tự thân giúp bạn chế tác được thêm tính vững chãi của bạn. Có một con đường thực tập tâm linh, biết mình đang đi trên con đường ấy, bạn sẽ không còn e ngại, sợ hãi, điều này cũng giúp nhiều cho sự vững chãi của bạn. “Đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ.” Con đường này là con đường Niệm Định Tuệ, con đường của sự thực tập năm giới: bảo vệ sự sống, chia sẻ thì giờ và tài vật của mình với những kẻ thiếu thốn, tự bảo hộ và bảo hộ cho mọi người được an toàn không bị nạn tà dâm và sự lạm dụng tình dục tàn hại, thực tập ái ngữ và lắng nghe, và tiêu thụ trong chánh niệm để đừng làm bại hoại thân tâm.

Nước Tĩnh Lặng Chiếu

Nước tĩnh lặng chiếu là hình ảnh của tâm bình lặng. Tâm bình lặng là khi tâm không bị những tâm hành giận hờn, ghen tị, sợ hãi và lo lắng làm cho xao động. Bạn cứ hình dung một mặt hồ nước tĩnh trên núi, phản chiếu mây trời và các đỉnh núi rõ nét cho đến nỗi ta có thể chụp hình mây trời và đỉnh núi khi đưa ống kính hướng về mặt hồ. Tâm ta tĩnh lặng thì ta cũng phản chiếu được sự thực một cách trung thực, không làm cho sự thực méo mó. Hơi thở và thế ngồi cũng như bước chân chánh niệm có thể làm lắng dịu lại được những tâm hành như giận hờn, sợ hãi, tuyệt vọng… Trong kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt có đưa ra một bài tập gọi là An tịnh tâm hành, làm cho tâm hành an tịnh. Tâm hành đây là những trạng thái giận hờn, sợ hãi, lo lắng, v.v… “Thở vào, tôi nhận diện được tâm hành đang có mặt trong tôi.” Bạn có thể gọi tên tâm hành ấy. Nó là sự bực bội. Nó là sự lo lắng, v.v… Ta không cần phải đàn áp nó, chê trách nó, xua đuổi nó. Ta chỉ cần nhận diện sự có mặt của nó là đủ. Đó là phép nhận diện đơn thuần, không tìm cách níu kéo cũng không tìm cách xua đuổi. “Thở ra, tôi làm lắng dịu tâm hành trong tôi.” Hơi thở chánh niệm khi nhận diện và ôm ấp tâm hành có khả năng làm lắng dịu tâm hành. Bài tập này cũng giống như bài tập mà bạn đã học để làm lắng dịu thân hành, nghĩa là lắng dịu những căng thẳng và đau nhức trong thân. Bài này cũng là của Bụt dạy trong kinh Quán Niệm Hơi Thở. Bạn là người hành giả, nghĩa là người thực tập thiền quán, chứ không phải chỉ là một học giả hay một lý thuyết gia về thiền. Vì vậy, bạn nên luyện tập để làm lắng dịu những tâm hành, những cảm xúc của mình khi chúng bắt đầu phát hiện. Như vậy bạn mới có thể làm chủ được thân tâm và không gây đổ vỡ trong bạn cũng như người khác, kể cả người thương của bạn.

Đi qua cơn bão

Có những cái bạn ôm đồm cất giữ, nhưng những cái ấy đã không có ích gì cho bạn mà còn làm cho bạn mất thảnh thơi. Phải có can đảm buông bỏ những cái ấy. Chiếc thuyền của bạn chở khẳm quá, dễ bị sóng gió làm lật nhào. Phải bỏ bớt để cho thuyền nhẹ. Thuyền sẽ đi mau và sẽ an toàn hơn. Bạn có thể hiến tặng cho người thương sự thảnh thơi ấy, và bạn chỉ có thể làm như vậy khi chính bạn có sự thảnh thơi ấy trong lòng.

Có những người trẻ không có khả năng đối phó với các cơn cảm xúc lớn như: uất ức, giận hờn, chán nản, tuyệt vọng, v.v… cho nên đã đi tự tử. Đối với họ, tự tử là phương cách duy nhất để chấm dứt khổ đau. Nhưng nếu ta có dịp cho họ phương pháp đối trị cảm xúc, họ sẽ có cơ hội làm lắng dịu và vượt thắng được những cảm xúc ấy. Ta phải nắm được bí quyết trước khi ta chỉ bày cho họ. Ở Pháp, mỗi ngày có khoảng 33 người trẻ tự tử. Trong trường học, không ai dạy cho người trẻ cách thức đối trị cảm xúc. Bạn đừng để khi cảm xúc trào dâng mới bắt đầu thực tập. Cứ bắt đầu thực tập ngay bây giờ đi. Mai mốt, khi cảm xúc trào dâng, bạn sẽ nhớ thực tập.

Trước hết, bạn phải biết rằng, một cảm xúc chỉ là một cảm xúc, dù đó là một cảm xúc mạnh. Lãnh thổ con người bạn rất bao la: thân thể, cảm giác, tri giác, tâm hành và nhận thức. Cảm xúc chỉ là một trong số 51 tâm hành. Nó đến, nó ở lại một thời gian rồi nó đi, tại sao ta phải chết vì nó? Ta hãy xem nó như một cơn bão tố. Nếu ta biết cách chống đỡ, ta sẽ được an toàn trong khi cơn bão xảy ra. Cơn bão có thể kéo dài một giờ, vài giờ hay một ngày. Nếu ta nắm được phương pháp thực tập thì ta sẽ đi ngang qua cơn bão dễ dàng. Trong tư thế hoa sen, hoặc trong tư thế nằm ngửa, bạn có thể bắt đầu bằng cách thở bụng. Đặt hết tâm ý vào bụng, thấy được bụng phồng ra khi ta thở vào và xẹp xuống trong khi ta thở ra. Bạn có thể thở thật sâu và hoàn toàn chú ý tới bụng. Đừng suy nghĩ gì hết. Chấm dứt mọi suy nghĩ, chỉ nhớ tới chuyện thở. Trong cơn bão, đọt cây là chỗ dễ bị gãy đổ nhất. Thân cây vững chãi hơn, có nhiều rễ bám sâu vào lòng đất. Đọt cây tượng trưng cho cái đầu hay suy nghĩ của bạn. Bạn hãy rời đọt cây, đi xuống gốc cây cho vững chãi hơn. Gốc cây là ở bụng dưới, dưới rốn một chút, ở huyệt đan điền. Để hết tâm ý vào bụng dưới và thở thật sâu. Đừng suy nghĩ gì hết và bạn sẽ an toàn trong khi cơn bão tố cảm xúc đang diễn ra. Mỗi ngày, thực tập năm phút, sau ba tuần lễ, bạn đã có thói quen và khi cảm xúc tới, bạn sẽ nhớ để mà thực tập.

Đi qua được cơn bão rồi, bạn sẽ có niềm tin. Bạn tự bảo: kỳ sau, nếu cơn bão cảm xúc trở lại, bạn không còn sợ hãi nó, vì bạn đã biết cách xử lý nó. Bạn cũng có thể dạy cho con bạn, em bạn, để chúng biết phương pháp thở bụng. Nắm tay em bé, bạn bảo em bé cùng thở với bạn, đặt hết tâm ý vào bụng dưới. Tuy là một em bé, nó cũng đã có thể có cảm xúc mạnh rồi, và nó có thể học thở để vượt thắng cảm xúc. Ban đầu, nó cần sự yểm trợ của bạn, nhưng sau này, nó có thể tự làm một mình. Nếu bạn là cô giáo, hay thầy giáo, bạn có thể dạy cho tất cả các học sinh trong lớp cách thức thở bụng. Có thể trong số học sinh của bạn có những đứa sẽ thực tập, sau này khi cơn lốc cảm xúc đi tới với chúng và chúng sẽ không đi tự tử. Như vậy là bạn đã cứu mạng được cho những đứa ấy.

Thực tập trong tư thế ngồi là tốt nhất. Trong tư thế nằm, bạn có thể để trên bụng một túi nước nóng.

Hiểu và Thương

Có một phép tu gọi là từ bi quán, có công năng đem lại cho bạn nhiều thảnh thơi và hạnh phúc. Từ có nghĩa là đem lại hạnh phúc cho người; Bi có nghĩa là làm cho người bớt khổ. Chìa khóa để mở cánh cửa từ bi là khả năng hiểu biết của mình về chính những khổ đau và khó khăn của mình, cũng như về những khổ đau và khó khăn của kẻ kia. Thấy và hiểu được những khổ đau và khó khăn của mình thì mình có thể dễ dàng thấy và hiểu được những khó khăn và khổ đau của người kia. Thấy và hiểu được những khổ đau và khó khăn của người kia thì mình cũng có thể dễ dàng thấy và hiểu được những khổ đau và khó khăn của chính mình. Đó là sự thực tập nhìn sâu vào sự thật thứ nhất và sự thật thứ hai của Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế là bốn sự thực mầu nhiệm và thánh thiện. Chính là nhờ ở cái thấy của chúng ta về khổ đau và khó khăn mà ta thấy được con đường thoát khổ. Con đường thoát khổ là sự thực tập thứ tư, gọi là Đạo Đế. Sự chuyển hóa và chấm dứt khổ đau là sự thực thứ ba, gọi là Diệt Đế. Diệt là sự không có mặt của khổ đau.

Đây là một ví dụ của sự thực tập: một người cha đang làm khổ đau một người con. Người cha không thấy được rằng mình đang làm khổ con và làm khổ chính mình. Người cha ngỡ rằng, đối xử với con như thế thì mình bớt khổ. Sự thật thì không như thế.

Sự thật là người cha có nhiều khổ đau và khó khăn nhưng không ý thức được những khổ đau và khó khăn đó (sự thật thứ nhất, khổ đế), và không thấy được những nguyên cớ của những đau khổ và khó khăn ấy (sự thật thứ hai, tập đế). Mình không có khả năng xử lý những khổ đau của mình và mình làm khổ người khác, cho rằng người khác ấy là gốc rễ của niềm đau, nỗi khổ của mình.

Có thể là từ lúc ấu thơ, người cha đã phải hứng chịu khổ đau, đã được đối xử tàn nhẫn bởi người ông. Người ông đã trút hết giận dữ và đau khổ xuống người cha, và người cha bây giờ đang làm như người ông, trút hết giận dữ và đau khổ xuống người con. Khổ đau đi luân hồi, khổ đau truyền xuống từ thế hệ này tới thế hệ khác. Người cha không biết gốc rễ của khổ đau mình (tập đế). Bây giờ người con có thể thực tập như sau:

Thở vào, tôi thấy tôi là một cậu bé năm tuổi,
Thở ra, tôi mỉm cười với cậu bé năm tuổi vẫn còn trong tôi.
Thở vào, tôi thấy cậu bé năm tuổi trong tôi mong manh, dễ bị thương tích, mình đầy thương tích,
Thở ra, tôi ôm lấy cậu bé năm tuổi trong tôi với tất cả hiểu biết và tình thương.

Đó là giai đoạn đầu của sự thực tập. Bạn trở về nhận diện và ôm ấp em bé trong bạn. Lâu nay, bạn quá bận rộn, không có cơ hội làm công việc đó. Bây giờ, bạn trở về nói chuyện với em bé và ôm lấy em bé. Quá trình trị liệu đã có thể bắt đầu.

Cha tôi trong tôi

Thực tập thành công rồi, người con đi vào phần thứ hai:

Thở vào, tôi thấy cha tôi là một cậu bé năm tuổi,
Thở ra, tôi mỉm cười với cậu bé năm tuổi là cha tôi.

Có thể bạn chưa bao giờ hình dung được là ông thân sinh của bạn là một em bé trai bốn năm tuổi. Sự thật là hồi ấy ông cũng mong manh, dễ bị thương tích như bất cứ cậu bé hay cô bé nào.

Thở vào, tôi thấy cậu bé năm tuổi là cha tôi, mong manh, dễ bị thương tích, mình đầy thương tích,
Thở ra, tôi nhìn cậu bé năm tuổi đầy thương tích ấy với tất cả hiểu biết và thương yêu.

Có một điều bạn chưa biết là cậu bé năm tuổi đã trở thành ông thân sinh của bạn cũng đang có mặt trong bạn, chứ không phải chỉ đang có trong mặt trong ông ta mà thôi. Và cậu bé năm tuổi đầy thương tích ấy cùng với cậu bé năm tuổi đầy thương tích ngày xưa đã trở thành bạn hôm nay. Hai cậu bé ấy không hẳn là hai cậu bé khác nhau, tuy rằng hai cậu bé ấy không phải chỉ là một cậu bé duy nhất. Cái thấy mầu nhiệm này được gọi là cái thấy Phi nhất phi nhị (Không phải là một mà không phải là khác nhau). Bạn ôm được cậu bé này thì bạn cũng ôm được cậu bé kia. Mà một khi bạn đã ôm được cậu bé kia thì quá trình chuyển hóa sẽ xảy ra thật nhanh. Nếu ông thân sinh của bạn ngày xưa đã gặp người chỉ dẫn phép tu này thì ông đã không tự làm khổ và làm khổ bạn. Nhưng ông đã không có may mắn ấy. Vì vậy, bạn phải thực tập cho bạn và cho cả ông thân sinh của bạn trong bạn. Chuyển hóa được ông thân sinh của bạn trong bạn rồi thì giúp chuyển hóa cho ông thân sinh của bạn ngoài bạn sẽ trở thành dễ dàng hơn nhiều. Có người đã có khó khăn với bố, có người đã có khó khăn với mẹ. Tập như thế là chuyển hóa được cho cả mình và bố mẹ, và mình sẽ chắc chắn không lặp lại cách đối xử ấy với các con của mình. Và như thế là “vòng luân hồi” chấm dứt. Cái thấy, cái hiểu về khổ đau và nguồn gốc của khổ đau đem tới cái thương và cái chấp nhận. Thương và chấp nhận được rồi mình sẽ khỏe ra và mình sẽ có khả năng giúp được người kia chuyển hóa. Người kia có thể là: chú, bác, cô, dì, anh, chị, em hoặc bạn bè. Trong bạn có một tâm hành gọi là Tuệ. Tuệ tức là cái hiểu. Đem tâm hành Tuệ vào can thiệp thì tình trạng đổi khác liền lập tức. Tuệ (Prajñà) trước hết là cái thấy và cái hiểu về khổ đau và bản chất của khổ đau. Thực tập nhìn sâu, như trong bài tập vừa rồi, ta làm lớn Tuệ trong ta. Tuệ phải tham dự vào mọi sinh hoạt tâm ý. Nhưng có khi ta quên, không chịu hoặc không muốn sử dụng Tuệ, nhất là những lúc ta có đam mê. Lúc bấy giờ, ta phải cần đến Niệm can thiệp. Niệm là một tâm hành cần thiết vào bậc nhất cho sự thực tập. Ta phải nhờ Niệm đưa Tuệ tới. Có Tuệ thì ta đi tới chấp nhận, tha thứ, yêu thương, và hạnh phúc. Thiếu Tuệ thì ta đi tới giận dữ, ganh ghét, khổ đau và hận thù.

Từng bước nở hoa sen-Thi kệ nhật dụng

Những bài kệ trong tập này đã được thực tập tại Làng Hồng trong mùa Hè năm 1984. Thiếu nhi cũng như người lớn đã chép tay các bài kệ này để học thuộc lòng. Ta chỉ thực tập được các bài kệ sau khi đã thuộc lòng chúng, khi nâng chén trà lên chẳng hạn nếu ta có ý thức thì tự khắc bài kệ sau đây đến với ta một cách tự nhiên:

Chén trà trong hai tay
Chánh niệm nâng tròn đầy
Thân và tâm an trú
Bây giờ ở đây

Mà sở dĩ bài kệ đến với bạn một cách dễ dàng và tự nhiên là vì bạn đã thuộc lòng nó. Bạn không cần học thuộc lòng một lần tất cả các bài kệ. Trước hết bạn học thuộc lòng một vài bài mà bạn ưa thích. Rồi từ từ học thêm một bài, rồi một bài khác. Trong tập này chỉ có bốn mươi bảy bài kệ. Mỗi bài là một bài thơ, cho nên các bài kệ cũng có thể được gọi là thi kệ. Những bài kệ này có nhiệm vụ nuôi dưỡng ý thức và nuôi dưỡng chánh niệm. Sử dụng chúng trong một thời gian, bạn sẽ thấy có sự biến đổi trong cuộc đời bạn. Dần dần, bạn sẽ có chánh niệm trong mỗi tư thế và động tác trong ngày. Bạn sẽ thấy bốn mươi bảy bài kệ trong đây chỉ là những bước đầu của nếp sống tỉnh thức.

Ngày xưa (nghĩa là mới hôm qua đây thôi) tại các thiền viện ở Việt Nam, cuốn Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu do thiền sư Độc Thể biên tập là cuốn sách đầu tiên mà thiền sinh được học. Sách này gồm khoảng năm mươi bài kệ, một số do tác giả sáng chế, một số trích từ kinh Hoa Nghiêm. Sách đã từng được dịch nhiều lần ra chữ Nôm và chữ quốc ngữ. Thiền sinh cũng học thuộc lòng các bài kệ ấy để mà thực tập.

