Hòa giải với quá khứ

Nỗi sợ ban sơ không chỉ bắt nguồn từ lúc ta sinh ra hay còn thơ ấu mà còn từ nỗi sợ ban sơ của tổ tiên. Tổ tiên chúng ta đã từng đau khổ vì đói khát hay bệnh hiểm nghèo và có lúc đã trải qua nhiều lo sợ. Trong mỗi chúng ta đều có nỗi sợ đó. Vì lo sợ mà chúng ta tạo rắc rối cho cuộc sống. Chúng ta sợ cho an toàn của bản thân, cho việc làm, cho gia đình. Chúng ta sợ bị đe dọa. Ngay cả khi mọi việc đều êm xuôi, chúng ta cũng vẫn lo sợ.

Có một thanh niên Mỹ đến tu học tại Làng Mai. Trong khóa tu, tôi yêu cầu các thiền sinh viết thư cho cha mẹ dù cha mẹ còn sống hay đã qua đời. Viết thư là một hình thức thiền tập. Người thanh niên này không thể viết bức thư mà tôi yêu cầu. Bởi vì mỗi khi nghĩ tới cha anh thì anh vô cùng đau khổ. Cha anh ta đã qua đời mà anh ta cũng không hòa giải được với ông ấy. Người cha ấy đã từng ngược đãi anh hồi anh còn nhỏ đến nỗi anh ta không dám nghĩ đến ông ta chứ huống chi là viết cho ông ta một bức thư! Vì thế, tôi cho anh thiền sinh một thực tập trong một tuần lễ: “Thở vào, tôi thấy tôi là một em bé năm tuổi. Thở ra, tôi mỉm cười với em bé năm tuổi trong tôi.”

Khi còn là một em bé, dù là trai hay gái, bạn rất yếu đuối, mong manh. Một cái nhìn lạnh lùng của cha anh cũng đủ để gây thương tích trong tim anh. Có đôi lúc anh muốn nói một điều gì với cha anh mà tìm không ra lời khiến cha anh bực mình và mắng: “Mày câm miệng lại”. Đó là một gáo nước lạnh tạt vào tim anh, gây cho anh một vết thương lớn. Từ đó, anh không còn dám nói chuyện với cha anh. Truyền thông giữa cha anh và anh trở nên rất khó khăn. “Thở vào, tôi thấy tôi là một em bé năm tuổi. Thở ra, tôi mỉm cười với em bé năm tuổi trong tôi”.

Bạn nghĩ rằng em bé ấy không còn ở trong bạn phải không? Em bé ấy vẫn còn đó, sống động trong bạn, có thể là em ấy đã bị thương tích nặng. Em bé đang kêu gọi sự chú ý của bạn. Nhưng bạn không có thì giờ cho em ấy. Bạn quá bận việc. Bạn nghĩ bạn là một người lớn nhưng thật ra bạn cũng là em bé, trai hay gái, bị thương tích mong manh. Cho nên mỗi khi thở vào và thấy mình là em bé bị thương tích mong manh ấy, bạn sinh lòng thương cảm. Và khi thở ra, bạn mỉm cười với em bé, đó là nụ cười của hiểu và thương.

Em bé trong bạn có thể đã đau khổ rất nhiều. Khi còn nhỏ, bạn có thể bị những người lớn gây ảnh hưởng nặng nề. Những em bé khi còn nhỏ rất mong manh và dễ có những ấn tượng sâu. Ngay cả khi chưa sinh ra, thai nhi cũng đã có thể nghe, có thể phân biệt tiếng la hét với lời ca. Vì vậy, nếu bạn hết lòng lo cho con thì ngay khi con còn trong bụng, bạn phải đùm bọc con trong yêu thương. Tình yêu thương cần được bắt đầu càng sớm càng tốt. 

Có nhiều người trẻ đã thú nhận rằng họ căm ghét cha hay mẹ. Vài người đã nói với tôi bằng giọng hằn học: “Tôi không muốn dính dáng gì với ông ấy (hay bà ấy).” Họ đã giận cha, giận mẹ đến nỗi muốn cắt đứt hoàn toàn liên hệ với cha mẹ. Thỉnh thoảng cũng có lý do chính đáng vì đã bị bạo hành. Họ sợ nếu gần gũi với cha mẹ thì lại tiếp tục bị bạo hành.

Nhưng mặc dù không muốn gặp hay nói chuyện với cha hay mẹ, ta cũng không thể nào tách lìa ta khỏi cha mẹ ta. Cha mẹ ta đã sinh ra ta. Ta là cha ta, là mẹ ta. Đây là một sự thật, ngay cả khi ta thù ghét cha mẹ ta. 

Ta là tiếp nối của cha, mẹ ta. Ta không thể tách lìa cha mẹ ra khỏi ta được. Giận cha hay mẹ cũng không thể chối bỏ sự thật đó. Và chúng ta chỉ làm cho mình tự giận mình thêm mà thôi. Cần phải hòa giải với cha ta trong ta, với mẹ ta trong ta. Hãy nói chuyện với cha, mẹ trong ta và tìm mọi cách để sống hòa hợp với cha, mẹ trong ta. Được như thế thì sự hòa giải trong thực tế sẽ dễ dàng hơn.

Chúng ta có khả năng thay đổi bên trong ta cũng như tạo ảnh hưởng bên ngoài. Chỉ vì lo sợ mà chúng ta lúng túng không biết cách xử lý. Nhưng chúng ta chỉ cần thực tập hơi thở chánh niệm, bước chân chánh niệm để chế tác năng lượng chánh niệm và hiểu biết. Hiểu biết giúp giải tỏa khỏi lo sợ, giận dữ, thù ghét… Tình thương chỉ có thể biểu hiện từ sự hiểu biết.

Khi chúng ta nói “thân tâm hợp nhất”, điều đó không có nghĩa là chỉ có thân và tâm của riêng ta. Chúng ta mang trong mình máu huyết và tâm linh của tổ tiên. Chúng ta có thể ý thức sự có mặt của cha mẹ trong từng tế bào của ta. Cha mẹ thực sự có mặt trong ta cũng như tổ tiên nhiều đời của ta. Chúng ta là tiếp nối của cha mẹ, tổ tiên. Bạn có thể nghĩ rằng tổ tiên không còn đó, nhưng ngay các nhà khoa học cũng xác nhận rằng tổ tiên vẫn còn đó trong ta, trong từng tế bào, dưới dạng di truyền. Điều này cũng đúng với con cháu chúng ta. Ta sẽ có mặt trong từng tế bào của con cháu chúng ta, trong tâm thức của tất cả những ai mà ta đã có liên hệ.

Hãy lấy ví dụ một cây táo. Trong mỗi trái táo có một cái hạt. Trong hạt táo có cây táo và tất cả thế hệ trước của cây táo. Hạt táo chứa vô số cây táo. Hạt táo mang trong nó đầy đủ sự thông minh, trí tuệ để cho cây táo mọc cành, sinh lá, nở hoa và kết trái. Được như vậy là hạt táo đã thừa hưởng và thích ứng qua nhiều thế hệ tổ tiên. Bạn cũng thế. Bạn có đủ thông minh, trí tuệ để lớn lên thành người là nhờ bạn đã thừa hưởng vô lượng tuệ giác không chỉ từ tổ tiên huyết thống mà còn từ các tổ tiên tâm linh.

Tổ tiên tâm linh có mặt trong bạn vì bạn không chỉ được sinh ra từ cha mẹ mà còn được nuôi dưỡng giáo dục bởi hoàn cảnh bên ngoài. Hai khía cạnh ấy không thể tách rời. Sự nuôi dưỡng cũng có thể làm thay đổi bản chất di truyền. Tâm linh và sự thực tập chánh niệm hằng ngày của bạn đang có mặt trong từng tế bào của bạn. Huyết thống tâm linh cũng có đó trong mỗi tế bào của cơ thể bạn. Bạn không thể chối bỏ điều đó. 

Vài người trong chúng ta có những bậc cha mẹ tuyệt vời nhưng có nhiều người khác có cha mẹ đã từng bị khổ đau nặng nề và đã làm cho mọi người trong gia đình cùng khổ. Hầu hết chúng ta ai cũng có các tổ tiên mà ta rất vinh dự, cũng như những tổ tiên với nhiều yếu kém mà ta không mấy hãnh diện. Có những bậc tổ tiên mà truyền thống tâm linh không giúp được gì, trái lại có khi gây hại cho ta. Chúng ta có thể giận ghét họ nhưng họ vẫn là tổ tiên của chúng ta.

Chúng ta phải trở về với tự thân để ôm ấp tổ tiên huyết thống và tâm linh của ta. Chúng ta không thể nào gạt bỏ họ đi được. Sự thật là như thế. Họ ở trong ta về phương diện thể chất cũng như tâm linh. Chấp nhận vô điều kiện là bước đầu tiên của tiến trình tha thứ mầu nhiệm.

Thực tập: Chấp nhận tổ tiên

Để thực tập chấp nhận tổ tiên, dầu thế nào đi nữa, ta phải bắt đầu từ bản thân. Nếu ta không chấp nhận được ta thì không thể nào ta chấp nhận được người khác. Khi nhìn lại tôi, tôi thấy tôi có nhiều điểm tích cực, nhưng tôi cũng khám phá ra rằng tôi cũng có nhiều điều tiêu cực. Vậy trước nhất là phải tự hiểu mình và chấp nhận mình.

Thở vào và thở ra, bạn hãy hình dung tổ tiên của bạn và tìm ra những điểm tích cực cũng như tiêu cực của tổ tiên. Hãy quyết tâm chấp nhận tất cả các bậc tổ tiên không một chút ngần ngừ.

Kính thưa quý vị tổ tiên. Con chính là quý vị. Con thấy rõ quý vị có những hạt giống tiêu cực cũng như tích cực. Con biết rằng quý vị đã may mắn có những hạt giống tích cực được tưới tẩm nơi quý vị như hiểu biết, thương yêu, vô úy. Con cũng biết rằng nếu quý vị không được may mắn thì cũng có thể có nhiều hạt giống tiêu cực được tưới tẩm như sợ hãi, tham lam, ghen tị khiến cho các hạt giống tích cực không có cơ hội phát triển.

Khi một hạt giống tích cực được tưới tẩm thì có thể đó là một phần nhờ may mắn, một phần nhờ cố gắng. Hoàn cảnh thuận tiện trong đời sống có thể tưới tẩm các hạt giống kiên nhẫn, vị tha, từ bi, thương yêu. Những người quanh bạn có thể chung tay tưới tẩm các hạt giống ấy, cũng như giúp bạn thực tập chánh niệm. Nhưng nếu sinh vào thời giặc giã hay khi gia đình, cộng đồng bị khổ nạn, ta có thể sẽ mang đầy tuyệt vọng, sợ hãi. Những bậc cha mẹ có nhiều đau khổ, khó khăn trong giao tiếp với xã hội và cộng đồng sẽ tưới tẩm hạt giống sợ hãi và hờn giận cho con cái. Nếu trẻ con lớn lên trong một gia đình đùm bọc, yêu thương thì những hạt giống tốt trong em sẽ được tưới tẩm và phát triển.

Nếu bạn nhìn tổ tiên như trên thì bạn sẽ hiểu rằng tổ tiên của bạn cũng đã từng chịu đau khổ và đã phải phấn đấu. Biết như thế bạn dễ dàng gạt bỏ buồn giận và chối bỏ tổ tiên. Chấp nhận tổ tiên với tất cả các điểm tích cực cũng như tiêu cực sẽ giúp bạn bình an và không sợ hãi. Bạn có thể xem anh hay chị của bạn như là những “tổ tiên” trẻ nhất của bạn, bởi vì anh, chị của bạn sinh ra trước bạn. Anh, chị của bạn cũng gặp khó khăn như tất cả chúng ta.

Muốn hòa giải với tổ tiên cần phải thực tập. Đây là một điều quan trọng. Bạn có thể thực tập bất cứ ở đâu, trước một bàn thờ, hay một thân cây, trên đỉnh núi hay trong thành phố. Bạn chỉ cần ý thức là tất cả tổ tiên đang có trong bạn. Bởi vì bạn là tiếp nối của tổ tiên bạn. Chỉ khi nào bạn hòa giải được với tổ tiên, bạn mới thật sự sống hoàn toàn trong hiện tại.

Nỗi sợ ban sơ

Nhiều người thường bị ám ảnh về những việc có thể khơi dậy sợ hãi và buồn khổ. Tất cả chúng ta đều đã có những trải nghiệm buồn khổ trong quá khứ mà ta không thể quên được. Chúng ta luôn nhớ và sống lại những khổ đau của quá khứ. Nhưng nếu nhớ lại quá khứ mà không có chánh niệm, tỉnh thức thì việc nhớ lại chỉ khiến chúng ta thêm buồn khổ.

Lấy ví dụ, khi còn nhỏ, bạn bị ngược đãi. Bạn đã khổ đau cùng cực. Bạn rất yếu ớt, mong manh, lúc nào cũng có cảm giác bất an. Bạn không biết cách để tự bảo vệ mình. Trong tâm trí, bạn như tiếp tục bị ngược đãi không thôi. Mặc dầu bây giờ đã trưởng thành, không còn là một em bé yếu ớt, mong manh nhưng bạn vẫn tiếp tục buồn khổ vì bạn cứ nhớ lại kỷ niệm đau buồn ngày xưa.

Trong tiềm thức của bạn hình như có chôn giấu một cuốn phim, một hình ảnh. Mỗi khi bạn nhớ về quá khứ thì như là bạn xem lại thước phim hay ngắm lại bức tranh đó và bạn lại buồn khổ. Chánh niệm nhắc ta rằng ta có thể sống trong hiện tại, bây giờ và ở đây. Chánh niệm cho ta biết rằng hiện tại luôn có đó và ta không cần trở về sống lại quá khứ xa xưa. 

Giả sử có một người tát vào mặt bạn. Cái tát đã in dấu trong tiềm thức bạn. Tiềm thức bạn chứa nhiều thước phim, nhiều hình ảnh vẫn tiếp tục linh hoạt trong bạn. Và bạn có xu hướng trở về xem lại những thước phim ấy, ngắm lại những hình ảnh ấy và bạn tiếp tục buồn khổ. Mỗi lần nhớ lại như thế là bạn như bị tát vào mặt lần nữa.

Nhưng đó chỉ là quá khứ. Bạn không còn sống trong quá khứ, bạn đang sống trong hiện tại. Chuyện cũ đã xảy ra thật, nhưng xảy ra trong quá khứ. Bây giờ chỉ còn lại ký ức của những hình ảnh ngày nào. Nhưng nếu bây giờ bạn an trú trong hiện tại thì bạn có thể nhìn về quá khứ với một cái nhìn khác hơn và bạn có thể chuyển hóa nỗi khổ đó. Có thể rằng hồi bạn còn nhỏ, có người đã lấy mất đi một món đồ chơi của bạn và bạn đã biết cách la khóc để tìm cách lấy lại món đồ chơi, hay cười nịnh chị vú để chị ấy trả lại món đồ chơi của bạn. Mặc dầu còn nhỏ, bạn đã biết cười xã giao. Đó là một cách ứng phó để sống còn. Bạn đã học được một bài học mà bạn không hay.

Cảm giác bạn nhỏ bé, mong manh, không đủ sức tự bảo vệ, luôn luôn cần có người hỗ trợ bên mình vẫn còn đó mãi. Nỗi sợ hãi ban sơ và ước muốn ban sơ luôn luôn còn đó. Em bé, với nỗi sợ hãi và ước muốn ban sơ vẫn sống động trong ta.

Nhiều người bị trầm cảm và mãi khổ đau mặc dầu hoàn cảnh hiện tại của họ khá bình an, vững chãi. Đó là vì họ có xu hướng chôn mình trong quá khứ. Họ cảm thấy được thoải mái hơn khi quay về trú ẩn nơi quá khứ, mặc dù quá khứ chứa nhiều khổ đau. Nơi trú ẩn đó là hố sâu thẳm của tiềm thức với những thước phim đau buồn. Rồi mỗi đêm bạn về lại nơi trú ẩn đó, xem lại những thước phim ấy và tiếp tục buồn khổ. Và những lo âu của bạn cho tương lai chẳng qua chỉ là những sợ hãi và ước muốn của quá khứ mà thôi. 

Đừng sợ quá khứ

Kẹt vào quá khứ rất dễ, cho nên phải có một cách để nhắc nhở chúng ta trở về với hiện tại. Tại Làng Mai, chúng tôi sử dụng tiếng chuông. Mỗi khi nghe tiếng chuông, chúng tôi thở hơi thở vào ra trong chánh niệm và tự nhủ: “Lắng lòng nghe. Tiếng chuông huyền diệu đưa về quê hương”. Quê hương đó chính là ngôi nhà thật sự của tôi.

Bạn có thể nói với em bé trong bạn rằng, quá khứ không phải là nhà của ta. Nhà của ta là tại đây, là bây giờ, nơi chúng ta đang thực sự sống. Nơi đây, ta có thể có được những gì nuôi dưỡng và chữa trị. Bao nhiêu sợ hãi, lo lắng, tuyệt vọng vẫn còn đó vì em bé trong ta chưa được giải thoát. Em sợ phải đối diện với hiện tại. Chánh niệm và hơi thở của ta sẽ giúp em ý thức rằng em đang được an toàn và tự do.

Khi xem phim, theo dõi những tình huống bi đát trên màn ảnh, bạn có thể rơi lệ. Bạn tưởng rằng những tình huống đó là thật. Nước mắt của bạn là nước mắt thật, cảm xúc của bạn là cảm xúc thật. Nhưng nếu đến gần màn ảnh thì bạn chỉ thấy những vệt sáng lập lòe. Bạn không thể tiếp xúc với những nhân vật trên màn ảnh, không thể nói chuyện, uống trà hay hỏi han, tâm sự. Ấy vậy mà những nhân vật ấy đã làm cho bạn đau khổ thực sự, đau khổ thể xác cũng như tinh thần. Cũng vậy, ký ức của bạn có thể tạo ra đau khổ thật sự cho dù những ký ức ấy chỉ là những hình bóng xa xưa.

