Như mới hôm qua

Những cơn mưa kèm theo không khí lạnh kéo dài từ ngày này sang ngày khác. Con thích Huế nhưng chẳng thích những cơn mưa ở xứ này tí nào. Mới đó mà con đã tròn một tuổi trong gia đình tâm linh, mọi chuyện tưởng chừng như mới xảy ra hôm qua thôi. Những dòng ký ức hiện về trong con như một cuốn phim được trình chiếu lại, con gọi tên những cảm xúc đi lên, chợt vui chợt buồn len lỏi trong lòng như những luồng khí lạnh xứ Huế, len lỏi trong từng chiếc lá rồi bất ngờ tạt vào cơ thể.

Sinh ra từ một miền quê trên dải đất miền Trung, Phú Yên tạm gọi là yên bình nhưng cũng không tránh khỏi những thiên tai. Tuổi thơ con thật ấm áp trong tình thương của ba mẹ. Là con gái một trong gia đình nên phần nào đó con hơn bạn bè nhiều thứ. Cứ tưởng rằng cuộc sống của con cũng sẽ mãi đi theo dòng chảy của xã hội với ý niệm học hành đàng hoàng, công việc ổn định, có được người thương rồi sau đó là một gia đình đầm ấm, như vậy gọi là hạnh phúc, ba mẹ sẽ mát dạ và dòng họ sẽ được cái gọi là “nở mặt nở mày với thiên hạ.” Nhưng với con, những cái đó con chẳng bao giờ hình dung hay tưởng tượng ra được. Con thấy mình cần một hướng đi mới, phải làm sao chọn được con đường mà bản thân con muốn đi. Những suy nghĩ ấy cứ ấp ủ trong con nhưng con chưa định hình một cách rõ ràng được. Rồi theo năm tháng, tuổi mới lớn đã hướng con đi theo một lối khác, dần dần những ý niệm “chọn cho mình hướng đi mới” đã mờ nhạt trong con.

Lớn lên đi học xa nhà, môi trường và những người bạn mới, cuộc sống nhộn nhịp tất bật vô tình đã cuốn con đi lúc nào không hay. Con bắt đầu lao vào những cuộc chơi. Mãi rồi cũng chán. Có lúc con sợ phải đối diện với bản thân mình, con sợ cái trống trải trong lòng. Và lúc con mất phương hướng cho tương lai thì cái phao cứu sinh được thả ra để con nương vào.

Sau giờ học trên lớp, con về phụ bếp ăn sinh viên của chương trình Hiểu và Thương của các bác Tiếp Hiện. Con được các bác hướng dẫn thực tập các pháp môn căn bản của Làng Mai như thiền ăn, thiền thở, thiền im lặng… Con bắt đầu cảm thấy thích cách thực tập mới này vì đã đem lại cho con một cảm giác gì đó rất mới mà con chưa xác định và gọi tên được. Con bắt đầu tập nghe Đường xưa mây trắng, nhưng mỗi lần nghe là con đều ngủ quên. Cuối tuần, chị em làm việc trong bếp hay đến trung tâm bảo trợ xã hội để giúp những cụ già và những bạn trẻ bị bệnh tâm thần. Lần đầu tiên tới đây con đã bật khóc vì thấy mình được may mắn làm người và có được tình thương từ gia đình, bạn bè. Chúng con gọi ngày đó là ngày Chủ nhật thương yêu. Sau lần đi đó con đã suy nghĩ rất nhiều và con thấy mình phải sống khác, phải tìm cách nào đó để có thể giúp được những người đang gặp khó khăn. Lý tưởng năm xưa trong con trỗi dậy và hạt giống bồ đề trong con đang chuyển mình. Con quyết định đi tu. Nhưng làm sao để đi được khi ba mẹ chỉ có một mình con để nương tựa lúc về già. Nghĩ đến đó thôi là con thấy mình chẳng thể nào đi xa được rồi. Cuối cùng con quyết định xin việc làm. Con may mắn được một chị giám đốc người Nga nhận việc ngay sau khi phỏng vấn. Có được công việc khá tốt vậy mà con chẳng thấy vui tí nào, thấy mình không thích hợp trong môi trường này vì không đem lại hạnh phúc thật sự. Mọi thứ con đang có chỉ là sự hào nhoáng bên ngoài. Sau nhiều lần suy nghĩ, con quyết định trốn nhà đi tu dù biết ba má sẽ rất sốc khi nghe tin này. Con bất chấp tất cả, phải thử mới biết được. Vậy là con xin ra Diệu Trạm tập sự xuất gia.

Mới ở tu viện được hai ngày, hôm đó con đang ngồi ăn chiều thì ba má con xuất hiện. Mặc dù đã chuẩn bị tinh thần trước nhưng con vẫn sợ bị bắt về. Ba má con khóc rất nhiều. Cái tội to đùng của con là dám trốn nhà đi tu. Ba má dùng mọi lời lẽ để khuyên con về, từ lời nói nhẹ nhàng rồi chuyển qua nặng nề. Vốn thừa hưởng cái tính ngang ngạnh của ba nên lúc đó con nguyện là có chết cũng không về. Ba má cứ nói, con thì trơ trơ ra đó dù biết ba má đang rất đau khổ. Quý sư cô phải giúp, con mới chia sẻ được với ba má. Con nói lên ước muốn của con, muốn sống thật sự với chính mình, không muốn bị trói buộc vào tình cảm nhỏ bé, muốn hòa vào tình thương lớn với tăng thân, có như vậy con mới giúp được con, giúp gia đình và xã hội. Nghe con chia sẻ má lại càng khóc to hơn, ba càng giận dữ hơn. Ba bảo ba rất thất vọng vì bao nhiêu tình thương và hy vọng ba đều đặt vào con hết. Má thì chỉ nói ba từ “đồ bất hiếu.”

Lúc đó con buồn lắm, con nghĩ tại sao ba má thương con mà không hiểu con tí nào. Ba má càng nói vậy thì con càng nên ở đây để chứng tỏ rằng con đường mà con chọn không hề sai. Bên ngoài mưa như trút, sấm chớp liên hồi. Bên trong không khí vô cùng nặng nề. Cuối cùng ba bảo nếu con không về thì ngay bây giờ ba sẽ tự tử rồi con muốn làm gì thì làm. Nghe ba nói thế má càng khóc to hơn, má bảo nếu ba chết thì má cũng sẽ chết vì má không sống nổi nữa. Con thật sự bối rối không biết giải quyết ra sao để tạm thời giảm đi sự căng thẳng. Cách còn lại là con quỳ xuống xin ba má để cho con ở lại đây. Không khí càng căng thẳng hơn. Sư cô XN chia sẻ rồi khuyên ba má thật nhiều và: “Nếu hai bác đem em về mà em có chuyện gì thì hai bác cũng không sống nổi đâu!”. Nghe đến đây má bắt đầu sợ con sẽ chết, thế là tình thế đảo ngược lại. Thật may mắn cho con, cuối cùng thì bầu không khí căng thẳng dần dần giảm xuống, ba má cũng chịu suy nghĩ lại. Tối đó cả nhà con được ngủ chung với nhau, con nằm giữa ba má và suốt đêm nghe ba má trách móc hoài, lôi bao nhiêu chuyện ra để khuyên con về nhà. Con chỉ biết im lặng để lắng nghe thôi.

Sự mầu nhiệm đã xảy ra. Buổi hô canh ngồi thiền sáng hôm sau đã làm ba con có chút gì đó thay đổi trong lòng. Thế là con được ở lại mặc dù ba má không thoải mái cho lắm. Con cứ tưởng mọi việc đã ổn để con đặt hết lòng vào sự thực tập, nhưng mọi chuyện chưa dừng lại ở đó. Những cuộc điện thoại liên tiếp gọi đến báo tin về ba má. Sau khi ở Huế vào, vì buồn quá nên ba đã bỏ nhà đi chẳng thấy về, còn má thì đau khổ không thiết ăn uống phải nhập viện. Mọi thứ đến quá bất ngờ, con có cảm tưởng như chính mình là nguyên nhân gây ra đau khổ cho gia đình và dòng họ. Bao nhiêu lời trách móc, đổ lỗi đều ụp lên đầu con một lúc. Về hay ở? Câu hỏi đó cứ liên tiếp bám lấy con. Con quay về nắm lấy hơi thở để chế tác bình an trong lòng nhưng sao khó quá. Bên ngoài nhìn con có vẻ an nhưng bên trong thì vô cùng xáo trộn. Con quyết định xin phép quý sư cô về nhà một tuần để sắp xếp và thuyết phục ba má bằng những gì con đã được thực tập trong một tuần qua.

Thời gian về nhà, những cuộc tranh luận không có hồi kết, chung quy cũng chỉ chuyện lo cho con không chịu được cuộc sống ở chùa vì từ nhỏ con quen được nuông chiều. Riêng bản thân con luôn nhìn nhận nó theo hướng tích cực, khi có quyết tâm thì tất cả không thành vấn đề. Sống đúng theo lý tưởng và con đường mình lựa chọn là mang lại hạnh phúc cho con rồi. Hạt giống bồ đề trong con đang chuyển mình vươn lên để tiếp tục sự sống mầu nhiệm. Và cuối cùng thì con cũng được tái sinh trong gia đình Cây Sồi Đỏ.

Vu Lan năm nay có lẽ là những ngày hạnh phúc nhất của con. Nhân mùa báo hiếu, đại chúng tổ chức ngày sinh hoạt dành cho gia đình của quý thầy, quý sư cô, con mời ba mẹ ra tham dự và ba đã có mặt tại Diệu Trạm. Ba thực tập rất hết lòng. Con thấy ba đã tìm lại được hạt giống của tuổi thơ trong mình, ba còn biết làm nũng với quý sư cô để được sự quan tâm. Ba thương tất cả quý sư cô và mỗi khi về nhà, ba nói là ba nhớ quý sư cô lắm. Con nói với các chị em là ba thương các chị em hơn thương con nữa nên con cũng muốn ganh tị với các chị em. Những ngày ở lại Diệu Trạm việc gì ba cũng làm, từ đẩy rác đi đổ đến nhặt rau, quét sân, xếp thiền đường. Ba đã chuyển hóa trong cách suy nghĩ. Đi tu không khổ như ba từng nghĩ.

Trong khóa tu cũng có các em tập sự trốn nhà đi tu như con trước đây và cũng bị ba mẹ ra bắt về, mẹ các em cũng khóc và làm dữ lắm. Ba đã có một bước đột phá, theo suy nghĩ của con, vì ba đã hết lòng khuyên mẹ của một em tập sự để em đó được ở lại tu học. Khi cô không chấp nhận cho em ở lại, em đã trốn nên cô tìm khắp tu viện mà không thấy, vậy là cô ngồi ngay cửa nhà ăn mà khóc. Ba nhẹ nhàng đi đến và ngồi xuống bên cạnh thủ thỉ: “Thôi, chị về chăm sóc những đứa con ở nhà đi, chị còn tới mấy đứa nữa. Tui đây nè, tui chỉ có một đứa con gái duy nhất, lúc nó trốn nhà đi tu tui cũng khóc, cũng đòi bắt nó về dữ lắm. Nhưng bây giờ tui thấy nó đi tu vậy mà hay. Tui chừ không những có một đứa con mà tui có cả đàn con để thương, sư cô nào cũng dễ thương hết. Chị cứ cho cháu ở lại đây tu đi, khi nào tui ra thăm tui sẽ ghé nhà chị rủ chị đi cùng…” Nghe ba nói vậy con thấy ba đang làm một hành động rất dễ thương, đâu đó trong lòng ba đã bắt đầu nhen nhúm được hình ảnh đẹp của một người tu rồi.

Vừa rồi nghe tin má bệnh phải nhập viện, được sự cho phép của quý sư cô, con cùng với một sư em về chăm sóc má một thời gian. Má con rất xúc động khi hai chị em con về có mặt hết lòng cho má. Mấy dì mấy cô thấy con “đẹp” hơn ngày trước nên cũng an tâm là trong chùa cháu mình sống không khổ như họ tưởng. Bây giờ má thấy mình chẳng những không mất con mà ngược lại, má có rất nhiều con gái. Con thấy khi con thực tập có hạnh phúc đủ và biết cách trở về nhận diện những hạnh phúc đang có mặt thì chắc chắn ba má ở nhà cũng sẽ có được niềm vui và bình an. Sinh nhật thôi nôi gia đình cây Sồi Đỏ, ba ra có mặt cho con và đại chúng. Ba chia sẻ sự thực tập, nói lên niềm biết ơn tăng thân đã chăm sóc và dạy dỗ con. Bây giờ con đã thay đổi nhiều lắm. Con đã biết nấu ăn dù chưa ngon, chưa giỏi như các sư chị, con biết làm nhiều việc mà ở nhà con chưa từng làm. Năm nay ba má hứa sẽ ra Diệu Trạm đón Tết cùng đại chúng. Vui hơn nữa là sáng nay con gọi điện về hỏi ba có đi khóa tu tiếng Việt ở Thái không, ba bảo ba sẽ đi, nếu ba không đi được thì má sẽ đi. Con nghe mà mừng lắm, vừa về phòng con tin cho các chị em liền. Con thấy mỗi khi chia sẻ niềm vui của con đến các chị em thì y như niềm vui ấy lớn lên thêm.

Một năm đã trôi qua với bao nhiêu thử thách, con thấy mình vẫn còn nhiều phước đức từ ông bà tổ tiên để lại khi con được mang hình tướng của người tu. Con trân quý những tháng ngày được sống trong vòng tay của tăng thân, giúp con lớn lên từng ngày trong suy nghĩ và thực tập, làm việc. Con vô cùng biết ơn ba má là những vị “Bồ tát nghịch duyên” để con xác định rõ hơn con đường mà con lựa chọn. Con muốn làm chiếc cầu nối giúp ba má tiếp xúc với pháp môn để hiểu tại sao đây lại là con đường con gái mình lựa chọn mà không phải là con đường nào khác. Con thấy mình vô cùng an toàn khi sống trong vòng tay của tăng thân, thực tập uy nghi, giới luật giúp con được bảo hộ trước nhiều cám dỗ mà lắm lúc con phải đắn đo suy nghĩ để chọn hướng đi cho chính mình. Tuy không được Sư Ông dạy dỗ trực tiếp nhưng con luôn thấy được hình ảnh của Sư Ông nơi mỗi sư cha, sư mẹ, sư anh, sư chị và sư em của con. Trong con luôn có Sư Ông trong từng bước chân và hơi thở ý thức. Đất Tổ rất linh thiêng để cho con cắm rễ sâu hơn trong sự thực tập hằng ngày. Chỉ cần một hơi thở nhẹ, là bao phép lạ hiển bày. Giờ đây con đã nhận được sự yểm trợ từ gia đình, điều đó luôn làm động lực để con cố gắng nhiều hơn trong việc tu học. Con cúi đầu tri ân ba má đã hiểu và thương con thật sự, tri ân tăng thân đã giúp con và ba má con chuyển hóa để cuộc sống gia đình con có ý nghĩa hơn. 

 

Đến tận cùng vẫn là phút đầu tiên

Mới chiều qua, giọng mẹ tôi reo vui qua điện thoại: con biết không, cách đây mấy hôm, trong một buổi sáng ngồi uống trà, ba nói với mẹ là: “ba có tìm vé xem có rẻ không, rồi mình qua Làng thăm KN một chuyến, chắc là KN bất ngờ lắm.” Tôi cảm được niềm hạnh phúc của mẹ khi báo tin đó cho tôi. Tôi nghe mà như mơ. Dù ba mẹ có qua được hay không, thì tôi cũng đã mãn nguyện thật sự rồi. Bởi lẽ…

Trở về chín năm trước đây…

“Con mà đi tu, chắc chắn hạnh phúc gia đình sẽ đổ vỡ. Con liệu đó mà làm. Con là chị đầu đó, rồi ba đứa em con nó sẽ thế nào? Bao nhiêu kỳ vọng ba mẹ đặt vào con hết rồi bây chừ ra ri đây hả!”

– “Ba làm sao mà ăn nói với bà con và với mấy thầy cô trên trường đây. Cho ăn học đâu vào đó để rồi bỏ mà đi tu hả ?”

– “Được chỗ làm như con bây giờ ở Huế đâu phải ai muốn cũng được đâu? Dạy đại học chưa làm con đủ hạnh phúc sao?”

Tôi cúi đầu im lặng. Biết là ngôn ngữ không thể giúp tôi thuyết phục được ba trong lúc này. Tôi chỉ biết cầu nguyện và chờ đợi. Tôi kiên nhẫn đợi một dịp khác, canh hoài canh mãi xem ba thật sự vui thì mới dám hó hé. Lần này, ba càng dứt khoát hơn: “Muốn đi thì đi đi, không ba không con gì nữa hết. Đừng có mà nói nhiều.”

Và rồi, tôi quyết định “bỏ nhà đi bụi” để mong ba chuyển ý. Tôi viết thư để lại nói là ba mẹ đừng lo gì cho tôi hết, tôi chỉ muốn có thời gian thật sự cho cả ba và tôi cùng nhìn lại quyết định xin xuất gia của tôi mà thôi. Tôi cần không gian yên lắng cho quyết định của mình được chín chắn và tôi nghĩ ba cũng vậy. Tôi nói trong thư là chừng nào ba đồng ý thì tôi mới về lại nhà. Tôi đợi đến lúc cả nhà ngủ thật ngon, khoảng 2 giờ khuya, tôi vác một cái ba lô con trên vai, đi bộ ra đầu cầu An Cựu. Gặp may có một chú xe thồ ở đó. Tôi nhờ chú chở cho lên địa chỉ mà tôi cần tới. Nghĩ lại mới thấy mình quá ư là liều mạng, thân gái giữa khuya một mình trong thành phố! Sao lúc đó trong tôi không có một nỗi sợ nào. Có thể, chư vị hộ pháp đã có mặt cho tôi ngay những phút giây đầu tiên đó. Bảy ngày đó đến bây giờ vẫn còn là một bí mật. Tôi đã đi đâu? Đã làm gì? Ai đã “chứa chấp” tôi trong những ngày này?

Tắt nguồn máy di động, không liên lạc bất cứ một ai. Với tôi, những ngày đó quả thật đã un đúc mạnh mẽ hơn chí nguyện của mình. Nhưng còn ở nhà, một tai họa lớn đã xảy ra. Với một gia đình từ lâu nay được nhìn với cặp mắt gia giáo, mẫu mực, việc bỏ nhà đi của một đứa con gái là một chuyện không thể tưởng tượng được. Hơn nữa, trước đó trong mắt mọi người tôi quả là người hạnh phúc, có đầy đủ gia đình huyết thống và tâm linh bên mình, không hề tỏ một thái độ nào “chán đời” hết. Cả nhà cuống cuồng lên, gọi điện khắp hết tất cả những ai có can hệ tới tôi. Tôi đâu biết rằng chuyện “nó bỏ nhà đi rồi” là một cái gì đó rất tủi nhục và xấu hổ vô cùng cho cả nhà… Chuyện ầm lên tới chùa Tổ. (Có một thời gian ba tôi có giúp quý Thầy học ngoại ngữ nên nhiều Thầy rất thương quý ba. Còn tôi thì khỏi nói, ngày mô mà tôi chẳng có mặt.) Tin tôi bỏ nhà đi làm ai cũng sốc. Chẳng hiểu chuyện gì xảy ra trong cái gia đình mà ai ai cũng nghĩ là quá ư lý tưởng đó. Ba tôi lên cầu cứu Sư thúc, cầu cứu Thầy giáo thọ, hy vọng có chút manh mối để lần tìm nơi tôi ở. Nhưng như tôi đã nói, tôi không hề liên lạc với một ai. À, chỉ có một người (tôi xin giấu tên) nhưng cũng chỉ để hỏi xem tình hình gia đình và xem ba đã có đổi ý gì chưa mà thôi.

Nhưng tôi đã tính sai nước. Tôi cứ hy vọng là mình bỏ nhà đi như vậy chỉ một vài hôm thì ba sẽ thay đổi. Nhưng không hề. Ba tôi còn cao cơ hơn tôi nhiều! Tôi không thể ở ngoài lâu hơn được. Vấn đề không phải là chỗ ở mà chính là công việc của tôi chỉ sắp xếp nhờ người dạy thế chỉ được chừng đó thôi. (Lúc này, tôi chưa có tin tức gì về giấy tờ bảo lãnh đi Làng nên chưa dám nghỉ việc.) Tôi đành vác mặt lủi thủi về. Thời gian này là gần Tết. Và chính tôi đã làm cho không khí gia đình thật khó thở vào những ngày đúng ra là phải vui vẻ để đón Xuân. Tôi về, càng lầm lỳ hơn trước, chẳng nói chẳng rằng gì, hỏi đi đâu tôi cũng chỉ làm mặt ngầu im lặng. Vào phòng đóng cửa không tiếp xúc một ai, chỉ ra ngoài khi có giờ lên lớp. Lúc đó, thật tội mẹ vô cùng, mẹ đâu có cản trở tôi, nhưng vì là người đứng giữa nên mẹ đã khó xử như tơ vò trăm mối. Giận ba, tôi cũng không còn sáng suốt để không giận lây mẹ và các em. Tôi chặm bặm cái mặt thật khó coi trong suốt một thời gian dài. Tôi đã nói trong bụng rằng muốn tôi vui lên, chỉ có một cách: cho tôi đi tu. Nếu không, thì phải rán chịu vậy!

Ai tính được những cơn đau chợt đến

khi giữa lòng bao day dứt

vấn vương. (*)

Tôi lẳng lặng sắp xếp mọi chuyện ở trường. Từ chối lần những giờ dạy. Tôi cáo bệnh và xin được nghỉ một thời gian để đi xa trị bệnh. Đơn giản chỉ có thế, nên trên trường coi như không ảnh hưởng gì. Tôi nghe nói là trong một năm đó, họ cứ gọi điện nói mẹ tôi qua trường nhận lương về cho tôi có chi phí trị bệnh. Mẹ không biết phải nói thế nào về thiện ý đó của họ. Nhận thì không được rồi, nhưng phải nói làm sao đây. Một năm sau, khi tôi đã ổn định bên này rồi, mẹ tôi mới dám nói sự thật.

Sư cô Chân Không đã lo cho tôi đâu vào đấy mọi giấy tờ và gọi tôi phải ra gấp chùa Đình Quán để chuẩn bị đi phỏng vấn. Chỉ đợi có thế và tôi quyết định lên đường ngay. May vô cùng là những ngày này ba tôi đi công tác xa. Mẹ và mấy em tôi tiễn lên ga Huế để ra Hà Nội vào một đêm mưa. Buồn não ruột. Trong tôi, lúc đó dù có thích tu mấy đi nữa cũng thấy đau buốt trong lòng khi thấy cảnh dưới toa tàu mẹ đang đưa tay lau vội hai dòng nước mắt. Rồi ba về, mẹ sẽ ăn nói thế nào đây? Thương mẹ một mình, có chịu nỗi trời đông! Gia đình sẽ phải chịu đựng không khí âm u này đến bao giờ? Một sự chịu đựng phi thường như trước đây mẹ đã từng như vậy, đang hiện lên trên khuôn mặt hao gầy của mẹ. Tàu chạy. Tôi khóc như mưa trút nước. Khóc thật đã đời, vì trước đó tôi bận đóng mặt ngầu, lạnh lùng như sắt đá nên chẳng có giờ nghĩ đến chuyện khóc.

Ngồi trên tàu, tôi gởi cho ba một tin nhắn nhỏ, xin ba tha thứ là tôi đã lên đường. Và đau đớn thay, tin nhận được là một lời khẳng định rằng từ nay đừng có liên lạc gì với ba nữa hết. Ba đã từ tôi. Nói là từ nhưng ba chưa chịu dừng việc cản bước của tôi đâu. Ba tiếp tục lên cầu cứu với Sư thúc và Thầy giáo thọ. Nghe nói ba đã quỳ dưới chân hai vị đó và khóc thật thảm thương. Ba tìm đủ mọi cách, từ điện thoại, đến email, ba gởi thư qua tới Làng, gởi hết tất cả những địa chỉ email của các xóm từ Thượng, đến Hạ, và xóm Mới, nói là tuyệt đối không được nhận tôi. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi tôi mới tới Làng ngày đầu thì ai cũng tới hỏi: Ủa, em là Tm  ở Huế phải không? Như thể là tôi đã được nhắc tới từ lâu rồi. Thì ra là ba tôi đã vô tình làm cho tôi “nổi tiếng” ngay khi chưa có mặt ở Làng. Mẹ còn bật mí là ba đã nói mẹ lục tìm hộ chiếu của tôi khắp nơi, nhưng may là không tìm ra. Tôi thật là không cố tình cất kỹ, nhưng có thể chư Bụt đã giúp tôi.

