Nền tảng của một nền đạo đức toàn cầu

Kính thưa đại chúng,

Khi nghe một tiếng chuông, chúng ta hãy mời tất cả các tế bào trong cơ thể cùng lắng nghe với ta. Chúng ta biết rằng cha mẹ và ông bà tổ tiên của chúng ta cũng đang có mặt trong từng tế bào của cơ thể ta. Vì vậy khi nghe chuông, chúng ta nghe như thế nào để năng lượng của bình an, của chánh niệm có thể đi vào trong từng tế bào của cơ thể. Đó là sự thực tập lắng nghe sâu.

Nếu chúng ta đã quen với sự thực tập thì khi nghe chuông, chúng ta có thể dễ dàng dừng lại những nghĩ suy, nói năng của mình và để hết sự chú tâm vào hơi thở. Chúng ta thưởng thức hơi thở vào và tự nhủ: “lắng lòng nghe, lắng lòng nghe”, ý thức rằng mọi tế bào trong cơ thể đang lắng nghe tiếng chuông cùng với ta. Và ta để cho tiếng chuông cùng với năng lượng bình an thấm vào trong từng tế bào của cơ thể. Khi thở ra, chúng ta nhủ thầm “Tiếng chuông huyền diệu đưa về quê hương”. Quê hương đích thực của chúng ta là bây giờ và ở đây. Chỉ trong giây phút hiện tại này, sự sống mới có mặt. Và khi 1000 người cùng thở như vậy thì năng lượng bình an và chánh niệm sẽ hùng hậu vô cùng. Năng lượng đó rất nuôi dưỡng và trị liệu. Nếu có các em nhỏ ngồi cùng với ta thì các em sẽ cảm nhận ngay được năng lượng đó.

 

Thầy và trẻ em Hà Lan 2006

Sư Ông và trẻ em Hà Lan

Điều lợi lạc nhất mà chúng ta được hưởng từ một khóa tu chính là năng lượng chánh niệm tập thể này. Nguồn năng lượng chánh niệm, bình an và thương yêu đó có công năng trị liệu cho chúng ta. Khi chúng ta đi thiền hành cũng vậy. Nếu tất cả mọi người cùng chú tâm vào hơi thở và từng bước chân trong khi đi thiền hành thì chúng ta cũng sẽ chế tác được năng lượng tập thể rất hùng hậu, đó là năng lượng của bình an, chánh niệm và niềm vui.

Khi nói đến một nền đạo đức toàn cầu, chúng ta nói đến một sự thực tập tâm linh mà bất kỳ ai cũng có thể thực tập, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, quốc gia, văn hóa. Chúng ta không cần phải là một Phật tử mới có thể thực tập hơi thở chánh niệm. Hay nói  cách khác, chỉ cần ta thở có chánh niệm thì lập tức ta có được niềm vui, hạnh phúc và trị liệu. Trong đạo Bụt, chúng ta biết rằng đạo Bụt được làm từ những yếu tố không phải là đạo Bụt. Cũng giống như một bông hoa. Khi nhìn vào một bông hoa, ta thấy bông hoa được làm từ những yếu tố không phải là hoa. Nhìn vào bông hoa, ta có thể thấy được ánh nắng mặt trời. Ánh nắng mặt trời không phải là bông hoa nhưng nếu không có ánh mặt trời thì bông hoa không thể nào có mặt. Trong bông hoa đó, ta còn có thể thấy mây, thấy mưa. Mây và mưa không phải là hoa, nhưng nếu không có những yếu tố không phải là hoa này thì bông hoa không thể nào biểu hiện được.

Thiền có nghĩa là nhìn sâu, và khi nhìn sâu vào một đối tượng nào đó, chẳng hạn như một bông hoa, ta sẽ có được một cái thấy (insight) là bông hoa đó được làm bằng những yếu tố không phải là hoa, và nếu ta lấy những yếu tố không phải là hoa đó ra khỏi bông hoa thì bông hoa không thể nào tiếp tục tồn tại. Đạo Bụt cũng tương tự như vậy. Đạo Bụt được làm từ những yếu tố không phải là đạo Bụt. Và nếu ta có được tuệ giác đó thì sẽ không còn bất kỳ một chủ nghĩa nào, một học thuyết nào hay một tôn giáo nào có thể tạo ra sự chia rẽ, sợ hãi và hận thù được nữa. Vì vậy, có thể nói rằng một người không phải là Phật tử vẫn hoàn toàn có thể thực tập chánh niệm.

Sự thực tập chánh niệm – sự thực tập của một nền đạo đức toàn cầu (global ethics) – đem lại cho chúng ra rất nhiều lợi lạc, thể hiện ở nhiều khía cạnh:

Sự thực tập chánh niệm có thể giúp ta buông bỏ những căng thẳng trong thân

Điều này không chỉ người lớn mới có thể làm được mà trẻ con cũng có thể làm được. Ở Làng Mai, chúng tôi đã tổ chức nhiều khóa tu cho trẻ em, và chúng tôi thấy rằng các em thực tập rất giỏi. Trẻ em có khả năng an trú trong hiện tại còn giỏi hơn cả người lớn. Trong thân của chúng ta có rất nhiều căng thẳng và chúng ta đã để cho những căng thẳng này tích tụ trong một thời gian dài, đây chính là yếu tố căn bản làm phát sinh các loại bệnh tật. Vì vậy, sự thực tập hơi thở chánh niệm có khả năng giúp chúng ta buông bỏ những căng thẳng trong thân, và chúng ta có thể thực tập khi đang ngồi trên xe bus hay trong lớp học hoặc ở sân bay.

Thực tập hơi thở chánh niệm có thể giúp ta buông bỏ căng thẳng và khi căng thẳng không còn thì những đau nhức trong cơ thể chúng ta cũng giảm bớt rất nhiều. Sở dĩ chúng ta hay đau nhức là vì có sự căng thẳng trong thân, vì vậy nếu buông bỏ được căng thẳng thì ta cũng đồng thời làm giảm những đau nhức trong thân. Dù trong bất kỳ tư thế nào, khi đứng, khi ngồi, khi nằm hay khi đi, ta vẫn có thể thực tập buông thư cơ thể.

Khi ngồi thiền, ta có thể thực tập buông hết những căng thẳng trên khuôn mặt, trên hai bờ vai và ta chỉ ngồi yên để thưởng thức hơi thở vào và hơi thở ra. Ta không vật lộn, đè nén  trong khi ngồi thiền, ta để cơ thể hoàn toàn buông thư, buông thả hết những căng thẳng trong thân. Có khoảng 300 cơ trên khuôn mặt của chúng ta, vì vậy mà khi ta căng thẳng thì khuôn mặt của ta sẽ không đẹp chút nào. Nhưng nếu ta biết thở, biết cười thì tất cả những căng thẳng trong 300 cơ  mặt sẽ tan biến rất nhanh. Ai trong chúng ta cũng có thể học được cách buông thư những căng thẳng trong thân dù là khi đang ngồi hay nằm hay đang đi. Chúng ta có thể thực tập bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu.

Sự thực tập chánh niệm giúp ta chế tác niềm vui, niềm hạnh phúc

Một người thực tập giỏi là người có thể chế tác niềm vui (hỷ), niềm hạnh phúc (lạc) bất cứ khi nào người đó muốn. Đây là điều tương đối đơn giản mà ai cũng có thể làm được. Chúng ta biết rằng khi ta thở vào và đặt sự chú tâm vào hơi thở vào, ta sẽ đưa tâm trở về với thân, và khi thân tâm hợp nhất, ta mới có thể thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Chỉ trong trạng thái thân tâm nhất như ta mới thực sự sống, thực sự có mặt, và ta có cơ hội tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong ta và xung quanh ta. Khi đó, ta sẽ nhận ra những điều kiện hạnh phúc đang có sẵn đó cho ta, ta có biết bao nhiêu điều để hạnh phúc.