Khi bạn nhận ra rằng thói quen sống lại những chuyện ngày xưa hay phản ứng theo ký ức là do tập khí thì bạn hãy nhớ rằng bạn có thể có một lựa chọn khác. Bạn có thể đối diện giây phút hiện tại với tâm vô tư, không phán xét. Hãy dành quá khứ cho một lúc khác, một lúc tĩnh lặng nào đó, để an ủi em bé thương tích trong bạn, để nói với em rằng em không còn đau khổ nữa. Bạn có thể nắm tay em, đưa em về hiện tại với bao nhiêu mầu nhiệm hiện tiền: “Này em, hãy tới đây với ta, chúng ta đã lớn rồi và không còn sợ hãi nữa. Chúng ta đã vững mạnh. Chúng ta không phải sợ gì nữa.” Bạn phải hướng dẫn em bé trong bạn, phải đưa em về với sự sống hiện tại. Lẽ tất nhiên là ta có thể học hỏi kinh nghiệm từ quá khứ, nhưng đồng thời ta phải an trú trong hiện tại. Nếu an trú vững chãi trong hiện tại, chúng ta có thể suy nghiệm quá khứ một cách tinh tường, học hỏi từ quá khứ mà không bị quá khứ ám ảnh.

Nghĩ tới tương lai mà không sợ hãi

Cũng vậy chúng ta có thể chuẩn bị tương lai mà không bị chìm ngập bởi những dự án cho tương lai. Rất nhiều khi ta chẳng phải đang lên một dự án gì cả mà ta chỉ đang chạy theo những ám ảnh về những kế hoạch trong đầu của ta, chỉ bởi ta lo sợ về một tương lai bất định. Ta phải an trú trong hiện tại khi hành động, chỉ có như vậy, ta mới hoạch định tương lai một cách tốt đẹp nhất. Sống trong hiện tại không có nghĩa là không chuẩn bị cho tương lai. Tuy nhiên đánh mất mình trong lo lắng cho tương lai không giúp ích được gì. Khi an trú trong hiện tại, ta có thể đem tương lai về với hiện tại để có thể nhìn sâu mà không đánh mất mình vì lo lắng, hoang mang. Thực sự có mặt trong hiện tại và chăm sóc hiện tại tốt đẹp chính là ta đang chăm sóc tương lai tốt đẹp. 

Quá khứ cũng vậy. Chánh niệm không cấm ta nhìn sâu về quá khứ. Tuy nhiên, nếu ta chìm đắm trong tiếc nuối, buồn khổ của quá khứ thì đó không phải là chánh niệm. Nếu thật sự an trú trong hiện tại thì ta có thể đem quá khứ về hiện tại để quán chiếu sâu sắc. Chúng ta có thể quán chiếu quá khứ và tương lai khi an trú trong hiện tại. Quả vậy, ta có thể xử lý quá khứ và tương lai một cách tốt đẹp nhất nếu ta an trú trong hiện tại. 

Nếu bạn có một người bạn đang đau khổ, bạn có thể nói với anh ta rằng: “Này bạn ơi, bạn đang ổn lắm. Hiện tại mọi việc đều đang rất tốt. Tại sao bạn cứ mãi đau khổ? Đừng trở về với quá khứ. Quá khứ chỉ là một bóng ma, không có thật.” Mỗi khi chúng ta nhận ra rằng quá khứ chỉ là một cuốn phim hay một tấm ảnh, chúng ta sẽ được tự do. Đây là phép thực tập chánh niệm.

Một thời đã qua

Nhiều người quên đi rằng, một thời đã qua chúng ta đã ở trong bụng mẹ. Chúng ta chỉ là một thai nhi nhỏ bé. Trong cơ thể mẹ ta có hai trái tim. Một trái tim của mẹ, một trái tim của ta. Trong khoảng thời gian ấy, mẹ đã làm mọi chuyện cho ta. Mẹ thở cho ta, mẹ ăn uống cho ta. Ta nối liền với mẹ bằng sợi dây nhau. Khí oxy và chất nuôi dưỡng truyền từ mẹ qua ta bằng sợi dây nhau. Ta được an toàn và thỏa thích trong bụng mẹ. Không bao giờ ta phải quá lạnh hay quá nóng. Ta ở trong một bọc nước êm ái. Người Trung Hoa và Việt Nam nói rằng tử cung chính là cung điện của đứa bé. Ta đã sống chín tháng trong cung điện. 

Thời gian chín tháng đó là thời gian thoải mái nhất đời ta. Thế rồi đến ngày ta ra đời. Một thế giới xa lạ xung quanh không có gì quen thuộc. Lần đầu tiên, ta cảm thấy đói lạnh. Xung quanh ta ồn ào, ánh sáng chói lóa. Lần đầu tiên ta cảm thấy sợ. Đó là nỗi sợ ban sơ, nguyên thủy.

Ở trong tử cung, ta không cần sử dụng buồng phổi nhưng khi lọt lòng mẹ, sợi dây nhau bị cắt lìa và ta không còn nối kết với mẹ. Mẹ không còn thở cho ta. Lần đầu tiên ta phải thở lấy một mình. Nếu ta không tự mình thở lấy thì ta chết. Sinh ra là trải qua một biến cố ngặt nghèo. Ta bị đẩy ra khỏi tử cung và đối diện với đau khổ. Ta cố gắng để thở. Trong phổi ta có nước, ta phải tống nước trong phổi ra. Cùng một lúc khi mở mắt chào đời, ta phải phấn đấu để sống còn. Ta muốn sống, đó là ước muốn ban sơ, bản năng sinh tồn. 

Khi còn là một trẻ sơ sinh, mỗi chúng ta đều ý thức rằng muốn sống còn ta phải cần một người để chăm sóc. Dù dây nhau đã cắt lìa, ta vẫn cần nương tựa hoàn toàn vào một người lớn để sống sót. Phải nương tựa vào một ai đó để sống còn có nghĩa là còn cần đến sợi dây nhau liên kết vô hình. Dẫu đã bị cắt lìa, sợi dây nhau vẫn còn đó.

Khi lớn lên, nỗi lo sợ ban sơ vẫn còn đó. Dẫu đã trưởng thành, chúng ta vẫn sợ không có người chăm sóc ta, sợ sẽ không thể sống sót được một mình. Tất cả mọi mong muốn được sống vẫn còn đó. Khi còn trẻ thơ, chúng ta đều biết tìm cách bảo đảm cho sự sống còn. Chúng ta có chân nhưng không đi được, có tay nhưng không cầm được. Chúng ta phải tìm cách nương tựa vào một ai đó để bảo vệ ta, săn sóc ta và bảo đảm sự sống còn của ta. 

Ai cũng có lúc sợ hãi. Chúng ta sợ cô đơn, sợ bị bỏ quên, sợ già, sợ bệnh, sợ chết, và biết bao lo sợ khác. Đôi khi chúng ta lo sợ mà không biết vì sao. Nếu chúng ta tập nhìn sâu thì chúng ta sẽ nhận ra rằng những nỗi lo sợ đó bắt nguồn từ nỗi sợ ban sơ từ lúc ta mới sinh ra, hoàn toàn bất lực, không tự mình làm được gì. Cho đến khi lớn lên, nỗi lo sợ ban sơ vẫn sống động trong ta. Ý muốn có một người bạn đời một phần nào cũng bắt nguồn từ nhu cầu tìm một người để được chăm sóc.

Khi thành người lớn, chúng ta không muốn nhớ lại hay cảm nhận nỗi sợ và ước muốn ban sơ, bởi vì em bé trong ta vẫn sống động. Nhưng chúng ta không có cơ hội nói chuyện với em bé. Chúng ta không dành thì giờ săn sóc em bé bị thương tích, em bé yếu đuối, mong manh trong ta.

Đối với đa số mọi người, nỗi sợ ban sơ vẫn tiếp tục dưới hình thức này hay hình thức khác. Đôi khi chúng ta cảm thấy hoảng hốt khi cô đơn. Đôi khi chúng ta cảm thấy bất lực, “không tự mình làm được gì”. Chúng ta cần có một người giúp ta. Đây là sự tiếp nối của nỗi sợ ban sơ.

Tuy nhiên, nếu nhìn sâu, chúng ta sẽ khám phá ra rằng chúng ta có khả năng bình thản khi lo sợ và tìm lại niềm hạnh phúc cho riêng mình.

Phải nhìn sâu để biết rằng liên hệ tình cảm phát xuất từ nhu cầu của riêng ta hay từ hạnh phúc chung. Chúng ta quen nghĩ rằng người ta thương sẽ cho ta những giây phút thoải mái và ta sẽ cảm thấy bất an nếu không có người ấy bên cạnh. “Tôi cần người đó chăm sóc, tôi không thể sống nổi nếu không có người đó!” 

Nếu liên hệ tình cảm chỉ được căn cứ trên lo sợ thay vì hiểu biết, thương yêu thì mối liên hệ đó không có căn bản vững chắc. Bạn nghĩ bạn cần có người kia để được hạnh phúc nhưng đến một lúc bạn sẽ khám phá ra rằng sự hiện diện của người kia chỉ làm bạn bực mình và muốn xa người ấy, bạn nhận ra rằng cảm giác bình an nơi bạn không đến từ người kia. 

Cũng vậy, bạn la cà ở quán cà phê chẳng phải vì quán cà phê có gì thích thú mà chỉ vì bạn cô đơn. Bạn cần có nhiều người xung quanh. Bạn mở tivi chẳng phải vì tivi đang chiếu chương trình hay mà chỉ vì bạn cô đơn.

Người nào đó đã nói xấu về bạn, không thừa nhận bạn khiến bạn cảm thấy cô đơn, mất bình an. Bạn thích mua sắm thời trang cũng vì tâm trạng lo sợ cô đơn ấy. Chúng ta sợ bị ruồng bỏ, sợ sẽ không có ai chăm sóc. 

Hãy nhìn sâu để nhận ra rằng mỗi hành động của ta ngày hôm nay đều ẩn chứa và tiếp nối tâm lý lo sợ và ước muốn ban sơ của ngày ta vừa mở mắt chào đời.

Một hôm, trong khi đi thiền hành, tôi bỗng cảm nhận như có một sợi dây nhau nối kết tôi với mặt trời. Tôi thấy rõ ràng nếu mặt trời không có đó thì tôi sẽ chết tức khắc. Rồi tôi thấy có những sợi dây nhau nối tôi với dòng sông, với khu rừng, với bác nông dân. Dòng sông cho tôi nước uống, khu rừng cho tôi dưỡng khí để thở, bác nông dân trồng lúa cho tôi ăn.

Nhờ thiền tập mà bạn có thể thấy những gì mà người khác không thấy. Mặc dầu bạn không thấy sợi dây nhau nhưng sợi dây nhau vẫn có ở đó nối kết bạn với cha, mẹ, tổ tiên, với mặt trời, dòng sông, khu rừng, bác nông dân. Không chỉ năm, bảy sợi dây nhau mà hàng ngàn, hàng triệu sợi dây nhau.

Tại Làng Mai, đạo tràng của chúng tôi tại miền Nam nước Pháp, chúng tôi sử dụng thi kệ để thực tập: thi kệ khi thức dậy, khi chải răng, khi lái xe và cả khi sử dụng máy vi tính… Bài thi kệ sau đây chúng tôi thường đọc trước khi ăn:

Tay nâng chiếc bát đầy 

Tôi thấy rõ vạn vật

Đang giang tay góp mặt

Để cùng nuôi dưỡng tôi.

Nhìn cọng rau trong bát cơm, ta thấy trong đó có ánh nắng, có đám mây, có địa cầu và bao nhiêu khó nhọc đang góp mặt trong bát cơm. Quán chiếu như thế thì mặc dầu ngồi ăn một mình, ta vẫn cảm nhận rất rõ sự hiện diện của tăng thân, của tổ tiên, của Đất Mẹ và của vũ trụ trong ta và quanh ta trong lúc ta ăn. Và chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn khi ăn.

Bước đầu tiên để giảm bớt lo sợ là “nói chuyện” với lo sợ. Hãy ngồi xuống với em bé trong ta. Em đã từng bị thương tích. Em run rẩy, mong manh. Hãy dịu dàng ôm ấp em. Hãy nói với em như thế này: “Này em, em bây giờ là người lớn trong ta. Chúng ta không còn nhỏ bé, mong manh nữa. Chúng ta, tay chân vững mạnh, có thể tự bảo vệ. Vậy thì không có lý do gì mà chúng ta mãi lo sợ.”

Tôi tin rằng, nói chuyện với em bé như thế sẽ giúp em rất nhiều bởi em rất cần ta chú ý tới. Bao nhiêu thương tích vẫn còn đó trong em, nhưng vì quá bận rộn, ta không có thì giờ trở về để chăm sóc thương tích của em. Thế cho nên, thỉnh thoảng ta phải trở về với ta, với ý thức rằng trong ta có một em bé thương tích cần được chuyện trò, cần được trị liệu. Đây là một điều rất quan trọng. Phải tự nhắc mình rằng ta không còn là một em bé bất lực nữa, ta đã trưởng thành và có thể tự lo cho mình.

Thực tập nói chuyện với em bé trong ta

Hãy đặt xuống hai tọa cụ, rồi ngồi lên một tọa cụ và tưởng tượng bạn là em bé bị thương tích, yếu đuối, bất lực trong bạn. Rồi bạn tự nói với mình: “Tôi hoàn toàn bất lực. Tôi không làm được gì cả. Không ai lo cho tôi.” Bạn nói với tiếng nói của em bé. Rất có thể rằng khi ấy một cảm xúc sợ hãi, tuyệt vọng trong bạn sẽ trào dâng. Hãy để cho cảm xúc bộc lộ. Hãy dành thì giờ để cho em bé tỏ lộ tâm tình một cách hoàn toàn. Đây là một điều rất quan trọng. Sau khi em bé nói xong, bạn ngồi vào tọa cụ bên kia và đóng vai người lớn. Bạn nhìn tọa cụ đối diện và tưởng tượng có em bé đang ngồi đó. Bạn hãy nói với em: “Em nghe tôi đây. Tôi là người đã trưởng thành của em. Em không còn là một em bé bất lực nữa. Em đã lớn khôn và có đủ thông minh để tự bảo vệ, một mình mưu sinh. Chúng ta không cần ai khác để giúp chúng ta.”

Không sợ hãi

Hầu hết chúng ta ai cũng đã trải qua những giây phút hạnh phúc lẫn khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên có nhiều người ngay lúc đang vui sướng nhất mà lòng vẫn trĩu nặng lo sợ, sợ ngày vui sẽ qua mau, sợ không như mong cầu, sợ phải xa cách người thương và một nỗi sợ lớn nhất, sợ thân xác mình sẽ tàn hoại. Cho nên ngay lúc biết bao điều kiện của hạnh phúc có đó niềm vui vẫn không trọn vẹn.

Chúng ta cứ nghĩ rằng để được hạnh phúc thì phải tránh né hay quên đi lo sợ. Chúng ta không mấy thoải mái khi phải nghĩ đến những gì đã làm cho ta lo sợ, rồi chúng ta chối bỏ: “Thôi! Thôi! Tôi không muốn nghĩ tới chuyện đó!” Chúng ta nhắm mắt làm ngơ nhưng lo sợ vẫn còn đó trong ta.

Cách duy nhất để bớt đi lo sợ và thật sự hạnh phúc là nhận diện lo sợ và quán chiếu gốc rễ của lo sợ. Thay vì tránh né, ta sử dụng khả năng tỉnh giác và quán sát tinh tường.

Chúng ta lo sợ những gì ngoài tầm kiểm soát của ta. Chúng ta sợ bệnh, sợ già, sợ mất đi những gì mà ta trân quý. Chúng ta cố ôm giữ địa vị, tài vật và người thương. Nhưng ôm giữ không giúp bớt lo sợ. Trước sau gì sẽ có một ngày chúng ta phải buông bỏ tất cả. Chúng ta không thể mang địa vị, tài vật, người ta thương theo chúng ta mãi.

Chúng ta có thể nghĩ rằng nếu làm ngơ lo sợ thì lo sợ sẽ tan biến. Nhưng nếu cứ làm ngơ, cứ chôn chặt lo sợ vào lòng thì lo sợ vẫn ở đó và luôn làm ta căng thẳng. Chúng ta cảm thấy bất lực. Nhưng chúng ta có khả năng quán chiếu, nhìn sâu vào lo sợ và từ đó, lo sợ không còn khống chế được ta. Chúng ta có khả năng chuyển hóa lo sợ. Thực tập sống tỉnh thức từng giây phút hiện tại, ta gọi đó là CHÁNH NIỆM, sẽ giúp ta can đảm đối diện lo sợ và không còn bị lo sợ bức bách. Chánh niệm có nghĩa là nhìn sâu, là ý thức “tự tính tương tức” (true nature of interbeing) của vạn vật và ý thức rằng không có gì sẽ mất đi.