Những ngày ở Đình Quán cũng hồi hộp không kém. Tôi ngày đêm cầu nguyện cho giấy tờ được thông suốt để bay cái vèo tới đâu cũng được, miễn là ra khỏi VN để khỏi lo gia đình bắt về. Biết tôi đang gặp nhiều khó khăn từ gia đình, giấy tờ lại trục trặc, Sư Cô Chân Không luôn gọi điện về khích lệ tinh thần tôi, gởi kèm lời nhắn thương yêu của Sư Ông nữa, nên trong tôi đang được tiếp sức. Tôi mang ơn Sư Thầy Đình Quán vô cùng. Hai tháng ở đó thật quý giá với một người đang xin được tập sự xuất gia như tôi. Tôi học được rất nhiều qua thân giáo của Người, qua sự khiêm hạ và hết lòng có mặt cho những chướng ngại vật đầu tiên trong quãng đời tu sau này của tôi. Không có sự cưu mang, đùm bọc đầy tình thương lẫn tuệ giác của Người thì chắc chắn tôi đã bị túm cổ về rồi. Hết ba, đến ôn nội tôi liên tiếp gọi ra chùa và nhất định đòi Sư Thầy đừng cho tôi “tá túc”. Sư Thầy thật thông minh vô cùng và chính Sư Thầy đã cứu tôi sau cú điện thoại đó. Tôi nhớ chiều đó Ba tôi gọi ra và cho Sư Thầy hay là sáng mai ba sẽ ra bắt tôi về. Rứa là Sư Thầy nói liền: Anh đừng có mà dại. Anh muốn mất con gái thiệt hay không? Thà nó ở đây thì anh còn biết đường mà lần. Còn nếu tôi cho nó biết là ngày mai anh sẽ ra đây, chắc chắn nó sẽ trốn chùa đi trong đêm nay và lúc đó thì tôi cũng không biết nó ở đâu mà giúp anh luôn. Anh tính sao? Có định ra nữa hay không? Nếu còn chút sáng suốt, xin anh đừng lên đường…”

Và ngay tối đó, Sư Thầy cho gọi tôi vào và quyết định ngay: Khuya nay 4 giờ, con sẽ được Thầy xuống tóc. Tôi khá bất ngờ, nhưng hiểu ngay liền rằng dù gì cũng phòng hờ lỡ ngày mai ba làm liều ra tận đây thì… đầu cũng đã rụng tóc! Và Sư Thầy cũng đang tính đưa tôi qua một ngôi chùa khác ở lánh (đi trốn) vài ngày. Hình ảnh đêm khuya hôm đó tôi không thể nào quên. Trên chiếc gác xép phía sau chùa, Sư Thầy Đàm Nguyện cùng Sư Thầy Tịnh Quán và một vài sư cô khác nữa đã làm lễ xuống tóc cho tôi. Chỉ xuống tóc thôi chứ không nhận giới gì hết, nhưng đó là buổi lễ tiền xuất gia của tôi. Thật ấm cúng và cảm động vô cùng.

Giữ mình giữa những phù vân

thì mây phiền não

khó gần

được ta. (*)

Suốt một năm rưởi tôi và ba không liên lạc nhau. Nhưng thú thật là tôi luôn canh cánh bên lòng những thao thức, trăn trở tìm cách gỡ mối tơ vò trong lòng ba và tôi. Nói là không để tâm nhiều, nhưng sâu thẳm trong tàng thức tôi nó đang hướng về. Sau ngày tôi đi tu, ba tôi cũng đi nghiên cứu thêm ở Mỹ khoảng 8 tháng và thế là… cơ hội đã đến!

Ba tôi là một giảng viên đại học, nhưng đồng thời cũng là một nhà thơ. Ba đi công tác nhiều lắm, trong nước cũng có, ngoài nước cũng có. Mà lạ là chỉ những lần xa nhà thì ba mới ra thơ.

Đời anh

những cuộc hành trình

đi xa là để

thấy mình

rõ hơn. (*)

Tôi thích thơ ba lắm. Thơ ba nhẹ như hơi thở và sâu thẳm vô cùng.

Tôi không thể dùng lý luận để thuyết phục ba tôi, vì về lý, ba chẳng cần tôi phải nói gì thêm. Đọc thơ ba cũng đủ thấy là ba tôi thấm đạo đến đâu rồi. Nên tôi biết, có cố gắng thêm gì cũng càng bít lối giữa ba và tôi. Tôi không thể nói chuyện về lý tưởng nọ kia gì ráo với ba. Tôi tiếp tục im lặng, chỉ chú tâm lo về phần tu học của mình trước đã. Bẵng tin một thời gian, một hôm mẹ tôi gọi điện qua với một giọng rất vui. Mẹ khoe liền: “Con biết không, ba bây chừ thay đổi rồi, ba được gặp lại một người bạn học cũ, và bác ấy dẫn ba đến sinh hoạt chung với Tăng thân Lá Bối ở Cali.”

Bạn ngồi ngẫm phù vân

Tôi đứng nhìn danh lợi

Thôi rong tìm, trông đợi

Thong thả mỗi bước chân. (*)

Một buổi nọ, theo lời kể của ba sau này, ba tôi ngồi thật yên bên chung trà và ba đã òa khóc khi nghe bài “Tìm nhau”.

Con đã tìm ra Thế Tôn

Con đã tìm ra con

Nước mắt con không cầm nổi

Một cơn xúc động đã xâm lấn cõi lòng của ba, hay chính vị Bụt trong ba đang rơi những giọt nước mắt tỉnh thức. Ba chợt nhận ra những sợ hãi, lo lắng, những bất an… của những ngày qua… Bây giờ mới có giờ lắng lòng, nhìn lại,…

Dù cho đất trời đã lên cơn bão tố,…

nhưng cuối cùng trong con

mưa cũng tạnh,

mây cũng tan

nhìn ra cửa sổ con thấy vầng trăng khuya đã hiện

và đất trời đã thật sự bình an.

Qua bài hát Tìm Nhau, ba tôi đã thật sự cảm thông khi chạm đến mối tình thầm kín và linh thiêng của con gái mình với Bụt, với Tăng thân khi nó quyết định bỏ lại sau lưng tất cả để đi theo tiếng gọi cao cả ấy. Thế Tôn đã chờ đúng thời điểm để lên tiếng gọi. Và chính ba đã mở cánh cửa lòng mình để đón chào phút giây mầu nhiệm ấy. Cánh cửa đã mở ra thật rồi. Đã mở ra một lần và sẽ mở ra mãi mãi. Đâu phải ai cũng may mắn có được những giây phút linh thiêng chấn động tâm can như vậy trong đời mình! Từ sau giây phút đó, có thể nói ba tôi không còn là ba tôi trước đây nữa.

Tôi thấy rõ là không phải Bụt trong ba trước đây đã ngủ quên mà chính Bụt đang thử lòng tôi. Tôi chẳng tu tập gì giỏi cho lắm đâu, chỉ là phước đức ông bà để lại nên tôi đã nương theo mà may mắn leo qua nổi đoạn đèo dốc cao thật là cao ấy. Thú thật là có lúc tôi cũng đã hụt hơi. Và chính những người leo núi cùng tôi luôn có mặt tiếp sức cho tôi kịp lúc.

Chưa gánh nặng qua đời

lưng chưa đẫm mồ hôi

làm sao đến

phút nhẹ rơi của lá?

Phải đi từ cái xanh biếc của chồi

cái hồng thơm của quả

mới hiểu hết sắc vàng của những chiếc lá khô. (*)

Tôi chỉ mới kể đôi chút những truân chuyên vào khoảnh khắc tôi quyết định dứt áo ra đi. Cũng còn khá nhiều những ngõ ngách mà tôi đã phải “luồng lách” để đi qua. Khá vất vả. Nhưng nghĩ lại, giai đoạn đó sao mà tâm tôi cứng như chì vậy đó, chẳng gì lay chuyển nỗi tôi, dù đó là tình phụ tử. Thật ra, không phải tôi không bị mềm lòng đâu, nhưng sự thật là tôi có một niềm tin rất lớn rằng với đời sống xuất gia, với công phu tu tập của tự thân thì một ngày rất gần ba tôi sẽ thấu hiểu. Cảm ơn ba thật nhiều đã âm thầm tạo ra những nghịch duyên để giúp tôi thấm sâu hơn cái sắc vàng của những chiếc lá khô.

Với tôi, mãi mãi vẫn là phút đầu tiên, là tâm ban đầu dũng liệt phi thường, là khởi điểm cho dòng suối tâm linh tìm về nguồn cội. Phải đi qua những thác ghềnh, ngay những phút đầu tiên, như ba tôi vẫn thường nhắn nhủ: muốn có ngay không dễ, phải lao nhọc đầy vơi. Đúng thật, phải đầy vơi những niềm đau, thì hạnh phúc mới chín ngọt.

Hạnh phúc không vào đời

bằng

lối đi riêng

dễ gì đến đại dương

phải làm mưa vào đất.

Vượt sa mạc vàng khô

dòng nước sẽ

thanh khiết nhất

trước mặt

biển rồi

vực thẳm

vẫn chờ kia.(*)

Ba tôi vẫn luôn cho tôi những homework (bài tập về nhà) để làm, để chơi, để thử sức mình. Bây chừ nhìn lại, Chuyện xưa như mới hôm qua, quay nhìn sao nắng cứ nhòa lên mi. (*)

Xin được cảm ơn tất cả những nhân duyên để tôi được làm con của người. Nếu được sinh ra trở lại, tôi cũng xin được chọn ba là ba của tôi, và tiếp tục tôi cũng sẽ xin người được xuất gia. Lúc đó, có thể người sẽ chỉ mỉm cười và cú cho tôi một cú thật đau trên đầu: “Ngốc nì, đã “lỡ” tu rồi thì phải tiếp tục thôi chứ xin xỏ gì nữa hả. Con của ba, không đứa nào được phép bỏ dở nửa chừng con đường đang đi, nghe chưa!?” Chỉ một hướng tìm, chỉ một phương đến. Chỉ một. Nhớ nhé, nghe tôi!

Có dịp ngồi chơi với huynh đệ, với chị em chúng tôi bên bếp lửa hồng, chắc chắn bạn sẽ được nghe nhiều hơn nữa những câu chuyện ly kỳ và hấp dẫn. Có người đã chọn hạnh im lặng, có người có duyên được sẻ chia. Dù nói ra hay chưa nói ra, thì tận sâu thẳm trong lòng tất cả anh chị em áo nâu chúng tôi xin được cúi đầu đảnh lễ những người mẹ hiền, những người cha trung kiên đã hết lòng yểm trợ để anh chị em chúng tôi được hội ngộ dưới cùng một mái nhà tâm linh. Đặc biệt, xin tri ân những ba mẹ đã “hết lòng” cản ngăn chúng tôi vào những ngày đầu chúng tôi xin được lìa xa vòng tay ấm của người. Chính trên những lớp bùn quý giá đó mà những đóa sen thơm đang hiển lộ ra từng ngày. Càng tu, chúng con càng hiểu hơn những tình thương thầm lặng đó. Tấm lòng ấy vẫn luôn dõi theo mỗi bước chân, mỗi chặng đường chúng tôi đi qua. Bây giờ và mãi mãi.

Trong tôi có cái gì đang tràn ngập cõi lòng…

Nơi đây, một tấm lòng son, hướng về người…

Đợi gì đến bình minh

môi mới nở nụ cười

khi đôi mắt đêm qua

đã một vầng trăng sáng.

lúc trong trái tim

mặt trời

bừng cháy nắng

chưa hái được hoa hồng

ta vẫn thấy

niềm vui. (*)

———————————

(*)Thơ ba tôi

Con đi xuất gia mẹ nhé

 

Kính gửi mẹ!

Con là đứa con gái út trong gia đình và cũng là đứa con được đón nhận tình yêu thương, sự lo lắng của mẹ dành cho nhiều nhất. Mặc dù mẹ không bao giờ thể hiện nhưng con hiểu rõ lắm mẹ ơi.

Thương mẹ, con đã cố gắng thật nhiều trong học tập, công việc và ngay cả sinh hoạt cuộc sống… khi con sống xa nhà, xa mẹ.

Con luôn tìm cách để đạt những gì thành công nhất như những gì mẹ mong muốn. Con biết đây là những gì con có thể làm để cho mẹ không phải ái ngại với những hàng xóm láng giềng phải không mẹ ?

Nhưng có một việc mà con đang làm mẹ buồn và lo lắng khôn xiết. Đó là việc khi nào con mới lấy chồng. Mỗi lần con gọi điện cho mẹ hay về quê thăm gia đình, con luôn phải tránh né điều này. Cứ khi con nói chuyện với mẹ được một lát, mẹ lại “hát” cho con nghe “bài ca lấy chồng”. Thực sự, lúc đó con cũng buồn lắm mẹ ạ. Vì để mẹ buồn, mẹ lo cho tương lai của con.

Song mẹ ơi, mẹ có biết con cũng đang khổ tâm như thế nào không? Mẹ có biết, khi con biết đến đạo Phật là lúc con đã tâm nguyện đi xuất gia không ạ? Con đã thầm nhận diện đây là con đường rất phù hợp và phải cố gắng đi theo hơn là con đường xuất giá. Do vậy, con đã quyết định theo tâm nguyện ấy.

Nhiều lần con muốn bước trên con đường đạo nhưng con lại nghĩ về mẹ. Về những gì mẹ đang mong muốn ở con nên vẫn đang chần chừ vì không muốn mẹ phải buồn về con.

Vì lẽ đó mà trong lòng con khổ tâm lắm, phiền não lắm, mẹ có biết hay chăng? Vâng, mẹ làm sao mà biết được chứ vì con đã bao giờ thể hiện những điều này cho mẹ biết đâu. Mẹ vẫn luôn nghĩ rằng: con đang làm công việc liên quan đến Phật giáo nên hay phải đến chùa. Mẹ chỉ biết vậy thôi, chứ chưa hề biết tâm nguyện của con.

Con biết nếu bây giờ con nói rằng: “con sẽ đi tu” thì chắc mẹ buồn về con vô cùng phải không ạ? Nhưng có lẽ nào mẹ lại muốn con phải sống “bồng bềnh” giữa ngã ba đường đời như thế này hay sao? Con đã mệt mỏi khi phải gồng mình lên bởi những cố gắng để vượt qua những phiền não đó rồi mẹ ơi.

Con biết mẹ thương con nên mẹ mới mong thấy con cái lập gia thất, có con cái… như bao gia đình khác. Thế nhưng con lớn rồi, đã đủ chín chắn để nhận diện được con đường đi cho mình rồi mẹ ạ.

Vì vậy, con mong mẹ hãy hiểu và chấp nhận sự lựa chọn của con, mẹ nhé. Dù con là người ở tại gia hay xuất gia thì con vẫn là con của mẹ cơ mà. Con có mất đi đâu phải không mẹ.

Mẹ hãy an tâm mẹ nhé!.. Đừng lo lắng điều gì khác mà hãy mỉm cười và hạnh phúc khi con đã có được con đường đi mà đó là con đường đẹp nữa chứ.

Con yêu và thương Mẹ nhiều!

Con của Mẹ

Tâm Đức Hậu

May Mắn Một Con Đường

Thầy Pháp Cứ được xuất gia trong gia đình Cây Lê, tại Bát Nhã, vào năm 21 tuổi.

Thầy là người con có hiếu với ba mẹ cũng như với Tăng thân. Thầy tu học rất hết lòng.

Hiện tại thầy đang ở Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu.

“Nắng lên ngập lối em về

Hoa thơm cỏ lạ hồn quê vẫn còn

Nơi đây một tấm lòng son

Nơi đây chí nguyện mãi còn trinh nguyên.”

Cho đến bây giờ con chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ từ bỏ cuộc sống xuất gia của mình, thời gian bốn năm không phải là dài. Sau bốn năm tu học so với con đường phía trước, nó chỉ mới là bước khởi đầu cho cuộc hành trình, đó là một cuộc hành trình mà con phải đi qua để có thể hiểu được chính mình và làm an lạc cho thế giới.

 

Chư vị tổ sư đã sống một đời sống tỉnh thức, không cạnh tranh, không tiền bạc, không chạy theo bất cứ một danh vọng nào của thế gian. Quý Ngài thật trong sáng, tự tại. Con hay đặt câu hỏi tại sao các Ngài làm được như vậy, trong khi đó bản thân mình thì đi theo con đường ngược lại, tìm kiếm thật nhiều tiền để thỏa mãn lòng tham, sống trong  nghi ngờ, ganh tỵ, luôn tìm cách để có lợi riêng  mà không nghĩ đến cái khổ của người khác. Có những lúc con tự hỏi: “Mình là ai, mình đang làm gì?” Song đến bây giờ con mới có thể hiểu được một phần nào đó từ câu hỏi này. Thật may mắn cho con, nhờ phước duyên từ kiếp nào mà con đã được Bụt, Tổ và tăng thân cho con cơ hội tìm lại con người thật của mình để có thể trở về được với bản chất trong sáng và tinh khôi, bản chất của sự không kì thị, trách móc, lên án với bất kỳ ai như lời Thầy thường dạy. Và con có thể sống thanh nhàn, tĩnh lặng mà không phải là con của bốn năm về trước, một người trẻ sống với nhiều tham vọng, lo lắng, chỉ biết lao vào làm việc quần quật để mong sao kiếm được thật nhiều tiền và xây dựng một tương lai mơ hồ trong tâm trí…. Vậy mà khi đó con cho những điều như vậy là hạnh phúc và thành công.

 

Nhân duyên khiến con đi xuất gia có thể là do cảm nhận được quá nhiều đau khổ của cuộc sống và của chính bản thân mình. Có những lúc con cảm thấy mình tuyệt vọng tột cùng, muốn lìa xa cuộc đời để trốn chạy tất cả…Nhưng con cũng thầm biết ơn vì chính nhờ nếm trải được mùi vị của khổ đau mà giờ đây với đời sống xuất gia con càng thêm tin tưởng và trân quý những điều kiện mà con đang có được. Nhờ những khổ đau mà con nhận ra được những nhiệm mầu vốn có của sự sống.

 

Quán chiếu và nhìn lại tính tự lập mà con có được một phần cũng do hoàn cảnh khó khăn từ nhỏ tạo nên. Học xong lớp mười hai con vào Sài Gòn để đi học, trong thời gian đó con đi làm thêm để kiếm tiền phụ anh chị trả tiền ăn, tiền phòng. Con có thể tự lo cho cuộc sống của riêng mình mà không phải nhờ sự giúp đỡ của các anh chị nhiều. Con làm bồi bàn cho một nhà hàng không lâu thì may mắn được chọn làm đầu bếp. Chính thời gian làm ở đây đã cho con học hỏi được nhiều bài học từ cuộc đời. Người đến ăn trong nhà hàng thường là những người có tiền nên đa số họ rất kiêu ngạo, xem người làm, người phục vụ như đầy tớ. Vì mong kiếm được tiền cho nên con đành phải chấp nhận tất cả, hơn nữa nếu mình không làm vừa lòng khách, thì sẽ bị chỉ trích vì lần sau khách có thể sẽ không đến…

 

Một bạn cùng làm tâm sự với con rằng: “Cuộc sống là vậy đó, người nào có học thức, có chút tiền tài thì không phải khổ như tụi mình.” Điều con cảm nhận trong câu nói ấy là sự thiếu vắng tình thương giữa con người với con người, tại sao lại đối xử với nhau như vậy? Khoảng mấy tháng sau con cùng một người bạn ra mở quán ăn ở bên ngoài. Rồi khi quán cơm được hình thành khoảng năm tháng thì những khó khăn bắt đầu xảy đến cho con với biết bao điều buồn tủi, giận hờn khổ đau…. Sau đó con là người phải ra đi. Với con lúc này mọi thứ như đen tối hẳn đi, con chỉ muốn quên đi tất cả. Đối với con lúc đó, cuộc sống thật vô vị, sự ngột ngạt như bao trùm cả một không gian và con cảm thấy hướng đi gần như bít lối. Con trở về nhà anh chị và không làm gì nữa. Chính trong thời gian này, con bắt đầu cảm nhận được sự sống tâm linh của mình. Lúc này tự nhiên con muốn ngồi thiền, đọc những quyển sách về giáo lý của đạo Bụt mà con mượn ở quê của một nhà người quen (nhà ba sư cô Thiện Nghiêm). Ngày qua ngày, dần dần con tìm lại được chính mình nhiều hơn, vì không muốn làm cho ba và anh chị buồn, nên con làm giấy tờ để đi học lại.

 

Sau khi có giấy báo học con về nhà thăm Ba và lấy tiền đóng tiền học, con cũng không quên đi mượn thêm một vài Kinh sách Phật giáo để đem theo. Trước khi đi con tình cờ gặp được Thầy Giác Hưng, ngồi nghe Thầy nói chuyện rồi Thầy lựa cho con những quyển kinh phù hợp. Con không ngờ rằng sau cuộc nói chuyện đó hạt giống xuất gia trong con được nảy mầm. Một tuần sau, con lấy tiền của nhà và chào Ba để đi nộp học mà không nói gì về chuyện muốn đi xuất gia vì sợ Ba buồn. Bởi trong số bảy anh chị em, con là người duy nhất còn đi học nên ba dành rất nhiều ưu tiên và hy vọng ở con, mong con có chút kiến thức để sau này không phải vất vả như các anh chị. Nhìn ba con thấy rất thương và muốn làm cho Người vui lòng khi về già. Ngồi trên chuyến xe khách để vào Sài Gòn mà trong đầu con cứ phân vân và suy nghĩ mãi không biết nên chọn con đường nào đây? Đi xuất gia hay đi học? Con bắt đầu đi lạc vào những dòng suy nghĩ, bao nhiêu nghi vấn về đời sống xuất gia tràn về, không biết trong chùa sống như thế nào? Nếu đi xuất gia thì liệu có hạnh phúc không? Mình sẽ làm gì khi ở đó? Rồi  trong đó có sự giận hờn, trách móc nhau không?… Còn nếu đi học gặp lại những chuyện như trước đây thì phải làm sao?… Nhìn qua cửa kính xe, cảnh tượng người chen chúc, vội vã, cuốn theo những bon chen của dòng đời. “Rồi mình cũng sẽ như họ sao?”, con tự hỏi. Xe vẫn không ngừng lăn bánh để hướng về Sài Gòn. Khi gần đến chùa của Hòa Thượng thì con nói bác tài xế cho xuống rồi gọi xe đi lên cốc của thầy Giác Hưng. Thật không thể tưởng được sự bình an và yên tĩnh nơi đây. Cốc của Thầy thật đơn giản, chỉ toàn bằng tre, xung quanh có rất nhiều cây lớn với bầu không  gian yên tĩnh làm lòng con lắng xuống nhiều. Sáng hôm sau con vẫn chưa tin là mình đang ở chùa cho đến khi tiếng chuông Đại hồng vọng lên con mới biết là mình đang nằm trên  một chiếc giường đơn sơ, con trầm tư và ý thức rất rõ hôm nay là ngày quyết định! Nếu không vào trường nộp tiền học trong ngày thì  phải đợi cơ hội năm sau.

 

Con đi dạo quanh khu rừng gần đó để suy nghĩ cho thật kỹ về quyết định của mình thì bỗng con nghe từ xa, một giọng đọc rất hay vọng lại. Bước chân con chậm lại và đặt khẽ xuống mặt đất để không bị những tiếng lá khô làm ồn, những lời đó con chưa từng được nghe. Từng lời như thấm vào tim con. Lát sau con vào cốc hỏi thì Thầy cho biết đây là sách đọc “Đường Xưa Mây Trắng” của Sư Ông. Hạnh phúc làm sao khi nhận thấy trong tâm mình có sự nhẹ nhàng và không có gì vướng bận. Vậy là con đã quyết định chọn hướng đi cho mình trong ý thức sáng tỏ về lẽ sống. Trở vào gặp thầy để nói ý định xuất gia của mình và con không mấy ngạc nhiên khi thầy nói con nên ở lại đây thêm nửa tháng nữa để nhìn nhận cho rõ về con đường mà con sẽ chọn. Trong thời gian này con viết đôi dòng xin lỗi ba và gửi số tiền lại cho gia đình. Mười lăm ngày ở cốc khiến tâm tư con mở rộng hơn, con không còn suy nghĩ nhiều nữa. Con được nghe thầy kể nhiều chuyện về đời sống tăng thân, cũng như những gì thầy biết qua băng giảng, điều đó đã cho con thêm nhiều niềm tin. Thầy dẫn con lên Tu viện Bát Nhã, nơi mà con chưa từng biết đến, rồi cũng chính nơi đây con đã tái sinh thêm một lần nữa. Con được sinh ra trong đời sống tâm linh.

 

Bốn năm nhìn lại sao nhanh quá, tuy vậy con thấy những tập khí trong con cũng được chuyển hóa khá nhiều. Cuộc sống của một người tu thật đẹp, lúc nào cũng hướng đến cái thiện, cái lành cho bản thân và cho mọi người. Nói đến đây lòng biết ơn sâu xa trong con tràn dâng. Con biết nếu không có Sư Ông, không có tăng thân … thì con không có được may mắn như ngày hôm nay, con không được trở thành một con người có hiểu biết, có tình thương và nhận ra được đâu là chân giá trị của hạnh phúc. Bên cạnh đó con được sống chung với những người mà trong tâm hồn, trong lời nói hay trong cách hành xử hàng ngày luôn ẩn chứa một tình thương vô hạn, ai cũng thật hiền, thật trong sáng. Đó là những sư anh, sư chị, sư em của con, những con người thích đem vui cho mọi người bằng cả tấm lòng của mình. Con mong cho tất cả những ai khi gặp phải những vấn đề khó khăn (có thể là như con trước đây) sẽ có cơ hội tiếp xúc với tăng thân và biết đâu sẽ tìm lại được cái mà mình nghĩ rằng có thể đã mất.

 

Tay trong tay đi chung một con đường

Năm nay con đã được hai mươi bốn tuổi, cái tuổi vẫn còn rất trẻ, vậy mà cảm thấy hối hận rằng tại sao mình không được gặp tăng thân sớm hơn, đi tu sớm hơn? Thêm một lần nữa con muốn nói rằng con thật biết ơn Sư Ông, người đã tạo ra tăng thân, đã truyền trao pháp môn cho chúng con tu tập, đã giúp cho rất nhiều người nhận ra được cuộc sống vốn tươi đẹp này! Những lúc khó khăn con hay nghĩ về hình ảnh của Sư Ông để làm nơi nương tựa và thực tập. Cám ơn tất cả những gì đã cho con có ngày hôm nay, con sẽ cố gắng thực tập và giữ gìn hoài bảo của Sư Ông và tăng thân.

