Thi sĩ gặp em Thơ của Hoàng Cầm: sư cô Chân Không, Thầy và tăng thân Làng Mai tại Hà Nội tháng 1 năm 2005

Điều kiện về Việt Nam của tăng thân Làng Mai

Thầy tôi được mời về nước và đem theo một phái đoàn, gọi là phái đoàn Làng Mai Quốc tế với trên 200 thành viên, gồm trên 30 quốc tịch. Đó là kết quả của gần một năm trời làm việc. Nhà nước đã cử hai vị đại diện trong lãnh sứ quán Việt Nam tại San Francisco đến tu viện Lộc Uyển (California) trong thời gian Thầy an cư ở đây để bàn bạc, rồi sau đó chuyên viên chính trị tại Sứ quán Việt Nam tại Paris tiếp tục làm việc ở Pháp. Biết trong nước cần mình về để chứng tỏ với quốc tế rằng Việt Nam đã có những chính sách cởi mở, thì mình cũng nhân cơ hội ấy để được về gặp lại 80 triệu đồng bào của mình. Chăm sóc 80 triệu đứa con của Lạc Long Quân và của mẹ Âu Cơ là trách nhiệm chung của những người con cùng mang giòng máu Âu Lạc, chứ không phải của riêng ai! Người Việt Nam cần những pháp môn tu tập của Bụt một cách hiện đại và thiết thực, nên chúng tôi đưa ra một số đề nghị như sau:

“Thứ nhất: Mười quyển sách của Thầy được xuất bản và lưu hành trong nước trước ngày Thầy về.

Thứ hai: Thầy chúng tôi và 100 tu sĩ đi theo được ở Chùa, không ở khách sạn.

Thứ ba: Thầy được thuyết pháp cho đông người nghe ở các chùa chiền và những nơi công cộng.

Thứ tư: Phái đoàn tháp tùng thiền sư Nhất Hạnh có 100 vị xuất sĩ và 200 vị cư sĩ.

Thứ năm: Phái đoàn được đi thăm thầy Huyền Quang ở Bình Định và thầy Quảng Độ ở Thanh Minh Thiền Viện.

Vài khó khăn khi bàn bạc

Có những lúc vì còn chưa hiểu nhau nên rất gay go, ví dụ như khi Làng Mai đề nghị có vài buổi nói chuyện tại đại học Hà Nội thì trong nước từ chối (giảng ở các chùa thì được chứ không thể giảng ở đại học). Thế là chúng tôi quyết định từ chối, chưa về Việt Nam.

Sau đó trong nước lại đề nghị “Sư Ông có chịu giảng ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh không?” Đó cũng là một trường đại học nhưng chỉ dành cho các lý thuyết gia, các nhà khoa học và các đảng viên cao cấp thôi. Trong môi trường ấy, sẽ không ai đứng lên chỉ trích. Sư Ông đồng ý. Giới đệ tử chúng tôi nói nhỏ với nhau: “Họ thách Sư Ông đi vào hang cọp đây!”

Khi công bố chịu đi Việt Nam rồi, chúng tôi bắt đầu căn dặn thiền sinh đóng tiền phụ phí rau đậu, lập danh sách các vị xuất sĩ và cư sĩ cùng đi. Và ngày hôm đó, khi thầy Pháp Ấn, người đại diện cho tăng thân Làng Mai lên Toà Đại sứ Việt Nam tại Paris đưa danh sách những người đi theo Sư Ông.

Người đại diện sứ quán nói rõ với thầy: “Sư Ông chỉ được phép về thăm với tư cách cá nhân, không đại diện cho Giáo hội nào hết.” (Một công hàm của toà đại sứ Việt Nam tại Pháp đã ghi như thế) và không chắc các xuất sĩ và cư sĩ đi theo Sư Ông được chấp nhận đủ con số đó…” Thầy Pháp Ấn tuyên bố ngay: Nếu như thế thì chúng tôi rất tiếc sẽ không có chuyến đi này nữa. Thầy đã điện thoại về Làng và Sư Ông hoàn toàn đồng ý. Ôi là buồn. Cả trong nước và ngoài nước, chính quyền cũng như mấy chục triệu Phật tử mến mộ Sư Ông cũng đều buồn.

Một người bạn cũ của Sư cô Chân Không ngày xưa, một trong số sinh viên nòng cốt trong lớp Thầy dạy tại chùa Ấn Quang năm 1960, là anh Tôn Thất Chiểu, có chuyển tin cho sư cô biết là trong nước tiếc lắm nhưng họ tự ái. Nếu sư cô Chân Không chỉ viết vài dòng cho ông thứ trưởng Bộ Ngoại giao (Nguyễn Phú Bình) thôi, chịu nhượng bộ chút đỉnh, ví dụ như thay vì đòi có 300 người đi theo Sư Ông thì bây giờ mình chịu hạ xuống con số 200 người thôi, thì họ sẽ chịu hết những đề nghị khác mình đưa ra xưa nay như: Xuất bản mười quyển sách in xong trước khi Thầy về, quý thầy sư cô không buộc ở khách sạn, chỉ có thiền sinh cư sĩ ở khách sạn mà thôi, Sư Ông có thể thoải mái giảng dạy các chùa, và cũng sẽ có buổi giảng ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho các đảng viên, có quyền thoải mái đi thăm hai thầy Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ. Sư cô Chân Không tìm cách trình bày cho Sư Ông và thầy Pháp Ấn nhưng hai thầy ấy cứ nhất định “Thôi dẹp chuyện đi Việt Nam cho rồi”. Tôi nghĩ rằng nếu Sư Ông đã đề nghị đi với 200 người cư sĩ thì mình bớt xuống chỉ đi với 100 vị cư sĩ và 100 vị xuất sĩ thì cũng được chứ gì. Đó không phải là những điểm then chốt. Vì thế tôi đã tự ý làm liều viết thư cho Ông Nguyễn Phú Bình rằng tôi, với tư cách chủ tịch Cộng đồng Tu học Mai Thôn, đề nghị đồng ý BỚT con số đi theo Sư Ông thay vì 300 người trở thành 200 người: 100 vị tu sĩ và 100 vị cư sĩ.

Được thư tôi, cơ quan có trách nhiệm trong nước đề nghị hoà thượng Hiển Pháp, trưởng ban Phật giáo Quốc tế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam viết thư cho Sư Ông chào mừng và báo tin nên gửi người về nước đi tiền trạm để sắp xếp cho chuyến đi. Sư Ông đọc thư có vẻ vui, bèn gọi thầy Pháp Ấn đi Paris lấy visa đi Việt Nam ngay. Tôi run quá chưa kịp trình bày là tôi đã xin bớt con số 300 người thành 200 người – điều đó không quan trọng gì mà có thể cứu vãn tình thế. Thầy Pháp Ấn đã điện thoại lên Paris, hẹn hôm sau sẽ lên lấy visa. Trên sứ quán nói: Nhưng thầy đi Việt Nam chuyến này là căn cứ trên đề nghị của sư cô Chân Không đấy nhé? Chứ không căn cứ trên đề nghị của thầy trước đó đâu!

Thầy Pháp Ấn hết sức ngạc nhiên. Thầy lên ngay Sơn Cốc gặp Sư Ông. Tối hôm đó trước mặt Sư Ông, các thầy Pháp Niệm, Pháp Hữu, các sư cô Định Nghiêm, Chân Không và Tuệ Nghiêm, thầy Pháp Ấn báo tin cho Sư Ông là Toà đại sứ chỉ căn cứ trên thư của sư cô Chân Không thôi. Tôi quỳ xuống chắp tay xin Thầy tha lỗi “con nghĩ con đề nghị đi 100 người cư sĩ thay vì 200 cư sĩ như thế còn dễ cho mình kiểm soát chuyện tu học của thiền sinh cư sĩ hơn, chắc chắn Thầy sẽ chịu và các anh chị em xuất sĩ của chúng con cũng sẽ mừng. Thứ hai, họ là Nhà nước, chắc họ cũng hối hận là đã gắt quá với mình. Xưa nay con chưa hề chen vào, cứ xem con như người mới thử đề nghị xem sao, con chưa chắc họ chịu. Con đang tìm cách tìm dịp thưa với Thầy, nhưng chưa kịp thưa thì Nhà nước đã chịu ngay, nhanh hơn con tưởng.”

