Trong bức thư pháp hiện rõ bóng Thầy
Thầy Từ Lực
Cứ mỗi lần nhìn bức thư pháp nơi chánh điện chùa Phổ Từ, tôi lại nhớ đến Sư Ông. Không những qua hàng chữ mường tượng ra bóng dáng Người mà trong nét bút màu mực lưu lại như còn văng vẳng lời nhắc nhở tràn đầy ưu ái của Sư Ông đối với tôi và mọi người.
Hàng chữ thư pháp trên liên quan đến một chặng đường tu học của tôi, vốn là một câu thơ của Sư Ông mà từ lâu tôi sử dụng như một quán ngữ cho sự thực tập của mình: hồ tâm lặng chiếu nguyệt thanh bình. Thuở ấy, tự biết tâm mình còn dễ dao động nên từ khi đọc sách Sư Ông vào khoảng năm 76, 77, tôi đã thực tập cố gắng nhìn lại tâm mình cho bớt xôn xao, “nổi sóng” nhất là khi bắt đầu tập hạnh xuất gia. Câu thơ trên khi chưa được treo lên vách đã ở bên cạnh tôi như một tâm niệm khó quên, một nhắc nhở không thôi.
Nhưng việc được gặp gỡ người đã chỉ ra một quán ngữ cho cuộc đời tu học của mình thì phải nhiều năm sau cơ duyên mới đến. Khoảng năm 1986, Sư Ông qua Bắc Mỹ giảng thiền khi làn sóng người tỵ nạn Việt Nam đến định cư ngày một đông. Sau khóa tu ở một trại hè gần San Diego, tôi quen biết anh Mộc, một họa sĩ và nhờ anh phỏng theo kiểu chữ Sư Ông, cắt giấy dán câu thơ làm thành một tiêu ngữ rất dễ nhìn, ai thấy cũng không rời mắt. Cho đến một hôm, trong một khóa tu ở tu viện Lộc Uyển, thì cơ duyên mới đến! Sau khóa tu, Sư Ông ngỏ ý cho các huynh đệ về thăm nhà, hay quý thầy, sư cô nào đã làm Trụ trì mà dám “bỏ chùa đi tu học”, thì dành cho mỗi người một món quà. Hôm đó, tôi thấy mình qualified nên theo đại chúng đi xuống Cốc của Sư Ông. Có thực tập chút chút, nên tôi cũng biết nhường nhịn các huynh đệ, để cho mọi người chọn quà trước. Ai ngờ, đến phiên mình thì quà … sạch trơn! Thật tình, tôi cũng chưa biết nghĩ sao, đúng là “tiến thoái lưỡng nan”, chẵng lẽ “đòi ” thì không nên mà bỏ đi thì hóa ra “cô phụ” lòng thương của Sư Ông. Ngay lúc đó, Sư Ông từ trong phòng ngủ bước ra, thấy tôi đứng đó (không biết thị giả có báo cáo hay không) thì Sư Ông nói ngay: Thầy muốn chữ gì, tôi viết cho thầy. Đợi thị giả trải giấy, bày xong bút mực, tôi mới ghé ngồi cạnh, miệng thưa với Sư Ông: Bạch Sư Ông, cho con xin câu: “hồ tâm lặng chiếu nguyệt thanh bình” rồi ngồi yên.
Ngồi bên Sư Ông, một bậc Thầy tôn kính của mình, tôi bỗng thấy mình, vốn đã vóc dáng khiêm nhường, nay lại như nhỏ bé thêm! Trong lòng còn chút ngại ngùng chứ không sợ sệt, tôi bình tâm theo dõi hơi thở, giữ chánh niệm, rồi “enjoy” giây phút hiện tại.
Sư Ông điềm tĩnh khác thường, nhẹ nhàng vuốt tờ giấy, khoan thai cầm bút và như thể trút hết thái độ an nhiên tự tại kia xuống mặt giấy. Sư Ông viết thư pháp kể đã hàng trăm lần, thậm chí cả ngàn bức rồi mà dường như cung cách khi đặt bút vẫn chỉ là một, không thay đổi.