 

Thế giới của chúng ta đẹp lắm, bây giờ nó có đẹp thêm hay xấu đi thì tất cả đang ở đây, trong tay của bạn, trong hơi thở ý thức trong tư duy, hành động …. từ cuộc sống hàng ngày của bạn.” Câu nói của Sư Ông làm con nhớ lại những điều không tốt mà con đã làm trước đây và cũng là cơ hội cho con có thêm ý thức bảo vệ cho hành tinh. Xin nguyện cầu cho những ai đang làm cho Đất Mẹ khổ bằng những chương trình thử vũ khí, khai thác khoáng sản, tài nguyên vô tội vạ và làm ô nhiễm nguồn nước… Thì xin dừng lại ngay bây giờ để cho tương lai còn có mặt.

 

EIAB mùa đông 19/12/2011

Con của tăng thân.

 

Thích chân Pháp Cứ

Duyên thầy trò

 

Trăng Phổ Đà

Câu chuyện tôi bắt đầu từ một người bạn thân: Jenny mà tôi đã quen 20 năm về trước. Lúc đó tôi mới trở về từ một chuyến đi nghỉ mát từ Âu Châu và đang tìm một công mới. Trước khi bước sang công việc mới, tôi đã có một việc làm tạm ổn và đó là thời điểm tôi quen cô Jenny. Chị ta đã mở con đường tâm linh và giới thiệu tôi tới Làng Mai.

Jenny đã giới thiệu tôi tham gia vào chương trình Tái thiết lập gia đình (family reconstruction therapy workshop) được hướng dẫn bởi một vị Thiên chúa giáo. Chị đã dạy tôi thở và tiếp xúc được với sự mầu nhiệm của thiên nhiên. Một thời gian sau chị đã kể với tôi rằng tuy chị là một người gốc Thiên chúa giáo nhưng chị cảm thấy gần gũi với Sư Ông và pháp môn của Làng Mai. Cuối buổi sinh hoạt chị tặng tôi một danh sách của những cuốn sách để tôi có thể dùng tham khảo thêm. Cuốn sách của Sư Ông, “Living Buddha, Living Christ” ( Bụt ngàn đời, Chúa ngàn đời) là một trong những quyển sách trong danh sách đó. Vì tôi đã được học trong những trường Thiên chúa giáo từ nhỏ, tôi đã rất quen thuộc với Kinh thánh và đã cảm kích bởi niềm tin và hạnh phúc của những người bạn Thiên chúa giáo của tôi. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh gia đình, tôi không có cảm thấy thỏa mãn với truyền thống thiên chúa giáo và Tin lành hoặc tin tưởng rằng niềm tin nơi tôn giáo được xác định bởi Thượng đế. Câu hỏi, “Ai là Thượng Đế?” làm cho tôi bối rối. Hơn nữa tôi cảm thấy sự va chạm giữa đức tin tổ tiên huyết thống của tôi và những người theo đạo Tin lành.

Tôi là một người Trung Quốc và bà ngoại thực tập đạo Bụt rất tinh tấn nhưng có lẽ là theo đạo Lão nhiều hơn (Người Trung Quốc thường có sự lẫn lộn giữa đạo Bụt và đạo Lão). Nhà chúng tôi có một bàn thờ với những tượng Bụt và Bồ Tát. Bà ngoại của tôi đã dành nhiều thời gian để tụng kinh và niệm thần chú. Bà ngoại của tôi đã ăn chay trường và ăn riêng từ gia đình của bà. Mỗi cuối tuần đều đi lên chùa để nghe pháp thoại và lâu lâu tôi đi theo bà ngoại của tôi. Tuy tôi đã được dạy bảo rằng tôi đã được quy y Tam Bảo từ thuở bé nhưng tôi không bao giờ cảm thấy có sự truyền thông với Tam Bảo. Bên cạnh đó, tôi có sự cảm hứng hơn khi tôi gặp những khuôn mặt hạnh phúc từ những người theo đạo Thiên chúa giáo và Tin lành hơn là những người thờ cúng với nét mặt long trọng tôi gặp ở chùa mà bà ngoại tôi hay tới. Sau khi được đọc cuốn sách “Living Buddha, Living Christ”, tôi rất hạnh phúc khi thấy được con đường Sư Ông đã kết nối Bụt và Chúa như hai anh em.

Gia đình tôi tuy không giàu có nhưng cũng không hề thiếu về  vật chất, những thứ tiêu dùng hằng ngày rất đơn giản. Ba tôi là người đánh cá và gia đình chỉ gặp Ba hai ngày mỗi hai tháng và có lúc thì lâu hơn. Kết quả là mẹ tôi phải gánh hết những công việc nhà và chăm sóc năm đứa con dưới sự chỉ định của một bà mẹ chồng rất nghiêm khắc. Đã có nhiều trường hợp mẹ của tôi tuy  không đồng ý với bà nội của tôi nhưng  phải rất khiêm nhường xin lỗi bà tôi trước một đêm ba tôi trở về vì không muốn để cho ba tôi biết những chuyện đã xảy  ra ở nhà. Khi tôi còn nhỏ, tôi đã cảm được sự khổ đau của mẹ tôi. May thay, mẹ tôi là một người dễ chịu nhưng tôi biết mẹ tôi sống với nhiều sự căng thẳng. Thật ra mẹ tôi đã sống sót bởi căn bệnh ung thư. Có lẽ tôi đã bám vào sự khổ đau của mẹ tôi. Vì vậy khi mẹ hỏi tôi có hạnh phúc không, tôi luôn luôn trả lời một cách cho có lệ bởi vì tôi không thật sự biết hạnh phúc là gì. Tôi có một gia đình hòa hợp, luôn nâng đỡ tôi và công ăn việc làm ổn định nhưng khi nào tôi cũng cảm thấy có gì đó thiếu thốn. Cái cảm giác trống rỗng trong trái tim làm tôi khó chịu và kiến cho tôi háo hức để tìm một con đường tâm linh để tự giúp mình. Câu hỏi: “Tại sao tôi có mặt trên trái đất này?” luôn luôn nằm trong đầu tôi cho đến khi tôi gặp Sư Ông và tăng thân Làng Mai.

Năm 2005, có một người bạn chia sẻ với tôi hạnh phúc của chuyến đi thăm viếng Làng Mai và theo Sư Ông trong chuyến đi về Việt Nam lần đầu tiên. Tôi rất thắc mắc và tự hỏi Làng Mai như thế nào và cũng có sự mong muốn được cái hạnh phúc mà bạn tôi kể. Chị ta cho tôi mượn cuốn sách “Giận”.  Lúc đó tôi đã tích lũy sự giận hờn mà tôi tiếp nhận từ khách hàng trong công việc của tôi.  Trái tim của tôi đã quá đầy và không có không gian để có tình thương cho bất cứ ai, trong đó cũng có chính bản thân tôi. Tôi đã nổi giận rất dễ dàng và tệ nhất là tôi biểu lộ sự giận hờn của tôi đối với gia đình và bạn bè. Lời nói và hành động của tôi đã không dễ thương và làm tổn thương họ nhưng tôi thấy rất rõ là đó không phải là ý muốn của tôi. Tôi không muốn làm họ bị tổn thương. Tuy vậy tôi đã không có cách gì để giúp tôi tránh những trường hợp đó. Đồng thời, người bạn Jenny cũng mệt mỏi với công việc và muốn có thời gian nghỉ mát. Chị ta hỏi tôi có muốn đi chung với chị qua Làng Mai trong mùa đông không. Tôi trả lời “Được!” Nhưng chuyến đi đó đã không có đủ nhân duyên để thành sự thật.

Sự gặp gỡ đầu tiên của tôi với pháp môn Làng Mai là qua chuyến viếng thăm ngắn của phái đoàn Làng Mai ở Hong Kong vào tháng 4 năm 2006. Tôi đã thấy có cảm hứng với cách quý thầy, sư cô đi, ăn và cười.v.v… Lúc đó tôi đã mua vé qua Pháp rồi và trong mùa hè năm đó, tôi đã có đủ nhân duyên để thăm Làng lần đầu tiên trong cuộc đời tôi. Thư pháp, “Peace in Oneself, Peace in theWorld” ( Tâm bình thế giới bình ) của Sư Ông treo trong thiền đường Cam Lộ đã đánh động tôi. Thế giới mình đã và còn nhiều chiến tranh lớn và nhỏ xảy ra mọi nơi. Sự xung đột trong chính mình, trong gia đình, trong sở làm và trong xã hội và giữa những quốc gia. Chiến tranh đã đem lại rất nhiều khổ đau cho vô số người. Tôi nghĩ nếu mình có thể sống hòa hợp với chính bản thân mình thì mình cũng có khả năng để sống hòa hợp với mọi loài xung quanh mình. Tôi rất hạnh phúc được Sư Ông dạy là mình có thể phục hồi lại bình an với sự thực tập chánh niệm. Sự thực tập rất đơn giản nhưng rất sâu sắc. Mình chỉ cần trở về với hơi thở và có chánh niệm trong mỗi sinh hoạt hằng ngày. Tôi không cần ngồi lâu để tụng kinh và niệm thần chú như bà nội tôi đã từng thực tập. Khi mà mình có ý thức là mình đang thở thì đó là sự giác ngộ nho nhỏ. Điều đó có rất nhiều ý nghĩa đối với tôi bởi vì tôi thường nghĩ giác ngộ là một cái gì xa vời, khó mà đạt tới được. Mầu nhiệm quá! Tôi có thể áp dụng sự thực tập ở nơi nào và lúc nào cũng được. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc và trái tim của tôi đã mở rộng lớn hơn. Cuối khóa tu tôi đã thọ năm giới và nhận được pháp danh là Tâm Hướng An (Peaceful Direction of the Heart).

Khi trở về Hong Kong, tôi đã gia nhập vào tăng thân Hong Kong và tiếp tục thực tập với sự nâng đỡ của các bạn. Tôi đã rất may mắn được có cơ hội chuẩn bị cho chuyến đi Hong Kong của Sư Ông và tăng thân năm 2007. Tôi đã được sống chung với chúng xuất sĩ gần hai tuần. Đó là lần đầu tiên tôi cảm được cái hạnh phúc của tình huynh đệ và đó cũng là lần đầu tiên được gần gũi vị Thầy của tôi. Tôi có mặt hôm nay chắc có lẽ vì hạt giống đi xuất gia đã được gieo trồng trong lúc đó. Hạt giống của tôi không có đủ điều kiện để mọc bởi vì ba của tôi bị nằm liệt giường. Tuy hạt giống của tôi không có cơ hội được nẩy mầm liền, tôi rất mang ơn cơ hội để tiếp tục đi sâu vào sự thực tập và tiếp tục nâng đỡ Làng Mai ở Hong Kong bằng cách tổ chức những buổi sinh hoạt, khóa tu cuối tuần, ngày quán niệm.v.v. Mỗi khi tôi thấy các bạn thiền sinh rời nơi sinh hoạt tu học với một trái tim nhẹ hơn và mỉm cười được, tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Tuy nhiên bởi vì sự ngăn cách ngôn ngữ nên những người không hiểu được tiếng Anh ngần ngại để tham gia vào sự thực tập. Có những thiền sinh rất ngại để chia sẻ trong những buổi pháp đàm bởi vì họ không nói được tiếng Anh. Tôi rất mong rằng pháp môn Làng Mai có thể đem lợi lạc cho mọi người và có thể giúp họ tìm cách điều phục sự căng thẳng, sự thất vọng và hạt giống giận hờn.

Ba thương yêu của tôi, một người không theo đạo, đã sống với cơn bệnh trong 12 năm sau khi nhận ra là mình có bệnh cho đến ngày Ba mất. Trong lúc bệnh Ba tôi vẫn giữ được sự bình an. Ba tôi đã được phẫu thuật và tưởng rằng đã lành bệnh. Nhưng cơn bệnh không lành và gia đình của tôi chưa học được bài học. Chúng tôi luôn luôn tìm cách để chữa lành bệnh của Ba mà không biết là cách chữa hay nhất là chấp nhận và sống hòa hợp với cơn bệnh của Ba. Vì vậy, Ba tôi đã giải phẫu lần thứ hai và đã không thành công. Sau lần phẫu thuật thứ hai thì Ba tôi đã mất khả năng để tự chăm sóc mình. Mới đầu Ba tôi mất khả năng đi, chỉ dùng hai tay, thân không cử động được, không uống nước hay nuốt được bình thương, không nói chuyện được và dần dần thì không nhận diện được những người thương trong gia đình. Mọi người trong gia đình đều hết lòng góp bàn tay để chăm sóc Ba. Tuy nhiên, tất cả anh chị em tôi ban ngày phải đi làm và mẹ tôi phải gánh trách nhiệm chăm sóc Ba. Trong hai năm cuối của Ba tôi, mẹ tôi phải tự thân đút cho ba tôi ăn như chăm sóc một đứa bé nhưng khó hơn gấp hai lần. Khi Ba tôi nuốt không được thì Mẹ tôi không giữ được sự kiên nhẫn và thốt lên những lời không ái ngữ với Ba. Tôi biết trong trái tim của mẹ tôi đầy sự đau đớn khi thấy thân thể của người mình thương yêu hoại diệt từ từ. Anh chị em tôi cũng cảm được như vậy. Khi Ba tôi thấy nỗi đau đớn của mẹ tôi và tất cả thân phận trong gia đình thì Ba tôi từ chối ăn. Đó là những lúc khó khăn nhất cho cả gia đình. Với một trái tim đau đớn, tôi năn nỉ Ba tôi cho phép gia đình chăm sóc và xin Ba chấp nhận và sống với cơn bệnh cho đến ngày Ba ra đi. Dần dần Ba tôi cố gắng ăn lại tuy rằng mỗi bữa ăn là một sự hành hạ đối với Ba. Tôi biết sự cố gắng đó là cách Ba tôi biểu lộ tình thương đối với gia đình. Tôi vẫn nhớ buổi tiệc ăn mừng sinh nhật cuối cùng chung với nhau, tuy không ăn được nhiều nhưng Ba ngồi đó với gia đình và tôi thấy nước mắt của Ba chảy. Hình ảnh đó đã làm trái tim tôi nhói đau và tôi biết chắc mẹ tôi cũng trong tình trạng như vậy. Tôi rất ngạc nhiên khi nhận biết mẹ tôi đủ vững để nói với Ba tôi hãy thưởng thức giây phút quý báu là đang được ngồi chung với nhau. Chúng tôi đã cố gắng hết sức để giữ Ba tôi ở nhà bởi vì biết rằng khi Ba tôi nhập viện thì sẽ không trở về. Ba tôi đã nhập viện vào ba tháng cuối của cuộc đời trước khi đi vào cuộc hành trình mới.

Tôi thật sự mang ơn sự can đảm của Ba tôi trong lúc sống với cơn bệnh. Đó là một bài học quý báu cho gia đình và tôi. Tôi đã học được là cho dù mình khỏe cách mấy đi nữa, mình cũng không thoát được sinh, lão, bệnh và tử. Tuy rằng chỉ có tôi trong gia đình theo đạo Phật, gia đình tôi đã cho phép tôi sắp xếp đám ma theo truyền thống Phật giáo. Chúng tôi sắp đặt làm lễ Cúng Thất. Buổi lễ đầu tiên được tổ chức theo nghi lễ Làng Mai do Thầy Pháp Ấn hướng dẫn. Đó là cơ hội đầu tiên tôi giới thiệu mẹ tôi với pháp môn Làng Mai. Buổi lễ được diễn ra bằng tiếng Anh và có thông dịch qua tiếng Trung Hoa nhưng mẹ tôi vẫn không hiểu. Đó là một sự nhắc nhở về chí nguyện để đem pháp môn Làng Mai đến cho tất cả mọi người. Ngôn ngữ không là một sự chướng ngại để mọi người có thể tiếp xúc với chánh Pháp. Sáu buổi Cúng Thất sau được tổ chức theo truyền thống Phật giáo Trung Hoa. Tất cả mọi người trong gia đình đã tham dự các buổi lễ hết lòng. Sự ra đi của Ba tôi là cơ hội cho gia đình, nhất là mẹ tôi được tiếp xúc với đạo Bụt nguyên thủy.

Mọi người trong gia đình đã chấp nhận sự ra đi của Ba một cách nhẹ nhàng. Trong thời gian đó mẹ tôi giữ được sự bình an. Ba tôi mất vào tháng 3 năm 2010 và trong tháng 6 năm đó tôi đã tham dự khóa tu đầu tiên tại Phật Học Viện Ứng Dụng Châu Âu do Sư Ông tổ chức. Các bạn hữu trong đạo biết tôi có ý nguyện làm người xuất sĩ nhưng tôi cần sự nâng đỡ để ước nguyện đó thành sự thật. Những ngày cuối của khóa tu,tôi ngạc nhiên khi nghe bạn hữu của tôi thưa với Sư Ông là tôi có ý định đi xuất gia. Tôi đã thưa với Sư Ông là tôi sẽ qua Làng sau chuyến đi hoằng pháp của Sư Ông tại Hong Kong. Trong thời gian đó, tôi đã sắp xếp cho mẹ và em gái tôi nghe pháp thoại tại một ngôi chùa ở Hong Kong. Tôi đã mời mẹ tôi tham dự khóa tu của Sư Ông tổ chức tại Hong Kong để mẹ tôi có cơ hội tiếp xúc với Sư Ông. Tôi cũng thưa với mẹ tôi là tôi sẽ qua Pháp để học hỏi từ Sư Ông. Mẹ tôi đã không từ chối. Lúc đó tôi không có đủ can đảm để thưa với mẹ tôi là tôi có ý định qua Làng để xuất gia bởi vì mẹ và tôi rất gắn bó với nhau. Trước khi tôi bước ra khỏi nhà, mẹ tôi bảo rằng con đừng lo lắng bởi vì anh chị em của con sẽ lo mọi việc ở nhà. Lúc đó tôi thưa với mẹ tôi là nếu có đầy đủ điều kiện thì con sẽ xuất gia. Mẹ tôi khóc và tôi cũng khóc trong lòng. Tôi lập tức rời khỏi nhà bởi vì tôi không muốn mẹ tôi khổ bởi sự ra đi của tôi vào tháng 12 năm 2010. Tôi đã gọi mẹ tôi để xin phép xuất gia vào tháng 6 năm 2011.  Mẹ tôi đồng ý.

Sư cô Her Xuan (Malaisia); Sư cô Trăng Nga Mi (Malaisia);
Sư cô Trăng Mới Lên (Indonexia); Sư cô Trăng Phổ Đà (Hongkong)

Tôi rất mang ơn phước đức của ông bà tổ tiên để tôi có cơ hội đi trên con đường này. Trong tôi sự mang ơn tới Ba Mẹ, Thầy cô, bạn bè và mọi loại thật lớn. Nhờ sự nâng đỡ của mọi người mà tôi đã dễ dàng tìm được Thầy tôi. Ngay bây giờ và ở đây, tôi đang được đi trên con đường mầu nhiệm này. Tôi nguyện sẽ đi cùng với mọi loại và hồi hướng tất cả hoa trái của sự tu tập đến mọi loài.

Núi cao biển sâu

 

Trước ngày xuất gia tại chùa tổ Từ Hiếu

Chân tâm một quyết lên đường”

Sư cô Ân Nghiêm được xuất gia trong gia đình Cây Sen Vàng, năm 2009, lúc tu viện Bát Nhã bắt đầu xảy ra chuyện. Sư cô rất thiết tha trong việc tu học nên nhờ đó đã thay đổi cái nhìn của gia đình về việc đi tu của mình và còn hết lòng ủng hộ.

Tôi đã quen với mùi nước mặn từ thuở bé, vì mỗi lần con nước cạn tôi thích đi mò cua bắt ốc. Khi con nước lên làm tôi thêm háo hức, cùng với bạn bè ra bơi lội trên sông. Tuổi thơ êm đềm nhưng cũng lặng lẽ trôi đi như dòng nước sông quê. Trong ngôi làng nhỏ nằm trên vùng hải đảo, quê nghèo đã nuôi tôi lớn lên với nhiều kỉ niệm khó quên…

Nhiều người trong làng thường cho tôi là cô bé nghịch ngợm, cứng đầu, thứ hạng nhất nhì trong xóm. Vậy mà từ rất bé tôi hay đến chùa sinh hoạt trong gia đình Phật Tử. Nhờ đến chùa nên tôi sớm tiếp xúc với hình ảnh quý thầy, quý sư cô. Mỗi lần bắt gặp hình ảnh này, tôi cứ ngắm nhìn mãi. Tâm trí trẻ thơ của tôi bấy giờ, hình dáng người tu sĩ là biểu tượng cho một điều gì thiêng liêng thần thánh nhưng cũng khó diễn đạt để khái niệm rõ ràng về biểu tượng ấy.

Thật ấn tượng với những cái đầu tròn được cạo sạch tóc, với đôi mắt trong như hạt sương trên gương mặt  sáng tươi hiền lành, nhiều lúc tôi tự hỏi: “Sao đầu của các vị xuất gia tròn và sáng quá vậy? Hay là có thoa chất thuốc gì đó? Nếu mình rủ bỏ mái tóc xanh xinh đẹp này đi thì đầu mình có đẹp hơn vậy không?”. Rồi bất chợt một ý nghĩ lóe lên trong tâm tư: “Hay là, lớn lên mình sẽ xuất gia!” Khó có thể biết được điều gì sẽ đến, nhưng có một điều đã đến âm thầm trong trái tim tôi là một ước nguyện xuất gia được thắp lên từ ấy, dù không biết mình đi xuất gia để làm gì? Ước nguyện này như một ngọn nến soi tỏ tấm lòng, như ánh trăng khuya vằng vặc trên thái không mà tôi từng nhìn ngắm. Vì sao mình lại muốn đi tu? Câu hỏi đến từ trái tim mà tôi chưa lý giải được. Có thể đó là một suy nghĩ dễ thương trong tâm hồn đứa trẻ con.

Dì tôi là một nữ huynh trưởng gia đình Phật tử, dì rất có tâm phụng sự Tam Bảo nên bà thường dẫn tôi đi cùng trong những chủ nhật hàng tuần, ngày sinh hoạt gia đình Phật tử. Mỗi lần nấu xong thuốc cho thầy Trụ trì, dì hay dẫn tôi vào gặp thầy. Từ đó tôi biết đến thầy – vị thầy tâm linh đầu tiên của tôi. Lần đầu tiên tôi được thừa hưởng tình thương của một người thầy dành cho người đệ tử. Những lần đi học về chúng tôi thường xách dép lên tay, đua nhau chạy ngang qua chùa, thầy hay ra ngoài đường đứng đợi lũ con nít chúng tôi về cùng chơi. Thầy thương tôi lắm, nên một hôm thầy gọi:

–        Bé P, Con có muốn vào chùa ở không? Thầy nuôi. Con về nhà xin ba má, nếu ba má cho thì mang đồ xuống đây nhé!

Thầy nói xong, tôi vô tư đáp:

–        Dạ không!

–        Sao vậy con? Ở nhà ba má cho ăn cao lương mỹ vị quen rồi nên ăn chay không được chứ gì?

Tôi nghĩ thầm: “Thầy nói lạ quá, nhà mình có giàu gì đâu mà ăn những thứ sang trọng kia, mình ăn chay được chứ bộ…” Tôi nhớ cái thời tấm bé ấy bạn bè chọc nhà đứa này giàu, nhà đứa kia giàu là tôi dị ứng lắm. Không đứa nào chịu cho là nhà nó giàu mặc dù có khá giả thiệt. Huống hồ Ba Má tôi có cái gì đâu để gọi là giàu. Thế rồi tôi phân bua với thầy:

–        Thưa thầy không phải vậy đâu! Vì con chưa muốn đi

tu bây giờ. Lớn lên con mới đi.

Chùa quê nơi nào cũng mộc mạc chân quê. Tôi mến yêu mái chùa từ sự hoang sơ nghèo khó của chùa. Từ lâu chùa bị bỏ hoang, không một bóng người qua lại, không một đường chổi quét dọn, không một bàn tay chăm sóc. Cây bồ đề trước sân vẫn héo hắt trơ cành qua mấy mùa đông. Nét hoang sơ làm chùa thêm lạnh lẽo, nên mỗi lần qua ngỏ ai cũng có cảm giác sợ ma. Người trong xóm ai cũng cho quanh chùa rất nhiều ma. Từ lúc có thầy về chùa, xóm làng trở nên thân thiện ấm áp. Tiếng chuông đại hồng ngân vang trong sớm mai và trong buổi chiều tà đã xóa tan nhiều nỗi u uẩn sợ hãi trong lòng người. Gia đình Phật tử sinh hoạt trở lại, chủ nhật nào cũng là ngày vui cho tất cả mọi người. Nếu không có thầy về tu tập, chăm sóc cho ngôi chùa này thì hôm nay không biết chùa còn không? Hạnh phúc đã đến – với tôi chỉ có thế.

Tháng năm đi qua như vừa tỉnh một giấc mơ, từ một chú chim non mới mở mắt, chập chững trong đôi chân chưa cứng cánh chưa mềm, rồi một ngày nào chợt tung cánh bay cao. Từ ngành oanh tôi lên ngành thiếu, phụ các anh chị huynh trưởng hướng dẫn sinh hoạt đoàn và tập sự làm chị trưởng. Làm anh chị trưởng trong gia đình Phật tử làm gì có lương bổng thù lao nhưng lại cho tôi nhiều hạnh phúc. Vì thế tôi cống hiến, đóng góp phần mình nhiều hơn cho công việc xây dựng gia đình tâm linh này.