Sư Ông ngồi im, nghiêm mặt: “Tại sao sư cô dám thương thuyết mà qua mặt tăng thân? Đi! Đi sám hối đi.” Sư Ông trỏ tay vào thiền đường Sơn Cốc, mặt rất nghiêm và lạnh lùng. Tôi đi vào và lạy ba cái lạy. Đến cái lạy thứ ba (lạy tổ tiên tâm linh) tôi phủ phục sát đất luôn, không đứng dậy nữa mà cứ gục mặt xuống đất và khóc thút thít với Bụt. – Bụt ơi, con đã làm với tất cả trái tim nóng hổi nhưng sáng suốt của con. Chỉ có thiếu sót là chưa trình bày cho Thầy quyết định đề nghị đó của con thôi. Tôi phủ phục, khóc thút thít và để Bụt lo. Trong khi tôi phủ phục trong thiền đường thì bên ngoài, Sư Ông, các thầy Pháp Ấn, Pháp Niệm, Pháp Hữu và các sư cô ngồi trò chuyện một lúc rồi đứng dậy, tất cả đi ra hiên ngoài có đèn sáng ngắm mấy chục chậu hoa cúc đại đoá đang nở rực rỡ trong vườn nhà mặt trời ở Sơn Cốc. Xem xong trở vào uống trà mới pha, và bàn chuyện khá lâu. Nào là thầy Pháp Ấn về thì làm gì làm gì… Chắc cũng hơn một giờ đồng hồ. Khi mọi người sắp chào Sư Ông ra về thì Sư Ông trở vào thiền đường, thấy tôi còn trong thế phủ phục và còn khóc thút thít, Sư Ông dịu giọng nói “Thôi, sư cô đi rửa mặt đi!” Tôi biết Thầy hết giận… mừng quá liền đi rửa mặt!

Ngày 12 tháng 1 năm 2005 phái đoàn Làng Mai đáp xuống phi trường Nội Bài, Hà Nội. Ngay chiều hôm đó, Thầy trò chúng tôi sau khi lạy Bụt, đã đi thăm vườn rau chùa Bồ Đề. Nhìn những ngọn rau mọc trên đất quê hương, Thầy chúng tôi đã nắm một nắm đất Việt Nam lên, ấp vào bàn tay kia và đưa lên gần mũi ngửi. Báo chí đi theo quay hình nhưng Thầy từ chối gặp báo chí, Thầy chỉ nói Thầy mới về, chưa biết gì về Việt Nam và không có gì để tuyên bố.

Anh Hoàng Cầm được Thầy ôm

Trong số 200 thành viên cư sĩ đi theo thầy trò chúng tôi chuyến này có một vị thượng nghị sĩ người Pháp tên là Bernard Dussault. Toà đại sứ Pháp ở Hà Nội tổ chức mời Thầy thuyết giảng bằng tiếng Pháp cho toàn thể nhân viên toà đại sứ và những nhà văn hóa ngoại giao khác tại Hà Nội. Cố nhiên là phải có một số thiền sinh vừa xuất gia, vừa tại gia trong phái đoàn được đi theo Thầy. Thi sĩ Hoàng Cầm cũng được mời tới dự buổi nói chuyện này. Được toà đại sứ mời đi nghe giảng thì không sợ bị chụp mũ là phản động cho nên có rất nhiều nhân sĩ người Việt giỏi Pháp văn đã đáp lời mời đến tham dự. Hội trường đông nghẹt. Nhiều nhân viên sứ quán hết sức ngạc nhiên. Lạ quá! Xưa nay đại sứ quán tổ chức thuyết giảng bằng tiếng Pháp thì không có đến mười người tới nghe, bởi vì thời kỳ người ưa học và ưa nghe tiếng Pháp đã tàn lụi. Thế mà hôm nay đông nghẹt. Trong đó có rất nhiều vị là con cháu của những nhân sĩ ngày xưa, như anh Đào Hùng, con của học giả Đào Duy Anh. Và cả những người có tên tuổi trong nhóm Nhân văn Giai phẩm ngày trước. Anh Bùi Hoàng Anh con trai của thi sĩ Hoàng Cầm cũng có mặt, đẩy xe cho bố Hoàng Cầm đến nghe thiền sư Nhất Hạnh thuyết giảng Phật pháp bằng tiếng Pháp. Trong dịp này Thầy đến ôm anh Hoàng Cầm, người thi sĩ mà Thầy rất thương mến và chính Thầy đã dùng tay tôi viết cho anh bao nhiêu bức thư dễ thương. Thầy tặng Hoàng Cầm tập thơ Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt do Nhà xuất bản Lá Bối xuất bản tại Hoa Kỳ. Thầy cũng đến nắm hai tay anh Đào Hùng con cụ Đào Duy Anh và ôm anh như là ôm cụ Đào Duy Anh vậy. Tôi đứng đó, rưng rưng cảm động.

Để đáp lại cuộc gặp gỡ đó, tháng Chạp năm 2006, anh Hoàng Cầm viết:

Thân yêu gửi thiền sư Chân Không,

Từ sau ngày Thầy Nhất Hạnh và em về Hà Nội, Hoàng Cầm được vinh hạnh gặp gỡ những người biểu trưng đạo Phật, được Thầy cho tập thơ, được nghe Thầy thuyết pháp, anh thấy tâm hồn mình mở ra, thanh thoát nhẹ như mây trắng bay trên cao xanh, huyền diệu. Lại được đọc nhiều bài thơ của Thầy, khiến mình an lạc. Anh rất tạ ơn Thầy và các nhà sư cao đẹp đã cho anh một hạnh phúc chưa từng có.”

Năm ấy, Hoàng Cầm đã 85 tuổi. Sức khoẻ của anh đã sa sút, anh bảo là sau ngày gặp gỡ Thầy và tôi ở toà đại sứ Pháp, vết thương nơi chân anh lại sưng tấy lên, đau nhức vô cùng. Anh viết tiếp:

Chỉ tiếc là một nỗi anh bị nạn sinh bại liệt, cả trí tuệ cũng bị thương tổn nặng, cả ngày đêm chỉ loanh quanh hết ngồi lại nằm trên giường bệnh, chỉ còn sống như một cái vật gần như phế bỏ… Nhưng mỗi khi nghĩ đến Thầy và em, nhà sư chí thiện chí tình với những con người đau khổ trên thế gian, cả tục luỵ trần ai này, anh mới được nguôi ngoai trong tâm trạng nặng nề. Cám ơn Thầy Nhất Hạnh, cám ơn em và các đạo hữu.”

Và anh viết tiếp như một lời trối trăn:

Vậy, tôi đã yếu sức. Mong thiền cô Chân Không và thầy Nhất Hạnh lượng thứ, khoan dung cho một kẻ còn vướng tục luỵ, không còn nhấc nổi cái thân bụi cát nặng nề nghiệp chướng để bay lên cõi tịnh không bát ngát của Phật Bà Quan Âm lúc nào cũng mở rộng đôi cánh huyền vi là nỗi thương xót chúng sanh chưa thoát khỏi cái vũng mê nghiệt ngã, là cuộc sống trần gian này.

Em gái! Thiền cô Chân Không! Người Thầy! Thiền sư Nhất Hạnh!

Xa mặt nhưng không cách lòng! Có lẽ cũng khó có khi nào tôi lại được nhìn ngắm hai người thân yêu đã gắn bó với tôi, đức hạnh của Thầy, của cô đã đem đến cho tôi nhiều trong trẻo, nhiều sáng láng như thi ca mầu nhiệm. Tôi vẫn ước ao lại có một sớm thanh cao nào được gần thầy cô như cỏ xanh gần hoa mai, như thuyền nan gần sóng biển. Nếu nhận được một lời của Thầy, một dòng của cô trước khi đi vào cõi không vô lượng thì đó là hạnh phúc cuối cùng của đời tôi. Xin kính chúc Thầy Nhất Hạnh và thiền cô Chân Không trường tồn để đời đời toả sáng.

Thân yêu

Hoàng Cầm”

Tôi có trao cho anh bài thơ Mở thêm rộng lớn con đường Thầy viết tặng tôi ngày tôi xuống tóc thọ Giới Lớn tại núi Linh Thứu và “vòi vĩnh” xin anh một bài thơ “để khen em xuống tóc chứ?!” Thật ra tôi muốn nói “Thầy em thì khen em như vầy? Còn anh khen em thì khen thế nào?” Anh lại tưởng tôi nhờ anh phê bình bài này. Anh bèn viết một bài phê bình bài thơ Mở thêm rộng lớn con đường. Anh viết:

Trời đã sáng hẳn. Tôi không nhớ nữa rằng giữa Xuân hay đầu Thu, mặt trời như quả bóng màu hồng thẫm đang nhạt dần, nhỏ dần và như từ trên tầng cao mờ mờ sương, có một đấng Tối Linh Tối Thượng đang gieo xuống cõi hồng trần một vùng nắng nhạt nhưng ấm áp.

