Chương 20: Sự phục hưng môn phái Trúc Lâm
NGUYÊN DO CỦA SỰ PHỤC HƯNG
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ mười bảy, một số khá đông các cao tăng từ Trung Hoa đã qua Ðại Việt hành đạo. Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến cho Phật giáo ở nước ta được phục hưng.
Những cao tăng này, phần nhiều đã rời bỏ quê hương họ trong thời gian chuyển tiếp giữa đời nhà Minh và đời nhà Thanh. Hồi đó Ðại Việt đang ở vào tình trạng Nam – Bắc phân tranh, và Trịnh – Nguyễn đã bắt đầu đánh nhau ở Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Sau gần một thế kỷ rưỡi loạn lạc, đầy dẫy bạo động, đức tin của các nhà chính trị nơi triết học Tống Nho đã lung lay. Nhiều sĩ phu đại diện cho triết học Tống Nho trong suốt thời gian đó đã chứng tỏ hư hỏng và bất lực. Trong đau khổ cùng cực, người ta bắt đầu quay trở về với đạo Phật, một đạo lấy đức từ bi là gốc và kỹ thuật trị thế là thứ yếu. Các chúa Trịnh cũng như các chúa Nguyễn, không phải là những người học Phật thâm uyên và có ý chí tu học như các vua Trần, nhưng đã quy hướng về đạo Phật, lấy đó làm nơi nương tựa tinh thần. Họ không phải là những nhà hành đạo Phật giáo như các vua Trần. Họ chỉ là những tín đồ Phật giáo, lấy sự ủng hộ Phật giáo để tạo dựng công đức cho dòng họ chứ không biết áp dụng Phật giáo vào việc dựng nước. Tuy vậy, đó cũng là một trong những nguyên nhân đưa tới sự phục hưng.
Với sự nứt rạn dần dần của niềm tin nơi triết học Tống Nho, nhiều nhà trí thức, sau khi nếm đủ khí vị vô thường và đen bạc của thời đại, cũng bắt đầu xoay sang nghiên cứu Phật học. Ðã thấy một số Nho sĩ trí thức bỏ Nho theo Phật. Thiền phái Lâm Tế lại được truyền vào nước ta một lần nữa: Ðàng Ngoài thì do các thiền sư Chuyết Chuyết và Minh Hành; Ðàng Trong thì do các thiền sư Nguyên Thiều và Minh Hoằng. Ta nhớ rằng thiền phái Lâm Tế đã được truyền vào Ðại Việt lần đầu tiên do thiền sư Thiên Phong ở thế kỷ thứ mười ba: Trần Thái Tông và quốc sư Ðại Ðăng là hai người đệ tử đầu và xuất sắc. Sau Chuyết Chuyết, Minh Hành, Nguyên Thiều và Minh Hoằng, một số các cao tăng khác từ Trung Hoa qua hành đạo cũng mang theo thiền học Lâm Tế. Ðồng thời thiền phái Tào Ðộng được truyền sang Ðại Việt lần đầu: Ở Ðàng Ngoài thì do thiền sư Thủy Nguyệt sang du học ở Trung Hoa mang về, ở Ðàng Trong thì do các thiền sư Hưng Liên và Thạch Liêm đưa tới.
THIỀN SƯ CHUYẾT CHUYẾT
Thiền sư Chuyết Chuyết tên Thiên Tộ, họ Lý, pháp danh là Hải Trừng, pháp hiệu là Viên Văn, thường được gọi là Chuyết Công, sinh năm 1590, tại quận Thanh Chương thuộc tỉnh Phúc Kiến. Thuở nhỏ học thông tứ thư ngũ kinh, lớn lên xuất gia tu học với Tiệm Sơn trưởng lão. Sau lên cầu học với Ðà Ðà hòa thượng ở Nam Sơn. Theo sách Kế Ðăng Lục của Như Sơn, hòa thượng Ðà Ðà là một danh tăng thường được vua Minh Thế Tông vời vào cung điện để bàn việc triều đình, và được vua phong cho đạo hiệu là Khuông Quốc Ðại Sư. Sau khi đắc pháp với Ðà Ðà, Chuyết Chuyết vân du trong quốc nội để giáo hóa, rồi vào khoảng năm 1630 cùng một số đệ tử dùng thuyền nhỏ rời khỏi Trung Hoa đi về miền Nam. Ông và các đệ tử đổ bộ lên đất Cao Miên. Rồi rời Cao Miên ông đi qua Chiêm Thành, vượt Chiêm Thành sang Ðại Việt. Từ Ðàng Trong, ông cùng các đệ tử khởi hành ra Ðàng Ngoài, dừng chân hoằng hóa tại chùa Thiên Tượng, Nghệ An và chùa Trạch Lâm, Thanh Hóa một thời gian. Ðến năm 1633, thầy trò tới được kinh thành Thăng Long. Thầy trò ông cũng có mang theo một số kinh điển. Ðến Thăng Long, ông và đệ tử ở lại chùa Khán Sơn và bắt đầu giảng dạy Phật pháp. Người đến học gồm cả người Trung Hoa và người Việt Nam. Sau một thời gian, Chuyết Chuyết dời về chùa Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, cách kinh thành chừng ba mươi cây số. Trong thời gian hoằng hóa ở đây, Chuyết Chuyết được chúa Trịnh Tráng biết đến và hâm mộ, xem như là bậc thầy. Vua Lê Huyền Tông và các bậc công hầu cũng đều kính trọng. Sau đó một thời gian vì chúa Trịnh Tráng muốn có thêm kinh điển Phật giáo để lưu hành trong nước, cho nên Chuyết Chuyết ủy đệ tử mình là Minh Hành trở về Trung Hoa để thỉnh kinh. Kinh điển thỉnh về được an trí tại chùa Phật Tích. Một số kinh đã được khắc bản trong thời ấy để ấn loát và phổ biến. Bản khắc đều được tàng trữ tại chùa Phật Tích[1]. Trong số những kinh sách mà Chuyết Chuyết mang theo lần đầu, có một nghi thức cúng cô hồn dưới nước và trên cạn, gọi là Thủy Lục Chư Khoa. Chuyết Chuyết và các đệ tử đã tổ chức một trai đàn lớn, cầu cho tất cả vong linh nạn nhân của thời đại. Nghi thức và cách tổ chức trai đàn này rất được vua Lê chúa Trịnh và các bậc công hầu thời ấy hâm mộ. Thủy Lục Chư Khoa từ đó được áp dụng rộng rãi tại các chùa Ðàng Ngoài.
Sau khi hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và công chúa Lê Thị Ngọc Duyên xuất gia tại chùa Phật Tích, chúa Trịnh Tráng bắt đầu cho trùng tu lại chùa Ninh Phúc ở Bút Tháp[2]. Khi việc trùng tu hoàn tất, Chuyết Chuyết được mời sang trú trì chùa Ninh Phúc cho đến khi viên tịch. Ông tới Thăng Long năm 43 tuổi. Ông mất ngày rằm tháng Bảy năm Giáp Thân (1644), thọ 55 tuổi. Sau khi Chuyết Chuyết viên tịch, vua Lê Chân Tông phong hiệu là Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Ðại Ðức Thiền Sư. Thiền sư Minh Hành lập tháp Báo Nghiêm để an trí nhục thân của ông. Trên đỉnh tháp có hình một cây bút do Minh Hành dựng. Một vị cư sĩ gốc Trung Hoa tên Âu Dương Vựng Ðăng được Minh Hành nhờ viết một bài văn bia kỷ niệm. Theo bài văn bia thì Chuyết Chuyết khí tượng lạ lùng và có tài cảm hóa, được vua Lê rước làm thầy và được các bậc công hầu kính trọng. Ông lại viết: “Tôi học Phật, lánh sang nước Nam, có dịp được hội đàm với thiền sư Chuyết Chuyết tại chùa Khán Sơn ở Thăng Long. Lúc mới gặp, ta có thể nghĩ ông là người khùng. Nhưng lâu ngày, tôi thấy ông là một người rộng rãi thông minh, trong lòng không vướng bận một điều gì. Ông lại có tài ngôn luận, bỡn cợt và cả bậc công khanh. Ông đức độ trung hậu, biết kính già yêu trẻ, coi bậc thiên tử như bạn thân, khinh tiền của như cỏ rác…”.
Chuyết Chuyết thuộc về thế hệ thứ 34 dòng Lâm Tế. Hai vị đệ tử xuất sắc nhất của Chuyết Chuyết là Minh Hành và Minh Lương; Minh Hành là người gốc Trung Hoa, còn Minh Lương là người Ðại Việt.