Tôi yêu mến màu khói trầm thanh thoát nên dành rất nhiều tình thương cho màu áo gia đình Phật tử và gắn bó với màu áo ấy ngần mười mấy năm. Tình thương sâu đậm làm cho tâm hồn tôi cảm thấy vui hơn khi được sống và đồng hành với những người anh, người chị, người em chung màu áo. Thầy của tôi vẫn sát cánh dìu dắt cho gia đình Phật tử của chùa. Tôi nhớ mãi lời dạy của thầy: “Chỉ có đi tu các con mới có thể báo đền trọn vẹn ơn đức của cha mẹ”.

Lời thầy dạy như khai mở cho tôi một con đường mới, nhưng tôi chưa hiểu và luôn trăn trở. Ước nguyện cũng là một hạt giống mà ngày xưa được gieo trồng trong đất tâm nên thêm một lần tôi thao thức: “Có phải mình muốn đi tu?”. Nhìn sâu vào đời sống thế gian, hạnh phúc là điều quá hiếm hoi mà bế tắc thì cứ hiển bày nhưng ít có ai tìm ra lối thoát cho sự bế tắc ấy. Cuộc giống của gia đình huyết thống, bên nội bên ngoại, không thực sự có được bình an đẹp đẽ như tôi thường nghĩ. Cái mà người đời mãi tìm cầu và cho nó là hạnh phúc sao lại quá mong manh. Mọi người đều đi chung một con đường là lợt lạt với nhau trong sự gắn bó liên hệ, thâm tình ngày một cách xa khi mỗi người an bề gia thất. Tiền bạc có thể làm phương tiện đem lại cho mọi người một ít hạnh phúc, nhưng mặt khác nó lại thành con dao cắt chia tình ruột thịt. Đây là một thực tại trong đời sống thế gian.

Tôi còn có ba người em, chúng tôi thương nhau lắm. Nhưng ngày sau, khi mỗi người tự lo tương lai cho riêng mình thì tình nghĩa chị em biết còn keo sơn như bây giờ? Tôi phải làm gì và phải sống như thế nào để gìn giữ tình thương trọn vẹn cho tất cả những người thân ruột thịt của tôi, bây giờ và mai sau?

Thời học sinh ngày hai buổi đến trường, tình bạn học trò cũng chan hòa màu sắc buồn, vui. Cái tuổi bồng bột, hồn nhiên, trong sáng ấy đã cho tôi biết được thế nào là cảm giác mến mến thương thương, rồi giận hờn vu vơ, trách móc. Tình cảm bạn bè có nhiều mức độ khác nhau. Tình thương mang đến nhiều cơn buồn chứ đâu hẳn chỉ có vui. Tôi lại mơ hồ về hạnh phúc dưới cái tuổi mười chín đôi mươi. Có lẽ bởi sự đổ vỡ mái ấm của các dì, của các bậc tiền bối trong họ nên tôi thường ám ảnh và hoài nghi về nó. Không thật sự tin tưởng vào tình thương, tuy nhiên khi chia tay bạn cũng khiến tôi man mác buồn.

H là người bạn thân trong những năm phổ thông. H thường hay kể cho tôi nghe về người chị đang tu học bên Làng. Thoạt đầu tôi chẳng hiểu Làng là cái gì? Làng ở đâu? Hỏi ra mới biết là trung tâm tu học có tên gọi Làng Mai tại đất Pháp. Thấy tôi hay quan tâm về người tu, H giới thiệu và cho tôi mượn băng giảng “Tuổi trẻ, tình yêu và lý tưởng” của Sư Ông Làng Mai cùng với một CD nhạc thiền của Làng do quý thầy quý sư cô hát. Tôi như được thoát thai, khám phá ra điều mầu nhiệm của tình thương đích thực khi nghe băng giảng. Chưa thương được chính tôi thì làm sao thương được bất cứ ai. Thứ tình thương trong tôi có chăng là vướng mắc, muốn chiếm hữu cho riêng mình, đem đến phiền muộn, mất tự do. Tôi đã trở thành nô lệ của tình thương mà không hề hay biết. Những bản nhạc thiền, giọng tụng niệm danh hiệu Bồ Tát Quan Thế Âm từ quý thầy, quý sư cô đã chữa trị cho tâm hồn tôi. Chưa bao giờ tôi cảm một bài hát đơn giản mà hay đến thế. Và một điều hết sức bất ngờ, quyết định không chút chần chừ “mình sẽ làm được điều này, mình sẽ xuất gia. Mình sẽ làm một điều gì đó có ích cho cuộc đời này, cho những người đang đau khổ, cho cả thân bằng quyến thuộc và cho chính bản thân mình.” Cùng một lúc tôi thấy hiểu hơn về câu nói của Thầy năm giới đã “tuyên bố” ngày xưa, và thấy được con đường mà mình hằng tìm kiếm bấy lâu nay. Tâm sự với H về tâm nguyện của mình, H đưa tôi đi thăm Ôn Từ Đức lần đầu tiên tại chùa Pháp Vân TPHCM. Từ đó tôi biết Ôn, nhiều lần xin tham vấn Ôn và lần nào cũng ôm về được một số bài viết đã được đánh máy. Tâm Bồ Đề được nuôi lớn nhanh hơn từ đó. Tôi thấy quá hạnh phúc, quá bình an khi được Ôn hướng dẫn, chỉ dạy phương pháp thực tập. Thấy tôi có tâm xuất gia, Ôn giới thiệu tu viện Bát Nhã.

 

Như một cảnh giới của xứ sở thần tiên, Bát Nhã đẹp, thiêng liêng và hùng vĩ. Người tu ở đây phần đông trẻ tuổi. Ai cũng thanh thoát, nhẹ nhàng. Tôi thoáng gặp lại hình ảnh của những vị tu sĩ ngày xưa – những hình ảnh đẹp đã luôn đi theo bên lòng đứa bé lên bảy lên tám, hôm nay tái hiện lại khiến tôi xúc động. Ước mơ được trở thành một sư cô càng mãnh liệt hơn. Tuy vậy tôi không vội vàng, để cho mình thời gian trải nghiệm và tiếp xúc với con người cũng như môi trường nơi ấy.

Có cơ hội ngồi chơi, tôi hay bàn chuyện tu hành, ba má chột dạ lo lắng. Vậy nên mỗi lần Ôn về chùa Từ Đức, tôi hay “rón rén” đi thăm mà không để ba má biết. Tôi cứ hay mon men rời khỏi nhà, rồi một ngày cũng chẳng qua mặt được ba. Ba tuyệt đối nghiêm cấm không cho tôi tiếp xúc với người tu, đặc biệt quý thầy quý sư cô Bát Nhã về Từ Đức. Như một con chim bị nhốt vào lồng, tôi chẳng được bay nhảy thoải mái như xưa, luôn bị gia đình theo dõi từng nhất cử nhất động. Nhưng có dịp đi đâu ra ngoài hoặc viện cớ đi nhà bạn chơi, tôi luôn lái xe lên chùa. Biết được sẽ có một xe lớn đưa quý thầy quý sư cô về lại trú xứ, H gọi điện rủ tôi đi Bát Nhã chơi nhân dịp xe còn dư chỗ. Hết sức cẩn trọng và cố gắng để xin đi nhưng ba mẹ cương quyết chối từ. Vẫn còn thời gian nên tôi cố gắng ỉ ôi xin xỏ mấy ngày. Ba trở nên cáu gắt, bực bội :

–        Đã nói không là không, sao con lì quá vậy? Đừng tốn công vô ích.

Tôi âu sầu không dám “rọt rẹt” nữa, thất bại ão não, tôi cầm máy điện thoại cho H báo cái tin chẳng mấy vui vẻ gì. Tôi sẽ không còn một tia hy vọng nào nữa cả nếu đêm ấy H không gọi lại cho tôi. Biết có thêm nhỏ bạn cùng lớp muốn đi Bát Nhã nữa, tất cả là ba đứa, tôi hứng khởi lấy hết can đảm để xin một lần cuối cùng, cũng là lần quyết định, tuy nhiên hy vọng phần trăm trong tôi không lên đến năm mươi. Lúc ấy Ba đang nằm xem ti vi:

–        Ba ơi! Ngày mai đoàn đi Bảo Lộc rồi. Lớp con có hai đứa nữa cũng đi. Ba cho con đi chơi với tụi nó cho vui. Con đi chơi thôi mà! Tụi nó nói nếu con không đi thì chắc tụi nó cũng ở nhà. Tội tụi nó quá!

Ba vẫn nằm im, không nói gì. Thấy án binh bất động, tôi tiếp:

–        Mà con xin đi mấy ngày về thôi chứ có ở nhiều đâu. H nó cũng chuẩn bị vào lại Sài Gòn để chuẩn bị nhập học. Nó muốn đi chơi một chuyến rồi về đi học sớm, con cùng về với nó mà! Con xin đi một lần này nữa thôi, con không đòi đi nữa đâu! Một lần cuối cùng nha ba !

Không biết nghe tôi nói có vẻ lọt lỗ tai hay vì thương cảm cho mấy đứa bạn tôi mà Ba từ từ ngồi dậy lên tiếng. Tôi cứ tưởng sẽ bị rầy một trận vì cái tội lãi nhãi. Nhưng một điều mầu nhiệm đã đến với tôi:

–        Bây giờ con muốn đi phải không ? Lên mời má xuống đây rồi trước mặt ba má con phải hứa đây là lần cuối con đến chùa đó, và phải hứa là về lại nhà chứ không được đi luôn…

Tôi  mừng như được mở cờ trong bụng. Còn gì nữa mà không lo dạ lia lịa, có gì đâu phải sợ chỉ vì một lời hứa. Đối với tôi lúc ấy, bao nhiêu điều kiện ba đưa ra tôi đều làm được hết, miễn sao được đi Bát Nhã, thăm lại chốn thần tiên, thăm lại những con người thần thánh ấy. Đó cũng là lần thứ hai tôi đến tu viện và là lần đầu tiên được “cấp” giấy phép hẳn hoi.

 

Phép được ba ngày nhưng tôi đi tuốt đến năm ngày với lý do trời mưa bão, đường đèo nguy hiểm nên con chưa về được. Ba giận lắm, mắng và ra lệnh cho tôi phải về gấp, rồi ông cúp máy. Tôi phải nhờ đến sự phò tá của má, ba mới xiêu lòng.

Mấy ngày ở đây, do không có khóa tu nên thời khóa sinh hoạt bình thường. Tôi có cơ hội được tiếp xúc với những gì hiện thực xảy ra trước mắt, cái nhìn thơ mộng ban đầu về đời sống và hình ảnh người xuất gia cũng giảm bớt. Điều này khiến tôi tự kiểm và rà soát lại cảm quan bản thân, thẩm tra lại các ước muốn của mình. Trong buổi vấn đáp, câu trả lời cho câu hỏi của tôi bởi một sư cô khiến tôi thức tỉnh và giúp tôi mạnh dạn định hướng đi cho mình với một bầu nhiệt huyết dâng tràn. Thời gian ở đó, tôi lại xin đi tham vấn Sư Bá (tức Ôn Từ Đức), phần trăm muốn xuất gia của tôi lúc này lên đến một trăm.

 

Thời hạn đã hết, tôi trở về gia đình. Ba thấy tôi liền mừng vui hỏi :

–        Sao con, đi ngán chưa?

–        Tôi vờ vịt: “Dạ ngán rồi! Con không thèm đi nữa.”

 

Đó là khoảng thời gian gần cuối năm 2006, trong khi đợi chờ cơ hội tốt hơn để thưa chuyện với ba má. Tôi tiếp tục đi học tại TP.HCM. Xa được sự kiểm soát của ba mẹ, có trốn đi chùa cũng chẳng ai biết. Và tôi cứ đi lên vùng Bảo Lộc mỗi khi có ngày nghỉ nhiều để nuôi dưỡng và tưới tẩm hạt giống bồ đề trong mình. Thời gian ấy, nghĩ lại tôi thấy mình phạm giới nói dối nhiều lần. Mỗi khi nhận được điện thoại của ba má hoặc của các dì, tôi hoang mang lo sợ đầu dây bên kia nghe tiếng chuông thỉnh. Có lẽ được Bụt Tổ che chở nên không lần nào bị ba má phát hiện.

Những ngày đầu xuân năm 2007, Sư Ông và tăng thân Làng Mai về, tổ chức khóa tu. Tôi âm thầm lén lút ghi danh tham dự. Tiếp tục nói dối ba má vào lại TP.HCM trước mấy ngày để học sau kì nghỉ Tết, nhưng kỳ thực đi sớm mấy ngày để kịp khóa tu. Tôi chẳng để ba má chở ra quốc lộ đón xe như mọi khi tôi đi, mà hôm ấy nhờ em trai chở qua đón xe đi Bảo Lộc. Tất nhiên em tôi vì thương chị nên giấu kín giùm. Vậy là tôi được dự trọn vẹn khóa tu. Hơn nữa còn dự được buổi lễ xuất gia của bảy mươi bảy người trẻ, một con số khiến ai nghe cũng phải chấn động. Và làm sao tôi tránh khỏi cơn xúc động trước những bồ đề tâm cực kỳ dũng mảnh ấy. Sơ tâm cứ thế trào dâng, tôi hạnh phúc biết nhường nào! Tôi lại thưa với Sư Bá, bày tỏ nguyện vọng muốn đi tu của mình, Sư Bá yểm trợ. Ôn dạy tôi nên về nhà sống hết lòng với ba má trong một tháng.

Thế là tôi về Sài Gòn sau khi mãn khóa tu, quyết định không học tiếp nữa nên tôi lo thu dọn đồ đạc về nhà chơi với gia đình. Chẳng thể nào dám mở miệng xin vì lần nào cũng thế, ba luôn dọa:

–        Con mà bước ra khỏi nhà thì chừng ba ngày sau con về để tang cho ba.

Hoặc là:

–        Con đi đi, trong năm ngón tay này ba sẽ chặt đứt một ngón, xem như không có đứa con này.

Và dữ dội hơn nữa:

–        Con cứ đi trước, ba xách rựa theo sau, hễ gặp ông nào ba sẽ chém ông đó. Con đừng có mà bị dụ dỗ.

Vậy thì làm sao tôi dám, chỉ còn cách âm thầm xách áo ra đi.

Ba má thấy tôi mang tất cả hành lý về nhà nên hơi lo ngại:

–        Sao mang đồ về nhà nhiều vậy? Máy vi tính mang đi mang về làm chi mà khổ vậy con?

–        Trường con một tháng nữa mới đi học lại. Thầy cô ăn Tết hơi kỹ ba à! (tôi cười đùa). Với lại máy tính mà để trong đó thì không an toàn. Nhà không có khóa an toàn nên con mang về thôi. Còn cả tháng nữa mới học lận mà. Mang về con có cái để học chứ ba.

Rồi ba má yên tâm. Thời gian ấy tôi lén may đồ tu gấp. Thấy tôi có vẻ ít nói, hiếu để, ngoan ngoãn hơn rất nhiều so với trước nên ông bà sinh nghi nên cứ vặn hỏi mãi, nhẹ nhàng khuyên tôi nói thật, tôi hơi xiêu xiêu. Đó là một buổi tối, tôi mời ba má lên phòng khách, lấy hết can đảm tôi quỳ xuống thưa:

–        Con xin phép ba má cho con đi tu…

Tôi thấy tay ba run bần bật, ông kêu lên: – Trời ơi!…

–        Khoan đã, xin ba hãy cho con nói hết… Trường con đi học rồi nhưng con định không học nữa mà ôm đồ về sống với ba má một tháng, cố làm những gì có thể với ba má rồi con sẽ trốn đi. Do ba từng dọa dữ quá, nhưng vì ba má bảo con nói thiệt nên con xin khai thiệt… Con thấy hoàn cảnh gia đình hai bên nội ngoại của mình đầy đau khổ. Có tiền nhưng đâu có hạnh phúc thật sự đâu ba! Ba nhìn xem nơi các dì con đó, có mấy dì được hạnh phúc? Nếu con xin đi tu, ba má không cho mà cứ bắt con qua Mỹ, thì dù có qua đó rồi con vẫn đi tu. Con xin ba má cho phép con đi.

–        Thà con qua Mỹ, biết nước này nước kia với người ta, biết đó biết đây, sống khuất mặt ba muốn làm gì thì làm. Chứ giờ ba còn ở đây, con ở đó mà con đòi đi tu trước mặt ba, làm sao ba chịu nổi? Mỗi người có một cái số riêng. Con làm sao giống dì con. – Ba khóc nức rồi đứng dậy bỏ đi, không thèm nghe tôi nói nữa…

 

Đêm đó ba vào phòng nhưng không ngủ được. Ba khóc suốt và rên từng cơn. Nửa đêm, cơn đau khổ dường như tột cùng, ba đập tay xuống thanh giường tức tưởi than trời trách đất. Tôi ở ngoài lòng đau
như cắt, cũng không tài nào chợp mắt được. Quá nửa đêm, ba mở cửa phòng đi ra ngoài. Tôi đợi mãi không thấy ba trở vào trong khi ngoài kia trời đang mưa. Sợ ba nghĩ quẩn, tôi liền mở cửa đi tìm. Khi tôi đi ra tới hiên trước nhà, thấy ba ngồi bó gối co ro buồn bã, tay cầm khăn vừa khóc vừa chùi nước mắt. Lần đầu tiên từ khi sinh ra cho đến bây giờ tôi mới thấy ba tôi khóc như vậy. Như một đứa bé. Tôi thấy

quá xót xa, cảm thương ba vô hạn. Tôi ôm chầm lấy ba và hai cha con cùng khóc. Hồi lâu:

–        Con vào ngủ đi. Ba không sao đâu! – Ba sụt sùi.

–        Ba vào thì con mới vào – Tôi thút thít.

Ngồi đó rất lâu, ba mới chịu đi vào.
Hôm sau, ba bỏ ăn mấy ngày liền và mượn rượu để giải sầu. Kể từ đó hai cha con không nói chuyện với nhau nữa. Tôi cũng “đấu lại” bằng cách bỏ ăn giống ba. Ba xót con nên năn nỉ tôi ăn cơm. Cuộc “chiến” diễn ra ngót mấy ngày, tôi nghĩ mình khó lòng “thắng” được ba nên đành chọn giải pháp hoãn binh, gác chuyện đi tu lại, xin đi làm một thời gian cho ba thấy vậy mà an tâm và vui lòng.

Tôi xin việc nơi một nhà hàng, làm ở quầy bán hải sản. Hằng ngày phải đối mặt với cảnh giết chóc, buôn bán gian dối mà tôi phải tham dự vào công việc gian dối ấy. Lương tâm mình không cho phép phải tiếp tục. Thầm nghĩ chắc bây giờ ba nguôi ngoa rồi, đồ tu đã có sẵn nên tôi háo hức đợi ngày trốn đi. Nên gần hai tháng làm công việc đó, tôi muốn xin nghỉ. Có ngờ bị ba má phát hiện số đồ của tôi, ba lệnh má phải đốt ngay. Má tôi vì phần thương con và cũng muốn ủng hộ tôi nên không nỡ đốt mà đem vào gửi tạm nhà nội. Biết chuyện, tưởng đồ bị đốt sạch nên hơi buồn về cách hành xử của ba má, tôi tự an ủi mình và nhủ sẽ may lại không lâu.

Giai đoạn ấy, phái đoàn Làng Mai có viếng thăm chùa Long Sơn Nha Trang. Tôi nhân cơ hội còn ở đó, lái xe đi thăm Sư Bá và tham vấn chuyện lên Bát Nhã tập sự. Tôi đã làm theo lời Ôn dạy, nghỉ việc và tìm cách khác để ba hiểu mình hơn, thua keo này ta lại bày keo khác.

Với lời góp ý của một đứa bạn thân, tôi vào Sài Gòn học thêm vi tính với chủ ý mở một tiệm Internet tại nhà cho gia đình có thu nhập, sau này có đi cũng an lòng hơn vì mình đã giúp chút ít cho gia đình. Thời gian ở nhà làm việc cũng là thời gian để tôi thực tập hết lòng với gia đình. Chí xuất gia mãnh liệt thôi thúc tôi từng ngày, tôi lại lén may đồ tu giấu kỹ trong tủ quần áo của tôi. Tiếp tục đấu tranh tư tưởng với ba, tôi tiếp tục ăn chay trường sau hơn mấy tháng ăn chay khi học ở thành phố. Tôi không còn thiết nghĩ đến bạn bè, tiệc tùng. Cái điện thoại di động cũng trở thành vô nghĩa đối với tôi, cho nó nằm yên đó. Mỗi tối được xuống chùa tụng kinh cùng quý bác Phật tử là niềm vui sướng của tôi. Mỗi chủ nhật lại về chùa sinh hoạt cùng anh chị em là một điều vô cùng ý nghĩa và nuôi dưỡng bồ đề tâm. Cứ thế ngày lại ngày cho đến sáu tháng tôi sống và làm việc tại gia đình. Đó là cách tôi nỗ lực để cho ba hiểu lý tưởng của tôi. Tôi ao ước ba hiểu tôi muốn gì và cần gì trong đời này. Cái tôi cần không phải là tiền bạc danh vọng. Còn hạnh phúc gia đình đối với tôi giống như ảo ảnh phù du rất dễ vỡ nhưng muốn diễn tả điều tôi nghĩ cho ba má hiểu và cảm thông lại thật khó. Vì ba má lúc nào cũng cầu cho con cái có được tương lai rạng ngời, tươi sáng và hạnh phúc qua việc kết hôn. Nhưng ngưỡng cửa đó nhiều phiền luỵ buộc ràng. Cái tôi muốn là sự tự do, sự thanh thoát thong dong, và cuộc sống xuất gia giúp tôi thực hiện được điều này, lại còn có thể báo ân đấng sinh thành. Tôi rất muốn mang lại sự cảm thông hài hòa thắm thiết nghĩa tình trong gia đình.

Làm người xấu thường rất dễ, chịu sống đẹp rất khó. Sư Bá từng nói một câu khiến tôi nhớ mãi: “Một người đi tu là thế giới bớt khổ hơn bởi một người”. Như vậy nếu tôi tu chẳng phải cũng giúp đời được một phần nhỏ đó sao? Những thao thức trong lòng ngày càng nung nấu chí xuất gia của tôi. Quý thầy quý cô thường nói: Khi nào bồ đề tâm phát lên trên 100% thì hãy quyết định đi tu. Đối với tôi lúc ấy, không được đi tu chắc tôi chết mất. Tôi cảm thấy mình chẳng thể làm được gì nữa, nếu ba má cứ ngăn không cho tôi đi…

Suy nghĩ và chờ thời cơ, tôi sắp xếp hành lý dự tính lên đường trước Vu Lan 2008. Nhưng theo lời khuyên của anh chị trưởng trong đoàn, tôi đành nán lại chờ xong Vu Lan, nghĩ mình nên hưởng một mùa Vu Lan cuối bên cạnh ba má rồi ra đi cũng còn kịp.

 

Ngày báo ân phụ mẫu tôi dâng quà lên cho má. Khi má tôi nhận quà, bà khóc nhiều lắm. Tôi không hiểu vì sao má khóc. Tôi cố gắng cười nhiều để má vui mà lòng tôi lại rất buồn vì cảm giác sắp chia ly. Tôi cố giấu đi bao cảm xúc khi biết mình phải lìa xa gia đình thời gian khá lâu và có thể sẽ không bao giờ được về lại gia đình nếu ba tôi còn giận và muốn từ con. Tôi đã quyết định và chấp nhận hậu quả xảy ra.

Nữa tuần sau, ngày mong đợi đã đến. Hay tin ôn Từ Đức đang về chùa và chuẩn bị trở lại Bát Nhã, tôi lập tức liên lạc và xin đi tập sự xuất gia.

Chiều 20/8/2008, tôi chuyển giấu một cái ba lô xuống nhà bạn thân trước. Đồ đi trước, người đi sau sẽ tiện hơn, sẽ không ai phát hiện ra. Nghĩ rồi tôi gọi điện cho người anh họ xuống chở mình ra khỏi nhà. Em gái tôi biết tôi sẽ đi chiều nay vì một sự hớ hên nào đó trong lúc chuẩn bị nên hỏi:

–        Chị làm gì đó? Chị tính đi thiệt hả? – Em vừa khóc vừa hỏi.

–        Ừ, chị đi. Đừng cho ba má với mấy đứa kia biết nha.

–        Chị đừng đi mà! Lỡ ba má biết chuyện, ba có chuyện gì thì tính sao đây? – Em càng khóc to hơn.

–        Chỉ cần giấu giúp chị thôi, để chị đi cho yên. Đây là cơ hội cuối cùng của chị. Thương chị, em im lặng giùm chị nha! – Tôi bình thản đáp và biết rằng lúc ấy mắt tôi cũng đỏ hoe. Kết quả em đã rất dũng cảm giấu kín.

Chiều ấy ba tôi đi làm ngoài biển. Tôi đứng nhìn qua các lỗ thông gió để được thấy ba lần cuối. Nhìn dáng ba vô tư hiên ngang chẳng hề biết sắp có chuyện động trời xảy ra. Một mình tôi đứng đó bất động và dường như tim mình đang quặng thắt lại. Đau lắm! Cái cảm giác đau thống thiết mà không được khóc thành tiếng, tức ngực, tôi cố gắng dùng tay bịt miệng để ngăn tiếng khóc bật ra.

Cứ thế bóng ba khuất dần sau con dốc nhỏ. Mắt tôi đau và nóng ran lên, nhưng rồi tôi cố kềm nén cơn sầu, đi rửa mặt cho mắt đỡ sưng vì má tôi hiện còn đang ở nhà. Má sẽ lo lắng nhiều nếu thấy mắt tôi đỏ với sự bất an đang có. Lúc này má đang quét sân sau nhà, công việc gì đó khiến má lấy xe đi đâu. Tôi biết đây là giây phút có thể ra đi nhưng cũng là giây phút ngậm ngùi nhất. Tôi lại đứng ở vị trí cũ, lén nhìn má như đã nhìn ba. Bà đang vui vẻ nói nói cười cười với những người hàng xóm đang đi lại trước nhà. Nước mắt tôi lại trào ra giàn giụa, nhìn trước sau trong nhà vắng tanh. Má dẫn xe ra, mắt hướng về phía trước. Tôi chạy ra trước hiên để nhìn dáng má đi xa trên con “ngựa sắt”. Tôi đã có thể buông tay, cho phép mình khóc thành tiếng rồi nghẹn ngào thầm gọi “Má ơi!”.