Tại sao ta không sử dụng những bài kệ ấy mà lại sáng tác ra những bài thi kệ khác?
Lý do có nhiều. Trước hết sách không còn được hiện đại, đời sống bây giờ khác với đời xưa nhiều, trong sách không có những bài kệ dùng trong các sinh hoạt mới như lái xe hơi hoặc khi nói điện thoại… Lý do thứ hai là phần lớn những bài kệ trong sách có tính cách ước lệ và trừu tượng. Lý do thứ ba là sách hơi mang nặng màu sắc Mật giáo.

Tuy nhiên các bài thi kệ mới đã thừa hưởng được tinh thần và đường hướng của các bài kệ cũ. Thêm vào đó, những thi kệ dưới tay bạn có tính cách thực dụng hơn, cụ thể hơn, hiện đại hơn và đem lại cho ta nhiều niềm vui khi ta thực tập. Những bài thi kệ mới vừa là chánh niệm vừa là thi ca, rất thích hợp với truyền thống Thiền.

Sách này có thể vừa được dùng trong thiền môn để thay thế cuốn Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu vừa được dùng trong cuộc sống hàng ngày ngoài xã hội.

Xin các bạn trong khi thực tập, nếu thấy có những câu những chữ nào có thể thay đổi cho hay hơn thì ghi lại và gửi cho tác giả hoặc nhà xuất bản, để kỳ in sau, các bài kệ được toàn mỹ. Nếu bạn có sáng tác những bài thi kệ thì cũng xin gửi về cùng với lời bình giải.

Mỗi bài thi kệ trong tập sách này đều đã được bình giải. Tác giả đã viết những lời bình giải này theo yêu cầu của một số hành giả đã từng thực tập tại Làng Hồng.

Rất mong tập thi kệ này trở nên một người bạn thân của quý vị.

1. Thức dậy

Thức Dậy Mỉm Miệng Cười
Hăm Bốn Giờ Tinh Khôi
Xin Nguyện Sống Trọn Vẹn
Mắt Thương Nhìn Cuộc Đời

Mở đầu ngày bằng một nụ cười, phải chăng đó là thái độ khôn ngoan của người biết sống? Nụ cười đây là nụ cười ý thức và quyết tâm muốn sống hăm bốn giờ trong tỉnh thức, trong an lạc.

“Ta đã để bao nhiêu ngày của ta trôi qua trong quên lãng?” “Ta đã làm chi đời ta?” Bạn hãy chiêm nghiệm đi. Bạn hãy tìm cho ra bản chất của nụ cười. Bản chất ấy, phải chăng là sự giác ngộ?

Nhưng làm sao để nhớ mà mỉm cười vào đúng lúc thức dậy? Bạn có thể treo một dấu hiệu trên đỉnh màn, hoặc ở trần nhà, hoặc bất cứ nơi nào mà hễ mở mắt ra khi thức dậy là bạn nhìn thấy. Dấu hiệu đó có thể là một cành cây, một chiếc lá, một bức vẽ hay một nét chữ.

Sau này quen rồi, bạn không cần đến những phương tiện ấy nữa. Nghe chim hót hoặc thấy một tia nắng xuyên qua cửa sổ, bạn cũng đã có thể mỉm cười.

Câu “Mắt Thương Nhìn Cuộc Đời” được lấy từ kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn nói về Bồ Tát Quan Thế Âm. Nguyên văn là từ nhãn thị chúng sanh, lấy con mắt từ bi để nhìn mọi loài. Bạn nên nhớ rằng có hiểu mới thương. Vì vậy bạn phải thường xuyên đặt mình vào xương da và hoàn cảnh của người khác để có thể hiểu được họ. Thương là một quá trình học hỏi và thực tập. Bản chất của thương cũng là bản chất của giác ngộ, đồng thể với bản chất của nụ cười.

Chúc bạn một ngày an lạc và thanh tịnh.

2. M ca s

Mở Cửa Nhìn Pháp Thân
Đời Mầu Nhiệm Không Cùng
Lòng Dặn Lòng Tỉnh Thức
Giòng Nước Tâm Trong Ngần

Buổi sáng thức dậy mở cửa sổ để nhìn cảnh vật bên ngoài. Hãy liệu chừng, cảnh vật ấy cũng chính là nội tâm của bạn! Không khí ban mai mát lạnh, sương mai có thể đang còn, và mặt trời có thể đang gửi tới cửa sổ bạn mấy tia nắng. Bạn là bạn, nhưng bạn cũng là cảnh vật ấy, bởi vì bạn có pháp thân.

Pháp thân là gì? Ban đầu pháp thân chỉ có nghĩa là giáo pháp của Bụt. Trước khi nhập diệt, Bụt nói với các môn đệ: “Chỉ có nhục thân của ta tan rã chứ pháp thân của ta vẫn ở lại với quý vị mãi mãi”. Trong truyền thống Đại Thừa, chữ pháp thân (dharmakãya) dần dần mang ý nghĩa tâm của Bụt, rồi bản thể của vạn hữu, rồi chân như. Tất cả mọi hiện tượng như: tiếng chim hót, tia nắng ấm, đám mây trắng, cành trúc xanh… đều là biểu hiện của pháp Thân. Hóa thân Bụt (narmanakãya) cũng là một biểu hiện của pháp Thân. Đó là cuộc đời của Thích Ca Mâu Ni.

Bạn cũng là một biểu hiện của pháp thân. Vì vậy bạn cũng cùng một bản chất với mọi nhiệm mầu trong vũ trụ.

Mở cửa sổ mà nhìn được vào pháp thân thì bạn sẽ thấy đời mầu nhiệm vô cùng. Bạn muốn duy trì cái thấy ấy để ngày hôm nay của bạn được đẹp đẽ và an lạc, cho nên bạn tự dặn nên để lòng tỉnh thức. Sống được suốt ngày trong chánh niệm, trong tỉnh thức thì tâm bạn là một dòng nước trong không vương vấn phiền não.

3. Quơ dép

Đặt Chân Trên Mặt Đất
Là Thể Hiện Thần Thông
Từng Bước Chân Tỉnh Thức
Làm Hiển Lộ Pháp Thân

Bài kệ này cũng có thể được sử dụng trong giờ thiền hành. Thần thông là những phép lạ, không phải bay trong hư không hoặc đi trên mặt nước mới là thực hiện phép lạ. Phép lạ là sự tỉnh thức. Bước những bước chân tỉnh thức trên mặt  đất, ta có thể thấy được tất cả những mầu nhiệm của sự sống. Bước được những bước như thế, bạn làm cho pháp thân hiển lộ. Đó là thần thông. Trong khi quơ chân tìm đôi dép, bạn có đủ thì giờ để thầm đọc bài kệ này.

4. Vặn nước

Nước Từ Nguồn Suối Cao
Nước Từ Lòng Đất Sâu
Nước Mầu Nhiệm Tuôn Chảy
Ơn Nước Luôn Tràn Đầy

Nước từ đâu mà về tận nhà bếp, phòng tắm và phòng rửa mặt của ta, điều đó ta có biết nhưng ta cứ quên hoài.

Nhờ nước mà có rau, có trái, nhờ nước mà có sự sống. Thân ta cũng làm bằng nước hơn bảy mươi lăm phần trăm. Nước có phải là một vị Bồ Tát nuôi sống muôn loài. Và ơn đức của nước đối với ta có phải là luôn luôn tràn đầy? Đọc bài kệ xong rồi vốc nước rửa mặt, bạn sẽ thấy làn nước trong hơn, mát hơn và mầu nhiệm không cùng.

5. Rửa tay

Múc Nước Để Rửa Tay
Xin Nguyện Cho Mọi Người
Có Đôi Bàn Tay Khéo
Gìn Giữ Trái Đất Này

Đất giữ gìn nước. Nước làm cho đất sống. Nước đến với ta như một thông điệp của đất. Trái đất xinh đẹp của chúng ta đang lâm nguy.

Chúng ta đang làm khô cạn những kho tài nguyên của trái đất, làm ô nhiễm sông hồ, biển cả, tiêu diệt môi trường sinh hoạt của nhiều loài. Chúng ta lại đã làm ra trên năm mươi ngàn vũ khí nguyên tử có thể đủ sức để tiêu diệt mấy mươi lần trái đất. Nền văn minh của chúng ta có thể bị tiêu diệt nay mai vì sự ngu si, niềm sợ hãi và lòng căm thù của chúng ta đối với nhau. Bạn hãy nhìn lại hai bàn tay bạn dưới vòi nước chảy. Chúng ta có đủ sáng suốt và khôn khéo để giữ gìn và bảo vệ trái đất xinh đẹp của chúng ta không?

6. Súc miệng, đánh răng

Đánh Răng Và Súc Miệng
Cho Sạch Nghiệp Nói Năng
Miệng Thơm Lời Chính Ngữ
Hoa Nở Tựa Vườn Tâm

Ta có nhiều thứ kem để đánh răng cho miệng vừa sạch vừa thơm. Nhưng nếu ta không tu tập chính ngữ thì miệng của ta vẫn không thơm như thường. Ngạn ngữ có câu “anh nói thối lắm”, nghĩa là những lời nói của anh không có tính cách dịu hiền, ngọt ngào và xây dựng, trái lại còn có tính cách chua ngoa, độc ác, vu cáo và xuyên tạc. Lời nói có thể xây dựng một thế giới an lạc trong đó mọi người tin cậy và thương yêu nhau. Lời nói cũng có thể tạo chia rẽ, căm thù và làm sụp đổ tất cả mọi hy vọng. Chính ngữ là lời nói đẹp đẽ và phù hợp với sự thật. Giới luật của Dòng Tu Tiếp Hiện có điều thứ chín nói về chính ngữ như sau:

“Không được nói dối để mưu cầu tài lợi và sự kính phục. Không được nói những lời gây chia rẽ, căm thù, không được loan truyền những tin mình không biết là có thực. Không được phê bình và lên án những điều mà mình không biết chắc. Phải nói những lời chân thật và có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Phải có can đảm nói ra sự thật về những tình trạng bất công dù hành động này có thể mang lại những đe dọa cho sự an thân của mình”.

Ta hãy thực tập chánh niệm và chỉ nói những lời đẹp đẽ, chân thực, thương yêu và xây dựng. Đó là những bông hoa thơm nuôi nấng trong vườn tâm mà ta hái tặng mọi người.

7. Vào nhà cầu

Không Nhơ Cũng Không Sạch
Không Bớt Cũng Không Thêm
Trí Tuệ Ba La Mật
Không Có Pháp Nào Trên

Sống là chuyển hóa không ngừng. Tất cả mọi vật nương vào nhau để tồn tại. Thân tâm an trú trong chánh niệm thì khi đốt một lò trầm, tâm ta cũng thanh tịnh mà khi đi vào nhà cầu, tâm ta cũng thanh tịnh. Chấp nhận cuộc đời là chấp nhận cả sinh lẫn diệt, cả còn lẫn mất, cả vui lẫn buồn. Tâm kinh dạy ta rằng nhìn thấy được thực tướng của vạn hữu thì không còn thấy có sinh có diệt, có thêm có bớt, có nhơ có sạch, có sắc có không. Đó là chân lý đã khiến cho Bồ tát Quán Tự Tại thoát được ra khỏi mọi khổ đau và ách nạn. Mỗi ngày đọc tụng Tâm kinh bạn có quán chiếu những vĩ đại trong ấy không, hay chỉ đọc tụng ngâm nga kinh như một bản lễ nhạc tầm thường? Bát nhã (Prajnã) có nghĩa là trí tuệ giác ngộ. Ba la mật (Pãramitã) có nghĩa là có năng lực đưa ta qua bờ bên kia, nghĩa là bờ giải thoát. Giải thoát khỏi ngu muội, sợ hãi và những khổ đau do ngu muội và sợ hãi gây ra. Trí tuệ Bát Nhã thường được miêu tả như mẹ đẻ ra chư Bụt, cho nên kinh nói rằng không có pháp gì cao hơn nữa.

8. Mặc áo

Cơm Ngày Hai Bữa Ơn Cày Cấy
Áo Mặc Bốn Mùa Nghĩa Dệt May

Bài kệ này lấy từ ca dao Việt Nam ra. Nguyên văn: cơm ngày ba bữa cha cày cấy, áo mặc bốn mùa mẹ vá may. Thời nay cha ta ít cày cấy mà chỉ đi mua gạo ngoài chợ về, còn mẹ ta thì cũng ít vá may mà chỉ mua áo may sẵn hoặc đặt thợ chuyên môn làm. Vì vậy hai chữ ân và nghĩa đã được đưa vào thay thế cho nghĩa thêm rộng. Người tu quán niệm trước khi ăn hay thường tìm về nguồn gốc các thực phẩm và khi khoác áo lên người cũng thường hay tìm về nguồn gốc của y phục mình đang mặc.

9. Tắm

Không Sinh Cũng Không Diệt
Không Trước Cũng Không Sau

Trao Truyền Và Tiếp Thọ
Pháp Giới Tính Nhiệm Mầu

Mỗi khi tắm ta lại có dịp nhìn lại hình hài của ta, hình hài do cha mẹ trao truyền. Ta dùng hai tay để kỳ cọ từng ngón chân và từng cổ tay. Ta hãy để thì giờ trong khi tắm mà quán niệm về hình hài và tâm thức của chúng ta.

Nói về trao truyền và tiếp thọ thì ta phải nghĩ ai là người trao truyền, ai là kẻ tiếp thọ và trao truyền vật gì cũng như tiếp thọ vật gì. Nghĩ cho chín thì người trao truyền với vật trao truyền là một, người tiếp thọ với vật tiếp thọ cũng là một, và ta đi đến nhận thức: người trao truyền và người tiếp thọ là một. Nói một cách khác, không hề có sự trao truyền và tiếp thọ. Nếu các bạn chưa thấy điều này, bạn hãy chiêm nghiệm đi.

Nhìn vào bàn tay, nhìn kỹ vào bàn tay, bạn thấy có cha, có mẹ, có ông bà, có tổ tiên, có giòng họ. Tất cả đều có mặt, có mặt trong hiện tại. Bạn là họ.

Họ chưa bao giờ chết, lý do đơn giản là sự có mặt của hình hài bạn. Như vậy cũng có nghĩa là bạn chưa bao giờ sinh ra cả, bởi vì sinh có nghĩa là từ không mà trở thành có. Mà bạn đã vô sinh thì làm sao bạn có thể diệt mất được. Vì vậy bạn là bất sinh và bất diệt. Tâm Kinh Bát Nhã chỉ cho bạn thấy điều ấy. Bạn quán niệm cho tới khi nào có được một cái thấy thực tiễn về sự thực này thì bạn thoát được sinh tử.

Cái thấy thực tiễn không phải là cái thấy bằng lý luận của trí năng. Thấy đây là thấy với tất cả con người của ta, như khi ta nhìn một trái anh đào trong lòng bàn tay ta, ta thấy ngay đó là trái anh đào, không cần phải suy luận và ức đạt gì hết.

Đại trượng phu phải thân hành đi bằng cửa chánh để ra khỏi sinh tử. Quán vô ngã là đi bằng cửa chánh, rộng rãi thênh thang.

Pháp có nghĩa là vật. Pháp giới nghĩa là muôn vật, là lĩnh vực của tất cả các pháp. Pháp giới tính là bản thể của vạn hữu. Nó không sinh, không diệt, không trước, không sau. Bạn không phải là “sinh sau đẻ muộn”. Bạn là thực tại vượt ra ngoài không gian và thời gian. Thấy được điều đó là bạn thành công.

10. Soi gương

Chánh Niệm Là Đài Gương
Gương Soi Hình Tứ Đại
Đẹp Nhất Là Tình Thương
Và Cái Nhìn Rộng Rãi

Có thể sáng nào bạn cũng soi gương và vì vậy hay sử dụng tấm kính kia làm đài gương chánh niệm. Đẹp hay xấu là do cách nhìn của kẻ kia; có khi mũi cao thì cho là đẹp, có khi da sạm thì cho là dòn. Tuy nhiên, an trú trong chánh niệm thì ai cũng trở thành đẹp ra và cái đẹp ấy gây an lạc, hạnh phúc không những cho ta mà còn cho cả mọi người.

Sống thiếu chánh niệm ta dễ trở thành khô khan và máy móc. Nụ cười trầm tĩnh và thương yêu bao giờ cũng đẹp đẽ và thường tạo nên những phép lạ. Nhờ có cái nhìn rộng rãi, ta trở nên bao dung và có nhiều thương yêu hơn. Sở dĩ cái khuôn mặt của Bụt mà đẹp, đó là vì con mắt và nụ cười trên khuôn mặt ấy. Con mắt nhìn bao dung và nụ cười đầy tính từ bi. Tứ đại là những yếu tố phối hợp thành cái mà ta gọi là “vật chất”: đất, nước, hơi nóng và không khí. Đại là mãhãbhũta. Trụ Vũ viết:

Cánh hoa là tứ đại
Mà tỏa hương tinh thần
Mắt em là tứ đại
Mà rạng ngời yêu thương

Tại sao? Tại vì tứ đại không phải là “vật chất”. Tứ đại không phải là vật cũng không phải tâm. Tứ đại là biểu hiện của pháp giới tánh. Gương chánh niệm nhắc bạn rằng bạn là một biểu hiện của chân như. Hãy mỉm cười đi. Và hãy cười bằng đôi mắt của bạn nữa.

