Nơi gửi gắm niềm tin
(Thầy Làng Mai bình thơ đêm giao thừa 2012)
Người nghệ sĩ ngoài đời sáng tác ra những bài thơ bản nhạc vì họ có những niềm đau nỗi nhớ trong lòng. Khi một bài thơ đẹp hay một bản nhạc hay của người nghệ sĩ được sáng tác ra thì sẽ có nhiều tâm hồn đồng cảm mượn nó để ru những niềm đau nỗi nhớ của mình. Ai mà không có những nỗi nhớ niềm đau? Cho nên người ta tiêu thụ thơ và nhạc nhiều lắm.
Trịnh Công Sơn từng viết nhiều bản tình ca rất hay, khiến cho bao người sử dụng để vỗ về niềm đau của họ. Nếu mình không thích nhạc Trịnh Công Sơn nghĩa là mình không có những nỗi nhớ niềm đau ấy trong lòng. Trịnh Công Sơn đã trải qua nhiều nỗi đau. Những mối tình của ông thường rất ngắn ngủi. Đối với Trịnh Công Sơn thì tình yêu vốn mong manh sương khói và dễ chết yểu, trong khi đó thì tình bạn lại bền vững, đem đến cho mình niềm vui và sức khỏe. Niềm vui của Trịnh Công Sơn là được ngồi hát cùng bạn bè. Cái mà ông được thừa hưởng trong cuộc đời chính là tình bạn. Trịnh Công Sơn cũng từng có cơ hội được gần gũi với các vị xuất gia, từng được nghe kinh nên thỉnh thoảng trong nhạc Trịnh có phảng phất âm hưởng của tiếng kinh.
Thời bấy giờ, người thanh niên Việt Nam có những thao thức mà không nói lên được. Đó là ước muốn chấm dứt cuộc chiến tranh vô nghĩa mà trong đó người Việt phải buộc lòng giết nhau bằng ý thức hệ và vũ khí nước ngoài. Trong số những người thanh niên ấy có Trịnh Công Sơn. Thỉnh thoảng Trịnh Công Sơn cũng nói ra được một vài điều, do đó có khi nhạc của ông được gọi là “nhạc phản chiến”.
Những bài nhạc nổi tiếng thời tiền chiến như bài “Bến xuân” của Văn Cao, cũng là để ru những nỗi nhớ niềm đau của mình. Trong bài “Bến xuân”, Văn Cao tưởng tượng mình có một ngôi nhà bên bờ suối và có người yêu đến thăm mình. Chuyện này chưa từng xảy ra. Ao ước trong đời thực không được thỏa mãn nên nhạc sĩ phải đưa nó vào thi ca. Khi bài hát này ra đời, có rất nhiều người sử dụng để ru những ước vọng của mình. Người thanh niên nào lớn lên mà không khao khát yêu thương và được yêu thương? Nhưng người có hạnh phúc trong tình yêu thì ít mà người gặp khổ đau trong tình yêu thì lại rất nhiều, tại vì cả mình và người kia đều chưa biết cách yêu thương.
Hãy nghe bài thơ sau đây của nhà thơ Đàm Thị Lam Luyến:
Mà sao không ôm trọn trái tim một con người?
“Nếu ta gửi tình yêu vào một nơi chân thật”: Yêu nghĩa là đầu tư trái tim của mình vào một nơi, nếu mình đầu tư lầm thì mình mất hết vì mình chỉ có một trái tim. Bài thơ này đã được nhà thơ Thuận Yến phổ nhạc.
Đây là một bài thơ khác của nhà thơ Trần Quang Quý. Anh chàng này may mắn hơn, không bị người yêu phụ bạc nhưng vẫn thấy tình yêu đó không đủ cho mình. Là một chàng trai trẻ anh cần có không gian lớn hơn để vẫy vùng và anh thấy tình yêu của mình giống như cái mạng nhện và con nhện chỉ đi quanh quẩn trong mạng nhện đó mà không ra khỏi được, dù cái mạng nhện có trung kiên với mình. Anh là người may mắn trong tình yêu nhưng anh vẫn chưa thỏa mãn với tình yêu ấy:
Thế là chiều Hà Nội bớt lang thang.