Một năm trong thập niên 60, tôi đến sân bay Buôn Ma Thuột chờ một máy bay tiếp tế quân sự để đi nhờ ra Đà Nẵng. Tôi đang ngồi chờ một mình trong sân bay vắng người thì có một sĩ quan Mỹ đến ngồi gần. Ông ta cũng chờ đi cùng một chuyến bay với tôi. Nhìn người sĩ quan Mỹ, tôi nhận ra đó là một sĩ quan trẻ. Bỗng nhiên tôi thấy thương hại anh ta: “Tại sao anh ta phải đến Việt Nam để giết người và để bị giết?” Tôi hỏi anh ta: “Chắc anh sợ Việt Cộng lắm phải không?” Câu hỏi ấy phát xuất từ lòng thương của tôi. Không may là tôi đã không khéo léo khi hỏi câu hỏi đó. Câu hỏi của tôi đã khơi dậy nỗi sợ hãi nơi người sĩ quan trẻ. Nghe tôi hỏi, anh ta lập tức đặt tay lên khẩu súng bên hông và hỏi lớn: “Anh có phải là Việt Cộng không?”

Trước khi đến Việt Nam, viên sĩ quan này đã được cho biết rằng: “Tất cả những người Việt Nam, người nào cũng có thể là Việt Cộng”. Bất cứ quân nhân Mỹ nào cũng sợ điều đó. Đàn bà, con nít, thậm chí thầy tu đều có thể là Việt Cộng. Quân nhân Mỹ được nhồi sọ như vậy và họ thấy kẻ thù khắp nơi. Tôi đã thể hiện sự cảm thương với người lính, nhưng ngay khi nghe nói đến hai chữ Việt Cộng, anh đã hoảng hốt và đặt tay vào súng. Lúc đó, tôi đã cố gắng bình tĩnh, theo dõi hơi thở chậm rãi và trả lời: “Không! Tôi ra Đà Nẵng để xem xét tình hình bão lụt ngoài ấy để coi có thể giúp ích được gì.” Lời nói của tôi bộc lộ thiện cảm của tôi. Rồi tôi tâm sự với anh ta rằng chiến tranh đã tạo ra biết bao nạn nhân không chỉ cho Việt Nam mà cho cả Mỹ. Viên sĩ quan đã dần lấy lại bình tĩnh và chúng tôi đã có thể chuyện trò với nhau. Nếu tôi phản ứng vì sợ hãi, hoảng hốt thì viên sĩ quan đã rút súng bắn tôi cũng vì sợ hãi, hoảng hốt. Vì vậy không nên nghĩ rằng nguy hiểm chỉ đến từ bên ngoài. Nguy hiểm có thể đến từ bên trong. Nếu chúng ta không tỉnh thức và biết nhìn sâu vào gốc rễ của lo sợ thì chúng ta có thể tạo ra nguy hiểm cho chính chúng ta. 

Tất cả chúng ta ai cũng từng lo sợ, nhưng nếu chúng ta biết nhìn sâu vào lo sợ thì ta có thể giải tỏa lo sợ và tìm lại nguồn vui. Lo sợ khiến chúng ta chú tâm về quá khứ hoặc lo lắng cho tương lai. Nếu chấp nhận lo sợ thì ta khám phá ra rằng ngay lúc này, hôm nay đây ta còn sống, cơ thể ta đang hoạt động diệu kỳ, mắt ta đang thấy được trời xanh, tai ta còn nghe được tiếng nói của người ta thương.

Bước thứ nhất của sự quán chiếu lo sợ là nhận diện mà không phán xét. Hãy nhận diện với tâm bình thản rằng lo sợ đang có đó trong ta, như thế cũng đủ để vơi bớt lo sợ rất nhiều. Tiếp theo, khi lo sợ đã lắng dịu, chúng ta ôm ấp niềm lo nỗi sợ một cách êm dịu và nhìn sâu vào nguồn gốc của lo sợ. Hiểu được nguồn gốc của lo sợ, ta buông bỏ được lo sợ. Hãy tìm hiểu xem lo sợ là do nguyên nhân hiện tại hay là do nguyên nhân từ xa xưa, từ khi ta còn nhỏ, mà ta đã ôm chặt trong lòng cho tới bây giờ? Khi chúng ta sử dụng chánh niệm để đối diện lo sợ thì chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta đang sống, rằng chúng ta còn có những gì ta trân quý và yêu thích. Nếu không phí thì giờ đè nén, bận tâm vì lo sợ, ta sẽ có thì giờ vui hưởng nắng ấm, trời trong, gió lành. Nếu quán chiếu sâu sắc và tỏ tường lo sợ thì ta sẽ khám phá ra rằng ta có thể sống một cuộc đời đáng sống.

Nỗi lo sợ lớn nhất là sợ rằng khi chết ta không còn là gì nữa. Để thực sự giải thoát khỏi nỗi sợ đó, ta phải nhìn sâu dưới cái nhìn bản môn (ultimate dimension) để thấy được bản chất không sinh không diệt của ta. Phải từ bỏ định kiến rằng ta chỉ có một thân xác này và nó sẽ tàn hoại khi ta chết. Hiểu rằng ta không chỉ là một thân xác, rằng ta không đến từ hư không và sẽ tan biến vào hư không. Hiểu như thế ta sẽ giải thoát khỏi lo sợ.

Đức Bụt là một con người như tất cả chúng ta. Ngài cũng đã từng lo sợ nhưng ngài thường xuyên thực tập chánh niệm và quán chiếu sâu sắc cho nên ngài đã bình thản khi đối diện lo sợ. Kinh chép rằng một hôm Bụt đang đi thì Angulimala, một tên giết người khét tiếng đuổi theo ngài và hô lớn bảo ngài dừng lại nhưng Bụt vẫn tiếp tục chậm rãi bình thản bước. Angulimala đuổi kịp Bụt và lớn tiếng hỏi tại sao ngài không chịu dừng lại. Đức Bụt trả lời: “Angulimala, ta đã dừng lại từ lâu, chỉ có ngươi là không dừng lại”. Và Bụt giải thích tiếp: “Ta đã dừng những hành động gây đau khổ. Tất cả các loài chúng sinh đều ham sống, sợ chết. Chúng ta phải nuôi dưỡng lòng thương và bảo vệ sự sống của mọi loài.” Angulimala tỉnh ngộ và xin Bụt giảng tiếp. Cuối cùng, Angulimala thề sẽ không bao giờ giết chóc, bạo ngược và xin Bụt xuất gia. 

Tại sao Đức Thế Tôn có thể bình tĩnh trước một tên giết người? Đây là một câu chuyện hiếm có nhưng tất cả chúng ta hằng ngày đều đã đối diện với hết lo sợ này đến lo sợ khác. Thực tập chánh niệm mỗi ngày có thể giúp ích rất nhiều. Với hơi thở, với tỉnh thức, chúng ta có thể đối xử với bất cứ điều gì xảy đến cho ta. Không sợ hãi không chỉ là thói quen tốt mà còn là một niềm vui thâm diệu. Mỗi khi tâm ta không có sợ hãi, ta được tự do. Nếu đang trên máy bay mà phi công báo cho biết máy bay bị hư và có thể rơi xuống, tôi trở về với hơi thở chánh niệm. Tôi hy vọng bạn cũng thực tập hơi thở chánh niệm như tôi lúc đó. Đừng đợi tới lúc gặp nguy hiểm mới bắt đầu thực tập chuyển hóa lo sợ và sống chánh niệm. Không ai có thể cho ta sự không sợ hãi. Ngay khi có đức Bụt ngồi đó bên cạnh, ngài cũng không thể cho bạn sự không sợ hãi. Nếu bạn tập được thói quen chánh niệm thì khi gặp khó khăn, bạn sẽ biết là bạn phải làm gì.

Phật đản 2023

Ai bảo rằng Ưu Bát Đa La triệu năm mới nở một lần?

Nắng đã lên. Chim chóc đã bắt đầu ca hát. Nắng đang xuyên qua những chiếc lá non. Nắng và lá đẹp lạ lùng. Sáng nay, chúng ta có thể nở ra như một bông hoa. Bông hoa đó chính là đức Bụt sơ sinh. Và đức Bụt sơ sinh đang chờ ta trước ngõ. Ta đã ra tới sân, ta nhìn thấy nó, nó đã nở cho ta, tại sao ta không nở cho nó? Ta có thể mở trái tim ra, nhìn vào bông hoa, ta thở và thầm nói: Bông hoa ơi, cám ơn bông hoa có mặt ở đó, tôi rất hạnh phúc. Ngay lúc đó ta nở ra như một bông hoa và mang bông hoa đó hiến tặng cho những người mà ta thương yêu. Vì mỗi người đều có tính Bụt ở trong lòng. 

Vào ngày 11.05.2023, bốn chúng thuộc Đạo tràng Mai Thôn đã vân tập tại chùa Pháp Vân, xóm Thượng, Làng Mai, Pháp để cùng nhau thực hiện nghi thức tắm Bụt. Buổi lễ diễn ra thật trang nghiêm và ấm cúng. 

Dưới đây là một số hình ảnh, xin mời mọi người cùng nhau tận hưởng những giây phút bình an này.  

 

Gương mặt con trước khi mẹ sinh ra

Thầy Trời Ruộng Pháp, người Bồ Đào Nha, xuất gia năm 2019 trong gia đình Cây Bạch Quả. Dưới đây là bài viết của thầy được dịch từ tiếng Anh.

Ngày 30 tháng 7 năm 2022 là ngày mà bà ngoại con đã chọn để rũ bỏ tấm thân bụi trần.

Khoảng sáu tháng trước ngày ấy, con được tăng thân cho phép về lại Bồ Đào Nha để có mặt yểm trợ cho bà và gia đình. Bà của con bị đột quỵ đã một vài năm. Và dù đã phục hồi lại một phần nào, bà khó có thể tự chăm sóc mình như trước, nhất là khi bà bị mất trí nhớ. Căn bệnh này khiến cho bà không thể nào sống một mình mà không có người săn sóc.

Năm trước con đã có cơ hội về thăm bà vài tuần. Đó cũng là lần đầu tiên con về nhà với hình tướng của một người xuất sĩ. Bệnh mất trí của bà trở nặng và bà cũng không còn nhận được ra con. “Bà biết con là người nhà, nhưng bà chẳng biết tên con và cũng không biết con là ai”, bà nói. Ngày qua ngày, bà thường gọi con là “Chú tiểu” hoặc là “Cha xứ” mà không bao giờ nhắc đến con như cháu trai của bà. Dù cho nhiều lúc con cảm thấy buồn khi chứng kiến sự sa sút về sức khỏe thân tâm của bà. Bản năng cho con biết rằng tình thương chính là ngôn ngữ hiệu quả nhất mà con có thể truyền tải tới bà. Có thể bà cũng thấy quen thuộc với nguồn năng lượng thương yêu này vì chính bà là người trao truyền nó cho con và cho bất kỳ ai mà bà có cơ hội tiếp xúc. Một tình thương và lòng rộng lượng không ngằn mé.

Chỉ trong 5 tháng, tình hình sức khỏe của bà ngày càng xấu đi. Bà nằm liệt giường, gầy mòn và đau đớn. Khả năng nhận thức cũng thuyên giảm nhanh chóng. Ngay khi đặt chân về đến nhà, con đã cảm nhận ngay năng lượng trầm cảm và u buồn của cả nhà. Bầu không khí nặng nề và ảm đạm, đầy đau khổ và lo lắng. Đây cũng là lần đầu tiên mà mẹ con tắt hẳn nụ cười và thay vào đó là những dòng lệ khi thấy con trở về.

Nhờ được học về giáo lý duyên khởi “mọi thứ đều do nhân duyên mà phát sinh, không có gì có thể tự nó sinh ra và mất đi” đã giúp cho con dừng lại và quán chiếu sâu sắc hơn.

Con thở với ý thức là những gì con đang được chứng kiến có gốc rễ sâu dày và phức tạp hơn là những gì biểu hiện trước mắt con.

Biết rằng chỉ có thật sự tiếp xúc với giây phút hiện tại mới có thể giúp mình học hỏi và lớn lên, con xem khổ đau chính là cái mà con cần học và bà là người thầy dạy con về bài học này. Dù như thế nào, con hứa với lòng là sẽ duy trì ý thức về Năm điều tâm niệm:

  • Tôi thế nào cũng phải già nua, tôi không thể nào tránh thoát được sự già nua.
  • Tôi thế nào cũng phải bệnh, tôi không thể nào tránh thoát được cái bệnh.
  • Tôi thế nào cũng phải chết, tôi không thể nào tránh thoát được cái chết.
  • Tất cả những người tôi thương yêu và tất cả những gì tôi trân quý hôm nay, một mai này tôi đều phải xa lìa và buông bỏ; tôi không thể nào tránh thoát được giờ phút xa lìa và buông bỏ ấy.
  • Tôi là kẻ thừa tự những nghiệp quả do thân, miệng và ý của tôi tạo nên, và những nghiệp quả ấy là cái duy nhất tôi có thể mang theo với tôi sau này.

Sau tất cả, tuổi già, bệnh tật và cái chết sẽ trực tiếp mở ra trước mắt con. Làm sao mà con không giữ ý thức về nó cho được?

Ngày tháng dần trôi, con có mặt và chăm sóc cho bà một cách trọn vẹn. Mặc dù, hàng tuần đều có những nhân viên xã hội tới phụ giúp nhưng chúng con vẫn luôn túc trực và yểm trợ bà về mọi mặt.

Con nhận ra rằng con có liên hệ mật thiết và rất dễ bị tác động bởi môi trường mà con đang sống, những khổ đau của bà, của mẹ, của gia đình cũng như của xã hội. Những luồng tin tức không ngừng nghỉ trên báo đài, sự hối hả của dòng đời, và những cuộc trò chuyện vô nghĩa. Con mất dần khả năng kết nối với ước nguyện sâu sắc trong lòng mình, ước nguyện chữa lành những tổn thương do sang chấn tâm lý trong chính con cũng như trong cộng đồng.

May mắn thay, con luôn có cơ hội quay về với sự thực tập. Con thấy mình thật có phước khi được làm đệ tử của Thầy. Lời dạy của Thầy rất cụ thể và được truyền tải một cách giản dị. Con hiểu rằng sự đơn giản này đến từ sự thực chứng sâu sắc trong suốt cuộc đời thực tập của Thầy. Càng thực tập lâu bao nhiêu thì những lời Thầy dạy càng trở nên đơn giản và sâu sắc bấy nhiêu.

Con thấy biết ơn những thực tập căn bản hằng ngày. Nhờ sự thực tập mà con luôn tiếp xúc được với suối nguồn trị liệu. Con không phải làm gì hơn ngoài việc áp dụng sự thực tập vào đời sống, vào những công việc con làm hằng ngày. Ý thức về hơi thở, biết rằng mình đang bước đi là đủ. Chỉ đơn giản để ý về những gì xảy ra cho thân thể, cho cảm thọ, cảm xúc và tri giác, con có mặt, kết nối với bà và mẹ sâu sắc hơn. Ngay cả khi trong những giây phút rất thử thách, con thấy mình có nhiều chất liệu vững chãi và sáng suốt. Con thấy được rõ ràng hướng đi cũng như năng lượng vô úy trong mình.

Bệnh tật và chết chóc là những thứ không đẹp chút nào. Xã hội luôn cố gắng làm nó sạch sẽ và đẹp đẽ. Những xác chết được làm đẹp và chải chuốt sao cho giống với lúc họ còn sống. Chúng được khử trùng. Nhưng giờ đây trước mặt con, cơ thể bà chỉ còn lại da bọc xương, khô héo, chằng chịt những vết tích của một đời nghèo khó, cơ cực. Người ta sẽ làm đẹp cho bà như thế nào vào ngày bà quyết định ra đi?

Từ vùng đất Angola đến với đất nước Bồ Đào Nha, những kí ức của cuộc đời được bà lưu giữ trong xương thịt nhiều hơn là trí năng, cái mà giờ đây đang bị ảnh hưởng bởi chứng mất trí nhớ. Dù trong đau đớn và hoang mang, bà vẫn biểu hiện được tình thương vô bờ bến và sự rộng lượng. Đôi lúc, khi phải xoay người bà lại, bà có thể hét lên vì đau đớn và thậm chí tức giận với chúng con nhưng khoảnh khắc sau đó đã dành cho chúng con những cái ôm hôn đầy yêu thương. Con thấy mình cũng có tất cả những hạt giống đó: hạt giống của giận dữ, hoang mang, của tình thương sâu và tính bao dung, vị tha. Và con cũng biết rằng, bà sẽ trút hơi thở cuối cùng vào bất kì lúc nào.

Vào ngày 30 tháng 7 năm 2022, bà đã qua đời ở tuổi 92. Trước ngày được đưa đi cấp cứu trong tình trạng nhiễm trùng phổi nặng, bà đã ngừng ăn uống và hơi thở đã trở nên khó nhọc. Những dấu hiệu đó cho con biết trước rằng bà sẽ không trở về lại nhà trong hình hài này nữa.

Con cảm thấy rất may mắn khi được có cơ hội ở bên cạnh bà vào giờ phút cuối. “Bà ơi”, con gọi khi nhìn thân hình bé nhỏ, teo tóp của bà trên giường bệnh ở hành lang phòng cấp cứu. Trong tư thế nằm của bào thai, bà quay sang nhìn con với đôi mắt trong veo màu nâu sẫm, gần như đen. Giây phút đó bà hoàn toàn có mặt. Lần này, con thấy rằng bà thật sự nhận ra con. Con cảm nhận được sự kết nối sâu sắc qua ánh mắt chăm chú mà bà nhìn con. Cái nhìn của bà tự nhiên, thẳng thắn và tỉnh táo. Hai bà cháu duy trì sự truyền thông không lời này trong chốc lát. Giây phút ngắn ngủi đó bà đã có mặt trọn vẹn cho con.

