Sự sống đẹp lạ thường

Thiên nhiên trị liệu

Mình vẫn khỏe và mập hơn lúc còn ở Việt Nam. Có lẽ mình lành hẳn cơn bệnh rồi, bạn ạ! Trước đây mình luôn luôn suy nghĩ và có niềm tin rằng mình sẽ lành mạnh, bởi thế mình sống vui trong suốt thời gian ba tháng điều trị ở Thủ Đức.

Mùa xuân năm nay mình trở về Làng Mai sau khi đi ngang qua một cơn đại giải phẫu với nhiều đau nhức và điều trị một thời gian tại Việt Nam. Mình bị ung thư ruột già. Bác sĩ Tôn Thất Cầu, Trưởng khoa Ung Bướu ở bệnh viện Trung Ương Huế bảo mình phải điều trị bằng hoá chất, nhưng mình muốn trị bằng thiền định và các loại thuốc cỏ cây thiên nhiên. Sau hơn hai mươi năm tu học, mình tin tưởng nơi Bụt và pháp môn của Bụt do Thầy trao truyền. Mình dùng năng lượng chánh niệm để sống vui trong lúc điều trị. Mình cũng tin các bác sĩ nhưng mình tin ở giáo lý của Bụt nhiều hơn, nghĩa là sống chết đều do nghiệp, xin thêm một ngày cũng không được thì hơi đâu mà lo lắng.

Hơn nữa mình đã quán chiếu về cái chết nhiều năm và sống chết chỉ là việc thay áo cũ thành áo mới, đổi xác trà cũ thành trà mới. Chỉ thế thôi! Sống được ngày nào vui ngày đó, vì thế mình vui tươi và trở nên yêu đời hơn trước nhiều.

Bây giờ ở Pháp, mình đi bộ mỗi ngày, vừa nhìn cảnh đẹp núi đồi thiên nhiên, vừa thở không khí trong lành và đợi mặt trời xuống để thưởng thức cảnh hoàng hôn hồng tím. Vào ngày đẹp trời, mình đi bộ dài hơn tám cây số theo con đường đến ngã ba Xóm Hạ, quẹo qua lâu đài, đi đến đường qua Xóm Mới, quay trở lên đường về lâu đài Thénac. Ngày nào có nhiều mây, mình đi bộ qua Xóm Đoài, con đường dài khoảng hai cây rưỡi số, đi về cũng được hơn bốn cây số.

Đi bộ giúp cơ thể của mình tiếp nhận được nhiều sinh tố D từ tia nắng mặt trời để điều trị ung thư. Mình đang thực tập theo đề nghị của bác sĩ Lương Vinh Quốc Khanh. Ở Pháp mặt trời thật quý! Pháp thuộc về vùng Bắc Âu cho nên mặt trời có nhiều tia hồng ngoại gửi theo trong nắng nhiều sinh tố D. Mặt trời ở đây không nóng thiêu đốt như mặt trời ở các nước nhiệt đới và nắng ấm áp chứ không gay gắt như nắng ở quê nhà. Mình vừa đi vừa mở tung hết cánh cửa tâm hồn và cơ thể cho thiên nhiên đi vào nuôi dưỡng và trị liệu.

Mình thấy rõ nắng có công năng trị liệu. Gió chiều, không khí, trời xanh, lá rừng, bông hoa đều có công năng trị liệu… Tóm lại, tất cả năng lượng trong thiên nhiên đều có công năng trị liệu. Thiên nhiên là thuốc quý nhất trong các loại thuốc.

Chánh niệm là năng lượng tỉnh táo, ý thức, bén nhạy nên sự cảm nhận của thân tâm với các loại năng lượng như nắng, gió, không khí, bình an, tươi mát, tĩnh lặng trở nên rõ rệt. Khi tâm ý không còn hoạt động lao xao trở về với trạng thái yên tĩnh thì nó có thể tiếp xúc được với mọi hiện tượng hình sắc, kể cả năng lượng trong sự sống. Khi tâm thức xao động thì nó mờ ám bởi sự rung động (vibration), do đó nó không thể bắt được làn sóng trị liệu của thiên nhiên và sự sống. Mình tập sống với tâm không suy nghĩ, không lo âu, không tính toán. Luôn luôn nhớ rằng mình chỉ còn một ngày để sống, vì vậy mình thực tập trân quý sự sống thật sự.

Không biết thiên đàng của Chúa Trời có đẹp hay không? Nhưng cảnh tượng ở nơi đây sao đẹp đến lạ lùng! Nó đẹp đến huy hoàng, mây trời màu sắc rực rỡ, thiên nhiên xanh mướt mát mẻ, đồi núi chập chùng yên tĩnh! Xóm Thượng là thiên đường tuổi thơ của mình. Về đây, mình tiếp xúc lại nhiều kỷ niệm của thời còn là một sư chú. Sư Ông đặt tên cho mình là sư chú Pháp Đăng, và mình tự đặt cho mình nhiều tên khác nữa trong ấy có sư chú Thạch Lang, sư chú Châu Linh, Suối, Lang, Tình Lang, Chàng Đá, Tuyết Sơn… Ngồi đâu, mình cũng bắt gặp bóng hình của sư chú Thạch Lang. Sư chú đã từng ngồi ngắm mặt trời lặn, đã từng đi chơi khắp nơi, đã từng ngồi thiền nơi đồng cỏ, bên hồ sen, dưới cây tùng… Sư chú đã từng ngồi hàng giờ vẽ cái hồ số tám dưới thung lũng của nhà thờ Thénac bằng sơn màu…

Tuy nhiên, mình không đánh mất mình trong quá khứ đâu mà an trú thật bền trong hiện pháp cho nên mình cảm thấy vui và thấy rõ thân tâm càng ngày càng khỏe mạnh.

Sự sống đẹp lạ thường

Suy nghĩ lành mạnh

Mình đang dùng phương pháp tư duy tích cực, lành mạnh, trong sáng để điều trị ung thư. Suy tư là một loại hoạt động của tâm, có thể gọi là năng lượng. Suy tư là tiếng nói âm thầm trong tâm ý, có ảnh hưởng tới đời sống nội tâm, thân thể và tác động lên mọi người, mọi loài chung quanh.

Sau nhiều năm tu luyện, mình thấy mỗi tư duy đều có ảnh hưởng rõ rệt tới hoạt động của thân thể. Suy nghĩ dễ thương thì cơ thể nhẹ nhàng, bình an. Suy nghĩ dữ dằn, lo sợ, thù ghét thì cơ thể bứt rứt, tạo năng lượng sôi sục trong máu huyết, tim đập nhanh và thường đưa tới mệt mỏi, đau nhức. Suy nghĩ xót thương thì cái nhìn dịu hiền làm cho cơ thể buông thư, ấm áp. Suy nghĩ bậy bạ, trần lụy, dâm dục thì cơ thể lên cơn sốt dục vọng, bất an, căng thẳng. Suy nghĩ trong sáng thì cơ thể thảnh thơi, nhẹ nhàng. Vậy, lấy cái tư duy trong sáng, dễ thương, lành mạnh, mình giúp cho cơ thể mạnh khỏe, bình an, tạo ra năng lượng đề kháng để trị bệnh. Mình rất tin vào phương pháp suy tư lành mạnh này.

Giáo sư Emoto Masaru là người Nhật Bản để ra mấy mươi năm nghiên cứu về nước. Giáo sư nói: “Nước là nền tảng, bản chất của sự sống.” Đời sống con người có liên hệ mật thiết tới phẩm chất của nước. Con người mạnh khỏe hay bệnh tật đều do nước trong hay nước đục. Điều công bố này ai cũng tin, bởi vì con người tiêu thụ nước nhiều nhất trong đời sống hàng ngày và giáo sư đã đưa ra các hình ảnh chụp từ các nguyên tử nước càng làm cho mọi người tin tưởng và kinh ngạc hơn.

Nước bị ô nhiễm có nguyên tử không lành lặn, nó bị méo mó, bị bể ra từng mảnh nhỏ; nước sạch sẽ, trong lành có nguyên tử nguyên vẹn, hình đẹp như một bông hoa, một hạt tuyết, một ngôi sao.

Hiện giờ có nhiều dòng sông trên thế giới đang bị ô nhiễm trầm trọng do con người thải vào sông quá nhiều chất độc hóa học, dầu mỡ, rác rến, nhất là các nước chậm tiến với đa số người dân không có ý thức trách nhiệm và kiến thức về môi trường. Nước bị ô nhiễm thì các loài thủy tộc sống trong đó cũng bị bệnh, vì thế khi con người ăn các loài ấy thì con người cũng bệnh. Lấy nước trong dòng sông ô nhiễm ấy để tưới vườn rau cải thì rau cải mang theo các chất độc hóa học, vì thế bệnh của con người một phần là do nguồn nước bị ô nhiễm mang lại.