THIỀN SƯ MINH HÀNH
Thiền sư Minh Hành pháp hiệu là Tại Tại, là người phủ Kiến Xương, tỉnh Giang Tây. Ông từng là cánh tay phải của Chuyết Chuyết. Truyền thống Phật giáo Ðàng Trong thường liên hệ ông với Nguyên Thiều, người đã đem phái Lâm Tế truyền vào Ðàng Trong, và có khi cho rằng ông là đệ tử của thiền sư Nguyên Thiều nữa. Nguyên Thiều sang Ðại Việt năm 1665, có nghĩa là sau khi Minh Hành đã tịch[3]. Như vậy truyền thuyết cho rằng ông đã là một trong những danh tăng do Nguyên Thiều vâng mệnh chúa Nghĩa Vương về Trung Quốc mời sang để tham dự giới đàn truyền giới tại chùa Linh Mụ là không đúng. Thiền sư Minh Hành ngày trước đã cùng thầy là Chuyết Chuyết từ Cao Miên đi qua Chiêm Thành rồi sang Ðại Việt; trước khi ra Ðàng Ngoài đã đi qua Ðàng Trong, và có thể thầy trò đã dừng chân hoằng hóa tại Bình Ðịnh (lúc bấy giờ Bình Ðịnh đã thuộc về lãnh thổ Ðại Việt) và Thuận Hóa, và đã ghi dấu chân ở những nơi đó. Ta biết rằng Chuyết Chuyết và Minh Hành trước khi đến Thăng Long cũng đã dừng chân hoằng hóa tại Nghệ An, hành đạo tại chùa Thiên Tượng và ở Thanh Hóa khai sáng chùa Trạch Lâm.
Năm 1643 khi Chuyết Chuyết dời sang trú trì chùa Ninh Phúc ở Bút Tháp thì Minh Hành trở thành viện chủ chùa Phật Tích. Rồi đến năm 1644 khi Chuyết Chuyết mất, ông trở thành viện chủ chùa Ninh Phúc. Ông mất vào năm 1659, thọ 64 tuổi. Hai ngọn tháp được dựng lên để thờ ông: một ngọn ở chùa Ninh Phúc, một ngọn ở chùa Trạch Lâm, tỉnh Thanh Hóa. Tại ngọn tháp chùa Trạch Lâm, một pho tượng của Minh Hành bằng đồng còn tồn tại đến ngày nay, pho tượng mà Bezacier cho là “kiểu tượng Việt Nam khéo nhất mà chúng ta đã thấy”[4].
Chân Trú và Diệu Tuệ là hai người đệ tử của Minh Hành. Chân Trú trú trì chùa Hoa Yên núi Yên Tử, còn Diệu Tuệ trú trì chùa Phật Tích. Minh Hành có để lại một bài kệ truyền pháp như sau:
Minh Chân Như Tính Hải
Kim Tường Phổ Chiếu Thông
Chí Ðạo Thành Chánh Quả
Giác Ngộ Chứng Chân Không.
Nghĩa là:
Thấy chân như biển rộng
Ánh vàng chiếu vô cùng
Ðạt đạo thành chánh quả
Giác ngộ chứng chân không.
Chữ của bài kệ này đã được dùng để đặt pháp danh cho những thế hệ tiếp của phái Lâm Tế tại Ðàng Ngoài.
CHÂN NGUYÊN, NGƯỜI CÓ CÔNG PHỤC HƯNG MÔN PHÁI TRÚC LÂM
Một trong những ngọn đuốc sáng của Phật giáo Ðàng Ngoài trong thế kỷ thứ mười bảy là thiền sư Chân Nguyên, trú trì chùa Long Ðộng. Chính Chân Nguyên và các đệ tử của ông đã làm phục hưng phái Trúc Lâm, cứu vãn được một số quan trọng những tác phẩm của các thiền tổ Trúc Lâm bằng cách sưu tầm, hiệu đính, khắc bản và lưu hành những tác phẩm này.
Thiền sư Chân Nguyên họ Nguyễn tên Nghiêm, quê ở làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông sinh năm 1646, xuất gia năm 19 tuổi, học với thiền sư Chân Trú tại chùa Hoa Yên, được pháp danh là Tuệ Ðăng. Nhưng sau đó không lâu, Chân Trú qua đời, bèn cùng với bạn đồng liêu là Như Niệm tu hạnh đầu đà, du phương để tham vấn thêm Phật pháp. Sau đó Như Niệm đổi ý, không đi vân du nữa mà về trú trì chùa Cô Tiên. Tuệ Ðăng bèn lên chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham học với thiền sư Minh Lương, đệ tử của Chuyết Chuyết. Minh Lương đặt pháp hiệu cho ông là Chân Nguyên. Chữ chân là chữ thứ hai trong bài kệ truyền pháp của Minh Hành, sau chữ minh của Minh Lương. Ở đây, Chân Nguyên thọ Bồ tát giới, đốt hai ngón tay để phát nguyện hạnh đạo Bồ tát. Ông xây dựng đài Diệu Pháp Liên Hoa tại chùa Vĩnh Phúc. Sau đó ông được truyền thừa y bát Trúc Lâm, làm trú trì chùa Long Ðộng và Quỳnh Lâm, xưa kia vốn là những trung tâm lớn của phái Trúc Lâm. Năm 1684, Chân Nguyên dựng đài Cửu Phẩm Liên Hoa tại chùa Quỳnh Lâm, theo kiểu mẫu đài Cửu Phẩm Liên Hoa mà Huyền Quang đã dựng ngày xưa tại chùa Ninh Phúc. Năm 1692, hồi bốn mươi sáu tuổi, ông được vua Lê Hy Tông triệu vào cung để tham vấn về đạo Phật. Khâm phục tài đức ông, vua ban cho Chân Nguyên mỹ hiệu Vô Thượng Công và dâng cúng áo cà sa cùng những pháp khí để thờ tự. Năm 1722, hồi 76 tuổi, ông được vua Lê Dụ Tông phong chức Tăng Thống và ban hiệu Chính Giác Hòa Thượng. Năm 1726, trong tư thế kiết già, ông tịch vào tháng Mười âm lịch, thọ 80 tuổi. Vua Dụ Tông truyền dựng tháp Tịch Quang tại chùa Long Ðộng và chùa Quỳnh Lâm.
Sách Kế Đăng Lục nói rằng một hôm ông tham vấn Minh Lương về một điều thâm diệu trong Phật pháp thì chỉ thấy Minh Lương nhìn thẳng vào hai mắt ông một hồi lâu, nhờ đó mà ông giác ngộ. Minh Lương có để lại một bài kệ phó pháp sau đây cho Chân Nguyên:
Ngọc xinh ẩn trong đá
Hoa sen nẩy tự bùn
Nên biết tìm giác ngộ
Nơi sinh tử trầm luân.
(Mỹ ngọc tàng ngoan thạch
Liên hoa xuất ư nê
Tu tri sinh tử xứ
Ngộ thị tức bồ đề.)
Chân Nguyên có nhiều đệ tử xuất sắc; trong số các vị ấy,ta có thể kể Như Hiện, Như Trừng, Như Sơn và Như Trí. Chữ như là chữ thứ ba trong bài kệ truyền pháp của Minh Hành. Chân Nguyên để lại hai bài kệ truyền pháp, bài sau đây được chép trong sách Kế Ðăng Lục:
Chính niệm phân minh được suốt ngày
Là đem thể tính tự phô bày
Giác quan vận dụng chân thường kiến
Vạn pháp tung hoành giác ngộ ngay.
(Hiển tích phân minh thập nhị thì
Thử chi tự tính nhậm thi vi
Lục căn vận dụng chân thường kiến
Vạn pháp tung hoành chính biến tri.)
Còn một bài nữa được chép trong bài Ngộ Ðạo Nhân Duyên do ông sáng tác:
Thể tánh xưa nay vốn nhất như
Hào quang chiếu sáng cõi không hư
Nếu lấy giác quan mà vận dụng
Tinh thông muôn pháp đạt Vô dư.
(Cùng kim cắng cổ bản như như
Pháp tính viên đồng xán thái hư
Ưng xuất lục căn năng vận dụng
Tinh thông vạn pháp triệt vô dư.)