11. Rửa chân

Sự An Lạc
Của Ngón Chân
Niềm An Lạc
Của Thân Tâm

Bạn hay quên ngón chân của bạn lắm. Bạn cứ hay đi lo lắng về những chuyện trên trời, dưới biển mà ít khi để ý tới ngón chân bạn. Nếu ngón chân ấy mà đạp nhằm gai nhọn, cả con người của bạn sẽ đau nhức, chứ có phải 1 mình “nó” đau nhức đâu.

Nắm ngón chân út của bạn. Nó an lạc, nó không có ung thư, bạn may mắn lắm, bạn có phước lắm. Bạn hãy cám ơn nó đi. Và cám ơn tất cả mọi bộ phận khác của cơ thể bạn. Cơ thể bạn có bao nhiêu tế bào là có bấy nhiêu cơ hội để bạn lo lắng. Chưa có tế bào nào đi ngược đường phát triển, và bạn còn có thể an lạc. Niềm an lạc của bạn mong manh lắm.

Sự sống không phải chỉ trong cơ thể bạn. Cái bất an có thể khởi sự từ ngoài cơ thể. Một con vi khuẩn có mặt trong nước uống hay trong thức ăn. Một giọt rượu trong huyết quản của người lái xe hơi. Một trái bom hạt nhân đang được chuyên chở trong không gian, ngay trên đầu bạn. Mặt trời kia mà tắt ngấm thì không có gì trên mặt đất duy trì được sự sống. Cơ thể của bạn không nhỏ bé như bạn tưởng: mặt trời là trái tim bên ngoài cơ thể của bạn. Mặt trời mà tắt thì…

Sự sống nơi bạn và sự sống nơi vạn hữu là một. Cũng như sự an lạc của ngón chân bạn là sự an lạc của toàn thân tâm bạn. Bạn đồng nhất bạn với ngón chân bạn. Điều đó bạn làm rồi. Nhưng bạn chưa đồng nhất bạn được với sự sống của vạn hữu. Sự sống khắp cơ thể chứ không phải sự sống riêng biệt của một tế bào, hay một ngón chân. Sự sống khắp vũ trụ chứ không phải sự sống riêng biệt của một cơ thể. Một tế bào đứng riêng không có được sự sống. Một cơ thể đứng riêng, biệt lập, cắt đứt với vạn hữu cũng không có được sự sống. Đồng nhất bạn với sự sống, bạn vượt thoát được sinh tử. Sinh tử của tế bào, sinh tử của ngón chân, sinh tử của hình hài.

12. Nghe chuông

Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm

Tiếng chuông là một thông điệp đến với ta để nhắc ta quay về với chánh niệm. Người thỉnh chuông gửi tiếng chuông đi với tâm niệm an lành và thanh tịnh. Người nghe chuông cũng phải tiếp nhận tiếng chuông với tâm niệm an lành và thanh tịnh.

Nghe tiếng chuông, bạn liền đem tâm bạn đồng nhất với tiếng chuông, ngân nga theo tiếng chuông lắng lại theo tiếng chuông. Như vậy là để nhiếp tâm về với chánh niệm. Trong ngày, mỗi khi nghe tiếng chuông, ta nên ngừng tay và quán niệm. Khi tiếng chuông đầu báo hiệu giờ thiền tọa vọng lên, ta nên lập tức nhiếp tâm vào thiền quán, dù lúc đó ta đang ở đâu và đang làm gì. Ta thong thả đứng dậy, đi rửa mặt và rửa tay, mặc áo thiền tọa và khởi sự bước từng bước chân chậm rãi hướng về thiên đường, trong khi chuông vẫn tiếp tục vọng lên ba hồi ba tiếng. Trong suốt thời gian đó ta giữ chánh niệm, và ta có thể nương vào tiếng chuông và vào hơi thở để giữ chánh niệm. Ta không đợi đến khi ngồi xuống trong thiền đường mới bắt đầu nhiếp niệm. Ta nhiếp niệm ngay từ lúc nghe tiếng chuông đầu.

13. Vào thiền đường

Vào Thiền Đường
Thấy Chân Tâm
Một Ngồi Xuống
Dứt Trầm Luân

Thiền đường là một chốn thanh tịnh, u nhã; một nơi mà ta có thể nhiếp niệm dễ dàng. Vừa bước vào cửa thiền đường, ta nên dừng lại đưa mắt nhìn bên trong và đọc thầm bài kệ trên, trước khi ta chắp tay búp sen để xá Bụt. Tâm quên lãng là vọng tâm, tâm tỉnh thức là chân tâm; khi ta ngồi xuống tư thế hoa sen và nhiếp tâm tỉnh thức thì mọi vọng tưởng điên đảo đều tan biến, không còn bủa vây và dẫn dắt ta đi vào cõi lãng quên nữa. Phiền não và vọng tưởng làm cho ta chìm đắm trong sinh tử, trong lãng quên. Một phen ngồi xuống là ta dứt được mọi trầm luân. Trầm luân có nghĩa là chìm đắm và trôi lăn trong biển quên lãng, ưu tư và phiền não.

14. Ngồi xuống

Ngồi Đây Ngồi Cội Bồ Đề
Vững Thân Chính Niệm Không Hề Lãng Xao

Loại cây Ficus Religiosa ấy sở dĩ được gọi là cây bồ đề bởi vì đức Bụt đã thực hiện được sự tỉnh thức toàn vẹn khi ngồi dưới gốc một cây ấy. Bồ đề (bodhi) có nghĩa là tỉnh thức hay giác ngộ. Nơi Phật thành đạo bây giờ được gọi là Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhigayã). Hiện có một tháp lớn được xây lên tại đó để kỷ niệm ngày thành đạo. Cây bồ đề vẫn còn đó, sum suê và đẹp đẽ, tuy chỉ là con cháu của cây bồ đề năm xưa. Trong những năm gần đây, nhiều nước Phật giáo đã đến dựng chùa xung quanh Bồ Đề Đạo Tràng, mỗi nước một ngôi.

Đứng trước tọa cụ của mình, bạn chắp tay xá rồi thầm niệm bài kệ này trước khi ngồi xuống. Ta ngồi xuống đây chính là để tiếp tục sự nghiệp tỉnh thức của Bụt, và như vậy ngồi xuống đây cũng như là ngồi dưới cây bồ đề với mục đích thực hiện sự tỉnh thức. Là học trò của đấng Điều Ngự Trượng Phu, ta hãy quyết tâm thực hiện định huệ để phăng ra một lối thoát, chứ không chịu ngồi im lặng một cách bị động tiêu cực.

15. Điều thân

Trong Tư Thế Kiết Già
Đóa Hoa Nhân Phẩm Nở
Ưu Đàm Hoa Muôn Thuở
Vẫn Tỏa Ngát Hương Thơm

Điều thân nghĩa là điều chỉnh thế ngồi cho thoải mái và đúng phép. Tư thế kết già (padrmãsana) cũng được gọi là tư thế hoa sen; đó là tư thế đẹp đẽ và vững chãi nhất. Nếu bạn không ngồi toàn già thì bạn ngồi bán già. Lựa một tọa cụ với chiều cao thích hợp. Tìm một thế ngồi cho thật vững.

Ngồi cho đúng và cho vững thì tự khắc đẹp. Trong tư thế kết già, bạn ngồi vững như một tảng đá và nhờ đó tâm tư bạn dễ trở thành vững chãi hơn.

Cây Ưu Đàm Bát La (Udumbara) chỉ nở hoa một lần mỗi ba ngàn năm. Tên khoa học của cây này là Ficus Glomerata. Một người giác ngộ hoàn toàn như Bụt lâu lắm ta mới có dịp thấy xuất hiện trên cõi đời, vì vậy sự có mặt của Bụt được ví với sự có mặt của hoa Ưu Đàm (có khi ta gọi là hoa Ưu Bát). Tại chùa Từ Hiếu ở Huế có một vế câu đối như sau: Đàm hoa lạc khứ hữu dư hương (hoa Đàm đã rụng vẫn còn thơm). Bụt dạy mỗi người làm đức Bụt, và mỗi người là một đóa  Ưu Đàm. Đóa hoa nhân phẩm nở đến độ mãn khai thì đó là hoa Ưu Bát. Hoa Đàm mãi mãi còn đó, và hương thơm của hoa bất diệt. Vấn đề là ta có được khả năng thưởng thức hay không mà thôi.

16. Điều tức

Thở Vào Tâm Tĩnh Lặng
Thở Ra Miệng Mỉm Cười
An Trú Trong Hiện Tại
Giờ Phút Đẹp Tuyệt Vời

Tức là hơi thở. Điều tức là điều chỉnh hơi thở cho êm dịu, cho tinh tế. Hơi thở có tinh tế thì tâm niệm mới tinh tế. Thiền quán nên được bắt đầu bằng công việc điều hòa hơi thở. Thở vào, biết rằng đang thở vào. Thở ra, biết rằng đang thở ra. Thở vào nhẹ nhàng, biết rằng đang thở vào nhẹ nhàng. Thở ra nhẹ nhàng, biết rằng đang thở ra nhẹ nhàng. Thở vào nhẹ nhàng và cảm thấy thân tâm an tịnh. Thở ra nhẹ nhàng và cảm thấy thân tâm an tịnh…Bạn đọc lại kinh An Ban Thủ Ý hay cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức.

Điều hòa hơi thở, và theo dõi hơi thở cho đến khi tâm mình tĩnh lặng chuyên chú mới nên khởi sự thiền quán.

Trong xã hội bận rộn của chúng ta, được ngồi thiền mỗi ngày là một sự may mắn. Ngồi thiền trước hết là để được an lạc và thoải mái. Bạn đừng bao giờ nghĩ rằng ngồi thiền là một phương tiện để đạt tới một mục đích, dù rằng mục đích đó là sự đạt được đạo. Ngồi thiền là để ngồi thiền. Ngồi thiền là một dấu hiệu của nếp sống văn minh.

Trở về với bạn, trở về với hơi thở, với nụ cười, với chính mình, trong một tư thế  vững chãi và an nhiên. Đó là một hạnh phúc lớn. Bạn phải có khả năng thưởng thức những giờ phút ấy. Bạn nên tự hỏi: “Giờ phút này mà không an lạc thì giờ phút nào ta mới được an lạc?”. Tôi xin tặng bạn một quán ngữ: giờ phút hiện tại là giờ phút đẹp nhất. The best moment is now. Le meilleur moment c’est maintenant. Đó là câu quán ngữ tôi thường trao cho các thiền sinh ngoại quốc. Chỉ có hiện tại là có thực, và chỉ có hiện tại là miên viễn.

17. Tê chân đổi cách ngồi

Khổ Thọ Và Lạc Thọ
Như Mây Trời Theo Gió
Hơi Thở Là Giây Neo
Thuyền Về Nơi Bến Cũ

Trong khi thiền tọa, nếu chân bạn tê hay đau đến mức bạn không còn nhất tâm được nữa thì bạn cứ tự nhiên tháo chân và ngồi lại bằng cách thay đổi vị trí của chân, chân trên thay xuống dưới, chân dưới thay lên trên; hoặc chân để vào trước bây giờ để vào sau, chân để vào sau bây giờ để vào trước. Bạn làm như thế một cách cẩn trọng, chậm rãi, luôn luôn theo dõi hơi thở và cử động của mình. Nếu cần bạn có thể đứng dậy đi kinh hành một vòng rồi ngồi xuống trở lại. Tại nhiều thiền viện, thiền sinh không được phép làm như thế mà phải ráng ngồi lại và chịu đựng sự đau đớn. Tôi nghĩ điều đó trái với tự nhiên. Khi thân thể ta đau tê, thân thể ta muốn nói với ta rằng nó đau tê, và ta phải nghe được tiếng nói của nó. Ngồi thiền là để được an lạc chứ không phải để chịu đựng một cực hình. Thay vị trí của bắp chân hoặc đi kinh hành một vòng, điều đó không làm nhiễu loạn những thiền sinh khác. Bài kệ này là để cho bạn thầm đọc khi thay đổi vị trí của bắp chân.

Có ba loại cảm giác: cảm giác dễ chịu gọi là lạc thọ, cảm giác khó chịu gọi là khổ thọ và cảm giác trung hòa, không dễ chịu cũng không khó chịu, gọi là xả thọ. Tôi thấy lối phân biệt ấy trong luận tạng không được chính xác lắm. Theo kinh nghiệm của tôi, xả thọ nếu được ý thức, có thể trở nên một thứ lạc thọ lành mạnh và lâu bền hơn bất cứ lạc thọ nào.

Ăn một miếng  ngon hoặc nghe một câu khen ngợi bùi tai, ta thường có lạc thọ. Nhức một cái răng hoặc nổi giận đùng đùng, ta có khổ thọ. Những cảm giác này thường đưa đẩy và lôi kéo ta đi theo chúng như mây theo gió, như bèo theo sóng. Niềm an lạc của ta sẽ vững chãi và lâu bền hơn nếu ta tìm tới nguồn xả thọ. Một cơ thể không đau nhức, một tâm hồn không bị dằn vặt bởi lo âu và phiền não: đó là căn bản của hạnh phúc. Ngồi trong tư thế kiết già, thấy được thân tâm thanh tịnh, không bị lôi kéo theo phiền não, ta có thể đạt tới một trạng thái an lạc khá bền vững. Sự an lạc ấy có thể được diễn tả bằng từ ngữ le sentiment du bien-être của người Pháp. Ta thấy điều này: điều kiện thiết yếu để cho sự an lạc là ý thức rằng mình có an lạc.

Ta có đôi mắt có thể nhìn thấy được màu sắc của mọi loài hoa cỏ. Cảm giác của ta khi thấy những màu sắc ấy có phải là một lạc thọ hay không, đó là tùy ở chỗ ta có ý thức về sự quý hóa của cặp mắt ta và của những màu sắc mà ta trông thấy hay không. Nếu không thì cảm giác ấy là một xả thọ. Nếu có, nó là một lạc thọ mà ta có thể duy trì bao lâu cũng được, tùy theo ước muốn của ta.

Thiền tọa, như bạn đã biết, trước hết là để thanh tịnh và an lạc. Thanh tịnh và an lạc thường đi đôi với nhau. Giây neo là phương tiện cho thuyền không trôi giạt; hơi thở là phương tiện duy trì chánh niệm, duy trì sự thanh tịnh và an lạc. Hơi thở là giây neo để ta trở về với chính ta, để ta duy trì được sự tỉnh thức.

18. Chp tay chào

Sen Búp Xin Tặng Người
Một Vị Phật Tương Lai

Thay vì ép hai bàn tay lại, ta có thể chắp hai bàn tay thành một búp sen trước ngực. Kiểu chào này rất đẹp. Có hàng trăm triệu người ở Á Đông chào nhau bằng cách ấy. Chắp tay búp sen để chào cũng như tặng người đối diện một đóa sen búp.

Điều kiêng kỵ nhất là đừng chắp tay lại một cách máy móc. Phải có ý thức mình đang chắp tay thành một búp sen để tặng người đối diện. Phải cung kính một cách thành thật và phải ý thức rằng người đối diện mình, dù là một em bé, một người ít học, một người mà kẻ khác coi là hèn mọn, người ấy vẫn có Bụt tính, nghĩa là người ấy là một vị Bụt tương lai.

Phải thấy được Bụt tính nơi người đối diện. Tập chào như thế trong mười hôm, tự khắc ta biến đổi hẳn. Ta thấy được ta rõ ràng hơn. Ta sẽ trở nên khiêm nhường hơn và ta cũng sẽ thấy được khả năng không bờ bến của ta hơn. Ta biết kính trọng người thì ta cũng sẽ biết kính trọng ta hơn.

Có khi ta tự cho mình là có học thức và thông minh hơn người. Thấy kẻ ít học, ta có thể tự cảm thấy “cao” hơn và khinh thường người ta hơn. Điều này thật đáng hổ thẹn. Cái kiến thức của ta có đáng là bao, so với cái biết của muôn loài. Một gốc phong lan biết làm nên những chùm hoa phong lan thật thanh tao và diễn lệ, một con ốc sên biết làm nên được một cái vỏ ốc cân xứng và tuyệt mỹ. So với cái biết đó, kiến thức của ta có là bao, dù ta có bằng cấp kỹ sư, thạc sỹ hay tiến sỹ? Ta hãy cúi đầu trước con ốc và cành lan. Ta hãy chắp tay chiêm ngưỡng con bướm vàng và cây bông sứ. Ta hãy có thái độ cung kính và biết ơn đối với tất cả mọi loài và mọi vật. Như vậy là ta bắt đầu hé thấy được Bụt tính nơi ta rồi vậy.

19. Khen Phật

Xinh Tốt Như Hoa Sen
Rạng Ngời Như Bắc Đẩu
Xin Quay Về Nương Náu
Bậc Thầy Của Nhân Thiên

Chắp tay trước đức Bụt, ta ca ngợi vẻ đẹp của Người, vẻ đẹp mà chất liệu được tạo dựng bằng tình thương và trí tuệ. Hoa sen vừa tươi mát và thanh tịnh, có thể ví với tình thương; sao Bắc Đẩu là ngôi sao giúp người định hướng đi, có thể ví với trí tuệ. Quy y Phật là trở về nương náu nơi trí tuệ và từ bi của Phật. Người là bậc thầy không những cho cõi người mà còn cho cõi trời nữa.

