Chương 4: Đạo Phật đi vào cuộc đời
56. Đạo Bụt và vấn đề tranh đấu cho hòa bình
H. Liên hệ của đạo Bụt đối với vấn đề công bằng xã hội, hòa bình, và tranh đấu cho hòa bình là như thế nào?
Tl. Chúng tôi đã khởi xướng một phong trào mà chúng tôi gọi là “Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời” (Đạo Phật Nhập Thế). Chúng tôi muốn đưa đạo Phật vào khắp các sinh hoạt của đời sống – không những chỉ trong các chùa mà cả trong xã hội, trường học, gia đình, nơi làm việc, cho đến cả các sinh hoạt chính trị và quân sự. Hiểu và Thương phải có mặt ở khắp nơi.
Có nhiều người trong chúng ta muốn phục vụ cho hòa bình nhưng lại không có hòa bình trong tự thân. Chúng ta kêu gào trong phẫn nộ cho hòa bình, thậm chí ngay cả những nhóm tranh đấu cho hòa bình cũng xung đột mâu thuẫn lẫn nhau. Nếu tâm chúng ta không có bình an thì không thể nào có hòa điệu giữa những người đang hoạt động cho hòa bình được. Và nếu không có hòa hợp thì không có hi vọng. Nếu chúng ta chia rẽ, nếu chúng ta buồn chán thì chúng ta không thể phụng sự, chúng ta không làm được gì hết. Hòa bình phải bắt đầu từ chính chúng ta, từ sự thực tập ngồi yên, từ những bước chân chánh niệm, từ sự chăm sóc cho bản thân, và buông thư những căng thẳng đang có trong thân tâm. Vì vậy, thực tập để có được tâm bình an, thảnh thơi là nền tảng của thực tập xây dựng hòa bình. Tâm bình an, thảnh thơi phải có trước đã và phục vụ cho hòa bình bắt nguồn từ nền tảng đó.
Giây phút khi ta ngồi xuống và thở vào một hơi để cho thân tâm lắng dịu thì hòa bình đang trở thành sự thực. Thở hơi thở như thế chẳng khác gì là dâng lời cầu nguyện. Khi tâm bình an thì ta có thể thiết lập được liên hệ với người khác và có thể giúp người khác cũng có bình an. Cùng với nhau ta tạo thành một tập thể hòa bình, một tăng thân hòa bình. Sự thực tập có khả năng đem lại cho ta sự bình an ngay lập tức. Và khi tâm ta bình an hơn, ta dễ thương hơn, thì ta sẽ thành công hơn khi liên hệ với những người khác để mời họ cùng tham gia công tác xây dựng hòa bình. Khi tâm ta có bình an thì khi nói, khi nhìn, khi phản ứng ta luôn biểu lộ sự hòa bình, và ta có thể thuyết phục những người khác hợp tác với ta trong việc xây dựng hòa bình, hòa giải.
Không thể có hòa bình bằng cách chỉ ngồi lại với nhau rồi bàn bạc và sắp đặt kế hoạch. Phải học thở, học lắng dịu thân tâm, và có khả năng giúp người khác cùng thực tập. Nếu trong ta và trong người kia không có gì gọi là bình an thì tất cả những hoạt động của ta không thể xem là những hoạt động cho hòa bình một cách đúng nghĩa.
Chúng ta phải thực tập hòa bình ở nơi làm, ở nơi ở và trong trường học. Thầy cô giáo phải thực tập sống cho có hòa hợp, an lạc và dạy cho học trò của mình làm được như thế. Tổng thống của một quốc gia, hoặc vị lãnh đạo của một đảng chính trị phải thực tập sống hòa bình, phải luôn cầu nguyện cho hòa bình trước khi mời những nhà lãnh đạo chính trị khác cùng góp phần xây dựng. Lý tưởng nhất là một hội nghị hòa bình nên bắt đầu bằng thiền hành và thiền tọa. Hoặc là có một người hướng dẫn buông thư toàn thân để cho thân tâm không còn căng thẳng, buồn giận, lo sợ. Đó là đưa phẩm chất tâm linh vào đời sống chính trị, xã hội. Đó chính là đạo Phật đi vào cuộc đời.
57. Hăng say nhưng dễ chán nản
H. Nhiều người hoạt động hăng say cho hòa bình nhưng rồi chán nản vì thấy không có tiến bộ. Làm thế nào để tránh tình trạng kiệt quệ?
Tl. Chúng ta phải biết giới hạn của mình. Phải tổ chức đời sống sao cho chúng ta luôn được nuôi dưỡng và trị liệu. Giải pháp nằm ngay trong cộng đồng của chúng ta. Nếu làm việc cùng với một cộng đồng có tu tập, một tăng thân, thì chúng ta sẽ được năng lượng của tăng thân yểm trợ. Khi cảm thấy mệt mỏi vì phải cố gắng thì nên nhờ những anh chị khác trong nhóm giúp vào một tay để mình có thì giờ nghỉ ngơi, phục hồi sức lực rồi sau đó sẽ tiếp tục. Phải có can đảm từ chối, nếu không ta sẽ nhanh chóng đánh mất mình và điều đó sẽ không làm lợi lạc cho ai cả. Học cách từ chối không phải dễ, nhưng không phải là không làm được. Phải phục vụ như thế nào để không tự hủy hoại mình. Các bác sĩ, y tá, những chuyên gia tâm lý trị liệu, thầy cô giáo đều phải làm như thế, phải bảo tồn sức lực để có thể phục vụ lâu dài và giúp ích cho người khác. Gìn giữ sức lực của mình là gìn giữ cơ hội để phụng sự. Vậy thì câu trả lời là chăm sóc, gìn giữ cho bản thân và gìn giữ tâm từ bi. Điều này có thể thực hiện được một cách dễ dàng trong một tăng thân có tu tập.
58. Cứu nguy Đất Mẹ
H. Khí quyển Trái đất đang bị hâm nóng, các loài động vật đang có nguy cơ bị tiêu diệt, sông, biển bị ô nhiễm. Là Phật tử, chúng ta phải làm gì để cứu nguy Đất Mẹ?
Tl. Lần đầu tiên khi các phi hành gia gửi về hình ảnh của Trái đất được chụp từ trong không gian đã làm cho hàng triệu người xúc động khi nhìn thấy quê hương của nhân loại, một hành tinh xanh sống động trong vũ trụ, phì nhiêu, đẹp đẽ, một cõi tịnh độ đích thực, một thiên đường đích thực. Ấy vậy mà loài người chúng ta đã không biết trân quý và bảo vệ, trái lại còn đang hủy diệt Đất Mẹ. Vì thế mà chúng ta cần đến Bụt.