Người phụ nữ ấy, (hình như đúng là em gái tôi) ngồi tĩnh toạ, hai tay chắp dưới cằm, miệng lâm râm khấn, hay đang hát, hay đang tụng bài kinh“Tỉnh thức”, đôi mắt không lim dim như trong các buổi lễ khác mà hôm nay mở to đăm đăm nhìn lên tượng Quán Âm phía sau chiếc lư trầm ngát hương. Và ngay trước mặt em gái tôi là mấy lọn tóc đen óng, mượt được cuộn tròn đặt trên chiếc khay gỗ đơn sơ thơm như vừa thấm đượm hương từ lư trầm toả ra lặng lẽ.

Một thi sĩ đã dự lễ xuống tóc của em gái tôi hẳn đã bồi hồi xúc động nên mở đầu ngay bài thơ bằng đôi lời vừa thanh cao, vừa trang trọng:

Mái tóc vốn màu gỗ quý

Đem dâng thành khói trầm thơm

Vừa như một nét chì xanh vạch ra thêm rộng lớn con đường đã đi, đang đi và còn tâm nguyện phải đi, đi mãi tới một cõi rất xa mà chính thực rất gần, là đường của mọi người trần tục nơi thế gian hàng nghìn vạn năm, đã trải đang trải và còn trải qua bao nhiêu đau khổ, oan khiên; bao nhiêu sầu hận, ngang trái, bao nhiêu niềm vui (khan hiếm), bao nhiêu nỗi vất vả, nhọc nhằn (quá nhiều) trong cuộc mưu sinh. Đó là con đường không riêng của một ai, của em gái tôi, của tôi, của anh chị, của các bạn, cả của nhà thơ thiền sư đuốc tuệ dù đã đắc đạo, nhưng khi chung quanh còn có người đau khổ thì nhà thơ đâu có được an bình. Mặc dù nhà thơ đã khẳng định mớ tóc vừa rời khỏi vòng tròn tuệ giác kia là

Nét đẹp đi về vĩnh cửu

Vi diệu thay ý vô thường

Vâng, Na mô Phật! Đúng thế – Chỉ một cái ý “xuống tóc” hay gọi là “thế phát” đã là vi diệu rồi. Từ đây, em gái tôi hết do dự, hết phân vân. Vì thực ra, chốn tục luỵ tuy có nhiều gian nan vất vả, truân chuyên, nhưng cũng nhiều cám dỗ, nhiều cái quyến rũ khiến con người sinh ra đam mê, đắm đuối trong cái biển mênh mông những thú vui đầy hoa thơm, cỏ lạ, đầy khoái lạc vật chất, cả khoan khoái tinh thần như danh và lợi, đắc thắng và kiêu hãnh trên đủ các vũ đài chính trị, kinh tế, văn hoá. Đã là con người, trước tiên ai chả muốn được ăn no, mặc ấm, ai chả thích công danh, lợi lộc. Từ mấy cái “cần cho cuộc sống” rất cơ bản ấy, loài người đâu có chịu đứng yên. Trái đất càng đông dân cư, những cuộc cạnh tranh càng ngày càng náo nhiệt rồi quyết liệt dẫn đến chiến tranh nhỏ ở từng cộng đồng người, rồi đến chiến tranh giữa các dân tộc, các sắc tộc, chiến tranh tôn giáo rồi cuối cùng đến chiến tranh toàn thế giới, chém giết nhau không ghê tay, tôi chỉ nghĩ lại nhớ lại thoáng qua thôi đã đủ rùng mình.

Vậy nên, chỉ bước đầu rũ bụi trần, rũ bỏ những gì còn vương vấn trên thân thể, trong tâm hồn, đã là vi diệu lắm. Vì từ đây mới là cuộc sống thảnh thơi, từng ngày vun đắp cho hạnh phúc cuộc đời của mọi chúng sinh. Không còn phân biệt giống nòi, màu da hay tiếng nói. Trong ý thức ấy thì thế giới này không còn biên giới nào nữa.

Từ lúc bố mẹ cho mình ra đời, rồi lớn lên, được học trên ghế nhà trường rồi học ở trường đời khắp bốn biển năm châu, có lẽ rồi ra ai cũng thấy:

Đời là cơn huyễn mộng

Nên em gái tôi, lòng chân thành, một quyết lên đường – Là con đường bác ái, từ bi hỉ xả. Em gái tôi sẽ quên hết lo toan phiền não ở cõi đời này để nhớ đến hết cuộc đời nhân loại, để sống vì người khác, vì đồng loại bao la, cõi sống ấy cứ lên xuống, lúc thăng hoa, lúc trầm luân trong bể khổ.

Quên thân, quên chỗ, quên giờ

Nhớ sao sóng biển ngang bờ siêu sinh

Hoàng Cầm

Vì em tôi luôn luôn tĩnh tâm, lắng nghe nhịp sống trần gian:

Nghe hải triều lên mấy độ

Nguyền phát túc về siêu phương

Đã nghe thấy nước triều của bể khổ dâng lên đến độ nào rồi, thì em gái tôi phải đưa chân, dấn bước về một-phương-người, đó là một lời nguyền, một lời cầu xin siêu phàm, cầu xin Trời Phật đưa mình về phương – người. Phương ấy ở đâu? Không phải bốn phương Đông Tây Nam Bắc, phương ấy vô hình nhưng không phải siêu hình, phương ấy ở trong lòng em tôi, trong lòng thi sĩ Nhất Hạnh, trong lòng tôi, phương ấy hàng ngày hiển lộ ở ngay những người bạn cùng tu hành với em tôi, ở tất cả những người cùng thôn, cùng huyện, cùng tỉnh, cùng một nước và ở các nước khác, ở bất cứ nơi nào có loài người cư trú.

Nói ví thử, trong toàn nhân loại, ai ai cũng gan lim dạ sắt, không mảy may biết rung động vì một cụ già bơ vơ, không nơi nương tựa, vì một em bé mồ côi, ngày ngày đi ăn xin nơi só chợ, đầu đường, nếu ai cũng làm ngơ trước bao nhiêu tội ác còn đang hoành hành đó đây trên khắp hành tinh thì “hải triều sẽ lên đến cực độ”, có khi dìm chết cả loài người, thì… ối chao! tôi không thể viết thêm được dòng nào nữa.

May thay! Trời Phật sinh ra con người là Nhân chi sơ tính bản thiện nhưng trong quá trình phát triển, xã hội càng đông, khoa học càng nhiều phát minh sáng tạo, nhiều nơi, nhiều vùng, con người càng dư dật về của cải vật chất thì càng sinh ra cạnh tranh, mà lòng tham dắt thêm cái sân, cái si vốn có phần là bẩm sinh ngày càng phát triển, càng gây ra tội ác, mà ở nửa đầu thế kỷ 20 cái tội ác ghê gớm nhất, khủng khiếp nhất là hai quả bom nguyên tử chỉ trong chớp nhoáng thiêu huỷ hàng loạt trên nửa triệu người. Cho đến nay, cái mầm đại hoạ đó đã mất hẳn đi đâu trên trái đất này? Loài người tuy vẫn múa ca, vẫn say sưa hát khúc yêu thương, lời lẽ, nhạc điệu vẫn du dương, thắm thiết nhưng chính loài người đến hôm nay vẫn nơm nớp sợ. Này, không chừng, nó nổ lúc nào, nó lại nổ ở đâu và ai biết được, rất nhiều võ khí tối tân, biết đâu sẽ cùng phát nổ (ai cũng sợ, cố tạo ra nó với một lý do giả tạo là để tự vệ, sợ nó nhưng lại cho nó nổ, định để huỷ diệt nó hoá ra huỷ diệt loài người).

Tôi cũng không dám viết thêm nữa, xin trở lại với bài thơ mà tôi muốn gọi là “Bài thơ siêu thoát”.