Giáo sư làm cuộc thí nghiệm về nước với việc cầu nguyện. Lấy một ly nước ở dòng sông ô nhiễm, giáo sư cho các học sinh cầu nguyện khoảng 20 phút bằng bất cứ tín ngưỡng nào. Giáo sư bỏ ly nước ấy ở phòng đông lạnh, rồi lấy vài hạt băng trong ly nước ấy chụp hình thì nguyên tử nước trở lại nguyên hình, đẹp như một bông hoa, nghĩa là nước cũng cảm nhận năng lượng an lành của sự cầu nguyện.

Giáo sư thử nghiệm nước với các loại âm nhạc. Lấy một ly nước “nguyên chất” gọi là “distilled water” cho nước nghe “nhạc dân ca” thì nguyên tử nước biến thành hình bông hoa, cho nước nghe “nhạc Rock’n Roll” thì nguyên tử nước run rẩy bể từng miếng nhỏ…

Giáo sư lại thí nghiệm nước bằng cách dán lên ly nước các chữ khác nhau như “cám ơn nước” thì nguyên tử nước hạnh phúc đẹp hẳn ra, “tao giết mày” thì nước sợ hãi nên nguyên tử nước méo mó….

Do thế, nước thật sự nhạy cảm! Nước có tâm thức vì vậy nước biết được ngôn ngữ, nghe được lời nói, âm thanh, cảm được năng lượng, ba động của suy tư, lời nói của con người. Bạn có thể nói rằng: Sự sống con người ảnh hưởng sâu đậm trên bản chất của nước và ngược lại. Nếu tâm con người lành mạnh thì nước trong trẻo hơn. Nếu con người biết cầu nguyện, khen ngợi, hát dân ca thì nước trong lắng trở lại. Và nếu con người biết cám ơn, biết bảo vệ, không xả rác, không thải các chất độc hại vào nước thì các dòng sông sẽ tự nhiên trong lành trở lại.

Thân thể con người chứa gần 70 phần trăm nước. Nếu nước ở ngoài nhạy cảm với ngôn ngữ, âm thanh, lời nói, suy tư, tình cảm thì nước trong thân thể con người cũng như thế. Điều này chứng minh rõ là môi trường, cách sinh hoạt, suy tư, nói năng của con người có nhiều nguồn năng lượng không lành mạnh tạo ra bệnh tật, bởi vì thời nay con người mang bệnh quá nhiều. Càng ngày bệnh tai biến càng tăng do căng thẳng. Càng ngày bệnh ung thư càng nhiều do các chất độc hại. Càng ngày bệnh tâm thần càng nhiều do trầm cảm, bất an…

Tóm lại, ngoài bảo vệ môi trường sinh sống, bạn nên thực tập tư duy lành mạnh. Bạn gửi càng nhiều tình thương cho mọi người càng tốt. Bạn hãy nhớ tới hình ảnh cầu nguyện, lời “cảm ơn” của giáo sư Masaru mà nguyên tử nước trong lại đẹp hẳn ra, huống hồ gửi năng lượng an lành, tình thương, biết ơn tới con người thì chắc chắn con người sẽ mạnh khỏe. Bạn hãy suy tư lành mạnh như thế cho người thân, bạn bè, mọi người, mọi loài và thiên nhiên nữa nhé. Năng lượng lành mạnh sẽ làm cho cỏ xanh hơn, nước trong hơn, hoa thắm hơn, chim hót hay hơn, mẹ vui hơn, em khỏe hơn…

Quan trọng hơn hết là mỗi ngày bạn hãy nhớ suy tư lành mạnh, dễ thương, tha thứ, vui tươi đối với chính bạn, bởi vì năng lượng tình thương, lành mạnh, sự tha thứ, niềm vui tươi sẽ tuôn chảy khắp châu thân, giúp cho thân thể mạnh khỏe, sức đề kháng gia tăng, máu huyết lưu thông thì thế nào bạn cũng sẽ khỏe mạnh. Bạn hãy thử nghiệm vài suy tư lành mạnh xem thế nào!

Trị bệnh bằng thiền định

Thiền định là phương pháp trị liệu tuyệt vời nhất. Thiền định là sức mạnh tâm linh giúp gạn lọc tâm ý tiêu cực như phiền não, sợ hãi, lo lắng, đam mê, sầu muộn… Thiền định thắp sáng ý thức, tập trung tâm ý, dự trữ năng lượng giúp cơ thể phục hồi sức khỏe. Thiền định là nếp sống chánh niệm trong đời sống hàng ngày, tức là đi biết đi, ngồi biết ngồi, đau biết đau, buồn biết buồn… Thiền định có thể thực hiện trong mọi sinh hoạt của đời sống nhưng quan trọng nhất vẫn là ngồi thiền.

Ngồi thiền là cuộc trở về với bạn, sự sống và hiện tại. Ngồi thiền là đưa tâm rong ruổi trở về hợp nhất với thân ở trong trạng thái tĩnh lặng, do thế bạn trở thành sự sống, thâm nhập sự sống, cảm được chất liệu nuôi dưỡng từ sự sống. Cả con người bạn tỏa ra một sức sống tràn đầy từ đôi mắt, nụ cười, dáng ngồi.

Tuy nhiên, một số đông các bạn đang gặp nhiều khó khăn về phép ngồi thiền. Có lẽ, các bạn này chưa nắm rõ tư thế và nghệ thuật của phép ngồi thiền. Ngồi thiền là ngồi chơi. Ngồi chơi là ngồi thở. Nếu ngồi mà bạn không theo dõi hơi thở thì tâm ý bạn sẽ lén lút ra đi. Vì vậy “hơi thở là dây neo” giữ chiếc thuyền tâm ý ở lại với thân. Ngồi chơi cho vui, tức là ngồi không gồng gượng, không cố gắng, không gò bó, không căng thẳng, không mong cầu, do thế bạn sẽ ngồi được lâu, không bị nghẹt thở, không đau nhức, không mỏi mệt, không buồn ngủ. Phong cách ngồi chơi làm cho buổi ngồi thiền trở nên thoải mái, nhẹ nhàng và an lạc.

Thế ngồi vững nhất là ngồi kiết già, hai bàn chân chéo vào nhau, chân phải đặt trên bắp vế trái và chân trái trên bắp vế phải, gọi là liên hoa tọa (thế ngồi hoa sen). Bạn ngồi xếp bằng hai chân trên một cái gối dày vừa đủ để giữ vững toàn thân. Nếu ngồi kiết già quá khó thì bạn có thể ngồi bán già, chỉ chân này chéo vào chân kia hay ngược lại. Nếu ngồi bán già vẫn còn khó thì bạn có thể ngồi khép hai chân đặt về phía trước hoặc muốn ngồi như thế nào cũng được, miễn là cảm thấy thoải mái. Bạn cũng có thể ngồi trên ghế, hai bàn chân đặt trên sàn nhà và hai tay chạm vào nhau bắt ấn thiền định.

Quan trọng là giữ lưng cho thẳng, buông thư mà không gồng cứng ngắt. Ngồi sao mà phần trên từ bụng trở lên của cơ thể hoàn toàn thư giãn, thả lỏng, thoải mái. Bạn có cảm giác cơ thể nhẹ như một sợi tơ. Nếu ngồi mà tư thế nặng nề, mệt nhọc, khó thở thì bạn phải điều chỉnh lại tư thế. Có thể sống lưng cong quá, bụng bị ép, cơ thể gồng gượng cho nên máu huyết, tim mạch, hệ hô hấp không lưu thông. Hai bên sống lưng là hai luồng năng lượng, có những dây thần kinh và nhiều huyệt mạch điều khiển tất cả hoạt động trong cơ thể. Bạn phải trả xương sống trở về trạng thái cong tự nhiên của nó. Hãy để xương sống thả lỏng như lúc bạn đi hay đứng thì thần kinh, máu huyết, mạch huyệt mới đả thông. Lúc ấy năng lượng trong cơ thể mới lưu chuyển giúp cho tâm thức thông suốt và an lạc.

Tại một vài thiền viện, thiền sinh không được động đậy trong khi ngồi thiền, dù chân bị tê nhức thế nào họ cũng phải cố gắng chịu đựng, điều này không cần thiết. Ngồi thiền là để có an lạc và hạnh phúc. Nếu một phần nào của thân thể bị đau nhức, tức là thân thể bạn muốn báo động điều gì đó. Bạn phải biết lắng nghe nó, không nên bắt cơ thể chịu đựng quá sức, vì làm thế có thể bộ phận ấy sẽ bị tổn thương.