 

20. Dâng hương

Hương Đốt Khói Trầm Xông Ngát
Kết Thành Một Đóa Tường Vân
Đệ Tử Đem Lòng Thành Kính
Cúng Dường Chư Bụt Mười Phương
Giới Luật Chuyên Trì Nghiêm Mật
Công Phu Thiền Định Tinh Cần
Tuệ Giác Hiện Dần Quả Báu
Dâng Thành Một Nén Tâm Hương

Bài này bạn có thể mật niệm khi dâng hương một mình hoặc xướng lên khi bạn là chủ lễ với sự có mặt của nhiều người. Trong khi dâng hương bạn quán tưởng khói hương thơm đưa lên không trung kết thành một đám mây lành năm sắc để cúng dường chư Bụt trong mười phương. Mười phương là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng và Hạ.

Trong thiền môn, thứ hương được xem là quý báu nhất được gọi là ngũ phận hương, hương có năm phần: hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát và hương giải thoát tri kiến. Hương đó là do công phu tu tập hàng ngày kết nên chứ không phải là do mua ở tiệm mà có. Vì vậy, đó là tâm hương. Vì giải thoát và giải thoát tri kiến đều nằm trong tuệ và từ tuệ giác mà có nên trong bài kệ dâng hương này, ta chỉ nhắc tới giới (giới luật chuyên trì nghiêm mật), định (công phu thiền định tinh cần) và tuệ (tuệ giác hiện dần quả báu) mà thôi. Thay vì ngũ phận hương, ta có tam học hương. Tam học là giới, định và tuệ. Nhờ giới có định, nhờ định có tuệ: đó là tiến trình của giải thoát.

21. Mở kinh (1)

Pháp Bụt Cao Siêu Huyền Diệu
Ngàn Đời Chưa Dễ Gặp Đâu
Giờ Đây Có Duyên Trì Tụng
Nguyện Xin Đạt Ý Nhiệm Mầu

Kệ này bạn có thể thầm đọc trước khi mở kinh ra để học hoặc để tụng. Khi có nhiều người, ta có thể tụng chung với nhau. Đó là kệ khai kinh. Đọc kinh ta phải đọc với một thái độ cung kính, cũng như khi ta cúi đầu nghe lời thầy chỉ dạy. Chỉ với thái độ đó, ta mới có thể đọc kinh bằng một tâm trạng thành khẩn và nhờ thành khẩn ta mới có cơ duyên nắm được ý chỉ quý báu của kinh. Tâm thiếu thành khẩn và cung kính, ta có thể đi vào biển tuệ mà trở ra tay không, không nhặt được viên ngọc nào.

22. Mở kinh (2)

Pháp Bụt Cao Siêu Mầu Nhiệm
Cơ Duyên May Được Thọ Trì
Xin Nguyện Đi Vào Biển Tuệ
Tinh Thông Giáo Nghĩa Huyền Vi

Đây là một bài kệ khai kinh khác. Bạn chọn bài nào bạn ưa nhất mà dùng. Danh từ thọ trì có nghĩa là tiếp nhận và hành trì. Chữ trì nghĩa là cầm lấy, giữ gìn mà sử dụng. Sử dụng trong thiền quán và trong đời sống hàng ngày.

23.Chùi cầu tiêu

Đẹp Thay Sự Quét Dọn
Tịnh Nghiệp Ngày Thêm Lớn

Chùi cầu tiêu và lau phòng tắm là công việc ít người ưa làm, nhưng nếu ta biết làm trong quán niệm thì tịnh nghiệp của ta do đó ngày càng thêm lớn. Tịnh nghiệp là sự nghiệp gạn lọc tâm ý để đạt đến an lạc và giải thoát. Tịnh có nghĩa là thanh tịnh hóa. Chính nhờ chùi cầu tiêu mà ta được thanh tịnh, trong nghĩa đen cũng như trong nghĩa bóng. Tịnh nghiệp càng lớn khi cầu tiêu ta chùi là cầu tiêu công cộng.

Tại các thiền viện, bạn thường thấy trong mỗi cầu tiêu và trong mỗi phòng tắm đều có một bình hoa. Bình hoa được cắm một cách rất có lòng và rất mỹ thuật. Vào cầu tiêu hoặc nhà tắm, nhìn thấy bình hoa, bạn hiểu thế nào là tịnh nghiệp ngày thêm lớn. Bạn có ưa làm như thế nơi bạn cư trú không?

24. Quét tước

Siêng Năng Quét Đất Bụt
Cây Tuệ Nẩy Mầm Xanh

Bài kệ này lấy ý từ hai câu “hằng tảo già lam địa, thời thời phúc tuệ sinh”. Già lam có nghĩa là chùa. Có khi gọi là bảo sát, có khi gọi là thiền môn, có khi gọi là thượng phương. Đất sân chùa là đất Bụt. Đất trước sân nhà cũng là đất Bụt. Ta có truyền thuyết về việc Ma vương bằng lòng nhượng cho Bụt một miếng đất lớn bằng chiếc áo cà sa của người. Ma không ngờ chiếc y của Bụt lớn quá. Đất của ta làm nhà, làm sân và cày cấy đều thuộc đất Bụt; ngày Tết ta dùng cây nêu để nhắc nhở Ma vương nhớ điều đã cam kết năm xưa mà đừng xâm nhập vào đất đai nhà cửa của ta.

Thật ra, đất nào mà ta quét dọn trong quán niệm thì cũng là đất Bụt cả. Mà thiền quán thì bao giờ cũng làm phát sinh Tuệ giác.

25. Dọn thiền đường

Nơi Thiền Đường Êm Mát
Quét Dọn Không Thấy Mệt

Quét dọn thiền đường, ta dễ dàng làm trong quán niệm lắm, bởi vì trong cái không khí êm ả nơi đây, cái gì cũng nhắc ta nhiếp tâm. Ta đưa từng lát chổi nhẹ nhàng, có ý thức. Ta đặt từng bước chân trên sàn gỗ có ý thức. Ta sắp xếp các tọa cụ có ý thức. Tâm ta tĩnh lặng, lòng ta an lạc. Ta làm thong thả, và trong niềm an lạc ấy, ta không thấy mệt.

26. Đổ rác

Một Thùng Rác Bẩn
Một Bông Hồng Thơm
Muôn Vật Chuyển Hóa
Thường Trong Vô Thường

Rác có thể vừa bẩn vừa hôi, nhất là rác hữu cơ. Rác này ta có thể chất chứa để làm phân xanh mà trồng rau hoặc trồng hoa. Bông hồng thơm và thùng rác bẩn là hai khía cạnh của cùng một thực tại. Không có cái này thì không có cái kia. Mọi vật chuyển hóa; bông hồng sau mấy ngày mơn mởn cũng sẽ trở nên một phần của thùng rác; thùng rác hôi hám sau sáu tháng có thể trở nên chất liệu thơm tho của một bông hồng. Mọi vật chuyển hóa cho nên ta gọi là vô thường. Cái này thành cái kia, cái kia là cái này. Nhìn vào cái này mà thấy được mọi cái kia, đó là nhìn với cặp mắt giác ngộ của một vị bồ tát. Tâm bồ tát không bị lay chuyển vì sự biến đổi, bởi vì bồ tát thấy được cái thường tại trong vạn vật vô thường. Cái thường tại ấy là sự sống không phải của mỗi cá thể mà trong mọi cá thể. Nếu ta đồng nhất ta với sự sống và thoát ra khỏi ý niệm về cá thể thì ta thấy được thường trong vô thường.

27. Cắt hoa

Xin Cắt Một Cành Hoa
Tặng Phẩm Của Đất Trời
Hoa Là Vị Bồ Tát
Làm Đẹp Cho Cuộc Đời

Khi ta cắt một cành hoa, ta nên có ý thức rằng ta xin cành hoa ấy không những từ bụi hoa hoặc cây hoa mà còn từ đất trời nữa, bởi vì cả đất trời đã phối hợp lại làm nên một bông hoa. Ta phải thực sự nói lời biết ơn với bụi hoa và với đất trời. Sự có mặt của các vị bồ tát làm cho cuộc đời thêm đẹp đẽ và thêm tươi mát; sự có mặt của bông hoa cũng thế.

28. Cắm hoa

Trang Nghiêm Tịnh Độ
Nơi Cõi Ta Bà
Đất Tâm Thanh Tịnh
Hiển Lộ Ngàn Hoa

Tịnh độ là đất thanh tịnh không có phiền não làm cho loạn tâm. Mỗi đức Bụt có tịnh độ của mình. Đức A Di Đà (Amitãbha) có cõi cực lạc (sukhãvati). Chúng ta học trò đức Thích Ca (Sãkyamuni) thì chúng ta ở trong tịnh độ của Ngài. Nhờ thực hiện những phép thiền quán Ngài dạy, ta có thể tham dự vào tịnh độ ấy. Vốn nằm ở đây, nơi cõi ta bà; nói một cách khác là trong tâm ta. Tịnh độ của đức A Di Đà thật ra cũng nằm trong tâm ta.

Ta bà (sãha) có nghĩa là chuyên chở và chịu đựng. Cõi ta bà tức là trái đất. Trái đất chuyên chở ta (như khi ta nói trời che đất chở) và trên mặt đất, ta phải chịu đựng nhiều khổ đau như nghèo đói, bệnh tật, thù hận, vô minh, chiến tranh, vân vân…Tu học theo Bụt, ta có thể chuyển hóa được ta và làm cho cõi ta bà bớt xấu xa đen tối và độc ác. Ta ước ao cũng được như một bông hoa để không gây thêm đau khổ cho kiếp sống mà còn làm đẹp thêm cho cuộc đời. Đó là ta trang nghiêm tịnh độ nơi cõi ta bà. Trang nghiêm nghĩa là làm cho đẹp. Trang nghiêm tịnh độ nơi cõi ta bà là thiết lập một cõi tịnh độ đẹp đẽ ngay trên mặt đất này.

Ta có thể nghĩ rằng công việc trang nghiêm tịnh độ là một công việc không thể làm nổi. Nhưng nếu ta biết rằng cõi ta bà này cũng chứa đựng bao nhiêu mầu nhiệm thì ta sẽ nghĩ khác. Những bông hoa mà ta đang trưng bày đây là chứng tích của sự có mặt của những hiện hữu mầu nhiệm nơi cõi ta cư trú. Cắm hoa là một trong những công việc ta làm để làm đẹp cho cuộc đời; đó cũng là trang nghiêm tịnh độ nơi cõi ta bà. Nếu ta nhiếp niệm trong khi ta cắm hoa thì không những hoa đẹp mà ta cũng đẹp. Khi khu đất của vườn tâm (tâm địa) thanh tịnh thì những đóa hoa của vườn Tâm (tâm hoa) sẽ nở rộ, và những người sống quanh ta sẽ nhờ vậy mà thấy được cuộc đời đẹp đẽ và đáng sống thêm lên.

29. Thay nước bình hoa

Nước Giữ Hoa Tươi
Hoa Nở Cho Người
Hoa Thở Tôi Thở
Hoa Cười Tôi Cười

Thật ra không phải hoa chỉ nở cho người mà còn nở cho ong cho bướm và cho chính hoa nữa. Màu sắc sặc sỡ của hoa là để mời các loài ong bướm tới và nhờ đó hoa có thể kết trái cho cây. Nước giữ cho hoa tươi, nước cũng giữ cho người khỏi héo. Nước là người ơn của hoa và của người. Hoa thở, tôi cũng thở; hoa cười, tôi cũng cười. Và tôi cười vì tôi ý thức được sự có mặt của hoa, của tôi và của nước. Ý thức ấy làm cho hiện hữu sáng tỏ, và giây phút hiện tại trở thành mầu nhiệm.

30. Đốt nến

Thắp Lên Một Ngọn Đèn
Cúng Dường Vô Lượng Bụt
Một Tâm Niệm An Lành
Làm Rạng Ngời Mặt Đất

Thắp lên một ngọn hồng lạp để cúng dường Bụt cũng đồng thời thắp ý thức của ta lên cho sáng tỏ. Ý thức ta sáng tỏ, tâm tư ta tỉnh thức thì màn vô minh và quên lãng tự nhiên tan biến và mặt đất sẽ sáng ngời. Một ngọn đèn như thế sẽ sáng không kém ngọn đèn của bà lão hành khất cúng Bụt năm xưa. Một ngọn đèn như thế xứng đáng để được dâng cúng lên vô lượng Bụt và đủ sức soi sáng cho mặt đất này.

31. Cúng hương

Xin Cho Khói Trầm Thơm
Biến Thành Mây Năm Sắc
Dâng Lên Khắp Mười Phương
Cúng Dường Vô Lượng Bụt
Vô Lượng Chư Bồ Tát
Cùng Các Thánh Hiền Tăng
Nơi Pháp Giới Dung Thông
Kết Đài Sen Rực Rỡ
Nguyện Làm Kẻ Đồng Hành
Trên Con Đường Giác Ngộ
Xin Mọi loài Chúng Sanh
Từ Bỏ Cõi Lãng Quên
Theo Đường Giới Định Tuệ
Quay Về Trong Tỉnh Thức.

Bài kệ này cũng có thể được xướng lên trong lúc dâng hương khi có nhiều người tham dự.

Có hai hình ảnh quán tưởng: hình ảnh trước là đám mây năm sắc do khói trầm hương kết thành để cúng dường Bụt, Bồ Tát và các bậc Thánh Hiền, hình ảnh sau là hình ảnh một đài sen có nghìn cánh chứa đựng muôn triệu cảnh giới trong đó có vô lượng chư Bụt và tịnh độ của mỗi vị. Đây là một hình tượng của Mật tông, gọi là thế giới hoa tạng. Tạng là kho tàng. Hoa đây là hoa sen ngàn cánh. Đóa hoa vĩ đại đó cư trú trong phong luân hoặc trên biển thơm; mỗi cánh hoa chứa đựng vô lượng thế giới trong đó có vô lượng chư Bụt và các cõi tịnh độ liên hệ. Kinh Hoa Nghiêm và kinh Phạm Võng cũng nói tới hình ảnh này.

Người dâng hương phát nguyện làm kẻ đồng hành của Bụt và Bồ Tát trên con đường giác ngộ. Trong bài Nguyện Sinh Tây Phương Tịnh Độ Trung ta cũng thấy có một câu tương tự: bất thối bồ tát vi bạn lữ (chọn lấy các bậc Bồ Tát bất thối chuyển làm bạn đường). Đường giác ngộ là con đường nào? Đó là con đường Giới, Định, Huệ. Theo con đường ấy, người dâng hương tự nguyện cùng mọi loài từ bỏ cõi Quên Lãng để tìm về thế giới Tỉnh Thức. Quên lãng là thất niệm; còn tỉnh thức là thế giới giác ngộ.

32. Bật đèn

Thất Niệm Là Bóng Đêm
Chánh Niệm Là Ánh Sáng
Đưa Tỉnh Thức Trở Về
Cho Thế Gian Tỏ Rạng.

Cầm lấy núm điện trên đầu giường, hoặc đưa tay lên để mở đèn, bạn ngừng lại năm mười giây để thầm đọc bài kệ này trước khi bấm đèn hoặc bật đèn. Bạn sẽ được đền bù thỏa đáng.

Chánh niệm là một phép lạ. Có chánh niệm, tự khắc mọi vọng tưởng và tạp niệm tan biến như bóng tối tan biến khi ánh sáng có mặt. Sự tỉnh thức của bạn không những sẽ soi sáng cho bạn mà còn soi sáng cho mọi người chung quanh bạn nữa.

33. Lặt rau

Mặt Trời Xanh Rờn Một Rổ Rau Tươi
Vạn Pháp Nương Nhau Làm Nên Cuộc Đời.

Câu mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi được lấy từ bài thơ Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt của Nhất Hạnh. Chính là mặt trời xanh rờn chứ không phải là rổ rau xanh rờn, bởi vì màu xanh của lá rau là do ánh sáng mặt trời mà có. Thiếu mặt trời, không có một loài nào sống được. Lá cây hút lấy một phần ánh sáng chiếu rọi trên nó, cất giữ năng lượng đó rồi rút chất thán trong không khí mà chế tạo các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây như đường và bột. Chất diệp lục tố màu xanh chính là do mặt trời mà có. Vì vậy khi nhìn rổ rau tươi là ta thấy được mặt trời, và mặt trời ở đây màu xanh.

Nhưng không phải nhìn rổ rau tươi ta chỉ thấy có mặt trời. Ta còn thấy muôn vạn hiện tượng khác. Ví dụ ta thấy một đám mây. Nếu không có đám mây thì sẽ không có mưa, và nếu không có mưa thì không có nước. Ta biết rằng nếu không có nước thì cũng không có rau, bởi vì không một loài thảo mộc nào mọc được khi không có nước. Đất cũng cần cho rau. Thán khí cũng cần cho rau. Sự có mặt của rổ rau là sự quy tụ của bao nhiêu điều kiện xa gần. Tất cả mọi pháp nương vào nhau mà có mặt, tất cả mọi pháp làm ra nhau và có mặt trong nhau: đó là nguyên lý tương duyên và tương tức của đạo Bụt.