Chánh niệm cho ta thấy rằng ta đang rất may mắn, may mắn hơn rất nhiều người. Chẳng hạn như khi ta thở vào và chú tâm vào đôi mắt: “Thở vào, tôi ý thức về đôi mắt của tôi”, đó gọi là chánh niệm về mắt. Năng lượng chánh niệm mang lại cho ta một cái thấy ngay lập tức: “Ồ, hai mắt mình vẫn còn sáng”, và vì hai mắt ta vẫn còn sáng nên ta có thể tận hưởng một thiên đường của hình ảnh và màu sắc. Ta chỉ cần mở mắt ra thôi là có cả một thiên đường. Trong khi đó, đối với những người bị mất thị giác thì thiên đường đó không còn dành cho họ, vì vậy mơ ước lớn nhất của họ là có lại được một đôi mắt sáng như xưa. Vì vậy, khi tiếp xúc với hai mắt còn sáng, ta tiếp xúc được với một trong những điều kiện hạnh phúc mà chúng ta đang có trong giây phút hiện tại.

 

 

Còn có cả hàng ngàn những điều kiện tương tự như vậy trong cơ thể chúng ta. Khi ta thở vào và tiếp xúc với trái tim, “thở vào, tôi ý thức về trái tim tôi”, ta khám phá ra trái tim ta vẫn đang hoạt động một cách bình thường. Thật là hạnh phúc khi có một trái tim hoạt động bình thường, bởi vì có nhiều người bị đau tim, họ đêm ngày chỉ mong ước cho trái tim của họ hoạt động trở lại bình thường. Họ mơ ước có một trái tim khỏe mạnh như trái tim của chúng ta. Vì vậy, có một trái tim hoạt động bình thường là một điều kiện hạnh phúc nữa mà ta đang có.

Khi thực tập quán niệm thân thể, quán thân trong thân, ta trở về tiếp xúc với toàn bộ cơ thể, khi đó, ta khám phá ra rằng có quá nhiều những điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong ta và xung quanh ta. Ta có bao nhiêu điều để mà vui mừng, để mà hạnh phúc liền ngay bây giờ và ở đây. Ta không cần phải chạy về tương lai để tìm kiếm thêm những điều kiện hạnh phúc, bởi vì ta đã có quá đủ, nếu không muốn nói là dư thừa, những điều kiện để có thể hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Do đó, với ý thức sáng tỏ đó, một người thực tập giỏi có thể  làm phát khởi một cảm thọ vui mừng (hỷ), một niềm hạnh phúc (lạc) bất cứ khi nào người đó muốn. Chỉ cần dùng chánh niệm để tiếp xúc với những điều kiện hạnh phúc đang có sẵn trong mình và xung quanh mình thì mình sẽ có hỷ, có lạc liền lập tức.

Khi thực tập chánh niệm – nền tảng của đạo đức toàn cầu (global ethics), chúng ta cần phải học cách buông bỏ những căng thẳng trong thân thể, làm lắng dịu những đau nhức trong thân và chế tác hỷ, lạc. Người Pháp có một bài hát khá nổi tiếng, đó là bài “Qu’est qu’on attend pour être heureux?”, nghĩa là: chúng ta còn cần thêm gì nữa, còn chờ đợi gì nữa mà không hạnh phúc liền giây phút này?

Sự thực tập chánh niệm còn giúp chúng ta chăm sóc một niềm đau, nỗi khổ

Khi một cảm thọ đau buồn phát khởi, một người thực tập chánh niệm sẽ biết phải làm gì để chăm sóc cảm thọ đó. Một người thực tập giỏi là người có khả năng xử lý, điều phục một cảm xúc mạnh hay một niềm đau khi chúng phát khởi. Chỉ cần thực tập trong vòng vài phút là người đó cảm thấy nhẹ nhàng liền. Nếu tiếp tục thực tập sâu hơn nữa, người đó sẽ có khả năng chuyển hóa cảm thọ đau buồn đó thành một niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì vậy có thể nói, một hành giả giỏi là người biết xử lý khổ đau, người đó không sợ khổ đau. Với năng lượng chánh niệm, người đó biết nhận diện, ôm ấp và làm lắng dịu niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Người đó còn có thể đi xa hơn nữa, đó là chuyển hóa khổ đau trở thành hỷ lạc.

Có một mối liên hệ mật thiết giữa khổ đau và hạnh phúc. Nhiều người trong chúng ta có thói quen trốn chạy khổ đau, chúng ta không hề biết rằng khổ đau cũng có thể rất hữu ích. Nó cũng tương tự như muốn trồng được sen thì cần phải có bùn vậy. Hoa sen không thể nào mọc lên từ cẩm thạch được. Không có bùn thì cũng không có sen. Tương tự như vậy, không có khổ đau thì cũng không có hạnh phúc. Một hành giả giỏi là người biết cách tận dụng khổ đau để làm nên hạnh phúc. Chúng ta có thể nói về lợi ích, về sự cần thiết của khổ đau. Nếu chúng ta biết cách ôm ấp khổ đau với tất cả sự dịu dàng và nhìn sâu vào khổ đau đó, chúng ta sẽ có khả năng chế tác được năng lượng hiểu biết và từ bi – nền tảng của hạnh phúc chân thực. Không thể nào có hạnh phúc thực sự nếu không có hiểu biết và thương yêu. Nếu không có hiểu biết và thương yêu, chúng ta sẽ cô độc, ta không thể nào liên hệ được với bất kỳ ai. Vì vậy chúng ta cần phải biết rằng nền tảng của hạnh phúc chân thực chính là hiểu biết và thương yêu.

Cái hiểu trước hết phải là cái hiểu về khổ đau, khổ đau của chính mình và khổ đau của những người khác. Đối với Thầy, nước Chúa (Kingdom of God) hay cõi Tịnh Độ không phải là một nơi hoàn toàn không có khổ đau. Nếu không có khổ đau thì cũng không có hạnh phúc. Trong đạo Bụt, chúng ta hay nói về tính tương tức của vạn vật. Anh không thể nào có thể tồn tại một cái biệt lập được, anh phải tương tức với mọi người và mọi loài. Chẳng hạn như tờ giấy này, ta thấy có bên phải, bên trái. Nhưng bên trái không thể nào có mặt nếu không có bên phải. Bên trái dựa vào bên phải để biểu hiện. Ta không thể nào lấy bên trái ra khỏi bên phải được. Điều này cũng tương tự như vậy đối với bên phải. Anh không thể nào cử một người đến lấy bên phải mang về Boston và một người khác mang bên trái đi về New York được. Bên phải và bên trái luôn đi đôi với nhau, chúng cần có nhau. Hạnh phúc và khổ đau cũng tương tự như vậy.

Nếu chúng ta gửi con cái của mình đến một nơi không hề có khổ đau thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chắc chắn là chúng sẽ không có cơ hội để hiểu thế nào là từ bi, là thương yêu. Chỉ khi nào tiếp xúc với khổ đau và hiểu về khổ đau thì chúng ta mới có thể làm phát khởi tình thương và lòng từ bi. Chỉ khi nào có bùn thì sen mới có thể mọc được. Vì vậy, ta cần phải thấy được mối liên hệ mật thiết giữa bên trái và bên phải, hạnh phúc và khổ đau, bên trong và bên ngoài, thân và tâm. Chúng ta cần phải học cách buông bỏ cái nhìn nhị nguyên, phân biệt. Một hành giả giỏi là người không chỉ biết cách xử lý khổ đau mà còn biết cách tận dụng khổ đau đó để chế tác chất liệu từ bi, hiểu biết và hạnh phúc.