Bụt không phải là thần thánh, Bụt là một người tỉnh thức, một người thấy rõ những gì đang xảy ra. Bụt cũng chính là chúng ta. Vậy thì thực tập giáo lý đạo Bụt để giúp ta và những người xung quanh ta tỉnh ngộ ra rằng chúng ta đang có một hành tinh rất đẹp cần bảo vệ. Cho nên giác ngộ, tỉnh thức là rất quan trọng. Mỗi người trong chúng ta đều có hạt giống của sự tỉnh thức, và vì vậy chúng ta còn hy vọng. Nhờ sự tỉnh thức của cả tập thể mà mọi việc có thể được giải quyết và tiến hành một cách nhanh chóng. Vì vậy, mọi hoạt động mà chúng ta cần làm là phải nhắm tới việc thể hiện sự tỉnh thức tập thể.
Sự tu tập không còn là vấn đề cá nhân mà phải là sự thực tập tập thể. Thầy cô giáo phải thực tập chung với đồng nghiệp của mình và học trò. Các chuyên gia tâm lý trị liệu phải thực tập với bệnh nhân và đồng nghiệp. Các nhà làm phim phải sản xuất các bộ phim có tác dụng khơi dậy sự tỉnh thức. Các nhà báo phải viết những bài báo giúp cho người khác tỉnh thức. Tất cả mọi người ai cũng phải tham gia cổ vũ quảng bá sự tỉnh thức. Tỉnh thức là nền tảng của tất cả mọi sự thay đổi.
Để cho Phật, Pháp hiển lộ ta phải xây dựng tăng thân, đoàn thể của những người thực tập tỉnh thức. Tăng thân là nơi để ta nương tựa. Nương tựa Tăng thân là nương tựa Phật, nương tựa Pháp, và khi nương tựa tăng thân chúng ta sẽ cảm thấy được an toàn. Khi chúng ta có chánh niệm, có chú tâm, có tỉnh thức thì chúng ta là Phật, và tăng thân chúng ta là Phật. Đó là điều mà chúng ta phải thấy. Nếu thấy rõ sự thật ấy thì chúng ta không bao giờ tuyệt vọng. Tuyệt vọng là thảm họa. Tập thể tỉnh thức là hy vọng của chúng ta, là hy vọng của hành tinh chúng ta. Và tập thể tỉnh thức là một việc hoàn toàn có thể thực hiện.
59. Dùng võ lực để tự bảo vệ?
H. Chúng ta phải làm gì khi có người hành hung? Ta có thể dùng võ lực để tự bảo vệ hay không? Một quốc gia có thể dùng võ lực để tự bảo vệ hay không?
Tl. Có nhiều việc chúng ta có thể làm để tránh không bị xâm hại, về thể xác cũng như về tinh thần. Điều đó tùy thuộc vào cách sống hằng ngày của chúng ta. Chúng ta học sống như thế nào để không ai muốn xâm hại ta. Khi biết sống sao cho có tình huynh đệ, có thương yêu thì chúng ta sẽ được năng lượng hiểu biết và thương yêu che chở. Nếu sống có hiểu biết, có thương yêu thì ta sẽ có nhiều bạn bè bảo vệ cho ta. Đây là sự thực tập căn bản. Vì vậy không nên chờ đến lúc bị xâm hại mới học cách đối phó và tự vệ.
Khi còn là một thanh niên trẻ, Bụt rất giỏi võ nghệ. Với tài năng của mình, Bụt có thể đối phó khi bị tấn công. Chúng ta cũng có thể tập khí công hay các phương pháp bất bạo động để tự bảo vệ. Chúng ta ăn uống, nghỉ ngơi, làm việc như thế nào để giữ gìn sức khỏe và tăng cường sức chịu đựng. Chúng ta nuôi dưỡng chánh niệm, định lực và lòng từ bi. Mỗi khi có nguy cơ bị xâm hại, Bụt dùng chánh niệm, định lực, và lòng từ bi để khuất phục đối phương mà không cần phải sử dụng đến võ nghệ.
Sự thiếu hiểu biết sẽ đưa đến sợ hãi và giận dữ, khiến cho ta nghĩ ngay đến súng ống, vũ khí là giải pháp duy nhất. Thế nhưng có rất nhiều phương cách bất bạo động để bảo vệ quốc gia cũng như bảo vệ chính chúng ta. Võ lực là giải pháp cuối cùng. Khi một quốc gia có đoàn kết, khi có một vị lãnh đạo sáng suốt biết đối thoại và lắng nghe sâu thì quốc gia đó có nhiều đồng minh và không cần phải sử dụng đến quân đội nhiều. Thay vào đó quân đội sẽ có thì giờ để sửa đường, xây cầu và giúp dân.
60. Giúp các nhà lãnh đạo
H. Làm thế nào để giúp cho các nhà lãnh đạo trở nên tốt hơn?
Tl. Các nhà lãnh đạo đều có trong họ những hạt giống tích cực cũng như tiêu cực. Họ có thể có những người phụ tá không biết cách tưới tẩm những hạt giống tích cực mà chỉ tưới tẩm những hạt giống của sự sợ hãi, giận dữ, bạo động, và tham lam. Vì vậy, chúng ta phải tìm cách gần gũi các nhà lãnh đạo để giúp đỡ họ. Phản đối là một cách giúp nhưng cần phải khôn khéo để chứng tỏ việc phản đối đó là do tình thương chứ không phải do thù hận.
Các nhà lãnh đạo chính trị cũng như kinh doanh có rất nhiều năng lượng và muốn hoàn thành ý muốn của mình. Những ý muốn của họ có thể là rất lành mạnh. Ví dụ như ý muốn chấm dứt tình trạng ô nhiễm, chấm dứt bất công xã hội, khôi phục hòa bình, cải tạo thế giới. Nhưng điều đó không có nghĩa là họ không có ý muốn có quyền lực, thành công và danh tiếng. Như vậy trong các nhà lãnh đạo thường nhiều ý muốn trái nghịch nhau. Chúng ta có thể giúp họ ý thức hơn về những sở nguyện của họ và chuyển hướng những sở nguyện của họ sao cho hài hòa. Phương pháp là giúp họ hiểu rõ bản thân họ.