Bài thơ được sáng tạo từ thiền căn. Chỉ một mớ tóc biết rằng tóc em tôi vốn màu gỗ quý, nhưng khi gọt nó, trả nó về chốn bụi trần như một làn khói trầm thơm, nhà thơ thoát phàm rồi không hề có một ý gì cỏn con nhớ tiếc, cũng vì một lẽ đương nhiên: còn tiếc, dẫu là tiếc một cái gì đẹp lắm trong cuộc đời con người thì còn vướng bụi. Mái tóc khi đã thoát vật chất thì không một hạt bụi nào có thể vướng trên con đường hành đạo, là con đường hoan lạc tuyệt vời, vì đức từ bi đã thấm vào cốt tuỷ những người đã nguyện đi theo sức lan toả của TÂM PHẬT. Vậy nên, bài thơ có những câu mà tôi cho là tuyệt diệu khi nói đến tình con người, lẽ sống con người, lúc đầu ai cũng tưởng là những lời kinh kệ cao siêu, kẻ thường dân khó với tới nhưng thực ra lại rất đời thường, khiến một người không được học cũng thấm ngay chân lý của cuộc sống.

Ngày xưa nước bồ kết gội

Chiều về buông xoã tóc hương

Sáng nay cam lồ tịnh thuỷ

Tâm bồ đề lộ kiên cường

Bàn tay tập bài từ ái

Chia vui nếp sống tịnh thường

Và thi sĩ của lòng Nhân Ái, của Tình Yêu Thương không thể không ca ngợi ý chí và lòng chung thuỷ của em gái tôi khi em tôi đã dốc một lòng đi con đường của Phật, con đường rộng lớn, vô cùng vô tận của tình THƯƠNG.

Mấy mươi năm trời cần mẫn

Thuỷ chung vẫn một niềm thương

Sáng nay cạo sạch mái tóc

Mở thêm rộng lớn con đường

Và câu kết của bài thơ, riêng tôi nhận thức đấy mới là câu kết đẹp nhất, cao cả và chan chứa tình yêu thương con người.

Một câu kết vừa trải rộng ra nhân thế vừa kết tinh, lắng đọng sâu thẳm trong lòng người đọc.

Phiền não vô biên nguyện đoạn

Một tâm mà động mười phương

Nghĩa là cái tâm em gái tôi động đến cả trái tim Đức Thích Ca Mầu Ni, đến Phật Bà Quán Âm, đến các vị Bồ tát. Vì đó là mười phương Phật sau khi đã động khắp chín phương Trời. Qua bài thơ siêu phàm này, tôi tin rằng ở trên cõi xanh thăm thẳm kia, trái tim Như Lai Phật Tổ vẫn từng phút từng giây đập nhịp mong cứu loài người nhiều nơi vẫn còn đắm chìm trong bể khổ.

Phụ chú 1:

Vài ý kiến nhỏ đề đạt với thi sĩ thiền sư Nhất Hạnh

Riêng tôi nghĩ – có thể là đúng, có thể không đúng với tâm thức thiền sư – như sau (để cho cấu trúc bài thơ được chặt chẽ hơn):

Sau khi nguyền phát túc về siêu phương xin nối ngay vào hồi tưởng

Ngày xưa nước bồ kết gội

đến câu chia vui nếp sống tịnh thường

rồi trở lại với:

Gió reo trên triền núi Thứu…

thì bài thơ nhất quán hơn. Rất mong được nhà thơ Nhất Hạnh chấp thuận.

Phụ chú 2:

Tiếp sau bài thơ Mở thêm rộng lớn con đường là ba khúc thơ (tôi nghĩ là bài kệ) và một khúc ca mở đầu cho tập Nhạc Làng Mai, tôi đã đọc kỹ và càng thấm thía hơn ý nghĩa sâu sắc và nhuần thấm lòng người của thơ Nhất Hạnh. Vẫn là những tư tưởng bao la và thăm thẳm của đạo Phật được chưng cất lên như một thứ men mầu nhiệm, cho người nghe, người đọc nâng cao tâm hồn như có thể đụng vào ngón tay Bútđa, bén tới tà áo Bồ tát Quán Thế Âm, cùng khoác cánh tay các tăng ni để cùng đi lên cõi Tịnh Khí mà càng gắn bó với những kiếp người cùng khổ nheo nhóc dưới trần gian.

Chỉ một lời an ủi đầy tin tưởng như từ đầu cành dương liễu, con người đang giãy giụa hoặc quằn quại trong vòng trần luỵ bỗng nhiên như được tắm gội nhờ giọt nước cành dương rồi được sống khoan khoái, thanh sạch như đã rũ được bụi bậm quanh năm bám vào người. Những câu thơ làm bạn đời của mọi người, khiến ai cũng thấy hân hoan vui sướng.

Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh

và khấn nguyện đấng Từ Bi hiện ra ngay trước mặt

Xin nguyện Từ Bi ứng hiện ngay

rồi đến Kệ cạo tóc, Kệ nhận y tất cả đều mộc mạc đơn giản cho các đệ tử hàng ngày tụng niệm. Vừa ngắn gọn, xúc tích mang đầy đủ ý nghĩa của một bài thuyết pháp về những vấn đề lớn nhỏ của Đạo Phật, cho mọi người dễ nhớ dễ thuộc lòng.

Tôi thực là không biết, không hiểu được những từ thường ở cửa miệng của các nhà tu hành theo đạo Phật, nên có chỗ nào tôi nói sai, hiểu sai những từ chuyên môn về đạo Phật, xin các bạn đọc bài này lượng thứ và phụ chỉnh cho, tôi rất cảm tạ.

Như ở bài hát Quay về nương tựa mà tôi rất thích, tuy tôi không biết nhạc, chỉ ba điều “nương tựa” tôi hiểu là ba phương châm sống của những người theo đạo Phật. Ba phương châm ấy đủ cho một người yêu mến đạo Phật từ một đệ tử bình thường có thể trở thành một hoà thượng cao quý.

Tôi sẽ bình tập Nhạc Làng Mai này trong một dịp khác, tuy trình độ hiểu biết của tôi về Phật học rất non nớt, tôi sẽ cố gắng đem sự thành tâm để tìm hiểu qua những lời thơ, lời ca từ, được tới đâu còn tuỳ độ lượng của các vị tu hành, các môn sinh Làng Mai mà tôi rất ngưỡng mộ về Đức Hạnh và lòng tin cao cả của các vị.

Kính chúc thiền sư Nhất Hạnh và các nhà tu hành Làng Mai đạt nhiều thành tích cao quý trong cõi đạo lấy Từ Bi, Bác Ái làm phương châm thi hành mọi việc thiện trong cõi sống từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam,

Na mô A Di Đà Phật

Hà Nội đầu tháng 11/2005

Tôn kính

Hoàng Cầm.”

Sau chuyến về Việt Nam lần đầu của Thầy và bốn chúng Đạo Tràng Mai Thôn, bao nhiêu là chân trời đã mở rộng với bao dự tính công tác cần thực hiện. Cho nên tôi… hơi lơ là, không liên lạc thường xuyên với anh như xưa! Lý do trước nhất là bỗng nhiên có hơn 100 người trẻ ở Việt Nam từ 16 đến 35 tuổi sẵn sàng đi xuất gia làm sư em của tôi, sẵn sàng bỏ tất cả, nào địa vị, bằng cấp, người yêu… để sống đời sống đạm bạc mà phụng sự. Có cả những em vốn là con của các đảng viên cao cấp cũng xin đi xuất gia với Sư Ông. Là chị lớn đầu đàn, tôi phải họp sức với các sư em lớn, lo chỗ ăn, chỗ ở cho các em mới xuất gia, rồi lo làm lễ xuất gia cho các em, có khi làm lễ xuất gia qua mạng internet… Tôi gần như quên liên lạc với anh Hoàng Cầm. Cho tới khi Thầy chúng tôi lại xin đi thăm Việt Nam lần thứ hai để tổ chức các đại lễ Trai đàn chẩn tế giải oan, tôi mới liên lạc lại với anh và báo tin sẽ về Hà Nội năm 2007 và sẽ lại được thăm anh. Sau này các cháu con anh Hoàng Cầm gặp tôi tại nhà ở 43 Lý Quốc Sư cứ xuýt xoa nói: “Bố cháu cứ nằm im lặng, buồn thiu ở trên gác này, ngày này qua ngày khác, bỗng một hôm chúng cháu ở tầng dưới nghe bố nói chuyện râm ran Anh… Anh… Em… Em… vui quá đi. Chúng cháu bảo nhau: Ai thế nhỉ? Ai mà khiến bố vui, nói chuyện Anh… Anh… Em… Em… tíu tít thế nhỉ? Thì ra là cô! (các anh chị ấy vẫn chưa chịu gọi tôi là sư cô).