Chữ pháp ở đây có nghĩa là vật, là hiện tượng. Tương duyên là nương vào nhau, có liên quan với nhau, giúp nhau mà tồn tại. Tương tức là có trong nhau, cái này là cái kia, có thể dịch ra là inter-être hay inter-being. Trong khi lặt rau nhìn thấy mặt trời xanh rờn trong rổ rau tươi, bạn thấy được tính cách tương duyên và tương tức của sự vật. Đó là do công phu quán niệm về thực tại duyên khởi. Công phu quán niệm này nếu được duy trì liên tục sẽ đưa bạn đến một cái thấy về tính chất bất sinh bất diệt của vạn hữu và dần dần đưa bạn thoát khỏi vòng sinh tử.

Trong đời sống hàng ngày, hễ tiếp xúc với bất cứ một hiện tượng nào bạn cũng có thể đề khởi công phu quán niệm về tự tính duyên khởi, chứ không phải chỉ trong lúc nhặt rau mà thôi. Duyên là điều kiện. Khởi là sự phát sinh. Duyên khởi là sự phát sinh và có mặt của các hiện tượng căn cứ trên nguyên lý tương quan tương duyên của vạn pháp.

34. Làm vườn

Đất Đưa Ta Ra Đời
Rồi Đất Ôm Ấp Ta
Sinh Diệt Trong Hơi Thở
Sinh Diệt Như Hằng Sa.

Đất là thiên nhiên, đất là Mẹ. Bao nhiêu thảo mộc đều được phát sinh từ lòng đất và được nuôi dưỡng bằng những chất liệu từ lòng đất, nghĩa là từ thiên nhiên. Lá cành nào rồi cũng sẽ trở về đất, được đất ôm ấp và nâng niu, và trở thành một phần của đất. Mỗi chúng ta là một đứa con của đất, do đất đưa ra đời, và ngày mai lại trở về đất để được đất ấp ủ. Đất đã cho ta ra đời một lần, thì đất cũng sẽ cho ta ra đời muôn vạn lần khác. Đó là cái thấy đầu tiên khi ta quán niệm về cây cỏ về hoa lá và về hình hài của chính ta. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, ta sẽ thấy ta đang liên tục ra đời và liên tục trở về lòng đất trong từng hơi thở, trong từng sát na. Sát na là đơn vị ngắn nhất của thời gian mà ta có thể tưởng tượng. Ta không phải sinh ra từ khi lọt lòng mẹ: ta đã được sinh ra từ vô thỉ và đang tiếp tục được đất cho ra đời. Ta không phải sẽ chết đi một mai kia khi hình hài được chôn vùi trong đất: ta đã chết từ vô thỉ và đang liên tục chết trong từng hơi thở, trong từng sát na. Mời bạn đọc những câu sau đây của nhà vật lý học Erwin Schrodinger, người đã phát minh ra phép lực học ba động (u’ aure mechanics), khi ông viết về bản ngã, về vũ trụ, về sự sống chết và về ý niệm một và nhiều: “Anh có thể nằm duỗi thẳng tay chân trên đất Mẹ với niềm tin vững chắc rằng anh với đất là một, đất với anh cũng không hai. Anh cũng vững chãi và an toàn như đất, và có thể là vững chãi và an toàn hơn đất cả ngàn lần.

Nếu chắc chắn ngày mai anh sẽ trở về đất thì chắc chắn một ngày mai đất sẽ đưa anh ra đời trở lại, để vật lộn thêm và đau khổ thêm. Nhưng anh không phải đợi đến “ngày mai” đâu; chính hôm nay, trong khoảnh khắc này, đất đang đưa anh ra đời, không phải một lần mà hàng ngàn hàng vạn lần; cũng như đất đang chôn vùi anh hàng ngàn hàng vạn lần, trong chính khoảnh khắc ngày.” (trích My view of the World, Cambridge University Press, 1964, London)

Người tu Quán phải thấy được sinh diệt trong từng hơi thở, không phải là sinh diệt của một cá thể biệt lập, mà là sinh diệt của vô vàn cá thể có liên hệ tới nhau, trong từng sát na. Hằng sa là cát sông Hằng Hà (sông Gange) ở Ấn Độ. Cát sông Hằng nhiều vô số, không thể đếm cho hết được. Sinh diệt cũng như thế.

Nếu bạn ở thành phố, bạn sẽ ít có dịp cuốc đất trồng rau, và chăm bón hoa cỏ. Tiếc cho bạn.

35. Trồng cây

Tôi Gửi Tôi Cho Đất
Đất Gửi Đất Cho Tôi
Tôi Gửi Tôi Nơi Bụt
Bụt Gửi Bụt Nơi Tôi.

Trồng một cây tức là gửi cây cho đất, phó thác cây cho đất. Cây trở về nương tựa nơi đất, cây phú thác thân mệnh cây cho đất, cây tươi tốt hay cằn cỗi là tùy đất, cây sống hay chết cũng là tùy đất. Tuy nhiên, để tự thể hiện, để tự biểu hiện, đất cũng phải gửi đất cho cây, đất cũng phú thác tự tính của mình cho cây; đất xinh tươi hay tàn tạ đó cũng là nhờ cây. Cây và đất nương vào nhau mà sống.

Cái lớp đất gọi là đất thịt (terrc végétale) sở dĩ có mặt và phì nhiêu cũng là nhờ nhiều thế hệ cây cỏ đã từng đi qua, đã từng xanh tươi, đã từng rực rỡ dưới ánh mặt trời. Lớp đất ấy sẽ còn nuôi dưỡng và tự thể hiện trong nhiều thế hệ cây cỏ sắp đến.

Tôi gửi tôi nơi Bụt là tôi phó thác tôi cho Bụt, tôi trở về tìm sự nương náu nơi Bụt, tôi trở về tìm chất nuôi dưỡng nơi nguồn suối tuệ giác và từ bi của Bụt. Tôi xinh tốt hay héo mòn, tôi sinh tử hay luân hồi, cái đó là tùy ở Bụt. Nhưng Bụt cũng gửi Bụt nơi tôi, bởi vì tuệ giác và từ bi cần có tôi mới được thể hiện. Tuệ giác và từ bi của Bụt làm sao có mặt nếu mỗi chúng ta không tự nguyện thể hiện tuệ giác và từ bi đó nơi chính chúng ta?

Nếu không có cây cỏ, làm sao trái đất xinh tươi? Nếu không có ta, làm sao tuệ giác và từ bi được biểu lộ? Ta gửi ta nơi Bụt, điều đó là điều chúng ta thường nghĩ tới, nhưng chúng ta có ý thức được rằng Bụt cũng đang gửi Bụt nơi ta không?

36. Khen Bụt

Sen Quý Nở Đài Giác Ngộ
Hào Quang Chiếu Rạng Mười Phương
Trí Tuệ Vượt Tầm Pháp Giới
Từ Bi Thấm Nhuận Non Sông
Vừa Thấy Dung Nhan Điều Ngự
Trăm Ngàn Phiền Não Sạch Không
Hướng Về Tán Dương Công Đức
Tinh Chuyên Đạo Nghiệp Vun Trồng.

Đây là một bài kệ ngợi khen Bụt mà ta cũng có thể xướng lên trước khi lạy Bụt, trong trường hợp có nhiều người tham dự buổi lễ. Pháp giới (dharmadhãtu) có nghĩa là vũ trụ vạn hữu. Đứng về phương diện bản thể, ta có danh từ pháp giới tính, cùng nghĩa với pháp tính và thật tướng. Dung nhan Điều Ngự là khuôn mặt của Bụt, Bụt có mười danh hiệu, đó là Như Lai (Tathãgata), Ứng Cúng (Arhat), Chánh Biến Tri (Samyak sambuddha), Minh Hạnh Túc (Vidyãcarana-sampana), Thiện Thệ (Sugata), Thế Gian Giải (Lokavid), Vô Thượng Sĩ (Anuttara), Điều Ngự Trượng Phu (PurusaDamyaa Sãrathi), Thiên Nhân Sư (Sãstãdevamanusyãnãm), và Phật Thế Tôn (Buddha- lakanãtha, hoặc Bhagavãn).

Điều Ngự là tiếng rút gọn của danh hiệu Điều Ngự Trượng Phu, có nghĩa là bậc trượng phu đã làm chủ hoàn toàn được thân tâm. Có khi được gọi là Điều Ngự Sư. Thấy được nụ cười của Bụt là bao nhiêu phiền não sầu muộn tan biến nơi ta. Tán dương trí tuệ và từ bi của Bụt, ta nguyện vun trồng đạo nghiệp của ta cho tinh chuyên, đêm cũng như ngày. Đạo nghiệp là sự nghiệp giác ngộ.

37. Tưới cây

Nước Mát Và Mặt Trời
Cũng Làm Nên Màu Xanh
Cam Lộ Của Bồ Tát
Rớt Xuống Nơi Sa Mạc
Thành Biển Xanh Mông Mênh.

Xin tham khảo bài kệ Lặt Rau số 33. Nước chính là cam lộ của đức Bồ Tát. Biển xanh ở đây không hẳn là đại dương. Biển xanh ở đây có thể là ruộng lúa xanh ngời mỗi khi mưa xuống. Cam lộ là nước từ bi có khả năng nuôi dưỡng và hồi sinh, dịch từ Phạn ngữ Amrta.

Bồ Tát Quán Thế Âm thường được diễn tả cầm trên tay trái một bình cam lộ và trong tay phải một nhành dương liễu. Đức từ bi cũng như những giọt cam lộ được rảy xuống làm cho những tâm hồn khô héo vì khổ đau được hồi sinh.

Không những đức Quán Thế Âm Bồ Tát là một Cam Lộ Vương Bồ Tát, mà những trận mưa đổ xuống kịp thời để cứu cho mùa màng khỏi mất mát và con người khỏi đói khổ cũng là những vị Bồ Tát Cam Lộ vậy.

38. Thiền hành

Ý Về Muôn Vạn Nẻo
Thiền Lộ Tâm An Nhiên
Từng Bước Gió Mát Dậy
Từng Bước Nở Hoa Sen.

Thiền hành là thực tập thiền trong khi đi bách bộ ngoài bờ sông, trong công viên hay trên bờ ruộng. Nếu bạn chưa biết phép đi thiền hành thì tìm đọc cuốn Thiền Hành Yếu Chỉ.

Thiền hành là bước những bước thong thả, thanh tịnh và an lạc. Đi không với mục đích là tới; đi là để đi. Mỗi bước đi là một cứu kính. Trong lúc thiền hành ta theo dõi hơi thở và bước chậm để thực hiện sự chú tâm và niềm an lạc.

Tâm ta thường rong ruổi như một con vượn chuyền cành, không lúc nào dừng nghỉ. Ý có muôn vạn nẻo đi và về, do đó ta bị lôi kéo theo và lạc lõng mãi trong thế giới lãng quên. Nếu biến được con đường ta đang đi thành thiền lộ thì chân ta tự khắc bước từng bước đi tỉnh thức, hơi thở ta được theo dõi và hòa hợp với bước chân và tâm ta trở về với trạng thái thư thái hồn nhiên. Mỗi bước chân ta đặt trên thiền lộ duy trì trạng thái an lạc đó, và làm phát hiện một luồng sinh khí mát mẻ an lành trong ta. Vì vậy có câu: từng bước gió mát dậy. Các nhà nghệ sĩ Phật tử tạc tượng Phật ngồi trên hoa sen là để diễn tả trạng thái an lạc đó. Dưới mỗi bước chân đức Phật sơ sinh, họ cũng tạo ra hình tượng một bông sen nở. Nếu bạn bước được những bước vô ưu và an lạc trên thiền lộ thì cũng như mỗi bước chân bạn làm nở một bông sen trên mặt đất. Các hình tượng “bộ bộ thanh phong khởi” (từng bước gió mát dậy) và “bộ bộ khai liên hoa” (từng bước nở hoa sen) đều được phát sinh từ ý đó.

39. Uống trà

Chén Trà Trong Hai Tay
Chánh Niệm Nâng Tròn Đầy
Thân Và Tâm An Trú
Bây Giờ Và Ở Đây.

Bất luận trong một buổi thiền trà hay khi uống trà một mình, bạn cũng nên có đủ thì giờ để thưởng thức chén trà trong tay bạn. Nếu trời lành lạnh, thì nâng chén trà trong hai tay ấm lắm.

Bí quyết của thiền trà là uống trà trong khung cảnh hiện tại và thời gian hiện tại, đừng để tâm trí đi lạc vào những hồi tưởng về quá khứ và những suy nghĩ về tương lai. Thời gian uống một chén trà là thời gian trở về với chính mình trong hiện tại. Nhận thức được sự quý giá của một thời gian như thế, đó là thiền trà, đó là đưa trà lên địa vị cao nhất của nó. Trà lên tới địa vị cao nhất thì người uống trà cũng lên tới địa vị cao nhất.

Nâng chén trà trong hai tay, bạn nhiếp tâm quán niệm. Nâng chén trà lên bạn có cảm tưởng nâng chánh niệm của bạn lên, viên mãn, đầy đặn. điểm tập trung là chén trà, và chánh niệm là chánh niệm về chén trà. Bạn trở thành một với chén trà ấm đang bốc hơi thơm ngát. Thân và tâm trở về an trú trong khung cảnh và thời gian hiện tại. Uống một chén trà thơm, bên cạnh những người thân của bạn, đó không phải là một niềm vui đáng kể hay sao?

40. Nâng bát cơm

Ai Ơi Nâng Bát Cơm Đầy
Dẻo Thơm Một Hạt Đắng Cay Muôn Phần.

Bài kệ này là một câu ca dao Việt Nam mà nhiều người thuộc lòng. Được nâng bát cơm đầy, có những hạt dẻo và thơm lên ăn, ta phải biết xót thương những người đang chịu đói trên thế giới, nhất là trẻ em. Tổ chức văn hóa Liên Hiệp Quốc báo cáo năm 1983 rằng mỗi ngày trên thế giới có tới 40.000 trẻ em chết vì đói và thiếu dinh dưỡng. Con số đó làm chấn động tâm hồn chúng ta, mỗi khi chúng ta nghĩ tới. Bát cơm thơm và dẻo này ngon thật đó, nhưng cũng cay đắng trăm phần. Nâng bát cơm ta nhớ tới đất mẹ, ta nhớ tới người làm ruộng, và ta nhớ tới biết bao tấn kịch thảm thương do sự thiếu ăn gây ra.

Các bạn sống ở Âu châu chắc thường được ăn gạo thơm Thái Lan. Đã đành trẻ em và người lớn ở Việt Nam ít người được nếm thứ gạo ngon này. Nhưng ngay trẻ em ở Thái Lan, trừ con nhà giàu, hầu hết cũng đều không được ăn gạo ấy. Các em ăn gạo xấu, rẻ tiền; còn gạo này là để xuất cảng bán mà lấy ngoại tệ. Hiện có những  bà mẹ không đủ sức nuôi con, đã đem con đi bán cho nhà có ăn. Trước bữa ăn, ta chắp tay quán niệm và dạy cho thiếu nhi quán niệm. Ta thở ra thở vào ba lần, chậm rãi, có ý thức, rồi thầm đọc bài kệ này. Bài kệ sẽ giúp cho tâm hồn ta giữ được sự lành lặn. Có thể một ngày nào đó ta sẽ quyết định sống đơn giản lại để có thêm thì giờ và tâm lực để làm một cái gì mà thay đổi tình trạng bất công hiện nay.

41. Thỉnh chuông

Ba Nghiệp Lắng Thanh Tịnh
Gởi Lòng Theo Tiếng Chuông
Nguyện Người Nghe Tỉnh Thức
Vượt Thoát Nẻo Đau Buồn.

Thay vì nói đánh chuông, ở thiền môn người ta nói thỉnh chuông. Thỉnh là mời. Thỉnh chuông là mời chuông lên tiếng. Trước khi thỉnh chuông, bạn đứng trước chuông (nếu là chuông báo chúng) hoặc ngồi trước chuông (nếu là chuông gia trì), chắp tay thở ra thở vào ba bận để nhiếp tâm rồi đọc bài kệ này. Xong rồi bạn cầm lấy dùi chuông lên và giữ ý thức về tư thế của bàn tay và của dùi chuông. Bạn thức chuông trước khi thỉnh chuông. Thức có nghĩa là đánh thức, nghĩa là đặt nhẹ dùi chuông vào vành chuông và dí sát vào đó, để chuông phát ra một âm thanh nhẹ. Âm thanh này báo trước cho mọi người rằng sẽ có một tiếng chuông lớn vọng lên.

Tiếng chuông có tác dụng thức tỉnh và giúp người nghe nhiếp niệm; vì vậy người thỉnh chuông phải tĩnh tâm trước khi gửi tiếng chuông đi. Phải gửi theo chuông tất cả tấm lòng của mình. Ba nghiệp phải thanh tịnh và hòa hợp với nhau. Ba nghiệp là thân, ngữ và ý. Cả ba đều thanh tịnh mỗi khi gửi tiếng chuông đi. Người nghe chuông sẽ nhờ vậy mà tỉnh thức và vượt thoát cõi đau buồn.