Nếu chân bạn bị tê đau trong khi ngồi, bạn có thể tự động sửa lại thế ngồi cho thoải mái hoặc đổi chân dưới lên trên. Bạn vừa làm một cách nhẹ nhàng chậm rãi, vừa theo dõi hơi thở và từng cử động của thân thể thì tâm bạn vẫn an trú trong định. Nếu chân vẫn không hết đau, làm bạn chịu hết nổi thì bạn có thể đứng dậy, đi thiền hành từng bước chậm rãi, đến lúc bạn thấy có thể ngồi lại được thì bạn ngồi xuống, miễn sao bạn đừng làm động niệm đến các bạn khác. Điều này không đến nỗi gây trở ngại gì cho thiền tập mà ngược lại giúp bạn thực hành ngồi thiền có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, bạn được khích lệ ngồi yên cho đến lúc hết giờ thiền tập.

Đôi khi bạn ngồi thiền là để chạy trốn cuộc đời, chạy trốn chính mình, giống như con thỏ chui vào hang của nó. Làm như vậy, bạn có thể tạm yên ổn trong một thời gian ngắn, nhưng khi ló đầu ra khỏi hang, bạn vẫn phải đối diện với những vấn đề thường nhật của bạn. Giống như khi bạn tu hành ép xác, bạn mệt nhoài và có ảo tưởng là bạn chẳng còn vấn đề gì nữa. Nhưng khi cơ thể bạn phục hồi sinh khí thì những vấn đề kia cũng kéo về theo. Bạn không cần tu gấp, chỉ cần tu cho thảnh thơi, đều đặn và hạnh phúc. Tu là một chuyến đi. Chuyến đi vô cùng tận. Chuyến đi không có đích. Bạn hãy biết đi chậm rãi trong thanh thản. Mỗi ngày bạn nhớ quán chiếu nhìn sâu vào lòng mọi sự mọi việc đang xảy ra. Thực tập như thế bạn mới có thể tiếp xúc được sâu sắc với cuộc sống muôn hình vạn trạng và biến đổi vô thường.

Hãy nhớ bí mật của ngồi thiền là ngồi chơi, ngồi thở, vì vậy bạn tập ngồi thiền khắp mọi nơi. Khi ngồi tại văn phòng hay trong xe hơi, bạn hãy nhớ ngồi thở. Ngay cả khi đi mua sắm tại một siêu thị đông người hay đứng chờ hàng dài trước nhà băng, ga tàu lửa, trạm xe buýt, nếu bạn cảm thấy mệt mỏi, bực dọc, bất an thì bạn có thể tập thở và mỉm cười để đừng bị chìm trong hoàn cảnh đó. Bạn hãy giữ sự thăng bằng cho thân tâm. Muốn có khả năng đối diện với bao phiền toái của cuộc đời, bạn cần trở về với bạn bằng hơi thở ý thức. Ở đâu, trong tư thế nào, đi, đứng, nằm, ngồi, bạn cũng nhớ tập thở. Tu là thở. Tu là chơi, tu như chơi.

Ngồi thiền, bạn không suy nghĩ, không tính toán, không tạo tác gì hết mà chỉ thở, mở cửa tâm thức cho các hạt giống lưu chuyển. Bao nhiêu tâm ý đều được bạn nhận diện, bao nhiêu tình cảm đều cho tuôn chảy thông thương. Tâm thức bạn có nhiều dòng sông. Ngồi thiền như ngồi chơi bên bờ sông, bạn thấy rõ những gì đang trôi trên dòng sông ấy như cái thùng, cành cây, con thiên nga, cánh bèo… Ngồi thiền cũng thế! Bạn ngồi bên bờ sông tâm linh để nhìn dòng sông tâm ý cho rõ. Bờ sông tâm linh ấy là ánh sáng chánh niệm, thiền định được dựng lên từ hơi thở ý thức, bước chân tĩnh lặng, câu niệm Bụt, câu trì chú.

Ngồi thiền đúng cách giúp tâm sáng suốt nên bạn thấy biết rõ mọi hoạt động trong tâm ý. Bạn không xua đuổi mà cũng không bám víu vào tâm ý nào dù đó là an lạc hay hạnh phúc, buồn tủi hay khổ đau. Bạn giữ tâm ý thoáng như hư không, sáng như buổi bình minh, yên như hồ nước tĩnh lặng. Bạn giữ lấy tâm hồn nhiên, tâm bản nhiên sáng lạng để nhận diện suy tư, tâm ý, cảm thọ và chuyển hóa đi những bế tắt, buồn đau, muộn phiền. Càng yên càng nhẹ, càng sáng càng thông, càng vô tư càng thoải mái.

Có người nói thiền định đâu phải chỉ là ngồi, vì vậy bạn tập làm việc gì cũng là cơ hội sống thiền. Dù sao thế ngồi vẫn là tư thế vững chãi dễ đi sâu vào thiền định khai mở suối nguồn an lạc, thanh tịnh, thảnh thơi làm “thuốc an dưỡng” trị liệu cho thân thể và tâm hồn.

Niềm tin là thần dược

New biology có thể dịch ra tiếng Việt là ngành sinh học mới. Các nhà sinh học mới vừa khám phá ra một điều bí mật là di thể không phải quyết định về tất cả phẩm chất của con người, mà chính là niềm tin (belief). Đây là cái thấy trái ngược với các nhà sinh học trong quá khứ, bởi ai ai cũng tin rằng di thể là nền tảng, bản thể làm ra thực chất của đời sống con người. Vui buồn, thương ghét, mạnh khỏe, bệnh tật, hạnh phúc, khổ đau, thông minh, chậm hiểu, cao thấp… đều do di truyền.

Các nhà sinh học mới đại diện là Bruce Lipton, làm các cuộc thí nghiệm và thấy rằng di thể hay DNA không thể tự nó hoạt hóa (activate) để tạo ra các sinh hoạt trong đời sống con người mà chính là niềm tin. Họ nói: “Nếu lấy một cậu bé có di thể thông minh bỏ vào một môi trường thiếu học thì cậu bé ấy sẽ lớn lên không có sự thông minh nào. Như vậy, rõ ràng là sự thông minh của một con người không hoàn toàn do di thể quyết định mà còn tùy thuộc vào môi trường, đặc biệt là sức mạnh của niềm tin.” Họ nói tiếp: “Niềm tin phát xuất từ đâu? Niềm tin phát xuất từ nhận thức (perception) mà nhận thức nghĩa là sự giao cảm, sự tiếp xúc của tế bào và môi trường. Bruce nói mỗi tế bào đều có cái ăn – ten (antena) rà được tín hiệu của môi trường chung quanh.”

Các nhà sinh học mới nói rằng tế bào rất thông minh. Tới gần chất độc thì nó tự rút lui để tránh bị nhiễm độc, gần thức ăn thì nó tìm tới để được bồi dưỡng.

Nếu bạn căng thẳng thì tế bào co rúm trở lại nên cơ thể bạn không lưu thông, máu không đến được các bộ phận của cơ thể, vì thế căng thẳng tạo ra nhiều đau nhức, tật bệnh. Nếu bạn thư giãn thì tế bào thoải mái, vui chơi nên cơ thể lưu thông, máu huyết đi khắp mọi nơi giúp nuôi dưỡng, trị liệu làm cho cơ thể được mạnh khỏe. Sống thư giãn, bình an giúp cho các tế bào hạnh phúc, vui cười thì tự nhiên bạn được mạnh khỏe. Giống như thư giãn hay bình an, nếu tin rằng bạn sẽ mạnh khỏe thì cơ thể mạnh khỏe. Các tế bào, các hệ miễn dịch thông minh, nhạy cảm có thể tiếp nhận bất cứ tín hiệu gì của bạn gửi đến. Các nhà sinh học mới nói: “Nếu bạn suy nghĩ là bạn còn trẻ thì tự động tế bào khỏe mạnh nên bạn trẻ mãi. Ngược lại, nếu bạn suy nghĩ là bạn già rồi thì tự nhiên tế bào già yếu, teo đi cho nên bạn mất sức, già đi rất nhanh.”

Theo Duy Biểu Học, nhận thức là sự xúc chạm giữa sáu căn và sáu trần tạo ra cái thấy, cái nghe, cái ngửi, vị nếm, xúc chạm, ý thức. Con mắt thấy ngọn lá, đó là cái thấy. Lỗ tai nghe cơn mưa, đó là cái nghe. Lỗ mũi ngửi hương sen, đó là cái ngửi… Tuy nhiên, công năng của các căn được cấu tạo trong sự giới hạn nhỏ bé của cơ thể cho nên chúng chỉ tiếp xúc với thế giới hạn hẹp, chứ sự sống linh động, sâu sắc, bao la có nhiều hiện tượng như âm thanh, hình sắc, làn sóng, năng lượng ngoài khả năng cảm nhận của các căn. Cộng với cái nhận thức luôn đi ngang qua trung gian suy luận, so đo, phỏng đoán và bị ảnh hưởng sâu đậm về các loại tình cảm, ký ức, thành kiến trong tâm thức, bởi vậy cho nên nhận thức cũng bị nhiều hạn chế và thường sai lầm. Thấy sợi dây mà tưởng con rắn nên sợ quýnh lên. Nghe tiếng gió rì rào nơi lá rừng mà tưởng âm thanh của loài ma quỷ nào đó nên sợ đến nổi da gà… Vậy, nhận thức cần tu tập, xét nghiệm bằng sự quán chiếu của ánh sáng chánh niệm, thiền định mới có thể gạn lọc được sự hạn hẹp và sai lầm của nó. Vì thế, phần căn bản của vui buồn, thương ghét, khổ lạc, sức khỏe, tật bệnh đều phát sinh từ nhận thức. Tu tập để thay đổi nhận thức làm cho nó lành mạnh, sáng sủa, nhẹ nhàng là thang thuốc thần diệu nhất trong việc trị liệu.