Các nhà lãnh đạo thường tin rằng họ biết chính mình, biết thế giới xung quanh, và tất cả những điều họ phải làm là hành động. Thật ra, không ai trong chúng ta hiểu được mình một cách toàn vẹn. Không ai trong chúng ta có thể hiểu thế giới một cách toàn vẹn. Một hành giả cần phải đủ khiêm tốn để nhận ra rằng mình còn cần tìm hiểu thêm về chính mình, tìm hiểu thêm về những khổ đau cũng như tình trạng chung của thế giới.
Chúng ta có thể giúp các nhà lãnh đạo bằng khả năng lắng nghe và dùng lời ái ngữ để giúp họ hiểu thêm về bản thân họ và hiểu thêm về tình hình thế giới. Khi họ hành động, ta mong rằng họ sẽ hành động trong tinh thần của một tăng thân và có khả năng sử dụng tuệ giác của tập thể.
Khả năng thực tập lắng nghe mình, hiểu mình sâu sắc, lắng nghe thế giới và những khổ đau của nhân loại thì đều như nhau, dầu ta là một cá nhân, hay một nhà lãnh đạo chính trị hay một giám đốc kinh doanh. Có nhiều giám đốc kinh doanh muốn làm những việc tốt, muốn sử dụng công ty của mình để hỗ trợ công bằng xã hội và làm cho đời sống xã hội được lành mạnh, nhưng họ gặp rất nhiều khó khăn. Vài người đã phải thỏa hiệp vì nếu không họ có thể bị mất chức hay mất việc. Những nhà lãnh đạo cũng có những khó khăn của riêng họ. Chúng ta không nên trách cứ họ vì những rắc rối trên thế giới. Chúng ta phải hiểu họ trước khi chúng ta có thể giúp họ. Có nhiều cách để tiếp cận các nhà lãnh đạo chính trị. Tất cả chúng ta – những người thợ mộc, thợ máy, nhà báo, nhà văn, đạo diễn phim ảnh, thầy giáo, các bậc cha mẹ, luật sư, y tá – đều có thể viết thư, gọi điện thoại… Chúng ta có thể trình bày ý kiến của mình như thế nào để đánh động ý thức cảnh giác và giúp chuyển đổi tâm thức cộng đồng. Đây là nền tảng cho sự chuyển đổi cách suy nghĩ của chúng ta, giúp cho tất cả thấy rõ sự việc một cách sâu sắc và rõ ràng hơn. Ai cũng có thể làm được việc đó trong đời sống hằng ngày. Nhờ vậy mà ta có thể đóng góp vào sự thức tỉnh của thế giới. Các nhà lãnh đạo chính trị cũng như doanh nghiệp sẽ được lợi lạc. Chúng ta có thể ảnh hưởng đến họ. Nhưng trước khi ảnh hưởng họ ta phải soi sáng cho chính ta.
61. Mục sư Martin Luther King, Jr.
H. Mục sư Martin Luther King, Jr. là một nhà lãnh đạo có khả năng và hiểu biết để có thể chuyển đổi thế giới, đem lại hòa bình và hợp tác. Liệu chúng ta có thể có một vị lãnh đạo như thế nữa hay không?
Tl. Mục sư Martin Luther King, Jr. vẫn còn đó, vẫn đang có mặt trong mỗi người chúng ta. Nghĩa là luôn luôn có sự tiếp nối. Nhưng chúng ta phải để tâm lắm mới có thể nhận ra và góp phần hỗ trợ, giúp đỡ họ. Nhiều khi chúng ta cứ tưởng rằng chúng ta cần phải có một vị lãnh đạo chỉ đường, dẫn dắt chúng ta, như Đức Phật, Thánh Gandhi, hay Martin Luther King, Jr. Nhưng thật ra trong ta đã có Bụt, trong ta đã có Thánh Gandhi, có Martin Luther King, Jr. Giữa chúng ta có sự liên hệ với nhau. Vì vậy mà chúng ta không cần phải chờ một ai khác thực hiện những điều mà chúng ta rất muốn thay đổi cho thế giới.
Một trong những cách chúng ta có thể làm là giúp cho những người giàu và người nhiều quyền lực có thể có hạnh phúc thực sự. Có nhiều người tuy có quyền lực, có nhiều tiền nhưng họ lại rất đau khổ. Họ tin rằng nếu không có quyền lực, không có tiền bạc thì không thể có hạnh phúc. Cách tư duy như thế chính là nguyên nhân dẫn đến chiến tranh và sự bất công trong xã hội. Nếu chúng ta có khả năng giúp cho những người đó nếm được hương vị của hạnh phúc thực sự thì họ có thể thay đổi cách tư duy của họ. Tuy nhiên, để chuyển đổi đường lối suy tư của họ mà chỉ nói suông thì không được. Ta phải làm một điều gì khác nữa. Ta phải chứng tỏ là ta thực sự có hạnh phúc mặc dù ta không có nhiều tiền bạc và quyền lực. Theo lời Bụt dạy, tất cả mọi người đều có hạt giống giác ngộ. Nếu chúng ta có thể khơi dậy hạt giống giác ngộ trong những người đó thì họ sẽ buông bỏ cách tư duy cũ và hết lòng phụng sự cho lý tưởng hòa bình. Bằng cách đó ta có thể giúp tiếp nối sự nghiệp của mục sư Martin Luther King, Jr. trên khắp thế giới.
62. Dung hòa công lý và từ bi
H. Là một thẩm phán xử án, làm thế nào để tôi có thể dung hòa công lý và từ bi?
Tl. Công lý đích thực thì phải có từ bi. Một người phạm pháp gây nên tai hại không chỉ cho nạn nhân mà cho cả chính anh ta. Ai cũng biết rằng khi nói một điều gì thiếu khôn khéo, một điều mà gây hại cho liên hệ tình cảm giữa hai bên thì chính mình cũng bị đau khổ. Vì ta thiếu khôn khéo, thiếu chánh niệm, và thiếu từ bi cho nên ta đau khổ và làm cho người khác cũng đau khổ. Có thể là ngay lúc đó ta không cảm thấy đau khổ nhưng về sau ta sẽ đau khổ. Nguyên nhân chính của hành động tai hại này là do u mê (vô minh) và thiếu khôn khéo.