42. Hồi hướng và phát nguyện

Trì Thuyết Kinh Thâm Diệu
Tạo Công Đức Vô Biên
Đệ Tử Xin Hồi Hướng
Cho Chúng Sanh Mọi Miền
Pháp Môn Xin Nguyện Học
Ân Nghĩa Xin Nguyện Đền
Phiền Não Xin Nguyện Đoạn
Bụt Quả Xin Chứng Nên.

Bài kệ này được sử dụng sau khi tụng kinh hoặc tụng giới. Nếu là trường hợp tụng giới thì bạn đổi chữ kinh ở câu đầu thành chữ giới: trì thuyết giới thâm diệu…

Công đức trì kinh và thuyết giới là công đức trí tuệ. Công đức này quan trọng hơn mọi công đức khác, bởi vì nhờ sự thông đạt và hành trì theo kinh và giới mà ta tìm được lối đi cho ta và cho mọi người.

Nội dung bốn câu chót là tứ hoằng thệ nguyện, tức là bốn lời nguyện lớn. Câu “ân nghĩa xin nguyện đền” đã đến thay thế cho câu “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Câu “ân nghĩa xin nguyện đền” có ý nghĩa rộng rãi hơn và cũng khiêm nhượng hơn câu chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Ân nghĩa có bốn thứ: ơn cha mẹ sinh dưỡng, ơn sư trưởng giáo huấn, ơn bè bạn nâng đỡ, ơn chúng sinh tương liên tương quan. Ta mang ơn mọi người và mọi loài; ta nguyện đền ơn ấy bằng cách sống một đời sống xứng đáng có tình thương và có trí tuệ; ta làm tất cả những gì ta có thể làm để giúp đỡ và cứu độ mọi người và mọi loài. Đó là chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Năm chữ ân nghĩa xin nguyện đền vì vậy vừa đơn giản vừa hàm súc lại vừa khiêm cung.

Câu pháp môn xin nguyện học tương đương với câu pháp môn vô thượng thệ nguyện học. Câu phiền não xin nguyện đoạn tương đương với câu phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Cuối cùng câu quả Bụt xin chứng nên tương đương với câu Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Pháp môn có nghĩa là những cánh cửa đi vào sự thật. Đó là những phương pháp tu học được đề nghị trong giáo pháp của Bụt. Phiền não (klesa) là những trạng thái tâm lý khổ đau ràng buộc ta trong thế giới u mê và quên lãng. Có hàng trăm loại phiền não. Những sợi dây phiền não bền chắc nhất là vô minh, tham đắm, giận hờn, tự kiêu, nghi kỵ và thành kiến. Quả Bụt là những hoa trái giác ngộ do sự tu tập đưa đến.

43. Cầm ống điện thoại lên

Tiếng Đi Ngoài Ngàn Dặm
Xây Dựng Niềm Tin Yêu
Mỗi Lời Là Châu Ngọc
Mỗi Lời Là Gấm Thêu.

Ai cũng biết điện thoại là một phương tiện truyền thông tiện lợi, mau chóng và tiết kiệm được vừa thời gian vừa chi phí di chuyển. Nhưng điện thoại cũng có thể gây ra nhiều phiền toái. Chuông điện thoại reo mãi thì ta bị quấy rộn hoài không làm gì được nhiều. Nói điện thoại mà quên rằng mình đang nói điện thoại thì vừa tốn thì giờ vừa tốn tiền bạc, nhất là khi ta điện thoại đi xa. Đã vậy có khi ta còn có thể nói những câu chuyện không thực sự cần thiết, những chuyện không đáng nói. Mỗi lần nhận được phiếu đòi tiền điện thoại là mỗi lần ta có thể nhăn nhó vì số tiền quá cao.

Khi cầm ống điện thoại lên, ta hãy thầm đọc bài kệ để thấy rằng ta có trong tay một phương tiện truyền thông màu nhiệm, tương đương với thiên nhĩ thông. Ta biết lời nói của ta có thể có tác dụng xây dựng sự hiểu biết và hòa giải, và bồi đắp niềm tin tưởng và sự yêu thương. Tác dụng của lời nói có thể là rất lớn, bởi vì trong trường hợp chánh ngữ, lời nói đẹp hơn châu ngọc và gấm thêu.

Xin nhắc bạn một điều: những lời trách móc không đưa đến đâu hết, không xây dựng được gì hết. Chỉ có sự hiểu biết, thái độ ân cần và những lời ái ngữ mới có tác dụng bồi đắp và biến cải mà thôi. Lời nói có thể tạo rất nhiều hạnh phúc; kho từ ngữ của bạn phong phú lắm, bạn hãy sử dụng tùy nghi. “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”

Bài kệ này vừa giúp cho bạn tu tập chánh ngữ vừa giúp cho bạn … khỏi cháy túi vì điện thoại.

44. Trước khi rồ máy xe

Trước Khi Cho Máy Nổ
Tôi Biết Tôi Đi Đâu
Xe Với Tôi Là Một
Xe Mau Tôi Cũng Mau.

Có thể vì ngồi trong nhà bí quá mà bạn xuống lấy xe hơi để đi ra ngoài và nghĩ rằng đi đâu cũng được, miễn là có đi.

Ngồi trên xe hơi, bạn lấy chùm chìa khóa và đút chìa vào công tắc xe. Này bạn, bạn hãy ngừng tay lại chút đã. Đọc bài kệ số 44 đi.

Bạn đi đâu, có phải là bạn đi trốn bạn hay không? Không được đâu, đi đâu bạn cũng có bạn đi theo, bạn không thể nào trốn được bạn.

Xe hơi là một phương tiện chuyên chở rất tiện lợi. Nhưng số lượng xe hơi nhiều quá. Nhiên liệu đã và đang bị xài phí quá đáng. Hàng trăm triện khu rừng xanh tươi ở Bắc Âu và Bắc Mỹ châu đã chết rũ vì mưa axít, gây ra do các nhà máy và do xe hơi của bạn. Bạn chỉ nên sử dụng xe hơi khi bạn thực sự cần đến nó. Bạn đi đâu? Chúng ta đi đâu? Chúng ta đang tàn phá môi trường của sự sống của chính ta.

“Tôi biết tôi đi đâu” đó là chánh niệm. Nếu bạn biết chuyến đi của bạn thực sự cần thiết thì bạn cứ vững tâm mà đi. Nếu bạn thấy rằng nó không thực sự cần thiết thì bạn rút chìa khóa ra. Bạn có thì giờ thì bạn đi bộ ra bờ sông hay công viên để đi thiền hành.

Khi ta sử dụng một thứ dụng cụ hay một thứ máy móc nào thì ta hợp nhất ta với thứ dụng cụ ấy hoặc thứ máy móc ấy, ta với nó là một. Đây là một điều tôi mới phát kiến ra, một điều mà đáng lý một em bé nào cũng thấy được. Khi ta sử dụng máy truyền hình, ta không phải là máy truyền hình, nhưng ta là ta cộng với máy truyền hình. Khi ta sử dụng một cây súng, ta là ta cộng với cây súng. Khi ta sử dụng một chiếc xe hơi, ta là ta cộng với chiếc xe hơi. Ta mau hơn với xe hơi, ta ồn ào hơn với máy truyền hình, ta nguy hiểm hơn với cây súng. Cũng như thế, loài người bây giờ có tới trên năm mươi ngàn đầu đạn nguyên tử, loài người trở nên nguy hiểm hơn và có thể tự tiêu diệt dễ dàng hơn. Ngày xưa loài người không hề có khả năng ấy.

Cho nên khi ta sử dụng xe hơi, ta nên ý thức rằng ta và xe hơi là một. Xe với tôi là một, xe mau tôi cũng mau. Mau đây có nhiều nghĩa. Đi nhanh là một nghĩa. Dễ gây tai nạn hay dễ bị tai nạn là một nghĩa khác. Góp phần làm khô cạn mau chóng những nguồn năng lượng hữu hạn của trái đất, và góp phần làm hư hại môi trường của sự sống là một nghĩa khác. Và cuối cùng, tôi tự đánh mất tôi trong sự vô tâm quên lãng khi tôi không thấy được những điều đó.

45. Nhìn bàn tay

Bàn Tay Là Của Ai
Chưa Từng Một Lần Chết
Ai Ngày Qua Đã Sinh?
Ai Ngày Mai Sẽ Diệt?

Bạn hãy đọc lại những ghi chú về bài kệ thứ chín về tắm gội. Nếu sinh có nghĩa là từ không trở nên có thì bạn chưa bao giờ sinh ra cả. Bàn tay bạn là chứng tích của vô sinh. Có một cái gì nối tiếp từ vô thỉ cho đến bây giờ, chưa bao giờ từng đứt đoạn: trong giờ phút hiện tại, nó là bàn tay bạn. Bao nhiêu thế hệ từ thuở còn chưa là sinh vật đơn tế bào cho đến nay, đang có mặt nơi bàn tay bạn và bạn chưa từng sinh cũng như những thế hệ kia chưa bao giờ chết. Nếu trong quá khứ bạn chưa bao giờ từng chết thì sao bạn lại có thể chết được trong mấy mươi năm nữa? Chiêm nghiệm đi, quán sát đi, bàn tay bạn lúc nào cũng sẵn sàng là chủ đề thiền quán của bạn. Bạn đừng nói là bạn không có đề tài thiền quán.

46. Mở máy truyền hình

Tâm Là Máy Truyền Hình
Có Muôn Ngàn Nút Bấm
Chọn Thế Giới An Lành
Cho Tươi Vui Cuộc Sống.

Tâm là nhận thức. Nhận thức bao gồm chủ thể nhận thức (cái biết) và đối tượng nhận thức (cái bị biết). Hai phần chủ thể và đối tượng nương vào nhau mà có, như thiền sư Hương Hải nước ta nói; thấy vật liền thấy tâm, không vật tâm không hiện (kiến vật tiện kiến tâm, vô vật tâm bất hiện). Tâm ta nhận thức cái gì thì ta là cái ấy, trong giờ phút ấy. Khi ta ngắm một đỉnh núi tuyết thì ta là đỉnh núi tuyết. Khi ta theo dõi một truyện phim ồn ào thì ta là truyện phim ồn ào. Tâm ta như một máy vô tuyến truyền hình có hàng triệu nút bấm; bấm đài nào thì ta là đài ấy. Khi giận dữ ta là sự giận dữ. Khi nhớ nhung ta là sự nhớ nhung. Khi an vui, ta là sự an vui. Vậy nên ta hãy chọn đài mà bấm nút. Ta là cái mà ta chọn. Và ta có thể chọn bất cứ đài nào của tâm: Bụt là một đài, ma là một đài, nhớ là một đài, quên là một đài, tĩnh lặng là một đài, náo nhiệt là một đài. Đơn giản như ta tắt đài đang chiếu phim mà vặn sang đài đang trình diễn âm nhạc vậy.

Có người vì không chịu đựng được sự yên lặng hoặc sợ đối diện với chính mình, mở máy truyền hình để máy nói và hát suốt buổi. Trong nền văn minh hiện đại, con người ít ưa sống với chính mình cứ hay đi tìm quên lãng nơi đường phố, trong rạp hát hoặc những nơi tụ họp. Con người ít có thì giờ để nhìn lại mình và nhìn lại hoàn cảnh mình. Thiếu niên bây giờ vừa có máy truyền hình, vừa có đủ loại trò chơi điện tử, đã có đủ điều kiện để khỏa lấp hết thì giờ mà học đường còn để sót lại. Một nền văn minh mà trong đó con người không có dịp đối diện với mình và không có thì giờ để thiết lập liên lạc thât sự với những con người khác, một nền văn minh như thế sẽ đưa chúng ta đi về đâu?

Có những chương trình hay và bổ ích nơi vô tuyến truyền hình, bạn và tôi thấy được điều đó. Vậy ta hãy chọn những gì thực sự hay và thật bổ ích để theo dõi. Ta hãy sử dụng bản chương trình hàng tuần và dạy cho trẻ em sử dụng như ta. Sử dụng máy truyền hình, nhưng không mở máy để khỏa lấp sự trống trải.

Ta đừng để máy truyền hình làm tiêu mòn sự sống của ta và của con em ta. Hãy sử dụng công viên, bờ sông, biển cả, núi đồi, trăng sao, bạn hữu, thi ca, âm nhạc tuổi thơ và lý tưởng. Cuộc đời phải lành mạnh, tươi vui và an lạc.

47. Tưới cây trong chậu

Đừng Thấy Mình Riêng Lẻ Cây Ơi!
Nước Này Tuôn Chảy Từ Mạch Đất Trời
Nước Này Là Đại Địa
Ta Có Nhau Tự Muôn Đời.

Cây trồng trong chậu mà đặt ở ngoài sân thì khi gặp mưa vẫn được tưới tẩm. Cây trồng trong chậu mà đặt ở trong nhà thì cần phải có người tưới. Đem nước tưới cũng như đem cả đại địa tới, bởi vì mạch của nước là ở dưới đất và ở trên trời. Cây không lẻ loi bởi vì nước tới từ đại địa.

Người xưa quan niệm hiện hữu được tạo thành bởi bốn chất lớn, đó là đất, nước, nhiệt và không khí. Bốn yếu tố ấy gọi là tứ đại. Đó là thiên nhiên, đó là bà mẹ của vạn vật.

Người tưới cây tuy nói với cây mà thật ra là nói với chính mình. Con người không phải là một thực tại riêng biệt. Con người hiện hữu trong thế tương lập tương thành với tất cả mọi hiện tượng khác. Niềm cô đơn của con người đã phát sinh vì thiếu sự nhận thức về tính cách tương quan tương duyên của mọi vật. Tâm lý con người cũng vậy. Tâm ta không thể tách biệt khỏi tâm thức xã hội và tâm thức cộng đồng. “Cái này có mặt vì cái kia có mặt”, đó là nguyên tắc tương lập tương thành. Câu nói ấy được trích từ kinh A Hàm. Tưới cây mà chiêm nghiệm về nguyên tắc ấy tức là đang thực hiện thiền quán vậy.

Bài 33 – Niệm giới

1.   
Thở vào, tôi thấy được những khổ đau do sự sát hại gây ra cho con người và cho các loài thú vật
Thở ra, tôi nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự chém giết và không để kẻ khác sát hại

2.  
Thở vào, tôi thấy được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp, và bất công xã hội gây ra
Thở ra, tôi nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải tôi làm ra

3.  
Thở vào, tôi ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra
Thở ra, tôi nguyện không làm những hành động tà dâm

4.   
Thở vào, tôi ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra
Thở ra, tôi nguyện học hạnh lắng nghe và nói lời chánh ngữ để xây dựng hiểu biết và hòa giải

5.   
Thở vào, tôi ý thức những khổ đau do rượu và các chất ma túy gây ra
Thở ra, tôi nguyện không sử dụng rượu và các chất ma túy

6.   
Thở vào, tôi thấy năm giới mầu nhiệm che chở cho tôi, cho mọi người và mọi loài quanh tôi
Thở ra, tôi nguyện trọn đời thực tập năm giới để tự bảo vệ, bảo vệ mọi người và mọi loài.

 

Giới không phải là những cấm cản có tính cách giới hạn tự do của ta và không phải do một quyền lực nào buộc ta phải theo. Giới là hoa trái của chánh niệm và của kinh nghiệm. Chính nhờ chánh niệm mà ta thấy giới là những lực lượng an toàn và hạnh phúc của ta cũng như của những người quanh ta. Chính ta thấy được lợi ích của sự hành trì giới và đã phát nguyện tiếp nhận và hành trì các giới. Hành trì giới luật là để ta mãi mãi còn được tự do, không sa vào bất cứ một thứ cạm bẫy nào. Vì giới là hoa trái của chánh niệm nên trong giới có Bụt. Thực tập giới tức là luôn luôn được Bụt hộ trì và che chở. Sự che chở của chánh niệm tức là sự che chở của Bụt, bởi vì bản chất của Bụt là chánh niệm và tuệ giác. Chánh niệm đưa tới tuệ giác. Vì giới là hoa trái của chánh niệm nên trong giới có Pháp. Pháp chính là sự thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày. Thực tập giới tức là luôn luôn được pháp hộ trì và che chở. Giới là Pháp, cho nên ta thường sử dụng danh từ giới pháp. Vì giới là hoa trái của chánh niệm nên trong giới có Tăng. Tăng là đoàn thể của những người đang thực tập chánh niệm và đang thực tập giới. Tăng có mặt chung quanh ta và cả trong tâm ta. Thực tập giới ta luôn luôn được Tăng hộ trì và che chở. Tam Bảo là Bụt, Pháp và Tăng luôn luôn có mặt trong giới, và vì thế thực tập giới cũng là thực tập quy y Tam Bảo trong từng giờ phút. Sự thực tập này cũng nuôi dưỡng niềm tin và lý tưởng bồ đề của hành giả. Giới vì vậy cũng là đối tượng cụ thể của niềm tin ấy.