Con đường làng quanh co lượn khúc. Dáng má đã mất hút. Tôi đứng lặng người trong vài phút để lắng nghe cảm xúc trong mình. Đến giờ tôi phải lên đường rồi, không thể chần chừ thêm phút giây nào nữa. Quýnh quáng đi tìm đôi dép. Đôi dép “rất hợp” để đi tu – tôi thấy vậy đó. Nhưng mèn ơi ! Dép đâu rồi, nó trốn nơi nao úy trời! Nó dường như đã nằm gọn trong đôi chân của má tôi rồi. Nhìn quanh quẩn tôi chẳng thấy mang một đôi dép nào khác được vì toàn là dép thời trang thôi. Có đôi dép “chùa” kia tôi mới tự tin lên Bát Nhã được, tôi ngây thơ nghĩ vậy nên đành phải ráng đợi má về.

Mười lăm phút sau má về với đôi dép rõ nằm trên chân. Như tên trộm khôn ngoan, lấy được đôi dép xong tôi quan sát bốn bên, thấy im vắng, không bóng người, tôi liền chạy một mạch ra khỏi nhà, đi thẳng xuống trường mẫu giáo cách nhà chừng 30m – nơi anh họ tôi đang đợi. Anh chở tôi xuống nhà nhỏ bạn lấy ba lô, nón lá, thêm một vài cuốn sách của Sư Ông mà tôi chưa đọc xong. Mẹ nhỏ bạn cho phép nó đi cùng tôi. Bà là người mộ đạo, hiểu đạo, nhưng lại phải giấu ba nó. Bà chở nó đi trước rồi về thưa lại với Ông sau. Bà nói: “- Cho nó đi lên chùa một tháng, nếu mà muốn tu luôn thì càng tốt”.

Hai xe bốn người đi được một đoạn đến nhà anh huynh trưởng. Anh ngoắc lại mời vào uống nước để nán đợi vài người nữa. Tôi mới biết lúc này tin tôi ra đi đã truyền lan và hôm nay có nhiều người muốn “hộ tống” đưa tôi lên tới chùa Từ Đức để tạm biệt. Cố nhiên không ai mách lại với gia đình tôi và
sẵn lòng giấu kín. Dễ thương làm sao!

 

Khi đoàn người đưa tiễn với cả xe máy lẫn xe đạp tập trung đầy đủ. Có khoảng hai mươi người kể cả anh chị huynh trưởng và các em đoàn sinh gia đình Phật tử. Nhìn bộ dạng tôi lúc ấy, mặc quần tây, áo thun đen, ba lô trên tay, đầu đội nón lá…nên nhiều người đã không cầm được nước mắt.

 

Xe đạp được để gọn vào nhà anh huynh trưởng và xe máy được vân tập để cùng chở nhau đi. Không đủ xe nên anh chị em tôi phải chở ba. Ai cũng muốn tiễn tôi đến tận chùa, vì thế phải cùng nhau đi đường hẻm để tránh công an giao thông.

Đến chùa, trời đã sụp tối hẳn. Cả đoàn lần lượt đi vào, thầy thị giả Ôn đưa chúng tôi vào bàn khách. Cuộc chia ly thấm đẫm đạo tình, nước mắt tiễn đưa, mọi người ra về. Tôi được sư cô (chị của H. đã từ Làng về) đưa vào phòng nghỉ. Đêm đó là một đêm khó ngủ. Tôi yên tâm là gia đình chưa thể tìm ra tôi và ba không dễ dàng bắt tôi về. Nhưng tôi rất lo lắng cho gia đình, không biết khi tôi đi ở nhà liệu có xảy ra chuyện gì! Ba có bị làm sao không? Tôi sợ ba tự tử lắm.

 

Một đêm sáng trăng, tuy không tròn nhưng trời trong và sáng lắm. Sư cô rủ hai chị em cùng đi thiền hành, ngắm trăng, trao đổi với nhau. Lúc ấy tôi mới biết Bát Nhã đang có chuyện không an. Nhưng tâm đã quyết “người ra đi đầu không ngoảnh lại mặc cho sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…”, tôi chấp nhận tất cả mọi rủi ro nếu sự việc không hay xảy đến cho tu viện. Khi ấy tôi có niềm tin dũng mãnh nơi Tăng Thân nên dù có khó khăn đi chăng nữa, được ở trong Tăng Thân là điều tuyệt vời nhất rồi. Sư cô tin tưởng nơi tôi, tôi cũng tin mình sẽ chân cứng đá mềm. Sau khi tâm sự hàn thuyên, mấy chị em về phòng nghỉ để sáng mai lên đường đi Bát Nhã sớm.

 

Về phía gia đình tôi, chiều đó khi rời gia đình, tôi đã lưu lại thư từ biệt và cuốn nhật ký trong phòng. Tám giờ tối, thấy tôi chưa về, má tôi bắt đầu bồn chồn sốt ruột. Bà hỏi thăm các em tôi:

–        Mấy đứa biết chị đi đâu không?

–        Dạ chắc chị đi uống nước với bạn rồi.

Má suy diễn:

–        Có khi nào nó đi uống nước để từ giã bạn bè không? Tư tưởng này càng khiến bà lo lắng hơn.

Má tôi lo vì có lần vào phòng tôi, bà mở tủ đồ tìm cái gì đó và bất ngờ thấy cái ba lô tôi giấu ở ngăn dưới nên đã để bụng nghi ngờ… Lúc đó má đã nói với ba:

–        “Em nghĩ con nó chuẩn bị đi nữa rồi. Nó lại chuẩn bị đồ tu đủ cả. Em nghĩ lần này nếu nó xin đi thì anh cho nó đi đi, để nó thoải mái, chứ mình cản nó nhiều lần lắm rồi. Anh thấy đó, mình cản nó vô chùa tu, một năm nay nó cũng như người tu tại gia rồi còn gì nữa. Tâm nó quyết rồi, mình cản cũng không được. Để nó đi rồi nếu không được thì nó lại về…”

Nghe đến đó ba làm thinh không nói. Có lẽ ba cũng đồng ý vì những lần trước vừa nghe nhắc đến chuyện tôi đi tu là ba đã nổi trận lôi đình, phản bác tuyệt đối.

Rồi một người cậu họ xuống hỏi thăm tôi khiến má càng cuống quýt lo lắng:

 

–        Lạ thiệt, không hiểu nó đi đâu, bình thường tám giờ là nó về rồi, sao hôm nay đi từ chiều mà giờ hơn chín giờ vẫn chưa về? Bình thường nó lấy xe đi, hôm nay xe còn đó, vậy ai chở?

 

Lúc bấy giờ má thật sự lo bấn người. Ba tôi đã về, ăn tối và về phòng nằm nghỉ. Ba cứ tưởng tôi đi chơi với bạn. Nhưng khi má chạy vào phòng tôi kiểm tra, mở tủ nhìn cái ba lô không còn thì má hô toáng lên
rằng tôi đã đi rồi. Ba hoảng quá ngồi bật dậy. Ngay lúc ấy ông bà ngoại từ Mỹ điện thoại về, má nhấc máy mà giọt ngắn giọt dài trình bày đôi chút rồi lại cúp máy để lo chuyện của tôi. Cả nhà nhốn nháo vào phòng tìm kiếm. Biết là sẽ có thư, má lục toang giường ngủ của tôi, thấy dưới gối có lá thư,  đầu hàng ghi dòng chữ: “Khi Ba Má nhận được thư này thì con đã đi xa rồi” (tất nhiên lúc ấy tôi ở gần nhà lắm, mười hai cây số thôi nhưng tôi phải viết vậy để đánh lạc hướng, không bị bắt về. Vì vậy khi ở chùa tôi tin chắc chắn mình an toàn).

Cả nhà ồ lên khóc. Hàng xóm xúm xít qua thăm thốt lời động viên, an ủi. Má cố gắng gọi điện cho bạn bè tôi hỏi thăm tin, nhưng chẳng ai biết tôi đi đâu, đến đâu. Trong thư tôi nói mình đi Huế mặc dù thực tế tôi đi Bảo Lộc.

Đêm đó cả nhà không ai ngủ ngon. May mắn là ba tôi không tự tử, cũng không làm điều gì nông nổi, chỉ khóc ròng mấy ngày. Hai mắt ba đỏ kè, sưng húp, cứ ngồi chờ tôi điện thoại về. Tôi ra đi ngày thứ Tư, đến Chủ Nhật, ba nhìn thấy mấy em đoàn sinh gia đình Phật tử đến chùa sinh hoạt, ba càng khóc nhiều hơn vì nhớ tôi và nói với má:

–        Anh không chịu nổi nữa, anh nhớ con quá, trong người anh bức rức không yên. Anh phải đi tìm con!

–        Biết ở đâu mà tìm hả anh? Mình phải đợi nó điện thoại về rồi hỏi thăm địa chỉ, chứ giờ biết tìm ở đâu? Anh có thấy không? Bao lần nó xin anh đi tu, anh hăm he đốt chùa đòi sống, đòi chết. Bây giờ nó trốn đi liệu nó có dám gặp anh không, người ta mà biết thì cũng giấu giùm nó, dại gì họ chỉ…

–        Giọng ba áo não: – Nhưng giờ anh sẽ không bắt nó về, anh chỉ muốn nói với nó là: – Ba má đồng ý để con đi tu, cho lòng nó thoải mái, không phải âu lo về gia đình, nó yên tâm tu hành mà mình cũng an lòng biết nơi nó ở – Ba vừa nói vừa sụt sùi nước mắt.

–        Vậy để em ráng hỏi thăm.

 

Má cố gọi điện thoại hỏi gạn thêm mấy anh chị em trong gia đình Phật tử, năn nỉ đủ điều, rồi một em xiêu lòng khai báo:

–        Vậy cô lên chùa Từ Đức hỏi thăm sẽ rõ hơn. Hôm đó P ngủ lại ở chùa một đêm, sáng đi sớm.

 

Ba má tôi mừng lắm, lái xe lên chùa hỏi thăm. Gặp anh L và hỏi thăm về tôi. Anh L cũng ngại lắm, không dám khai nhưng khi hiểu nỗi lòng của ba thì rất thương cảm và chỉ chỗ. Tính đến đó thì cũng gần một tuần kể từ ngày tôi đi.

Phần tôi, tại tu viện, V- nhỏ bạn đi cùng tôi có mang điện thoại theo. Nhưng hễ điện thoại nó reo là tim tôi đập thình thịch, vì vậy nó phải tắt nguồn vì sợ gia đình tôi lần dấu. Nhưng tôi đâu được an tâm trong những ngày đó, cứ ngay ngáy lo cho gia đình. Cuối cùng tôi lấy hết can đảm bảo V mở máy và điện thoại về hỏi thăm em gái tôi. Nó bảo:

–        Chị gọi về cho ba đi. Hổm rày ba cứ khóc hoài và định đi tìm chị đó.

–        Chị không dám điện đâu, ba không sao thì chị mừng rồi. Nếu điện về ba hỏi chỗ rồi lên bắt chị về thì làm sao?

–        Ba không bắt chị về đâu, thiệt đó. Ba nói đã cho phép chị đi tu rồi. Ba muốn biết chỗ chị ở như thế nào, có an không?

–        Đừng gạt chị. Chị không điện. Em cứ nhắn với ba má là chị khỏe, đi tới nơi bình an là được rồi.

Nói đến đó tôi cúp máy, suy nghĩ về những gì em tôi nói và lời động viên của V, và tin chắc đây là sự thât. Nên thu hết can đảm điện về cho em. Lần này tôi chịu nói chuyện với ba. Giọng ba thật ngọt ngào, cứ như dỗ dành tôi ngày còn bé vậy.
– Con đó hả? Con có khỏe không?

Tôi đáp: – Con khỏe, ba có ổn không ba?

Ba nghẹn ngào: – Sao con đi mà không thưa với ba má một tiếng, lẳng lặng rời nhà vậy con? Con có biết lúc biết tin con đi ba bị sốc chừng nào không?  Mấy ngày nay ba cứ đợi tin con, hỏi thăm rất nhiều người mà không ai biết con đang ở đâu, sống như thế nào…

Rồi ba khóc. Nghe tiếng khóc của ba trong điện thoại, nước mắt tôi tuôn đầm đìa:
– Con sợ… ba không cho con đi. Con sợ ba đòi chết. Con sợ ba làm điều xằng bậy với người tu. Vì nhiều lần ba đã hù con…

–        Ba chỉ nói vậy để con nghĩ lại, để con sợ mà bỏ ý định đi tu thôi, chứ ai mà làm điều dại dột đó hả con? Giờ con đang ở đâu? Hãy cho địa chỉ để ba má lên thăm con…

–        Không, con không cho ba má biết đâu. Ba biết ba sẽ lên bắt con về.

–        Ba không bắt con về đâu. Ba má cho con đi tu lâu rồi. Ba chỉ đợi một ngày con xin phép hẳn hoi rồi ba sẽ cho con biết. Nhưng ba chưa kịp nói gì… thì con đã bỏ nhà ra đi. Ba đau lòng lắm. Ba chỉ muốn lên thăm con một lần, nói với con là ba đã đồng ý với sự lựa chọn của con. Nhìn thấy con ba má mới yên tâm được.

–        Vậy ba hứa đi. Ba hứa là sẽ không bắt con về thì con mới cho địa chỉ.

–        Ba hứa!

Thế là theo hẹn, từ quê tôi đến Bảo Lộc đi bằng xe máy thì mất sáu giờ nhưng ngày hôm đó tôi đợi mãi, càng lúc càng về chiều, nghĩ đường đèo nguy hiểm, trời lại mưa dầm, khiến tôi thêm nơm nớp lo sợ. Đến ba-bốn giờ chiều tôi mới thấy một chiếc xe Future đỏ chạy ngang qua tu viện. Hai người ngồi trên xe cứ chăm chăm nhìn vào phía chúng tôi, nhưng do Ni xá cách đường khá xa không thể nhìn rõ mặt, tôi thấy họ chạy thẳng vào khu du lịch Đamb’ri. Lòng sinh nghi, tôi xin phép được cùng V ra ngoài đường đứng đợi. Lát sau khách quay xe ngược trở lại, thì đúng là ba má. Cả ngày dài ba má đi xe rã rời mệt mỏi, tôi xót xa nhìn bụi bặm đóng từng lớp trên gương mặt hai đấng sinh thành yêu thương. Gặp nhau đôi bên đầy xúc động, không cầm được nước mắt. Phút giây đoàn tụ đã giúp chúng tôi giải tỏa hết bao nhiêu khúc mắc. Khi tôi mới chân ướt chân ráo vào tu viện, vài sư cô biết hoàn cảnh của tôi lúc ấy, thông cảm và đến chơi. Nhân cơ hội ba má lên thăm, mọi người rủ nhau đi chơi suối, ăn mít tố nữ và cùng thưởng thức quà bánh ba má mang lên cho tôi tại nhà Lục Giác.

Những gì xảy ra sau khi tôi trốn nhà đi được kể lại. Bao nhiêu buồn vui, bao nhiêu sung sướng khiến không khí đoàn tụ càng trở nên ấm cúng, thân tình. Thấy quý sư cô thật tâm lý, thật gần gũi nên ba má tôi rất yên tâm. Đúng như những gì ba tôi hứa, ông không bắt tôi về và ngược lại rất hạnh phúc khi thấy tôi được sống giữa một tập thể lành mạnh, thân ái, mọi người lại thương yêu, giúp đỡ cho nhau – một tập thể thiện tri thức. Ba mẹ ở lại chơi một ngày. Hôm sau trước khi về, đã chân thành gửi gắm con mình lại cho quý sư cô. Tôi chính thức được tập sự sau một tháng sống tại tu viện, và có những ngày ngập tràn hạnh phúc tiếng cười. Sau sáu tháng tập sự, tôi được đại chúng cho xuất gia cùng với gia đình cây Sen Vàng tại tổ đình Từ Hiếu – Huế. Ba má tôi đã ra tận nơi để dự lễ xuất gia.

 

Lễ xuất gia sư cô Chân Ân Nghiêm tại tổ đình Từ Hiếu

Sau này có dịp về thăm nhà, ngắm tôi trong hình tướng người xuất gia, ba má tỏ vẻ hạnh phúc lắm. Hình như ba má đã nhận ra được điều gì đó nên bảo: – “Con đi tu là sáng suốt lắm. Giờ trong ba đứa em còn lại của con, nếu đứa nào muốn đi tu thì ba má hết lòng ủng hộ”…

Tôi cười, lòng tràn ngập niềm vui vì ba má đã thấu hiểu. Thật tri ân tấm lòng núi cao biển sâu của ba má vô bờ.
Một niềm biết ơn lớn lao hơn nữa là sự yểm trợ hết lòng của ba má đã cho tôi tiếp tục đi trên con đường phụng sự, con đường bất bạo động dù cho biến cố Bát Nhã có xảy ra, dù cho bốn trăm tăng ni không có chỗ ở phải tá túc nhiều nơi nhiều tháng, dù chưa biết số phận của bốn trăm tăng ni trong đó có con của mình sẽ đi về đâu nhưng hai vị đã âm thầm tiếp thêm nghị lực cho tôi được vững lòng và nương vào sức mạnh của Tăng thân để vượt qua muôn ngàn sóng gió.

Trải qua những biến động thăng trầm, mỗi ngày trôi qua, tôi dần lớn lên trong tình thương của huynh đệ và Tăng thân. Cùng với năng lượng thực tập hùng hậu và sự đi tới của tăng thân, niềm tin lớn lên trong tôi và tôi thấy mình thật sự may mắn khi chọn đúng Thầy, đúng môi trường để thực tập nhìn sâu tự thân, dừng lại và chuyển hóa. Cùng trang lứa như tôi hoặc trẻ hơn tôi hiện nay ngoài xã hội có biết bao bạn trẻ đang bị cơn bão của cuộc đời cuốn đi, xô ngã, đau khổ và tuyệt vọng. Các bạn có bao giờ biết dừng lại và biết đủ với những gì đang có trong hiện tại mà mỉm miệng cười hạnh phúc. Tôi nhìn họ và thấy thương thật nhiều. Trong khi đó, tôi nhìn lại tôi và thấy mình có quá nhiều hạnh phúc. Có Thầy và muôn triệu anh chị em, bạn bè cùng chung đôi tay tô đẹp cho đời, có cả một bầu trời xanh, một bầu trời đầy trăng sao trong những đêm Rằm, có đầy không gian của chim choc, của hoa lá, có đầy tình thương của sự hiểu biết, sẵn sàng ôm ấp tha thứ bao dung cho những niềm đau nổi khổ của  mình và cho những gì đã làm mình khổ. Bởi vậy mà con đường tôi đi như rộng lớn thênh thang thêm, có đầy đủ các loại “thuốc men” để chữa trị những lần tôi “đau ốm”. Tôi sẽ vẫn mãi có mặt đây để hát ca cho tôi, cho cuộc đời, cho những người xung quanh tôi.”

Mấy lời kính gởi đến Ba Má lòng tri ân của con. Kính tri ân Thầy và Tăng thân xinh đẹp đầy tình thương này.

 

Con –  Chân Ân nghiêm –

Tôi tu vì tôi là người tu

– Thường Minh –

Thiền hành trong rừng

Trong những khóa tu, tôi có nhiều cơ hội ngồi chơi với anh chị em cư sĩ.  Khi đủ thân một chút thì có người hỏi tôi: “Hỏi thiệt Thầy cái này nha! Tại sao Thầy đi tu vậy?  Thầy còn trẻ mà!  Bộ bị bồ đá rồi chán đời đi tu hả?

Tôi ngường ngượng, thầm nghĩ: “Bộ già hay thất tình mới đi tu sao?”  Nhưng rồi tôi cười trong bụng vì ngày xưa tôi cũng nghĩ như vậy.  Cuộc đời có biết bao nhiêu  cái để hưởng thụ, biết bao nhiêu nơi để chơi! Sống mà không tận hưởng thì hơi… khờ quá,  đó là tư tưởng trước đây của tôi. Ấy vậy mà ngày nay tôi ngồi đây, trong hình tướng của một người đầu trọc, khoác áo cà-sa, tay ôm bình bát.

Tôi nhớ lại ngày xưa khi còn là cư sĩ, tôi ghé qua chùa chỉ với mục đích là thắp vài cây nhang, cúng dường chút đỉnh để hồi hướng cho cô bạn đang bệnh của tôi. Có một lần tôi đến một tu viện và cũng định làm những việc như trước mỗi khi đến chùa, thắp hương, lạy Bụt.v.v. qua loa. Nhưng khi đến nơi, tôi không ngờ ở đó có cả trăm thầy và sư cô rất trẻ cùng với nhiều cư sĩ đang đi thiền hành như một dòng sông, tất cả đều  đi trong im lặng, nhẹ nhàng và thảnh thơi. Tôi bắt đầu hỏi thăm và tìm hiểu về đời sống của những người xuất gia nơi này. Sau đó tôi có cơ hội tham dự những khóa tu và thấy rõ nét đẹp của người xuất gia, nhất là lý tưởng phụng sự và dấn thân. Từ đó tôi rất mê đời sống của người xuất sĩ: từ ý tưởng đến cách đi, cách nói, từ chiếc áo nâu nắng phai đến đôi dép đơn giản. Đời sống thật phạm hạnh và tri túc. Thích quá nên khi về nhà tôi cứ kể tới kể lui với cô bạn. Trong một đêm tâm sự, sau khi lắng nghe tôi kể về  ước muốn đi xuất gia của tôi, bạn tôi nhẹ nhàng nói: “Anh cứ đi đi!” Tôi hơi ngạc nhiên với câu nói của cô bạn, nhưng rồi tôi trả lời: “Không sao đâu em! Anh có thể sống như bây giờ được. Mình cũng có thể bắt chước như Kim Trọng và Thúy Kiều, anh ở một phòng, em ở một phòng. Tu tại gia vẫn là tu mà!”

Huynh đệ bên nhau

Nghe tôi nói vậy cô bạn tôi cười khúc khích và phán: “Theo trong truyện Kiều, thì anh bây giờ không phải là Kim Trọng.” Bị cô bạn phán cho một câu xanh rờn tôi hơi quê quê làm mặt ngớ: “Êh!”. Nhưng như hiểu được tâm nguyện của tôi, cô bạn tôi động viên: “Anh còn sức khỏe.  Anh tu cho anh, cho gia đình, chuyển hóa nghiệp không tốt của anh và của gia đình. Em tự lo cho em được.” Nghe cô bạn động viên vậy, tôi rủ rê: “Vậy thì hai đứa mình đi tu luôn! Không có ai chăm sóc em, anh lo lắm.” Sau một vài phút im lặng, với ánh mắt buồn, cô bạn nói: “Thân em là thân bệnh. Em chỉ làm gánh nặng thôi.  Anh tu cho em, cho hai đứa mình.” Tôi biết cô bạn nói thật và yểm trợ cho tôi đi xuất gia, tôi cảm thấy mình đang có một người tri kỷ luôn luôn hiểu được những gì tôi muốn. Tôi mở lời khuyên cô bạn: “Em bệnh như vậy, cần có người  bên cạnh em để lỡ khi em có chuyện gì. Nếu anh đi tu thì em cứ lập gia đình đi.  Anh không buồn đâu.” “Sau khi quen anh rồi, em không còn tin tưởng một người đàn ông nào trên đời này nữa.” Cô bạn lại chọc tôi trong tiếng cười khúc khích. “Nhưng đi tu, anh phải tu cho đàng hoàng nha. Tu không được thì về với em, chứ đừng vô chùa mà phá. Đừng để em xách gậy vô chùa đập anh, tội lỗi lắm nha!” Trời! Tôi thầm nghĩ. Tôi đâu đến nỗi tệ như vậy.

Vậy đó, ước nguyện của tôi đã được cô bạn yểm trợ và tôi nhẹ nhàng ra đi mang theo sự biết ơn đối với cô bạn của tôi. Tôi biết, có rất nhiều chàng thanh niên khi nhận ra được hướng đi đích thực của đời mình nhưng khi đã dính vào chuyện tình cảm thì khó mà thoát ra được. Và không phải cô gái nào cũng như Da Du Đà La, như cô bạn của tôi, chịu hy sinh cho lý tưởng của người mình thương.

 

Tôi đi tu vì tôi yêu cuộc sống của người xuất gia nhưng phần lớn cũng vì cô bạn mến thương này. Bạn tôi rất muốn đi xuất gia nhưng vì bệnh nên không thể thực hiện được ước muốn của mình. Từ nhỏ đến lớn tôi không có diễm phúc sống cạnh ba mẹ, không có ai dạy cho tôi cách sống có đạo đức. Mười một tuổi tôi rời quê hương sang sống ở xứ Mỹ, xứ sở được mệnh danh là đất nước tự do. Tôi cứ tự do sống cho tôi, sống cuộc đời ăn chơi, thỏa mãn những gì tôi muốn: tiền, sắc, danh và bị bạn bè lôi kéo vào những nơi không nuôi dưỡng…  Tôi hầu như chưa biết thương là gì, ai chết kệ ai, ai khổ mặc kệ, không mắc mớ gì đến tôi. Nhưng cô bạn thì lại khác: luôn hy sinh cho người khác, luôn có tâm giúp người, thương loài vật, con kiến cũng không muốn giết. Khi quen được cô bạn đó, tôi đã hiểu được thế nào là “sống”. Từ nhỏ tôi sống thiếu tình cảm của ba mẹ và người thân, khi gặp được cô bạn này, tôi thấy lòng mình được sưởi ấm lại bằng tình thương, tình thương mà bấy lâu nay tôi chưa hề có được. Cho nên khi gặp được cô bạn đó, tôi mừng quá, cưới liền!