Những sáng tác của Chân Nguyên hiện có:
1- An Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh
2- Ngộ Ðạo Nhân Duyên
3- Thiền Tịch Phú
Ông còn hiệu đính và trùng khắc Thánh Ðăng Lục; Các thế hệ sau ông được phú chúc sự nghiệp phục hồi nền văn học Phật giáo nước nhà. Như Trí trùng san sách Thiền Uyển Tập Anh (1715). Như Sơn soạn Kế Ðăng Lục (1734). Như Trừng và Như Hiện chuyển ra văn Nôm những bản về giới luật như Sa Di Thập Giới, Hai Mươi Bốn Thiên Uy Nghi, v.v… từ trước chỉ lưu truyền bằng Hán văn. Tịnh Quang trùng san Thánh Đăng Lục (1750), Tuệ Hiền trùng khắc Khóa Hư Lục (?), Huệ Nguyên trùng san Thượng Sĩ Ngữ Lục (1763). Sách Tam Tổ Thực Lục được trùng san năm 1765 cũng do người trong pháp phái thực hiện.
Thiền Tông Bản Hạnh
Như đã nói trong các chương X và XVIII, tên đầy đủ của sách là An Tử Sơn Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh. Ðây là một cuốn sách viết bằng thơ Nôm lục bát, dùng tài liệu của các sách Thánh Ðăng Lục, Khóa Hư Lục và Tam Tổ Thực Lục. Bản của chúng tôi được đọc thuộc về bản in năm 1745 do ni cô Diệu Thuần ở chùa Liên Hoa Thăng Long thực hiện, vâng theo lời phú chúc của bổn sư là Liễu Viên. Tuy tài liệu dùng để viết sách đều lấy ở các tác phẩm cổ, nhưng đoạn đầu và đoạn cuối sách phản chiếu khá rõ rệt quan điểm thiền học của Chân Nguyên.
Ngộ Ðạo Nhân Duyên
Ðó là một bài văn chữ Hán, cũng nói về quan niệm thiền của Chân Nguyên, kèm theo nhiều bài thơ và kệ của tác giả. Bài này thấy in trong kỳ trùng khắc năm 1745 của sách Thiền Tông Bản Hạnh.
Thiền Tịch Phú
Ðây là một bài phú Nôm về chùa Long Ðộng, rất giàu từ ngữ thuần túy Việt Nam. Bài này làm ta nhớ bài Vịnh Hoa Yên Tự Phú của Huyền Quang. Bài phú này được chùa Long Ðộng duy trì và được Thiền Phố phiên âm và in trong Ðuốc Tuệ số 7, ra ngày 21.1.1936 tại Hà Nội.
Ðể có một ý niệm về nghệ thuật phú Nôm của Chân Nguyên, chúng ta hãy đọc một đoạn trong Thiền Tịch Phú:
Am thờ tổ ngói lấp gỗ lim
Nhà trú tăng vách vôi tường gạch
Mấy bức kẻ chữ triện mực giồi
Bốn bên diễu câu lơn sóc sách
Gác rộng thênh chuông đưa ba chập, niệm nam mô nhẹ tiếng boong boong
Lầu cao vót trống điểm mấy hồi, đọc thần chú khua tang cách cách.
…
Chè Bát đức sẵn đà lưu loát, chẳng phải lo củi nấu kỳ cầm
Bánh Tam thừa vốn đã chứa chan, nào có nhọc bột đâm thì thịch
Quả Bồ đề ăn ngọt xớt, muôn kiếp hằng no
Hoa Ưu bát ngửi thơm tho, ngàn đời chẳng dịch
Sang Tây phương bệ ngọc đứng chơi
Về Ðông Độ tòa vàng ngồi phịch
Bể Từ bi thênh thênh rộng rãi, mặc sức chở người
Thuyền Bát nhã thăm thẳm bao la, giàu lòng độ khách
…
Thích Ca Phật tổ ngồi tuyết sơn khô khẳng gầy gùa
Di Lặc Tiên quang đi vận thủy đẫy đà phục phịch
Ðức Huệ Năng bát nguyệt thung phường
Tổ Ðạt Ma cửu niên diện bích
Thần quang đoạn tý, lúc còn mê mặt khó đăm đăm
Ca Diếp nhãn đồng, thoạt chốc ngộ miệng cười khềnh khệch
Dù ai quyết lòng học đạo, hỏi cho hay sừng thỏ lông rùa
Hoặc kẻ dốc chí chân tu, xem cho biết đầu cua tai ếch…
TƯ TƯỞNG THIỀN CỦA CHÂN NGUYÊN
Theo Chân Nguyên, đóa sen mà Phật đưa lên cho đại chúng ở hội Kỳ Viên xem, đóa sen đã làm cho Ca Diếp mỉm cười, là tượng trưng cho tự tính giác ngộ có tính cách trong sáng và tròn đầy (trạm viên) của tất cả chư Phật và tất cả mọi chúng sinh. Giác ngộ thành đạo tức là phát hiện được tự tính đó: tự tính này hiện hữu một cách bình đẳng nơi mọi loài và mọi vật, không phân biệt trong ngoài, trên dưới:
Thuở xưa hội cả Kỳ Viên
Bụt cầm một đóa hoa sen giơ bày
Ca Diếp trí tuệ cao tay
Liễu ngộ tự tính bằng nay mỉm cười
Trần trần sát sát Như Lai
Chúng sinh mỗi người mỗi có hoa sen
Hoa là vốn tính trạm viên
Bao hàm thiên địa dưới trên cùng bằng[5].
Khi một bậc giác ngộ muốn diễn tả nói năng, thì chính đóa hoa ấy của tâm (tâm hoa) ứng miệng nói ra chứ không phải là do ta vận dụng tri thức, quan niệm và ngôn ngữ thông thường:
Hậu học đà biết hay chăng
Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời[6].
Như vậy đối với Chân Nguyên, tất cả những điều nói năng không phát xuất trực tiếp từ kinh nghiệm về tự tính đều là những điều trống rỗng. Phương pháp của thiền khác với phương pháp của giáo. Thiền là sự trao truyền của tâm qua tâm, còn giáo là sự trao tuyền bằng kinh bằng lục:
Giáo là kinh lục kể bày
Giấy mực văn tự chất đầy hà sa
Tông là nguyên tự tính ra
Vốn vô nhất vật, lặng hòa hư linh[7].
Ðọc kinh thì lâu lắm mới hiểu được đạo, trong khi chiêm nghiệm theo lời chỉ dẫn của tổ thì có thể chứng ngộ trong giây phút:
Xem kinh Bụt thuyết còn xa
Nghiệm cơ tổ bảo sát na biết rồi[8].
Chân Nguyên lại khuyên độc giả đừng ngại ngùng khi nghe những mẩu vấn đáp có tính cách kỳ lạ giữa các tổ và môn đệ của họ. Những mẩu vấn đáp này đích thị là ngôn ngữ Thiền, nhằm đối trị các trường hợp cao thấp thuận nghịch khác nhau, là những phương tiện đập vỡ thói quen và thành kiến để đưa người ra khỏi sự bế tắc:
Ngộ tính không tịch thì thôi
Chẳng lạ chỉ lời vấn đáp tiêu hao
Cơ quan thuận nghịch thấp cao
Những sự huyễn trí chiêm bao đặt làm
Ðại vi thuyết pháp chỉ nam
Cho ta ngộ đạo kẻo đàm kinh lâu[9].
Ngôn ngữ này lắm khi chỉ là sự giữ lặng thinh, hoặc là giương mắt, hoặc là nhíu lông mày, hoặc là hét lên một tiếng vang dội như sư tử lớn:
Hoặc là nghiễm tọa vô vi
Hoặc là thuấn mục, giương mi, giao thuần, Hoặc hiện sư tử tần thân
Quát thét một tiếng xa gần vang uy Ai khôn xem đấy sá nghì
Hội ngộ tự tính, tức thì chứng nên[10].
Nhưng lối truyền thông mà Chân Nguyên ưa nói nhất là nhìn thẳng vào hai mắt của người mình đối thoại. Ta nhớ hồi còn tu học với Minh Lương, Chân Nguyên vì được Minh Lương nhìn thẳng vào hai mắt mình mà trong phút giây giác ngộ. Cho nên ông đã dùng hình ảnh này nhiều lần trong Thiền Tông Bản Hạnh:
Tam thế chư Phật tổ sư
Tứ mục tương cố thị cừ thiền cơ.
Tứ mục tương cố là bốn mắt nhìn nhau.
Tứ mục tương cố nhãn đồng
Thầy tớ trao lòng đăng chúc giao huy.