Tụng giới cũng là một cách thực tập niệm giới và quán chiếu về những lợi ích của sự trì giới. Sau đây là toàn văn của nghi thức tụng giới: >>

Bài 32 – Quán chiếu pháp giới

1.   
Thở vào, tôi có ý thức về sự có mặt của chiếc lá mùa thu mà tôi đang giẫm lên
Thở ra, tôi tiếp xúc được với thực tại duyên sinh mầu  nhiệm của lá

2.   
Thở vào, tôi ý thức về sự có mặt của tôi bây giờ và ở đây
Thở ra, tôi tiếp xúc được với thực tại mầu nhiệm của sự sống trong tôi và quanh tôi

3.   
Thở vào, tôi thấy chiếc lá trở về đất để rồi sẽ ra đời trở lại thành một chiếc lá mới.
Thở ra, tôi thấy chiếc lá trong muôn ngàn hình thái sinh diệt khác nhau

4.   
Thở vào, tôi thấy tôi đang có mặt trong thực tại duyên sinh mầu nhiệm
Thở ra, tôi thấy tôi đang được biểu hiện bằng nhiều hình thái sinh diệt khác nhau

5.   
Thở vào, tôi thấy chiếc lá không thực sự đi qua sinh diệt mà chỉ thị hiển sinh diệt
Thở ra, tôi thấy tôi không thực sự đi qua sinh diệt mà chỉ thị hiển sinh diệt

6.   
Thở vào, tôi thấy chiếc lá có hóa thân khắp nơi và hoạt dụng khắp nơi
Thở ra, tôi thấy tôi có hóa thân khắp nơi và hoạt dụng khắp nơi

7.   
Thở vào, tôi thấy chiếc lá đã hoàn thành sự nghiệp của nó từ vô lượng kiếp
Thở ra, tôi thấy tôi đã hoàn thành sự nghiệp của tôi từ vô lượng kiếp

8.   
Thở vào, tôi thấy chiếc lá đã là cái mà chiếc lá muốn trở thành
Thở ra, tôi thấy tôi đã là cái mà tôi muốn trở thành

9.  
Thở vào, tôi thấy chiếc lá có thể gọi về tất cả mọi hóa thân của chiếc lá trong ngàn muôn kiếp
Thở ra, tôi thấy tôi có thể gọi về tất cả mọi hóa thân của tôi trong ngàn muôn kiếp

 

Bài tập này được thiết lập trên căn bản tuệ giác Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Với chánh niệm, hành giả tiếp xúc được với thực tại mầu nhiệm gọi là pháp giới (dharmadhàtu) và thấy được tính cách không sinh không diệt của tự thân và của vạn vật. Lĩnh vực của khái niệm và của sinh diệt được gọi là thế giới (lokadhàtu). Trong pháp giới, không thực sự có sinh diệt và còn mất. Sinh chẳng qua chỉ là biểu hiện, và diệt cũng chỉ là sự biểu hiện. Sinh là thị hiện sinh, diệt là thị hiện diệt. Sự xuất hiện của một vị Bụt không thực sự là một sự sinh khởi, đó chỉ là một sự thị hiển, như là đóng kịch. Tờ lá kia cũng thế. Tờ lá tuy có sinh có diệt nhưng đó chỉ là giả sinh, giả diệt. Tờ lá khi rơi xuống cũng đang thị hiển tịch diệt như một vị Bụt thị hiển niết bàn. Thấy được như thế thì hành giả cũng thấy được rằng sự sinh diệt của bản thân mình cũng chỉ là thị hiện. Kinh Pháp Hoa có phẩm nói về thọ lượng của Bụt, có phẩm nói về thần lực của Bụt. Vì tập nhìn Bụt trong môi trường pháp giới nên ta thấy được tính bất sinh bất diệt của Bụt và nhận được rằng Bụt không thực sự sinh diệt mà chỉ thị hiện sinh diệt thôi.

Thọ lượng của Bụt vô cùng mà thần lực của Bụt cũng vô cùng. Thọ lượng của chiếc lá cũng như thế mà thần lực của chiếc lá cũng như thế. Thọ lượng và thần lực của mỗi người trong chúng ta cũng như thế.

Nói đến Kinh Pháp Hoa, chúng ta phân biệt ba bình diện: tích môn, bản môn và hạnh môn. Tích môn là bình diện lịch sử, trong đó Bụt có sinh, có thành đạo, có thuyết pháp, có nhập diệt. Bản môn là bình diện của bản thể. Trên bình diện này Bụt đã thành Bụt từ vô thỉ, đã thuyết pháp từ vô thỉ và nhập niết bàn từ vô thỉ. Tháp Bụt Đa Bảo là hình ảnh của bản môn. Bụt Đa Bảo của quá khứ được tiếp xúc trong hiện tại, điều này chi thấy Bụt Thích Ca chính là Bụt Đa Bảo. Hạnh môn là bình diện hành động. Trên bình diện này ta thấy các vị Bồ tát như Phổ Hiền, Quan Âm, Dược Vương, Diệu Âm và Thường Bất Khinh. Các vị Bồ tát này đang rong chơi trên lịch sử để làm việc hành đạo và độ đời. Các vị này đã thành Bụt từ lâu và từ bản môn họ khai mở hạnh môn (“Khai lục độ chi hạnh môn) để xuất hiện trên Tích môn làm mẫu mực cho hành động.

Nếu Bụt và các vị Bụt thị hiện hành đạo đều có thọ lượng vô cùng và thần lực vô cùng thì chiếc lá và chúng ta cũng vậy. Chiếc lá cũng đã thành lá từ lâu và đang thị hiện sinh diệt. Chúng ta cũng vậy.

Kinh Pháp Hoa cho ta thấy Bụt không phải là một hình ảnh lẻ loi xuất hiện trong khung thời gian và không gian. Phẩm Hiện Bảo Tháp cho ta thấy Bụt có vô lượng hóa thân đang thành đạo tại vô lượng cõi khác nhau. Chiếc lá cũng vậy. Chúng ta cũng vậy. Mỗi chúng ta đều có hóa thân khắp chốn và mỗi hành động, tư tưởng và lời nói của chúng ta cũng như của mỗi hóa thân chúng ta đều có ảnh hưởng tới mười phương. Đây là một bài tập có thể đưa ta tới định lực và cái thấy gọi là Pháp Hoa Tam Muội.

Bài 35 – Năm cái lạy

(Những lời quán nguyện được dùng trong khi phủ phục trước bàn thờ)

 

Lạy thứ nhất:

Trở về kính lạy liệt vị tiền thân, dòng họ tổ tiên gia đình huyết thống, hai bên nội ngoại.

(Chuông, lạy xuống, năm vóc sát đất)

Con thấy cha mẹ mà xương thịt và sự sống đang có mặt và lưu nhuận trong từng tế bào và mạch máu của con. Qua cha con và mẹ con, con thấy ông bà, bên nội cũng như bên ngoại đã và đang đi vào con với tất cả mọi năng lượng, mọi trông chờ, mọi ước mơ, cũng như tất cả trí tuệ và kinh nghiệm  của tổ tiên trải qua bao nhiêu thế hệ. Con mang trong con sự sống, dòng máu, kinh nghiệm, tuệ giác, hạnh phúc và khổ đau của các thế hệ tổ tiên trong con. Những yếu kém, những tồn tại và những khổ đau truyền đạt lại, con đang tu tập để chuyển hóa. Những năng lượng của trí tuệ, của kinh nghiệm và của thương yêu mà liệt vị truyền đạt lại, con đang mở rộng trái tim con và xương thịt con để mà tiếp nhận. Con có gốc rễ nơi cha, nơi mẹ, nơi ông bà, tổ tiên; con chỉ là sự tiếp nối của tổ tiên và dòng họ, xin cha mẹ, ông bà và tổ tiên hỗ trợ cho con, che chở cho con, truyền thêm năng lượng cho con. Con biết rằng con cháu ở đâu thì tổ tiên ở đó; con biết cha mẹ nào, ông bà nào cũng thương yêu đùm bọc và  hộ trì cho con cháu dù khi sinh tiền có lúc gặp phải khó khăn hay rủi ro mà không bộc lộ được niềm thương yêu và sự đùm bọc đó. Con thấy cha ông con, từ Lạc Long Quân qua các vua Hùng và biết bao thế hệ những người khai sáng đất nước mở rộng bờ cõi gìn giữ núi sông và un đúc nên nếp sống Việt Nam có thủy, có chung, có nhân, có hậu. Con là sự tiếp nối của liệt vị, con cúi rạp mình xuống để đón nhận năng lượng của dòng họ và tổ tiên, của gia đình huyết thống của con. Xin tổ tiên phù hộ độ trì cho con.

(Chuông, đứng dậy và thở mười hơi trước khi lạy lạy thứ hai)

 

Lạy thứ hai:

Trở về kính lạy Bụt và tổ sư truyền đăng tục diệm gia đình tâm linh qua nhiều thế hệ,

(Chuông, lạy xuống, năm vóc sát đất)

Con thấy thầy con, con thấy sư ông của con, người đã dạy con biết hiểu, biết thương, biết thở, biết cười, biết tha thứ, biết sống trong giây phút hiện tại. Con thấy, qua thầy của con, qua sư ông của con, con tiếp xúc được với các thế hệ Thánh tăng qua các thời đại: các vị sư tổ Tăng Hội, Tỳ Ni, Vô Ngôn Thông, Vạn Hạnh, Đại Đăng, Tuệ Trung, Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang, Nguyên Thiều, Liễu Quán, con tiếp xúc được với các vị bồ tát và với Bụt Thích Ca Mâu Ni, người đã khai sáng gia đình tâm linh của con, đã có từ 2600 năm nay. Con biết Bụt là thầy con mà cũng là tổ tiên tâm linh của con. Con thấy trong con có chất liệu nuôi dưỡng của Bụt, của tổ, của các thế hệ cao tăng và năng lượng của liệt vị đã và đang đi vào trong con, đã và đang làm ra sự bình yên, an lạc, hiểu biết và thương yêu trong con. Con biết Bụt đã giáo hóa cho gia đình huyết thống của con, đã làm đẹp, làm lành nếp sống đất nước của con và của dân tộc con. Bụt đã làm cho dân tộc con trở nên một dân tộc thuần từ và văn minh, điều này con thấy rõ trong nền văn minh Lý Trần. Con biết nếu không có Bụt, có tổ, có thầy thì con không biết tu tỉnh và thực tập an lạc cho con và cho gia đình con. Con mở rộng trái tim và xương thịt con để tiếp nhận kinh nghiệm, tuệ giác, tình thương, sự che chở và năng lượng từ bi của Bụt và của các thế hệ Thánh tăng, gia đình tâm linh của con. Con là sự tiếp nối của Bụt và chư tổ, xin sư ông và thầy truyền cho con nguồn năng lượng thương yêu, an lạc và sự vững chãi của liệt vị. Con nguyện tu tập để chuyển hóa và để truyền về cho thế hệ tương lai năng lượng của Bụt, của tổ và của thầy.

(Chuông, đứng dậy và thở mười hơi trước khi lạy thứ ba)

 

Lạy thứ ba:

Trở về kính lạy liệt vị tiền thân khai sáng đất này, sông núi khí thiêng hàng ngày che chở.

(Chuông, lạy xuống, năm vóc sát đất)

Trở về kính lạy con thấy con đang đứng trên đất nước này và tiếp nhận công ơn khai sáng của tiền thân đất nước này, trước hết là các vua Hùng, rồi các vị lãnh đạo của triều Tiền Lê, Tiền Lý, Ngô, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn cùng với các thế hệ tổ tiên và biết bao nhiêu người có tên tuổi và không có tên tuổi đã đem tài trí, kiên nhẫn và chịu đựng để làm cho đất nước này trở nên nơi nương náu của bao nhiêu giống dân đủ các màu da; đã lập nên trường học, nhà thương, xây dựng cầu cống, đường sá, chợ búa, đã thiết lập nhân quyền, luật pháp, phát minh khoa học làm cho mức sống được nâng cao. Con tiếp xúc được với những thế hệ tổ tiên ngày xưa đã sinh sống trên đất nước này và đã biết sống an lành với mọi loài và với thiên nhiên. Con sống ở đây, học hòa hợp với thiên nhiên, với con người, và con cảm thấy năng lượng của đất nước này đi vào trong con, yểm trợ con, chấp nhận con, con xin nguyện tiếp tục giữ gìn và làm tiếp nối những dòng năng lượng ấy. Xin nguyện góp phần chuyển hóa những bạo động căm thù và vô minh còn tồn tại trong xã hội này. Xin phù hộ độ trì cho chúng con:

(Chuông, đứng dậy và thở mười hơi trước khi lạy thứ tư)

 

Lạy thứ tư:

Trở về kính lạy gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia độ hộ trì cho người con thương.

(Chuông, lạy xuống, năm vóc sát đất)

Những nguồn năng lượng vô biên mà con vừa tiếp nhận được, con xin truyền cho cha con, cho mẹ con, cho những người con thương yêu: những người đã từng khổ đau, đã từng lo lắng, đã từng buồn khổ về con vì những vụng về và dại dột của con trong quá khứ, và cũng đã từng lo lắng buồn khổ vì hoàn cảnh khó khăn và không may của các vị. Con xin truyền nguồn năng lượng ấy để nguyện cầu và tiếp sức cho cha con, cho mẹ con, anh chị em của con (cho những người thân của con, cho chồng con, vợ con, các con của con), cho tâm hồn họ lắng dịu lại, cho khổ đau trong lòng (những) người ấy cảm nhận được niềm vui sống, cho (những) người ấy trong thân thể và an lạc trong tâm hồn. Con hết lòng cầu mong cho (những) người ấy có hạnh phúc và an lạc. Con biết nếu (những) người ấy có an lạc thì con cũng an lạc. Con cảm thấy trong lòng con không có oán hận trách móc (những) người ấy một mảy may nào. Con lạy tổ tiên, ông bà trong gia đình huyết thống và trong gia đình tâm linh của con phù hộ độ trì cho người con thương, cho những người con thương, những người mà con nguyện thương yêu và chăm sóc. Con thấy con không còn là một cái ta riêng biệt mà con đã trở thành một với những người con thương.

(Chuông, đứng dậy và thở mười hơi trước khi lạy thứ năm)

 

Lạy thứ năm:

Trở về kính lạy gia đình huyết thống, gia đình tâm linh, gia hộ độ trì người làm khổ con.

(Chuông, lạy xuống, năm vóc sát đất)

Con mở rộng lòng ra để truyền đi năng lượng hiểu biết và lòng xót thương của con tới những người đã làm con khổ đau và điêu đứng. Con biết những người ấy cũng đã đi qua nhiều khổ đau, đã chứa chấp quá nhiều cay đắng và bực bội trong trái tim nên đã làm vung vãi những khổ đau và bực bội của người ấy lên con. Con biết những người ấy không được may mắn có thể là từ hồi còn bé thơ đã thiếu sự chăm sóc và thương yêu, đã bị cuộc đời dằn vặt và ngược đãi bao nhiêu lần. Con biết những người như người ấy chưa được may mắn được học, được tu, đã chứa chấp những tri giác sai lầm về cuộc đời và về con, nên đã làm khổ con và làm khổ những người con thương. Con xin gia đình huyết thống và gia đình tâm linh của con truyền năng lượng cho người đó (cho những người đó) để trái tim của họ được tiếp nhận giọt nước cam lộ mà mở ra được như một bông hoa. Con chỉ cầu mong cho tất cả những ai đã làm cho gia đình con khổ, dân tộc con điêu đứng, kể cả những kẻ xâm lăng, cướp nước, những người hải tặc, những kẻ ích kỷ, dối trá và tàn bạo được nhờ ơn Bụt, ơn tổ, ơn tiền nhân mà cải hóa. Con thấy họ khổ vì nỗi khổ ấy đang kéo dài qua nhiều thế hệ và con không muốn giữ tâm niệm sân hận oán thù. Con không muốn cho họ khổ, con có gốc rễ nơi tổ tiên và dòng họ tâm linh; trái tim con đã nở như đóa hoa, con xin buông bỏ tất cả mọi niềm hận, một lòng cầu nguyện cho kẻ đã làm khổ con, làm khổ gia đình và dân tộc con được thoát khỏi vòng tai nạn và đớn đau, để họ có thể thấy được ánh sáng của niềm vui sống và an lạc như con. Tâm con không còn mang một mảy may trách móc và oán thù.  Con xin truyền năng lượng của con cho tất cả những người ấy, lạy Bụt, lạy tổ, lạy ông bà chứng minh cho con.

(Chuông, đứng dậy và thở ba hơi)

 

Ba tiếng chuông để chấm dứt.

Trong khi mọi người thực tập bài này, phải có một người ngồi để làm phận sự hướng dẫn. Chính người này giữ chuông và thỉnh chuông. Bài tập này có mục đích đưa ta trở về tiếp xúc với gốc rễ tâm linh và huyết  thống của ta. Thực tập tiếp xúc thường xuyên, chúng ta khai thông được nguồn suối truyền thống và bồi đắp được gốc rễ của chính chúng ta. Tại thiền đường Nến Hồng ở Làng Mai có hai câu đối như sau:

Gốc rễ tâm linh xin bồi đắp
Suối nguồn huyết thống nguyện khai thông

Hai câu đối này là nguyên tắc của phép thực tập. Nhờ sự thực tập năm cái lạy này mà nhiều người đã khôi phục lại được sức khỏe, niềm tin, sự vui sống và chuyển hóa được những hận thù và khổ đau trong tâm hồn. Bài tập này nên thực tập vào trước giờ đi ngủ.