Đến lúc Sư Ông ấn dấu triện son thay cho chữ ký của tác giả lên bức thư pháp, tôi không còn giữ được bình tâm mà cảm thấy lòng mình rộng mở đón nhận cảm xúc mạnh mẽ, thiết tha từ một lời răn hiển hiện lên thành chữ từ tay một bậc Thầy. Lời dạy được thể hiện trong từ tốn, chân thành, thiết tha như kèm theo ánh mắt bao dung, từ ái. Ôi! chữ nghĩa bình thường không diễn tả nổi, bạn ơi! Khi ấy, tôi chỉ biết mỉm cười, thọ nhận ân đức của Thầy vừa ban cho mình một món quà vô giá.
Tôi đem bức thư pháp về chùa, làm khung, trân trọng treo lên tường chánh điện. Bên kia, là tấm hình Ôn Hội chủ chụp chung với Thầy tôi, Sư Ông Kim Sơn, và đại chúng ở tịnh thất Phật giáo San Jose thuở nào. Một tấm hình, một bức thư pháp đã ở bên tôi, an ủy, trợ lực tôi trong cuộc đời người tu hành.
Không chỉ nhận được lời dạy như thêm đậm nét trong bức thư pháp, tôi còn sớm lãnh hội nơi Sư Ông những ý tứ thâm sâu được thể hiện bằng một văn tài hiếm có. Từ nhiều thập niên trước, tôi đã cảm mến cuộc sống và tâm tình người xuất gia thiếu niên và nghĩ rằng tác phẩm “Tình người” của Sư Ông đã góp phần không ít vào việc hun đúc, tô bồi hạnh nguyện thí phát của chính mình. Bộ “Đường Xưa Mây Trắng” Sư Ông viết, Lá Bối in lần đầu gồm 3 tập, tôi say sưa đọc một mạch mới buông sách! Thơ của Sư Ông, gồm nhiều thể lọai, có bài được phổ nhạc, vẫn còn lưu lại trong ký ức nhiều người chúng ta như bằng chứng của một tấm lòng luôn ưu tư, xót xa về nỗi đau chung mà mọi người phải cam nhận. Người ta còn nói nhiều đến những thành tựu đáng kể về nhiều mặt mà Sư Ông đạt được không chỉ trong lãnh vực văn chương, văn hóa. Riêng với người hậu sinh như tôi, tôi chú ý nhiều hơn đến sự nghiệp giáo dục, truyền bá về mặt tâm linh, vận dụng Phât pháp trong đời sống mà tôi được may mắn theo đuổi việc học hỏi, thực tập, hành trì một cách gần gũi với Sư Ông trong thời gian lâu dài. Tôi đi theo làm phụ tá cho Sư Ông khoảng 10 năm trong các khóa tu học, nhiều nhất là ở tu viện Kim Sơn. Ngoài ân đức của một nghiệp sư khi tôi thọ Sa di thập giới ở chùa Việt Nam, Los Angeles, năm 1983, Sư Ông còn dành cho tình thương mến khi tôi bắt đầu thành lập đạo tràng tu học ở Hayward. Sư Ông cho một “bì thư” làm quà khai trương! Sau đó, vào năm 1994, sau khi tôi trình lên Sư Ông bài kệ kiến giải của mình:
Một chút nắng nhạt
Rơi trên y vàng
Nguyện khắp nhân gian
Bình an, chánh niệm.
Sư Ông truyền đăng, ban kệ truyền thừa cho tôi, mà qua đó, lời dạy của Sư Ông thật rõ ràng, thực tế:
Từ vân đương hiện thoại
Lực đại bản do căn
Đối cảnh tâm bất động
Chân giác bất ly trần.
Lời dạy đó đã giúp tôi bao nhiêu lần giữ cho được “tâm bất động” trước nhiều tình huống khác nhau. Tôi rất biết ơn Sư Ông với những lời giáo dưỡng, khuyên bảo ân cần giữa đại chúng cũng như khi ăn sáng riêng với Sư Ông ở Cốc Ngồi Yên tại Làng Mai.
Nhưng đặc biệt hơn cả là lời dạy bảo của Sư Ông giúp tôi qua khỏi một “đại nạn” trong cuộc đời tu hành của mình. Nếu như bạn có gia đình thì việc bạn làm những điều cần thiết để gìn giữ gia đình của mình là điều đương nhiên hợp lý. Tôi có chúng xuất gia, tức là gia đình tâm linh, thì tôi cũng cố gắng nuôi dưỡng, bảo vệ cho được an lành, vui vẻ. Nhưng, mấy khi học được chữ ngờ vì có những sự việc xảy ra ngoài tầm dự tính, hiểu biết. Năm đó, tôi phát giác ra có chuyện “bất thường” ở trong chúng tuy không rõ lắm là chuyện gì. Nhưng vì có khóa tu riêng biệt cho người xuất gia, tôi vẫn sắp xếp để tất cả chúng lên Kim Sơn tu học, một mình tôi lo sinh hoạt ở chùa với Phật tử.