Thầy tớ trao lòng là sự truyền tâm giữa thầy và trò, còn đăng chúc giao huy là đèn đuốc nối sự sáng cho nhau.
Hóa Phật thọ ký vô biên
Tứ mục tương cố mật truyền tâm tông.
Ông lại cũng dùng những hình ảnh này trong tác phẩm Ngộ Ðạo Nhân Duyên nữa:
Ðèn tâm mắt Phật mới vừa sinh
Tâm ấn truyền nhau, bốn mắt nhìn
Tiếp nối đèn kia về bất tận
Thiền lâm thắp mãi ánh quang minh.
(Nhất điểm tâm đăng Phật nhãn sinh
Tương truyền tứ mục cố phân minh
Liên phương tục diệm quang vô tận
Phổ phó thiền lâm thọ hữu tình.)
Về vấn đề ngôn ngữ, Chân Nguyên viết: “Sử dụng ngôn thuyết là việc bất đắc dĩ phải dùng phương tiện để đối trị vọng tưởng của chúng sinh. Nếu không tùy trường hợp mà đối trị những vọng tưởng ấy, tức là không thể có giáo pháp. Mà không có giáo pháp thì không có Phật cũng không có tăng. Tam bảo đã không thì không có người thuyết pháp, không có người nghe pháp, cũng không có pháp được thuyết. Giáo pháp đã từ nhân duyên mà có thì cũng chỉ là phương tiện để làm trẻ con nín khóc mà thôi, đâu phải là chân thực. Người ngu phu thì cần nhiều kinh điển, nhiều giáo pháp; bậc thượng trí thì chỉ cần một tiếng hét hay một nụ cười cũng có thể đốn ngộ tự tính.”
Chân Nguyên rất hâm mộ đoạn nói về ngôn ngữ thiền trong kinh Lăng Già và thường hay trích dẫn kinh này trong các tác phẩm của ông. Ông nói:
Ai chưa tín thọ còn ngờ
Thỉnh kinh Lăng Già quyển nhị hòa trông[11].
Công án mà Chân Nguyên đã sử dụng nhiều nhất trong thiền tập có lẽ là công án mà Bách Trượng ngày xưa đã trao cho Hương Nghiêm: “Hãy nói cho tôi nghe về mặt mũi của chính ông khi mà ông chưa được cha mẹ sinh ra”. Công án này có liên hệ tới pháp hiệu Chân Nguyên của ông. Chân Nguyên là nguồn gốc chân thực. Công án ấy ông đã diễn tả trong sách Thiền Tông Bản Hạnh:
Thuở xưa trời đất chưa sinh
Cha mẹ chưa có thật mình chân không
Chẳng có tướng mạo hình dung
Tịch Quang phổ chiếu viên đồng thái hư.
Thì ra mặt mũi ấy là chân không. Chân không cố nhiên không phải là hư vô – hư vô là giả không chứ không phải là cái không chân thực. Cái không chân thực vượt ra ngoài có và không. Nó là thực tại không thể diễn tả bằng tướng mạo và hình dung. Ông lại còn diễn tả cái thấy của ông về công án này trong hai bài kệ gọi là Chân Nguyên Trạm Tịch nghĩa là “Chân Nguyên vốn là trong sáng và lặng lẽ”. Ðọc hai bài này ta đừng quên rằng hai tiếng chân nguyên vừa có nghĩa “nguồn gốc chân thật” vừa có nghĩa “ông thầy tu Chân Nguyên”:
Thiên địa phụ mẫu vị sinh tiền
Tịch quang viên trạm thị chân nguyên
Tự giác giác tha danh viết Phật
Từ bi thuyết pháp lợi nhân thiên.
(Khi trời đất và cha mẹ chưa sinh, thì chân nguyên lặng yên, chiếu sáng tròn đầy, trong trẻo. Nếu cái nguồn gốc chân thật ấy mà hiển lộ được thành hành động tự giác, giác tha thì được gọi là Phật, có thể đem từ bi tâm thuyết pháp để làm lợi cho cõi người và cõi trời).
Vạn pháp không hoa giai bất thực
Vị độ quần sinh giả lập quyền
Liễu liễu bản lai vô nhất vật
Chân nguyên trạm tịch phục hoàn nguyên.
(Mọi hiện tượng đều như hoa đốm giữa hư không, không có thực chất. Vì muốn độ quần sinh cho nên tạm đề cập tới chúng. Giác ngộ được rằng xưa nay không một hiện tượng đã từng hiện hữu thì Chân Nguyên vắng lặng trong trẻo lại trở về nguồn của nó).
Về phương diện phương pháp hành đạo, Chân Nguyên chủ trương rằng chìa khóa của sự đạt đạo là nuôi sáng ý thức mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên”, nguồn gốc chân thật của mình. Ý thức được như vậy thì mọi ý nghĩ, mọi hành động của ta tự nhiên đi vào con đường giác ngộ, và không cử chỉ nào của ta mà không phải là mầu nhiệm, thần thông: mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc và ý nghĩ. Ðó là sự “vận dụng của lục căn” trên căn bản ý thức về tự tính giác ngộ. Chân Nguyên nhắc lại điều này nhiều lần. Trong Thiền Tông Bản Hạnh:
Hậu học đã biết hay chăng?
Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời.
Thiêng liêng ứng khắp mọi nơi
Lục căn vận dụng trong ngoài thần thông.
Và trong bài kệ Thị tịch:
Hiển tích phân minh thập nhị thì
Thử chi tự tính nhậm suy vi
Lục căn vận dụng chân thường kiến
Vạn pháp tung hoành chính biến tri.
Nhưng dù sao, diễn tả cái thấy của mình vẫn là chuyện khó khăn; Chân Nguyên biết điều đó, cho nên một lần ông đã viết bài thơ này, coi như bài thơ đẹp nhất của vị thiền sư đã từng làm cho Phật giáo chấn hưng vào cuối thế kỷ thứ mười bảy:
Nói ra là bị kẹt
Không nói cũng chẳng xong
Vì anh đưa một nét
Ðầu núi ánh dương hồng.
(Hữu thuyết giai thành báng
Vô ngôn diệc bất dung
Vị quân thông nhất tuyến
Nhật xuất lĩnh đông hồng).
NHỮNG VỊ ÐỆ TỬ XUẤT SẮC CỦA CHÂN NGUYÊN
Chân Nguyên có nhiều đệ tử xuất sắc, trong đó Như Hiện và Như Trừng là hai người nổi bật nhất. Thiền sư Như Hiện được tiếp nối y bát của truyền thống Trúc Lâm, còn thiền sư Như Trừng lập được một thiền phái lấy tên là Liên Tông. Cả hai phái ấy sau này nhập lại làm một, và tăng sĩ của cả hai phái đều đóng góp tích cực vào việc phục hồi những tác phẩm đời Trần.
Thiền sư Như Hiện
Hiệu là Nguyệt Quang, ông sinh ở làng Ðường Hào ở Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông xuất gia năm mười sáu tuổi, tại chùa Long Ðộng ở Yên Tử. Trước khi Chân Nguyên mất, ông được trao y bát Trúc Lâm, kế thế các chùa Long Ðộng, Quỳnh Lâm và Nguyệt Quang. Năm 1730, các chùa Quỳnh Lâm và Sùng Nghiêm dưới sự chăm sóc của ông được chúa Trịnh Giang trùng tu. Chúa cùng dân ba huyện Ðông Triều, Thủy Ðường và Chí Linh góp sức vào việc xây dựng lại các chùa này. Gần mười ngàn người làm việc trong suốt một năm mới xây dựng xong hai ngôi chùa lớn này của phái Trúc Lâm. Dân chúng ở ba huyện kể trên được miễn sưu dịch trong một năm. Bảy năm sau, chúa Trịnh Giang lại cho đúc một pho tượng Phật rất lớn để thờ tại chùa Quỳnh Lâm.
Năm 1748, Như Hiện được vua Lê Hiển Tông ban chức tăng cương, và năm 1757 được sắc phong là Tăng Thống Thuần Giác Hòa Thượng. Ông dạy trên 60 đệ tử xuất gia. Thiền sư Tính Tĩnh là vị đệ tử được ông trao truyền y bát Trúc Lâm và kế thế các chùa Long Ðộng, Quỳnh Lâm và Nguyệt Quang[12]. Ông mất ngày mồng sáu tháng Chín năm Ất Dậu (1765).