 

Chán thay cái thói quen tật xấu của tôi, có Giáng Kiều mà không biết trân quý. Cưới nhau được vài năm nhưng hai đứa sống không có hạnh phúc, cứ hai ba ngày là có chuyện gây lộn, đập bàn, đập tường. Sống làm sao nổi nên tức quá, tôi ly dị. Hồi đó tôi chưa gặp được tăng thân, chưa hề biết thực tập nuôi dưỡng hạnh phúc là gì nên mới có chuyện không hay xảy như vậy. Nhưng duyên chưa hết, hai đứa trở lại làm bạn sau hơn một năm chia tay. Mất rồi tôi mới biết quý, có lại tôi mới biết thương. Lúc đó tôi mới hiểu được tâm trạng của người bệnh. Ngồi kế bên cô bạn trong những cơn đau vì bệnh của thân, vô ra nhà thương cấp cứu hai ba lần trong tháng, tôi nếm được sự thật của vô thường. Lúc đó, tôi nhìn lại cuộc đời ăn chơi tiều tụy mà tôi đã dấn vào trước đó và giật mình tự hỏi: Tôi sống để làm gì?

 

Có nhiều người khuyên: “Vợ chồng ai không có sóng gió. Bây giờ hiểu nhau rồi thì sanh vài thằng nhóc cho vui.” Sống để sanh con à?  Có con là vui? Nhìn cô bạn đau đớn khi bệnh hành thân, không lẽ nào ép sanh con cho tôi nữa? Tôi biết đó là con đường mà nhiều người chọn, nhưng không phải là con đường mà tôi muốn đi.

 

Cũng vì bệnh mà cô bạn tôi hướng về con đường tâm linh và  nhờ vậy mà tôi được đi ké. Hình ảnh đoàn người với áo nâu đi như một dòng sông đã đánh thẳng vào tim tôi như tia sét, khơi dậy ngọn lửa “tánh Bụt” trong tôi mà tôi không ngờ là mình có được và có công năng phá tan ngọn núi ăn chơi dục lạc, mở một đường khác cho tôi đi. Chỉ mới nhìn hình tướng bên ngoài thôi mà đã khiến tôi “ mê mẫn” đến vậy đó. Đến khi tiếp xúc rồi thì không có một điều gì có thể cản trở ước muốn của tôi được. Phước đức của tôi vẫn còn.

 

Vào sống trong tu viện tôi như đi vào một thế giới khác. Năng lượng tu tập vững chãi của đại chúng như núi cao, tình thương như dòng suối mát. Sống trong chúng rất dễ cho tôi tu tập chuyển hóa những thói quen tật xấu. Đại chúng như tấm gương sáng cho tôi soi vào và nhìn thấy những vết dơ của tập khí, cho tôi pháp môn để chùi sạch những vết xấu ấy, giúp tôi làm đẹp thêm bằng uy nghi và giới luật. Tu cùng đại chúng, tôi thấy có nhiều cái lợi lắm, một trong những cái mà tôi quý khi sống trong tăng thân là giúp tôi chuyển hóa những tập khí lười biếng, thói quen biện hộ cho những tập khí xấu của mình hơn khi tu một mình.

 

Con người ta hay có thói quen bị lờn và tôi cũng vậy, vì những pháp môn thực tập đơn giản quá thành ra đôi khi tôi quên. Ai mà không biết thở! Ai mà không biết đi! Nhưng ai thật sự biết thở và ai thật sự biết đi đúng nghĩa? Vào tăng thân chưa được bao lâu và cũng chưa thấm tương chao lắm, ấy vậy mà tôi cứ tưởng mình biết mọi cái rồi, là thầy rồi, giỏi rồi nên lơ là thực tập các pháp môn căn bản mà Thầy đã hết lòng trao truyền. Ngày này qua tháng nọ, năm này đến năm kia, tôi không nắm được sự thực tập căn bản nên tôi bị vọng tưởng kéo đi. Cứ như vậy tôi sống trong bóng hình của hạnh phúc, nghĩ rằng chỉ cần trôi với dòng chảy của đại chúng thì cũng có ngày mình đi ra tới biển.

May thay nhờ phước đức của ông bà nên tôi sớm nhận ra hướng đi của mình. Tôi còn nhớ chuyến đi hoằng pháp của Thầy ở Mã-Lai, trong một đêm khuya, trên đường trở về lại chùa sau buổi pháp thoại công cộng, xe chở chúng tôi dừng lại trước đèn đỏ gần cầu xa lộ. Tôi nhìn xuống đường và thấy rất nhiều người vô gia cư sống ở đó, đa số là đàn ông. Khuất dưới cột đèn, có một phụ nữ đang cho con bú. Áo cô rách tơi tả, người chỉ còn xương với da, ánh mắt không hồn. Cô đã mất hết tất cả hy vọng trong đời, có thể đứa bé đó là sợi giây duy nhất níu giữ mạng sống của cô.

 

Xe đã chạy lâu rồi nhưng hình ảnh người phụ nữ đó đã khắc sâu trong lòng tôi. Hình ảnh đó như một cái tát mạnh vào má tôi và tôi bàng hoàng tự hỏi: Tôi đi tu để làm gì?

 

Ngày xưa, tôi có thể giúp đỡ cho người phụ nữ này bằng cách tặng cho cô ta một ít tiền để mẹ con cô có thể sống qua ngày, không chỉ một cô mà tôi có thể giúp mười cô như vậy. Bây giờ tôi không có một xu dính túi. Tôi làm sao để giúp họ đây? Người ta nghèo tả tơi như vậy còn mình thì được mọi người lo cho từng bát cơm, chổ ngủ? Hình ảnh đó khiến mỗi lần bưng bát cơm trên tay, tâm hỗ thẹn trong tôi lại phát khởi, tôi tự hỏi mình có xứng đáng để thọ nhận bát cơm này không? Cả tuần như vậy, tôi ôm giữ câu hỏi này, vừa ăn vừa nuốt nước mắt. Mỗi muỗng cơm đưa lên, tôi lại thấy hình ảnh cô ta nhìn tôi với đôi mắt tuyệt vọng.

 

Có một lần, tôi có cơ hội ngồi chơi với Thầy. Hồi đó, tôi hơi phóng tâm một chút, lơ là chuyện tu tập nên được Thầy nhắc nhở: “Khi là người tu, con phải là người tu trọn vẹn 24/24 giờ. Con luôn giữ phạm hạnh của người tu sĩ, suy tư và hạnh động luôn là của người tu. Con đầu tư hết vô một chuyện thôi.” Thầy dạy thêm: “Thầy chỉ có một mong muốn nơi đệ tử của Thầy, dù xuất sĩ hay cư sĩ thì  tụi con phải sống có đạo đức.”

 

Những lời Thầy chỉ dạy cho tôi trước đây tôi đã lãng quên vì tập khí ham chơi của mình. Hôm ấy, nhờ bắt gặp hình ảnh người phụ nữ với đứa con không nhà không cửa, không đủ cơm ăn áo mặc ấy mà tôi nhớ lại lời Thầy, nhớ lại chí nguyện xuất gia ban đầu. Tôi không còn hỗ thẹn khi nâng bát cơm nữa. Tôi trân quý từng muỗng cơm, từng hạt gạo. Đôi khi tôi vẫn nuốt nước mắt khi ăn, nhưng nuốt vì lòng biết ơn.

 

Tôi trở lại với chính tôi, trở lại với những pháp môn căn bản. Tôi ngồi yên và nương vào hơi thở để trở về, nối lại nhịp cầu giữa thân và tâm. Ngồi yên như thế, tôi cảm được nguồn năng lượng vững chãi của đại chúng và của chính tôi. Với mỗi hơi thở ra vào tôi tập dừng lại. Dừng lại có mặt đích thực mỗi khi có tiếng chuông thỉnh hay cho dù không có một hiệu lệnh nào, tôi cũng tự nhắc nhở mình là phải bám vào hơi thở. Tôi thở và gửi năng lượng bình an và vững chãi đó cho tất cả. Năng lượng đi theo như làn sóng, tôi gửi đến mọi loài, đến những nơi u tối để nguyện cầu cho tất cả đều được bình yên như tôi.

 

Khi lạy sám hối, tôi biết tôi và Đất Mẹ là một. Hình hài tôi có mặt từ Đất Mẹ, được nuôi lớn, và một ngày nào đó tôi cũng sẽ trở về với Đất Mẹ. Người phụ nữ và đứa bé vô gia cư kia cũng là một với Đất Mẹ. Tôi và cô không phải là hai. Nỗi khổ niềm đau của cô cũng là của tôi. Niềm an lạc và vững chãi thảnh thơi của tôi cũng là của cô. Khi tôi lạy xuống, tôi lạy xuống với mẹ con người phụ nữ ấy, tôi lạy xuống với cô bạn thương mến của tôi, tôi lạy xuống với ông bà tổ tiên trong và ngoài tôi, tôi lạy xuống với tất cả.

 

Là người tu, tôi chỉ có một việc để làm thôi: “Tu!” Tôi rất biết ơn những điều kiện mà tôi đang có để tiếp tục là người xuất sĩ trọn đời. Mỗi ngày tôi là một con người mới. Chí nguyện của tôi cũng thay đổi, mỗi ngày một vững mạnh hơn và tôi luôn hướng về Tam Bảo. Ngày xưa tôi tu vì em.  Ngày nay, tôi tu vì tôi là người tu.

Trích từ Lá thơ làng mai số 35

 

 

Đạo Bụt trong lòng người trẻ

 

Làng Mai năm nay tròn 30 tuổi và đang bước vào một giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian qua, Làng Mai đã cho ra đời nhiều pháp môn mới và tạo cơ hội để đưa đạo Bụt đến với nhiều người trong xã hội. Đặc biệt, Làng Mai đã mở ra một con đường cho các bạn trẻ mong ước được tu tập và phụng sự thông qua phong trào Wake Up cũng như chương trình đào tạo năm năm. Làng Mai cũng là nơi “sản sinh” ra một thế hệ tu sĩ mới. Có thể bạn sẽ thắc mắc rằng: Vì sao Làng Mai lại thu hút được nhiều người trẻ xuất gia như vậy? Có điều gì hấp dẫn những người trẻ để họ có thể chấp nhận cạo sạch mái tóc và sống một nếp sống giản dị của người tu? Có lẽ câu chuyện của tôi sẽ phần nào giải đáp cho bạn những câu hỏi đó.

Tôi năm nay hai mươi bốn tuổi, là một người tu trẻ và hạnh phúc. Tôi biết đến pháp môn tu tập của Làng Mai từ khi còn rất nhỏ. Có thể tôi không giống với mẫu người tu theo kiểu truyền thống như bạn từng biết. Tôi là một trong những người tu trẻ của thế hệ mới. Tôi không xuất gia vì thất tình hay vì không biết làm gì với cuộc đời mình; tôi cũng không chán ghét cuộc đời và tìm cách trốn chạy như cách suy nghĩ thông thường của hầu hết những người lớn tuổi mà tôi có duyên được gặp. Tôi cũng không giống  những thầy tu mà các bạn nhìn thấy trên phim ảnh. Tôi thực sự rất hạnh phúc với đời sống xuất gia của mình tại Làng Mai.

Tôi là một trong những người tu trẻ của thế hệ mới, được rèn luyện và lớn lên trong một trung tâm tu học có tên là Làng Mai. Ở nơi đây, chúng tôi được vui đùa, chơi thể thao, ca hát, có thể hát cả nhạc rap và được giao lưu, gặp gỡ với rất nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ. Nếu bạn tình cờ thấy tôi cùng với các thầy, các sư cô Làng Mai đang tắm biển hay đang đi chơi picnic trên núi, có khi vừa chơi đàn guitar vừa hát thì chắc là bạn sẽ tự hỏi: “liệu những người này có thực sự là những người tu không nhỉ?”. Khi đó tôi sẽ trả lời với bạn rằng: “chúng tôi đích thực là những người tu, chỉ có điều chúng tôi thuộc một thế hệ mới, chỉ đơn giản vậy thôi!”.

Tôi lớn lên tại Canada, trong một gia đình theo đạo Bụt. Trong nhà chúng tôi có một bàn thờ ở phòng khách, trên đó cha mẹ tôi có đặt một tượng Bụt cùng với nhang, đèn và những đồ thờ cúng theo kiểu truyền thống. Tôi được cha mẹ dạy thắp hương lên bàn thờ Bụt mỗi sáng trước khi đi học. Ban đầu tôi cũng vâng lời và làm theo, nhưng thú thật là đối với một cậu bé đang tuổi mới lớn thì việc làm này chẳng có gì hứng thú hết, vì vậy mà sau một thời gian thì tôi không làm nữa. Ở thành phố Toronto nơi tôi lớn lên có rất nhiều ngôi chùa nhỏ. Cha mẹ thường dẫn tôi và chị gái đến các ngôi chùa này vào những dịp Tết, lễ Vu Lan, Trung thu và nhiều dịp lễ khác. Mặc dù những dịp như vậy cũng khá vui nhưng sao tôi vẫn cảm thấy chán, chỉ muốn đi về nhà để xem tivi hay chơi điện tử Nintendo. Đến bây giờ, tôi vẫn còn thấy nhiều bạn trẻ cũng có thái độ giống tôi, không hứng thú gì với những sinh hoạt ở chùa.

Khi đến những ngôi chùa ở Canada hay Việt Nam, lúc nào tôi cũng chỉ thấy những nghi lễ tụng kinh và cầu nguyện. Đôi khi đó là một buổi cầu siêu cho người đã chết hay là việc cúng bái theo kiểu sùng tín. Tôi chưa bao giờ cảm thấy những điều này có gì liên hệ tới cuộc sống của tôi hết. Mặc dù trong gia đình tôi, mọi người vẫn thường đến chùa tụng kinh và nghe pháp nhưng sao tôi vẫn thấy họ khổ đau và làm cho những người mình thương khổ đau. Vì vậy tôi chưa hiểu được ý nghĩa và sự lợi ích của việc đi chùa. Khi đến chùa, nhìn lên những tượng Bụt và Bồ tát, tôi không có cảm giác có sự liên hệ hay gần gũi nào. Đối với tôi, những bức tượng đó không có vẻ gì là giống con người cả. Có nhiều người trong chúng ta vốn không tin rằng có Thượng đế. Phải chăng Bụt và Bồ tát cũng là những Thượng đế của người Á Đông? Có thể lúc đầu chúng ta nghĩ rằng đúng vậy, đó là Thượng đế của chúng ta, theo kiểu Á Đông. Và rồi khi lớn lên, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng đó chỉ là những bức tượng được làm rất đẹp để chúng ta thờ cúng. Trong nhiều ngôi chùa, ta có thể nhìn thấy những câu có nội dung như: Nam Mô Đức Phật A Di Đà, con nguyện sẽ sinh về Tây phương Tịnh độ (Tây phương cực lạc). Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng những người Phật tử không muốn sống trên hành tinh xinh đẹp này nữa sao? Tại sao phải đợi cho đến khi chết đi mới sang được Tịnh độ? Đây không phải là điều mà những người trẻ ước muốn. Mặc dù tôi rất tôn trọng và cũng hiểu đôi chút về những sinh hoạt tín ngưỡng và lòng mộ đạo, nhưng tôi thấy những sinh hoạt này không hấp dẫn được những người trẻ ngày nay. Bởi vì sau một thời gian cầu nguyện, họ không cảm thấy những lời cầu nguyện của họ được đáp lại. Nhiều khi họ nghĩ rằng đạo Bụt không dành cho những người trẻ như họ mà chỉ dành cho những người lớn tuổi và cho người chết mà thôi. Từ đó  họ bắt đầu nghi ngờ, rồi dần xa rời đạo Bụt.

Trong giây phút này có thể bạn nghĩ rằng tôi đang phán xét và chỉ trích đạo Bụt. Sự thật thì tôi không hề có ý định đó, tôi chỉ muốn chia sẻ cảm giác của một người trẻ cũng như quan điểm của người trẻ về đạo Bụt ngày nay. Tôi nhận thấy đạo Bụt có vai trò và tầm quan trọng rất lớn trong việc giúp những người trẻ của thế hệ mới trở về để tiếp xúc với kho tàng tuệ giác mà tổ tiên huyết thống và tâm linh đã trao truyền. Tuy nhiên, muốn làm được như vậy thì đạo Bụt phải thay đổi để thích ứng với thế kỷ mới, thế kỷ 21.

Là những người trẻ, khi đến thăm một ngôi chùa, thiền viện hay một trung tâm tu học, chúng ta mong muốn hiểu được lời kinh, tiếng kệ mà quý thầy, quý sư cô đang tụng niệm cũng như những lời chỉ dạy từ quý thầy, quý sư cô. Chúng ta muốn học hỏi một phương pháp thực tập có thể áp dụng ngay trong đời sống hàng ngày và có tác dụng ngay khi thực tập. Chúng ta muốn có một nơi để trở về nương tựa, để làm lớn mạnh khía cạnh tâm linh trong đời sống của mình và tiếp xúc với chiếc nôi truyền thống.

Bố tôi dẫn tôi và chị gái đến Làng Mai năm 1996. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ là khi chúng tôi mới đến, tôi nghĩ trong đầu rằng nơi này chắc cũng chẳng khác gì những ngôi chùa mà tôi từng biết. Điều làm tôi ấn tượng đầu tiên là hình ảnh một vị thầy trẻ chào đón chúng tôi với nụ cười thân thiện. Nhìn vị thầy đó thật bình an, hạnh phúc và gần gũi. Sự ấm áp và chu đáo của vị thầy đó làm cho tôi cảm thấy ở nơi này có một cái gì đó không giống với những ngôi chùa mà tôi đã đến và vị thầy tôi gặp là người mà tôi có thể đến chơi một cách thoải mái, dễ dàng. Tôi đã được gặp rất nhiều thầy và sư cô trẻ khác trong thời gian ở Làng. Tôi cũng học được rất nhiều từ cách sống hàng ngày của các thầy, các sư cô nơi đây. Tôi thấy được sự quan tâm, chăm sóc giữa những người tu với nhau đầy tình thương như thế nào. Tôi cũng thấy được các thầy, các sư cô làm việc rất nhiều để phụng sự nhưng sao trên môi các vị vẫn nở được những nụ cười tươi. Những nụ cười đó không có vẻ gì là xã giao mà lại rất thật, phát sinh từ sự thực tập chánh niệm hàng ngày. Năng lượng chánh niệm đã giúp cho các thầy, các sư cô tiếp xúc được với những điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong mình và xung quanh mình ngay trong giờ phút hiện tại. Năng lượng đó cũng giúp cho các vị nuôi lớn tâm thương yêu đối với mọi người, ngay cả đối với những người chưa dễ thương với mình.

Làng Mai được bao bọc bởi khung cảnh thiên nhiên xung quanh. Ở đây mọi người không được phép chơi các trò chơi điện tử. Điều này tạo cơ hội cho những người trẻ như tôi có cơ hội chơi và tiếp xúc với các bạn trẻ cũng như các em nhỏ đến Làng từ nhiều quốc gia khác nhau. Và nhờ vậy mà tình bạn giữa chúng tôi được hình thành nhanh chóng. Chúng tôi nhận ra rằng hạnh phúc là một cái gì có thật mà không cần phải có nhiều tiền bạc và danh tiếng. Chúng tôi không bị phụ thuộc vào máy tính, tivi, những trò chơi điện tử hay Facebook, Twitters cũng như các hình thức giải trí trên mạng để có hạnh phúc. Cái thấy này có thể giúp thế hệ trẻ không bị cuốn hút vào thế giới công nghệ như hiện nay.

Tôi thích cách diễn bày đạo Bụt theo phương pháp của Làng Mai, tôi không cảm thấy đạo Bụt là một tôn giáo mà chính là một nếp sống. Bụt đã dạy rất rõ rằng hạnh phúc và sự bình an chân thực có thể được tìm thấy ngay bây giờ và ở đây. Chỉ với một hơi thở vào, tôi có thể tiếp xúc được với tất cả những điều kiện hạnh phúc mà tôi đang có, chẳng hạn như tôi đang có một cơ thể khỏe mạnh, một gia đình hạnh phúc, những người bạn dễ thương, v.v. Sự thật là có rất nhiều những điều kiện hạnh phúc đang có mặt cho chúng ta nhưng chúng ta thường bị cuốn đi bởi nhịp sống hối hả của xã hội mà quên đi điều đó. Tôi nhận ra rằng tương lai của mình đang được làm bởi những hành động trong giây phút hiện tại. Và ý thức đó đã cho tôi sức mạnh để quyết định lựa chọn cho mình một hướng đi. Tôi biết tương lai của tôi có tốt đẹp hay không, tất cả đều do chính tôi lựa chọn. Sự “vui tươi” và “trẻ trung” của pháp môn Làng Mai đã thực sự thu hút tôi cũng như rất nhiều các bạn trẻ khác đến Làng. Kinh nghiệm này đã giúp tôi thay đổi cái nhìn của mình đối với nếp sống ở chùa, đối với người tu và đối với đạo Bụt nói chung.

Tôi quyết định xuất gia ở tuổi 13, bởi vì tôi muốn sống một nếp sống như ở Làng Mai. Tình huynh đệ là một cái gì rất sống động ở Làng Mai đã thu hút tôi như… đường thu hút kiến. Tôi nhận thấy ở ngoài xã hội, chúng ta được đào tạo để trở thành những cá nhân xuất sắc, nhưng tại Làng Mai thì chúng ta phải học nhìn mọi thứ bằng con mắt tương tức, dù đó là công việc hay là vấn đề hạnh phúc hoặc khổ đau. Tôi biết điều này là một sự thực tập không hề dễ dàng đối với bất kỳ ai, đặc biệt là những người trẻ lớn lên ở Tây phương như tôi. Ở Làng Mai, tất cả các thầy cùng sống chung với nhau trong một khu tăng xá và các sư cô cũng sống chung trong cùng một ni xá. Chúng tôi đến từ nhiều quốc gia, từ nhiều nền văn hóa khác nhau và có trình độ học vấn cũng như nền tảng gia đình khác nhau. Vì vậy mà chúng tôi có cách nhìn và quan điểm không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn thực tập sống chung an lạc với nhau. Mỗi ngày chúng tôi thực tập buông bỏ cái tôi riêng biệt và nuôi dưỡng tuệ giác tương tức bằng cách tập nhìn các sư anh, sư chị, sư em của mình là một tế bào của cùng một tăng thân.

Tôi nhớ có một lần khi làm thị giả cho Thầy, tôi may mắn được trực tiếp nghe Thầy dạy các đệ tử của mình về điều này. Lúc đó có một số quý thầy, quý sư cô đang chuẩn bị cho chuyến đi giảng dạy ở xa; trước khi đi, quý vị ấy đến chào Thầy và xin Thầy chỉ dạy. Trong nhóm này có nhiều vị rất trẻ, tài giỏi và có đủ khả năng thuyết pháp và hướng dẫn tu tập cho thiền sinh. Tuy nhiên, đôi khi có quá nhiều người tài giỏi ở trong cùng một nhóm cũng khá nguy hiểm bởi vì sẽ không ai chịu lắng nghe ai! Hôm đó, các thầy, các sư cô trẻ trong nhóm cùng ăn cơm trưa với Thầy và sau bữa ăn, các vị chia sẻ với Thầy về chương trình cũng như những ước muốn của mình trong chuyến đi. Sau khi lắng nghe các học trò của mình, Thầy dạy rằng: “Tất cả các con phải tập nhìn các sư anh, sư chị, sư em là một với mình. Hãy nhìn những ngón tay của các con. Các con có thấy mỗi ngón tay có hình dáng khác nhau không? Ngón cái thì ngắn và bụ bẫm nhưng lại rất khỏe, ngón trỏ là ngón chỉ phương hướng, ngón giữa là ngón dài nhất, kế đó là ngón đeo nhẫn rồi đến ngón út, ngón này tuy nhỏ nhưng lại rất hữu dụng. Các ngón tay biết rằng mỗi ngón đều rất khác biệt nhưng chúng cũng đồng thời ý thức rằng chúng cùng thuộc một bàn tay. Nhờ khác nhau như vậy mà các ngón tay có thể cùng nhau tạo thành một quả đấm. Nếu các ngón tay đều y như nhau thì chúng không thể hợp lại thành một quả đấm được. Các con phải tập nhìn sư anh, sư chị, sư em mình như vậy. Tất cả chúng ta đều khác nhau, mỗi người đều có điểm mạnh và điểm yếu, nhưng nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta là những ngón tay của cùng một bàn tay thì chúng ta sẽ vượt thoát cái nhìn phân biệt, kỳ thị và chúng ta có thể phối hợp hài hòa với nhau để tạo nên sức mạnh như một quả đấm”. Các thầy, các sư cô trẻ rất vui mừng được nghe lời chỉ dạy của Thầy và hứa sẽ thực tập điều đó. Đây chính là tinh thần mà chúng tôi luôn thực tập cùng nhau tại Làng Mai.