Năm 2007 trở về Hà Nội, tôi cũng như các anh chị em trong tăng thân phải bận rộn với các đại lễ Trai đàn chẩn tế giải oan. Khó khăn trăm bề. Cụ viện trưởng Học viện Phật giáo ở Sóc Sơn Thích Thanh Tứ đã hứa cho mượn chùa của Học viện và cho phép thiết lập lễ đài trên bãi đất rất rộng trước Học viện. Nhưng vào giờ chót cụ bảo: “Vì có việc nên rất tiếc không cho Làng Mai mượn Chùa của Học Viện và không thể cho tá túc được”. Lúc đó chỉ còn sáu ngày nữa là lễ Trai đàn chính thức sẽ diễn ra và kéo dài ba ngày tại Sóc Sơn. Không một lời trách móc hay một ý trách móc, chúng tôi đã lẳng lặng huy động toàn bộ 200 sư em xuất sĩ đang tu học với Sư Ông tại tu viện Bát Nhã đi ra Hà Nội dọn dẹp tổ chức mọi thứ. Chúng tôi mượn được ngôi chùa nằm tận trên núi cao, phía sau cách xa Học viện. Chùa này tên là Chùa Non do hoà thượng Thanh Quyết trụ trì, hoà thượng đi vắng nhưng cho chúng tôi mượn chùa và tuỳ nghi sử dụng. Các sư em tôi phải biến ngôi chùa nhỏ trên núi ấy thành nơi làm lễ Trai đàn, cho nên các em phải dựng lên nhiều nóc chùa mới bằng vải bạt, đóng thêm sạp, cất thêm rạp, đặt thêm bàn thờ cho ngài Quan Âm Tiêu Diện, cho các thần núi thần sông, tìm cách sắp thêm chỗ ngồi cho hàng ngàn Phật tử sẽ đến tham dự lễ Trai đàn giải oan. Đây là đại lễ Trai đàn giải oan thứ ba được tổ chức trong chuyến đi về Việt Nam năm 2007 của Thầy chúng tôi và tăng thân Làng Mai. Trai đàn thứ nhất ở chùa Vĩnh Nghiêm, nhờ quý vị tôn túc miền Nam yểm trợ hết lòng nên đã diễn ra hết sức hoành tráng. Trai đàn thứ hai tại chùa Diệu Đế, Huế, thừa hưởng năng lượng của Trai đàn thứ nhất nên cũng đã thành công rực rỡ. Đến ngày hôm ấy, không ai ngờ được mọi việc đã xảy ra thật mầu nhiệm với niềm hứng khởi hạnh phúc của toàn dân. Các sư em tôi, từ 16 đến 35 tuổi, đã hành xử quá dễ thương đã gây ấn tượng với nhiều người. Suốt ba hôm Trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan, hàng nghìn, hàng chục nghìn người chen chúc lên núi làm lễ… Núi rừng cùng cầu nguyện GIẢI OAN với thầy trò chúng tôi, cùng với hàng chục triệu đồng bào đã khuất. Những cơn mưa suốt đêm trước đó đã rửa sạch được bao tủi hờn thù hận. Sáng sớm ngày Trai đàn giải oan bắt đầu, thì người đâu mà ùn ùn kéo đến quá đông, chen chúc không đếm xuể, đứng nghẹt từ chân núi lên tận đỉnh cao. Các vị phụ trách ghi tên Cầu siêu giải oan than rằng không đủ giấy viết. Khi Sư Ông xướng lên “Để yểm trợ năng lượng cho những người đã khuất sớm quay về với Bụt, Pháp và Tăng và thoát khỏi cảnh bơ vơ, xin quý vị đồng bào và gia quyến các hương linh lặp lại theo tôi với các hương linh những gì tôi xướng đọc: Con về nương tựa Bụt (cả núi rừng như vang vọng hàng vạn tiếng thật trầm hùng: Con về nương tựa Bụt), người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời (cả núi rừng đáp lại người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời). Ai nghe cũng rợn người lên như có cả triệu oan hồn đang cùng lập lại theo lời Sư Ông. Sư Ông lại xướng lên Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết. Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. Cả núi rừng vang vọng hàng vạn tiếng đáp trả sau mỗi đoạn xướng của Sư Ông. Thật trầm hùng! Cảm động và xúc tác mạnh quá, tôi mới chợt nhớ tới các anh Hồ Dzếnh, cụ Đào Duy Anh và anh Hoàng Cầm… như những biểu tượng của những kẻ sĩ sống thật đẹp trong thế giới nhiễu nhương, chắc cũng đang có mặt và đang quy y Bụt, Pháp và Tăng như bao nhiêu triệu người đã chết hay vẫn còn sống.

Mãi cho đến đầu năm 2008, Thầy và tứ chúng Làng Mai lại về Hà Nội để dự lễ Phật Đản quốc tế, tôi mới điện thoại báo tin sẽ về Hà Nội thăm anh. Sau này các anh chị con anh Hoàng Cầm lại báo cáo: “Ở dưới nhà chúng cháu bỗng nhiên nghe tiếng bố cười nói toang toang trên gác vui lắm, cứ Anh Anh rồi Em Em… Nhớ lại năm 2007 trước khi cô về bố cũng vui như thế, lên gác hỏi ra thì đúng quá, chẳng sai”. Chuyến về thứ ba của Thầy và tăng thân Làng Mai để dự lễ Phật Đản đã gặp rất nhiều khó khăn nhưng cũng xem như rất thành công. Tôi đã có cơ hội đi thăm thi sĩ Hoàng Cầm lần chót.

Biết anh Hoàng Cầm đang nằm bại liệt trên giường nên tôi mời anh Chân Thuyên và chị Chân Diệu cùng đến thăm anh Hoàng Cầm. Các anh chị này năn nỉ anh nên viết hồi ký cho thế hệ chúng em và con cháu chúng em được hiểu thêm về anh Hoàng Cầm, về sự nghiệp cao quý mà anh đã đóng góp cho văn học nước nhà.

Khi ra về các anh chị em tôi rất quyến luyến không muốn rời, ai cũng thương quý anh. Tôi báo tin là Thầy trò nhà này có hứa sẽ trở lại. Nhờ thế anh Hoàng Cầm bắt đầu viết hồi ký và đây là mười trang phần đầu hồi ký anh Hoàng Cầm đã gửi cho chúng tôi:

NHỚ LẠI MỘT ĐỜI THƠ

(Hồi ký của Hoàng Cầm)

Chương mở đầu

Giờ tôi không thể nhớ rõ thuở ấy mình đã hơn bốn tuổi hay là trên năm tuổi rồi. Chỉ biết là hết Tết lâu rồi, trời như đã sắp sang mùa nóng bức, cứ chạy nhảy một lúc là đã xâm xấp mồ hôi trên mặt, trên cổ và lưng áo vải nâu đã nhớp nháp. Có những chiều nào mẹ về chợ sớm, được mẹ dắt lên đầu phố rẽ vào cửa hàng bà Trác, mẹ mua cho 1 xu kẹo vừng thì tôi sung sướng lắm. Một xu được những 4 cái kẹo to vừa bằng đồng xu, mỏng lắm, nhưng thơm ngon, tôi cứ ăn dè chừng, nhấm nhấm tí một… rồi tôi như nũng nịu, kéo mẹ lên đầu dốc đứng đấy có thể nhìn thấy chân trời.

Hồi ấy, gia đình tôi gồm năm người ở vào một căn nhà ba gian, trước mặt là đường số một, chỉ đi một đoạn dài chừng mười con sào là có cột “lô-mếch”, mặt trước để: Phủ Lạng Thương 6km, mặt sau để: Hà Nội 44km. Nhiều lúc tôi trèo lên ngồi chễm chệ trên đỉnh cột (gọi là đỉnh, nhưng đo từ mặt đất lên chỉ độ sáu bảy mươi xăng ti mét thôi. Tôi cứ ngồi thế mà tưởng tượng mình ngồi ô tô sẽ phóng thẳng lên tỉnh vì tôi cứ uốn lưỡi thành tiếng “rừ… rừ rừ”, đôi khi lại hét to hơn một tí “pí pom” hay là “pin pin” giả làm tiếng còi. Cứ một mình chơi với cái cột “lô mếch” ấy mà tôi thích lắm vì cứ tự cho là mình ngồi ô tô của một ông quan lớn và đang đi trên “đường cái quan” thì lại nhớ ngay câu hát ví mà các chị trong làng đi cắt cỏ hay nhổ mạ thường hay hát, tôi nghe nhiều đến thuộc lòng từ năm lên bốn:

Hỡi anh đi đường cái quan

Dừng chân đứng lại em than đôi lời

Đi đâu vội mấy anh ơi

Công việc đã có chị tôi ở nhà

Anh đi biết mấy đường xa

Cho em đi với thành ra vợ chồng

Trở lại cái đầu dốc có cửa hàng bà cụ Trác. Đó là chỗ đất cao, nếu nhìn về hướng nam. Đi lên một lối rộng rãi trải cát sơn màu gạch non là có cái ga xe lửa, ga xép, gần nóc có hai chữ sơn xanh đen là tên nhà ga “Núi Tiết”. Nguyên vùng gia đình tôi cư ngụ là thuộc tổng Thiết Sơn, người Pháp cai trị phiên âm chữ Thiết thành Tiết. Vậy Núi Tiết là Thiết Sơn. Đơn giản thế thôi.