Thiền sư Như Trừng
Tự là Lân Giác, hiệu là Cứu Sinh thượng sĩ, ông vốn là một vị vương công họ Trịnh. Ông tên là Trịnh Thập, con của Phổ Quang Vương, sinh ở tỉnh Thanh Hóa năm 1696. Lớn lên ông được vua Hy Tông gả công chúa thứ tư cho. Ông có tư dinh tại phường Bạch Mai, huyện Thọ Xương. Sau tư dinh có một đồi đất cao. Một hôm ông bảo người nhà đào hồ trên ấy để thả cá vàng; người nhà đào được một cọng sen lớn đem vào trình ông. Ông cho đó là điềm xuất gia, liền đổi nhà làm chùa, đặt tên là Viện Ly Trần, chùa Liên Tông, bắt đầu ăn chay, học đạo, ngồi thiền. Sau đó ông dâng sớ xin xuất gia. Ðược vua chấp nhận ông lên thẳng núi Yên Tử làm lễ thiền sư Chân Nguyên tại chùa Long Ðộng. Lúc đó Chân Nguyên đã tám mươi tuổi. Ông nỗ lực học tập, sau đó được thọ giới, đắc pháp với Chân Nguyên và trở về tĩnh tu tại chùa Liên Tông. Trong thời gian hoằng hóa, ông có lập thêm chùa Hộ Quốc ở phường An Xá (cũng tại Thọ Xương) và chùa Hàm Long ở Quế Dương (Bắc Ninh). Hồi còn làm sa di pháp hiệu là Như Như tại chùa Long Ðộng, ông có viết các bài Ngũ Giới Quốc Âm và Thập Giới Quốc Âm bằng thơ Nôm lục bát. Ông tịch năm 1733, lúc mới được ba mươi bảy tuổi, có để lại bài kệ sau đây:
Gốc bắt nguồn từ nơi không gốc
Từ vô vi mà đến
Lại đi về vô vi
Ta không đến không đi
Tử sinh làm sao hệ lụy được?
(Bản tùng vô bản
Tùng vô vi lai
Hoàn tùng vô vi khứ
Ngã bản vô lai khứ
Tử sinh hà tằng lụy?)
Thiền sư Tính Dược đệ tử ông, được chỉ định trú trì chùa Liên Tông, còn thiền sư Tính Ngạn trú trì chùa Hàm Long. Ngoài hai vị đệ tử lớn này, ông còn có nhiều đệ tử cao tăng khác: Tính Tuyền, Tịch Dự, Vũ Hoa, Chính Tâm, Phổ Toán và Thông Vinh. Tính Tuyền được ông gửi sang Trung Hoa du học và thỉnh kinh. Vị này lưu học tại chùa Khánh Vân tại núi Ðỉnh Hồ ở Quảng Châu sáu năm[13], khi về có thỉnh theo được ba trăm bộ kinh và luật, cả thảy hơn một ngàn cuốn. Gần hai trăm bộ kinh đã được khắc bản và in lại để phổ biến trong xứ. Nhiều bản gỗ còn được chứa cất tại các chùa Sùng Phúc và Kiến An.
Chùa Liên Tông sau này cũng được gọi là chùa Liên Phái, trung tâm của hệ phái do thiền sư Như Trừng thành lập. Các chùa Hộ Quốc, Hàm Long, Sùng Phước, Nghiêm Xá, Thiên Quang, Phước Ân, Vân Trai, v.v… đều là những tổ đình thuộc phái này.
CÔNG TÁC TRÙNG SAN NHỮNG TÁC PHẨM PHẬT HỌC LÝ TRẦN
Như đã nói, vì rất có ý thức về một nền Phật giáo dân tộcnên thiền sư Chân Nguyên đã khuyến khích môn đồ gắng sức phục hưng các tác phẩm Lý – Trần. Ông đã trùng khắc Thánh Ðăng Lục và trước tác sách Thiền Tông Bản Hạnh. Sau đây ta hãy xét về công tác trùng san những tác phẩm khác tiếp theo sau đó.
Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục
Như đã nói trong chương IV, sách này do công phu nhiều người biên soạn, bắt đầu từ đời Lý. Trong số những người có công ta phải kể thiền sư Thông Biện, thiền sư Thường Chiếu, thiền sư Thần Nghi và thiền sư Ẩn Không. Bản in cổ nhất còn lại là bản in năm 1715 do thiền sư Như Trí thực hiện. Bản in năm 1859 do Phước Ðiền thực hiện có ghi là in theo bản cũ chùa Tiêu Sơn. Bản cũ chùa Tiêu Sơn có thể là bản in năm 1715 của Như Trí. Ta biết rằng Chân Nguyên tịch 1726, vậy sách Thiền Uyển Tập Anh đã được trùng khắc trong khi ông còn sống. Thiền sư Như Trí có thể là pháp tử của thiền sư Chân Nguyên, nếu không thì cũng là pháp điệt của thiền sư này. Ðiều lạ là tại sao ông không đến nhờ Chân Nguyên hiệu đính và đề tựa cho cuốn sách trước khi khắc bản mà lại đi nhờ một nhà Nho không mấy thông hiểu về Phật học. Hay tại chùa Tiêu Sơn ở huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh xa cách chùa Long Ðộng ở Yên Tử chăng?
Sau đây là một đoạn trích trong bài tựa của nhà Nho kia mà tên tuổi cũng không còn được giữ lại:
“Sau buổi giảng dạy ở Chiên đường, tôi thấy một thiền giả đến đàm luận về đạo Phật. Những chuyện chúng tôi đàm đạo đều thuộc về những vấn đề của đạo Phật như biểu tượng lông rùa sừng thỏ. Rồi lấy trong tay áo ra một cuốn lục tên là Tập Anh nhờ tôi xem và khảo đính để tránh những lỗi lầm trước khi khắc in lại. Thấy trong bộ lục này có nhiều vị cao thiền danh tổ, sức học cao viễn, đạo đức linh diệu, bất giác tôi thấy trong lòng nảy sinh ra sự kính phục. Những bậc này đàm luận về Chân Không, thuyết pháp về Giác Ngộ, đề tài vốn không nằm trong phạm vi nghiên cứu của tôi. Nhưng vì Kinh Dịch có nói: “không phải ta hỏi đứa bé mà đứa bé hỏi ta”, cho nên tôi không thể không chiều lòng. Tôi sửa chữa lại những chỗ sai, bổ túc những nơi thiếu sót. Trong vòng mười lăm hôm, bộ lục này lấy lại được văn thể nghĩa lý ngày xưa, như là mặt trăng thêm sáng. Vị tăng lại còn nhờ tôi viết một bài tựa khắc thêm vào đầu sách để làm sáng cho lời Phật dạy. Tôi không tiếc công, liền gọi người nhà mang giấy bút tới và viết những dòng thô sơ này. Vị tăng liền cảm ơn và nhận lấy”.
Dưới bài tựa có câu: “Trùng khắc vào một ngày tháng Tư năm Vĩnh Thịnh thứ 11, triều Lê”, nhờ đó mà ta biết được là sách được trùng khắc vào năm 1715. Tiếp đó là một danh sách các đệ tử xuất gia và tại gia của Như Trí, có lẽ là những người đã có công trong việc trùng khắc. Những đệ tử xuất gia toàn là những sa di: Tính Như, Tính Trung, Tính Kiến, Tính Quán, Tính Huy, Tính Bản. Ðiều này cho ta biết là vào năm trùng khắc Thiền Uyển Tập Anh, Như Trí chưa có đệ tử nào thọ tỳ khưu giới, và do đó ông còn đang trẻ, vào khoảng bốn mươi tuổi.
Kế Ðăng Lục
Tên đầy đủ của sách này là Ngự Chế Thiền Uyển Thống Yếu Kế Ðăng Lục, sách do thiền sư Như Sơn chùa Hồng Phúc soạn. Sở dĩ có chữ ngự chế là vì sách này được soạn thảo dưới sự bảo trợ của vua Lê Thuần Tông. Sách được khắc bản năm 1734, tám năm sau khi Chân Nguyên viên tịch. Sách viết theo thể tài của sách Ngũ Ðăng Hội Nguyên bên Trung Hoa, nhưng nội dung sách phần lớn chỉ để viết về tiểu sử của những vị tổ sư Ấn Ðộ và Trung Hoa. Về phái Lâm Tế ở Việt Nam, sách chỉ có tiểu truyện của ba vị thiền sư: Chuyết Chuyết, Minh Lương, và Chân Nguyên. Về phái Tào Ðộng ở Việt Nam, sách chỉ có tiểu truyện của hai vị thiền sư: Thủy Nguyệt và Tông Diễn. Ðã vậy, sách không có nhiều giá trị sử học. Tiểu truyện đã không ghi năm sinh và năm tịch của các thiền sư mà nhiều lúc lại còn ghi chép sai lạc theo kiểu “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Ví dụ đoạn vấn đáp sau đây vốn là câu chuyện giữa thiền sư Viên Chiếu (998 – 1090) và một đệ tử, chép trong sách Thiền Uyển Tập Anh mà Như Sơn lại đưa vào sách Kế Ðăng Lục, cho là cuộc đối thoại của Chuyết Chuyết và Ðà Ðà:
– Nghĩa Phật và Thánh khác nhau thế nào?