Sau đó, bà hơi ngước mắt lên, mí mắt nhắm lại từ từ và rồi xoay mặt qua hướng khác, cố gắng thở một cách khó nhọc. Con dịu dàng ôm lấy bà. Nước mắt con lăn xuống mặt bà. Con thì thầm vào tai bà: “Không sao đâu bà, bà không cần cố gắng tranh đấu để sống nữa. Con thương bà lắm! Tất cả chúng con đều thương bà. Bà có thể buông sự đấu tranh đó xuống ngay bây giờ. Bà đã sống một cuộc đời rất dài và để lại một gia đình rất đẹp. Chúng con là sự tiếp nối của bà. Bà sẽ tiếp tục sống trong chúng con. Bà đã chiến đấu quá nhiều trong suốt cả cuộc đời mình. Không cần tranh đấu nữa. Bây giờ bà có thể nghỉ ngơi rồi”. Khi rời bệnh viện vào tối hôm đó, con biết rằng con sẽ không nhìn thấy sự sống hiển hiện trong hình hài của bà nữa.

Bà ơi, bà đang ở chốn nao?
Sao người ẩn mình sau gương mặt con?
Bà có nghe chú chim hồng tước
Đang véo von trên cành Pitanga.

Tang lễ diễn ra đơn giản và nhanh chóng. Gia đình con không muốn bất kì một nghi thức tôn giáo nào được thực hiện. Không có cha xứ hay biểu tượng tôn giáo nào trong tang lễ.

Từ lâu, gia đình con đã mất niềm tin vào Nhà thờ Công giáo. Con là người duy nhất đem khía cạnh tâm linh biểu hiện trong giây phút linh thiêng ấy của tang lễ. Con đắp y đứng yên lặng ở đó với nước mắt lưng tròng, nhẹ nhàng chú tâm vào hơi thở. Nhìn sâu vào thân thể cứng đơ, lạnh ngắt và không còn sức sống của bà, con thấy rằng bà không phải chỉ là hình hài đó.

Vào giờ phút cuối cùng của sự tiễn biệt, mẹ con đặt tay lên vầng trán lạnh giá của bà, trong khi những thành viên khác vây quanh quan tài thành một vòng tròn. Khoảnh khắc đó con ước rằng mọi người có thể thấy được điều con thấy: Bà vẫn tiếp tục có mặt trong mỗi tế bào cơ thể của con cháu. Sự tồn tại của bà không bị giới hạn bởi hình hài đang nằm kia. Nếu chúng con lấy yếu tố “bà” ra khỏi mình, chúng con sẽ tan biến ngay lập tức.

Trước sự ngạc nhiên của con, mọi người trong gia đình đề nghị con hiến tặng một điều gì đó cho bà, ngay trước thời điểm thi thể bà chuẩn bị được hỏa táng. Con mời mọi người có mặt trong giây phút mất mát cùng với nhau, chỉ đơn giản là theo dõi hơi thở và tiếp xúc với sự quý giá của cuộc sống. Con vừa thỉnh chuông vừa tụng kinh bằng tiếng Bồ Đào Nha. Gia đình con cảm thấy xúc động và biết ơn. Con cũng vậy. Và chiếc quan tài được châm lửa, dần biến mất khỏi tầm mắt. Chỉ còn lại tro tàn.

Chỉ khi con bừng tỉnh
Dù trong một sát na
Xúc chạm với sự sống
Sợ hãi liền tan biến
Mọi sầu khổ rụng rơi.

Mong ước sâu sắc nhất của con là những gì con đã trực tiếp kinh nghiệm trước sự ra đi của bà có thể giúp con thấm nhuần về vô thường và tương tức, để con hiến tặng được món quà vô úy cho người khác. Con đã bỏ lỡ cơ hội này khi cha con mất. Lúc đó, ở tuổi 18, con không thể có mặt cho nỗi đau khổ của con cũng như của những người xung quanh. Con không thể có mặt cho cha. Giờ đây con có cơ hội để chữa lành quá khứ trong giây phút hiện tại. Con có cơ hội chia sẻ về sự cao quý của khổ đau (khổ đế). Bởi vì nếu con biết sử dụng chất bùn của khổ đau thì biết bao loài hoa trong khu vườn tâm sẽ có khả năng nở rộ. Cuộc sống sẽ trở nên nhiều màu sắc, phong phú và quý giá hơn.

Sự sống vẫn tiếp diễn và con vẫn bắt gặp mình đang tìm kiếm dáng hình quen thuộc của bà. Con cố gắng tập cho mình nhìn thấy bà trong chiếc lá sồi đỏ, đang lén nhìn con và mỉm cười. Chiếc lá hỏi con rằng: “Cháu yêu, cháu có đang để ý không? Cháu có thấy được sự có mặt của bà nơi đây? Còn ở đằng kia nữa? Cháu không thấy bà đang nháy mắt với cháu qua tấm gương mà cháu soi mỗi sáng khi thức dậy sao? Cháu có cảm nhận được bà đang hiện diện trong lòng bàn chân mỗi khi cháu có mặt cho những bước chân của mình không? Chỉ cần để tâm hơn chút xíu nữa, cháu sẽ thấy rằng bà là đôi chân cháu và cũng là đất mà cháu đang giẫm lên”.

Con có thể thấy Người trong mắt con,
Và với mắt Người,
Con thấy con.

Thực tập

Chuông chánh niệm

Nhiều khi sử dụng máy vi tính, chúng ta mải say mê công việc, và quên trở về tiếp xúc với chính mình. Hoặc khi nói chuyện, chúng ta không chú tâm mà chỉ mải mê tán hươu tán vượn, chỉ trích này nọ, than vãn đủ điều, nói lời thiếu chánh niệm.

Chúng ta có thể cài đặt vào máy vi tính một ứng dụng để cứ 10–15 phút phát lên một tiếng chuông giúp ta có cơ hội tạm dừng và trở về với chính mình. Ba hơi thở khi đó là đủ để giải tỏa căng thẳng, và tiếp tục làm việc với nụ cười trên môi.

Uống trà trong chánh niệm

Uống trà là một cơ hội tuyệt vời để có thì giờ trở về truyền thông với chính mình. Khi tôi uống trà, tôi chỉ uống trà. Tôi không phải suy nghĩ gì. Tôi ngưng mọi suy nghĩ khi uống trà. Khi ngưng suy nghĩ tôi có thể để tâm vào chén trà. Chỉ có trà và chỉ có tôi. Tôi không cần một máy điện thoại để nói chuyện với trà. Quả vậy, vì tôi không phải sử dụng điện thoại cho nên tôi có thể tiếp xúc với trà. Chỉ cần thở vào một hơi thở và tôi ý thức hơi thở của tôi có đó, cơ thể tôi có đó và ý thức tách trà có đó.

Dành thì giờ để uống một tách trà là một điều tuyệt vời. Trong nhà thiền đạo Bụt chúng ta không sử dụng mệnh lệnh nghiêm khắc, chớp nhoáng nhưng câu “Uống trà đi!” là một mệnh lệnh của thiền gia, đưa ta trở về nhà. Đừng suy nghĩ gì nữa cả. Ngồi yên đó, thân và tâm hợp nhất. Về với bây giờ và ở đây. Bạn đang có thật. Bạn không phải là một bóng ma. Bạn có đó. Bạn biết rõ việc đang xảy ra. Việc đang xảy ra là bạn đang có một tách trà trong lòng bàn tay.

Lắng nghe em bé trong ta

Chúng ta ai cũng có một em bé bị thương tích cần được chăm sóc và thương yêu. Nhưng ta xa lánh em bé bị thương tích trong ta bởi vì ta không muốn đau khổ. Vậy thì đã lắng nghe những người khác với tâm thương yêu, ta còn phải lắng nghe em bé bị thương tích trong ta. Em bé cần sự chú ý của ta. Hãy tìm dịp mà trở về với em, ôm ấp em bé thương tích. Hãy nói với em những lời yêu thương: “Em thương, ta đã bỏ em một mình. Ta đã xa rời em lâu lắm. Ta xin lỗi. Bây giờ ta trở về để săn sóc, để trở về với em. Ta biết rằng em đã đau khổ biết chừng nào, nhưng mà ta đã bỏ quên em. Nhưng bây giờ, ta đã học cách chăm sóc em. Ta đã về đây với em!”. Nếu được thì bạn hãy khóc với em bé bị thương tích trong bạn. “Thở vào, tôi trở về với em bé bị thương tích trong tôi. Thở ra, tôi chăm sóc em bé bị thương tích trong tôi.” Khi đi dạo, bạn hãy nắm lấy tay em bé cùng đi. Hãy nói chuyện với em bé trong bạn nhiều lần trong ngày để có thể chữa trị em. Em bé trong bạn đã mang thương tích quá lâu, bạn phải bắt đầu thực tập chăm sóc em ngay bây giờ. Mỗi ngày hãy trở về với em bé trong bạn, lắng nghe em năm hay mười phút. Và nhờ đó mà em bé sẽ được chữa lành.

Em bé thương tích trong ta không phải chỉ là ta. Em bé ấy có thể mang trong mình nhiều thế hệ tổ tiên. Cha mẹ, ông bà ta đã từng đau khổ nhưng không biết chăm sóc em bé thương tích trong mình và đã trao truyền em bé thương tích ấy cho ta. Cho nên khi ta ôm ấp em bé thương tích trong ta là ta cũng ôm ấp tất cả các em bé thương tích của những thế hệ đã qua. Sự thực tập không chỉ đem lợi lạc đến cho ta mà còn giải phóng cho biết bao thế hệ tổ tiên và con cháu. Sự thực tập ấy sẽ chấm dứt vòng luân hồi.

Viết một bức thư tình

Nếu bạn gặp khó khăn với một ai trong đời thì bạn có thể ngồi yên một mình trong chốc lát và viết cho người ấy một bức thư với tất cả chân tình. Bạn có thể viết bức thư cho một người mà bạn gặp hằng ngày hay một người mà đã lâu lắm bạn không gặp, hay cả cho một người đã quá vãng. Không bao giờ là quá trễ để tạo lại bình an và chữa trị cho một mối quan hệ tình cảm. Ngay cả khi bạn không thể gặp lại người ấy, bạn cũng có thể tạo hòa giải bên trong mình và chữa trị mối thâm tình.

Hãy dành vài giờ để viết một bức thư với lời yêu thương. Trong khi viết thư, bạn sẽ cố gắng nhìn sâu vào tình trạng của mối quan hệ tình cảm của bạn. Vì sao bạn đã gặp khó khăn? Vì sao bạn không còn hạnh phúc?

Và đây là một bức thư tình để làm ví dụ:

“Người thương ơi!

Anh biết rằng em đã đau khổ nhiều năm qua nhưng anh không biết cách để giúp em. Trái lại, anh đã làm cho tình trạng thêm tồi tệ. Anh không cố ý làm cho em đau khổ. Có thể là vì anh thiếu khéo léo. Có thể là anh đã muốn áp đặt ý muốn của anh. Trong quá khứ, anh đã nghĩ rằng em làm cho anh khổ. Bây giờ thì anh biết anh là người có trách nhiệm gây nên khổ đau cho chính anh. Anh xin hứa sẽ không nói hay làm gì có thể làm cho em đau khổ. Em hãy nói cho anh nghe tất cả tâm tư của em. Anh cần em giúp đỡ. Anh không thể một mình mà có thể làm được những gì anh đã hứa với em.”

Bạn không thiệt thòi gì cả khi viết bức thư ấy. Bạn có thể quyết định là không gửi bức thư ấy đi. Nhưng bạn sẽ khám phá ra rằng khi viết thư xong, bạn sẽ không còn như bạn khi chưa viết thư. Bình an, hiểu biết, và thương yêu đã thay đổi bạn.

Hiệp ước sống chung an lạc và thiệp mời hòa giải

Hiệp ước sống chung an lạc và thiệp mời hòa giải là hai phương pháp giúp giải trừ hờn giận, xích mích. Hiệp ước sống chung an lạc cũng còn ngăn ngừa chúng ta nói ra những lời lẽ xúc phạm hay những hành động thiếu tế nhị. Khi ký vào một bản hiệp ước sống chung an lạc, ta tạo an lạc không chỉ cho người khác mà cho cả chính ta.

Bạn có thể sử dụng hiệp ước sống chung an lạc khi cảm thấy bị xúc phạm vì một lời nói hay một hành động của một ai. Bạn có thể in ra một tờ của bản hiệp ước và cất sẵn để khi cần dùng đến. Bạn có thể dùng bản hiệp ước ấy thay vì sử dụng Câu thần chú thứ tư (xem trang 90).

Nếu một ai có hành động làm cho ta đau khổ thì ta có thể nói với người ấy, “Anh đã làm cho tôi đau khổ. Tôi sẽ quán chiếu sâu sắc việc ấy và tôi cũng mong anh sẽ quán chiếu sâu sắc việc ấy. Hãy hẹn nhau gặp gỡ một ngày nào đó trong tuần tới để cùng nhau nhìn lại sự việc”. Một người tìm hiểu gốc rễ của khổ đau là tốt. Hai người tìm hiểu gốc rễ của khổ đau thì tốt hơn. Tốt nhất là hai người cùng nhau tìm hiểu khổ đau.

Chúng ta nên đợi vài ngày trước khi sử dụng hiệp ước hay thiệp mời. Bạn đang buồn giận, nếu bắt tay vào việc bàn cãi ngay bây giờ có thể là nguy hiểm vì bạn có thể nói những lời làm cho tình trạng trở nên tệ hơn. Bạn hẹn một tối nào đó. Từ đây đến đó, bạn có thì giờ để quán chiếu niềm đau nỗi khổ của mình. Trong khi ấy người kia cũng có thì giờ quán chiếu như bạn. Trước ngày hẹn có thể bạn hay người kia đã tìm ra nguyên nhân của vấn đề và có thể nói cho nhau biết và xin lỗi. Và tối hẹn đó bạn và người kia chỉ cần ngồi thưởng thức một chén trà với nhau.

Nếu đến tối hẹn gặp nhau mà đau khổ của bạnhay người kia vẫn chưa được giải tỏa thì một người sẽ nói ra hết nỗi khổ của mình và người kia chỉ ngồi chăm chú lắng nghe. Khi nói thì nên sử dụng ái ngữ để nói ra sự thật, những sự việc thực sự đã xảy ra. Hãy nói sao cho người kia có thể chấp nhận. Khi nghe phải lắng nghe sao cho người kia giải tỏa được khổ đau. Nếu bạn sắp xếp gặp nhau vào tối thứ sáu thì bạn và người kia sẽ có cả hai ngày cuối tuần để cùng vui sau khi hòa giải.

Hiệp ước sống chung an lạc

Để sống chung với nhau hạnh phúc lâu dài, để tiếp tục xây dựng tình thương và sự hiểu biết, chúng con, những người ký tên dưới đây, xin nguyện cam kết và thực tập đúng theo những điều khoản sau đây:

Người đang chịu đau khổ vì sự giận hờn:

  • Không nói hoặc làm bất cứ điều gì có thể tạo thêm đổ vỡ và làm cho cái giận của hai bên lớn thêm.
  • Không đè nén cái giận xuống, không đàn áp sự giận hờn của mình.
  • Nắm lấy hơi thở, thực tập hơi thở chánh niệm, quay về nương tựa hải đảo tự thân.
  • Cho người kia biết một cách bình tĩnh là mình đang giận và đang khổ, trong thời hạn tối đa là 24 tiếng đồng hồ.
  • Bình tĩnh xin hẹn gặp người kia vào tối thứ sáu để cùng nhìn lại vấn đề cho rõ.
  • Nếu chưa được bình tĩnh để có thể nói thẳng thì có thể điền vào mẫu giấy báo tin (gọi là giấy hẹn, mẫu đính kèm theo đây) và đưa cho người kia.
  • Đừng tự ái nói “Tôi đâu có giận – có sao đâu – tôi có khổ gì đâu – có gì đâu mà giận – không có gì đáng cho tôi giận”.
  • Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, lái xe hoặc làm việc, thực tập hơi thở chánh niệm và quán chiếu sâu sắc để thấy:
  • Đôi lúc tôi cũng thiếu chánh niệm, thiếu khéo léo.
  • Tôi đã làm cho người kia buồn khổ nhiều lần vì tập khí của tôi.
  • Hạt giống của sự giận hờn trong tôi là nguyên nhân chính làm tôi đau khổ.
  • Người kia chỉ là người tưới tẩm hạt giống giận hờn trong tôi.
  • Người kia cũng đang khổ cho nên mới làm như vậy.
  • Chừng nào người kia còn khổ, chừng ấy tôi vẫn chưa có được an toàn và hạnh phúc.
  • Nếu thấy được sự vụng về và thiếu chánh niệm của mình, hãy tìm cách xin lỗi người kia ngay, đừng đợi đến chiều thứ sáu.
  • Nếu tối thứ sáu mà còn chưa đủ bình tĩnh thì xin dời hẹn đến thứ sáu tuần sau.

Người có trách nhiệm về việc làm người kia giận

  • Thấy người kia giận, đừng chế nhạo. Phải tôn trọng cảm thọ của người ấy và để cho người ấy đủ thì giờ lấy lại sự an tịnh.
    • Đừng ép người kia phải giãi bày liền về cái giận của người ấy.
    • Nói với người kia là mình đã nghe hoặc đã biết rằng người kia giận, bằng lời nói hoặc bằng cách viết trên một mảnh giấy, và hứa với người kia rằng mình sẽ có mặt vào chiều thứ sáu.
    • Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, lái xe hoặc làm việc, thực tập hơi thở chánh niệm và quán chiếu sâu sắc để thấy:
  • Trong tôi cũng có những hạt giống của sự không dễ thương, của sự bực bội và hờn giận.
  • Tập khí trong tôi đã có nhiều phen gây ra đau khổ cho người kia.
  • Tôi tưởng làm cho người kia khổ thì tôi sẽ bớt khổ, và tôi đã lầm.
  • Làm cho người kia khổ, tôi cũng làm cho tôi khổ theo.
    • Nếu thấy được sự vụng về và thiếu chánh niệm của mình, hãy tìm cách xin lỗi ngay, đừng chờ tới ngày thứ sáu. Xin lỗi mà đừng tìm cách biện bạch.