Được sống và lớn lên trong Tăng thân, tôi nhận diện được rất nhiều tâm hành trong tự thân và biết cách chăm sóc những tâm hành đó mỗi khi chúng phát khởi. Tôi nhận ra  mình có nhiều đức tính và phẩm chất tốt được trao truyền từ ông bà tổ tiên, nhưng đồng thời cũng có không ít những tập khí chưa dễ thương cần được chuyển hóa. Đảm đương những trách nhiệm trong tăng thân đã cho tôi cơ hội tốt nhất để thực tập điều đó. Tôi được Tăng thân giao phó chức vụ trụ trì của chùa Pháp Vân, Xóm Thượng sau khi Thầy Pháp Đôn – nguyên trụ trì của chùa Pháp Vân chuyển sang tu viện Lộc Uyển, Mỹ để tiếp tục tu tập cùng đại chúng bên đó. Mặc dù trách nhiệm này có vẻ rất quan trọng và nhiều khó khăn nhưng tôi vẫn hoan hỷ chấp nhận. Tôi thực sự thấy rằng tôi đã cắm rễ sâu vào mảnh đất Tăng thân, nơi tôi có nhiều thương yêu, vì vậy khi được Tăng thân giao phó trách nhiệm đó, tôi chấp nhận một cách rất tự nhiên.

Làm trụ trì ở Làng Mai rất khác so với làm trụ trì ở những chùa truyền thống. Tăng thân Làng Mai bây giờ đã phát triển khá lớn, vì vậy Thầy chúng tôi đã đưa ra một cách thức mới để tổ chức tăng thân. Cách thức này tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các thầy, các sư cô trẻ thể hiện tài năng của mình. Ở những chùa truyền thống, các vị trụ trì thường có quyền hành rất lớn và quyết định mọi việc trong chùa. Nhưng ở Làng Mai thì khác, Thầy đã cho chúng tôi một hướng đi mới. Thầy khuyến khích các sư anh, sư chị lớn đóng vai trò là những trụ cột của Tăng thân. Các vị lớn có mặt đó để lắng nghe các sư em mình chia sẻ về những khó khăn trong tu học, nâng đỡ, yểm trợ và đưa những lời chỉ dẫn khi cần thiết. Các vị cũng đóng góp tuệ giác và kinh nghiệm của mình đối với những công việc trong Tăng thân, nhưng sau khi đưa ra ý kiến của mình, các vị để cho các sư em tự quyết định và thực hiện công việc đó. Tuy nhiên, các vị luôn có mặt ở phía sau để yểm trợ các sư em của mình. Cách tổ chức mới này đã tạo động lực cho các thầy, các sư cô trẻ năng động hơn và điều này giúp cho những người trẻ như chúng tôi cảm thấy mình đang được góp sức vào sự phát triển của Tăng thân. Đó là lý do tại sao Xóm Thượng của Làng Mai lại có một vị trụ trì trẻ như vậy!

Là trụ trì ở Làng Mai, chúng tôi phải làm lớn mạnh kỹ năng truyền thông của mình với những thành phần khác trong Tăng thân. Chúng tôi phải tập lắng nghe các sư anh, sư chị, sư em của mình cũng như các bạn thiền sinh với một tấm lòng rộng mở mà không để bị cuốn đi bởi những cảm xúc của mình. Công việc của một trụ trì Làng Mai cần làm là: Khám phá tài năng của các thành phần trong chúng để giúp các anh chị em có cơ hội phát triển tài năng của mỗi người. Là một thành phần của Tăng thân Làng Mai, ai trong chúng tôi cũng được khuyến khích chia sẻ ý kiến và đóng góp cái thấy của mình cho đại chúng, nhưng một khi đã chia sẻ ra rồi thì chúng tôi nương tựa vào mắt Tăng và để cho Tăng thân dung hòa tất cả các ý kiến.

Cũng có những lúc tôi cảm thấy căng thẳng và đã để cho cảm xúc cuốn đi, khiến cho tôi có những lời phàn nàn, trách cứ Tăng thân, khiến cho tôi nghĩ rằng mình giỏi hơn những người khác và nếu không có tôi thì Tăng thân sẽ rất khó khăn. Thái độ này đã làm cho tôi trở nên xa cách với các sư anh, sư chị, sư em của mình. Nó cũng khiến cho tôi mất rất nhiều năng lượng và làm tổn hại đến tình huynh đệ trong Tăng thân. Những lúc như vậy, tôi luôn tìm cách trở về với những phương pháp thực tập căn bản, buông bỏ những nghĩ suy về các dự án, các cuộc họp trong đầu và nhắc cho mình nhớ rằng chính tôi đã tự nguyện xuất gia và tự nguyện trở thành một thành phần của Tăng thân. Cùng với sự thực tập này, tôi để cho tăng thân ôm ấp những khó khăn trong tôi và nhờ đó tôi có thể nối lại truyền thông với tăng thân của mình. Kinh nghiệm này cũng giúp cho tôi nhớ rằng tôi chỉ là một trong rất nhiều những thành phần tạo nên Tăng thân. Và nếu tôi không làm những dự án đó hoặc giả dụ nếu tôi không chủ tọa những buổi họp thì sẽ có một người khác làm thay tôi. Tôi tự nói với chính mình :“Pháp Hữu, anh không có gì đặc biệt lắm đâu! Anh cũng chỉ là một tế bào như tất cả những tế bào khác của tăng thân thôi”. Sự thực tập này đã cứu tôi rất nhiều lần và giúp cho tôi buông bỏ bản ngã của mình. Nó cũng đồng thời giúp tôi làm mới lại mình và nhắc nhở tôi rằng tôi là một người tu, rằng tôi còn rất trẻ và có nhiều điều cần phải học hỏi; và rằng tôi nên nuôi lớn tâm hiểu biết cũng như tình thương yêu nơi mình. Việc làm trụ trì đã thực sự rèn cho tôi mở lòng mình nhiều hơn và giúp tôi nuôi dưỡng tâm bình đẳng, không phân biệt nơi mình.

Tôi muốn nói với những người bạn trẻ rằng đạo Bụt vẫn còn rất tươi mới và thiết thực đối với thế hệ trẻ chúng ta. Đạo Bụt không chỉ dành cho người già và người đã chết, mà có thể trở nên sống động và tràn đầy sự sống. Đạo Bụt có thể dẫn dắt thế hệ mới của chúng ta hướng về một tương lai tươi sáng hơn. Là một người tu, tôi luôn hành trì theo giới luật và uy nghi để bảo hộ cho mình, nhưng không vì vậy mà tôi không được sống như một người trẻ! Tôi vẫn có thể chơi bóng rổ với các sư anh, sư chị, sư em của mình; tôi vẫn có thể hát nhạc rap với các bạn trẻ. Chỉ có điều, tôi làm những điều này với ý thức chánh niệm và với tinh thần xây dựng tình huynh đệ.

Tôi thấy mình thật may mắn được gặp Tăng thân và không đánh mất gốc rễ truyền thống của mình. Tôi mong ước mình sẽ là sự tiếp nối xứng đáng của Thầy và của Tăng thân. Tôi thấy lòng mình tràn đầy niềm biết ơn vì tôi được là một thành phần của Tăng thân Làng Mai, đặc biệt là khi Làng Mai tròn 30 tuổi. Tôi cầu mong cho mọi người trẻ trên thế giới này đều tìm thấy cho mình một nơi mà mình có thể trở về để tiếp xúc với gốc rễ của mình, và tiếp xúc với gia tài tâm linh mà tổ tiên đã trao truyền.

Thệ nguyện từ nay chỉ một đường

-“Cháu ra đời vậy cháu có ý định trở lại với Tăng thân, trở về xuất gia lại không?”, thầy Pháp Niệm hỏi với một hy vọng rằng rằng câu đáp sẽ là: -“Dạ, thưa có”.

Vào năm 1995, lúc đó tôi mười lăm tuổi, vào dịp nghỉ hè tôi được ba mẹ cho qua Làng Mai. Lúc bấy giờ, thầy Pháp Niệm (cậu ruột của tôi) mới xuất gia được một năm. Lần đầu tiên khi đặt chân vào khuôn viên Làng, tôi đã có ấn tượng. Làm sao mà có được một môi trường bình an như vậy nhỉ! Nhớ lại những lúc đi sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử (GĐPT) tôi không bao giờ có được cảm giác như vậy. Mỗi chủ nhật, tôi tự động khoác chiếc áo lam của GĐPT và lên đường đến chùa. Thỉnh thoảng tôi còn tự hỏi vì sao tôi đi chùa? Tập khí của tôi vẫn còn y nguyên đó, ai nói gì thì tôi nói lại, cứng đầu, bướng bỉnh, có sự so đo khi làm việc nhà với đứa em trai,… Khi Mẹ tôi hỏi một câu làm tôi bừng tỉnh mà không biết làm sao đáp lại: “Con đi chùa làm gì mà khi về nhà con vẫn như vậy?” Tôi đi GĐPT được học Phật Pháp, được sinh hoạt và tham dự vào những trò chơi, đố vui để học. Như khi  được hỏi “Tứ Diệu Đế là gì?”, tôi đáp như một cái máy: “Tứ Diệu Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo”, nhưng cuối cùng tôi vẫn không hiểu làm sao có thể áp dụng giáo lý đó vào đời sống hàng ngày. Tôi được đi chùa từ lúc tôi vượt biên và được bảo lãnh đến Toronto lúc tôi khoảng tám tuổi.

Mùa hè năm ấy tôi đến Làng với mục đích đi thăm thầy Pháp Niệm thôi, nhưng nhờ cơ hội đó mà tôi may mắn được tiếp xúc với Làng. Đó chính là “mối tình đầu” của tôi. Bước chân vào khuôn viên Làng, tự nhiên bao nhiêu lo phiền tan biến và chỉ còn lại không khí trong lành để tôi có thể cảm được sự bình an trong bản thân. Quý thầy và quý sư cô mà tôi được tiếp xúc tại Làng rất khác với những Thầy tôi quen biết trong những năm sinh hoạt trong GĐPT. Tôi thấy sao các thầy các sư cô ở đây có vẻ rất tự do, đi những bước chân rất khoan thai và tự tại. Khi ăn cơm, các vị nhai từng muỗng đến hơn ba mươi lần. Quý thầy, cô ở đây đích thực là biết sống và biết thưởng thức những mầu nhiệm của đất trời.Tôi khám phá ai ai cũng thương nhau như anh em ruột thịt và đôi lúc còn thương nhau hơn thế nữa, vì mỗi người trong đại chúng cùng chung một lý tưởng.

Tôi nhớ ngày tôi phải chuẩn bị rời Làng để về lại Toronto, tôi đã phải thức dậy rất sớm để đón chiếc tàu TGV từ Libourne đến Paris vào lúc 5h45 sáng. Ấy vậy mà có một sư cô đã thức dậy thật sớm để chuẩn bị thức ăn cho tôi đi tàu dù sư cô đó không quen biết gì nhiều đến tôi. Lúc tôi ngồi trên tàu, nhìn miếng bánh mì, tôi cảm được tình thương của sư cô. Tôi tự hỏi: “Tôi có khả năng để cống hiến tình thương như sư cô đã cống hiến cho tôi không? Dù đó là người mình không có quen biết?” Đó chính là hạt giống Bồ Đề trong tôi lần đầu được tưới tẩm, và tôi có ý muốn xuất gia. Vì tôi nghĩ chỉ có duy nhất con đường xuất gia mới trả lời được câu hỏi đó của tôi mà thôi.

Khi tôi về lại môi trường xã hội, về lại gia đình, tôi thấy con người có khuynh hướng hay sống với bản ngã hơi nhiều. Chúng ta tìm đủ cách để cho mọi việc đều thuận lợi cho riêng mình. Chính xã hội cũng khuyến khích và tưới tẩm hạt giống đó. Không ít thì nhiều, tôi đã học được một số pháp môn của Làng, như là thiền đi, thiền trà và trở lại tiếp xúc với hơi thở. Sống trong xã hội, mỗi lần tôi đi học, tôi vẫn tiếp tục thực tập được năm bước hoặc mười bước đi trong chánh niệm. Thỉnh thoảng tôi may mắn thực tập được nhiều hơn. Đã có những lúc tôi xin phép được cô giáo dạy sinh học yểm trợ cho tôi có thể mở những lớp hướng dẫn thiền đi và thiền trà. Vì trong trường có thành lập một cái phòng “peace room” (Sư Ông gọi là phòng thở và có nhóm conflict resolution, những người học cách giải toả xích mích.) Tôi không thuộc trong nhóm đó vì đối với tôi, nhóm ấy học nghiên về lý thuyết hơi nhiều. May mắn là cô giáo chấp thuận và trong năm tôi được hướng dẫn một vài lớp. Đến năm tôi vào lớp 11, tôi được trường trao cho giải thưởng hòa bình. Mỗi năm trường trao giải hòa bình cho một thành viên trong nhóm conflict resolution. Đối với tôi, nhận được giải đó là một điều rất đỗi ngạc nhiên. Tôi vui mừng và chấp nhận. Vì có lẽ đó cũng là những nấc thang, giúp tôi giải đáp một phần nào đó câu hỏi trong chiếc tàu TGV.

Đến khi học xong trung học, tôi quyết định xin mẹ đi tu vì hạt giống Bồ Đề trong tôi đã được chín mùi và tôi không có cách nào có thể chịu đựng được nữa. Lúc đó tôi đang vừa xem vô tuyến truyền hình vừa cắt vải làm túi áo cho mẹ may. Tôi ngừng công việc và tắt máy. Bước lên cầu thang, tôi hơi run run vì sợ mẹ sẽ không cho đi. Nhưng tôi đã quyết tâm rồi. Đến phòng may thì thấy mẹ đang may. Tôi ngồi xuống và xin mẹ ngừng may và hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, nếu con quyết định đi tu thì mẹ nghĩ như thế nào?

Mẹ tôi trả lời với giọng nói có vẻ lo lắng nhưng lại vui mừng:

– Nếu con đã suy nghĩ kỹ rồi thì con có thể đi, nhưng con nên nhớ là có những người tu nửa chừng và ra đời.

Tôi nghĩ rằng tôi sẽ không thuộc những người đó và trả lời một cách rắn chắc.

-Dạ con biết.

-Vậy thì mẹ đi báo tin cho ba mừng.

Tháng hai năm 2001, tôi được xuất gia trong gia đình Cây Trà Mi. Gia đình có chín người và tôi được làm sư út của gia đình. Được làm sư út tôi mừng ghê vì ở nhà tôi là anh cả trong gia đình. Không ngờ, nhờ đi tu tôi mới được nhõng nhẽo! Mỗi ngày tôi được bao bọc bởi tình thương của Sư Ông và của toàn thể đại chúng. Tôi và mọi người nơi đây thật sự được sống như là những người tự do và không kỳ thị chủng tộc hoặc tôn giáo. Bất cứ lúc nào cũng có thể chế tác hạnh phúc và nuôi dưỡng bình an. Mỗi ngày, tôi cùng mọi người thực tập để trân quý hai mươi bốn giờ mà đất trời ban cho và cứ như vậy tôi nở nụ cười để tiếp nhận món quà đó. Tôi ý thức trong thế giới chung quanh có những người không được may mắn như tôi. Mỗi sáng thức dậy, tôi ý thức rằng tôi vẫn còn là một vị xuất gia, còn có thể thở được, nhìn được với đôi mắt sáng và mỉm cười được, chừng đó đã là kỳ diệu lắm rồi. Tôi không cần theo đuổi gì thêm. Dù cho làm tổng thống hay có quyền lợi, giàu sang trong xã hội chắc gì tôi có được hạnh phúc và tự do bằng nếp sống đơn giản và ăn chay nằm đất!

Nhưng có lẽ, tôi nằm trong thành phần những người xuất gia trẻ mà trong tâm thức vẫn còn những hạt giống đã được trao truyền từ ông bà tổ tiên. Dần dà tôi đã đánh mất đi sự thực tập căn bản của Làng, và thế vào đó những hạt giống thèm khát, muốn sống một nếp sống gia đình được khơi dậy trong tôi. Lúc ấy tôi xuất gia đã được chín năm. Chính vào hai năm cuối là thời điểm khó khăn nhất. Tôi đã vất vả nhiều với sự lựa chọn giữa con đường xuất gia và con đường hoàn tục. Nếu tôi chọn con đường ra đời, tôi sẽ phụ bạc tình thương của Sư Ông, của Tăng thân và của ba mẹ tôi. Nhất là với những lời dặn dò của mẹ ngày tôi xin đi xuất gia. Tôi đã chật vật rất nhiều với sự đắn đo ấy. Để rồi cuối cùng, tôi đã nhắm mắt trước tình thương to lớn mà tôi đã nhận từ Sư Ông và từ Tăng thân. Đồng thời tôi cũng chấp nhận, chính quyết định này là con đường mà tôi phải đi ngang thì mới lớn lên được. Vào hai năm cuối đó, tôi đã để hạt giống thèm khát trỗi dậy trong tâm thức rất nhiều và âm thầm muốn rủ người tôi thương cùng nhau ra đi. Thuở ban đầu chỉ là đơn phương, về sau trở thành song phương. Do vậy, tôi đã bám víu vào nó. Đã để dòng mơ tưởng lấn chiếm cả “mối tình đầu” của tôi với Tăng thân. Tôi nhớ trong những ngày tháng đó, tất cả những gì tôi làm chỉ là nuôi lớn hạt giống và năng lượng thèm khát đó trong tôi thôi. Tôi đã dại dột nghĩ rằng: “Đâu phải cặp vợ chồng nào cũng khổ đau, cũng có những cặp vợ chồng rất thành công trong sự thực tập và có thể giúp đỡ rất nhiều người bớt khổ”. Đến mức tôi nghĩ, tôi không có thể sống được trong Tăng thân nữa vì tôi không xứng đáng với tình thương của Sư Ông và của Tăng thân mỗi ngày đã dành cho tôi. Sư Ông và Tăng thân đã làm mọi cách để nâng đỡ và dạy tôi rất nhiều điều, nhưng tâm tôi đã khép kín rồi nên tôi không thể tiếp nhận được tình thương đó! Cuối năm 2010, tôi đã quyết định xin phép Sư Ông và tăng thân cho tôi xả giới. Tôi biết ơn tình thương của Sư Ông và đại chúng  luôn luôn dành cho tôi. Sống trong Tăng thân, tôi cảm được đây chính là nơi có tình huynh đệ, tình tỷ muội thật sự. Đi nhiều nơi trên thế giới, tôi chưa kiếm được thứ tình huynh đệ mà tôi đã cảm được trong suốt ngần mười năm xuất gia của tôi. Thầy Pháp Niệm cũng từng cố gắng để giúp tôi ra khỏi khó khăn này rất nhiều lần. Thầy hay chia sẻ: “Từ ngày cháu đi xuất gia đến giờ, cháu có thấy gia đình, họ hàng của mình đã chuyển hoá được biết bao không? Các em trẻ có ý thức hơn về sự thực tập và trở nên những người rất dễ thương.Thời gian mà Tony mất (em ruột của tôi mới 18 tuổi), cháu đã là cột trụ để làm nơi nương tựa cho ba mẹ cháu, và cho họ hàng…” Nhưng cuối cùng thầy Pháp Niệm cũng đành buộc lòng chấp nhận quyết định của tôi vì biết rằng tôi sẽ không còn đứng lưng chừng ở giữa ngã ba nữa. Nên khi thầy hỏi: “Cháu ra đời, vậy cháu có ý định trở lại với Tăng thân, trở về xuất gia lại không?” Tôi trả lời một cách chắc chắn: “Dạ không! Nếu cháu ra đi cách đây một năm thì cháu nghĩ sẽ có ngày trở lại. Giờ đây thì không.”

 

Ngày tôi về nhà, có lẽ là ngày khổ sở nhất trong cuộc đời của tôi, vì tôi đã cắt đi niềm tự hào của ba mẹ tôi đối với chuyện có người con đi xuất gia. Có đứa con đi tu là niềm hạnh phúc và tự hào nhất đối với những người Phật tử chất phác như ba mẹ tôi. Tôi đành phải nhắm mắt trước việc ấy và hy vọng có ngày ba mẹ sẽ hiểu. Nghỉ ngơi được vài ngày thì tôi đi làm cùng với ba mẹ và đứa em trai trong nghề home renovation (cải tiến, sửa chữa nhà cửa). Sau một ngày làm việc, mẹ tôi nói với giọng than và buồn khổ: “Sao thấy con mình đi làm khổ quá”. Tôi thấy mẹ buồn khổ quá nên quyết định không đi làm chung nữa và lên mạng tìm việc làm khác.Thấy tiệm Tim Hortons (tiệm café) đăng báo cần tìm người tính tiền (cashier) và làm café. Tôi liền tạo một cái lý lịch tóm tắt (résumé). Trong lý lịch ấy phần nhiều là kinh nghiệm từ thời gian tôi ở Làng và một ít từ thời trung học. Viết xong tôi gửi qua điện thư đến tiệm. Chỉ trong vài ngày sau, tôi may mắn đã được bà chủ tiệm gọi điện và hẹn ngày phỏng vấn để nhận công việc. Sau buổi phỏng vấn tôi được chấp nhận làm thành viên của Tim Hortons. Lúc đó tôi mừng lắm! Tôi không ngờ những kinh nghiệm mà tôi có được ở Làng, ghi vào lý lịch mà tiệm vẫn có thể chấp nhận được tôi. Có lẽ do đặc điểm lý lịch tôi viết là tôi có thể lắng nghe, nói những lời ái ngữ và luôn mỉm cười và có thể giúp được khách hàng khi họ có những lời than phiền, có thể đem niềm vui đến với những người cùng làm chung việc. Tôi nhớ trong hai tháng đầu, bà chủ tiệm rất thích cách tôi làm việc, rất hiệu quả và luôn vui tươi chấp nhận bất cứ việc làm gì, dù đó là quét nhà, lau nhà. Nhìn thấy cách tôi làm, cách tôi nói chuyện, và kể cả việc tôi ăn chay điều khiến cho bà chủ tiệm ngạc nhiên. Tuy rằng sống trong căn nhà của ba mẹ, tôi không phải lo về cơm nước, nhà cửa, tiền bạc, nhưng tôi vẫn thấy vất vả thật. Luôn luôn phải đi làm để kiếm chút tiền. Phải đua đòi với người ta để được bà chủ khen thưởng và mong có ngày để được lên chức. Nếu tôi ở riêng, chắc chắn bao nhiêu tiền tôi làm được chỉ đủ để trả tiền nhà, tiền điện, tiền nước, điện thoại, bảo hiểm,… và có thể không đủ nữa. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói là số tiền họ làm được là đủ để cho họ sống cả. Sống trong tu viện, tôi không cần lo đến chuyện tiền bạc hoặc ngủ đâu, ăn ra sao. Mỗi ngày đều có ba bữa cơm dọn sẵn trên bàn. Tôi biết rõ, ra đời không phải để tôi tìm kiếm những tiện nghi mà tôi không có trong tu viện. Mà nói cho đúng, sống trong tu viện chúng tôi thiếu tiện nghi nhưng cũng lại rất dư dả. Vì chính tình thương của Tăng thân chính là tiện nghi đích thực nhất. Dần dà tôi thiết kế phòng ngủ của tôi y như là cách sống của tôi ở trong tu viện. Chính nhờ cách sống mà tôi quen thuộc ở trong tu viện đã giúp tôi có thể trở về lại với sự thực tập, thở vào thở ra dễ dàng nhất. Tôi từ từ tạo cho mình có đủ thời gian và không gian để tôi có thể ngồi thật yên. Ngồi để nhìn lại những năm qua và trong hiện tại. Và tôi luôn luôn khơi dậy được trong tôi tình thương mà tôi đã tiếp nhận được từ Sư Ông và Tăng thân. Đích thực, tôi ra đây là để tìm kiếm nếp sống đôi lứa hay sao? Nếu vậy, người mà tôi mong đợi sẽ từ bỏ đời sống xuất gia của người đó có để sống với tôi không? Tôi đã vật lộn với câu hỏi đó trong tôi. Mãi đến sáu tháng sau tôi mới thấy rõ hơn. Đây có phải là thứ tình thương đích thực không? Tình thương mà tôi đang muốn tìm kiếm chính là tình thương có sự chiếm hữu. Một bông hoa đẹp ngoài sân tự dưng mình cắt đi đem vào nhà chưng để cho chỉ có mình thưởng thức thôi thì sớm muộn gì hoa cũng sẽ héo tàn. Sư cô đó đang sống một nếp sống cao thượng, có nhiều hạnh phúc và giúp đỡ được biết bao nhiêu người. Tôi có đem sư cô đó được về nhà thì cũng giống như việc tôi ngắt bông hoa ngoài sân kia thôi. Bông hoa có thể cống hiến cái đẹp cho nhiều người thì đó mới là bông hoa đẹp. Sư Ông thường xuyên dạy cho chúng tôi là chúng ta có quyền thương, nhưng thương như thế nào để không có vướng mắc, vẫn có giới luật và uy nghi hỗ trợ. Đó mới đích thực là thương. Chẳng lẽ tình thương của tôi hẹp hòi và ích kỷ vậy sao? Nhờ sống trong xã hội, tôi mới thực sự hiểu cái khó và cái khổ của những người phải đua đòi cho miếng cơm và chỗ ngủ. Cuối cùng, tôi bắt đầu thực tập để chuyển hóa cách nhìn của tôi về tình thương trong bản thân. Tôi bắt đầu muốn ủng hộ và yểm trợ sư cô đó tu tập cho đến nơi đến chốn, đem lợi lạc cho bản thân và cho mọi người.