Nếu ta biết cách nhìn sâu vào một người mà ta gọi là phạm nhân ta sẽ phát sinh lòng thương. Xã hội đã tạo nên một con người như thế. Anh ta đã sanh ra trong một hoàn cảnh mà những điều kiện xã hội, cha mẹ, và nhiều ảnh hưởng khác đã tạo nên tánh nết của anh ta và khiến anh ta hành xử như thế. Anh ta thực sự là một nạn nhân của hoàn cảnh. Anh ta được sinh ra đời và từ khi sinh ra đã là nạn nhân. Không ai giúp đỡ anh ta – những nhà giáo dục, những nhà lập pháp, những chính trị gia, những doanh nhân, những nhà hoạt động nhân quyền, không ai giúp anh ta vì vậy mà anh ta nên nông nỗi. Người ta xử tử anh ta và cho đó là công bằng. Nhưng tôi thì cho đó là thiếu công bằng vì có ai giúp anh ta bao giờ đâu. Phần lớn chúng ta là sản phẩm của xã hội và môi trường sinh sống. Nếu thấy được như thế, nếu nhận ra được tính tương tức của hành động phạm pháp thì ta sẽ khởi được tâm từ bi, và sẽ nhẹ tay trong việc trừng phạt. Nhìn sâu sẽ giúp cho ta hiểu và thương. Nhờ có hiểu biết và lòng từ bi mà ta có thể hiến tặng một luật pháp chứa đựng sự công bằng, kiên nhẫn, và bao dung. Không những chúng ta phối hợp công bằng và từ bi mà chúng ta còn chứng tỏ được rằng công bằng đích thực thì phải có từ bi và hiểu biết.
63. Đạo Phật và án tử hình
H. Quan điểm của đạo Phật về án tử hình như thế nào? Giả sử có người giết chết mười em bé, tại sao lại để cho anh ta được sống?
Tl. Mười mạng người đã bị giết, tại sao ta lại muốn giết thêm người thứ mười một? Một người giết chết mười đứa trẻ thì đó là một kẻ bệnh hoạn. Nếu giết anh ta thì sẽ không giúp được gì cho anh ta mà cũng chẳng giúp ích gì cho chúng ta. Khi có nhiều người như anh ta trong xã hội, nếu quán chiếu cho sâu sắc ta sẽ thấy có gì sai trái trong xã hội cho nên mới có những kẻ sát nhân như vậy. Bằng cái nhìn tương tức ta có thể thấy những yếu tố đã tạo ra một người như anh ta. Từ đó mà chúng ta có nhiều cảm thông hơn. Ta thấy rằng anh ta cần được giúp đỡ chứ không phải chỉ đáng bị trừng phạt. Cố nhiên anh ta phải bị bắt giam vì sự an toàn cho xã hội, nhưng đó không phải là việc duy nhất mà ta có thể làm.
Nhiều quyển sách dạy thiền tập, những tạp chí Phật giáo, thậm chí các buổi pháp thoại cũng đã được tổ chức trong tù, và nhiều tù nhân đã bắt đầu thực tập đạo Bụt. Một số tù nhân đã học được cách sống bình an, ngay cả ở trong tù. Tôi có nhận được nhiều bức thư của các tù nhân sau khi đã đọc sách của tôi. Một tù nhân đã viết: “Khi nhìn các bạn tù chạy lên chạy xuống cầu thang, tôi có thể thấy họ đang đau khổ không yên. Tôi hy vọng họ có thể làm như tôi là đi lên đi xuống cầu thang trong chánh niệm và theo dõi hơi thở. Khi thực tập như thế tôi cảm thấy bình an và có thể thấy rất rõ nỗi khổ đau của các tù nhân khác.” Người tù đó đã có thể khởi lên tâm từ bi.
Vì thế trừng phạt không phải là giải pháp duy nhất. Chuyển hóa và trị liệu vẫn có thể có được ngay cả trong những trường hợp khó khăn như vậy. Giết một người nào đó chỉ biểu lộ sự yếu đuối của chính chúng ta mà thôi, vì chúng ta không biết làm gì khác hơn. Giết người là một tiếng kêu tuyệt vọng. Nhưng chúng ta có thể cùng nhau thực tập nhìn sâu để tìm ra một phương thức tốt hơn án tử hình.
64. Làm việc tại một hãng sản xuất chất độc
H. Giả sử tôi đang làm việc tại một hãng sản xuất chất độc, một công ty bán những sản phẩm gây hại hay một tổ chức gây xung đột trong quần chúng. Làm thế nào để tôi có thể vừa giúp người khác vừa tiếp tục làm việc tại các nơi đó? Tôi có nên bỏ việc hay không?
Tl. Một ngày kia có một người lái một chiếc xe hơi sang trọng đến gặp tôi. Ông ta nói rằng ông đang phụ trách thiết kế đầu đạn hỏa tiễn mang bom nguyên tử. Tâm trí ông ta rất bất an vì phải làm công việc tàn hoại ấy. Ông ta hỏi tôi rằng ông ta có nên thôi việc đó hay không? Sau khi suy nghĩ, tôi khuyên ông ấy có thể tiếp tục công việc của mình nhưng làm việc với chánh niệm. Mặc dù công việc của ông ấy mang tính chất tàn hoại, nhưng ông ta là một kỹ sư có lương tâm. Ông ta biết mình đang làm gì. Thế giới cần những người có chánh niệm làm những việc như ông ấy đang làm. Nếu ông ấy từ chức thì sẽ có một người khác thay thế ông mà không có chánh niệm và khi đó tình trạng sẽ tồi tệ hơn nhiều.
Những người làm các công việc đòi hỏi nhiều nỗ lực như: xây cất, cảnh sát, bác sĩ phòng cấp cứu, cũng như tất cả chúng ta, đều có thể thực tập chánh niệm, thậm chí trở thành người hướng dẫn thực tập chánh niệm. Vị luật sư có thể thực tập nhìn sâu với hiểu biết, thương yêu, đồng thời giúp cho thân chủ của mình nhìn sâu để có thể chuyển hóa và trị liệu. Lẽ tất nhiên luật sư phải bào chữa cho khách hàng của mình trước tòa, nhưng ông ta cũng có thể nói lên tiếng nói của lòng mình. Ông ta có thể nói cho khách hàng của mình những gì ông biết từ đối phương để giúp khách hàng hiểu được quan điểm của đối phương. Khi một vị luật sư trần tình trước tòa ông ta có thể tưới tẩm hiểu biết và thương yêu trong lòng mọi người kể cả quan tòa. Đây là một điều rất quan trọng. Cách hành xử như thế sẽ được nhiều người biết đến và tán thưởng.