Nhiều người trong chúng ta có thái độ trốn chạy khỏi khổ đau, đó là một thái độ không khôn ngoan. Sự thật là chúng ta cần phải trở về với chính mình để nhận diện khổ đau nơi mình, lắng nghe, ôm ấp niềm đau và chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều từ khổ đau đó. Nhìn sâu vào khổ đau của chính mình sẽ giúp chúng ta hiểu và thương được chính mình. Chất liệu hiểu biết và thương yêu đó sẽ giúp cho chúng ta chuyển hóa và giúp cho nhiều người khác cũng được chuyển hóa. Đó là lý do vì sao chúng ta nói về lợi ích của khổ đau.

Một hành giả giỏi là người biết lắng nghe. Vì biết lắng nghe chính mình, lắng nghe khổ đau của chính mình nên người đó có khả năng lắng nghe khổ đau của người khác. Có thể vợ hay chồng, hay con cái của mình có một nỗi khổ, niềm đau. Nếu mình hiểu được khổ đau của chính mình thì mình sẽ dễ dàng nhận diện và hiểu được khổ đau nơi những người thương của mình. Ta có thể nhận ra sự có mặt của khổ đau và thấy rằng người đó đang là nạn nhân của khổ đau trong tự thân. Và vì từ trước đến giờ, chưa từng có ai chỉ cho người đó phải làm gì với nỗi khổ, niềm đau trong lòng mình, cho nên người đó tự làm khổ chính mình và làm khổ luôn cả những người mình thương. Có thể ta là người đầu tiên có khả năng giúp cho người đó vơi bớt khổ đau. Với cái thấy đó, ta sẽ không còn giận người đó nữa, trái lại ta muốn làm hoặc nói một điều gì đó để giúp cho người đó bớt khổ. Vì đã biết lắng nghe và hiểu được khổ đau nơi chính mình nên ta có thể dễ dàng hiểu và cảm thông được cho người đó . Bây giờ chính là lúc chúng ta lắng nghe để hiểu khổ đau nơi người đó và giúp cho người đó bớt khổ.

Một hành giả giỏi còn có thể đi xa hơn. Người đó có khả năng lắng nghe với tâm từ bi và có thể sử dụng ngôn ngữ từ ái để giúp cho người đang có nhiều khổ đau có thể mở lòng ra để chia sẻ. Khi một người có quá nhiều khổ đau thì trái tim của họ cũng dường như đóng lại. Vì vậy nếu ta có đủ thương yêu và biết sử dụng ngôn ngữ từ ái thì ta có thể mở cửa được trái tim của người đó và giúp cho người đó trút hết nỗi lòng của mình, nhờ vậy mà họ bớt khổ. “Cha ơi, con biết là cha đã chịu rất nhiều khổ đau trong bao nhiêu năm qua. Con đã không giúp gì được cho cha, mà nhiều khi còn phản ứng lại và làm cho cha buồn khổ thêm. Con xin lỗi cha. Chỉ vì con không hiểu được những nỗi khổ, những khó khăn mà cha phải gánh chịu…Cha hãy giúp con, hãy nói cho con biết về những khó khăn, tuyệt vọng, những niềm đau trong lòng cha…con muốn hiểu cha hơn để con không lập lại những cách hành xử trước đây của mình. Nếu cha không giúp con thì còn ai có thể giúp con?”

Khi trong trái tim ta có đủ tình thương thì ta có thể nói bằng ngôn ngữ như vậy, một loại ngôn ngữ có khả năng mở cửa trái tim của người khác và giúp cho người đó trút hết nỗi lòng của mình. Và khi người đó đã mở lòng chia sẻ thì khi đó ta có cơ hội thực tập lắng nghe với tâm từ bi, hay còn gọi là bi thính. Bi thính là sự thực tập lắng nghe sâu, có khả năng làm cho người khác bớt khổ liền chỉ trong vòng một giờ lắng nghe hoặc có thể ngắn hơn. Trong mỗi người chúng ta đều có một vị Bồ tát Lắng nghe, chúng ta phải giúp cho vị Bồ tát đó sống dậy để chúng ta có thể lắng nghe sâu và làm vơi nhẹ khổ đau trong lòng người. Chỉ cần  lắng nghe với tâm từ bi thôi là ta đã giúp được rất nhiều rồi.

Lắng nghe với tâm từ bi có nghĩa là ta giữ cho chất liệu từ bi luôn có mặt trong trái tim ta trong suốt thời gian lắng nghe. Ta duy trì hơi thở chánh niệm và luôn tự nhắc nhở: mình lắng nghe đây là để cho người kia có dịp nói ra hết những khổ đau trong lòng, nhờ vậy mà họ bớt khổ. Chỉ cần nhớ như vậy thôi! Và nếu ta giữ được ý thức đó thì ta sẽ được bảo hộ bởi năng lượng từ bi, và những gì người kia nói ra sẽ không thể làm cho ta bực bội hay giận hờn vì ta đã được bảo hộ bởi năng lượng từ bi. Nếu ta không thực tập chánh niệm và không có từ bi trong trái tim thì chúng ta sẽ không được bảo vệ và những gì người đó nói ra có thể chứa đầy cay đắng, trách móc và buộc tội, những điều đó có thể làm phát khởi tâm hành buồn giận và bực bội trong ta, ta sẽ không còn có thể tiếp tục lắng nghe được nữa. Và đó là lý do vì sao sự thực tập hơi thở ý thức và duy trì năng lượng từ bi có thể giúp ta trở thành một người thực sự có khả năng lắng nghe.

Và nếu ta có thể lắng nghe với tâm từ bi trong một giờ đồng hồ thôi, ta cũng đã giúp làm vơi nhẹ rất nhiều khổ đau nơi người khác rồi. Ta có thể tự nhủ rằng: người đó đang là nạn nhân của những tri giác sai lầm, nhưng ta sẽ không ngắt lời người đó, không giải thích gì thêm vào lúc này. Nếu làm như vậy thì ta sẽ biến buổi lắng nghe này thành một cuộc tranh cãi và như vậy thì sẽ phá hỏng hết mọi chuyện. Vì vậy ta chỉ lắng nghe thôi và để cho người đó có dịp trút hết nỗi lòng của mình. Khoảng 3-5 ngày sau, ta sẽ tìm cách chia sẻ với người đó những thông tin có thể giúp người đó điều chỉnh lại những tri giác sai lầm của mình, nhưng không phải là bây giờ. Đó là chánh niệm về từ bi. Và nếu ta giữ được sự thực tập chánh niệm về từ bi trong suốt thời gian lắng nghe thì ta có thể giúp được cho người đó, ta sẽ làm cho người đó bớt khổ liền. Khi đó ta đóng vai trò của Bồ tát Lắng nghe Quan Thế Âm, ta chính là một vị Bồ tát. Chỉ cần thực tập trong vòng bốn hoặc năm ngày là đủ để cho ta có thể làm một vị Bồ tát Lắng nghe.

Phép lạ của sự hòa giải

Trong những năm qua, Tăng thân Làng Mai đã tổ chức rất nhiều khóa tu chánh niệm ở  châu Âu, châu Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới. Trong các khóa tu này luôn có những phép lạ xảy ra, phép lạ của sự hòa giải.

Trong bốn ngày đầu tiên của khóa tu, chúng ta để cho những hạt giống tốt trong ta được tưới tẩm, những hạt giống hiểu biết, thương yêu.v.v.. Chúng ta học cách lắng nghe những khổ đau trong lòng mình, học cách chăm sóc những khổ đau đó và sau bốn ngày thực tập, những khổ đau trong ta đã vơi bớt rất nhiều. Chúng ta còn được học cách nói lời ái ngữ và lắng nghe sâu với tâm từ bi.