Có lẽ là cô nàng đang nấu bếp và khói làm cho mắt ướt chứ không phải là cô khóc. Mình là một trong số những người may mắn vì mình đang có một tổ ấm, có một nơi để về, có một trái tim chờ đợi mình ở nhà. Nhưng điều ấy đã đủ chưa?
ốm đau tan từ một lời thương
(Người vợ này rất chăm lo cho chồng, cô dặn đi dặn lại anh nhớ phải uống viên thuốc này nhé, dặn tới năm lần. Có lẽ hết bệnh không phải nhờ viên thuốc mà là nhờ cái ân cần của người kia.)
Một ngôi sao thả lỏng giữa xa mờ
Và đây, hai câu thơ cuối giống như một sự quyết định, không biết cái gì sẽ xảy ra:
Ô cửa này rộng mở anh đi.
Trong bài thơ của Đàm Thị Lam Luyến, mình cần ghi nhớ rằng mình chỉ có một trái tim, làm sao để mình gửi trái tim ấy vào đúng nơi đúng chỗ, tại vì thương yêu là một sự đầu tư lớn, đầu tư nhầm chỗ là mình sạt nghiệp, thế nên phải cẩn thận lắm. “Nếu ta gửi tình yêu vào một nơi chân thật”, nhưng biết đâu là nơi chân thật? Đôi khi lời nói kia rất đường mật nhưng có sự giả dối. Anh chàng có thể đã nói điều đó với nhiều cô rồi, nhưng mình không biết, lại cứ tưởng mình là người duy nhất được nghe câu nói đó.
Người đi xuất gia cũng muốn tìm nơi gửi gắm trái tim của mình. Bài thơ “Tìm Nhau” cũng nói về tình yêu. Đi tìm ở đây là sự đi tìm chính mình. “Con đã đi tìm Thế Tôn”, nhưng kỳ thực là con đã đi tìm chính con. Mình chưa biết mình là ai. Đây là một quá trình đi tìm kiếm. Khi mình biết được mình là ai thì mình có bình an, hạnh phúc. Trong bài thơ có câu “Con đã tìm ra Thế Tôn. Con đã tìm ra con” có nghĩa là vậy. Khi mình tìm ra được mình là mình tìm ra được Bụt và khi mình tìm ra được Bụt thì mình tìm ra được mình “Thế Tôn với con đã từng là một”, đây không phải là sự tìm kiếm bên ngoài mà là sự tìm kiếm bên trong.
Đất Mẹ nhiệm mầu
Vào năm 1969, lần đầu tiên mọi người thấy được hình ảnh của địa cầu nhìn từ mặt trăng tuyệt đẹp. Phi thuyền Apollo đưa ba phi hành gia lên trên mặt trăng, giữa đường các phi hành gia đã nhìn về địa cầu và chụp ảnh trái đất. Phi hành gia người Mỹ đầu tiên đặt chân lên mặt trăng là Neil Armstrong. Khi ông đặt bước đầu tiên xuống mặt trăng thì ông rất ý thức. Ông đã nói: “Đây là một bước nhỏ của con người nhưng là một bước rất lớn của nhân loại.” Sau khi được nhìn thấy bức ảnh về trái đất này, tôi đã làm một bài thơ:
An tịnh tâm hành
Chủ nghĩa dân tộc đã trở thành rào cản, sự đấu tranh của các dân tộc với nhau không cho phép chúng ta có thời gian và năng lượng để thay đổi sự sống và bảo vệ hành tinh này. Thế nên bài thơ này có câu: “Tình ta không phải chỉ là một mảnh nhỏ. Ta là những kẻ chịu chung số phận của hành tinh xanh”. Mỗi nước đều coi đất nước của mình là một bà mẹ. Ở Việt Nam ta nói là Mẹ Việt Nam. Ở bên Pháp nói là La Mère Patrie. Nhưng những bà mẹ đó chỉ là một mảnh nhỏ trong khi bà mẹ lớn của chúng ta là trái đất. Hiện bây giờ các bậc thiện tri thức trên thế giới đã thấy rõ rằng sự tranh chấp giữa các nước với nhau là một rào cản lớn khiến cho chúng ta không có cơ hội bảo vệ cho hành tinh của chúng ta. Vì muốn bảo vệ nước mình nên mình cũng muốn nước mình có bom nguyên tử. Vì muốn bảo vệ nước mình nên mình cũng muốn khai thác cho đất nước mình giàu mạnh để chống lại những nước khác, vì vậy cho nên mình đang đi trên một con đường không thuận lợi cho việc cứu hộ hành tinh.