Một chính trị gia có chánh niệm sẽ hành xử theo lương tâm và tuệ giác độc lập của mình. Ông ta có thể bỏ phiếu trong chánh niệm. Lòng chân thành và thiện chí của ông sẽ được những người đồng chí hướng với ông cảm thông và được dân ủng hộ. Vì vậy, áp dụng sự tu tập, thể hiện được phẩm chất tâm linh vào công việc là rất quan trọng. Chúng ta cần những người như thế trong xã hội.
Để thành một người hoàn toàn giác ngộ, một vị Bụt, chúng ta phải tu tập. Vì vậy, Năm sự thực tập chánh niệm (Năm giới) là rất cần thiết, vì chúng ta là những người chưa giác ngộ. Chúng ta không cần phải giữ Năm giới một cách toàn hảo. Tiến từng bước đúng hướng tu tập là tốt rồi. Vấn đề không phải là luôn luôn hành động một cách toàn hảo mà là luôn luôn tinh tấn, tiến bộ trên đường tu tập. Nếu trong trường hợp công việc buộc ta phải sống đời sống ngược với tinh thần của Năm giới thì ta nên nuôi hy vọng là một ngày nào đó ta sẽ thoát ra khỏi hoàn cảnh hiện tại và tìm được một nghề không gây hại cho loài người hay thiên nhiên. Trong khi đó, có nhiều việc mà ta có thể làm như thảo luận với đồng nghiệp của mình hoặc ta có thể giáo dục những người khác. Có được một nghề nghiệp tốt là rất quan trọng. Nhưng sống chân thật, hiền hòa, sống theo con đường tâm linh còn quan trọng hơn. Ta có thể chọn một việc làm khác nhẹ nhàng ít áp lực hơn để giúp ta sống đơn giản mà hạnh phúc. Điều quan trọng là không nên nhân nhượng một khi ta đã quyết tâm thực tập chánh niệm, sống với sự hiểu biết và tình thương yêu.
65. Thử nghiệm y dược trên thú vật
H. Tôi rất thương động vật và tôi ăn chay. Nhưng tôi là chuyên viên dùng thú vật để kiểm soát tác dụng an toàn của thuốc trên con người. Làm sao tôi có thể giải tỏa xung đột trong lòng vì phải làm những việc ấy?
Tl. Nếu thú vật biết tổ chức một cuộc biểu tình thì chắc là chúng sẽ kéo nhau đến phản đối trước phòng thí nghiệm. Chúng ta ở trong thế mạnh nên chúng ta đã dùng chúng để tìm cách cải thiện đời sống con người. Anh đã dùng thú vật vì lợi ích cho loài người. Anh đại diện cho tất cả chúng tôi. Anh nhân danh chúng tôi mà làm. Chúng tôi cùng với anh liên đới chịu trách nhiệm. Chúng tôi cùng đau khổ với anh trong việc anh làm. Và chúng tôi đang tìm cách để giảm bớt khổ đau của các loài vật, cây cỏ và đất đá. Điều mà ta có thể làm là nói cho mọi người cùng biết những gì đang xảy ra, bởi vì nhiều người trong chúng ta không biết gì cả. Chúng ta đã không quan tâm đủ. Chúng ta không biết rằng các thú vật đã bị đau đớn biết dường nào. Anh là ngọn lửa trên đầu ngọn nến. Hãy nói cho mọi người biết đến sự đau đớn của các con vật ấy để chúng tôi cùng với anh chia sẻ trách nhiệm. Như thế anh có thể cảm thấy đang được nâng đỡ trong quyết tâm sống đời sống sâu sắc và chánh niệm. Và cùng với anh, tất cả chúng ta thực tập quán chiếu sâu sắc để có tuệ giác tìm ra được phương pháp làm giảm thiểu tối đa sự đau đớn cho thú vật. Anh hãy tiếp tục công việc anh đang làm, nhưng tiếp tục với chánh niệm. Tôi tin rằng anh sẽ phát huy tuệ giác, và với tuệ giác đó sẽ giúp anh cải thiện công việc như thế nào đó để cho các thú vật cũng được lợi ích. Hãy làm bằng tâm từ bi mà đừng làm việc vô tâm như cái máy. Là một con người, hãy nuôi dưỡng và gìn giữ mãi tâm từ bi. Hãy sống cho có chánh niệm và giúp cho mọi người cùng sống trong chánh niệm. Anh đang vì tất cả chúng tôi mà làm công việc đó, và chúng tôi cùng chịu trách nhiệm với anh về tất cả những việc mà anh đang làm.
66. Nghệ sĩ có thể đóng góp được gì?
H. Trong thời đại chiến tranh và tuyệt vọng này, các nghệ sĩ như chúng tôi có thể đóng góp được gì để giúp đời?
Tl. Bằng nếp sống, bằng những tác phẩm nghệ thuật của mình ta đang đóng góp cho công việc thức tỉnh cộng đồng. Vị Bồ tát là một người tỉnh thức, có chánh niệm, và mang chí nguyện giúp cho những người khác thức tỉnh. Nghệ sĩ, diễn viên, đạo diễn phim ảnh, văn sĩ, tất cả đều có thể có chí nguyện trở thành một vị Bồ tát giúp người khác thức tỉnh, giúp người khác tiếp xúc được với hạt giống của thảnh thơi, bình an, và hạnh phúc, giúp họ cởi bỏ, chuyển hóa những hạt giống của kỳ thị, sân hận và tham đắm. Người nghệ sĩ có thể làm được tất cả những việc đó. Nếu hành động của ta được thúc đẩy bởi chí nguyện giúp đời thì niềm vui và năng lượng của ta sẽ tràn ngập. Khi đó, danh vọng, quyền lực sẽ không lôi cuốn được ta. Không gì có thể so sánh với niềm vui khi biết rằng sự có mặt của ta trên cuộc đời này thật đẹp và hữu ích.