Chúng con xin nguyện tuân theo và tinh chuyên thực tập theo những điều khoản của hiệp ước này.

Hiệp ước làm tại                                             

Ngày       tháng   năm    

Các đương sự:

Thiệp hòa giải

Ngày tháng ………………………..

Thân gửi: …………………………..

Sáng/ Chiều/ Ngày hôm nay, anh/ chị đã nói/ làm một lời/ việc làm cho tôi vô cùng tức giận. Tôi muốn anh/ chị biết cho tôi điều đó.

Anh/ Chị đã nói/ làm ……………………………………………

…………………………………………………………………………………

Chiều thứ sáu này, chúng ta nên gặp nhau để xét lại một cách bình tĩnh những gì anh/ chị đã nói/ làm.

Một người hiện đang đau khổ:

( tên) ……………………………………………………………………

Làm mới

Một phép thực tập rất có ích để giải tỏa khó khăn, buồn phiền giữa hai phía là Làm Mới. Làm Mới là cơ hội để nhìn sâu và thành thực – về những gì mình đã nghĩ, đã nói và đã làm – để bắt đầu một giai đoạn mới với chính mình hay với người khác mà ta đã gặp khó khăn.

Làm Mới cũng là cơ hội trau dồi ái ngữ và lắng nghe với tâm yêu thương bằng cách ghi nhận những gì tốt đẹp nơi người khác và tỏ lòng khâm phục. Ghi nhận những gì tích cực, tốt đẹp nơi ai khác cũng là cơ hội khám phá những gì tích cực, tốt đẹp nơi mình. Ngoài những yếu tố tích cực chúng ta cũng có những yếu tố tiêu cực, những yếu kém, ví dụ nói lời ác độc khi giận dữ hay có nhiều nhận thức sai lầm. Cũng như khi chăm sóc một khu vườn, chúng ta “tưới hoa”, những đóa hoa của từ bi, yêu thương, đồng thời cũng làm sạch những đám cỏ của hờn giận, ganh tị, hiểu lầm.

Chúng ta có thể thực tập làm mới mỗi ngày bằng cách bày tỏ khen ngợi những người thân thương và lập tức xin lỗi mỗi khi ta nói ra điều gì xúc phạm người khác. Chúng ta cũng có thể cho người khác biết, bằng những lời lẽ dịu dàng, khi ta bị người khác gây đau khổ.

Một buổi Làm Mới chính thức hơn có thể được tổ chức hằng tuần trong gia đình hay nơi sở làm. Làm Mới chính thức gồm có ba phần: tưới hoa, bày tỏ sự hối tiếc và nói lên những lý do gây nên buồn giận, khó khăn. Phép thực tập Làm Mới này có thể ngăn ngừa các cảm thọ buồn giận dồn chứa tuần này sang tuần khác và tạo nên môi trường an lành trong sở làm hay trong gia đình.

Tưới hoa là giai đoạn đầu của phép Làm Mới. Làm Mới tức là bày tỏ lòng cảm mộ đối với người trong sở làm hay trong gia đình. Mỗi người sẽ chờ cho tới lúc tâm tư sẵn sàng sẽ thay phiên bày tỏ tâm tình. Những người khác sẽ lắng nghe mà không phản ứng. Người nói có thể cầm trên tay một cành hoa hay bình hoa trước mặt tượng trưng cho phong thái tươi mát. Trong giai đoạn “tưới hoa”, người nói sẽ nhắc đến những đức tính tốt đẹp, hoàn thiện của những người hiện diện. Đây không phải là nói nịnh. Cần phải nói sự thật. Ai cũng có ưu điểm mà mọi người đều thừa nhận. Không ai có thể ngắt lời người đang nói. Ai cũng có đủ thì giờ để thổ lộ những điều mình muốn nói ra và tất cả đều thực tập lắng nghe sâu. Sau khi nói xong, người ấy sẽ kính cẩn trả lại bình hoa vào giữa.

Không nên coi thường giai đoạn đầu “tưới hoa” này. Khi mà ta đã thành thật ca tụng những ưu điểm của một ai thì ta khó mà giữ mãi buồn giận đối với người ấy. Tâm ta sẽ dịu lại, tầm mắt ta sẽ rộng rãi hơn, bao dung hơn.

Trong giai đoạn thứ hai của phép thực tập Làm Mới, ta sẽ nói ra những gì mà người kia đã làm ta buồn giận. Ái ngữ rất quan trọng trong giai đoạn này. Ta muốn cho không khí trong gia đình hay trong sở làm được an lành trở lại. Ta sẽ thẳng thắn trình bày nhưng ta không muốn gây đổ vỡ. Nói cho một số đông đang lắng nghe ta chăm chú thì lời nói của ta sẽ tươi mát hơn, xây dựng hơn. Ta sẽ không bao giờ trách móc hay tranh cãi.

Trong giai đoạn cuối của phép Làm Mới, điều quan trọng nhất là lắng nghe với tâm thương yêu. Chúng ta nghe một người khác đang nói về khổ đau và khó khăn của họ. Ta mong cho người ấy bớt được niềm đau nỗi khổ mà không có ý phán xét, tranh cãi. Chúng ta lắng nghe hết lòng. Ngay cả khi ta nghe một điều gì không đúng sự thật, chúng ta vẫn tiếp tục chăm chú lắng nghe để cho người kia nói hết khổ đau của mình để có thể giải tỏa căng thẳng, bức xúc trong lòng. Nếu chúng ta trả lời hay cải chính thì phép thực tập sẽ thất bại. Nếu muốn cho người ấy biết điều gì người ấy nói là không đúng sự thật thì nên đợi vài ngày rồi hãy nói và chỉ nói riêng với người ấy một cách bình tĩnh. Và có thể trong lần Làm Mới tiếp theo, người ấy có thể cải chính điều mình đã nói không đúng sự thật. Và ta chỉ cần lắng nghe. Để chấm dứt buổi thực tập Làm Mới, tất cả có thể cùng ngồi với nhau vài phút trong im lặng.

Chỉ cần ngồi lại với nhau để “tưới hoa” cũng đủ mang lại hạnh phúc và gia tăng cảm thông trong gia đình hay sở làm. Không cần theo cho đủ cả ba giai đoạn. Đặc biệt là khi mới bắt đầu thực tập Làm Mới, nên để dành nhiều thì giờ cho giai đoạn “tưới hoa”. Lâu lâu sau đó ta có thể thêm vào giai đoạn hai và giai đoạn ba, khi mọi người đều đã thêm tin tưởng. Và khi đó đừng bỏ qua giai đoạn thứ nhất. Bày tỏ lòng biết ơn là cách hay nhất để xây dựng mối quan hệ thân thương và bền vững.

Miếng bánh trong tủ lạnh

Ta có thể sử dụng một miếng bánh để làm đẹp mối liên hệ. Bạn không cần phải làm ra miếng bánh, không cần phải có sẵn một miếng bánh. Đây là một miếng bánh đặc biệt không bột, không đường. Một miếng bánh ăn hoài không hết. Ta gọi đó là “miếng bánh trong tủ lạnh”.

Thực tập này được sử dụng trước hết là cho các em bé gặp khi cha mẹ cãi nhau, nhưng người lớn cũng có thể dùng được. Khi mà không khí trở nên nặng nề, khó chịu và có một người hình như bị mất bình tĩnh thì bạn có thể sử dụng thực tập chiếc bánh này để tái lập bình an.

Trước hết, bạn hãy thở vào, thở ra ba hơi để lấy can đảm. Sau đó, quay lại với người hình như sắp nổi giận và làm như mình đang quên một vật gì. Khi người kia hỏi bạn đã quên gì thì bạn hãy nói: “Tôi nhớ ra là mình có một miếng bánh trong tủ lạnh”.

Nói câu “Có miếng bánh trong tủ lạnh” là hàm ý “Xin đừng làm cho nhau buồn phiền nữa”. Nghe câu nói, người kia có thể hiểu ý. Có thể là người kia sẽ nhìn bạn và trả lời, “Đúng rồi, để tôi đi lấy bánh”. Đây là một cách để thoát ra khỏi một tình huống nguy hiểm một cách tự nhiên. Người đang giận sẽ có cơ hội rút ra khỏi sự tranh chấp mà không gây thêm căng thẳng.

Người ấy sẽ đi tới tủ lạnh để lấy ra miếng bánh và pha trà trong khi theo dõi hơi thở. Nếu trong tủ lạnh thật sự không có bánh thì một trái cây hay món gì khác cũng được. Trong khi dọn bánh, pha trà, người ấy sẽ có dịp thở và mỉm cười, sẽ có cơ hội thư giãn thân tâm. Trong khi người ấy dọn bánh, pha trà thì bạn sẽ ngồi yên theo dõi hơi thở chánh niệm. Dần dần không khí sẽ lắng dịu. Sau khi dọn bánh và trà ra, tất cả mọi người sẽ cùng nhau chia sẻ bánh và trà trong một bầu không khí đầy hiểu biết, cảm thông. Nếu người kia ngần ngại, bạn có thể nhẹ nhàng mời ép, “Hãy đến cùng thưởng thức miếng bánh với tôi”.

Thiền ôm

Trong khi truyền thông, đôi khi không cần phải sử dụng lời nói. Khi ôm nhau, chúng ta gần lại với nhau, tim trong tim. Ôm trong chánh niệm và chú tâm có thể đem lại hòa giải, chữa trị, thông cảm và rất nhiều hạnh phúc.

Bạn có thể thực tập thiền ôm với bạn bè, với con cái, cha mẹ hay vợ chồng. Có thể thực tập ngay cả với một thân cây. Trước hết phải chắp tay vái nhẹ để ghi nhận sự có mặt của người mình sắp ôm. Nhắm mắt lại, thở vào một hơi thở sâu và quán tưởng bạn và người ấy ba trăm năm về sau. Thở ba hơi thở có ý thức để thực sự có mặt và nói thầm: “Thở vào, tôi biết sự sống vô cùng quý báu trong giây phút này. Thở ra, tôi trân quý giây phút này của sự sống”.

Mỉm cười với người trước mặt bạn, ngầm ngỏ ý bạn muốn ôm người ấy. Đây là một thực tập đầy nghi lễ, khi thân và tâm bạn hợp nhất, bạn sẽ hoàn toàn có mặt, đầy sự sống. Đây thực sự là một nghi lễ.

Khi tôi uống một tách trà, tôi để hết một trăm phần trăm vào việc uống trà. Hãy nên thực tập như thế khi bạn làm bất cứ gì việc trong ngày. Thiền ôm là một thực tập rất sâu sắc.

Muốn thực tập cho đúng thì phải hoàn toàn có mặt. Rồi bạn dang hai tay bắt đầu ôm và cùng với người kia thở ba hơi thở vào ra. Với hơi thở thứ nhất, bạn ý thức bạn đang thực sự có mặt và bạn rất hạnh phúc. Với hơi thở thứ hai, bạn ý thức người mà bạn đang ôm cũng đang thực sự có mặt và cũng rất hạnh phúc. Với hơi thở thứ ba, bạn ý thức cùng với người kia có mặt bên nhau và cảm thấy vô cùng biết ơn. Sau đó, bạn và người kia cùng buông tay chắp tay xá nhau. Bạn cũng có thể thực tập theo cách sau đây: Với hơi thở thứ nhất, bạn ý thức bạn với người kia cùng có mặt và còn sống bên nhau. Với hơi thở thứ hai, hãy tưởng tượng bạn và người kia trong một trăm năm nữa và với hơi thở thứ ba, hãy ý thức bạn và người kia vẫn đang còn sống với nhau. Thực tập sâu sắc có thể giúp hòa giải khó khăn. Trong khi ôm một người trong im lặng, bạn đã gửi đi một thông điệp rõ ràng, “Người thương ơi. Người vô cùng đáng quý cho tôi. Tôi xin lỗi vì đã không có chánh niệm, không đủ tế nhị và đã có lỗi. Hãy cho tôi cơ hội để làm mới”. Với thông điệp đó, sự sống sẽ tỏa rạng hiện tiền. Các kiến trúc sư nên thiết kế để cho các trạm hàng không, các trạm xe, tàu có chỗ đủ để cho hành khách thực tập thiền ôm. Thực tập càng sâu sắc, hạnh phúc càng tỏa sáng.

Truyền thông là tiếp nối

Mỗi cá nhân, mỗi sinh vật luôn luôn sử dụng truyền thông. Chúng ta thường cho rằng truyền thông là những gì chúng ta viết hay chúng ta nói. Tuy nhiên dáng dấp của chúng ta, sắc diện của chúng ta, giọng nói, cử chỉ của chúng ta và ngay cả ý nghĩ của chúng ta, tất cả đều là những phương tiện truyền thông. Cũng như một cây cam cống hiến hoa, lá và trái cam tươi tốt, mỗi cá nhân trong cộng đồng cống hiến lời hay, cử chỉ đẹp. Một sự truyền thông không thể nào không có ảnh hưởng. Mỗi khi truyền thông là ta đóng góp hoặc yêu thương hòa hợp hoặc khổ đau đổ vỡ.

Truyền thông là đóng góp vào thế giới bên ngoài. Truyền thông cũng là những gì còn tồn tại trong thế giới bên ngoài sau đó. Cho nên truyền thông của ta là nghiệp lực của chính ta. Thuật ngữ karma, tiếng Sankrit, có nghĩa là “hành động”. Hành động ở đây không những ám chỉ hành động của cơ thể mà còn ám chỉ cả ngôn ngữ, ý nghĩ và dự tính khi hành động.

Hàng ngày ta đóng góp năng lượng của suy nghĩ, nói năng, hành động (Thân – Khẩu – Ý). Mỗi phút mỗi giây ta đều truyền thông với ta hay với người khác. Những gì ta suy nghĩ, nói năng, hành động là biểu hiện của ta. Ta chính là hành động của ta. Khi hành động, ta không chỉ hành động bằng cơ thể mà cả bằng ngôn ngữ và ý tưởng. Nghiệp (Karma) là tác động của cả ba: Thân, Khẩu và Ý.

Ý nghĩ tự nó là hành động. Mặc dù ta không thể “thấy” sự biểu hiện của ý nghĩ, ý nghĩ đã có đó như một năng lượng. Ý nghĩ có thể thôi thúc chúng ta tạo nên đổ vỡ hay đem lại yêu thương. Bất cứ ý nghĩ nào cũng đưa đến kết quả, hoặc tức thời hoặc mai sau. Khi chúng ta có một ý nghĩ thù hận, buồn giận hay tuyệt vọng, ý nghĩ ấy là một chất độc tàn hoại thân tâm ta, là nguồn gốc của mọi xung đột, tác hại. Nếu chúng ta có một hành vi bạo động, đó là vì chúng ta đã có ý nghĩ hận thù, giận ghét và có ý muốn trừng phạt. Cho nên chính ý nghĩ tự nó đã là hành động. Không cần phải nói gì hay làm gì mới gọi là hành động. Suy nghĩ một điều gì chính là hành động.

Khi ta phát khởi một ý nghĩ đầy hiểu biết, yêu thương, bao dung thì ý nghĩ ấy tức khắc có ảnh hưởng chữa trị đối với thân tâm ta và những người chung quanh ta. Nếu chúng ta khởi lên một ý nghĩ đầy phán xét, giận dữ thì ý nghĩ ấy tức khắc sẽ đầu độc thân tâm ta và những người chung quanh ta. Suy nghĩ là hành động hàng đầu bởi vì suy nghĩ là nền tảng tác dụng lên trên thế giới. Những lời ta nói cũng có ảnh hưởng vô cùng to lớn. Nếu chúng ta có thể nói và viết với thương yêu và hiểu biết thì thân tâm ta sẽ vô cùng nhẹ nhàng thanh thản. Ta không nói những lời yêu thương, hiểu biết chỉ để cho người nghe ta nói cảm thấy thoải mái, vừa lòng. Lời nói yêu thương của ta cũng có tác dụng chữa trị cho chính ta. Khi mà ta có thể nói được một lời nói dễ thương, tha thứ, thương yêu, ta sẽ cảm thấy an vui thanh thoát hơn.

Khi ta viết ra những lời yêu thương, tha thứ, ta sẽ cảm thấy an vui mặc dù người kia chưa đọc những gì ta viết. Ngay khi chưa gửi thư hay email hay đánh tin nhắn ta đã cảm thấy vui vẻ trong lòng. Và người kia khi đọc những dòng thư của ta cũng sẽ cảm nhận tình thương yêu của ta. Trái lại, nếu ta nói lên những lời giận dữ, bạo động, nếu ta nói với dụng ý trừng phạt thì ta và người nghe, cả hai đều cùng chịu đau khổ. Hãy tưởng tượng một em bé đang chứng kiến cha mẹ cãi nhau. Mặc dù lời lẽ của hai người không nhắm vào đứa bé, em bé vẫn chịu ảnh hưởng của những lời lẽ sân hận đó. Lời nói là một hành động thuộc hình thức thứ hai, có thể chữa trị và khai phóng hay tàn hại, gây đau khổ.

Hình thức hành động thứ ba là hành động của thân. Đây gọi là truyền thông bằng “ngôn ngữ của cơ thể” (body language) ví dụ như nắm chặt bàn tay lại khi giận hay dang hai tay ra khi đón mừng hoặc là những quyết định tham dự vào một sự cố hay hoạt động trong ngày, hay cách tiếp đãi một người nào. Nếu chúng ta có một hành động cứu vớt, che chở, an ủi, hỗ trợ hay chăm sóc, chúng ta sẽ tạo nên ảnh hưởng tích cực tức thì.