– Cúc trùng dương dưới giậu
Oanh thục khí đầu cành
– Ðệ tử chưa hiểu!
– Ngày quạ vàng chiếu rặng
Ðêm thỏ ngọc sáng soi.
Ðoạn đối thoại sau đây vốn là câu chuyện giữa Vân Phong (mất năm 956) và Thiện Hội (mất năm 950), chép trong Thiền Uyển Tập Anh, đã được Như Sơn đưa vào Kế Ðăng Lục để làm cuộc đối thoại giữa Minh Lương và Chân Nguyên.
– Sinh tử đến, làm sao mà tránh thoát?
– Thì tránh vào chỗ vô sinh vô tử.
– Chỗ vô sinh vô tử là chỗ nào?
– Nó nằm ngay trong chỗ sinh tử.
Có lẽ Như Sơn không được đọc sách Thiền Uyển Tập Anh cho nên mới phạm vào những lỗi lầm to lớn trên.
Ðến năm 1859, trước khi trùng khắc Kế Ðăng Lục, thiền sư Phúc Ðiền thêm vào sách ấy tiểu truyện của năm vị thiền sư Việt Nam nối dòng Chân Nguyên. Cách thức biên tập của Phúc Ðiền vượt hẳn cách thức của Như Sơn: Phúc Ðiền có ghi rõ ngày tháng và chi tiết có liên hệ tới đời sống và sự hành đạo của các thiền sư. Tuy nhiên, Phúc Ðiền đã không chữa lại những sai lầm mà Như Sơn đã mắc phải, có lẽ vì sợ mang tiếng bất kính đối với một vị tổ sư. Bài tựa sách Kế Ðăng Lục của Như Sơn không cho ta một dữ kiện lịch sử nào trừ ngày tháng và địa điểm mà bài tựa ấy đã được viết.
Như Sơn soạn Kế Ðăng Lục tại chùa Hồng Phúc. Một người đệ tử ông là sa di Tính Chúc giúp về việc thẩm duyệt. Hai người đệ tử khác: sa di Tính Phái và Tính Hiển giảo chính. Ba vị đều là sa di. Ðiều này cho ta thấy Như Sơn hồi đó chưa có đệ tử thọ giới tỳ khưu, do đó tuổi ông còn độ vào trạc tứ tuần.
Năm 1907, sách Kế Ðăng Lục lại được chùa Nguyệt Quang ở Ðông Khê trùng khắc một lần nữa.
Thánh Ðăng Lục
Như đã nói trong chương XVIII, sách này do Chân Nghiêm trùng san năm 1550. Chân Nguyên trùng san lần nữa năm 1705, và Tính Lương trùng san lại một lần nữa năm 1750, lần này do Tính Quảng đề tựa. Trong bài tựa, Tính Lương nói: “Ngày xưa, thầy tôi là Tuệ Ðăng Hòa Thượng…”. Có thể Tính Lương đã được gặp mặt Chân Nguyên (Tuệ Ðăng) lúc ông này còn sống, nhưng Chân Nguyên không phải là bổn sư trực tiếp của Tính Lương. Cũng như Tính Quảng, Tính Lương thuộc về thế hệ của chữ Tính trong bài kệ truyền pháp của Minh Hành, do đó họ phải thuộc về thế hệ đệ tử của thế hệ mang chữ Như, như là Như Hiện, Như Trừng, Như Thị…
Thượng Sĩ Ngữ Lục
Tên đầy đủ của sách là Trần Triều Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục. Sách này do Pháp Loa biên tập, Trúc Lâm Ðiều Ngự khảo đính và Trần Khắc Chung đề bạt. Sách được in nhiều lần trong đời Trần. Tuệ Nguyên chùa Long Ðộng núi Yên Tử trùng khắc vào năm 1763, tức là hai năm trước khi thiền sư Như Hiện qua đời. Tuệ Nguyên có viết một bài tựa, nhưng không cho ta biết sách được in lại căn cứ vào bản in nào. Ðến năm 1903, sa môn Thanh Cừ chùa Pháp Vũ in lại, chung với sách Tam Tổ Thực Lục.
Khóa Hư Lục
Sách này của Trần Thái Tông soạn, được in nhiều lần trong đời Trần. Bản in của Hội Phật giáo Bắc Kỳ năm 1943 đã căn cứ trên bản in của chùa Quất Tụ năm 1850; mà bản của chùa Quất Tụ đã căn cứ trên bản in của chùa Hoa Yên do Tuệ Hiền thực hiện. Tuệ Hiền cũng ở chùa Yên Tử như Tuệ Nguyên (người trùng san Thượng Sĩ Ngữ Lục), có lẽ hai người là đồng sư với nhau. Vậy có thể là bản in Khóa Hư Lục của chùa Hoa Yên đã được Tuệ Hiền thực hiện vào khoảng giữa thế kỷ thứ mười tám.
Tam Tổ Thực Lục
Phần thứ nhất của sách này nói về đời Trúc Lâm Ðiều Ngự, không đề tên người biên tập. Theo nguyên tắc thì Bảo Sát hay Pháp Loa phải là người biên tập phần này, vì họ là người kế thừa của Trúc Lâm Ðiều Ngự. Pháp Loa là đệ nhị tổ Trúc Lâm.
Phần thứ hai của sách nói về đời Pháp Loa, do thị giả của Pháp Loa là Trung Minh biên tập và Huyền Quang, đệ tam tổ của Trúc Lâm hiệu đính.
Phần thứ ba của sách, nói về đời Huyền Quang, không biết do ai soạn[14].
Bản in cổ nhất của Tam Tổ Thực Lục hiện có là bản in năm 1765, sau ngày Tuệ Nguyên trùng khắc sách Thượng Sĩ Ngữ Lục hai năm, chưa rõ là do ai thực hiện. Tựu trung, ta có thể nói là người trùng khắc cũng thuộc về môn phái Trúc Lâm. Sau bản in này là bản in năm 1897, rồi đến bản in năm 1903 do Thanh Cừ chùa Pháp Vũ thực hiện. Bản này được in chung với Thượng Sĩ Ngữ Lục và có mang bài tựa của Thanh Cừ.
Ðại Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục
Sách này do hòa thượng Phúc Ðiền chùa Bồ Sơn thực hiện. Sách này có hai tập: tập thứ nhất in lại sách Thiền Uyển Tập Anh; tập thứ hai gồm có các sách Tam Tổ Thực Lục, Thiền Điển Thống Yếu Kế Ðăng Lục và một số tài liệu khác mà Phúc Ðiền gọi là “ngoại khoa tạp lục”[15].
Sách được ấn hành năm 1859. Nhưng trước đó một năm, Phúc Ðiền đã bổ túc sách Kế Ðăng Lục với tiểu truyện của năm vị thiền sư phái Lâm Tế. Vì sách Kế Ðăng Lục có ba quyển cho nên khi cộng với sách Thiền Uyển Tập Anh và Tam Tổ Thực Lục, tất cả trở thành năm quyển. Vì vậy bài tựa của Phúc Ðiền được gọi là Truyền Ðăng Ngũ Quyển Tân Tự (bài tựa mới của sách Truyền Ðăng Năm Quyển).
Có thể rằng bài tựa này đã được viết sau khi quyển một của Ðại Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục đã in xong và bản gỗ còn lưu lại chùa Liên Tông. Sau đó gần một năm thì quyển hai cũng được in xong, bản gỗ lưu lại chùa Bồ Sơn. Ðầu bài tựa có dòng chữ: “San khắc Truyền Ðăng thủ Trần gia bản”, có nghĩa là “khắc lại sách Truyền Ðăng mà sách nhà Trần để đầu”, “sách nhà Trần” đây là Tam Tổ Thực Lục vậy.