Mỗi ngày thường có năm chuyến xe lửa đi từ Hà Nội, hai chuyến lên Lạng Sơn Đồng Đăng rồi lại hai chuyến về, còn 3 chuyến chỉ chạy từ Hà Nội đến Phủ Lạng Thương thôi. Chuyện về cái thị xã ngày trước đẹp vào loại nhất trong số các thị xã ở miền Bắc, tôi sẽ kể sau. Vậy là sau lưng nhà ở của gia đình tôi có đường xe lửa. Nhà tôi mở cửa sau là một mảnh vườn không rộng lắm nhưng bố mẹ tôi cũng trồng được nhiều thứ cây. Vườn ngăn cách với đường xe lửa bằng cái hàng rào dày dặn toàn là cây ruối và dâm bụt. Vì nó dày đặc kín nên cây trong vườn trông có vẻ lờ phờ thôi: một cây đu đủ cứ khi nào ra hoa đã chụm thành từng chùm quả xinh xinh bằng đầu ngón tay cái là mẹ tôi lại ngắt ngọn đi và úp vào đấy một cái niêu cũ, đen xịt, đã sứt mẻ. Mà mãi ba mươi năm sau, cái cây tầm thường ấy bỗng có một đêm thì thào, thủ thỉ bên tai tôi thành 1 câu thơ:

Cây đu đủ sau nhà vừa bấm ngọn

đội mũ niêu đen đi trong đêm mưa dầm

mẹ đau trở dạ

Cũng có một giàn mướp, một giàn bầu, nhất là một cây ổi cứ thỉnh thoảng lại đi đi về về trong thơ tôi mãi sau này, sau cái vụ Nhân văn dữ dội và cũng có thể gọi là khủng khiếp ấy thì ổi mới đọng vào tâm hồn tôi

Cây ổi giơ xương chống đỡ mùa đông

sập về đánh úp

Ấy, nó đi thì như thế.

Lúc nó về, hình như nó đã thành vườn

Cách nhau ba bước vào vườn ổi

Chị xoạc cành ngang em gốc cây

Trong cái vườn nho nhỏ ấy, còn có mấy thứ cây hoa thơm ngát trồng vào chậu: cây hoa sói, cây hoa hồng, hoa lan mà bố tôi chăm chút hàng ngày. Trở lại cái đầu dốc, ngay dưới sân ga xép Núi Tiết kia, không hiểu vì sao, mới năm sáu tuổi, tôi cứ thích được đứng nép bên sườn bà mẹ, chỉ về phía chân trời nhô lên một dãy núi mà hồi bấy giờ tôi tưởng là xa xôi hay xa xăm lắm, tôi thường hay hỏi mẹ:

“Mẹ ơi ở trên đỉnh núi kia kìa, có nhiều cô tiên xuống chơi múa hát không hở mẹ?”

Có lẽ mẹ tôi muốn chiều theo trí tưởng tượng của đứa con trai đầu lòng, nên lần nào tôi hỏi thế, mẹ tôi cũng tươi cười mà đáp lại bằng một giọng rất mơ hồ mà rất âu yếm, rất mơ màng:

“Có đấy con ạ. Cũng đôi ba lần mẹ trông thấy các cô tiên xinh ghê lắm cơ, mặc toàn xiêm áo hồng vào những buổi chiều trời quang mây tạnh, cứ bay từ trên trời rồi là là đậu xuống đỉnh núi, đấy, cái ngọn xanh xanh ở giữa ấy.”

“Thế mẹ có nghe thấy các cô tiên hát, mà lại hát rất hay không?” “Cũng có một lần, con ạ. Dạo ấy con còn bé dại lắm, đâu như cũng đã chừng ba năm rồi.”

Thấy vẻ mặt thằng con như đờ đẫn, mồm thì cứ làu bàu “xa quá sao xa thế hở mẹ”. Mẹ tôi bèn nói to:

“Ừ, thì xa chứ. Thôi được, con cứ ngoan ngoãn, bao giờ con lớn lên độ dăm ba tuổi nữa, thế nào cũng có ngày mẹ đưa con đi, trèo hẳn lên đỉnh núi mà đợi các cô tiên, mẹ chỉ sợ con không leo lên đến nơi được đâu.”

Nghe vậy tôi túm chặt lấy tay mẹ, nhảy cẫng lên, nói tíu tít: “Con leo được, con leo lên đến ngọn cho mẹ xem.”

Vừa lúc ấy, có chuyến tàu từ Lạng Sơn về, kéo còi từ xa, mẹ tôi bảo:

“Tàu Lạng đấy, gần 6 giờ chiều rồi. Thôi mẹ con mình về ăn cơm. Chắc anh Dậu đã dọn cơm rồi.”

Tôi cố kéo tay mẹ lên phía ga:

“Con muốn xem tàu hoả cơ. Mẹ đưa con vào ga đi.”

Mẹ tôi cũng chiều ý. Tàu đã vào ga, chỉ có vài ba người lên xuống. Đầu tàu phun khói trắng phì phì, tôi lại cứ muốn nhìn đoàn tàu rời ga, tôi chăm chú nhìn bốn cái bánh xe to tướng và cái cán trục cứ chui vào lại rút ra lại chui vào một cái gì như cái hòm tròn, bóng nhãy. Và còi tàu rít lên, tàu rời ga. Một lúc tôi lại chạy ra chỗ đầu dốc lúc nãy nhìn cả con tàu đã chạy nhanh bắt đầu đi vào đoạn đường cong, nó càng chạy nhanh trông nó càng bé lại, và một hồi còi dài lại réo lên nhưng nghe xa… xa dần… xa lắm, con tàu đã mất hút phía chân trời. Cứ mỗi lần xem tàu hoả như thế tôi bỗng dưng thấy ngẩn ngơ và cứ phải nghĩ: chả biết nó đi về đâu. Mẹ bảo nó chạy về tận Hà Nội cơ. Ừ, thế thì Hà Nội là làng gì, ở tận đâu, có xa lắm không. Mẹ bảo Hà Nội nhiều phố xá đông vui lắm. Hà Nội là tỉnh thành, còn ở đây là làng quê, là nhà quê con ạ. Con lớn lên này, rồi lên tỉnh học này, con học giỏi này, thi đỗ rồi mẹ sẽ cho con ngồi hẳn vào trong toa tàu, mẹ đưa con ra Hà Nội thì con sẽ biết. Thôi về ăn cơm. Hôm nay ở chợ mẹ mua được một mẻ trạch ngon lắm. Anh Dậu chắc đem kho khế rồi. Anh Dậu thường kho cá trê cá trạch với tương này, khế chua này, ngon lắm. Con cứ ngoan ngoãn, ăn khoẻ, chóng lớn rồi mẹ sẽ cho con đi chơi núi này, gặp các cô tiên múa hát này, rồi ra tận Hà Nội này, con nhớ không? Thôi, về ăn cơm. Sắp tối rồi.

Chính vì cái “địa lý” nơi gia đình tôi trú ngụ từ năm tôi bắt đầu có nhận thức rất sơ đẳng về cuộc đời, có nhận thức so với trẻ con trong làng Như Thiết, phố Như Thiết ấy, có hơi sớm hơn chúng nó cùng lứa tuổi, lại vì bố mẹ tôi hoàn toàn là thành phần “dân nghèo ở nông thôn”, mẹ tôi là con gái một cụ đồ nho kiêm cả nghề thầy lang gốc ở làng Bựu Kim, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, bố tôi từ nhỏ đã học chữ nho, chữ quốc ngữ, nhà nghèo ở quê gốc (làng Lạc Thổ huyện Thuận Thành Bắc Ninh) không có lấy nổi một tấc đất cắm dùi, tuy học thì chăm chỉ mười bảy tuổi cũng đã lều chiếu đi thi ở trường thi Nam Định. Thi đến ba lần cũng không đậu nổi ở cái cấp hạng bét là “tam trường” thì loáng một cái đã thành anh thầy đồ, có lẽ trẻ nhất trong tỉnh nên phải bỏ nhà lang thang tìm nơi dạy học. Vì làm cái nghề “thầy”- thầy giáo, thầy lang, nên bố tôi đi đến đâu cũng được “đón rước” có vẻ long trọng lắm. Ăn thì dân – nói cụ thể là nhà nào có con em xin vào lớp của thầy “khoá” Hy thì hàng tháng góp gạo góp tiền cho người chủ nhà mà bố tôi “toạ lạc” để ngồi gõ đầu trẻ.