Truyền thông mang dấu ấn của ta

Tất cả những gì ta nói hay ta làm đều mang dấu ấn của riêng ta. Ta không thể nói: “Đấy không phải là ý nghĩ của tôi”. Ta chịu trách nhiệm về những gì ta truyền thông. Cho nên nếu ngày hôm qua ta nói ra một điều gì không hay, không phải thì hôm nay ta phải tìm cách sửa đổi. Triết gia người Pháp Jean Paul Sartre có nói: “Con người là tổng thể các hành động của mình”. Giá trị của cuộc đời ta tùy thuộc vào giá trị của những gì chúng ta suy nghĩ, nói năng, và hành động. Chúng ta muốn cống hiến những lời lẽ, những ý nghĩ, những hành động tốt đẹp nhất bởi vì chúng là những tiếp nối của chính chúng ta. Khi chúng ta suy nghĩ, khi chúng ta nói năng hay hành động, chúng ta sáng tạo và chúng ta có mặt đó với những sáng tạo của chúng ta. Đó là thành quả của cuộc sống chúng ta. Những truyền thông của chúng ta sẽ không mất đi khi thân thể ta tàn hoại, không còn trên cõi đời này. Ảnh hưởng của những gì ta nghĩ, ta nói, hay ta làm, sẽ tiếp tục tỏa rộng ra khắp vũ trụ. Dù cho thân xác ta còn đây hay đã tan rã, những hành động của ta vẫn tiếp tục.

Khi chúng ta phát khởi một ý nghĩ, ý nghĩ ấy mang dấu ấn của chúng ta, và chúng ta chịu trách nhiệm. Nếu ý nghĩ của chúng ta thấm nhuần thương yêu, tha thứ, không kỳ thị thì cuộc sống của chúng ta sẽ tiếp nối đẹp đẽ, tốt lành bởi vì chúng ta gắn liền với những ý nghĩ, lời nói, hành động ấy. Ta là tác giả của các hành động của ta. Những lời lẽ hay hành động của ta dù là lời lẽ hành động của thương yêu hay của tàn bạo thì cũng mang dấu ấn của chính ta.

Chúng ta là những đám mây đem đến cơn mưa. Đám mây, dưới dạng những hạt mưa, tiếp tục nuôi dưỡng đồng lúa, cây cỏ, sông ngòi, mặc dù đám mây không còn lơ lửng trên bầu trời. Cũng thế, tất cả những ý nghĩ, lời nói, và việc làm của ta sẽ mãi tiếp tục mặc dù thân xác ta đã tan rã. Đám mây vẫn còn đó nơi đồng ruộng, trong dòng sông. Khi thân xác này không còn nữa, những lời ta nói, những ý nghĩ, hành động của ta vẫn còn mang ảnh hưởng. Thân – Khẩu – Ý là tiếp nối đích thực của ta.

Ta có thể tiếp tục sống đẹp mãi mãi trong tương lai. Hãy tưởng tượng một tài khoản ngân hàng đâu đó mà ta có thể gửi vào mỗi một lời nói, ý nghĩ và hành động. Tài khoản ngân hàng đó chắc chắn là có đó nhưng bản chất không bị hạn chế tại một địa phương (“its nature is nonlocal”). Không có gì mất đi cả.

Thay đổi quá khứ

Giả sử trong quá khứ, bạn đã nói một câu không dễ thương với bà nội. Bà nội nay không còn nữa và bây giờ bạn không thể xin lỗi bà nội. Nhiều người trong chúng ta mang trong lòng mặc cảm tội lỗi vì đã nói hay làm một điều gì mà bây giờ ta nghĩ rằng ta không thể sửa đổi. Nhưng ta có thể xóa bỏ những hành động thiếu khôn ngoan của quá khứ. Quá khứ không phải là đã hoàn toàn qua đi. Nếu biết rằng sự truyền thông vẫn mãi tiếp tục thì quá khứ vẫn còn đó, trong hiện tại, dưới một hình trạng khác. Dù sao đi nữa thì đau khổ vẫn còn đó, day dứt.

Điều mà bạn có thể làm bây giờ là ngồi xuống, theo dõi hơi thở sâu, vào ra, và nhận ra rằng bà nội của bạn có mặt trong mỗi tế bào của cơ thể. “Nội ơi! Con biết rằng nội đang có mặt nơi từng tế bào trong cơ thể con. Con là tiếp nối của nội. Con rất hối hận vì đã làm cho nội buồn mà con cũng đau khổ. Nội ơi! Nội nghe con. Kể từ nay con sẽ không nói những lời như thế. Xin nội giúp con thực tập.” Khi bạn nói với bà nội mình như thế, bạn có thể thấy bà nội đang mỉm cười với bạn và bạn sẽ không còn đau khổ vì chuyện của quá khứ.

Truyền thông không phải là bất động. Nếu ngày hôm qua bạn đã có một ý nghĩ đầy sân hận, thù ghét thì hôm nay bạn có thể phát khởi một ý nghĩ ngược lại, một ý nghĩ đầy thương yêu, tha thứ. Ngay khi bạn khởi lên một ý nghĩ mới thì ý nghĩ ấy sẽ tức khắc đuổi kịp và hóa giải ý nghĩ của ngày hôm qua. Sử dụng truyền thông lành mạnh, đúng chánh pháp trong hiện tại sẽ giúp ta chữa lành quá khứ, vui với hiện tại và chuẩn bị tốt đẹp cho tương lai.

Truyền thông tại sở làm

Muốn cho truyền thông tại sở làm được thành công thì phải bắt đầu ngay trước khi đến sở, trước khi bắt tay vào việc. Trên đường đi đến sở, hoặc lái xe, hoặc đi xe buýt hay đi bộ, ta thường lo nghĩ tới những việc cần phải làm hay những việc dở dang.

Trái lại, nếu ta tỉnh thức theo dõi hơi thở, ý thức hiện hữu chung quanh, ta có thể tạo nên nhiều niềm vui trên đường đến sở làm. Khi đi đến thiền đường để bắt đầu một ngày giảng dạy, tôi không để mất thì giờ lo lắng về những thắc mắc, câu hỏi của các thiền sinh cũng như những câu trả lời của tôi. Thay vào đó, tôi đi từ cốc tôi ở đến thiền đường, thưởng thức từng bước chân, hơi thở trong mỗi giây phút. Nhờ đó mà khi đến thiền đường, tôi cảm thấy thư thái nhẹ nhàng, sẵn sàng cho bài pháp thoại hay giải đáp thắc mắc của các thiền sinh với tất cả khả năng của mình.

Nếu bạn thực tập chánh niệm ở nhà trước khi đi làm, hoặc trên đường tới sở thì bạn sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi tới sở và sự truyền thông có thể thành công dễ dàng.

Những suy tư về công việc, về những vấn đề liên quan tới việc làm sẽ ảnh hưởng tới sự truyền thông trong sở làm. Chúng ta có thể nghĩ rằng mục đích của công việc chỉ là để phục vụ cho một ai đó hay chế tạo nên một vật dụng gì đó. Nhưng khi làm việc chúng ta sử dụng cả ý nghĩ, lời nói và hành động. Truyền thông là sản phẩm của công việc ta làm, nó không khác gì sản phẩm do ta chế tạo. Nếu truyền thông tốt đẹp thì không những ta sẽ vui thích hơn khi làm mà còn tạo được môi trường hòa điệu, thuận lợi có ảnh hưởng đến công việc. Ta làm việc với tâm thương yêu hơn và giúp ích được cho nhiều người hơn.

Nêu gương khi lãnh đạo

Mấy năm trước đây, khi tôi tới Ấn Độ, tôi có gặp ông K. R. Narayanan khi ông còn là Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ. Chúng tôi bàn việc sử dụng thực tập lắng nghe và ái ngữ tại các cuộc bàn thảo trong Quốc hội. Tôi nói rằng mọi môi trường làm việc, kể cả môi trường chính trị, đều có thể trở thành một môi trường xây dựng trên hiểu biết và yêu thương. Xây dựng được một môi trường lành mạnh và nuôi dưỡng cho một tập thể làm việc là tạo nên một môi trường khuôn mẫu xây dựng cho thế giới.

Sử dụng chánh niệm và ái ngữ trong môi trường làm việc là cống hiến tinh hoa của chúng ta. Phối hợp với tuệ giác và kinh nghiệm, chúng ta có thể đi đến những quyết định sáng suốt nhất. Nếu không có khả năng lắng nghe đồng nghiệp bằng tấm lòng rộng mở mà chỉ chấp nhận và hỗ trợ những ý kiến quen thuộc mà ta đồng ý thì ta sẽ gây hại cho môi trường làm việc. Dù ở vào địa vị nào trong khi làm việc, ta cũng có thể nêu gương bằng cách học hạnh lắng nghe tất cả mọi người bằng chú ý và ưu tư một cách bình đẳng.

Nhiều môi trường làm việc thường tạo ra lắm bức xúc. Chúng ta phải tổ chức thế nào để có cơ hội thực tập hơi thở chánh niệm. Hơi thở chánh niệm là bước khởi đầu của truyền thông trong chánh niệm bởi vì hơi thở chánh niệm giúp cho thân và tâm thư giãn. Phải thư giãn để được thoải mái và có những quyết định sáng suốt. Khi chúng ta tạo được một môi trường thư giãn, thoải mái nơi sở làm là chúng ta đã bắt đầu truyền thông có hiệu lực.

Ông Narayanan và tôi đã thảo luận về phương thức đưa thực tập chánh niệm vào trong Quốc hội Ấn để giảm thiểu bức xúc. Nếu Quốc hội Ấn đã làm được như vậy thì ta cũng có thể làm được trong sở làm của ta. Bạn có thể tổ chức để các đồng nghiệp cùng thực tập hơi thở chánh niệm trước các buổi họp để cho sự truyền thông trong khi họp có hiệu quả hơn và ít bức xúc hơn hay không? Cho dù bạn không thể tổ chức để đồng nghiệp cùng thực tập nhưng chỉ với hơi thở của chính bạn cũng đủ để cải thiện sự truyền thông khi làm việc. Đôi khi sự truyền thông trong sở làm có thể là rất mực khó khăn, nhưng chỉ một hơi thở chánh niệm cũng đã làm cho tình hình khả quan hơn rồi.

Chào hỏi đồng nghiệp

Khi đến sở làm, việc đầu tiên của bạn là làm gì? Bạn có mỉm cười với các đồng nghiệp không? Bạn có chào hỏi đồng nghiệp không? Những giây phút đầu khi đến sở làm rất quan trọng cho không khí làm việc suốt cả ngày. Có thể là bạn đang lo lắng nhiều chuyện, có thể là bạn đang bận tâm vì một sự tranh cãi, một tình huống khó xử nào đó trước khi bạn đến sở làm. Nhưng nếu bạn bắt đầu ngày làm việc bằng vài phút để thở hơi thở chánh niệm, trở về với giây phút hiện tại thì tâm trí bạn sẽ sáng suốt hơn và bạn có thể chào hỏi đồng nghiệp một cách thân mật và với nụ cười cởi mở. Đây là một phần nhiệm vụ của bạn, không cứ là bạn hành nghề gì.

Trả lời điện thoại

Trong sở làm, ta không chỉ trò chuyện với đồng nghiệp mà còn sử dụng email, điện thoại, hội thảo trên màn hình (video conference). Nhiều người đã làm việc với các đồng nghiệp không có mặt trong sở làm, có khi ở tiểu bang khác hay xứ khác. Mặc dù vậy, ta cũng có thể biến các cuộc nói chuyện trên điện thoại hay email thành một cơ hội để thực tập truyền thông với tâm yêu thương. Mỗi khi điện thoại reo, chúng ta coi đó như là một tiếng chuông chánh niệm và ngưng lại việc đang làm. Thay vì hấp tấp trả lời ngay bạn theo dõi ba hơi thở vào, ra để thực sự có mặt khi trả lời điện thoại. Ghi nhận cảm xúc bức xúc hay bực mình hay gì khác khi bị ngưng công việc để trả lời điện thoại. Bạn có thể nhấc điện thoại lên trong khi thở để cho các đồng nghiệp biết rằng bạn sắp sửa trả lời. Tuy nhiên, bạn không vội vã. Làm như thế là để các đồng nghiệp không cảm thấy là bị tiếng điện thoại quấy rầy.

Bạn cũng có thể áp dụng phương pháp ấy khi đọc email. Chúng ta thường có thói quen đọc hết email này sang email khác mà không thở hơi thở chánh niệm và tỉnh thức để đọc email. Có thể rằng nếu chúng ta thở vào ra trong chánh niệm và dừng lại trong tỉnh thức như thế trước khi mở và đọc email có mất chút ít thì giờ và làm cho công việc của ta chậm lại đôi chút nhưng sự truyền thông, qua nội dung email sẽ có hiệu quả hơn, sáng suốt hơn và có nhiều hiểu biết hơn.

Trước khi gửi đi email hay gọi điện thoại cho ai, bạn có thể đọc thầm câu kệ sau đây:

Tiếng đi ngoài ngàn dặm

Xây dựng lòng yêu thương

Mỗi lời là châu ngọc

Mỗi lời là gấm thêu.

Hội thảo trong chánh niệm

Trong các buổi họp bàn, sự truyền thông có thể gây nên căng thẳng, gây bức xúc và xung đột. Nhiều khi chúng ta rời phòng họp này để tới phòng họp khác mà trong lòng đầy lo âu và phân tâm.

Tốt nhất là trước khi họp, hãy cùng ngồi với nhau vài phút trong tĩnh lặng. Nếu mọi người đều đồng ý thì chúng ta có thể sử dụng chuông trong khi họp. Tiếng chuông sẽ nhắc mọi người trở về với hơi thở và tìm lại bình tĩnh. Nếu không ai muốn ngồi với nhau trong tĩnh lặng vài phút trước khi họp thì bạn vẫn có thể một mình tới phòng họp sớm hơn vài phút để thư giãn thân tâm và thở hơi thở chánh niệm. Có thể những người khác sẽ theo gương và đến cùng ngồi. Bạn không cần nói gì hay chứng tỏ cho người khác biết chủ ý của mình. Chỉ ngồi yên, thở như thế và cảm nhận ích lợi của phép thực tập.

Để góp phần vào việc tạo dựng không khí của buổi họp cũng nên có vài lời nhắc nhở các thành viên trong buổi họp là nên tôn trọng ý kiến và lời phát biểu của người khác khi họp. Nếu ta chỉ muốn áp đặt ý muốn của mình lên người khác thì ta sẽ tạo căng thẳng và đau khổ trong sở làm. Vậy thì trong các buổi họp, ta nên mở rộng lòng và lắng nghe trải nghiệm cũng như tuệ giác của những người khác.

Nếu bạn có một ý kiến tuyệt vời và muốn chia sẻ ngay thì cũng không nên gạt bỏ ý kiến của người khác. Hãy mời mọi người trình bày ý kiến của mình. Hãy tin tưởng rằng ý kiến tốt đẹp nhất sẽ phát xuất từ tuệ giác của tập thể.

Khi họp nên sử dụng lắng nghe và ái ngữ. Theo dõi hơi thở khi nghe. Mỗi người thay nhau nói và không nên ngắt lời người khác. Tránh tranh cãi. Phát biểu trải nghiệm của mình cho toàn thể nghe. Nếu có một câu hỏi hay một ưu tư thì trình bày ra với toàn thể. Có thể đây là một điều khó vì phương thức họp bàn mới mẻ này khác với lề lối họp bàn của quá khứ. Ta không cần thay đổi phương thức một cách đột ngột. Nếu tất cả mọi người đều cùng lắng nghe nhau mà không ngắt lời người khác thì rất tốt. Nhưng nếu chỉ có một mình bạn theo phương thức ấy và quyết tâm nói năng, lắng nghe với tâm yêu thương thì cũng đủ để tạo hậu quả tích cực.

Thiết lập cộng đồng trong sở làm

Nếu bạn nêu gương thực tập truyền thông trong thương yêu thì sẽ có nhiều đồng nghiệp theo bạn cùng thực tập, cùng với bạn thiền hành, thiền tọa và thở chánh niệm. Nếu chung quanh mọi người đều thực tập chánh niệm thì ai cũng sẽ được năng lượng chánh niệm tập thể hỗ trợ và lắng nghe, ái ngữ sẽ trở nên càng dễ dàng.

Càng thực tập chánh niệm, bạn càng tìm ra những phương cách để cải tiến môi trường trong sở làm. Mỗi khi ta sử dụng ái ngữ và lắng nghe sâu thì mọi hành động của ta sẽ là tiếng chuông chánh niệm cho tất cả mọi người. Khi ta đi từng bước chậm rãi thảnh thơi là ta đang khuyến khích những người khác cũng đi như ta mặc dù họ không biết rằng ta đang thực tập chánh niệm. Khi ta mỉm cười thì nụ cười của ta sẽ hỗ trợ ta và nhắc nhở mọi người chung quanh. Khi ta thực tập thì sự hiện diện của ta sẽ có ảnh hưởng tích cực cho ta và cho những người chung quanh.

Tảng đá dưới sông

Tất cả chúng ta đôi khi có thể gặp khó khăn trong sở làm. Ai cũng có niềm đau, buồn bực, sợ hãi. Nhiều khi trong sở làm chúng ta không có thì giờ và không gian để nhận diện và ôm ấp những cảm xúc mạnh khiến cho bức xúc trỗi dậy bất ngờ và gây khó khăn cho việc truyền thông.