Sau đây ta hãy đọc vài đoạn trong bài tựa quan trọng này để thấy sự hình thành của Truyền Ðăng Tập Lục: “Nước ta xưa kia có bộ lục Thiền Uyển tên là Tập Anh chép đại khái về các bậc thạc đức cao tăng của ba triều đại. Tuy vậy nội dung lỗ mỗ bất nhất, văn mạch khó phân, cho nên (đã) hiệu đính lại, viết cho rõ ra để khắc bản ấn hành mà bảo tồn bản cũ, làm thành quyển thượng. Ðến triều Trần, có sách Thánh Ðăng Lục[16], một quyển, ghi chép về ba tổ đời Trần, có sự tích nhưng không có hình ảnh. Rồi đến đời Hậu Lê, Như Sơn tổ sư tuân thừa sách Ngũ Ðăng Hội Nguyên, tuyển thành ba quyển, có hình ảnh có sự tích, từ Phật Uy Âm cho đến bảy Ðức Thế Tôn, cho đến bốn mươi bảy vị tổ Tây Trúc và hai mươi ba vị tổ Trung Hoa, cùng pháp phái Lâm Tế tại nước ta, ba vị tổ Chuyết Chuyết, Minh Lương và Chân Nguyên, sau nữa là tông phái Tào Ðộng với hai thiền sư Thủy Nguyệt và Tông Diễn. Về tông phái Lâm Tế, từ Cứu Sinh thượng sĩ trở về sau chưa được chép vào, do đó lão tăng thuận theo thứ tự truyền đăng, chép tiếp tiểu sử năm vị tổ sư, có hình ảnh và sự tích...[17] Lão tăng đau xót nghĩ rằng ngọn đèn của chư tổ đã sắp tàn rụi, cho nên đem hết tâm lực mình gom góp các lục, từ bộ nói về ba tổ đời Trần, đến bộ nói về hai phái Lâm Tế và Tào Ðộng, gồm cả chân đế và tục đế, làm thành một tập, thêm vào đó những tạp lục ngoại khoa, làm thành quyển hạ, khiến cho pháp được truyền và đèn được nối. Một ngày tháng 11 năm Mậu Ngọ, nhằm năm Tự Ðức thứ mười một, thầy giám tự chùa Bồ Sơn pháp danh là Phương Viên và tăng chúng môn đồ xin đem về chùa san khắc. Ðêm 13 tháng ấy, thầy giám tự chùa Liên Phái, pháp danh là Thanh Chiêu, nằm mơ thấy một vị thần tăng nói: “Nhờ đại đức hãy cùng đi với tôi tới chùa Báo Thiên xem coi sách Phật Tổ Thống Kỷ[18] đã khắc xong chưa?” Thầy Thanh Chiêu đáp: “Bộ sách đã khắc xong, hiện nay bản gỗ được lưu lại chùa Liên Phái”. Vị thần tăng hỏi: “Tôi muốn hỏi bản sách mới soạn để nối vào sách Thống Kỷ kia. Bản này đã khắc xong chưa?” Ðáp: “Bản này hiện đang để tại Bồ Sơn tự, đang còn khắc bản, chưa xong”. Thầy giám tự thức giấc, sáng ấy tới chùa Báo Thiên kể lại chuyện thần tăng ứng mộng cho tôi nghe. Nghe xong tôi vui mừng quá đỗi. Có thần tăng chứng minh, tôi xin tất cả các vị có mặt phát tâm hoan hỷ bình đẳng, đừng sinh tâm hữu vô, đắc thất, thị phi, nhân ngã, tồn vong, bỉ thử, thì lão tăng này rất lấy làm hy vọng vạn lần vậy.
Tự Ðức năm thứ mười hai, ngày 30 tháng Giêng năm Kỷ Mùi, chùa Bồ Sơn, hòa thượng Phúc Ðiền, có giới đao và độ điệp soạn; giám tự pháp danh Phương Viên thừa lệnh khắc bản; chưởng lãnh binh tỉnh Sơn Tây là Lê Thuận Chiếu pháp danh Ðại Tuệ hưng công, môn nhân là Văn Ðường vâng mệnh viết ra”.
Bản in Thiền Uyển Tập Anh năm 1715 còn được giữ lại, tự nó cũng được chia làm hai quyển thượng và hạ. Tờ thứ tư có đề chữ quyển thượng và tờ thứ 72 có đề chữ quyển hạ chung (hết quyển hạ). Trong khi Trùng Khắc Ðại Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục thì lấy toàn bộ sách Thiền Uyển Tập Anh làm quyển thượng; tờ 1 có ghi hai chữ quyển thượng, và tờ 65 có ghi bốn chữ quyển thượng chung tất (hết quyển thượng).
Trong bản in Thiền Uyển Tập Anh năm 1715 còn được giữ lại, người ta cũng đã đóng lộn vào ba tờ vốn thuộc vào Trùng Khắc Ðại Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Lục quyển hạ. Ba tờ này được đóng chen vào giữa tờ 3 và tờ 4 của sách Thiền Uyển Tập Anh. Có nhiều lý do khiến ta nói vậy. Lý do thứ nhất là ngoài lề mỗi tờ, có dòng chữ: Thiền Uyển Truyền Ðăng Lục quyển hạ. (Thiền Uyển Truyền Ðăng Lục là tên gọi tắt của Trùng Khắc Ðại Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục) dùng để in vào lề mỗi tờ, quyển thượng cũng như quyển hạ. Lý do thứ hai là kiểu chữ, giấy in, số chữ mỗi trang và mỗi dòng của ba tờ này khác hẳn với Thiền Uyển Tập Anh mà lại giống hệt với Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục (mỗi trang của Thiền Uyển Tập Anh có 22 dòng, mỗi dòng có 34 chữ, trong khi mỗi trang Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục có 20 dòng, mỗi dòng có 42 chữ). Lý do thứ ba là ba tờ ấy không nằm đúng vị trí của nó trong sách Thiền Uyển Tập Anh, từ hình thức đến nội dung. Về hình thức, ba tờ ấy vốn được đánh số 8, 9, 10, không thể nằm xen kẽ giữa tờ 3 và 4 của sách Thiền Uyển Tập Anh. Về nội dung, ba tờ ấy có hình vẽ và tiểu dẫn về ba vị tổ Trúc Lâm đời Trần, không dính dấp với nội dung của Thiền Uyển Tập Anh vốn chỉ chứa đựng những tài liệu về các thiền sư trước Trần.
Xem bài tựa của Phúc Ðiền rồi xét những điểm vừa nêu đó, ta thấy tác phẩm của Phúc Ðiền là một tập đại thành của những tác phẩm có tính cách truyền đăng do người Việt sáng tác từ trước tới giờ. Môn phái Trúc Lâm do Chân Nguyên phục hưng đã làm được những công trình đáng kể, trong đó việc trùng san để duy trì những tác phẩm Phật giáo Lý Trần rất đáng để cho chúng ta biết ơn. Trước họ, ta chỉ thấy có một Lương Thế Vinh đề tựa cho Nam Tông Tự Pháp Ðồ (thế kỷ thứ mười lăm), một Chân Nghiêm trùng san Thánh Đăng Lục (thế kỷ thứ mười sáu) và một Tuệ Tĩnh[19] phiên dịch Khóa Hư Lục (nửa đầu thế kỷ thứ mười bảy). Tiếc là những môn đệ của Chân Nguyên đã không tìm ra được những sách như Nam Tông Tự Pháp Ðồ, Nam Minh Thiền Lục, Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Ðại Hương Hải Ấn Thi Tập… Binh lửa và bàn tay tiêu diệt văn hóa của người Minh đã làm nghèo đi rất nhiều kho tàng văn hóa Phật giáo Lý – Trần để lại.
[1] Louis Bezacier, trong cuốn L’Art Vietnamien (Nhà xuất bản Editions de l’Union francaise, Paris 1954) nói rằng những bản khắc này gần đây đã bị người ta lấy làm củi nấu cơm, cho nên trường Viễn Ðông Bác Cổ Hà Nội đã cho người đến khiêng về lưu trú tại trường.