Một hôm tôi gặp một vị học giả Phật giáo ở New York. Tôi nói chuyện với bà ta về việc tôi thực tập chánh niệm khi làm vườn rau. Mỗi ngày tôi dành thời giờ để chăm sóc các loại rau thơm, cà chua, xà lách và các loại rau khác. Tôi làm việc với rất nhiều niềm vui. Bà ta nói: “Thầy không nên phí thời giờ trồng rau. Thầy nên dành thời giờ để làm thơ. Thơ Thầy viết rất hay. Ai cũng có thể trồng rau được, nhưng ít ai làm được thơ hay như Thầy.” Tôi trả lời với bà: “Nếu tôi không trồng rau thì tôi sẽ không làm thơ được.”
Khi đang chăm sóc cho cụm rau cải hoặc tưới vườn, tôi không nghĩ tới làm thơ hay viết lách. Tôi chú tâm hoàn toàn vào việc chăm sóc cây cải hay tưới cây. Tôi vui thích từng giây phút và làm việc đó trong trạng thái tĩnh lặng, không-suy-nghĩ. Ngừng suy nghĩ có lợi ích rất nhiều. Tác phẩm nghệ thuật được hình thành từ trong sâu thẳm của tâm thức khi mà ta không suy nghĩ gì về nó. Lúc thể hiện tác phẩm nghệ thuật chỉ là lúc khai sinh, là lúc ta đưa “em bé” ra đời. Theo tôi phải cần một thời gian để em bé nghệ thuật trong ta lớn lên, để đạt được mức toàn diện, và tác phẩm của ta khi đó sẽ chứa đựng tuệ giác, hiểu biết và thương yêu.
Một tác phẩm nghệ thuật có thể giúp người ta hiểu rõ được bản chất khổ đau của thực tại, chứa đựng tuệ giác giúp chuyển hóa những hạt giống tiêu cực và phát triển những hạt giống tích cực. Viết văn hay làm phim có thể là một hành động yêu thương. Hành động yêu thương ấy nuôi dưỡng ta và nuôi dưỡng nhiều người khác. Nếu ta hạnh phúc, nếu ta biết sống sâu sắc từng giây phút của cuộc đời thì khả năng hiểu sâu, thương yêu, và niềm vui sẽ đến. Tác phẩm nghệ thuật của ta sẽ phản ánh được những điều đó và đi vào lòng người.
67. Vui sống khi có nhiều người đau khổ?
H. Làm sao ta có thể vui hưởng cuộc sống trong khi có quá nhiều người đang đau khổ?
Tl. Khi ta có được một phút bình an, vui vẻ mà ta cảm thấy tội lỗi thì mặc cảm tội lỗi đó sẽ phá tan giây phút bình an vui vẻ của ta. Khi mà ngay cả giây phút bình an vui vẻ đó của ta cũng bị phá hủy thì sẽ không còn gì là hy vọng cho ta và cho thế giới. Vì vậy, ta phải giữ lấy giây phút bình an vui vẻ ấy như là nền tảng cho mọi hành động của ta. Tuyệt vọng là một tai nạn lớn nhất có thể xảy đến cho tất cả chúng ta, nhất là khi sự tuyệt vọng đó trở thành sự tuyệt vọng tập thể. Học cách để xử lý tuyệt vọng là điều rất quan trọng, đừng bao giờ để cho nỗi tuyệt vọng phá hủy tất cả, nhất là phá hủy cả những gì tốt lành đang còn lại trong ta.
Khi ta có khả năng thở những hơi thở chánh niệm và bình an, khi ta có thể bước những bước chân an lạc, thảnh thơi, thì không phải ta đang sống ích kỷ mà kỳ thật ta đang làm điều đó cho tổ tiên, cho con cháu của ta trên khắp thế giới. Tuệ giác không thể nào phát sinh khi ta thực tập thiền đi mà không có niềm vui thú trong khi đi. Nếu ta có khả năng đi thiền hành trong bình an thì nhân loại sẽ còn hy vọng. Ta phải thấy được như thế. Tuệ giác là hoa trái của chánh niệm. Khi ta ý thức rằng ta có thể làm một điều gì đó để cống hiến trong từng giây phút của sự sống hằng ngày thì ta không còn là nạn nhân của tuyệt vọng và ta có thể khích lệ được những người xung quanh nữa. Khi ta cảm thấy bi quan thì đừng để tình trạng đó kéo dài. Cố nhiên là có những khổ đau xảy ra khắp nơi trên thế giới, nơi bản thân, trong gia đình và ngoài xã hội. Nhưng nếu ta đang làm hết khả năng của mình, hành xử một cách tốt đẹp nhất, thì vẫn còn hy vọng là sẽ có những người khác cũng hành xử như ta. Hãy hành xử một cách tốt đẹp nhất và đóng góp hết khả năng của ta. Và điều đó sẽ gây ảnh hưởng lan truyền. Những người khác khi nhìn vào ta họ sẽ phát sinh cảm hứng để làm theo. Có can đảm để sống đời sống hàng ngày với lòng yêu thương và tỉnh thức là một đóng góp tích cực của chúng ta.
68. Để giữ vững niềm tin
H. Thế giới hiện nay đầy rẫy điên cuồng và bạo động. Làm thế nào để không đánh mất niềm tin vào con người và không bỏ cuộc?
Tl. Có một sự thực tập gọi là Quay Về Nương Tựa. Khi ta muốn có được một cảm giác an toàn, bình an, thấy mình được bảo vệ, mà không biết cách thực tập nương tựa thì ta sẽ đánh mất sự an lạc, và sẽ cảm thấy trong lòng đầy bất an. Ta sẽ đau khổ và làm cho những người khác cũng đau khổ. Cho nên trong trường hợp bị xao động, đau khổ tràn ngập, ta phải thực tập trở về nương tựa nơi Bụt – Bụt trong chính tự thân ta. Mỗi chúng ta đều có Phật tánh, có khả năng trầm tĩnh, khả năng hiểu biết và thương yêu. Trở về nương tựa nơi hải đảo bình an trong ta, chúng ta có thể bảo tồn được nhân tính, giữ vững được niềm tin, bình an và hy vọng. Sự thực tập này vô cùng quan trọng. Khi thực tập được như thế, ta sẽ trở thành một hải đảo bình an, từ bi cho chính bản thân ta và sẽ gây cảm hứng cho nhiều người khác cùng làm theo.
Cũng giống như một chiếc thuyền vượt qua đại dương. Nếu gặp bão tố mà tất cả mọi người trên thuyền đều hoảng loạn thì chiếc thuyền sẽ bị lật úp. Nhưng nếu có một người trên thuyền giữ được bình tĩnh thì người ấy sẽ ảnh hưởng đến những người khác và giúp cho họ cũng giữ được bình tĩnh. Khi đó thì mọi người trên thuyền cũng có hy vọng. Ai là người có thể giữ bình tĩnh trong tình huống đó? Trong đạo Bụt câu trả lời là: “chính ta”.