Nhưng không ai trong chúng ta phải chịu đau khổ, buồn tủi một mình. Khi liệng một viên đá xuống sông, dù cho viên đá nhỏ bao nhiêu đi nữa, viên đá cũng sẽ chìm. Nhưng nếu ta có một chiếc thuyền thì ta có thể chở cả tấn đá. Đau khổ của chúng ta cũng vậy. Chiếc thuyền chánh niệm có thể chuyên chở đau khổ, buồn tủi, sợ hãi để ta có thì giờ, không gian ghi nhận và ôm ấp khổ đau mà không bị chìm vào biển cả của giận hờn, lo âu, buồn tủi. Ta sẽ được nhẹ nhàng hơn.

Ta có thể thực tập chánh niệm một mình. Nhưng nếu ta đưa thực tập chánh niệm vào sở làm và được các đồng nghiệp cùng thực tập, hỗ trợ thì sự thực tập của ta sẽ dễ dàng và vui thích hơn. Đừng mong rằng sẽ có sự thay đổi nhanh chóng. Nếu ta thực tập tinh tấn, thiết lập truyền thông với tâm thương yêu thì ta đã đi đúng hướng và như thế cũng là đủ rồi.

Truyền thông khi gặp khó khăn

Nhiều người trong chúng ta đau khổ vì gặp khó khăn khi truyền thông với những người chung quanh. Lấy ví dụ ở sở làm, mặc dù nhiều khi cố gắng đủ điều, chúng ta cũng không thể thiết lập mối quan hệ tốt với đồng nghiệp. Điều này cũng đúng cho một gia đình. Chúng ta có cảm tưởng là cha, mẹ, anh, chị, em ta mỗi người ở một thế giới riêng, khó mà có thể truyền thông.

Tuy nhiên, có nhiều cách để tạo hòa thuận và tạo cơ hội cho truyền thông đầy thương yêu.

Truyền thông khi đang giận

Một lý do khiến cho chúng ta gặp khó khăn khi truyền thông với người khác là truyền thông khi đang giận. Chúng ta đau khổ và không muốn đau khổ một mình. Chúng ta nghĩ rằng ta giận là vì người kia. Ta muốn người ấy biết là ta đang giận. Cơn giận có tính cách cấp bách. Ta muốn cho người kia biết ngay là ta có vấn đề với người ấy.

Nhưng khi giận thì ta không còn sáng suốt. Hành động khi đang giận sẽ đưa đến rất nhiều đau khổ và làm cho tình trạng thêm rắc rối. Điều đó không có nghĩa là ta phải đè nén cơn giận. Không nên cho rằng mọi chuyện đều êm xuôi trong khi sự thật không như mình tưởng. Chúng ta có thể cảm nhận và ứng xử cảm xúc giận một cách lành mạnh và đầy yêu thương. Khi đang giận ta phải chăm sóc cơn giận thật nhẹ nhàng vì cơn giận chính là ta lúc đó. Không nên ứng xử bằng bạo động. Bạo động khi đang giận là bạo động chính chúng ta.

Hơi thở chánh niệm giúp ta ghi nhận cơn giận và xử lý cơn giận một cách êm nhẹ. Năng lượng chánh niệm sẽ ôm ấp cơn giận, một năng lượng hung dữ mà ta phải ôm ấp trong một thời gian khá lâu. Khi nấu khoai, chúng ta phải đun bếp ít nhất là 15, 20 phút. Thực tập ôm ấp cơn giận cũng như thế. Cơn giận cần thời gian để “chín”.

Sau khi ngồi thở với ý thức chánh niệm và làm cho cơn giận lắng dịu, ta sẽ có cơ hội nhìn sâu vào cơn giận và tìm hiểu nguyên nhân của cơn giận. Gốc rễ của cơn giận là ở đâu? Cơn giận có thể là do nhận thức sai lầm hay là thói quen phản ứng trước những sự việc không xứng ý. Thông thường để chữa trị cơn giận, chúng ta được khuyên là nên bộc lộ cơn giận, “đem ra khỏi con người” của chúng ta, bằng cách đến một nơi vắng để la hét hay đấm đá vào một vật vô tri, ví dụ như một cái gối.

Tôi không cho rằng phương pháp ấy sẽ đem lại hiệu quả để chữa trị gốc rễ của cơn giận. Lấy ví dụ một lò đốt củi. Nếu lò hư bốc khói, ta mở cửa để cho khói bay ra nhưng lò vẫn còn hư và sẽ tiếp tục bốc khói. Phải sửa chữa cái lò trước đã. La hét hay đấm gối chỉ là lặp lại, là thao dượt và nuôi dưỡng cơn giận, làm cho cơn giận lớn mạnh thêm mà không thể “lấy nó ra khỏi con người” của bạn.

Bạn phải thực lòng tiếp cận với cơn giận để có thể chữa trị cơn giận. Khi đấm vào gối, bạn không thể thực sự tiếp cận với cơn giận để giúp cho bạn hiểu rõ cơn giận của bạn. Bạn cũng không thực sự tiếp cận với cái gối, bởi vì nếu bạn thực sự tiếp cận với cái gối thì bạn sẽ biết rằng đó chỉ là một cái gối!

Đè nén cơn giận có thể là nguy hiểm. Nếu không chăm sóc thì cơn giận sẽ bùng nổ. Cơn giận, cũng như một cảm xúc mạnh, luôn có xu hướng bộc lộ ra ngoài. Vậy thì phải xử lý cơn giận như thế nào? Cách hay nhất là trở về với mình và chăm sóc cơn giận. Chúng ta có thể nhớ lại câu thần chú thứ nhất để có mặt với chính mình và chăm sóc cơn giận của chúng ta. Chúng ta trở về với chính mình, thân và tâm hợp nhất. Trở về với hơi thở chánh niệm, bước đi chánh niệm. Có mặt có nghĩa là có chánh niệm, để rồi sử dụng chánh niệm để ghi nhận, để ôm ấp và nhìn sâu vào cảm xúc mạnh của mình.

Thường thường khi cơn giận nổi lên, ta có xu hướng muốn đối mặt với người ta nghĩ đã làm ta giận. Chúng ta muốn “hơn thua” với người làm ta giận hơn là làm một việc cấp thiết hơn: chăm sóc cơn giận. Chúng ta hành động như một người bị cháy nhà mà chỉ chạy theo đuổi bắt người đốt nhà chứ không lo chữa cháy.

Có nhiều cách để truyền thông cho một người về những gì mà người ấy đã gây nên cho bạn. Bạn có thể gửi đi một bức thư ngắn hay một email. Nhưng trước hết bạn phải thực tập hơi thở chánh niệm và chăm sóc cơn giận.

Đây là cơ hội đúng lúc nhất để thực tập câu thần chú thứ tư: “Tôi đang đau khổ. Xin giúp tôi”. Bạn có thể gọi điện thoại cho người kia khi bạn đã bớt giận, và chỉ khi mà bạn có thể nói với người kia một cách bình tĩnh là bạn đang đau khổ và bạn cần được giúp đỡ. Bạn muốn cho người kia biết rằng bạn đã hết lòng chăm sóc cơn giận của bạn. Bạn muốn người kia cũng thực tập như bạn. Yêu cầu được giúp đỡ rất khó khi đang giận, nhưng làm như thế là bạn muốn cho người khác biết rằng bạn đang đau khổ chứ không phải bạn muốn tỏ ra là mình đang giận. Những người ấy sẽ biết rằng đau khổ đã làm bạn giận và khi đó có thể bắt đầu truyền thông và chữa trị.

Giúp người bớt khổ

Khi ta và người ta thương bị chia rẽ thì cả hai ta đều đau khổ. Nếu ta không thực lòng lo lắng cho người kia thì ta đã không đau khổ như thế. Càng thân thương gần gũi với người làm ta giận thì ta càng đau khổ. Nếu tình trạng chia rẽ kéo dài quá lâu thì đến một lúc không thể nào hàn gắn được nữa.

Nhưng mà chừng nào còn chia rẽ thì ta luôn luôn muốn làm ngơ, muốn che lấp bởi vì ta không muốn chạm vào niềm đau nỗi khổ trong ta. Chúng ta tự nhủ rằng không có gì là đau khổ, nhưng thật ra đau khổ vẫn có đó, một khối lớn nội kết trong ta.

Đau khổ trong ta cần được hiểu thấu. Nhờ có thực tập, chúng ta chế tác năng lượng chánh niệm đủ mạnh để trở về ôm ấp đau khổ của ta mà không sợ hãi. Chánh niệm giúp ta ghi nhận đau khổ. Chánh niệm giúp ta ôm ấp đau khổ và đó là bước đầu tiên.

Khi một ai đã làm ta giận quá mức thì ta không muốn nhìn mặt người ấy, không muốn đến gần người ấy bởi vì ta không muốn đau khổ. Nhờ chánh niệm ta có thể hiểu rõ đau khổ của ta và đau khổ của người kia. Ta cũng có thể hiểu được rằng người kia đau khổ là vì đã không biết cách xử lý đau khổ. Đau khổ của người ấy lan tỏa và ta trở thành nạn nhân. Có thể người ấy không muốn gây đau khổ cho ta nhưng người ấy không biết cách nào khác hơn. Người ấy không biết tìm hiểu và xử lý đau khổ của mình nên đã gây đau khổ cho những người chung quanh, mặc dù không cố ý. Bởi vì người ấy đau khổ nên ta đau khổ. Người ấy không đáng bị trừng phạt, người ấy cần được giúp đỡ.

Ta có thể giúp bằng cách ghi nhận đau khổ nơi người ấy. Nếu có khó khăn trong việc truyền thông thì phải ghi nhận là có khó khăn. Chúng ta luôn có ý muốn cho rằng mọi việc đều êm xuôi vì chúng ta không muốn cảm thấy bị choáng ngợp. Nhưng nếu không thừa nhận là có khó khăn thì chúng ta không tìm hiểu và khởi tâm từ bi. Chúng ta sẽ có cảm tưởng mình bị loại bỏ và không có khả năng giúp.

Phải sử dụng truyền thông với tâm từ bi, lắng nghe sâu và ái ngữ để phục hồi liên hệ, truyền thông với người kia. Sau vài hơi thở chánh niệm, ta sẽ nói với người kia như sau.

“Tôi biết anh (chị) lúc này không mấy vui vẻ (hạnh phúc).”

“Trong quá khứ tôi đã không hiểu tâm ý của anh cho nên tôi đã phản ứng, đã làm anh đau khổ và tôi cũng đau khổ và đã không giải quyết được gì. Phản ứng của tôi đã làm cho tình trạng tồi tệ.”

“Tôi không có ý muốn làm cho anh đau khổ và làm cho tôi đau khổ. Chỉ vì tôi đã không hiểu niềm đau nỗi khổ của anh lẫn của tôi.”

“Bây giờ tôi đã hiểu cảm xúc của tôi khi gặp khó khăn và tôi cũng đã hiểu anh hơn. Điều đó giúp tôi xử lý hữu hiệu hơn.”

“Nếu anh thương tưởng tới tôi thì xin giúp tôi.”

“Xin anh mở rộng lòng. Tôi muốn lắng nghe. Tôi muốn hiểu rõ. Hãy nói cho tôi nghe niềm đau nỗi khổ của anh. Nếu anh không giúp tôi hiểu anh thì ai giúp tôi bây giờ?”

Trên đây chỉ là vài ví dụ. Điều quan trọng là nói ra những tâm sự của chính mình. Nếu tâm tràn đầy yêu thương thì những lời nói ra là những lời yêu thương. Khi lòng đầy giận dữ thì không thể nào nói ra những lời yêu thương. Nhưng khi đã có hiểu biết, đã có yêu thương thì ta có thể nói ra những lời yêu thương mà không cần một chút cố gắng. Một bác sĩ mà không biết rõ bệnh tình của bệnh nhân thì không thể nào điều trị được bệnh. Một chuyên gia phân tích tâm lý mà không hiểu rõ đau khổ của bệnh nhân thì không giúp được gì. Ái ngữ có thể mở cửa cho cơ hội lắng nghe sâu và giúp phục hồi truyền thông.

Cần phải có can đảm để công nhận rằng truyền thông của ta đang gặp khó khăn. Ta có thể nghĩ rằng cứ đợi thì người kia sẽ tìm đến với ta trước. Nhưng điều ấy có thể sẽ không xảy ra. Không thể chần chừ. Hãy bắt tay vào việc phục hồi truyền thông với tấm lòng rộng mở và đối thoại với tâm yêu thương. Ta có thể đặt ra cho ta một thời hạn chót. Khi những thiền sinh đến tu học tại Làng Mai, tôi cho họ thời hạn chót là đêm cuối của khóa tu để họ bắt đầu hòa giải. Nếu ta là một hành giả đích thực thì những người khác sẽ nhận biết ngay và cảm nhận ảnh hưởng từ ta. Có thể là họ không cảm nhận ngay tức thì nhưng lời ta nói, ánh mắt của ta sẽ có ảnh hưởng.

Đau khổ vì tự ái

Cổ tích Việt Nam có một câu chuyện nổi tiếng về một đôi vợ chồng đã đau khổ cùng cực vì không biết cách truyền thông trong chánh niệm. Chuyện kể một người chồng phải đi trận chiến, để lại người vợ đang mang thai. Ba năm sau, người chồng trở về. Người vợ bồng con ra đón chồng. Đây là lần đầu tiên anh chồng thấy con mình. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi, phước đức được cùng nhau đoàn tụ sau chiến tranh.

Tại Việt Nam có một truyền thống là khi có một sự cố quan trọng trong gia đình thì chúng ta đến thắp nhang khấn vái trước bàn thờ tổ tiên. Người vợ ra chợ sắm sửa lễ vật để dâng cúng. Người chồng ở nhà, chơi với con và dạy cho con kêu anh ta là “cha”. Nhưng đứa bé không chịu. Nó nói, “Ông không phải là cha tôi. Cha tôi là một người khác. Cha tôi đến đây mỗi tối. Khi ông ấy đến thì mẹ nói chuyện với ông ấy rất lâu. Khi mẹ tôi ngồi, ông ấy cũng ngồi. Khi mẹ nằm thì ông ấy cũng nằm. Ông đâu phải là cha tôi”. Nghe em bé nói như thế, người chồng lặng người vì uất hận.

Theo thói thường, sau buổi lễ gia tiên thì cỗ bàn được dọn xuống và cả nhà quây quần cùng ăn uống vui vẻ. Nhưng người chồng sau khi cúng gia tiên xong, bỏ nhà ra quán uống rượu say mèm vì đau khổ. Và mỗi tối anh ta đều ra quán uống rượu như thế. Anh ta không nói với vợ một câu nào, không để ý đến vợ và không bao giờ ăn cơm nhà. Người vợ vì đau khổ cùng cực cho nên sau bốn ngày chịu đựng đã ra sông trầm mình tự tử.

Đêm hôm sau đám tang, người chồng thắp đèn lên thì đứa con chỉ vào bóng người cha trên vách và la lên, “Đó là cha tôi”. Sự thật đã xảy ra là người vợ, vì nhớ chồng mà đã nói chuyện với bóng mình trên vách như đang nói chuyện với chồng cho vơi bớt thương nhớ. Một hôm, đứa bé hỏi mẹ: “Bạn con trong làng đứa nào cũng có cha, vậy cha con đâu?”. Người mẹ muốn cho con an lòng bèn chỉ bóng mình lên vách mà nói: “Cha con đấy”. Lẽ tất nhiên là khi người vợ ngồi xuống thì cái bóng cũng ngồi xuống. Người chồng bây giờ mới biết là mình hiểu lầm nhưng đã quá trễ.

Nếu người chồng nói với vợ rằng: “Em ơi, mấy ngày hôm nay anh rất đau khổ. Em hãy nói cho anh biết người đàn ông kia là ai mà đã tới đây mỗi đêm để em cùng nói chuyện và khóc lóc?”. Đây là một việc rất đơn giản. Nếu anh ta hỏi như thế thì người vợ đã có cơ hội để giải thích, thảm kịch không xảy ra và hai vợ chồng đã có thể cùng sống hạnh phúc. Đó là một cách giải quyết trực tiếp nhất. Nhưng người chồng đã không làm như thế vì quá đau khổ và vì tự ái mà không đến với người vợ xin giúp.

Người vợ cũng rất đau khổ vì thái độ của người chồng nhưng đã không yêu cầu chồng mình giúp. Nếu người vợ hỏi chồng vì sao mà anh ta cư xử như thế thì người chồng đã có cơ hội nói cho người vợ biết câu nói của đứa con. Nhưng người vợ đã không hỏi, cũng vì tự ái.

Một nhận thức sai lầm có thể là nguyên nhân của rất nhiều đau khổ. Tất cả chúng ta ai cũng đã có lúc hiểu lầm. Chúng ta sống với nhận thức sai lầm mỗi ngày. Vì vậy ta nên thiền tập và thực tập nhìn sâu vào nhận thức của ta. Với bất cứ nhận thức nào, chúng ta đều phải tự hỏi: “Có chắc nhận thức của ta là đúng hay không?”. Muốn cho an toàn thì phải hỏi.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn có nhận thức sai lầm. Có thể là người kia không có ý làm cho ta đau khổ. Truyền thông trong chánh niệm giúp giảm bớt khổ đau trong khi quan hệ với người khác.

Hòa giải trong gia đình

Sự truyền thông trong gia đình đôi khi cực kỳ khó khăn bởi vì những người chung sống thường có những đau khổ giống nhau và phản ứng trước hoàn cảnh giống nhau. Đau khổ trong gia đình thường là do cha mẹ hay tổ tiên truyền lại cho con cháu. Nếu không hiểu rõ và hòa giải đau khổ của chính mình thì ta sẽ trao truyền đau khổ xuống cho con cháu ta. Cho nên thực tập thiết lập truyền thông tốt đẹp không phải chỉ cho ta và người ta thương mà còn cả cho con cháu ta.