Và đến ngày thứ năm, chúng ta được khuyến khích áp dụng pháp môn lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ để hòa giải với những người thương của mình. Có thể người mà mình muốn hòa giải cũng đang có mặt trong khóa tu và cũng đã biết về sự thực tập, vì vậy mà việc hòa giải sẽ dễ dàng hơn. Nhưng nếu người đó đang ở nhà thì ta có thể sử dụng điện thoại di động để thực tập hòa giải. Điều này thường xảy ra vào ngày thứ năm của khóa tu. Và rất nhiều người báo cáo lại với chúng tôi rằng họ đã thực tập thành công vào ngày thứ năm của khóa tu.

Chúng tôi thường thông báo với các bạn thiền sinh rằng: các bạn có thời gian từ bây giờ cho đến hết ngày hôm nay để thực tập pháp môn lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ để hòa giải và khôi phục truyền thông với những người thương của mình. Và rất nhiều người đã sử dụng điện thoại di động để hòa giải với cha, mẹ, con cái của mình bằng sự thực tập lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ. Đó là phép lạ của sự hòa giải luôn xảy ra trong các khóa tu.

Thầy chắc rằng nếu các bậc phụ huynh và các nhà giáo đều áp dụng sự thực tập này thì sẽ có thể biến gia đình và trường học trở thành những nơi rất dễ chịu, nơi nuôi lớn thương yêu và hạnh phúc. Có thể nói một nền đạo đức toàn cầu cần phải được xây dựng trên nền tảng các thực tập căn bản như: làm thế nào để lắng dịu những căng thẳng, đau nhức trong thân, giúp ngăn ngừa nhiều loại bệnh tật do stress gây ra; làm thế nào để chế tác niềm vui và hạnh phúc cho bản thân và cho những người thân yêu của mình; làm thế nào để xử lý một cảm xúc mạnh, một niềm đau; phải lắng nghe và nói năng như thế nào để có thể nối lại truyền thông và mang lại sự hòa giải. Và tất nhiên là các bạn không cần phải là một Phật tử mới có thể làm được những điều này. Các bạn hoàn toàn có thể mang những phương pháp thực tập này vào trường học và làm cho việc dạy và học trở nên dễ chịu và vui tươi.

 

Xem thêm:

– Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới >>

– Khóa tu dành cho giáo chức tại đại học Brock, Canada >>

– Thiền trong lớp học >>

Pháp thoại của Sư Ông dành cho giáo chức

Nền tảng của một nền đạo đức toàn cầu
Pháp thoại ngày 12 tháng 8 năm 2013 trong khóa tu “Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới” (“Happy teachers will change the world”) tại Đại học Brock (Toronto, Canada) – phần I.
Đem chánh niệm vào trường học
Pháp thoại ngày 12 tháng 8 năm 2013 trong khóa tu “Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới” (“Happy teachers will change the world”) tại Đại học Brock (Toronto, Canada) – phần II.
Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới
Pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 27.10.2014 trong khóa tu chánh niệm dành cho thầy cô giáo và các nhà giáo dục được tổ chức tại Làng Mai từ ngày 25/10 – 1/11/2014 (được chuyển ngữ từ tiếng Pháp)

Tâm Bình An Trái Tim mở rộng

 

Singapore là chặng đầu trong chương trình hoằng pháp Mùa Thu Đông Nam Á 2010 của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng đoàn Quốc tế Làng Mai qua 5 quốc gia và vùng lãnh thổ gồm: Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái lan, và Hongkong. Bắt đầu từ 5 tháng 9 đến 15 tháng 11 năm 2010.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (còn được thiền sinh gốc Việt thương gọi là “Sư ông Làng Mai”, hay đơn giản một tiếng “Thầy” theo cách gọi của thiền sinh có gốc khác) và Tăng đoàn Quốc tế Làng Mai tại các nước: Pháp, Đức, Hoa kỳ, và khoảng 20 vị xuất sĩ đang hoằng pháp trong vùng Đông Nam Á (Hongkong, Thái lan, và Việt Nam) đã cùng đáp tới Singapore ngày 5.9.2010.

dna1

Thượng tọa Trụ trì Kong Meng San Phor Kark See Monastery
tiếp đón Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng đoàn Làng Mai

“Tâm bình an, trái tim mở rộng”

Chuyến hoằng pháp tại Singapore được tổ chức bởi Kong Meng San Phor Kark See Monastery (Thiền viện Quang Minh Sơn Phổ Giác). Được thành lập từ năm 1921, Thiền viện là trung tâm Phật giáo chính và lớn nhất của Singapore, và là cơ sở Đại học Phật giáo của đảo quốc này (Buddhist College of Singapore). Tháng 3 năm 2009, các thầy Pháp Đăng, Pháp Khâm, và các sư cô Bối Nghiêm, Khôi Nghiêm (người Singapore) đã tổ chức một khoá tu 3 ngày và một buổi pháp thoại công cộng tại đây.
Sau hai ngày nghỉ ngơi thăm viếng, giao lưu cùng Phật tử địa phương v.v… Ngày 8.9.2010 Thượng tọa Trụ trì Kong Meng San Phor Kark See Monastery (Thiền viện Quang Minh Sơn Phổ Giác), Tăng chúng, và khoảng 700 thiền sinh Singapore đã đón tiếp Thiền Sư và Tăng Đoàn vào thiền đường No Form Hall (Vô Tướng) để khai mạc khóa tu 5 ngày “Open Mind, Peaceful Heart” (Tâm bình an, trái tim mở rộng), bắt đầu từ ngày 8 đến 12.9.2010.
Tuy không nhỏ, nhưng Kong Meng San Phor Kark See Monastery đã không đủ chỗ cho 700 thiền sinh nội trú toàn khóa tu, nên một nửa trong số đó phải chấp nhận tu học bán trú, sáng đi chiều về.
Singapore là một nước có đời sống vật chất và dân trí cao, có nhiều tiện nghi. Để có được cuộc sống đó, người dân Singapore phải làm việc nhiều, nhịp độ sống nhanh và khá căng thẳng. Nhiều người nói đi vào khoá tu chỉ để được nghỉ ngơi và sống chậm lại, để tạo lại cân bằng trong cuộc sống. Tiếp xúc với những pháp môn thiền hành, ăn cơm im lặng, thiền buông thư,  ái ngữ và lắng nghe, làm mới … Tăng đoàn Làng Mai đã cung cấp cho họ những phương pháp cụ thể để áp dụng vào đời sống hàng ngày với tốc độ quá nhanh tại đây.  Sự có mặt của tăng thân xuất sĩ giúp cho họ có niềm tin vào con đường tu học.

 

dna3

dna2

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Singapore rất thiếu các vị xuất sĩ. Chỉ có một số ít là người Singapore, đa số các thầy sư cô ở đây đến từ Trung hoa, Mã Lai và Sri Lanka. Tăng thân Làng Mai có sư cô Chân Khôi Nghiêm là người Singapore. Sau khi tốt nghiệp trung học, sư cô đi du học tại Mỹ. Tốt nghiệp đại học, sư cô về Làng Mai tu học và xuất gia năm 2006, khi được 25 tuổi. Sư Cô đã cùng quý thầy Pháp Ấn, Pháp Khâm, và các sư cô Linh Nghiêm, Đàn Nghiêm tổ chức khóa tu 4 ngày và một buổi pháp thoại công cộng tại Poh Ern Shih Temple (Chùa Báo Ân) hồi tháng 5 năm nay.