Học hạnh của đất
Có một lần Đức Thế Tôn dạy chú tiểu La Hầu La: “Con hãy học theo những đức tính của đất thì con sẽ có hạnh phúc.” Đất có tính kiên trì, bền vững, luôn trung kiên mà không phản bội. Đất không kỳ thị, đất thương yêu và ôm lấy tất cả mọi loài dù những đứa con mà trái đất sinh ra có thế nào đi nữa thì đất mẹ vẫn luôn luôn đưa hai tay đón lấy khi nó trở về. Đất có năng lực sáng tạo. Đất đã sáng tạo ra sự sống với sự hợp tác của mặt trời. Ta tự hào có biết bao vị anh hùng, nhưng đất là vị anh hùng lớn nhất đã phải chịu đựng hàng tỉ năm để tạo nên sự sống. Ta tự hào là có những nhạc sĩ tài ba, nhưng đất là nhạc sĩ tài ba nhất, những tiếng hải triều là âm nhạc, tiếng gió, tiếng mưa, tiếng lá xào xạc, tiếng chim líu lo đều là âm nhạc tuyệt vời. Chúng ta tự hào rằng có những họa sĩ tài ba, nhưng chính đất đã tạo ra những bức họa đẹp nhất. Đông sang tuyết phủ, xuân tới trăm hoa đua nở, có liễu lục đào hồng; hạ đến cây cối xanh tươi; thu về lá rực rỡ muôn màu. Rõ ràng Bồ Tát Thanh Lương Đại Địa là một họa sĩ lớn.
Vật chất và tinh thần
Trước đây khoa học cho rằng sự sống, trí tuệ và ý thức là do vật chất sinh ra. Vật chất làm ra sự sống và sự sống làm ra trí tuệ nhưng bây giờ khoa học lượng tử (quantum science) không còn thấy đất là vật chất nữa. Có những nhà khoa học nói rằng: “Ý niệm trước đây của chúng ta về vật chất là một sai lầm.” Người ta đã khám phá ra rằng vật chất là năng lượng, nó là những đợt sóng và chính tâm thức của mình cũng là năng lượng, là những đợt sóng. Tâm thức có sức mạnh rất to lớn.
Nhà bác học Albert Einstein không tin vào một đấng thượng đế đứng trên trời điều khiển và kiểm soát những gì xảy ra dưới mặt đất. Ông nói rằng: “Là một nhà khoa học tôi không tin rằng có một Thượng Đế đứng ở trên kia điều khiển nhân sự dưới này. Nói như vậy không có nghĩa là tôi không cảm động khi nhìn vào vũ trụ.” Ông nói rằng mỗi khi nhìn vào vũ trụ thì ông thấy một sự hòa điệu, một vẻ đẹp tuyệt vời khiến cho ông rung động. Ông nói: “Nếu trong tôi có một cái gì có tính cách tôn giáo thì chính là sự kính ngưỡng và rung động đó. Nếu trong tương lai có một tôn giáo mà mọi người có thể theo được thì đó không phải một tôn giáo thờ phụng một vị thần linh, sáng tạo ra vũ trụ mà đó là một tôn giáo có tính cách vũ trụ, trong đó những gì mình tin phải được chứng thực bởi những xét nghiệm của khoa học.”