Hiểu được đau khổ của chính ta là hiểu được đau khổ của tổ tiên cha mẹ. Vì không thể xử lý và hóa giải đau khổ của mình, tổ tiên cha mẹ đã truyền những đau khổ của họ xuống cho con cháu. Chúng ta là những người thừa kế đau khổ của tổ tiên cha mẹ.

Khi còn trẻ, nhiều người đã quyết định là sẽ hành xử khác với cha mẹ. Chúng ta tự nghĩ là sẽ không bao giờ làm cho con cái đau khổ. Nhưng khi lớn lên, chúng ta lại hành xử y hệt như cha mẹ. Nhiều người đau khổ vì không biết cách xử lý năng lượng tiếp nhận từ ông bà cha mẹ. Chúng ta đã tiếp nhận không biết bao nhiêu hạt giống tích cực cũng như tiêu cực từ ông bà cha mẹ. Vì không biết cách chuyển hóa, ông bà cha mẹ đã trao truyền tập khí cho con cháu. Sự trao truyền ấy có khi tiếp nối qua nhiều thế hệ.

Phải ý thức rằng ta là sự tiếp nối của cha mẹ và tổ tiên. Phải thực tập chế tác chánh niệm để có thể ý thức và ôm ấp tập khí bằng năng lượng chánh niệm. Nhờ đó mà năng lượng của tập khí sẽ yếu dần.

Nếu tiếp tục thực tập như thế thì ta sẽ chấm dứt vòng luân hồi. Và như thế không những chính ta được lợi mà con cháu chúng ta cũng được lợi. Chúng ta cũng có thể giúp cho con cháu học cách xử lý năng lượng tập khí và nuôi dưỡng những yếu tố tích cực trong chúng.

Đau khổ do cha mẹ gây nên lúc ta còn nhỏ có lẽ là những đau khổ sâu kín nhất. Chúng ta có thể thù ghét cha mẹ và nghĩ rằng không thể nào hàn gắn với cha mẹ khi cha mẹ còn sống hay đã qua đời. Tuy nhiên, với thực tập hơi thở chánh niệm, bước chân chánh niệm và thực tập nhìn sâu, chúng ta có thể chuyển hóa và phục hồi truyền thông ngay cả trong những tình huống khó khăn nhất trong gia đình. Nếu người kia cũng tu tập thì sự hòa giải sẽ dễ dàng hơn, tuy nhiên vẫn có thể hòa giải dù người kia không biết tu tập.

Mối liên hệ với cha mẹ hay anh chị em có thể rất mực khó khăn. Có lẽ là vì thương tích lúc nhỏ, vì không được ai lắng nghe cho nên bây giờ họ tiếp tục vòng luẩn quẩn và không còn muốn lắng nghe ai nữa. Không nên đòi hỏi những người trong gia đình phải thay đổi. Một khi anh có thể phát triển năng lượng hiểu biết và thương yêu trong anh thì hòa giải trong gia đình có thể bắt đầu.

Tôi vẫn còn nhớ trong khóa tu tại Oldenburg, miền Bắc Đức quốc. Vào ngày thứ tư của khóa tu, tôi đã ra thời hạn chót cho mọi thiền sinh là trước 12 giờ khuya ngày hôm đó, nếu có ai đang gặp khó khăn trong mối quan hệ với một người nào thì phải tìm cách hòa giải ngay. Ngày hôm sau, một thiền sinh đã đến và nói với tôi: “Tôi giận cha tôi đã nhiều năm nay. Tôi không muốn nhìn mặt ông ta nữa. Ngay tối hôm qua, khi gọi điện thoại về cho cha tôi, tôi không nghĩ rằng tôi sẽ có đủ bình tĩnh để nói chuyện với ông ấy!”. Thế mà khi vị thiền sinh ấy nghe tiếng nói của người cha, anh ta đã sử dụng lời ái ngữ một cách tự nhiên, không cố gắng. Anh ta nói: “Con biết là ba đã đau khổ trong nhiều năm qua. Con xin lỗi. Con biết là con đã hành động, đã nói lên những điều không hay không phải. Con không cố ý làm cho ba đau khổ”. Người cha khi nghe tiếng nói đầy thương yêu của con trai mình, đã nói cho anh biết những đau khổ và khó khăn của mình. Đây là lần đầu tiên cha anh bộc lộ tâm tư của mình với con như thế.

Luôn luôn có thể hòa giải. Anh có thể tìm ra giải pháp cho những khó khăn trong khi liên hệ. Anh không cần để cho những khó khăn gây đau khổ tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác.

Bước thứ nhất là thực tập hơi thở, bước chân chánh niệm, thực tập chánh niệm với mỗi hoạt động trong ngày để có đủ vững chãi mà trở về với mình, để lắng nghe niềm đau nỗi khổ và nhìn sâu vào tính chất niềm đau nỗi khổ của chính mình. Nếu không biết lắng nghe niềm đau nỗi khổ của chính mình thì không có hy vọng gì để có thể cải thiện phẩm chất của mối liên hệ. Nhờ chánh niệm mà thương yêu biểu hiện và ta có thể chấp nhận ta. Và rồi ta sẽ có thể nhìn vào những người khác. Mặc dù có thể người kia không có mặt tại đó, ta vẫn có thể nhắm mắt lại và nhìn rõ những khổ đau mà người kia đã chịu đựng qua bao năm tháng. Nếu anh đã có thể nhận biết người kia đang đau khổ thì anh có thể tìm ra lý do vì sao người ấy đau khổ. Anh không còn giận người ấy nữa. Tâm anh sẽ tràn đầy yêu thương và anh sẽ bình tĩnh hơn mà phát tâm muốn nói một điều gì hay làm một việc gì để giúp người kia bớt đau khổ. Và anh sẽ có cơ hội hòa giải.

Truyền thông trong quan hệ lâu dài

Trong trường hợp của những mối quan hệ lâu dài, ví dụ như trong một gia đình, chúng ta thường có ý nghĩ rằng khó mà có sự thay đổi. Chúng ta nghĩ rằng đáng lẽ người kia phải thay đổi nhưng không thay đổi và chúng ta bỏ cuộc. Nhưng chúng ta cần chấm dứt mọi phán xét và trở về truyền thông với chính mình. Nếu chờ cha mẹ hay người bạn đường thay đổi thì biết tới bao giờ? Cách hay nhất là ta phải tự mình thay đổi trước đã. Không nên đòi hỏi, ép buộc người khác phải thay đổi. Mặc dù cần phải mất rất nhiều thời gian, ta sẽ cảm thấy thỏa mãn hơn khi nhận thấy mình đã làm chủ được mình, và đã hành xử một cách tốt đẹp nhất.

Đôi khi vì một ai đã làm ta bực mình mà ta muốn mở lời trách móc. Nếu ta hấp tấp trách mắng thì người kia cũng sẽ bực mình và cả hai, ta và người ấy, đều bực mình, đều trở nên khó chịu. Trời xanh, hoa thắm đều như tan biến. Chỉ còn hai khối giận sáp mặt. Đây là một trường hợp “leo thang xung đột, leo thang khổ đau”. Trong trường hợp này, ta phải tìm cách thoát ra khỏi tình huống đau khổ, trở về với mình, tìm lại bình an cho đến khi cảm thấy có đủ khả năng để giải quyết khó khăn trong thương yêu.

Chỉ khi đã cảm thấy bình tĩnh ta mới mời người kia nói chuyện. Ta có thể xin lỗi là đã không hiểu rõ người ấy nhiều hơn. Ta chỉ nói những lời ấy khi đã sẵn sàng. Rồi ta lắng nghe sâu sắc người ấy mặc dù người ấy than vãn, trách móc hay nói lời cay đắng. Ta có thể khám phá ra rằng người ấy đã có nhiều nhận thức sai lầm về ta và về sự việc đã xảy ra nhưng ta đừng ngắt lời họ. Hãy để cho họ nói. Hãy để cho người ấy nói ra hết tâm tư của mình và có cảm tưởng là ta đã nghe và đã hiểu. Ta tiếp tục theo dõi hơi thở trong khi người ấy nói. Ta sẽ tìm cách giải tỏa hiểu lầm, bằng phương tiện thiện xảo, thương yêu, và từ từ thông cảm sẽ được hồi phục.

Nếu ai đó nói ra một điều không đúng sự thật thì ta đừng ngắt lời người ấy: “Không, không, tôi đâu có ý ấy!”. Hãy để cho người ấy nói ra khó khăn của mình. Nếu ta ngắt lời thì người ấy sẽ không còn ý muốn nói và sẽ không nói hết ra những gì cần nói. Ta có dư thì giờ. Có thể ta cần bỏ ra nhiều ngày quán chiếu sâu sắc để có thể nói một cách khéo léo cho người kia biết nhận thức sai lầm của mình, khi người ấy sẵn sàng nghe ta. Ta và người ấy có thể giận nhau nhiều năm tháng chỉ vì một lý do nào đó và ta đã bị kẹt trong tình huống đó và không thể thay đổi hoàn cảnh. Nếu bạn có thể hiểu người ấy một cách sâu sắc thì bạn có thể hòa giải. Thương yêu, ái ngữ, và lắng nghe sâu là những phương tiện hữu hiệu nhất để tái lập truyền thông. Nếu ta biết tìm hiểu và biết tự chuyển hóa thì ta có thể giúp người ta thương.

Đôi khi, ta ở trong một môi trường không mấy lành mạnh và ta không có không gian để truyền thông với chính mình. Đôi khi ta phải thay đổi môi trường chung quanh ta. Đôi khi ta nghĩ rằng cắt đứt quan hệ hay ly dị là giải pháp duy nhất. Điều ấy có thể xảy ra trong một tình huống đầy bạo động và áp bức. Cho nên ta cần có một môi trường mà ta cảm thấy được bình an, không bị đe dọa. Nhưng trong một quan hệ mà cả hai người đều thương yêu nhau, không muốn gây hại cho nhau mà không biết làm sao để truyền thông thì có thể có những giải pháp khác. Có nhiều người cho rằng ly dị là một giải pháp. Nhưng sau khi đã cùng nhau ký vào tờ ly dị, họ tiếp tục đau khổ. Nếu hai người còn có con cái, tiền bạc, tài sản thì cả hai còn phải vương vấn nhiều năm. Ta không thể tách rời người kia ra khỏi ta. Ta không thể tách rời ta ra khỏi người kia. Đau khổ vẫn triền miên. Vậy thì vấn đề không phải là ta và người thương của ta có nên tiếp tục chung sống với nhau hay không. Vấn đề là hai bên có thể tìm hiểu nhau, có thể sử dụng ái ngữ, lắng nghe, mặc dù cơ sự xảy ra như thế nào đi nữa.

Thông cảm trong những hoàn cảnh khó khăn

Truyền thông với tâm thương yêu là một phương pháp vô cùng hữu hiệu để thiết lập thông cảm và mở lối thay đổi. Truyền thông với tâm thương yêu có thể giúp ích khi mà mọi người đều nghĩ là không thể nào có quan hệ và truyền thông, khi cả hai bên đều đầy giận dữ và sợ hãi.

Tôi đã chứng kiến điều này khi hai phái đoàn thiền sinh Do Thái và Palestine đến tham dự một khóa tu tại Làng Mai. Những ngày đầu của khóa tu thật khó khăn. Khởi đầu cả hai nhóm đều đầy lo sợ, hờn giận, và nghi kỵ. Họ không muốn nhìn mặt nhau. Họ nghi ngờ nhau quá đỗi. Họ không cảm thấy thoải mái khi nhìn nhau bởi vì họ đã quá đau khổ và nghĩ rằng những người phía bên kia đã gây nên đau khổ cho họ. Trong tuần lễ đầu, chúng tôi chỉ chú trọng vào việc thực tập truyền thông với chính mình. Cả hai nhóm đều thực tập hơi thở chánh niệm, chấm dứt suy nghĩ liên miên và lắng nghe thân tâm.

Phải chờ đến tuần lễ thứ hai, chúng tôi mới khuyến khích hai nhóm truyền thông với tâm thương yêu, thực tập lắng nghe và sử dụng ái ngữ. Mỗi người của mỗi nhóm được yêu cầu sử dụng lời nói sao cho phía bên kia, người lớn cũng như trẻ em, hiểu rõ những khổ đau mà họ đã trải nghiệm. Họ sẽ nói cho nhau nghe hết tất cả những khổ cực mà họ đã chịu đựng trong quá khứ. Nhưng họ phải sử dụng lời lẽ tươi mát, êm đẹp và sẽ không trách móc hay lên án.

Chúng tôi khuyên những người ngồi nghe sẽ nghe với tâm thương yêu. Nếu nghe một điều gì sai lạc, họ sẽ cố gắng không cắt đứt hay cải chính bởi vì họ sẽ có cơ hội và nhiều thì giờ để cho nhóm kia sửa đổi nhận thức sai lầm. Khi một bên đã lắng nghe bên kia thì họ bỗng khám phá ra rằng phía bên kia cũng đã đau khổ như họ mặc dù hoàn cảnh có khác nhau. Đây có lẽ là lần đầu nhiều người của nhóm này nhận ra rằng những người trong nhóm bên kia cũng là những con người như họ, cũng đã đau khổ như họ.

Một khi đã thấu hiểu niềm đau nỗi khổ của người khác thì chúng ta phát lòng thương và không còn sợ hãi, ghét bỏ người ấy được nữa. Ta có thể nhìn người ấy bằng con mắt khác. Và khi người ấy thấy được ánh mắt thương yêu, bao dung của ta thì lập tức sẽ bớt đau khổ.

Những buổi họp mặt của hai nhóm đã được tổ chức thế nào để mỗi nhóm có đủ thì giờ lắng nghe và giãi bày khổ đau của mình. Trong những buổi họp mặt ấy, một vài thầy cô, các vị xuất sĩ của Làng, không phải là người Do Thái hay Palestine, đã đến và cùng ngồi yên, cùng thở để hỗ trợ. Chúng tôi thực tập hơi thở chánh niệm và cống hiến năng lượng tập thể, giúp cho hai bên lắng nghe với sự hiện diện của các thầy cô rất quan trọng. Họ đã tạo nên năng lượng tập thể để hỗ trợ cho sự truyền thông và đối thoại trong chánh niệm giữa hai nhóm.

Tôi nghĩ rằng chúng ta cũng có thể thực tập như thế cho chúng ta hay cho bất cứ hai nhóm nào đang bị chia rẽ. Đôi khi những người Ấn sợ những người Hồi và người Hồi cũng sợ người Ấn. Hoặc là người theo Hồi giáo sợ những người theo Kitô giáo và ngược lại. Họ luôn luôn nghĩ rằng phe bên kia đe dọa an ninh và nếp sống truyền thống của họ.

Điều đầu tiên là quán chiếu sâu sắc để thấy rằng không phải chỉ có chúng ta đang đau khổ mà những người của phía bên kia cũng đang đau khổ như ta. Mới đầu chúng ta nghĩ rằng chỉ có chúng ta là những người bị đau khổ, bị sợ hãi. Nhưng nếu chúng ta có dịp gần gũi và quan sát thì chúng ta sẽ thấy những người kia cũng đang sợ hãi, sợ hãi như chúng ta và đau khổ như chúng ta. Khi thấy được như thế thì chúng ta sẽ bớt đau khổ ngay. Khi chúng ta có thể phát tâm yêu thương thì tâm yêu thương ấy sẽ chữa trị chúng ta, chữa trị người kia và chữa trị cả thế giới.

Đàm phán hòa bình

Tôi cho rằng những người trong chính quyền có trách nhiệm tổ chức các cuộc hòa đàm sẽ thành công hơn nếu họ tổ chức đàm phán như chúng tôi, nghĩa là tổ chức những cuộc họp mặt chú trọng lắng nghe và ái ngữ. Khi hai bên họp lại để đàm phán, họ không nên bắt đầu ngay vào việc đàm phán. Mỗi phía đều đang chìm đắm trong nghi ngờ, hờn giận và sợ hãi. Nếu còn nhiều cảm xúc nặng nề như thế thì khó mà đàm phán. Khởi đầu của cuộc đàm phán là để dành riêng cho việc thực tập hơi thở, bước chân chánh niệm, thực tập thiền tọa, thư giãn. Khi đó, cả hai bên mới sẵn sàng lắng nghe nhau và có ý muốn cũng như khả năng tìm hiểu nhau như là nền tảng cho một cuộc đàm phán có hy vọng thành công.

Nếu không khí trong khi đàm phán trở nên quá căng thẳng thì vị chủ tọa nên khuyên mọi người tạm ngưng và theo dõi hơi thở để lấy lại bình tĩnh. Ngay khi có một người đang trình bày ý kiến của mình, những người khác cũng nên dừng lại và cùng theo dõi hơi thở.

Khi tôi đến nói chuyện với một nhóm dân biểu tại Quốc hội Hoa Kỳ, tôi đã đề nghị một phương pháp tương tự. Chúng tôi đã tổ chức một buổi thiền tập và cùng nhau thực tập chánh niệm. Đó là nhiều năm về trước, nhưng cho đến bây giờ, một vài dân biểu tại Quốc hội vẫn còn thực tập đi trong chánh niệm. Đưa truyền thông với tâm yêu thương và sử dụng ái ngữ vào sinh hoạt chính trị là một việc có thể làm được và rất có ích.

Không có nơi nào, không có lúc nào mà không thể áp dụng truyền thông với tâm thương yêu và sử dụng ái ngữ. Không cần phải chờ tới một cơ hội đặc biệt nào cả. Có thể áp dụng cho mọi trường hợp và đem lại lợi ích. Nếu hành xử như thế hôm nay thì chúng ta có thể hàn gắn những đổ vỡ của quá khứ nhờ cảm thông, tuệ giác và chữa trị cho chúng ta, cho gia đình cũng như cộng đồng của chúng ta.