69. Phá thai và Giới Thứ Nhất
H. Quyết định phá thai là một quyết định khó khăn nhưng đôi khi cần thiết. Có phải sự phá thai luôn luôn đi ngược với Giới Thứ Nhất hay không?
Tl. Bảo vệ sự sống là sự thực tập căn bản của đạo Bụt. Phá thai là một hành động tàn hoại, hủy diệt sự sống, không chỉ sự sống của thai nhi mà cả sự sống của chính ta. Bởi vì khi phá thai thì một phần của chúng ta cũng bị hủy diệt, và ảnh hưởng của sự hủy diệt đó kéo dài rất lâu. Vì thế, chúng ta phải cố gắng hết sức để sống và hoạch định đời sống như thế nào đó để không phải đối điện với một quyết định đau lòng như thế. Nguyên tắc là áp dụng phương pháp y khoa phòng ngừa. Nếu chúng ta chờ đến lúc xảy ra cơ sự mới giải quyết thì đã quá trễ. Vì vậy, chúng ta phải ý thức đến nếp sống của chúng ta, chuẩn bị mọi trường hợp, phải ngăn ngừa mọi tình huống xấu có thể xảy ra để chúng ta không phải thực hiện những quyết định đau lòng như vậy.
Khi mà sự việc đã xảy ra thì dù quyết định như thế nào cũng sẽ gây đau thương. Chúng ta phải nhìn sâu vào từng hoàn cảnh mà không nên giáo điều. Phải xem xét từng trường hợp một để thấy một cách uyển chuyển, thông minh và từ bi. Không có một câu trả lời chung cho tất cả mọi trường hợp. Chúng ta cần đến tuệ giác của nhiều người xung quanh ta, nhất là những người thân trong gia đình hay bạn bè. Đây không chỉ là để cho bản thân ta được yên lòng mà là để tránh gây thêm đau khổ. Nếu biết chắc rằng hành động đó sẽ gây thêm đau khổ thì không nên hành động. Trái lại, nếu hành động đó có thể chấm dứt đau khổ thì nên hành động. Phần lớn các trường hợp, phá thai không phải là giải pháp hay. Nhưng trong một vài trường hợp, không phá thai có thể sẽ gây thêm đau khổ cho người mẹ và cho nhiều người khác.
Nếu ta là một hành giả thực tập theo đạo Bụt và đã quy y Phật, Pháp, và Tăng thì mọi quyết định của ta phải dựa trên nền tảng của sự thực tập quy y Tam Bảo. Ta phải hành xử theo tinh thần của Bụt, nghĩa là phải chánh niệm về những gì đang xảy ra ngay bây giờ, những gì đã xảy ra trong quá khứ, những đau khổ có thể xảy đến trong tương lai nếu ta quyết định hành động. Hành động của ta có xuất phát từ tâm từ bi thực sự không hay chỉ gọi đó là từ bi? Ta phải hành xử theo tinh thần của Pháp, có nghĩa là phải thực tập chánh niệm, ý thức rõ những gì đã xảy ra trong quá khứ, đang xảy ra trong hiện tại, và sẽ xảy ra trong tương lai. Chúng ta cũng cần tham khảo tuệ giác tập thể của tăng thân. Tăng thân sẽ xem xét trường hợp của ta với tất cả sự chú tâm và chánh niệm, và có thể tìm ra tuệ giác để hướng dẫn cho ta. Sau khi tham vấn với tăng thân, làm theo lời khuyên của tăng thân thì ta không có gì để lo lắng nữa. Ta đã trải lòng và lắng nghe Bụt, Pháp và Tăng một cách sâu sắc và bây giờ trách nhiệm là trách nhiệm chung. Ta sẽ không còn đơn độc. Ta đã nương tựa vào sự thực tập trong ý nghĩa sâu sắc nhất.
70. Vấn đề đồng tính luyến ái
H. Xin cho biết quan điểm của đạo Phật về vấn đề đồng tính luyến ái.
Tl. Tinh thần của đạo Phật là vô phân biệt. Nhìn đám mây một cách sâu sắc ta thấy cả vũ trụ. Nhìn bông hoa cho sâu sắc ta thấy cả vũ trụ. Mỗi sự vật đều có vị trí riêng nhưng bản thể của tất cả chỉ là một. Nhìn những đợt sóng trên đại dương ta thấy những con sóng có khi lớn có khi nhỏ, muôn hình, muôn vẻ. Nhưng bản thể của con sóng nào cũng là nước. Cho dù bạn sinh ra là một người đồng tính luyến ái nhưng bản thể của bạn cũng giống tôi. Chúng ta tuy khác nhau nhưng đều hiện hữu như nhau. Paul Tillich, nhà thần học theo đạo Tin Lành có nói rằng Thượng đế là bản thể của hiện hữu. Bạn hãy là chính mình. Nếu Thượng đế đã tạo nên tôi là một đóa hồng thì tôi phải chấp nhận tôi là một đóa hồng. Nếu bạn sinh ra là một người đồng tính luyến ái thì bạn nên chấp nhận. Hãy quán chiếu bản chất để thấy rõ con người thật của mình. Khi bạn tiếp xúc được với bản thể của bạn thì bạn sẽ tìm được sự bình an.
Nếu ta là nạn nhân của sự kỳ thị thì cách giải thoát không chỉ đơn giản là oán trách. Bất công không thể chỉ giải tỏa bằng cách chấp nhận mà bằng khả năng tiếp xúc bản thể của chính mình. Sự kỳ thị, áp bức và thiếu bao dung xuất phát từ sự mê muội và thiếu hiểu biết. Nếu ta có khả năng tiếp xúc với bản thể của ta thì ta không còn đau khổ vì kỳ thị và áp bức nữa. Nếu có ai đó kỳ thị ta vì chủng tộc, vì màu da hay vì giới tính là do những người đó còn mê muội, không nhận ra bản thể của chính họ. Họ không biết rằng chúng ta cùng chung một bản thể, vì vậy nên họ đã kỳ thị ta.