Tăng thân Quốc tế Làng Mai Singapore chào đời

Ngày 11.9.2010, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có một thời pháp thoại công cộng cho khoảng 4000 người. Thiền đường Vô Tướng chỉ chứa được một nửa, 2000 người còn lại phải xem qua video tại các phòng lớn khác. Trong bài pháp thoại Thiền Sư đã nhấn mạnh  về Tịnh Độ hiện tiền, tiếp xúc với Bụt A Di Đà, Tây phương cực lạc ngay trong  giây phút hiện tại. Thiền Sư cũng chia sẻ về Tăng thân 4 chúng, trong đó chúng cư sĩ cùng tu tập và hoằng pháp với chúng xuất sĩ. Các câu thần chú để thiết lập thương yêu và hiểu biết như “Con ơi, ba mẹ đang có mặt cho con” cũng được Thiền Sư chia sẻ để nuôi dưỡng hạnh phúc trong gia đình.

dna4

Chỉ có một nửa trong số 4000 người được nghe nhìn Thiền Sư thuyết giảng trực tiếp trong thiền đường này,
số còn lại phải nghe qua âm thanh và màn hình ở những phòng lớn khác của thiền viện (LM).

Có khoảng 250 vị nhận 5 giới trong khoá tu. Khi đã nhận giới thì phải hành trì và ôn tập thường xuyên. Các thiền sinh thường hỏi phải làm gì để có thể duy trì năng lượng tu học sau khoá tu?  Các thầy sư cô đã hướng dẫn cách thành lập Tăng thân địa phương để cùng nhau tu học.

dna5

Giới điệp trên tay,… những tân Phật tử này có thể là những hạt giống tốt
để trở thành chúng Chủ trì tương lai của Tăng thân Quốc tế Làng Mai tại Singapore (LM).

Ngày thứ bảy 18.09, một nhóm thiền sinh hẹn gặp nhau tại vườn Bách thảo Singapore để đi thiền hành. Các chương trình xây dựng chúng chủ trì (core Sangha members) và sinh hoạt đều đặn hàng tháng cũng được bàn đến. Hạt giống tu học và xây dựng Tăng thân tại Singapore đã được gieo và điều kiện cho hạt giống được nẩy mầm và lớn mạnh cũng đã được khởi đầu, chúc cho người dân Singapore có nhiều lợi lạc từ những thực tập đó.

dna6

Không đến không đi… Vòng thân ái trước khi Tăng Đoàn rời Singapore lên đường đi Kuala Lumpur (LM)
7 ngày hoằng pháp với chủ đề “Tâm bình an, trái tim mở rộng” cho người dân Singapore kết thúc vào cuối ngày 12.9.2010, cũng là lúc Thiền Sư và Tăng đoàn Làng Mai lên đường tới Malaysia với 1 chương trình đan kín suốt 2 tuần lễ từ 13 đến 27 tháng 9 năm 2010. Tại Vương quốc Hồi giáo này Thiền Sư và Tăng Đoàn sẽ tham dự Hội nghị Phật giáo Thế giới (World  Buddhist Conference) tổ chức tại thủ đô Kuala Lumpur

 

Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Singapore thỉnh mời Sư Ông Làng Mai

 

dna1

 

Chuyến hoằng pháp của Sư Ông và tăng thân Làng Mai tại Singapore được thực hiện bởi lời thỉnh mời của Hòa Thượng chùa Quang Minh Sơn và ngài Bộ Trưởng Bộ Y Tế  Singapore, ông Khaw Boon Wan. Đoàn chỉ lưu lại ở Singapore có 7 ngày, trong đó 5 ngày dành cho khóa tu, nhưng đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người dân nơi đây.

Kết thúc khóa tu, Ngài Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Singapore, ông Ng Eng Hen, tới tìm gặp Hòa Thượng chùa Quang Minh Sơn và nhờ Hòa Thượng thỉnh ý Sư Ông rằng Bộ Giáo Dục muốn mời Sư Ông trở lại Singapore vào năm 2011 để hợp tác đưa chương trình tu tập chánh niệm vào học đường. Nhưng vì trong năm 2011, Sư Ông đã có lịch cho các chuyến hoằng pháp tại các nước khác nên khó có thể tới Singapore trong năm 2011 được. Nghe vậy, Ngài Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục ngỏ ý sẽ mời Sư Ông trở lại Singapore vào năm 2012, nếu sức khỏe và thời gian của Sư Ông cho phép.

(Mai Linh ghi lại)

Niềm tự hào của một bà Mẹ

 

dna

Trong khóa tu tổ chức tại trung tâm Kinasih gần thủ đô Jakarta, có nhiều thành viên người Hồi giáo. Con số không biết đích xác là bao nhiêu, nhưng có thể lên tới một phần mười của tổng số những thiền sinh tham dự khóa tu. Tổng số thiền sinh tham dự khóa tu là 900 người. Có hàng chục nhóm pháp đàm, và có một nhóm dành cho những thiền sinh gốc Hồi giáo. Nhòm này chỉ có 24 người, nhưng ban tổ chức biết rằng số người gốc Hồi giáo tham dự đông hơn thế, bởi vì nhiều vị tránh không muốn cho người khác biết mình là người Hồi giáo.

Ở Nam Dương, người Hồi giáo không bị cấm tham dự vào những sinh hoạt tông giáo khác như ở Malaysia, nhưng các bạn Hồi giáo vẫn dè dặt ít ai muốn chính thức cho biết mình là gốc Hồi giáo bởi vì họ ngại bị giới đồng đạo nhìn họ bằng con mắt nghi ngờ. Trong số những người trẻ tham dự chính thức trong nhóm pháp đàm dành cho người Hồi giáo cũng có vài vị cho đại chúng biết rằng các vị ấy đến tham dự khóa tu mà không dám cho bố mẹ biết, bởi vì bố mẹ nào cũng sợ con mình bỏ đạo mình mà theo đạo khác. Trước buổi pháp thoại cuối của khóa tu, các bạn Hồi giáo đã được mời lên phát biểu về cảm tưởng cũng như về thành quả tu học của mình cho đại chúng biết.  Sư cô Diệu Nghiêm và thầy Pháp Duệ là hai vị được đại chúng chỉ định hướng dẫn nhóm pháp đàm này.

dna7

Có một cô gái người Hồi giáo sau khi nghe bài pháp thoại sáng ngày 2.10.2010 đã viết thơ cho thầy kể về những nỗi khổ niềm đau của cô.  Chắc hẳn là cô đã có nhiều khó khăn với bố mẹ trong quá khứ và đã cảm thấy quá xa cách với bố mẹ, nhưng cuối khóa tu cô đã tiếp xúc được với bố mẹ trong cơ thể của chính mình và đã khôi phục lại được tình thương giữa mình và bố mẹ.  Cô nói rằng: nhờ thầy dạy mà cô hiểu ra rằng nếu trong mấy mươi năm qua cô mang nặng khổ đau vì cô đã không hiểu và không thấy được những khổ đau mà bố mẹ cô đã gánh chịu trong suốt đời của họ.  Cô rất muốn về nói với bố mẹ những lời mà lâu nay không nói được, đó là Bố mẹ ơi, con khổ và con muốn bố mẹ biết như thế, và xin bố mẹ giúp cho con. Cô nói nếu cô đã khổ đau trong ba mươi năm thì bố cô cũng khổ đau trong tám mươi năm. Cô biết bố cô bị kẹt trong những nỗi khổ niềm đau của ông ấy mà không có khả năng thoát ra được.  Nhưng  nhờ cô tiếp xúc được với chánh pháp nên cô có thể làm khác hơn bố.  Nhờ Thầy mà cô mở lòng ra được. Và cô có thể thương bố, thương mẹ và giúp cho bố mẹ bớt khổ.

Sáng hôm ấy, sau buổi thiền hành, cô đã tham dự thực tập những động tác chánh niệm ngoài trời với đại chúng.  Người hướng dẫn thực tập là một vị giáo thọ từ Hoa Kỳ tới.  Vào cuối giờ thực tập, cô gặp một người phụ nữ.  Bà ta chỉ vào vị thầy đang hướng dẫn đại chúng thực tập và nói với cô:  Cô biết không, thầy ấy là con trai của tôi đó. Câu nói biểu lộ sự tự hào của một bà mẹ. Cô thấy đây là một bà mẹ rất hạnh phúc, một bà mẹ có niềm tự hào đối với con trai của mình.  Và bỗng nhiên cô ao ước cũng có một bà mẹ như thế. Và cô tự hứa mình sẽ làm một cái gì đó để cho mẹ cô cũng sẽ tự hào về cô như bà mẹ kia đã tự hào về con trai của mình.