Trong Duy Biểu Học, nhận thức là nền tảng đưa tới trí tuệ, tình thương, và cố nhiên là đưa tới niềm tin. Niềm tin sâu sắc hay cạn cợt đều tùy thuộc vào phẩm chất của nhận thức. Khi nhận thức có trí tuệ hoặc gần với trí tuệ thì niềm tin ấy là sự thật, là sức mạnh, tạo ra sự cảm thông, tin yêu, bao dung, hạnh phúc, lành mạnh. Ngược lại, khi nhận thức có nhiều sai lầm, u mê, kỳ thị thì niềm tin ấy tạo ra chia rẽ, hận thù, đố kỵ, bệnh hoạn, khổ đau. Vậy, khổ đau hay hạnh phúc, khỏe mạnh hay tật bệnh đều phát xuất từ nhận thức, nền tảng cho niềm tin.

Bạn có niềm tin nơi Bụt, bởi bạn thấy được tượng Bụt, nghe nói về Bụt, học về giáo lý của Bụt và thực hành theo lời Bụt dạy. Bạn đã nếm được phần nào pháp lạc của thiền tập. Bạn có kinh nghiệm về sự thật khổ đau, thấy được nguyên nhân khổ đau và có con đường vượt thắng khổ đau nên bạn không sợ khổ đau. Gặp khổ đau, bạn biết cách thực tập chấp nhận để chuyển hóa mà không la mắng, không đánh trả, không giận hờn… Trái lại, bạn có thể phát khởi lòng xót thương đối với người làm khổ bạn, vì thế bạn khôi phục lại niềm vui, sức khỏe và hạnh phúc. Đó là sức mạnh tâm linh do niềm tin đem lại. Niềm tin của bạn không ai có thể lung lạc được. Đó là chánh tín.

Một người khác cũng có niềm tin nơi Bụt nhưng người này chưa nghe nói về Bụt, có ít cơ hội học hỏi giáo lý của Bụt và chưa từng thực tập theo giáo pháp ngày nào cả. Vì không tu tập nên người này không nếm một chút gì an lạc của giáo pháp. Người này chưa biết gì về Tứ Diệu Đế, không biết sự thật khổ đau, không thấy nguyên nhân khổ đau, không biết con đường chuyển hóa khổ đau. Gặp khổ đau, người này chỉ biết la mắng, giận hờn, đánh trả, than trời, trách đất. Gặp bất bình, người này dễ nổi giận… Nên người này mang trong tâm nhiều nỗi bất an, giận hờn, phiền não, vì thế đời sống của người này ít có hạnh phúc, thiếu mất tình thương.

Niềm tin của người này có thể do thấy qua tượng Bụt hoặc tin theo cha mẹ… Thấy Bụt như là một hình tượng bằng xi măng, đá hoa, vàng, ngọc thì cái thấy ấy còn cạn, và nếu tin Bụt qua hình tượng có thể gọi là tà tín. Nó không dính líu gì về giáo lý và bản chất của Bụt. Niềm tin này dễ bị lung lạc và có thể đưa tới mê tín, dị đoan.

Cũng đều là niềm tin nhưng hai niềm tin trên hoàn toàn khác nhau. Một bên biết chấp nhận khổ đau để quán chiếu mà chuyển hóa để đưa tới hạnh phúc, tha thứ, xót thương. Một bên không biết gì về Tứ Diệu Đế, không chấp nhận khổ đau, chỉ biết đánh trả, trách móc, hơn thua, đưa tới thêm nhiều cay đắng. Vậy, niềm tin có nhiều cấp bậc. Niềm tin làm bằng trí tuệ có thể đưa tới hạnh phúc, khỏe mạnh, giải thoát. Niềm tin làm bằng mù quáng, mê tín, cố chấp chắc chắn đem lại đau khổ, não phiền, buộc ràng.

Gặp lúc khó khăn, bạn suy nghĩ và tin tưởng rằng mình sẽ vượt qua khó khăn này thì cơ thể bạn sẽ tạo ra kích thích tố, đẩy mạnh hệ miễn dịch, biến thành năng lượng giúp bạn tiếp tục chiến đấu để vượt qua khó khăn ấy. Học hành cũng thế! Nếu bạn quyết tâm thành công ngành y khoa thì bạn có sức mạnh chú tâm học hết tất cả các môn chuyên ngành dù khó cách mấy để trở thành một bác sĩ. Ngược lại không có niềm tin, bạn chẳng học hành hay làm được việc gì cả. Vậy, niềm tin cực kỳ quan trọng. Niềm tin là sức mạnh. Có niềm tin, bạn có năng lượng có thể làm tất cả mọi việc khó làm.

Niềm tin là một thần dược giúp mình đang điều trị được ung thư. Lúc ấy, mình không nghĩ là mình đang mang bệnh nặng, chỉ biết sống vui, mỉm cười, thảnh thơi, vô tư từng giây từng phút. Mình thường nghĩ thế nào mình cũng mạnh khỏe. Niềm tin tích cực ấy là do cái cảm nhận về sự phục hồi trong cơ thể và sự thiền tập hàng ngày đưa tới. Mình không tin mù quáng đâu, bởi có một nguồn năng lượng, một sức sống đang tràn dâng trong cơ thể.

Hơn nữa, bao nhiêu năm quán chiếu về sự mong manh của kiếp người nên mình có khả năng buông bỏ mọi vương vấn, nhất là bỏ được hạt giống sợ chết. Mình không suy nghĩ, không lo sợ gì cả và sẵn sàng chấp nhận tình trạng sức khỏe đang có với trái tim nhẹ nhàng và tâm hồn bình thản. Bụt đã dạy rõ về sinh tử, và mình đã quán chiếu về giáo lý “một là tất cả”. Mình là nắng mai, là cây, là lá, là cơn mưa, là đại địa, là dòng sông, là cha mẹ, ông bà, tổ tiên… bằng hình ảnh thai nhi nối liền với nhiều bà mẹ qua những cuống nhau vô hình thì có gì phải sợ.

Có lẽ các tế bào trong cơ thể của mình tiếp nhận năng lượng niềm tin mạnh khỏe và niềm vui sống nên nó hồi phục thật nhanh. Chỉ trong vòng ba tháng, mình cảm thấy cơ thể trở lại mạnh khỏe hẳn như trước. Cố nhiên sự hồi phục này cũng nhờ thuốc men, thức ăn, sự quan tâm, sự cầu nguyện và tình thương của nhiều người.

Mình xin hết lòng cám ơn Thầy, các tăng thân, gia đình, bạn bè, các bác sĩ và bà con làng xóm giúp mình vượt qua cơn bệnh hiểm nghèo. Có thể, mình sẽ sống lâu lắm. Phải nói “không có lẽ” gì hết mà chắc chắn là như thế. Mình phải dùng tâm lực và suy tư lành mạnh để sống mạnh khỏe như sự khám phá về “niềm tin” của các nhà sinh học mới. Bạn và mình hãy cứ vui tươi, yêu đời, tha thứ, bình an, thanh thản. Tại sao không? Bởi vì, bạn và mình đang còn sống mạnh khỏe, còn niềm vui nào bằng.

Sự sống đẹp lạ thường

Xin trả về thiên nhiên

Những dòng suối yêu thương

Đổi trao từ vô thỉ

Sự sống đẹp lạ thường

Xin trả về quê hương

Tấm thân cát bụi này

Chết như thay chiếc áo

Sống thương yêu mỗi ngày.

Bài thơ này diễn tả về cái mong manh của kiếp người. Đây là một phép quán quan trọng cho các thầy, các sư cô lúc Bụt còn tại thế.

Bạn không thể nào giữ được tâm bình thản trước cái đau nhức khủng khiếp lúc xác thân này tan rã, chỉ có những người có chuẩn bị tinh thần bằng phép thực tập làm quen và nhìn sâu vào cái chết. Bạn phải tập chết mỗi ngày. Bạn không nên tin rằng “chết” là điềm chẳng lành, đừng bị người ta lừa rằng nó là một việc cấm kỵ. Không! Chết là một nghệ thuật tuyệt vời, cao nhất của một kiếp người. Bạn phải tập chết cho thật đẹp, an, lành. Người Tây Tạng để hết cả cuộc đời quán chiếu, tu luyện, học hỏi về bản chất của cái chết, do vậy họ có một nếp sống rất bình thản.