[2] Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc là con gái của chúa Trịnh Tráng. Bà là chính cung của vua Lê Thần Tông, tức là Lê Duy Kỳ. Bà thường được người ta gọi là Bà Chúa Kim Cương. Khi xuất gia với Chuyết Chuyết, bà được pháp danh là Diệu Viên, hiệu là Pháp Tính. Bà có soạn thảo bộ Tự Ðiển Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa bằng thơ lục bát, những từ ngữ cả Hán và Nôm cộng lại cả thảy là 20.000 chữ. Từ ngữ Hán được chia ra ba mươi loại như: thiên văn, địa lý, thân thế, nông vụ, cầm, thú, hôn nhân, âm nhạc, hội họa, kiến trúc, thảo mộc, văn nghệ, y lý, dược thảo, tang lễ, v.v… (Bia chùa Ninh Phúc ở Bút Tháp, dựng năm 1647).
Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên là con của bà Trịnh Thị Ngọc Trúc, và là cháu gái của chúa Trịnh Tráng. Bà xuất gia năm 26 tuổi, pháp danh là Diệu Tuệ. Bà học Phật dưới sự chỉ dạy của Minh Hành. Năm 1659, sau khi Minh Hành tịch, bà được chỉ định làm tọa chủ chùa Phật Tích. Bà tịch năm 1664, lúc 49 tuổi.
[3] Minh Hành mất năm 1659 tức là năm Kỷ Hợi.
[4] Louis Bezacier, sách đã dẫn.
[5]. Thiền Tông Bản Hạnh.
[6] Thiền Tông Bản Hạnh.
[7] Thiền Tông Bản Hạnh.
[8] Thiền Tông Bản Hạnh.
[9] Thiền Tông Bản Hạnh.
[10] Thiền Tông Bản Hạnh.
[11] Ðây là đoạn văn liên hệ dịch từ kinh Lăng Già:
“Này, Ðại Tuệ, không phải trong mọi thế giới đều có sự sử dụng ngôn thuyết. Ngôn thuyết là tác động vào tai. Ở nhiều nước Phật, người ta giáo hóa bằng nét mặt, hoặc bằng cách nhướng mắt, hoặc nhíu lông mày, hoặc mỉm cười, hoặc đằng hắng, hoặc nháy mắt, hoặc tư duy trầm lặng, hoặc dao động thân thể. Này Ðại Tuệ, như các cõi Chiêm Thị và Hương Tích, cõi của Phổ Hiền Như Lai, người ta chỉ cần sử dụng cái nhìn mà cũng đủ làm cho các vị Bồ tát chứng được Vô Sinh Pháp Nhẫn (Anutpatti- kadharmakshànti), và các quả Tam Muội lớn lao khác. Phật lại bảo Ðại Tuệ: Xem ngay trong thế giới này, ta cũng thấy các loài như ong, kiến, không hề dùng tới ngôn ngữ mà vẫn có thể thi hành với nhau được bao nhiêu việc”.
[12] Thiền sư Tính Tĩnh họ Trần, sinh năm 1692 ở Ðông Khê. Sau khi đắc pháp với Như Hiện, ông trú trì tại chùa Nguyệt Quang.
[13] Tính Tuyền sinh năm 1674, xuất gia tại chùa Liên Tông năm 12 tuổi. Qua Trung Hoa năm 22 tuổi, ông học Phật và thọ giới với thiền sư Kim Quang Ðoan tại chùa Khánh Vân. Ngày ông xuất dương, thiền sư Như Trừng có làm bài kệ sau đây để tiễn đưa:
Gương cổ thiền lâm bụi bám đầy
Vị pháp quên mình đã mấy ai?
Tham vấn gương xưa còn nhắc nhở
Tám lần hành cước gắng hôm mai!
(Thiền lâm cổ cảnh cửu mai trầm
Vị pháp vong thân kỷ hứa nhân
Ngũ thập tam tham kim cổ tại
Bát tuần hành cước dã tân cần.)
Khi ông về nước thì Như Trừng đã viên tịch. Ông bèn lập đạo tràng tại chùa Càn An, tăng ni khắp chốn đến xin cầu học và thọ giới. Ông có công phục hồi phong thái thiền môn, khích lệ các tự viện chỉnh đốn việc nghiêm trì giới luật; nhờ đó nếp sống thiền gia trở nên có quy cũ trở lại và đức tin của quần chúng nơi tăng đoàn gia tăng gấp bội. Ông tịch năm bảy mươi tuổi, vào năm 1744. Tháp ông được xây tại hai chùa Sùng Phúc và Hàm Long. Ông có để lại bài kệ sau đây:
Ðạo lớn không lời
Vào cửa bất nhị
Pháp môn vô lượng
Ai người thừa kế?
(Chí đạo vô ngôn
Nhập bất nhị môn
Pháp môn vô lượng
Thùy thị hậu côn?)
[14] Xem chương XIV.
[15] Xem chương XIV.
[16] Ðể ý: Phúc Ðiền đã gọi Tam Tổ Thực Lục là Thánh Ðăng Lục.
[17] Năm vị tổ sư mà tiểu truyện đã được Phúc Ðiền đưa vào sách Kế Ðăng Lục là: Như Trừng, Tỉnh Tuyền, Hải Quýnh, Như Hiện và Tính Tĩnh. Tuy nhiên ta còn thấy sau đó tiểu truyện của bốn vị nữa. Đó là tiểu truyện của các vị Kim Liên, Tường Quang, Phổ Tính và Tin Kim. Chắc hẳn các tiểu truyện này đã được những vị hậu bối của thiền sư Phúc Ðiền thêm vào sau này.
[18] Ðây là chỉ cho sách Thiền Uyển Tập Anh, mà lề lối biên tập cũng tương tự với sách Phật Tổ Thống Kỷ của Trung Hoa.
[19] Thiền sư Tuệ Tĩnh sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ mười sáu. Sách Hải Dương Phong Vật Chí nói ông có pháp tự là Vô Dật, pháp hiệu là Thận Trai. Ông người làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ông tu ở chùa Hộ Xá, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Ðịnh. Ông cũng là một dược sư giỏi. Ông là tác giả các sách:
– Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục, bản dịch bằng chữ Nôm
- Nam Dược Thần Hiệu
- Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư
Bài tựa sách Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục được viết năm 1631 cho nên ta biết ông sinh vào cuối thế kỷ thứ mười sáu. Sách Nam Dược Thần Hiệu cũng còn truyền đến ngày nay. Sách Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư được tái bản năm 1717 sau khi chúa Trịnh Cương sai các quan ở Nội Phủ và Y Viện hiệu đính những chữ viết sai và khắc lầm của bản in trước. Người viết chữ để khắc bản in năm 1717 là một thiền sư pháp danh là Pháp Thạnh. Chính sách này cho biết Tuệ Tĩnh ở chùa Hộ Xá. Một phần của sách này được viết bằng Nôm lục bát. Không rõ thiền sư Tuệ Tĩnh tịch vào năm nào. Hiện còn di tích đền thờ ở nguyên quán là làng Văn Thai ở Hải Dương. Dân làng và các làng lân cận còn tiếp tục trồng những dược thảo do ông chỉ dạy.
Sách Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục hiện có là một bản chép tay, có bài tựa của thiền sư Tuệ Duyên chùa Sùng Quang huyện Giao Thủy viết, đề năm Ðức Long thứ ba (1631). Ðể có một ý niệm về văn dịch của Tuệ Tĩnh trong Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục, ta hãy đọc một đoạn trong “Bài tựa Bốn Núi”.
“Nguyên chừng vốn không có tứ đại, chẳng có ngũ ấm. Bởi cái không lại tự tính dấy nhuốm vọng tình, vọng tình bèn hóa nên sắc tướng, tuy đã có sắc tướng, sau lại bại hoại về đường chân không; ấy sự vọng tưởng là theo tính chân không mà tính chân không lại hóa hiện là sắc tướng.
Quen lấy tính chân không, bèn hóa sinh là mọi sắc tướng. Ðã trái chưng trong nghĩa vô sinh vô hóa, bèn mới làm chưng sự luân hồi hữu hóa hữu sinh. Trong lòng đã được nghĩa vô sinh vô hóa, ấy thì chưng sau chẳng có hóa lại chẳng có sinh. Bây giờ chứng minh có làm sự hóa sinh đấy, thì về sau lại phải có sinh cùng có hóa…”
(Nguyên văn của Trần Thái Tông: “Nguyên phù tứ đại bản vô, ngũ uẩn phi hữu. Do không khởi vọng, vọng thành sắc, sắc tự chân không; thị vọng tòng không, không hiện vọng, vọng sinh chủng sắc. Ký bội vô sinh vô hóa, vĩnh vi hữu hóa hữu sinh; vô sinh hóa tắc vô hóa vô sinh, hữu hóa sinh cố hữu sinh hữu hóa..”).