Tôi không biết cô đã quyết định sẽ làm gì để mẹ cô có thể sẽ tự hào về cô, nhưng tôi nghĩ có thể ý tưởng xuất gia đã chớm nở trong lòng cô.  Tới cuối khóa tu, cô tiếp xúc được với tăng thân Làng Mai, một tăng thân rất đẹp.  Các vị trong tăng thân cư xử với nhau như anh em trong một nhà, và cách thức họ làm việc và hành xử với nhau chứng tỏ là họ có nhiều hạnh phúc. Tình huynh đệ là cái hạnh phúc của họ và lần đầu tiên cô thấy được chân tướng và bóng dáng của hạnh phúc chân thật.  Và cô đã mở vòng tay ra để ôm lấy bố mẹ và thấy rõ ràng là hạnh phúc đang đứng trước mặt cô.

Tăng thân hạnh phúc vì mọi người trong tăng thân đứng bên nhau như một rừng cây, không ngọn gió nào có thể làm lay chuyển và bật gốc được.  Cô biết cô đã tìm ra con đường.  Cô kể với thầy là cô đi dự khóa tu này mà không dám cho mẹ cô biết.  “Mẹ con đã đi qua bao nhiêu khó khăn cực nhọc để nuôi con lớn lên trong truyền thống Hồi giáo,” và chắc chắn mẹ cô sẽ lo buồn nếu biết cô đi tham dự một khóa tu thiền.  Nhưng cô có niềm tin là nếu cô đạt tới hạnh phúc thì cô sẽ biết cách giúp cho mẹ cô có hạnh phúc, dù phía trước còn có bao nhiêu chướng ngại. Cô kết thúc lá thư viết cho thầy bằng câu: “Từ nay trở đi, con sẽ biết chọn lựa để hành động cho đúng, và con chắc chắn sẽ làm hay hơn.  Làm như thế cho bố, cho mẹ, cho các em và cho tương lai. Con xin cảm ơn thầy”.  Cô đã tìm ra được sự thật. Khi hạnh phúc đã là chân thật thì hạnh phúc của mình cũng là hạnh phúc của bố mẹ.

Nếu mẹ của cô biết được đường hướng của tăng thân Làng Mai thì chắc chắn bà sẽ không còn lo ngại cho cô.  Bởi vì chủ ý của Làng Mai không phải là khuyên người ta bỏ đạo gốc của mình để theo đạo Bụt. Làng Mai luôn luôn khuyên mọi người nên giữ đạo gốc, thực tập theo Pháp môn Làng Mai chỉ là để giúp cho mình vượt thắng và chuyển hóa khổ đau, và cũng là để giúp cho mình cắm rễ sâu hơn vào đạo gốc của chính mình.

(chuyển ngữ từ lá thư của Parakan)

Hình ảnh Sư Ông và phái đoàn tại Phi Trường Thái

 

Ngày 11.10.2010 Sư Ông và phái đoàn Làng Mai đã tới Thái Lan trong sự đón tiếp nồng hậu của chư tôn đức, quý vị xuất sĩ và cư sĩ bản địa.

su ong vua xuong may bay-small

Sư Ông vừa xuống máy bay

cac chau thieu nhi thai lan dung don phai doan va chuan bi dang hoa-small 1

Các cháu thiếu nhi Thái Lan đón phái đoàn

 

hop bao tai phi truong 2-small

họp báo tại phi trường

 

hop bao tai phi truong 5-small 8

họp báo tại phi trường

 

hop bao tai phi truong 3-small 4

trong buổi họp báo

 

pho vien truong vien dai hoc maha chualalongkorn thai lan trong buoi hop bao don su ong va phai doan tai phi truong-small 11

Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Maha Chualalongkorn, Thai Lan

trong buổi họp báo đón Sư Ông và phái đoàn tại phi trường

 

su ong roi khoi phi truong-small

Sư Ông rời khỏi phi trường

Nụ cười đoàn tụ

 

(Nhật Ký Của Sư Út Đôn Nghiêm)

Pak Chong, ngày 11 tháng 10 năm 2010, ngày Sư Ông tới Pak Chong và cũng là ngày sinh nhật thứ 85 của Sư Ông.

Ngày hôm nay, con được cùng các sư chị sư em Út đi phi trường Bangkok đón Sư Ông. Nhóm của con gồm có sư cô Linh Nghiêm, sư chị Cẩm Nghiêm, sư út cây Sen Vàng Thương Nghiêm, sư út cây Sen Hồng Sung Nghiêm, sư út cây Sen Xanh Trăng Mười Sáu, sư út cây Ngô Đồng Nhất Nghiêm và con, sư út cây Sen Trắng Đôn Nghiêm cùng với sư em Trăng Mười Lăm, sư em Thảo Nghiêm nữa. Và cũng có  quý Thầy quý sư chú và các sư út bên nam.

cac chau thieu nhi thai lan dung don phai doan va chuan bi dang hoa-small 1

Chúng con được đi xe VIP đến sân bay và xe vào thẳng phòng đợi máy bay. Trong phòng đợi, chúng con được uống sữa và ăn bánh miễn phí từ quầy phục vụ. Ngon lắm ạ. Thú vị nhất là các em thiếu nhi mặc những trang phục truyền thống Thái Lan, dễ thương kinh khủng luôn. Trên tay các em là những vòng hoa thơm ngát dành để tặng cho Sư Ông và quý thầy qúy sư cô trong phái đoàn.

1 giờ 20 chiều, khi đại chúng và các sư út còn đang đứng thành một hàng dài sau lưng các em bé và đang hồi hộp đợi Sư Ông thì bỗng nhiên sư cô Đẳng Nghiêm và sư cô Trân Nghiêm xuất hiện. Thì ra là quý sư cô bị lạc đường. Sư cô Đẳng Nghiêm thực tập thiền ôm với tất cả mọi người (cố nhiên là trừ quý thầy và các sư chú). Sư cô rất thân thiện và đáng yêu.

Các nhà báo tập trung rất đông, họ mặc đồ rất lịch sự và rất chi là quý kính quý thầy và quý sư cô. Một lúc sau thì Sư Ông đến. Con đứng ở đằng xa nhìn với tới. Ồ, Sư Ông kìa! Vậy là con đã được gặp Sư Ông bằng xương bằng thịt rồi! Con mừng quá. Con thở sâu và cười thật tươi cho giây phút hạnh phúc ấy. Không biết sao mà con thấy mắt mình nhòe đi và sống mũi cay cay. Nhìn ra sau, con thấy mắt chị Nhất Nghiêm cũng đỏ hoe rồi.

su ong roi khoi phi truong-small

Sư Ông bước từng bước nhẹ nhàng, thảnh thơi và phong độ còn hơn trong ảnh. Sư Ông nhận vòng hoa, đi ngang qua chúng con rồi mỉm cười làm con cảm thấy như tim mình rung rinh. Sau đó, cả đại chúng đi theo Sư Ông vào trong phòng họp báo của sân bay. Ngồi ở dưới nhìn lên, con thấy tự hào về Thầy của mình quá chừng. Sau khi sư Ông trả lời những câu hỏi của các nhà báo, chúng con được lên xướng tụng bài Ba Sự Quay Về bằng tiếng Anh và được họ chụp hình quá chừng luôn. Sau họp báo, cả đoàn ra xe để về Pak Chong. Khi xe dừng lại nghỉ chân, các sư út đi theo Sư Ông và Sư Ông hỏi nhỏ:

– Đây có phải là Thầy của các con không?