Vào tháng 10 và đến đầu tháng 11, Sư Ông và Tăng thân hướng dẫn khoá tu tại Tu viện Bích Nham, New York, Mỹ. Tôi lấy dịp đó để dự khoá tu năm ngày, với tựa đề là: “Stepping into Freedom, Savoring Life”(Bước tới thảnh thơi). Khi tôi đến tu viện, các thầy các sư cô vẫn tiếp đãi tôi như là huynh đệ trước đây.Vẫn thương tôi như huynh đệ trước đây. Có những thầy những sư cô vẫn gọi tôi là “Pháp Duệ” vì luôn có niềm tin vững chắc là sẽ có ngày tôi trở lại với Tăng thân. Tôi được quý thầy ưu đãi cho ngủ chung trong Tăng xá. Tôi thật sự rất ngạc nhiên, vì trước giờ những vị ra đời sau này khi trở lại Làng thì họ đều ở nơi cư xá của những người khách thôi mà không có cùng ở trong tăng xá. Vậy mà các thầy vẫn cho tôi ngủ trong tăng xá và có những buổi trà đàm mà cư sĩ bình thường ít ai may mắn được tham dự. Tôi có mặt đó giống như là một vị xuất sĩ. Vì bất cứ chuyện gì các thầy các sư chú đều có thể cùng nhau chia sẻ cả, dù có tôi ngồi đó, các thầy cũng không có nhu cầu phải che dấu gì cả. Trở về lại Bích Nham, tắm mình trong dòng nước từ bi và yêu thương của quý thầy đã khiến khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tình thương của tôi đối với Sư Ông và với Tăng thân. Và đó chính là “mối tình thứ hai” của tôi.

Đến lần thứ ba tôi đến Bích Nham, tôi cùng đi với Ba Mẹ tôi và thầy Pháp Niệm. Tôi ngủ lại một đêm và ngày sau Sư Ông và đại chúng làm lễ an vị Phật. Sau buổi lễ an vị Phật, thì Sư Ông nói: “Pháp Duệ đâu rồi, đem đầu ra mà cạo cho rồi!” Tôi quá là ngạc nhiên và hầu như không chỉ tôi thôi mà cả đại chúng đều rất ngạc nhiên. Mẹ tôi liền tức thời qùy lên và đáp:”Dạ, xin Sư Ông cạo đầu cho!”. Lúc ấy, trong đầu tôi giống như có một cuộn phim đang quay bằng tốc độ nhanh gấp cả ngàn lần, và tôi tỏ vẻ hơi phân vân. Nhưng liền tức khắc tôi biết Sư Ông chỉ có thể nói như vậy khi Sư Ông có tình thương đích thực, và mối liên hệ tình thầy trò với nhiều cảm thông. Và Sư Ông cũng biết rõ trong chúng ai ai cũng muốn và hy vọng có ngày tôi trở lại làm người tu sĩ. Nếu tôi không có đáp ứng tình thương mà Sư Ông đã luôn luôn dành cho tôi và cho gia đình dòng họ thì tôi tỏ ra phụ bạc quá. Tôi cũng biết rõ thời điểm này cũng có thể là thời điểm duy nhất mà tôi có thể trở lại xuất gia, nếu tôi không nắm bắt cơ hội này thì tôi có thể không còn dịp khác nữa. Tôi liền lập tức qùy lên và xin Sư Ông: “nếu con cạo đầu thì xin cho con làm lại Sa di”. Sư Ông đáp với nụ cười vui: “Trước mắt là con cạo đầu đã, sau đó tùy theo Tăng thân.” Tôi đã đến trước Sư Ông và lạy xuống ba lạy, sau đó được Sư Ông và đại chúng chứng minh và thầy Pháp Niệm đại diện cắt tóc. Ngày tôi rời chúng ra đi đã có nhiều nước mắt, bây giờ ngày tôi xuống tóc trở lại thì có nhiều nước mắt của hạnh phúc. Kỳ thực “mối tình đầu” của tôi, “mối tình thứ nhì” của tôi, tình thương tôi dành cho sư cô ấy không khác nhau, rốt cuộc chỉ là một mà thôi. Tôi ngỡ là tôi thương một cá nhân, nhưng phải chăng sư cô ấy là một hình thức của Bồ Đề Tâm vốn nằm vỏn vẹn trong tôi, nhưng vì theo khuynh hướng con người mà tôi đã tìm kiếm bên ngoài, thay vì trở về với nội tâm tôi?

Cuộc đời tôi đã không là một kết thúc của một thất bại, của sự thụt lùi. Nhờ hồng ân Tam Bảo, nhờ đại bi tâm của Sư Ông và Tăng thân mà tôi được thêm một cơ hội nữa để sống nếp sống xuất gia cao thượng, trong sáng này. Tôi xin hướng về Tam Bảo, hướng về Sư Ông và Tăng thân mà thành tâm chắp tay đọc câu trong bài kệ tôi từng trình lên chư Tổ:

“Sơn kia đứng vững trong bão tố.

Thệ nguyện từ nay chỉ một đường.”

-Chân Pháp Duệ-

Chuyện của sư bé

Phải đọc chuyện của Bé mới biết Sư Bé là ai, nhưng cũng chưa đủ vì Sư Bé bây giờ khác xưa nhiều lắm. Sư Bé là một bông sen trắng thơm ngát và trong sáng hồn nhiên, biểu hiện cùng với rất nhiều bông sen khác trong gia đình xuất gia Sen Trắng. Hiện giờ, Sư bé đang có những tháng ngày rất hạnh phúc và bình yên ở Xóm Mới,  bên cạnh Thầy và Tăng thân yêu quý.

Sư bé Đôn Nghiêm

 

ơi, con mun đi tu!

“Má ơi! Con muốn đi tu. Má cho con vô ở với quý sư cô trong Bát Nhã nhé!”

Con nhớ cách đây một tháng thôi con đã rất buồn, thật sự buồn trước sự ra đi của ba người thân trong gia đình. Đầu tiên là Bà Nội. Con đã khóc rất nhiều. Một tuần sau anh con cũng theo Bà ra đi. Ui cha, con khóc nhiều hơn nữa. Nỗi buồn chưa nguôi thì mấy ngày sau ba con cũng từ giã cuộc đời. Con chưa kịp thấy mặt ba lần cuối… Còn nỗi đau nào hơn khi mất người thân? Lúc đó con chưa biết gì về vô thường, về tương tức để biết là ba có mặt trong con và con là sự tiếp nối của ba… Ba cái đám tang dồn dập tới nên nỗi buồn trong con cũng được nhân lên làm ba lần. Trong đám tang của ba con không khóc nữa. Con ngơ ngác quá đỗi như không thể tin vào mắt mình, vào tai mình. Con cứ đinh ninh rằng người nằm trong cái hòm lạnh lẽo kia không phải là ba con. Một ngày nào đó ba con sẽ trở về. Mau lắm thôi, ba sẽ ôm con vào lòng, con chìa tay ra xin kẹo và bỏ nhanh vào miệng, nhấm nháp hương vị ngọt của kẹo, của tình ba. Con thương bà Nội, thương anh và thương Ba lắm. Con không thể chấp nhận được sự ra đi vĩnh viễn của ba người thân trong gia đình. Con cứ nuôi hy vọng một ngày nào đó, Nội con sẽ trở về và con lại được nghe tiếng nhai trầu bỏm bẻm của Bà, được thỉnh thoảng giặt đồ cho anh hay để anh sai vặt. Có những lúc nhớ quá, con tự nói trong im lặng: “Anh Bi ơi! Anh tỉnh dậy đi, bây giờ anh bảo gì em cũng làm chớ không kì kèo bắt anh trả công bằng bánh kẹo hay cà rem nữa. Con cũng sẽ nhổ tóc bạc cho Nội, cho Ba miễn phí mà không tính tiền từng cọng năm trăm hay một ngàn nữa. Con sẽ đổi tất cả, bánh kẹo, những đồ chơi đẹp con đang có để được sự có mặt của Nội, của Ba và anh…” Con có đọc sách và được nghe Sư Ông nhắc tới câu thơ: “ Tôi thấy tôi mất mẹ, là mất cả bầu trời”. Còn con mất một lúc ba người nghĩa là con mất cả ba bầu trời, mất luôn cả mặt đất. Con còn quá nhỏ để hiểu được rằng những gì quý giá bên cạnh mình không chịu trân quý, đến lúc tuột khỏi tầm tay rồi mới nhận ra được giá trị của nó. Dù hối tiếc cũng muộn màng. May mắn thay bên con còn có Má và các anh chị em. Hơn ai hết, Má là người thương Nội, thương Ba và anh. Má đang đau khổ cực độ. Khuôn mặt Má phờ phạc quá. Nỗi đau buồn làm con quên mất  sự có mặt của Má và những người còn lại trong nhà. Con giật mình: “May mà Má còn đây cho con!” Con thương Má nên nỗi buồn trong con vơi lại, nó lặng lẽ rút về một góc nào đó trong tâm hồn. Con để ý tới Má và các anh chị em trong gia đình. Ngoài giờ đi học ở trường con ở nhà giúp đỡ Má những công việc lặt vặt. Ở trường, những sinh hoạt của Đoàn, Đội hay những phong trào văn nghệ con tham gia rất tích cực. Ở nhà, tối tối con lại rủ đám trẻ trong xóm chơi đủ trò, nào là chơi u, chơi trốn tìm, chơi keo, đá banh, đá cầu.v.v… Từ từ rồi mọi chuyện cũng qua, con dần vui trở lại. Con đi học đều đặn và cuối năm vẫn được học sinh giỏi. Con đặt phần thưởng lên bàn thờ, cười tươi rói khoe với Ba. Ba muốn con trở thành một cô giáo nên con ráng học để thực hiện mong ước của Ba. Và rồi kỳ nghỉ hè tới, anh trai con đi tu trở về thăm nhà. Anh lặng lẽ đứng trước bàn thờ của Ba, không nói câu gì. Sau mấy phút mật niệm anh mỉm cười thật tươi, từ từ quay lại với đôi mắt đỏ hoe: “ Cả nhà mình ngồi xuống đây chơi đi!” Con thấy sống mũi mình cay cay, xúc động quá. Rồi anh rủ con và hai đứa em gái nữa vô Bát Nhã chơi, coi như là phần thưởng vì đã được học sinh giỏi. Con vốn thích đi chơi nên cũng chẳng bận tâm Bát Nhã là chỗ nào, miễn đi chơi với anh, với chị, với em là vui rồi. Vậy là ba chị em con hí hưởng chuẩn bị đồ đạc để lên đường. Con ở xóm Bếp Lửa Hồng, hai em ở xóm Mây Đầu Núi. Ngày Quán Niệm ba chị em gặp nhau, thi nhau kể những chuyện kì lạ ở đây. Nào là ăn cơm im lặng, rồi ngồi im ru trong thiền đường, nghe chuông lại đứng im như bị điểm huyệt, rồi còn thở vô thở ra chi chi đó nữa… vừa kể vừa cười hí hí. Tóm lại cả ba cùng đồng ý là rất thích pháp môn thiền trà, vừa được ăn kẹo, vừa được uống trà và chia sẻ hạnh phúc. Pháp môn thiền buông thư tựa tựa như Má hay ru mình ngủ và những bài hát thiền ca cũng hết sức dễ thương. Lâu lâu quý sư cô cứ mua bánh kẹo cho ăn. Con thấy ở đây vui quá, sư cô nào cũng đẹp và hiền chi lạ, nói chuyện lại nhẹ nhàng và rất thương tụi con và thương những người sống quanh mình… Một tuần trôi qua thật nhanh, chị em con phải trở về nhà chuẩn bị sách vở, quần áo cho năm lớp 11. Hai em con cũng sắp vào lớp 9 và lớp 6. Trước khi đưa các em về, anh con có hỏi ba đứa: “Ở đây đẹp không mấy em?” Cả ba đồng thanh: “Dạ đẹp!” “Mấy em có thích nơi này không?” “Dạ thích lắm!” “Vậy có ai muốn đi tu giống anh và quý sư cô không?” Hai em con nhanh nhảu: “Dạ không! Đi tu mà cứ nghe pháp thoại, ngồi yên cả ngày rứa em buồn ngủ lắm. Đi tu mà không phải làm hai việc đó thì chúng em đi.” Anh con cười, cóc cho mỗi đứa một cái thật nhẹ trên đầu. Thấy con còn chần chừ anh hỏi: “Còn em?” Nghe anh hỏi con giật mình vì con còn háo hức với ý định về nhà gặp lại Má, các bạn ở trường, cùng học, cùng chơi và sau này làm giáo viên như đã hứa với Ba. Con đáp: “ Em cũng thích ở đây lắm nhưng…” Con chưa nói hết câu thì anh bảo: “Đi tu cho rồi, ở ngoài đời người ta lượm mất đó.” Con đỏ mặt tía tai:  “Anh cứ chọc em hoài, em còn nhỏ mà, ai lượm em cơ chứ?” Nói thiệt trong lớp con thuộc hạng ngơ nhất, chỉ có việc học, làm công việc của một bí thư chi đoàn, ngoài ra không biết gì về cái chuyện “lượm, rớt…” gì cả. Ai mà nhắc tới là con nghỉ chơi với người đó luôn. May là anh, người mà con thương và kính trọng nên con không muốn nghỉ chơi. Nghe con giãy nãy như vậy, anh cũng thôi không nhắc nữa, chỉ buông lửng một câu “Ừ, anh xin lỗi, để từ từ cũng được.” Vậy đó mà một tuần sau về lại nhà, con quyết định xin vô Bát Nhã tập sự xuất gia. Anh con hỏi lạ lùng: “Em bị cái chi rứa?” Con cười tươi rói: “Có răng mô anh, em bị tương tư… Bát Nhã rồi. Em nhớ quý sư cô và mọi người trong đó lắm, em nhớ những buổi đi thiền hành lên đồi rất đẹp, được nghe quý sư cô kể chuyện, nhớ những buổi ăn cơm im lặng, em nhớ ông Bụt màu cam cam ở trong thiền đường Cánh Đại Bàng nữa. Quý sư cô sống hòa hợp và thương yêu nhau, em chưa thấy quý sư cô giận hờn nói nặng với nhau điều gì… Sao lại có những con người tuyệt vời quá vậy anh? Em cũng muốn sống đẹp như vậy đó, bây giờ “ Bụt” lượm em rồi, anh cho em đi theo Bụt, theo chân anh đi!” Anh xoa đầu con cười nói: “Thôi, hay là em học xong lớp 12 rồi đi, đang học lỡ dở bỏ có được không?” Con reo lên: “ Sao lại không được, bỏ ba bỏ mẹ, bỏ nhà đi còn được, bỏ học đâu thấm thía gì hả anh?” “Ừ, nếu em đã quyết thì anh ủng hộ hai tay hai chân. À, mà em hỏi ý kiến má chưa, anh nghĩ chắc má vui lắm đó!” Từ trong nhà bếp má đã nghe hết, ánh mắt má sáng lên một niềm vui. “ Má đồng ý, việc gì chơ đi tu là má chịu liền. Má còn mong sao cho những đứa con của má có duyên với Phật, đi vào chùa tu hết. Đến lúc đó cho má theo vô làm dì vải luôn.” “ Ôi! Má của con thật là tuyệt vời!” Con ôm cổ má mừng rơn, cả nhà vui như thể có đám cưới vậy. Coi bộ xuất gia hạnh phúc hơn xuất giá nhiều. Chỉ ngay ngày hôm sau, con thu xếp đồ đạc, chào cả gia đình, ăn tô bún riêu Má nấu rồi lên xe anh chở vô lại Bát Nhã. Tới nơi quý sư cô ngạc nhiên và vui lắm. Trong vai một cô bé tập sự 16 tuổi với bộ đồ vạt hò rộng thùng thình của anh và cái áo tràng lam quý sư cô mua cho ở thư quán, con tung tăng đến từng ngõ ngách của tu viện, đến từng gốc cây bờ cỏ, miệng không ngừng reo vang: “ A ha, đây là nhà mới của mình, đây là cuộc sống mới của mình!” Con bắt đầu cuộc sống của người xuất gia như thế đó.

 

Lớp học mới

Xa lìa bạn bè, thầy cô, trường lớp và những thú vui của đời học sinh, con bắt đầu tiếp xúc được những điều mộc mạc nơi đây. Đi tu rồi tự nhiên con thấy mình có vô khối thời gian để tận hưởng thiên nhiên và tận hưởng cuộc đời. Một bông hoa dại cũng có nét đẹp lạ kỳ, tiếng chim hót mỗi sớm mai, tiếng suối chảy róc rách xem lẫn bài hát thì thào của những ngọn cây mỗi khi có gió xao nhẹ. Rồi có những đêm trăng sáng thật trong, ngàn sao chi chít, những buổi tinh sương khi rừng thông còn lặng chìm trong đám sương mờ, những người con Bụt ngồi thiền an tịnh thân tâm, hơi thở hòa theo tiếng chuông ngân vang. Ngồi trong lòng đại chúng thật ấm cúng, con mới nhận ra một điều: “Cuộc đời này vốn rất xinh đẹp vậy mà bao lâu nay mình cứ bị những bận rộn kéo đi và không nhận ra cuộc sống bình dị nhưng thật đẹp này.” Từ đó con bước vào ngày mới như một chuyến phiêu lưu, khám phá ra những điều mới lạ trong con và xung quanh con.

Trở thành một tập sự con ở trong nhóm y chỉ muội của sư cô Như Hiếu. Y chỉ muội ở trong chùa, con thấy giống học sinh ở trường, còn Y chỉ sư giống như thầy cô giáo. Vậy là ngày ngày, y chỉ sư dạy cho chúng con cách đi, đứng, nói cười, dạy từng li từng tí về cách ăn cơm, để dép, đến cả cách mặc áo và một việc hết sức đơn giản: Thở! Được sinh ra 16 năm rồi mà lần đầu tiên con mới biết thở một hơi thở có ý thức, cảm nhận được không khí trong lành tràn đầy hai lá phổi, một điều đơn giản nhưng quý giá vô cùng. Ở trường con là một học sinh xuất sắc, còn ở trong ngôi nhà mới này, con thấy mình ngơ ngơ như một em bé, cả bước chân cũng phải tập đi sao cho thảnh thơi. Các thầy và sư cô ở đây cũng thật hiền như Bụt, chẳng bao giờ đánh đập la mắng, phạt quỳ hay chấm điểm Zê rô cho chúng con. Còn nhiều và nhiều điều mà chúng con đã được học ở trong tăng thân. Đây đúng là ngôi trường đích thực, có dịp con sẽ kể cho hai em gái của con nghe về những lớp học thú vị này.

 

Con muốn giống thầy

Ba ơi, con đi tu rồi, ba có đồng ý không? Con học được nhiều cái lạ, cái mới lắm ba à. Con học được cách trở về với tự thân để chăm sóc cho mình thật tốt, nghĩa là con làm cho sự tiếp nối của ba trong con thật đẹp. Ba muốn con trở thành cô giáo, dạ thưa Ba, con thấy con đang đi trên đường mà Ba mong ước. Giáo dục không có giới hạn ở trường lớp mà rộng ra đến tất cả mọi nơi, trong từng giây phút của đời sống hằng ngày. Con đang sống có hạnh phúc, con muốn một ngày nào đó con cũng sẽ giống như Thầy, quý sư cha sư mẹ, biết đem hạnh phúc cho mình và hướng dẫn mọi người tìm được hạnh phúc. Ba ơi, Ba có hạnh phúc không, con xin gởi đến Ba nụ cười thật tươi thật lành của con.

 

Bữa cơm gia đình mừng cây Sen Trắng ra đời

sư cha trao “vòng hoa sư út cho sư Bé út Sen Trắng nè!

Ngày tháng hạnh phúc

Sau ba tháng tập sự con được xuống tóc, trở thành một “ baby nun” trong gia đình áo nâu. Những ngày tháng tiếp theo là những tháng ngày hạnh phúc và tràn đầy tiếng cười.

Con như con cá nhỏ tung tăng bơi lội trong dòng sông tăng thân, ngày ngày uống dòng sữa pháp từ Thầy, từ pháp môn. Con rất biết ơn cuộc đời đã đưa con tới gặp Thầy, gặp các sư anh, sư chị và sư em. Và từ đó, hơi thở tiếp nối bình an, bước chân tiếp nối thảnh thơi, nụ cười tiếp nối niềm vui.

Cho đến một ngày nọ má con đột ngột vô thăm. Con chưa kịp mừng rỡ thì má đòi dắt con về. Thì ra có mấy chú công an vô nhà thăm và bắt má phải vào đây dắt con về với lí do: “Ngày mai, người ta sẽ vô Bát Nhã biểu tình. Dắt con về là bảo vệ an toàn cho con và giữ gìn an ninh trật tự xã hội.” Con lo quá vì thấy má đang bị bắt ép. Làm sao để cho má hiểu là không đâu an toàn bằng sống trong tăng thân. May quá, các sư cô ra giải thích giùm cho con để má hiểu rõ tình hình. Có một bà mẹ của sư chị con cũng đang lên thăm con và tiếp tế lương thực cho quý sư cô. Hai người mẹ dắt nhau ra gốc mít ngồi hàn huyên tâm sự một hồi. Con đứng trong phòng niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, gởi năng lượng bình an cho hai bà mẹ, mong cho công tác tư tưởng thành công. Không biết bà mẹ của sư chị con đã to nhỏ những gì mà khi vào gặp con, má vừa khóc vừa cười và nói: “ Con ở lại tu ngoan và khỏe nhé, má về!” Con nhìn theo bước chân của má khuất sau đám trà xanh mà lòng thương má vô cùng. Chú công an đã đợi má sẳn ở đó từ lâu. Má thẳng thắn nói với chú: “ Cháu nó không chịu về, tôi bắt cũng không được. Anh giỏi thì vô bắt dùm tôi với!” Thế là chú ấy cam lòng ra về tay không. Con biết thế nào về tới nhà Má cũng bị mấy chú làm khó tiếp. Vậy mà một tuần sau, má con trở vô lại không phải với chú công an mà với một xe đầy rau củ cúng dường cho đại chúng. Con mừng quá trời, con ôm má trong vòng tay nhỏ: “ Đó, má thấy chưa, con vẫn còn đây, vẫn tròn trịa dễ thương như ngày nào, má đừng lo cho con má nhé. Con cảm ơn má nhiều nhiều lắm, đã yểm trợ cho con và quý thầy quý sư cô ở đây.”  Má thoa thoa cái đầu tròn của con và cười tươi: “Má biết rồi thưa sư cô bé nhỏ của má!”  Vậy là lần đó nhờ có tăng thân, nhờ có niềm tin nơi Tam Bảo của Má mà con còn được ở lại với tăng thân. Nhưng chuyện còn chưa hết, mấy tháng sau con về nhà làm hộ chiếu. Được gặp lại Má và các anh chị em. Cả nhà cùng ăn chay. Con tình nguyện nấu ăn, món gì cũng dở vậy mà ai cũng tấm tắc khen… méo mặt. Con mắc cỡ quá, tự hứa sau này sẽ học cách nấu ăn ngon hơn. Con mới về buổi sáng thì tối lại có chú thôn trưởng đến thăm liền. Con chưa kịp tránh nên phải đối diện. Chú hỏi: “ Đợt này về chắc ở luôn cô nhỉ? Bát Nhã không còn gì… thôi ở nhà với mẹ lấy chồng cho rồi, tu khổ lắm!” Con thở thật sâu, yên lặng không trả lời. Nếu nói thiệt thế nào con cũng bị họ giữ hết giấy tờ, đến lúc đó ra khỏi nhà còn không được, mơ gì đi qua Làng. Má con cười cười: “ Ừ, chú đừng lo, em nó ở chơi khuây khỏa vài tuần đã, chị cũng tính cho em nó học cái nghề gì đó!” Nghe vậy chú vui ra mặt, hớn hở đồng tình: “ Phải đó chị, học hành cho giỏi, sau này cháu sẽ đỡ đần giúp mẹ và xã hội được nhiều lắm.” Không ngờ từ “cô” con bị rớt xuống chức “cháu”. Chú nhìn con và tiếp: “Chú có đứa cháu trai, dễ thương và hiền lành lắm, chú sẽ giới thiệu cho!” Nghe tới đây con mắc cười quá nhưng rán nhịn lại.  Ngay khi đó con nghĩ tới tăng thân mình rất nhiều. Con mong tình thương của con cũng lớn như tình thương của Bụt, của tăng thân. Nếu bó buộc vào một người thì mình sẽ mất tự do và người đó cũng mất tự do rồi suốt ngày cứ phải lo chuyện chồng con cơm nước, rất là cực. Nghĩ tới đây con nhắm mắt lại và trở về với hơi thở, không để những tư tưởng đó lôi kéo nữa. Con cũng không thốt lên một lời nào để phản ứng lại, những lúc như thế này thở là khỏe nhất.

Khi chú về rồi cả nhà con cười rộ lên. Em con còn chọc: “ Chị ơi, mới 16 tuổi mà lấy chồng thì sớm quá, em chưa muốn có cháu!” Đứa khác chen vào: “ Một tay bế con, một tay đút cháo. Ôi, cực lắm chị ạ!” Con không dám nghĩ tới tương lai “ cực nhọc” đó nên hôm sau xin phép Má và cả nhà lẳng lặng ra đi trước khi chú ấy dẫn… cháu trai đến.

Bây giờ con đang thật sự ở Làng. Nhớ lại chuyện đó, con vừa thấy mắc cười vừa hú hồn. May mắn quá! Sau tất cả những gì xảy ra với bao nhiêu tiếng cười, bao giọt nước mắt, tăng thân mình cùng đứng bên nhau để vượt qua tất cả. Con hạnh phúc biết bao khi đang được sống ở Làng, được gặp Thầy, gặp tăng thân để rồi xúc động trước những điều Thầy dạy bấy lâu nay, cốt là để cho chúng con nhận ra được bản tâm thanh tịnh trong mình và an trú trong giây phút hiện tại. Con xin cúi đầu lạy tạ chư Bụt Tổ, Thầy, Ba má và tất cả mọi người, mọi loài đã cho con có được con đường tươi đẹp này.

“Thở vào tâm tĩnh lặng

Thở ra miệng mỉm cười

An trú trong hiện tại

Giây phút đẹp tuyệt vời”