Sự thật, biết bao nhiêu tế bào trong cơ thể đang chết trong từng giây từng phút và đồng thời biết bao nhiêu tế bào trong cơ thể đang sinh sôi nẩy nở mỗi ngày. Từ đó, bạn thấy rõ sống chết là chuyện bình thường đang xảy ra ngay trong cơ thể bạn. Sống chết lưu chuyển, trao đổi với nhau làm cho sự sống thêm linh động như ngày qua đêm, mưa rồi nắng, xuân tới hạ…

Bạn nhớ đừng sống hững hờ với những gì mầu nhiệm đang có mặt trong sự sống và đừng tự che mắt trước sự thật mong manh của mọi sự, mọi vật. Có cái thấy này, bao nhiêu việc khác trở nên không còn quan trọng nữa. Biết đói, bạn mới nếm được cái hạnh phúc khi được ăn no. Biết đau nhức, bạn mới cảm được cái hạnh phúc khi không còn đau nhức. Biết chết, bạn mới thấy được cái hạnh phúc khi được sống thật sự. Hãy sống vui tươi, hạnh phúc và yêu thương ngay đi bạn! Đừng đợi niềm vui, hạnh phúc ở ngày mai hoặc nơi nào khác vì nó có thể muộn màng.

Bạn thử tập nhìn sự sống của bạn có ở trong thân tứ đại, đồng thời nó cũng có mặt ngoài thân tứ đại. Hãy tập làm quen rằng: Thân này là mảnh vườn, máu này là dòng sông, hơi thở này là không khí, nhiệt lượng này là ánh nắng buổi sớm, trái tim này là mặt trời… Mỗi giây mỗi phút, sự sống bạn liên tục gắn liền, đổi trao mật thiết với nhiều yếu tố khác trong sự sống. Uống nước, bạn là mạch nước từ lòng đất sâu, bạn là con suối nhỏ, bạn là đám mây bay… Ăn cơm, bạn là cánh đồng lúa vàng đang hát vi vu trong cơn gió. Thở không khí, bạn trở thành không gian bao la… Nghe dòng sông vỗ vào bờ, bạn nghe được tiếng gọi từ bản thể uyên nguyên của chính mình. Thấy ruộng vườn, núi sông, bạn thấy được tấm thân mênh mông của bạn… Bạn là tất cả vũ trụ bao la. Nhìn đâu, bạn cũng thấy được mặt mũi chân hình.

Bạn hãy tập chết để biết trân quý sự sống và sống sâu sắc từng giây phút hàng ngày. Chết như thay chiếc áo nên bạn tập sống yêu thương mỗi ngày. Sự sống tuyệt vời như vậy đó! Sao bạn cứ mãi nhốt tâm hồn trong ngục tù cô đơn, buồn tủi, giận hờn. Hãy trả về thiên nhiên những dòng suối yêu thương. Hãy trả về quê hương tấm thân cát bụi này. Quê hương sẽ ôm ấp, chở che cho bạn. Bạn sẽ ngủ yên trong lòng đất. Tâm hồn bạn sẽ đi về nơi quê xưa chốn cũ.

Sự sống là một bài thơ

Sự sống là một bài thơ

 

Chiếc bóng tôi in lên hình đất Mẹ một buổi sáng bình an

Ánh nắng xuyên qua từng khe lá, trải dài trên những cánh đồng mênh mông

Bầu trời cao xanh lồng lộng

Những đàn chim xoải cánh thanh bình.

Đồi núi bao la, chập chùng, im, nắng

Tai lắng nghe dòng tâm thức chuyển thành thơ.

Có buổi sáng nào đẹp lành như buổi sáng hôm nay?

 

Ánh nắng ban mai khoác lên đất Mẹ những tấm lụa mượt mà

Tôi muốn họa lên những bức tranh trong lành, thanh khiết

Những tuổi thơ đi qua còn đọng lại liên hồi

Để mỗi mỗi tế bào, Mẹ hít thở không khí an vui.

Tôi muốn viết lên đất Mẹ những lời ngọt lành của buổi sớm

Bằng nét bút thương yêu

Cho tuổi thơ trở về

Hồn nhiên, tung tăng trong nhịp sống thanh bình.

Chất liệu ngọt lành đưa tôi về niềm hân hoan trìu mến

Chân tung tăng, tôi băng qua đồng cỏ đến tìm em.

Lòng khấp khởi như đã từng hẹn hò nhau thuở trước

Và an vui như mới gặp lần đầu.

Tôi biết em không bao giờ chờ đợi nên lòng cứ mãi hân hoan.

Gặp em

Ngồi yên

Lặng ngắm

Nghe từng nhịp thở của muôn loài

Sự sống thật an lành!

 

Những đau thương hờn tủi, không biết tự bao giờ

Đã hồi sinh thành tiếng hát yêu thương

Theo gió, theo mây, bay đi khắp muôn phương.

Không có ngăn cách nào giữa tôi, em và hiện hữu

Đất mẹ bao la

Bầu trời bao la

Sông núi bao la

Em bao la

Và tôi cũng bao la.

Không gian và thời gian quy về trong sự sống của mỗi một tế bào.

 

Chiếc bóng cựa mình,

lần lượt,

đánh thức những tế bào

còn vùi sâu trong giấc ngủ mùa Đông.

Hơi thở bình an

làm hồi sinh những tế bào khô héo,

Hân hoan mời nắng sưởi ấm cho mình.

 

Đẹp, lành, bình an,

Nắng mở ra một cõi thênh thang

An nhiên và độ lượng

Cho tôi, em và hiện hữu.

Cám ơn sự sống muôn đời vẫn trôi chảy

Đã dệt nên bài thơ đẹp cho tôi và cho em.

Chiếc bóng hân hoan mỉm cười trong dáng núi vững an.

Quê hương trị liệu mẹ

Mẹ tôi năm nay 93 tuổi. Mới năm ngoái mẹ tôi còn ở nước ngoài, mùa đông dài đăng đẳng, rét và tuyết vây quanh, mẹ chỉ đi quanh quẩn trong nhà. Sức lực người già không thể nào chịu nổi cái rét -15 độ C, đôi khi -30 độ C bên ngoài, rồi còn phải sợ đi lại không vững. Đường xá phủ đầy tuyết trơn rất dễ trợt chân té ngã. Xương cốt người già giòn rụm, té ngã rất dễ gẫy tay, gẫy chân cho nên suốt cả mùa đông Mẹ đành phải riu ríu ở trong nhà, trừ một hai lần bị bắt buộc đi bác sĩ xin toa thuốc mới. Vì mẹ có nhiều bệnh già như thiếu máu, hay bị choáng váng, mất ngủ, xuống tinh thần, lãng tai và từ từ trở nên lú lẫn, quên ngày quên tháng, quên mất mình vừa ăn cơm xong, lại đòi ăn cơm thêm lần nữa… Bác sĩ lắc đầu cho thêm thuốc bổ não, thuốc ngủ, thêm thuốc trợ tim, thuốc giảm đau nhức, trị phong thấp, thuốc bổ máu, sinh tố và khoáng chất đủ loại… Rồi khi cảm, khi ho, khi nhiễm trùng đường tiểu, khi ăn không tiêu, khi bị tiêu chảy, mẹ lại phải dùng thêm trụ sinh, thêm thuốc đường tiêu hóa.v.v… Tổng cộng cả chục viên thuốc mỗi ngày. Các em thì hết lòng lo lắng cho mẹ. Mẹ đi đâu cũng có người dẫn người dìu. Phòng ngủ sưởi ấm lúc nào cũng 22 độ, chăn ấm, mền dầy cộm vì mẹ rất sợ lạnh. Ăn uống thì mẹ thèm thức gì được thức ấy. Mẹ thèm ngọt nên trong phòng bánh kẹo đủ cả, tẩm bổ bằng sữa Ensure hằng tuần. Sáng thì bánh mì, trưa chiều thì “cao lươn chả phượng”, toàn những món ngon, các món tẩm bổ Tây, Tàu đủ cả, không thiếu một thứ gì. Vậy mà sức khỏe của mẹ ngày càng yếu hơn, đi lại khó khăn, đứng còn không vững dù tay không rời cây gậy.

Cho đến một hôm, cần đứng lên để đi tiểu, mẹ té sóng soài trên nền gạch và đầu bị cắt đứt một đường sâu và dài, máu chảy lênh láng, mẹ như mê man bất tỉnh một lúc lâu. Người già được chăm sóc cực kỳ chu đáo trong các nước tiên tiến, giàu có nên mẹ được đưa vào nằm bệnh viện, được truyền thêm máu vì mẹ vốn thiếu máu, lại bị mất nhiều máu vì vết thương trên đầu.Sau cấp cứu ở phòng hồi sức, mẹ nằm một tuần ở khu giải phẫu, chờ vết thương đã được khâu lại khô mặt và chờ bác sĩ nội khoa khám tổng thể để tìm cách chữa chứng thiếu máu cũng như tình trạng hay quên của mẹ. Tình trạng lú lẫn đáng lo ngại vì người già Tây phương rất dễ bị hội chứng Alzheimer, não bị hư hại, suy thoái đe dọa dẫn đến mất trí càng ngày càng nặng, cho đến lúc có thể hoàn toàn điên loạn mà Y khoa hiện nay chưa tìm ra thuốc chữa.