Thầy khoá Hy này “ngồi” nhiều nơi lắm, từ năm mới lấy vợ (tôi không nhớ bố tôi sinh năm nào, chắc hẳn là vào cuối thế kỷ 19, chỉ biết rất rõ do các ông chú, ông bác, bà cô, bà dì bên nội bên ngoại kể lại rằng “ôi già! chả biết làm sao bố mẹ mày lấy nhau chỉ hoà thuận được dăm sáu tháng rồi thì cãi nhau luôn, bố mày hiền lành thế mà có khi đâm cộc, đánh vợ có lần sưng tím cả mặt mũi, khổ! mẹ mày xinh đẹp nhất huyện Tiên Du đấy, ăn nói rất là lễ phép, lại có duyên nữa. Hồi 16, 17 tuổi đã khối anh mê, lăm le muốn cưới làm vợ. Cô ấy lại hát quan họ rất hay, mấy lần được giải của các cụ bô lão làng Bựu mà sao hai vợ chồng lại chê nhau. Rồi cậu ấy đâu như sau ngày cưới chừng một năm tự nhiên đùng đùng bỏ nhà đi, lúc đầu còn biết tin cậu ấy ngồi dạy học ở thôn Mỹ Cầu rồi ở làng Lịm Xuyên, sau rồi đổi đi những đâu, cả họ cả làng chẳng ai biết tin tức gì. Hồi đó thì ông nội anh đã mất sớm, chỉ có hai con trai. Anh cả là Bùi Văn Lê, là bác ruột anh đấy cũng chỉ học chữ nho, cũng chẳng đỗ đạt gì, ở làng bấy giờ chỉ có túp nhà lá ba gian siêu vẹo, bác ấy đi cày thuê cuốc mướn cũng dành dụm được số tiền đủ mua một mảnh đất nửa sào ngay bên cạnh nhà. Bác ấy chịu thương chịu khó nuôi được mẹ là bà nội anh đến năm anh lên ba thì bà cụ mất. Thế mà mẹ anh lấy bố anh từ năm cô ấy mới hơn 17 tuổi, lúc cưới thì bố mẹ cho được một cái dây chuyền 6 đồng cân và cái nhẫn 1 đồng, cũng là sắm được đôi bồ hàng xén bán quanh các chợ trong huyện Việt Yên. Giá như bố anh yên phận ở nhà làm ăn, dạy học hoặc bốc thuốc chữa bệnh cho người ta thì làm gì đến nỗi khổ. Chẳng biết làm sao mà bỏ nhà đi biệt đến gần 12 năm mới về rồi mới sinh ra anh, thì năm anh lọt lòng mẹ, cô ấy đã 34 tuổi rồi. Cô ấy gan thật đấy. Trẻ đẹp vào loại nhất huyện lại hát hay cũng là nhất nhì cả đấy, gần như bị chồng ruồng bỏ, mà cô ấy ngoan thế, có phải hỗn láo gì với bố mẹ chồng đâu, có phải giai trên gái dưới gì đâu, có phải lười biếng ăn nhờ mặc chịu ai đâu mà cậu khoá Hy lại bỏ xó đấy đến 12 năm thì lạ thật đấy. Có người như cô ấy lấy đâu chả được một ông chồng phú quý vinh hoa? Thế mà có lần bà nội anh vì quá thương cô con dâu nết na, chịu khó mà hết năm này sang năm khác cứ gối chiếc chăn đơn mãi, bà cụ mong mãi có được đứa cháu bế thì cậu con giai đã gần 30 tuổi vẫn cứ tít mù xa sống chết ra sao, ở đâu, vẫn chẳng tin tức gì, bà cụ bèn đem cơi trầu sang bên nhà gái, nói với ông bà ngoại anh rằng:

“Tôi rất giận thằng con tôi, nó đi đâu bốn năm năm rồi chả có tin gì, thôi thì cháu nó là con dâu tôi thật, nhưng là con ông bà rứt ruột đẻ ra nuôi cho đến khôn lớn lại thuần hậu nết na, bây giờ còn đang xuân sắc nếu chỉ vài ba năm nữa, con trai tôi nó không về thì con dâu tôi xuân xanh có hạn, có kỳ, để quá lứa ra, đến lúc ấy ông bà bên này và gia đình tôi có làm gì để vớt vát lại, e rằng không kịp. Hôm nay, tôi xin thay mặt cả ông nhà tôi chẳng may đã sớm về với tổ tiên, tôi xin có lời với ông bà nhận cho cháu nó được về bên này sớm tối có bố có mẹ, có anh chị em ruột thịt nó cũng đỡ lủi thủi một thân, cũng đỡ buồn đỡ tủi, nhất là rồi đây có ai xứng đáng thì ông bà đã nhận cho tôi; ông bà có quyền gả chồng cho cháu lần nữa, hẳn là duyên số nó trời đã định ra như thế, ông bà cho cháu đi lấy chồng lần nữa thì chắc chắn cháu nó sẽ gặp duyên lành phận đẹp, lấy được người có đạo, có chí, hợp duyên nhau, thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn cơ mà, lo gì không phú quý giàu sang. Chứ còn để mãi cái duyên vợ chồng nó như bây giờ, tôi ngày đêm thương con dâu, giận thằng con giai bất hiếu bất mục, tôi cứ lo buồn đến héo gan nẫu ruột ra thế này, mới ngoài năm mươi mà trông đã nhăn nhó suy sụp lắm, chẳng mấy chốc là cũng sớm theo ông nhà tôi, về với các cụ mà lòng thì mang hận khó rửa sạch đối với nàng dâu hiếu thảo, mong ông bà thương tôi trước rồi thương đến con gái ngoan của ông bà sau. Đó là cái phúc lớn đấy nếu ông bà nhận lời khẩn cầu này của chúng tôi.”

Nói đến đây thì bà cụ khóc rấm rứt, mấy lần đưa tà áo lên lau nước mắt. Ông bà ngoại tôi từ nãy chỉ cúi đầu ngồi nghe, đến lúc đó, bà mới nghẹn ngào nói:

“Thưa vâng, bên bà đã cất công sang nói chuyện với gia đình chúng tôi như thế này, chúng tôi càng thương cháu bao nhiêu lại càng kính phục tấm lòng đại lượng, thương con như trời như bể của bà. Nhưng dẫu sao, nó đã là con của bà, từ khi anh ấy bỏ nhà đi, bà đối với nó còn hơn bố mẹ sinh ra nó. Khổ! hoàn cảnh chả biết từ đâu nó sinh ra thế, chứ có ai muốn thế bao giờ. Bà đã có cái ý phúc hậu như thế, sao chúng tôi có thể hờ hững được. Nhưng bà cũng hiểu cho chúng tôi, ở đời này hay thời trước cũng thế, chả có ai gả chồng cho con gái đến lần thứ hai. Chưa biết nó thế nào… nhưng trước hết là mua lấy tiếng chê cười. Bên phía họ hàng nhà chồng cháu, chúng tôi chắc chả ai đồng ý chỉ vì một lẽ dư luận làng xóm có khi cả huyện người ta sẽ thì thào:

– Vậy thì tất cả họ tộc đằng nhà chồng đã đối xử thế nào với nàng dâu thứ hai này đến nỗi phải “phú nó về”. Hoặc nàng dâu này ăn ở, cư xử với họ nhà chồng thế nào để cho người ta phải “đuổi” về với bố mẹ đẻ.

Mà thực ra cả hai bên gia đình đều là những gia đình có nề nếp, có học hành, cũng được thánh hiền cho dăm bảy chữ “làm người” từ đứa bé con đến các cụ già, ai cũng sống có đạo đức, trong xóm làng ngoài xã hội không một ai làm điều gì điếm nhục đến gia phong. Nay anh khoá Hy mới xa nhà có dăm năm, tuy không có tin tức gì nhưng cũng không một ai nghe thấy một tin đồn gì bậy bạ về người con rể của chúng tôi. Đời xưa có những anh con trai đi lính thú ngoài biên ải, đi biền biệt, không phải là đã chết mà chỉ là biệt tích có khi đến mười năm, mà ở nhà những người vợ trẻ vẫn yên tâm chờ đợi. Huống chi đây… cháu Lý cũng mới 22 tuổi, đã lo gì qua thời xuân sắc, cho rằng mười năm nữa anh Khoá mới về thì vợ chồng còn thuỷ chung như nhất với nhau, thì xuân xanh cũng chẳng vội bỏ những người tốt nết đẹp lòng.”