Tịnh Độ hiện tiền
Tại Làng Mai chúng ta có thực tập pháp môn Tịnh Độ nhưng đối với chúng ta thì Tịnh Độ là Tịnh Độ bây giờ và ở đây. Tịnh Độ là trái đất vì khi ta lấy kính viễn vọng để soi chiếu thì chúng ta chưa tìm thấy được ở đâu một tinh cầu đẹp đẽ như trái đất, thế nên chúng ta không dại gì bỏ trái đất để đi tìm một Tịnh Độ vu vơ nào đó ở nơi khác mà chúng ta không biết có thật hay không. Tịnh Độ của Làng Mai là bây giờ và ở đây. Nếu mình biết thở, biết đi thiền hành, thì mỗi hơi thở và bước chân như vậy đem mình về với giây phút hiện tại để khám phá ra bao điều kỳ diệu. Chánh niệm là ý thức mình đang có mặt để biết những gì đang xảy ra trong ta và xung quanh ta, đó là Tịnh Độ Hiện Tiền. Nói rằng Tịnh Độ Hiện Tiền nằm ngay trên trái đất thì khoa học có thể chấp nhận được. Không ai có thể phủ nhận điều đó.
Chúng ta là một mầu nhiệm và tất cả những gì bao quanh chúng ta đều là mầu nhiệm. Những mầu nhiệm đó là do đất Mẹ sinh ra. Chúng ta đều là con của Mẹ. Các vị Bụt, các vị Bồ Tát cũng là con của trái đất. Chúng ta ai cũng có một bà mẹ đã sinh ra ta thì người mẹ ấy cũng là con của trái đất, chúng ta có một người cha sinh ra ta thì người cha ấy cũng là con của trái đất. Chúng ta có một vị thầy thì vị thầy ấy cũng là con của trái đất. Chúng ta có một vị Bụt thì vị Bụt ấy cũng là con của trái đất. Vì vậy chúng ta phải công nhận trái đất là người mẹ chung của chúng ta. Đó là Bồ Tát Thanh Lương Địa, một vị Bồ Tát rất xinh đẹp và mầu nhiệm.
Mỗi khi lao đao, hốt hoảng, buồn khổ chúng ta có thể trở về tiếp xúc với đất Mẹ, đất Mẹ sẽ ôm lấy và truyền lại năng lượng cho chúng ta. Nếu chúng ta quán chiếu cho giỏi thì chúng ta sẽ vượt thoát được sinh tử, chúng ta sẽ không bao giờ chết. Khi quán chiếu thì chúng ta sẽ thấy đất Mẹ ở trong ta và có ta trong Mẹ. Nếu Mẹ là vô sinh bất diệt thì ta cũng là vô sinh bất diệt. Chúng ta từ Mẹ mà được biểu hiện ra, rồi chúng ta sẽ trở về với Mẹ, sau đó Mẹ lại đưa chúng ta ra đời trở lại nên không có gì phải lo sợ. Quay về nương tựa trái đất là một pháp môn rất thích hợp với Phật giáo. Albert Einstein cũng nói rằng nếu có một tôn giáo có thể đóng vai trò một tôn giáo vũ trụ căn cứ trên những bằng chứng xác thực có thể đi đôi với khoa học thì đó là đạo Bụt.
Ở Làng Mai có một bài kinh mới: “Kinh ca tụng Đất Mẹ”. Bài này không những Phật tử mà cả những người không phải Phật tử cũng có thể tiếp nhận được và thấy đây là một sự thật. Khi quán chiếu ta thấy đất Mẹ có trong ta và ta có trong đất Mẹ. Ta phải thay đổi cách sống thì mới cứu được bà mẹ của chúng ta.
Có một vị vua như thế
Ở Việt Nam có phái thiền Trúc Lâm, nguồn gốc từ núi Yên Tử. Vị Tổ đầu tiên là Trúc Lâm Đại Sĩ, tức là Vua Trần Nhân Tông. Sau khi đánh tan quân xâm lăng phương Bắc, vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử xuất gia, Ngài từng du hành qua rất nhiều nơi trên đất nước để gặp gỡ dân chúng. Nhà vua đi chân đất viếng thăm các miền quê để khuyên dân bỏ những tục lệ mê tín dị đoan quay về thực tập theo chánh pháp. Dân chúng biết vị xuất gia này trước đây là vua của mình nên rất cung kính và hết lòng nghe lời. Trong lúc vua con làm chính trị thì vua cha làm đạo đức. Hai cha con phụng sự đất nước bằng hai cách khác nhau. Đó là thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam, nhân dân sống có đạo đức nên đất nước được thái bình hạnh phúc.