Rồi Sư Ông hỏi tên từng út một. Sau đó, Sư Ông hỏi:

– Đây là giây phút gì hả con?”

Chúng con đồng thanh thưa:

– Dạ bạch Sư Ông, đây là giây phút hạnh phúc!

Đúng thật là hạnh phúc! Sau khoảng thời gian xúc động, chúng con lại theo Sư Ông lên xe về thẳng Pak Chong. Trên xe, con cứ cười miết: “Sư Ông của con trên cả tuyệt vời”.

Trên đoạn đường còn lại, con và các sư út khác ăn trái cây, hát, ngủ rồi thức dậy lại ăn trái cây, hát rồi lại ngủ… cho tới khi về đến Pak Chong. Được gặp Sư Ông, con thấy mỗi giây phút đều là giây phút hạnh phúc.  Vừa về tới nơi là đã thấy có quý Ôn, quý Sư Bà và toàn thể đại chúng đang đứng đợi Sư Ông nơi sân cỏ rồi. Xe dừng rồi Sư Ông bước xuống xe, con thấy mắt ai cũng sáng, có người mắt đỏ rồi nhòe đi; con thấy trên những đôi mắt ấy nở những nụ cười thật tươi và hạnh phúc, nụ cười đoàn tụ.

Sự chuyển hóa mầu nhiệm

 

Ngày 27/09/2010 Tăng Đoàn Làng Mai bay tới Indonesia lúc 11 giờ sáng. Một cuộc đón rước long trọng do các chùa thuộc Giáo Hội Ekayana (nhất thừa) tổ chức. Sư Ông và 80 vị xuất sĩ đã bình an bước đi giữa  hai hàng Phật tử mặc áo tràng trắng và áo tràng xanh, rồi đến nhóm sinh viên học sinh khá đông. Ăn trưa xong đoàn về trung tâm Kinasih Resort o Bogor xa Jakarta cách đó vài giờ xe hơi. Trung tâm nằm ở thung lũng giữa núi cao, một khu đất chừng vài chục mẫu tây  có nhiều batiments với nhiều phòng, và các con đường đều tráng nhựa. Ở đây có những hàng cây cổ thụ được chăm sóc rất kỹ lưỡng. Ở đây có đủ phòng cho 900 thiền sinh, mỗi phòng hai người. Và có tới sáu cái nhà ăn.

dna7

Pháp thoại của Sư Ông được diễn ra tại một thiền đường hai tầng. Trong bài pháp thoại đầu tiên, với đề tài Thiết lập tịnh độ hiện tiền đã gây hứng khởi mạnh mẽ tới thiền sinh. Bởi vì từ lâu mọi người cứ ngỡ phải chết đi mới được lên cõi Tịnh Độ.

Sau pháp thoại, Sư Ông dẫn đại chúng đi thiền hành giữa rừng cây nhiệt đới, Những gốc cây đại thụ được bao bọc bởi đủ các loại lan. Phong cảnh này đã giúp cho thiền giả cảm nhận được rõ nét “đây là Tịnh Độ. Tịnh Độ là đây”

_dsc2118

Buổi chiều, 29 nhóm pháp đàm được các thầy, các sư cô hướng dẫn rất chu đáo. Điều ngạc nhiên là ở đây người dân không biết nói tiếng Anh, dù là những nhà doanh nghiệp lớn hay nhỏ cũng đều phải nghe thông dịch trong khi ở Malaysia thì hầu hết người dân đều hiểu tiếng Anh. Họ nghe trực tiếp tiếng Anh từ Sư Ông mà không qua thông dịch. Cuối khóa tu, số lượng người thọ nhận Năm Giới Quý Báu chiếm tới 80 % số người tham dự khóa tu. Nhóm các bạn đạo Hồi (Islam) đều xin được lãnh thọ Năm Giới, bởi vì các bạn cảm nhận rất rõ rằng Năm Phép Thực Tập Chánh Niệm này là kim chỉ nam cho một đời sống an lành và hạnh phúc. Có một cô gái Hồi Giáo rất xinh đẹp chia sẻ rằng: “ Bố mẹ con hoàn toàn không biết chuyện con đi tham dự khóa tu. Nhưng chuyến này về con sẽ ngoan ngoãn, sẽ làm cho bố mẹ con vui và con sẽ nói rằng đó là nhờ con được đi tu học với một vị thầy Phật giáo.”

Trong nhóm thiền sinh Hồi Giáo có những bậc phụ huynh trẻ tới tham dự do đã từng đọc sách của Sư Ông. Còn lại đại đa số là các bạn trẻ tuổi từ 30 trở xuống đều dấu gia đình chuyện tới học Phật với một vị Thiền Sư Việt Nam. Môt cô gái Hồi giáo nói: “Me con rất sợ con bỏ đạo Hồi của ông bà tổ tiên”. Cô khác chia sẻ: “Từ nay trở đi con xin nguyện sẽ sống cho thật hạnh phúc. Dù cho có gặp khó khăn, đau khổ tới mấy thì con cũng sẽ tập trở về tiếp xúc với những điều kiện tích cực còn lại để giữ niềm vui cho bền vững. Con đã đau khổ 32 năm nay rồi. Và bố con cũng đã đau khổ suốt 85 năm nay rồi. Lúc nào ông ấy cũng trách móc, than thở trong khi còn có biết bao nhiêu điều kiện hạnh phúc có mặt trong ông. Bố con không bao giờ vừa ý với bất cứ chuyện gì.” Có một cô khác nói rằng: “Trong khóa tu này, con thấy có một bà mẹ ngập tràn hạnh phúc. Bà tự hào khoe rằng bà có một người con  là một vị xuất sĩ nam. Nghe vậy trong con cũng có khao khát làm cho mẹ con được hạnh phúc và tự hào về con như vậy.

Ngày thứ hai của khóa tu, Sư Ông đã dạy 8 bài tập trong Kinh An Ban thủ ý và đi vào thực tế rất rõ về phương pháp làm chủ cơn giận. Sư Ông sử dụng hình ảnh một cái cây
trong cơn bão tố. Khi cơn bão tới, ngọn cây là nơi dễ bị gẫy đổ, nhưng dười gốc cây thì thật an toàn và vững chãi. Cũng như vậy, nếu trong tâm mình đang có những cảm xúc mạnh, nếu mình để sự chú tâm lên đầu, nghĩa là mình tiếp tục miên man suy nghĩ thì mình có thể sẽ bị hoảng hốt hoặc tức điện lên. Nhưng nếu trở về theo dõi hơi thở và chú tâm tới vùng bụng, theo dõi sự phồng xẹp của hơi thở thì những cảm xúc mạnh sẽ từ từ đi qua. Hàng ngày sau giờ ăn trưa, Sư Cô Chân Không đều hiến tặng cho đại chúng một buổi thiền buông thư trước khi bước vào buổi pháp đàm.

Ba ngày đầu của khóa tu, Sư Ông dạy về tác hại của những tri giá sai lầm và cách quán chiếu thiền tập để thoát khỏi những tri giác sai lầm. Tiếp đó Sư Ông dạy mọi người về bốn câu thần chú:
Con đang có mặt cho mẹ đây.
Con biết mẹ đang có mặt đó và con rất hạnh phúc.
Con đang đau khổ và con muốn mẹ biết rằng con đang đau khổ.
Con đang đau khổ và con muốn mẹ giúp con.
Ngày thứ tư của khóa tu, bài pháp thoại “Tình thương chân thật” của Sư Ông đã khiến cho mọi người rất hoan hỉ.

dna

Các bạn trẻ rất khao khát được lắng nghe quý thầy, quý sư cô trẻ như thầy Pháp Dung, sư cô Đẳng Nghiêm chia sẻ. Buổi tối ngày thứ ba, sư cô Tùng Nghiêm hướng dẫn năm vị cư sĩ trình bày về kinh nghiệm quý báu mà họ có được khi họ thọ trì năm giới. Ngày cuối của khóa tu, có khoảng 700 vị thiền sinh đã quỳ xuống xin thọ trì Năm Giới.