Đến đây thì bà nội tôi cũng vẫn không đổi ý. Bà nói như van lơn nài nỉ:

“Thưa ông bà, những điều ông bà vừa nói, bên chúng tôi ai cũng biết vậy cả. Nhưng cứ mỗi tối, cứ thấy bóng con dâu vẫn ra vào, thu dọn nhà cửa trong bếp ngoài sân, thấy nó cứ thui thủi như thế mà cũng xấp xỉ năm năm rồi, tôi lại ứa nước mắt thương con. Mong ông bà thương tôi đã vào tuổi già, trong khi vợ chồng anh cả có đôi có lứa thì cháu Lý đêm ngày thui thủi một thân, ông bà tính: làm sao tôi có thể yên tâm nằm ngủ được. Thôi thì ông bà cứ cho tôi một thời hạn là một năm nữa, nếu anh khoá nhà tôi nó không về thì tôi xin phép ông bà đưa cháu Lý sang… Còn thì hai gia đình chúng ta vẫn đi lại thân thiết như trước…”

Cứ lâu lâu khi có một người quen đi Pháp là anh Hoàng Cầm lại gửi từng xấp hồi ký cho tôi. Khi thì nói về Thâm Tình Nguyễn Chí Thanh, mười trang viết tay với tuồng chữ ngoằn ngoèo yếu ớt nhưng lời văn rất cảm động, rành mạch và sắc sảo về những lời đối đáp giữa anh và Nguyễn Chí Thanh, Trần Dần khi bàn luận về trách nhiệm tình yêu, nghĩa vợ chồng của người chiến sĩ, lòng nhân hậu của Nguyễn Chí Thanh đối với người về ở bên Tề,… Những gì tôi được nghe kể trong thời gian anh đi tù, anh chỉ thuật trực tiếp cho tôi nghe khi tôi về Hà Nội. Nghe nói sau này anh cũng có kể lại trong những cuộn băng mà không biết các vị cháu con của anh có thì giờ đánh máy được ra và còn lưu giữ được đâu đó hay không.

Tôi rất tiếc đã không mời anh đi dự lễ Phật Đản 2008 tổ chức rất quy mô tại Mỹ Đình. Ngày mai là vào lễ Phật Đản rồi mà hôm nay các thành viên quan trọng như đoàn của thầy chúng tôi cũng không chắc xin được vé cho các sư cô ở chùa Bát Nhã, Từ Hiếu và Diệu Trạm vào tham dự được, nên chúng tôi cũng không thể mời anh và gia đình anh cùng gia đình anh Đào Hùng tới dự. Trong chuyến đi 2008 này, vì muốn có nhiều thiền sinh ngoại quốc về dự Lễ Phật Đản nên chúng tôi đã phải tổ chức một khoá tu năm ngày tại khách sạn Kim Liên. Khoá tu chỉ là để cầu nguyện cho lễ Phật Đản thành công tốt đẹp. Vậy mà khi về đến Hà Nội rồi chúng tôi cũng không chắc khoá tu có diễn ra được êm xuôi không nữa. Họ muốn để họ mướn khách sạn cho thiền sinh, để họ tổ chức xe cộ di chuyển, ăn uống, chiếu khán… Nhưng họ đâu biết được thiền sinh cần phải lên kế hoạch trước cả năm hay sáu tháng mới tự tổ chức xin nghỉ làm việc và mua vé máy bay được, nên tất cả đều đã được chuẩn bị xong xuôi nhiều tháng trước khi họ về… Còn các công ty du lịch nhà nước thì đợi tới ba tuần trước Phật Đản mới chen vào… Chúng tôi không còn tâm trí nào để nhớ nghĩ đến việc mời các anh Hoàng Cầm, Đào Hùng… đi dự lễ Phật Đản nữa. Đó là một thiếu sót lớn của chúng tôi. Thiền cô Tâm Không có đến tận nhà thăm anh tháng 6 năm 2008, sau Phật Đản để chào anh. Không ngờ đó là lần gặp gỡ cuối cùng. Vì sau đó tôi bị cuốn vào những ưu lo cho 379 sư em ở tu viện Bát Nhã bị đuổi ra khỏi tu viện, và vì nhiều việc tới tấp rối rắm khác nữa nên tôi đã không còn thì giờ để tâm nhiều về anh, vì biết anh cũng đang ở và sống rất bình an. Khi nghe anh Hoàng Cầm mất ngày 6 tháng 5 năm 2010, tôi BIẾT là mình không thể nào về thăm được. Gần 400 vị xuất sĩ trẻ đã bị đuổi ra khỏi tu viện Bát Nhã vẫn còn xấc bấc xang bang, chưa có chỗ ở. Người ta chỉ muốn 379 vị tu sĩ này hoàn toàn hoàn tục thì họ mới để yên. Em nào còn mặc áo tu thì vẫn còn khó khăn. Chúng tôi bận đi vận động xin visas cho các em đi Pháp, đi Hoa Kỳ, đi Đức, mỗi nước vài ba chục cái, nên tâm trí cũng không còn để viết được một bài văn cho anh Hoàng Cầm thân yêu được. Tôi cũng biết rõ những bức thư của tôi, dù thâm tình cách mấy cũng sẽ rơi như cám vụn trước đông đảo người đến chia buồn. Tôi muốn dành đoạn hồi ký này như một bài kinh cầu nguyện cho anh Hoàng Cầm, nhà thơ của dân tộc Việt và Mối Tình của Chàng với người Em rất Cần… Thơ của anh. Em Thơ của anh là Phương Vân Am, Phương Khê, là Làng Hồng, là Làng Mai. Em Thơ là Thầy, với những lời chân tình chạm vào được nơi sâu thẳm nhất của hồn anh, Em Thơ là tôi, với nếp sống thiểu dục, ham ca hát và ham chơi nhiều thứ, em Thơ là anh Năm tôi ra toa cho thuốc trị bệnh rất đúng, em Thơ là các bạn Hà Lan góp tiền cho tôi mua thuốc gửi cho văn nghệ sĩ, em Thơ cũng là má tôi, ngồi với tôi tỉ mỉ xếp từng chai thuốc vào hộp, là em Hương, em Hằng, là Neige Achiary, là Pierre Marchand, là Mobi, là Tuyết, là Krisnana, là Ngọc Bích, Bùi Thanh Vũ, Bùi Ngọc Thuý, là bé Thuỷ, bé Long, bé Minh Tâm, là Ngọc Lan Thảo Trang, với bé Thơ, bé Trang, bé Sâm, bé Ton, bé Thảo,… mọi người đã cùng phụ tôi ngồi tỉ mỉ xếp từng hộp thuốc… Em Thơ của Hoàng Cầm cũng là Làng Hồng với các cô gái Việt – Âu được thấm dần văn hoá Việt, là các cháu Diễm Thanh, Diễm Trang, Giao Trinh, Anh Hương, Võ Tri Thuỷ, Bích Thuỷ, là các anh Nguyễn Bá Thư, Vinh, Minh thiền sư, cháu Phạm Mạnh Giao, các bé Tường Miên, các cháu thiếu niên Oanh, Thuỷ, Thảo, Vũ, Hiếu, Hạnh Đoan, Hạnh Thuần, bé Liên, là Tí Tèo Ti, là Lư Suôi Hà, là Lư Thị Hồng, là Lư Thị Bé… là anh Thiều, chị Muồi, là chị Yến, chị Hà, là anh Lê Chơn Thuyên, là chị Nguyễn Năng Sao, là bé Phương, bé Trúc, bé Tí, bé Miu, bé Tâm… trong dòng sông của Làng Mai. Hoàng Cầm ơi, chúng em biết là anh đang không chịu ngủ yên nơi chín suối đâu. Anh đang có mặt với chúng em, trên mọi nẻo đường đất nước, đặt hết trái tim để làm thơ, hát hò, ca tụng những nét đẹp tuyệt vời của quê hương mà chiếc nôi vẫn là miền Kinh Bắc đậm đà bản sắc dân tộc. Tiếng hát của anh sẽ sống với chúng em ngàn đời.