Và trong suốt trên một tháng nằm bệnh viện, mẹ được tận tâm săn sóc chạy chữa, có lúc phải nằm phòng riêng vì sợ nhiễm trùng… Thật đáng biết ơn chế độ an sinh xã hội xứ người không ngại tốn kém, đã chịu gần hết mọi chi phí.Thật phải hết sức biết ơn đội ngũ y tá, bác sĩ, nhân viên bệnh viện vô cùng nhân hậu, đầy tình người và lòng thương mến, lo lắng cho mẹ, cho mỗi bệnh nhân khác mà không hề có sự phân biệt đối xử dù mẹ là người da vàng tóc đen. Mọi người luôn luôn khuyến khích, giúp đỡ luyện tập cho mẹ để mẹ từ từ ngồi dậy rồi đứng lên đi đứng trở lại dù phải nương vào một dụng cụ tập đi. Cả tháng sau khi bị té, mẹ mới chỉ có thể đi hết sức chậm chạp chừng mười, mười lăm phút mỗi ngày.

Thế rồi cả anh chị em quyết định theo nguyện vọng của mẹ, đưa mẹ về Việt Nam để mẹ có thể chết yên ổn nơi quê nhà, được chôn cất cạnh mồ của Ba vì mẹ rất sợ phải bị thiêu đốt sau khi chết. Vì là anh cả lại là người xuất sĩ, không vướng bận nghề nghiệp, gia đình, tôi được lãnh nhiệm vụ chăm sóc mẹ tại quê nhà. Trước đó tôi lại được tăng thân hỗ trợ về lại nhà ít nhất là trong một năm. Khó khăn đầu tiên là chuyến đi dài trở lại Việt Nam bởi không biết mẹ có đủ sức ngồi máy bay, xe tàu suốt mấy ngày đêm để về lại  quê hương? Trong quá khứ, sau một chuyến đi nhọc nhằn, người già dễ bị kiệt sức, mẹ thường đau ốm cả tháng mà phương tiện y tế của ta thì làm sao so bì được với nước ngoài. Thật không dễ dàng thay đổi môi trường, lối sống. Nhưng, cũng già yếu, cũng bệnh tật mà cả triệu người nước ta vẫn cứ sống được thì nay, cứ ai sao ta vậy, dù gì thì cũng phải cố gắng làm vui lòng mẹ trước đã. Trong hoàn cảnh khó, phải tự lực mà thôi vì không thể mãi mãi trông cậy ở sự giúp đỡ của người khác. Bụt đã dạy phải tự mình làm hải đảo cho mình, phải tìm nơi nương tựa nơi chính mình là gì? Và nếu chưa đủ tin tưởng nơi khả năng của mình là vì mình còn quá nhiều sợ hãi, lòng tin của mình chưa đủ sâu, thì mình cũng có thể cầu xin sự giúp đỡ của Bồ tát Quán Thế Âm vì Ngài thường cứu khổ và cho mình sự không sợ hãi. Sức mạnh tiềm tàng trong mình vừa là tâm linh mà cũng là trí tuệ để ứng phó thích ứng với mọi hoàn cảnh theo trình tự Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ. Vậy thì chuẩn bị cho một chuyến đi nhọc mệt, ta cần gom sức lực và sự tỉnh táo để nắm bắt và tận hưởng những cảnh lạ, những niềm vui của chuyến đi, nghĩa là “Quẳng gánh lo đi” mà vui sống.

Trong chuyến đi ta cần nhiều sức mạnh tinh thần, chánh niệm để biết thư giãn, để biết ăn thật nhẹ dù các món ăn trên phi cơ vừa hấp dẫn vừa miễn phí, không ăn không đành! Nhưng ăn vào bao nhiêu thức béo bổ thì làm sao còn sức lực cho các cơ quan khác của ta, vì bao nhiêu năng lượng phải dùng vào việc tiêu hóa rồi. Mà tim cũng cần có đủ sức để bơm máu nuôi não. Não cần tỉnh táo để giúp ta có những bước chân vững chải. Vậy thì các thức ngon hãy để dành khi đã về, đã tới và khi cơ thể đã có thời gian nghỉ ngơi lấy lại sức. Nhờ sự tỉnh táo, tôi và mẹ tôi không ăn các thức có đường, có bột như bánh kẹo, nước ngọt. Cũng từ chối các thứ béo bổ như bơ, dầu trộn xà lách, các món chiên xào và các món có sữa, có thịt vì chúng đều có rất nhiều chất béo của loài động vật, hết sức khó tiêu. Chất béo từ thực vật qua chế biến cũng rất khó tiêu nên cũng cần tránh các loại đậu, đậu phộng và đậu nành, dầu thực vật và nước cốt dừa. Đó là chế độ ăn uống của chúng tôi trong chuyến đi và suốt tháng đầu ở Việt nam. Chúng tôi chỉ ăn rau và một ít trái cây không quá ngọt như chanh, chanh dây, bưởi, mận, cóc, ổi, thanh long, đu đủ xanh hay vừa hườm hườm màu mỏ vịt để làm gỏi. Tuyệt đối không dùng đường, sữa, dầu mỡ chiên xào và khó chấp nhận nhất là không ăn cơm trắng, chỉ ăn thật ít cơm lức, chừng vài muỗng mỗi bữa ăn. Mẹ không nhai được nhiều rau nên phải phương tiện mà giúp mẹ uống nước rau xay mịn. Chính vì không ăn cơm nên bữa ăn nào cũng nhẹ, ăn luôn luôn bị đói nên mới có thể ăn thêm rau. Vì vậy tục ngữ ta mới có câu “Đói ăn rau” và lẽ dĩ nhiên “đau nhịn đói” hay “đau uống nước – nước rau ” chứ không phải lúc nào cũng phải “đau uống thuốc”.

Sau ba tháng nơi quê nhà, mẹ không còn uống bất cứ viên thuốc nào. Vì bao nhiêu bệnh tật đều lùi bước khi người ta có nhiều niềm vui. Mà mẹ thì vui lắm vì sáng chiều được tụng kinh, được nói thỏa thích tiếng Việt, được dạo bộ cả hai ba tiếng đồng hồ trong vườn nhà hoặc trong khuôn viên chùa làng. Tối ngủ không cần uống thuốc ngủ vì đã có con cháu quanh mình, còn có chi lo lắng mà mất ngủ. Phòng hơi lạnh vì mùa rét, cao nguyên đôi lúc cũng 12 đến 20 độ nhưng phòng thông với gió trăng, mền dù mỏng cũng đủ ấm. Nhờ ăn rau đã cho mình nhiều sức lực, đi bộ giúp cho bắp thịt khỏe mạnh nên tuy không ăn đồ bổ mà mẹ lên cân, lên cả 5 kg trong ba tháng.

Mẹ đang từ từ trở lại cuộc sống thời thơ ấu khi mẹ sống ở vườn quê. Mẹ không còn nói: “Thôi chết mau cho khỏe” mà tìm xem chỗ nào mình trồng cây ổi, chỗ nào cắm dây khoai lang và tận hưởng mùi thơm “điếc mũi” của cây hoa lài lúc về đêm. Bây giờ mẹ cũng có khi ăn bún riêu, có khi đậu hũ cuốn bánh tráng mè, có khi ăn xoài, ăn chuối cau, chuối sáp… Và, lần đầu tiên được ăn gỏi trái vả trộn như người Huế, chút ít thôi nhưng mẹ vui vì mình còn đủ mạnh để ăn còn biết ngon, để tiêu hóa rau và trái cây… Sao mà ngon và lạ, mình ăn cơm thiệt ít mà cũng đủ hả?

Nguyện cầu Mẹ mãi còn nhiều niềm vui giản dị mà ở lâu với con cháu.

Ngồi yên dưới mái nhà

…nhiều đêm muốn đi về con phố xa

nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà…(*)

Ngồi yên dưới mái nhà.1Tôi nhớ, ngày trước tôi thường hay lẩm nhẩm hát những lời này khi các bước chân một mình đã bắt đầu thấm mỏi và tâm tư bắt đầu hoang mang trên một đường phố xa hun hút nào đó. Hát một cách vô thức như những lời hát đã nằm sẵn ở đầu môi mà không cần phải nhớ lại lời bài hát và không cần ý thức rõ thêm về cái thân thế nhỏ bé, mông lung của mình đang như một hạt cát giữa bao la. Có lẽ, từ đâu đó trong sâu thẳm, một bản năng “đi” cùng một nỗi cô liêu và trống trải của thân phận con người vẫn luôn hiện diện, cho nên một ước muốn “quay về” cũng luôn hiện diện.