Sau khóa tu, tôi trở lên đón mọi người về, thì mới biết, trong buổi pháp đàm, một vài thành phần trong chúng đã “bày tỏ” với mọi người về tình hình sinh họat trong chúng. Những ý kiến đó có chiều bất lợi và có thể làm thương tổn dẫn đến tan rã một chúng xuất gia như chơi! Nghe tôi trình việc, Sư Ông chỉ nhỏ nhẹ nói: “án binh bất động” và tôi hiểu ý người. Tôi áp dụng đúng lời dạy, nhẹ nhàng lắng nghe, tuyệt đối không nổi nóng, buồn giận. Sau đó, tình hình trở nên sáng sủa khi những thành phần đó bày tỏ sự hối tiếc hành động vụng về. Bây giờ, hơn 15 năm trôi qua, nhìn lại, mới thấy lời dạy của Sư Ông là hợp lý, khôn ngoan và sáng suốt. Nếu mình có phản ứng, thái độ, hành động cứng rắn hay giận dữ thì chắc chắn sự việc đã buồn càng thêm buồn, đã tan rã thì sẽ không có cơ hội hàn gắn, xây dựng trở lại được nữa.
Vừa mới đây thôi, năm 2013, khi gặp Sư Ông ở đại học Stanford, Sư Ông cũng ân cần dặn dò: phải có chúng xuất gia thì việc tu tập mới tốt được. Có thể cũng vì lý do đó mà khi ở Lộc Uyển, Sư Ông đã dành hơn 15 phút để giải thích cặn kẽ điều tôi thỉnh thị: Bạch Sư Ông, làm thế nào để xây dựng, nuôi dưỡng chúng xuất gia ở Mỹ? Trong câu trả lời, dù Sư Ông cũng dựa vào kinh điển, với ba phần ân đức, đoạn đức và trí đức nhưng cách trình bày của người thể hiện tấm lòng cùng ánh mắt ân cần, khích lệ chân tình của một bậc trưởng thượng luôn quan tâm đến những ưu tư của lớp hậu tấn.
Chỉ xin kể thêm một chuyện nữa thôi, chứ còn kỷ niệm với Sư Ông dài lắm, nhiều lắm. Sư Ông thích tôi ngâm thơ. Tôi cũng biết ý, cho nên lúc nào tôi cũng sẵn sàng. Hôm đó, có Giới Đàn ở Làng, sau khi dùng cơm chung xong, đến phần sinh hoạt, Sư Ông nói: yêu cầu thầy Từ Lực đọc cho nghe vài bài thơ. Tôi bắt đầu bằng vài bài ngắn, xong chuyển qua truyện Kiều. Bỗng dưng trong lòng nghĩ đến hình ảnh một khía cạnh nào đó của con người Từ Hải, rồi liên tưởng đến cuộc đời hành thế của Sư Ông, gần như đơn độc xướng xuất, nhẫn nại từng bước, qua bao nhiêu năm vẫn trung thành với đường hướng đạo Phật nhập thế, chăm sóc việc đào tạo thế hệ kế thừa. Chợt nghĩ thế, tôi thưa với Sư Ông: Bạch Sư Ông, con thích mấy câu thơ “trơ như đá, vững như đồng”…Sư Ông trả lời ngay, do it again, trên môi vẫn là nụ cười bao dung, hoan hỷ. Tôi vững dạ, ngâm hai câu thơ mà theo tôi, ký thác được ý chí bền chặt và tâm nguyện vững vàng, không chuyển của Người. Sư Ông rất vui và tôi cũng rất vui, còn gì bằng!
Sớm nay, tịnh tâm xong, ngồi nhìn bức thư pháp trên tường, tôi thấy Sư Ông như bước ra từ nét chữ, nhẹ nhàng, ung dung, khoan thai từng bước dưới ánh trăng thanh. Nét mặt Người an lạc biết bao, và tôi cũng thấy lòng bình an không kém.