Một số phóng viên của đại truyền hình Indonesia và phóng viên của các tờ báo trong đó có báo Kompas Minggu là một tờ báo lớn, đã xin tham dự trọn vẹn khóa tu, nên quý vị đã có cơ hội cảm nhận sâu sắc về khóa tu này. Giới báo chí đã rất thích thú phổ biến tin tức về một vị Thiền Sư Việt Nam thuyết giảng về những cái hay, cái đẹp trong truyền thống đạo Hồi và còn chỉ cho những người Hồi Giáo biết cách ứng dụng những tinh hoa trong truyền thống của họ vào đời sống hàng ngày.

(Ngọc Phương ghi lại)

Chúng tôi ở Indonesia

 

Được gặp lại các anh chị em mình từ khắp nơi tại khóa tu là một niềm hạnh phúc vô biên đối với chúng tôi, nhất là những người đã từ lâu nằm trong lòng mình. Tối nào, sau giờ ăn chiều, anh chị em chúng tôi cũng quây quần bên nhau mà hát lên những bài thiền ca của Làng bằng đủ thứ tiếng. Tình anh chị em sao mà thắm đẹp, chân tình.

Sing-20100807-04-SanghaAtMerlionPlaza

Người dân nơi đây rất hiếu khách và rộng rãi. Họ đãi chúng tôi đủ thứ đặc sản địa phương. Sau mỗi bữa ăn, chúng tôi thường có tới năm, sáu món bánh trái tráng miệng. Trong ngày làm biếng, chúng tôi chia làm ba nhóm đi chơi. Một nhóm đi lên núi lửa tắm suối nước nóng. Một nhóm đi thăm vườn bách thảo và một nhóm ở lại khu nghỉ mát cùng đi thăm vườn cây ăn trái với Sư Ông. Khi đi suối nước nóng, trên núi, thầy Pháp Lưu và sư chú Pháp Chu phát hiện ra một con thác cao 2,5 m và gặp một con nhện to bằng bàn tay, màu xanh lè. Lưới nhện dẻo như sợi dây thun. Nghe nói, trong những khu rừng rậm nhiệt đới có nhiều loài nhện độc có thể gây tổn hại tới sức khỏe nếu ai đó bị nó cắn.

Ngày 5.10.2010, chúng tôi có dịp tới Yogakarta để ghé thăm chùa của sư phụ thầy Pháp Tử. Pháp Tử là một thầy người Indonesia xuất gia theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Năm 2008, trong chuyến hoằng pháp tại các nước Đông Nam Á, thầy Pháp Tử (khi ấy vẫn còn là một sư chú) đã di theo Sư Ông trong suốt lịch trình. Kết thúc khóa tu, được sự đồng ý của sư phụ mình, thầy Pháp Tử đã sang Làng Mai nhập chúng tu tập. Năm 2009, thầy mời được sư phụ mình cùng sang Làng Mai tham dự trọn vẹn khóa An Cư Kiết Đông. Cũng trong năm đó, thầy được thọ giới Tỳ Kheo với Sư Ông Làng Mai và sư phụ của thầy cũng xin lãnh thọ 14 Giới Tiếp Hiện. Đầu năm 2010, sau 2 năm tu tập tại Làng, được sự tin cậy của tăng thân, thầy Pháp Tử đã cùng một số các thầy, các sư cô khác trở về Indonesia để tổ chức khóa tu chánh niệm đầu tiên trên quê hương của mình. Khóa tu đã thu hút được hơn 300 thiền sinh tới tu tập trong suốt một tuần.

Khóa tu thành công tốt đẹp, thầy Pháp Tử rất vui mừng viết thư cho Sư Ông để bày tỏ lòng biết ơn của mình và thưa rằng: nhờ những năm tháng được sống tại Làng mà thầy đã học hỏi được những phương pháp tổ chức, phương pháp hướng dẫn khóa tu và đặc biệt là thầy thấy rõ được sức mạnh của tăng thân, sức mạnh của tình anh chị em. Trong chuyến hoằng pháp tại Indonesia năm nay, thầy là người tổ chức chính cho đoàn tại Indonesia.

Ngôi chùa của sư phụ thầy Pháp Tử nằm tại một ngôi làng nhỏ trên núi, được xây dựng theo kiến trúc của Trung Hoa, rất thanh lịch. Ngồi chơi với thầy Trụ Trì Ekayana, Sư Ông đã chia sẻ với thầy về vấn đề “Indonesia hóa đạo Phật”. Sư Ông có gợi ý là người dân Indonesia nên bớt tụng kinh bằng tiếng Pali, Sanskirt và tiếng Trung Quốc mà nên dịch kinh sang tiếng Indonesia để mọi người dân đều được đọc tụng và hiểu kinh Phật theo tiếng mẹ đẻ. Thầy trụ trì rất hoan hỉ về đề nghị đó.

Sáng ngày 7.10.2010, Sư Ông cùng sư thúc Chí Mãn, sư cô Chân Không, sư cô Thoại Nghiêm, và các vị trụ trì: sư cô Định Nghiêm, thầy Pháp Dung, thầy Pháp Khôi với thêm một số vị khác đi thăm thánh tích Borobodur. Tại đây có rất nhiều các bức tượng Bụt được điêu khắc bằng những khối đá đen lấy từ núi lửa vùng này. Sư Ông và các vị trụ trì các xóm đã nhờ thầy Pháp Tử đặt bẩy bức tượng Bụt to trong tư thế đứng cho mỗi chùa tại Làng Mai và tại các tu viện ở Mỹ.

3 giờ chiều, Sư Ông quyết định leo núi đi thăm thánh tích. Buổi trưa hôm ấy, ông trời tự dưng lại “đãi” đại chúng những cơn gió thật mát trong buổi trưa hè. Khung cảnh nơi đây thật hùng vĩ. Hàng ngàn tượng Bụt nằm trên 10 tầng tượng trưng cho “mười địa” trong kinh Hoa Nghiêm. Tượng Bụt ở đây tượng nào cũng đầy đặn, thanh tú chứ không quá gầy gò hay quá tròn trịa như một số tượng Bụt nơi khác. Trên tường đá được trạm trổ những đóa sen hay hình tàu lá dừa. Sư Ông chỉ lên những biểu tượng đó và đọc mấy câu thơ mà Người làm cách đây đã lâu:

“…Bồ tát cầm đóa sen,
Dáng nghiêng trời nghệ thuật
Trên cánh đồng sao mọc,
Nụ cười trăng mới lên.
Tàu lá dừa màu ngọc,
vắt ngang lưng trời khuya
Tâm đi trong tĩnh mặc
Bắt gặp chân như về”

Qua công trình vĩ đại này, mọi người trong đoàn cũng phần nào hình dung được cách đây mười thế kỷ, những vị xuất  sĩ của Indonesia phải hiền đức, phải tài ba, phải có hạnh nguyện lớn lắm thì mới xây dựng được một công trình có giá trị tâm linh và nghệ thuật lớn lao đến vậy. Chiêm ngưỡng công trình đồ sộ của chư tổ để lại, trong lòng mỗi người chúng tôi đều khởi lên niềm biết ơn sâu sắc và cái mong muốn tiếp nối được sự nghiệp tâm linh mà chư liệt vị đã nhắn gửi cứ lớn dần trong lòng mỗi người. Trên thánh tích Borododur, Sư Ông đã phát nguyện nhất định sẽ làm mới đạo Phật tại Indonesia.

(Ngọc Phương ghi lại)