Nếu vị nào đã đọc sử Việt Nam hoặc đọc cuốn “Am Mây Ngủ” thì đã biết rằng vua Trần Nhân Tông có một cô công chúa tên là Huyền Trân. Để giải quyết tranh chấp biên giới với nước Chàm, vua đã đi bộ sang làm thượng khách của vua Chàm và đã hứa gả con gái cho vua Chàm. Khi ấy công chúa mới có 14 tuổi.
Hồi đó trong triều có một vị quan rất giỏi về văn học tên là Lý Đạo Tái có tài ngoại giao và ứng đối rất giỏi nhờ văn chương lỗi lạc của mình. Lý Đạo Tái làm quan được hai ba năm thì đi xuất gia làm đệ tử của thầy Bảo Phác với pháp hiệu là Huyền Quang. Thầy Bảo Phác cũng là đệ tử của vua Trần Nhân Tông. Thầy rất yêu quý Huyền Quang, đi đâu cũng cho đi. Một hôm thầy Bảo Phác cho thầy Huyền Quang cùng đi theo mình nghe vua Trần Nhân Tông giảng pháp. Nhà vua nhận ra thầy Huyền Quang trước đây là Lý Đạo Tái nên đã đề nghị thầy Bảo Phác cho Huyền Quang ở lại để vua nhờ biên tập những kinh điển và tác phẩm mà vua muốn để lại cho hậu thế, nhờ vậy thiền sư Huyền Quang được ở lại với vua Trần Nhân Tông, sau này trở thành tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm.
Thiền sư mê hoa cúc
Về già thầy Huyền Quang lên an dưỡng ở Côn Sơn. Lúc ấy thầy đã 77 tuổi. Thầy không thích đi giảng dạy trong dân chúng mà chỉ thích giảng dạy cho người xuất gia. Có lúc hàng ngàn tu sĩ tới theo học với thầy. Thầy Huyền Quang rất yêu hoa cúc. Ngày xưa thầy Huyền Quang trồng nhiều hoa cúc tại Côn Sơn. Trong lịch sử văn chương có những người thích hoa lan, có người thích hoa mai, có người thích trúc, v.v… nhưng thầy Huyền Quang thì lại thích hoa cúc hơn cả. Thiền sư Huyền Quang có làm một bài thơ về hoa cúc. Ông nói tuổi lớn rồi không thấy có gì hấp dẫn hết. Ngoài thì giờ ngồi thiền, tụng kinh, thổi sáo, đi chơi thì thầy trồng cúc, trồng khắp nơi, sân trước, sân sau, trên lầu, dưới lầu. Sau mỗi buổi ngồi thiền, việc đầu tiên là ra thăm vườn cúc. Mỗi khi nghĩ tới cúc là trong lòng ông rộn ràng như khi nghĩ tới người yêu vậy.
Tôi cũng hơi giống thầy Huyền Quang ở điểm là rất yêu hoa cúc. Tuổi của tôi bây giờ lớn hơn tuổi của thầy Huyền Quang, nhưng đọc bài thơ này tôi thấy rất hợp ý. Có những lúc trên Xóm Thượng, hay khi ở Phương Khê, làm việc một hồi chợt nhớ tới ở ngoài kia có trăng, có trúc, có con đường thiền hành thì trong lòng rộn lên, tôi đặt bút xuống, choàng áo và đi ra ngoài. Giây phút ấy đem lại cho tôi rất nhiều hạnh phúc. Mỗi buổi sáng thức dậy, sau khi rửa mặt, mặc áo khoác lên rồi đi bộ từ thất Ngồi Yên lên thiền đường, mỗi bước chân như vậy giúp mình tiếp xúc với thiên nhiên, trăng sao, cây cối, hạnh phúc vô cùng. Tôi có viết một bức thư pháp: “I am in love with Mother Earth” (Tôi yêu Đất Mẹ). Giống như một chàng trai trẻ khi nghĩ tới người yêu thì lòng rộn ràng lên, tôi cũng vậy, tôi đầu tư vào trái đất. Bồ Tát Thanh Lương Đại Địa đã đem đến cho tôi biết bao hạnh phúc. Đầu tư vào vị đại Bồ Tát này là chắc ăn nhất.
Chúc các vị trong tăng thân một năm mới đầy bình an và hạnh phúc.