Bài 34 – Lạy Tam Bảo


Một lòng kính lạy
Bụt, Pháp và Tăng
Trong suốt mười phương
Và ở trong con
Cùng khắp pháp giới
thấu suốt ba đời
con xin phủ phục
quay về nương tựa

Đứng chắp tay trước bàn thờ. Thầm đọc bài kệ và quán tưởng theo. Thở vào trong khi thầm đọc hàng đầu. Thở ra trong khi thầm đọc hàng thứ hai. Cứ như thế cho đến hết bài.

Lạy xuống sát đất, trán chấm sàn nhà. Buông bỏ hết tất cả mọi dự án, mọi kiến thức, mọi mặc cảm, mọi tự hào, mọi trách móc, mọi thành công, mọi thất bại. Trở về nương tựa nơi Tam Bảo, Tam Bảo phía trước, phía sau, phía trên, phía dưới và trong tự thân mình. Tam Bảo có  mặt trong mỗi phút giây, trong hiện tại, trong quá khứ và trong vị lai. Mỗi phút giây chứa đựng cả ba đời. Từ tích môn, trở về bản môn, đặt niềm tin nơi bản môn. Cái gì xảy ra mình cũng vui lòng chấp nhận hết.
Tam Bảo là bản thể vững vàng, đẹp đẽ và an lành. Hãy trở về nương tựa nơi ấy.

Lạy ba lần, hay bảy lần. Mỗi lần lạy xuống là một cơ hội để sóng trở về nước, để buông bỏ, để chấp nhận. Trong tư thế phủ phục, bạn có thể quán chiếu rất lâu về sự trở về, về sự buông bỏ, để chấp nhận. Bạn có thể thở vào thở ra theo bài kệ và quán chiếu theo bài kệ. Nếu thực tập một mình, bạn có thể duy trì tư thế phủ phục rất lâu, có khi tới năm bảy phút. Bài này nên thực tập hàng ngày, có thể là trước giờ đi ngủ.

Bài 31 – Quán chiếu về tứ tướng

1.
Thở vào, tôi có ý thức về tôi như một hợp thể ngũ uẩn
Thở ra, tôi thấy hợp thể ngũ uẩn này có gốc rễ và nền tảng trong vạn hữu

2.
Thở vào, tôi thấy tôi được làm bằng những yếu tố không phải tôi
(như hơi nóng, nước, không khí, đất,..tổ tiên, thói quen, xã hội, kinh tế,…)
Thở ra, tôi thấy ý niệm hàng ngày của tôi về tôi thường là ý niệm sai lầm

3.
Thở vào, tôi có ý thức về con người như loài động vật có văn hóa làm chủ trái đất
Thở ra, tôi thấy con người không thể có mặt nếu không có sự có mặt của các loài cầm thú, chim muông, thảo mộc và đất đá

4.
Thở vào, tôi thấy sự có mặt của con người trong sự có mặt của các loài cầm thú, chim muông, thảo mộc và đất đá
Thở ra, tôi thấy ý niệm về con người của tôi như một loài độc lập là một ý niệm sai lầm

5.
Thở vào, tôi có ý thức về các loài động vật có sinh, có diệt, có cảm thọ, có nhận thức
Thở ra, tôi thấy các loài động vật không thể có mặt nếu không có sự có mặt của các loài thảo mộc, đất đá, mặt trời, nước và không khí

6.
Thở vào, tôi thấy sự có mặt của các loài động vật trong sự có mặt của các loài gọi là vô tri như thảo mộc, đất đá, mặt trời, nước và không khí
Thở ra, tôi thấy ý niệm về động vật của tôi là một ý niệm sai lầm

7.
Thở vào, tôi có ý thức về sinh mệnh của tôi, bắt đầu từ giờ phút tôi sinh và chấm dứt bằng giờ phút tôi chết
Thở ra, tôi thấy tôi đã có mặt trước khi tôi sinh trong nhiều hình thái khác nhau, và tôi sẽ có mặt sau khi chết trong nhiều hình thái khác nhau (mặt trời, nước,không khí, đất, tổ tiên, con cháu, thói quen, xã hội, kinh tế,…)

8.
Thở vào, tôi thấy sinh mệnh tôi không bị giới hạn trong khoảng thời gian sinh ra và chết đi
Thở ra, tôi thấy ý niệm về sinh mệnh của tôi là một ý niệm sai lầm

Bài tập này, xuất phát từ Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, nhằm giúp ta phá được tứ hướng, tức là bốn loại ý niệm:

ý niệm về ta (ngã-câu 1 và 2)
ý niệm về con người (nhân-câu 3 và 4)
ý niệm về động vật (chúng sinh-câu 5 và 6)
ý niệm về sinh mệnh (thọ giả-câu 7 và 8)

Tinh ba của giáo lý Bát Nhã là Không (sunyatà). Không là sự có mặt tương quan tương duyên của mọi loài. Quán chiếu là để tháo tung được những biên giới giữa ta/không ta, con người/muôn loài khác, động vật/thực vật và khoáng vật, sinh mệnh ngắn ngủi/sự sống không biên giới. Phá được bốn ý niệm này (tức là phá được tứ tướng) ta vượt thoát được mọi giới hạn của tri giác và thoát được sinh tử. Ta sẽ đạt được sự không sợ hãi, sẽ đem lòng thương yêu muôn loài như thương yêu chính bản thân ta và sẽ tu tập để bảo vệ muôn loài trong đó có các loài cỏ cây, cầm thú và đất đá. Ai là những nhà chuyên bảo vệ thú vật, sinh môi và trái đất hãy lấy Kinh Kim Cương Bát Nhã làm cương lĩnh nhận thức cho hành động của mình.

Hành động trên nhận thức này sẽ không bao giờ xuất phát từ giận hờn, bất mãn và tuyệt vọng. Hành động trên căn bản nhận thức phá tướng này chỉ lấy sự hiểu biết và thương yêu làm chất liệu. Người hành động sẽ an lành và hạnh phúc trong suốt thời gian hành động.

Bài 29 – Quán tưởng Bụt trong tôi

Bài 29 – Quán tưởng Bụt trong tôi

1.
Thở vào, tôi thấy Bụt trong tư thế thiền tọa trước mặt tôi
Thở ra, tôi chắp tay kính lễ Bụt

2.
Thở vào, tôi thấy Bụt trong tôi
Thở ra, tôi thấy tôi trong Bụt

3.
Thở vào, tôi thấy Bụt mỉm cười và ranh giới giữa tôi và Bụt không còn
Thở ra, tôi thấy tôi mỉm cười và không còn thấy ranh giới giữa người kính lễ và người được kính lễ

4.
Thở vào, tôi thấy tôi gieo năm vóc xuống lạy Bụt
Thở ra, tôi thấy năng lượng của Bụt trong tôi

Bài tập này đã được ứng dụng ở nước ta trên một ngàn năm, mỗi khi ta chuẩn bị thân tâm để lạy Bụt vào lúc bắt đầu những buổi công phu. Đó là câu quán tưởng “năng lễ sở lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo giao nan tư nghị” (tự tánh của người kính lễ và của người được kính lễ đều là không, và vì vậy sự cảm ứng và giao tiếp không thể nào lường được). Phép quán chiếu này có gốc rễ ở các giáo lý duyên khởi, không và bất nhị. Bụt cũng như người lễ Bụt, theo giáo lý duyên sinh, đều là những thực thể có bản chất duyên sinh, và vì vậy tự tánh của cả hai đều là không. Không ở đây có nghĩa là không phải là những hiện tượng tồn tại độc lập và riêng rẽ. Trong tôi, có những yếu tố không tôi, trong đó có yếu tố Bụt. Trong Bụt, có những yếu tố không Bụt, trong đó có yếu tố tôi. Chính vì cái thấy ấy nên sự giao tiếp sâu sắc có thể thực hiện được, và sự kính lễ đạt tới mức độ sâu sắc nhất của nó. Ta chưa thấy trong một truyền thống nào mà tính cách bình đẳng giữa người kính lễ và người được kính lễ lại được thiết lập một cách tuyệt đối như vậy. Phép kính lễ này đã không gây mặc cảm yếu hèn mà còn tạo được niềm tin tuyệt đối nơi khả năng giác ngộ của bản thân.

Bài này có thể được thực hiện trong tư thế thiền tọa hoặc trong tư thế lễ lạy.

Bài 28 – Tiếp xúc, tính bất nhị

1.           
Thở vào, tôi tiếp xúc với bông hoa /Tiếp xúc hoa
Thở ra, tôi tiếp xúc với hương sắc của bông hoa / Hương sắc của hoa

2.          
Thở vào, tôi tiếp xúc với  mặt trời trong bông hoa / Mặt trời trong hoa
Thở ra, tôi biết nếu không  có mặt trời thì không có bông hoa / Không mặt trời không hoa

3.           
Thở vào, tôi tiếp xúc với đám mây trong bông hoa / Đám mây trong hoa
Thở ra, tôi biết nếu không có đám mây thì không có bông hoa / Không đám mây không hoa

4.           
Thở vào, tôi tiếp xúc với đất trong bông hoa / Đất trong hoa
Thở ra, tôi biết nếu không có đất thì không có bông hoa / Không đất không hoa

5.           
Thở vào, tôi tiếp xúc với không khí trong bông hoa / Không khí trong hoa
Thở ra, tôi biết nếu không có không khí thì không có bông hoa / Không không khí không hoa

6.           
Thở vào, tôi tiếp xúc với không gian trong bông hoa / Không gian trong bông hoa
Thở ra, tôi biết nếu không có không gian thì không có bông hoa / Không không gian không hoa

7.           
Thở vào, tôi tiếp xúc với tâm thức trong bông hoa / Tâm thức trong bông hoa
Thở ra, tôi biết nếu không có tâm thức thì không có bông hoa / Không tâm thức không hoa

8.           
Thở vào, tôi thấy bông hoa do sáu đại làm biểu hiện / Hoa do sáu đại
Thở ra, tôi cười với sáu đại trong bông hoa / Cười với sáu đại

9.           
Thở vào, tôi thấy bông hoa vô thường / Hoa vô thường
Thở ra, tôi thấy bông hoa trên con đường thành phân rác / Hoa là rác

10.         
Thở vào, tôi tiếp xúc với thùng phân rác / Phân rác
Thở ra, tôi tiếp xúc với sự bất tịnh và  hôi hám của phân rác / Bất tịnh và hôi hám

11.         
Thở vào, tôi tiếp xúc với phân rác do sáu đại làm biểu hiện /Rác do sáu đại
Thở ra, tôi cười với sáu đại trong bông hoa / Cười với sáu đại

12.         
Thở vào, tôi thấy rác vô thường / Rác vô thường
Thở ra, tôi thấy phân rác trên con đường thành bông hoa / Rác là hoa

13.         
Thở vào, tôi tiếp xúc với đám mây trong phân rác / Đám mây trong rác
Thở ra, tôi biết nếu không có đám mây thì không có phân rác / Không đám mây không rác

14.         
Thở vào, tôi tiếp xúc với đất trong phân rác / Đất trong rác
Thở ra, tôi biết nếu không có đất thì không có phân rác / Không đất không rác

15.         
Thở vào, tôi tiếp xúc với không khí trong phân rác /Không khí trong rác
Thở ra, tôi biết nếu không có không khí thì không có phân rác / Không không khí không rác

16.         
Thở vào, tôi tiếp xúc với  không gian trong phân rác / Không gian trong rác
Thở ra, tôi biết nếu không có không gian thì không có phân rác / Không không gian không rác

17.         
Thở vào, tôi tiếp xúc với tâm thức trong phân rác / Tâm thức trong rác
Thở ra, tôi biết nếu không có tâm thức thì không có phân rác / Không tâm thức không rác

Bài tập này giúp ta thấy được tự tính duyên sinh và bất nhị của vạn vật. Cái thấy của ta về tự tính duyên sinh và bất nhị sẽ giúp ta cởi bỏ mọi cố chấp lo âu, sợ hãi, tháo tung những biên giới nhận thức do lề thói khái niệm và phân biệt đã thiết lập và giăng mắc. Những biên giới giữa sinh/diệt, có/không, dơ/sạch, còn/mất…sẽ không còn nữa, và hành giả sẽ được sống vô úy trong một khung trời thênh thang.

Đạo lý duyên sinh được trình bày trong kinh Hoa Nghiêm dưới hình thức tương tức, tương nhập và trùng trùng duyên khởi. Bài tập này giúp ta thấy được cái một trong tất cả và cái tất cả trong cái một: bất nhị có nghĩa không phải là hai, nhưng không hề có nghĩa là một.

Bài 27 – Buông bỏ giận dữ

1.
Thở vào, tôi thấy một người đang giận dữ / Thấy người đang giận dữ
Thở ra, tôi thấy người ấy đang khổ / Thấy người đang khổ

2.
Thở vào, tôi thấy cái giận tạo đổ vỡ nơi mình và nơi người /  Cái giận tạo đổ vỡ
Thở ra, tôi thấy cái giận đốt cháy tất cả mọi công trình / Cái giận đốt cháy

3.
Thở vào, tôi thấy cái giận có gốc rễ trong thân tôi / Gốc rễ trong thân
Thở ra, tôi thấy cái giận có gốc rễ trong tâm tôi / Gốc rễ trong tâm

4.
Thở vào, tôi thấy gốc rễ của giận nơi tự ái và u mê / Gốc rễ nơi tự ái và u mê
Thở ra, tôi cười với niềm tự ái và sự u mê của tôi / Cười với tự ái và u mê

5.
Thở vào, tôi thấy người giận đang đau khổ / Người giận khổ đau
Thở ra, tôi biết người ấy cần tình thương của tôi / Người giận cần tình thương

6.
Thở vào, tôi thấy hoàn cảnh và những khổ đau của người ấy / Hoàn cảnh và khổ đau
Thở ra, tôi hiểu được hoàn cảnh và những khổ đau ấy / Hiểu được hoàn cảnh

7.
Thở vào, tôi thấy tôi đang bị ngọn lửa giận hờn đốt cháy tim gan / Lửa giận đốt cháy
Thở ra, tôi thấy tôi cần tưới nước cam lộ từ bi của chính tôi / Cần tưới nước cam lộ

8.
Thở vào, tôi biết cái giận làm tôi xấu / Cái giận làm tôi xấu
Thở ra, tôi biết chính tôi  làm cho tôi xấu / Chính tôi làm tôi xấu

9.
Thở vào, tôi biết chính tôi là ngôi nhà đang cháy / Tôi là ngôi nhà đang cháy
Thở ra, tôi biết tôi phải trở về chữa cháy tâm tôi  / Tôi phải về chữa cháy

10.
Thở vào, tôi nguyện giúp cho người kia bớt khổ / Nguyện giúp người kia
Thở ra, tôi biết tôi có thể giúp người kia bớt khổ / Có thể giúp người kia

Bài tập này được sử dụng khi có sự giận dữ. Bụt dạy rằng lửa giận có thể đốt cháy tất cả mọi công trình của ta. Chúng ta ai cũng có hạt giống của sự giận hờn trong tâm, nhưng nếu được tưới tẩm hoặc khơi dậy mỗi ngày hạt giống ấy sẽ lớn lên mau chóng và gây cho ta và cho người chung quanh nhiều phiền não.

Khi giận ta cần trở về với hơi thở để đừng nhìn và đừng nghe người mà ta nghĩ là nguồn gốc đau khổ của ta. Nguồn gốc thật của niềm đau ta là hạt giống của sự giận dữ trong ta. Người kia có thể đã làm và đã nói như thế vì thiếu khéo léo hoặc thiếu chánh niệm. Người kia có thể vì đã đau khổ quá nhiều. Một người đau khổ quá nhiều thường hay làm vung vãi sự đau khổ của mình lên kẻ khác. Người ấy cần được giúp đỡ hơn là cần sự trừng phạt. Đó là những cái ta thấy khi ta trở về với hơi thở để chăm sóc cái giận trong ta.

Bụt dạy cái giận làm ta xấu. Trong khi giận, nếu ta biết thở và biết ý thức được điều ấy thì đó đã là một tiếng chuông chánh niệm. Ta thở và mỉm cười để làm êm dịu lại lòng ta và cả hệ thần kinh lẫn các bắp thịt trên mặt. Và ta tiếp tục thở trong khi đi thiền hành ngoài trời để quán chiếu. Chánh niệm và hơi thở là một nguồn năng lượng có công năng làm dịu cơn giận, vốn cũng là một nguồn năng lượng. Nếu ta tiếp tục dùng chánh niệm để chăm sóc cái giận của ta với một thái độ ưu ái như bà mẹ ôm con trong lòng thì không những ta làm cho cái giận êm dịu trở lại mà ta còn có thể khám phá được bản chất của nó nữa. Cái thấy đó sẽ chuyển hóa cơn giận và sự thực tập đến nơi đến chốn sẽ chuyển hóa được gốc rễ của cái giận trong ta.