Người kỳ thị người khác, gây đau khổ cho người khác là một người đau khổ. Ngay khi ta tiếp xúc được với chiều sâu và tự tánh bản thể của mình thì ta có thêm sự hiểu biết, từ đó ta phát khởi được tâm từ bi và bao dung. Khi đó, ta có thể tha thứ được cho những ai đã kỳ thị ta. Đừng nghĩ rằng giải thoát có được là do xã hội có sự công bằng để giúp ta vơi bớt những khổ đau. Giải thoát đích thực là khi ta có khả năng nhìn sâu.
Khi đau khổ vì bị kỳ thị, ta luôn cảm thấy như có gì thôi thúc ta phải nói ra. Nhưng dù cho ta có nói lên lời tố cáo thì cả ngàn năm ta vẫn còn đau khổ. Chỉ có sự hiểu biết sâu sắc và cởi bỏ ngu muội mới có thể giải phóng khỏi đau khổ cho ta. Một khi ta đã chọc thủng được bức màn vô minh ấy thì tâm từ bi sẽ dâng tràn. Với tâm từ bi đó ta có thể ôm ấp, chấp nhận ngay cả những người đã từng kết án ta. Chỉ khi nào ta khởi tâm phát nguyện giúp đỡ những người khác cũng là nạn nhân của sự vô minh, thì ta mới thoát khỏi đau khổ cũng như thoát khỏi ý tưởng bị ngược đãi. Đừng chờ đợi xung quanh ta thay đổi. Ta phải thực tập để tự giải phóng mình. Khi đó ta sẽ được trang bị đầy đủ năng lượng của từ bi và hiểu biết. Chỉ có những năng lượng đó mới có thể giúp chuyển đổi một xã hội đầy bất công và kỳ thị. Ta phải trở thành một người hiện thân cho sự bao dung, hiểu biết và thương yêu. Ta tự chuyển hóa mình thành một công cụ để thay đổi xã hội và thay đổi tâm thức cộng đồng của nhân loại.
71. Do Thái và Palestine
H. Làm thế nào để những người Israel và những người Palestine hòa giải?
Tl. Chúng ta chia cách nhau vì những nhãn hiệu, những danh từ như “người Israel”, “người Palestine”, “Phật giáo”, “Do Thái giáo”, “Hồi giáo”. Khi nghe đến một trong những danh từ đó, tâm trí ta khởi lên một hình ảnh và ngay tức khắc chúng ta muốn loại trừ hay xa lánh họ. Chúng ta tự tạo ra những đường lối suy nghĩ gây chia cách và gây đau khổ cho nhau. Vì vậy, khám phá ra nhân tính nơi người kia và giúp người kia khám phá ra nhân tính nơi ta là một điều rất quan trọng. Cùng là con người, chúng ta không khác gì nhau. Nhưng đôi khi vì bao nhiêu lớp nhãn hiệu nên đã không cho phép chúng ta nhìn nhau như những con người. Tự cho mình là một “Phật tử” có thể là một bất lợi, vì cái nhãn hiệu “Phật tử” đó có thể gây trở ngại khiến cho người kia không thể tiếp cận để khám phá được nhân tính nơi ta. Với những người “Thiên Chúa giáo”, “Do Thái giáo”, “Hồi giáo” cũng vậy. Những danh xưng ấy có thể là một phần quan trọng để nhận diện ta nhưng đó không phải là toàn bộ con người ta. Con người bị kẹt vào những ý niệm và hình ảnh tự mình tạo ra và không thể nhận ra nhau như những con người. Lột bỏ đi tất cả mọi nhãn hiệu để cho bản chất con người được hiển lộ đích thực là một sự thực tập cho hòa bình. Bởi vì người ta rất dễ bị kẹt vào danh xưng và nhãn hiệu cho nên chúng ta cần phải sử dụng ngôn ngữ từ ái khi ta đề cập đến vấn đề bất công với họ.
Trong mọi tranh chấp cả hai bên đều đau khổ vì bị đối xử bất công. Đây là một điều tối quan trọng. Phải hiểu như thế mới được. Rồi khi hiểu biết và thương yêu phát sinh trong tim thì những độc tố của sự giận dữ, hung bạo, thù ghét, và tuyệt vọng sẽ được chuyển hóa. Con đường rất là rõ ràng. Giải pháp duy nhất là lấy những độc tố ấy ra và thay vào đó là tuệ giác và thương yêu. Khi đó chúng ta sẽ đến với nhau như những con người mà không để cho những nhãn hiệu bên ngoài như “Phật giáo”, “Do Thái giáo”, “Hồi giáo”… lừa gạt. Đây là một tiến trình giải phóng, giải phóng khỏi những ý niệm, giải phóng khỏi u mê và thói quen kỳ thị. Đất Mẹ của chúng ta rất đẹp và có đủ chỗ cho tất cả chúng ta, vậy mà chúng ta cứ giết hại nhau. Nhưng khi chúng ta có thể xem nhau như những con người, mỗi người mỗi khổ đau, thì chúng ta không có can đảm để bắn giết nhau nữa. Chúng ta sẽ cùng nhau hợp tác để tìm ra cơ hội cho tất cả chúng ta được sống hòa bình và an lạc.
72. Giúp ích gì cho đời
H. Nếu đạt được trạng thái bình an sâu sắc và thương yêu thì giúp ích gì cho đời?
Tl. Có thể giúp đời bằng nhiều cách. Trước hết là giúp bằng phong thái bình an, thương yêu. Đó đã là một sự đóng góp lớn. Hơn nữa khi ta thể hiện phong thái bình an và thương yêu thì tất cả hành động của ta đều là hành động cho hòa bình và thương yêu. Ta sẽ không ngần ngại làm những việc có ích lợi cho nhân loại. Giống như Bụt, ta mang một chí nguyện kiên cường ra giúp đời. Một khi ta đạt được bình an và thương yêu thì ta không thể ngồi yên mà không giúp đời. Ta luôn luôn đi tới. Bụt đã giác ngộ và Ngài đã có một tăng đoàn, vậy mà Bụt vẫn không ngừng làm việc và thực tập. Tăng đoàn của Ngài càng ngày càng lớn mạnh. Trong khi Bụt dạy cho các đệ tử của Ngài có khả năng giáo hóa, Bụt vẫn tiếp tục giảng dạy và thực tập. Nếu anh nghĩ rằng công việc của anh đã xong là anh lầm. Không bao giờ xong. Anh phải tiếp tục. Thương yêu là vô tận, lòng từ bi là vô tận. An lạc cũng là vô tận.