Bây giờ, ngồi đây nghĩ về “mái nhà”, tự nhiên tôi thấy cái khái niệm này ngày càng lớn rộng ra, vô định không chừng mà cũng nhẹ nhàng và tự do hơn nhiều lắm.

Tôi nhớ, hồi xưa khi đi học xa nhà, có nhiều khi mỏi mệt và buồn tủi, tôi hay ước ao được về nhà, nằm ở cái góc nhà của mình, nơi mà dường như mình đã sống từ lâu lắm, nơi có ba má, anh chị và mọi thứ tiện nghi mà mình đã quá quen thuộc… Lúc đó, tôi có cảm tưởng mình chỉ cần về nằm im ở đó, thở, và ngủ một giấc, không cần ai hỏi han, chăm sóc hay làm gì cho thì tôi cũng đã thấy đủ, thấy khỏe lắm rồi. Nhưng khi đó tôi đi học xa lắm, cái ước mơ đơn giản đó dường như là một điều không thể. Cho nên tôi chỉ có thể nằm yên ở cái góc phòng cô liêu xa nhà của mình. Và “về nhà” đôi lúc cháy lên như một niềm ước ao sâu sắc trong tâm thức.

Và rồi, có những ngày, tôi ném những ngày trống trải của mình vào những chuyến đi. Tôi đi chơi nơi này, nơi khác xen với những ngày đi học và làm việc bận rộn. Thời gian của tôi đầy kín và đầu óc của tôi cũng đầy kín những dự định, kế hoạch cùng những tâm tư tình cảm… Tôi cứ đi như vậy, như thể tuổi trẻ là để dành cho tôi đi và làm những điều đó. Cái ước muốn về nằm trong góc phòng của căn nhà tuổi nhỏ phai lạt dần. Nhưng… trời cao, đất rộng… bất chợt đôi khi, trên một con đường nào đó, tôi thấy thương đôi chân và đôi giày của mình nhiều lắm. Dần dần, sau những chuyến đi hay những ngày dài bên ngoài, tra chìa khóa vào ổ và mở cửa căn phòng quen thuộc của mình, tôi có một cảm thức quen thuộc là để hết những ưu tư, buồn phiền lại ngoài cánh cửa đó. Đóng cửa lại, căn phòng trở thành một cõi yên ổn và bình dị của riêng tôi. Và từ một lúc nào đó, căn phòng trở thành “mái nhà” của tôi. Dù tôi không còn cần phải “về nhà đúng giờ” như khi còn là một đứa con ngoan ngoãn nữa, nhưng đi đâu lâu xa là tôi lại nhớ đến và thấy cần trở về đó, để tìm lại sự bình an kín đáo cho mình.

Vậy nên, “mái nhà” hay “quê hương” dần trở thành những khái niệm. Đó không hẳn là một nơi chốn địa lý nữa. Khi ta gọi một nơi là “nhà” không phải dựa trên thời gian đủ dài hay sự yên ấm mà mình đã trải qua ở đó mà là sự gắn bó, chở che và là một nơi tựa như suối nguồn bình an để mình có thể quay về trú ẩn trong những tháng ngày gió mưa, đông giá của trời đất hay của tâm hồn. Có lần tôi nghe Sư Ông nói về quê hương là hành tinh này, là trái đất này mà tôi thấy mông lung và mơ hồ quá. Tôi rất kính thương đất nước mà mình sinh ra và lớn lên với bao nhiêu kỷ niệm êm đềm, cho dù trong đó vẫn còn biết bao nhiêu ngổn ngang, nhọc nhằn, bức xúc. Nhưng rồi dần dần tôi cũng hiểu ra là không phải tôi nhận nơi này là quê hương thì nơi kia không còn là quê hương nữa. Từ những nẻo đi về của tâm thức, những biên giới ngày càng nới rộng ra hơn, để tôi biết yêu thêm và biết ơn thêm những nơi chốn địa lý hay những cõi tâm linh mà tôi đã thấy ra để lần lối trở về.

Bây giờ tôi ngồi đây, dưới “mái nhà” này. Tôi thương quý nơi này nhiều lắm. Tôi không còn nghĩ đến chuyện phải đi đâu để lấp đầy những khoảng trống thời gian hay những khoảng trống trong lòng mình nữa. Nơi này đang dung dưỡng tôi với đầy đủ mọi ý nghĩa của một mái nhà, từ vật chất đến tinh thần, từ nơi ăn, chỗ ngủ đến những không gian để chạy nhảy, vui chơi hay đến cả những góc yên vắng để tôi ngồi với tôi. Đôi khi tôi nghĩ, nếu có đi xa, hay nhắm mắt lại, tôi sẽ vẫn nghe thấy hoài cái khung cảnh thấm đượm bình an và ấm áp đó… “Thoang thoảng hương trầm dưới mái nhà thầm lặng. Tình chị tình em tròn vẹn tấm lòng…” Có những ngày nắng đẹp, tôi thấy mình như con nai, con thỏ chạy nhảy trên những cánh đồng, trong những vạt rừng, hoặc những đêm sáng trăng nhẩn nha dạo bước, tắm gội trong cái tịch mịch, trong trẻo không cùng của trời đất.

Ở đây, có những buổi chiều hoàng hôn rất tím. Mây giăng xa xa, từ xóm nhỏ nhìn ra vạt rừng xung quanh, tôi thấy như có những dãy núi chập chùng đâu đó. Cho nên đôi khi nỗi nhớ núi trong tôi chợt dâng đầy. Không hiểu vì sao, những ngọn núi vẫn luôn là một nỗi nhớ nhung và ám ảnh trong tôi. Tôi thèm cái bao la ngút ngàn, chênh vênh và tự tại ở núi vô cùng. Có lẽ, núi cũng đã từng là một quê hương xa xưa nào đó của tôi. Mà bây giờ đây, tôi đang ở phía “đồng bằng”, ngày ngày rảo bước ngang qua những cánh đồng, và một chút dốc đồi. Tôi không biết tôi có sẽ đi về phía núi không nữa? Chỉ biết bây giờ bàn chân tôi đang chấm trên mặt đất này và tôi vẫn ngồi trong một góc nhỏ ở miền quê hiền lành, yên ắng này. Tôi nhớ hình ảnh Thầy dấn từng bước chân trong một lần thiền hành qua đồi Xóm Thượng. Những lần khác, Thầy đi rất nhẹ nhàng, thong thả, như mây trôi, gió thoảng vậy. Mà lần đó, mỗi bước đi là Thầy lại nhấn nhấn thêm cho hằn dấu. Tôi chợt nhận ra, nhớ ra, là tôi đang đi cùng Thầy và có Thầy trong mỗi bước chân, trên mỗi lối đi. Tôi biết ra rằng tôi có đi đâu cũng không đi ra khỏi Thầy. Tôi non dại quá. Mà tôi lại đang hạnh phúc thêm. Tôi đang có Thầy là quê hương và mỗi mỗi thứ mà Thầy tạo ra là một dấu ấn đang truyền trao, là một nơi chốn đi về của tôi.

Hôm nay đại chúng đã ngồi yên bên cạnh Thầy và tám vị Bụt tại đồi Xóm Thượng giữa buổi đi thiền hành. Tôi nghe tiếng chuông vang lên, len qua những cành lá, ngọn cây và mỏng dần, mỏng dần để tỏa ra mọi hướng và thấm vào không gian, cho đến khi tôi chỉ còn “thấy” tiếng chuông ở tận ngọn đồi bên kia. Sự sống đẹp quá. Sự sống đang dàn trải không cùng. Mỗi phút giây ta có mặt cho sự sống thì sự sống cũng có mặt đó cho ta. Vậy mà sao ta vẫn hoài là đứa con lưu lạc và nghèo xơ nghèo xác của cuộc đời? Lạ quá!

Thế nên, quê hương là mỗi lần quay về như vậy đó. Quê hương là sự trở về mà quê hương cũng là từng bước chân, từng hơi thở, từng tiếng chuông, từng chiếc lá… Đôi khi không thể và không muốn đi đâu nữa, cũng không thể làm gì, tôi trở về với mình qua từng hơi thở. Những lúc đó, tôi hay cố gắng thở vào thật sâu, thở ra thật dài, vài ba lần thôi. Tôi có cảm tưởng như là thở càng sâu thì tôi về với mình càng gần thêm, cứ như là tôi đã bỏ tôi mà đi đâu lâu lắm rồi vậy. Và tôi buông bỏ hết mọi thứ xung quanh, buông bỏ cả chính mình. Giống như tôi không còn gì quan trọng trên đời hơn là cái hơi thở đó vậy. Lồng ngực tôi căng đầy, cơ thể tôi được nhận một luồng không khí mới, sạch và lọc bỏ đi những thứ cặn bã, bụi bặm. Và rồi sau đó, tôi thở bình thường trở lại, thiết lập mối quan hệ với mọi thứ như bình thường. Nhiều lần như vậy, tôi thấy rằng tôi có một nơi nương náu rất gần và rất thật của riêng tôi. Bất cứ ở đâu, khi nào tôi cũng có thể tìm về đó được.

Ấy vậy mà có nhiều lần tôi cũng quên. Tôi quên cả những hơi thở của mình. Có lẽ vì sự thực tập đôi khi cần phải tinh nhạy, khéo léo mà tôi thì không đủ kiên tâm và miên mật. Hoặc có nhiều khi không thể thở nổi nữa. Lại có khi tôi quên mất mình vì những tập khí dày sâu và vụng dại. Tôi đã có nhiều may mắn để đến với cuộc sống xuất gia và tôi rất trân quý đời sống tu tập này, nhưng tôi cũng thấy những yếu đuối và bất toàn trong con người mình. Có những ngày, tôi chỉ còn biết đi lên thiền đường để ngồi yên, tụng kinh, lạy Bụt và một lòng hướng tâm về Tam Bảo. Tôi biết Tam Bảo mới là quê hương đích thực của tôi, của mỗi người xuất gia. Có một vị Bụt và muôn ngàn vị Bụt đang có đó cho tôi, tĩnh lặng, mơ hồ mà cũng rất thật, uy hùng và vững chãi. Đôi khi, tôi nghĩ về Bụt của 2600 năm về trước, một con người bình thường như bao con người khác mà ý chí dũng mãnh xuất chúng và trí tuệ, từ bi thấm đẫm cả không gian và thời gian. Nhiều khi, tôi lạy xuống trước một vị Bụt cao cả, thiêng liêng và ngập tràn hồn phách trên bệ thờ của thiền đường khói nhang ấm áp. Hoặc có khi, tôi thấy có rất nhiều muôn vị Bụt đang ở quanh tôi mà tôi đang khẩn cầu quý Ngài từ bi nâng đỡ, bảo hộ và chỉ lối cho tôi. Những khi đó, tôi cũng trở về với Bụt trong tôi, trong trái tim, khối óc, trong từng dòng tâm thức và trong từng tế bào cơ thể tôi. Bụt trong tôi là những hạt giống trong sạch, an lành, độ lượng, thương yêu. Bụt trong tôi đang thực tập trì giới, đang học khiêm cung, buông xả… Trước Bụt, tôi buông bỏ hết tất cả những buồn phiền, khó khăn, bất nhẫn… Tôi như một đứa con bé nhỏ trở về, mang đâu đó trong người những thương tích và không biết bao nhiêu dòng sinh mạng đã từng nhiều kiếp nổi chìm, bấp bênh. Đứa con đó đang thành tâm một niềm khát khao chuyển hóa và giải thoát. Ngày ngày, tôi đang rũ dần bụi bặm đã bám lên người mình, đã chảy trong huyết quản mình từ đời này sang kiếp khác.

Tôi cũng đang nhận diện những vị Bụt quanh tôi, rất gần và thật mỗi ngày trong cuộc sống của tôi. Có những vị Bụt còn nhỏ, có những vị Bụt lớn hơn. Mỗi vị Bụt đó đang mang trong mình một trái tim, một đôi mắt thương yêu và cảm thông, một tấm lòng phụng sự, một đôi tai lắng nghe, một bàn tay để dắt người qua cơn khốn khó… Tôi đang học cúi xuống trước những vị Bụt đó để Bụt trong tôi được lớn hơn thêm. Những khi đắp y, cúi đầu đọc thầm bài kệ: “Đẹp thay áo giải thoát. Áo ruộng phước nhiệm mầu. Con cúi đầu tiếp nhận. Đời đời nguyện mang theo” là tôi lại liên tưởng đến những bóng dáng áo vàng của tăng đoàn Bụt đang đi trên con đường lịch sử suốt gần 2600 năm. Thật đẹp! Tôi ưa mấy câu thơ này lắm: “Sa môn giữa rộn ràng phố chợ. Áo vàng trầm khuất nẻo phồn hoa. Tinh châu mấy giọt ngời cam lộ. Trong mắt người ánh mắt thiết tha…”(**) Tôi thấy Bụt đang dẫn đầu những con người lặng lẽ, kham nhẫn mà rất nhiều bình an và từ bi đó. Tôi cũng thấy mình trong đoàn người này, cũng đã lặng yên và đi dọc dài qua suốt bao nhiêu năm tháng. Những bước chân đi xuyên qua thời gian, qua không gian, không cần ai xôn xao biết đến, duy có một điều rõ ràng là mỗi người và đoàn người đó đang đi về lại phía cội nguồn nguyên sơ sâu thẳm, chân thật, hiền lành và đẹp đẽ nhất của chính mình…

Tôi cũng đang tìm về nơi cội nguồn đó. Ngày ngày, nơi đây, tôi vẫn đang học trở về. Trở về với tôi, trở về với Bụt, trở về với đời sống thênh thang và độ lượng. Tôi vẫn còn đang ở lớp vỡ lòng về bài học thương yêu và hiểu biết, con đường của tôi vẫn còn đang lần hồi, khúc khuỷu, chông chênh. Nhưng tôi vẫn hằng nguyện…  tôi sẽ luôn có đó cho tôi, cho tròn thêm từng bước chân, từng hơi thở. Tôi cũng nguyện nhớ quay về với Bụt, có Bụt trong mỗi giây phút, trong từng hơi thở, lời nói, cái nhìn… Tôi biết cái hạt giống “đi” hay ruổi rong của mình còn nhiều lắm. Nhưng có lẽ, ‘đi’ cũng có thể là ‘trở về’. Tôi nghĩ một khi tôi còn những hơi thở này và một khi mà Bụt còn đó trong mỗi hơi thở của tôi thì tôi sẽ không lầm đường, lạc lối.

Cơn mưa tuyết đầu tiên của mùa đông đã rơi. Tôi muốn đốt lên một bếp lửa, lùi vào đó mấy củ khoai và pha một bình trà. Mọi người sẽ về ngồi quây quần bên bếp lửa hồng ấm áp, hơ tay, uống trà và ngắm tuyết. May mắn lắm thay, còn có một mái nhà như vậy để tôi ngồi yên.

—————-

(*) “Lời thiên thu gọi” – nhạc TCS

(**) “Sa môn” – Thơ Phan Thịnh

Tâm lửa

 

 

Trong lòng tôi có một ngọn lửa đang cháy đỏ

Trong lòng đời có một ngọn lửa đang cháy đỏ

Trong âm thầm có một ngọn lửa đang cháy đỏ

Ngọn lửa sẽ cháy đỏ bền bỉ khôn nguôi!

 

Trong lòng núi có một ngọn lửa đang cháy đỏ

Người ngồi trơ như đá, vững như đồng

Dù bao nhiêu mưa nguồn thác hồ sông suối

Cũng không bao giờ dập tắt ngọn lửa cháy đỏ sục sôi!

 

Ngọn lửa đang cháy đỏ tự đáy lòng biển khơi

Ngọn lửa cũng đi lên như nước trăm sông đổ về mênh mông đại hải

Lửa nuôi sự sống lửa đốt đau thương

Xin đừng hãi sợ sầu lo dìm chết ngọn lửa can trường.

 

Ngọn lửa vẫn còn cháy đỏ trong tiếng cười đùa trong trẻo

Vẫn rực ngời tâm lửa giữa tuyệt vọng đớn đau

Soi rõ mắt trong còn hơi hướm rưng rưng giọt ngọc

Đêm ngày vẫn vẹn tình chung thủy trước sau.

 

Xin nhớ thắp lên ngọn lửa cho ánh sáng truyền đi mau

Nuôi tâm hồn trong những tháng ngày băng giá

Xin nhớ đừng bao giờ để bếp tro tàn nguội lạnh

Mái nghèo nào cũng phải nhớ để dành củi đượm rơm khô.

 

Một đốm lửa nhỏ và một ngọn lửa đỏ hồng

Sẽ rực cháy như ước mơ của tháng ngày muôn xưa cũ

Sẽ không chết bếp tranh nghèo dột nát

Kiên nhẫn bi hùng rực đỏ với thời gian…

 

 

 

Nơi bình yên

 

Có một nơi cho bình yên ngự trị

Cho khổ đau kết thành hoa trái yêu thương

Dù khôn lớn em vẫn là thơ dại

Ngây ngô nhìn giọt nắng ướt buổi mai

 

Có một nơi cho bình yên ngự trị

Cho em về yên lại những lao xao

Cho em về nuôi đẹp chí thanh cao

Để yêu thương lắng sâu thành kiên nhẫn

 

Trên đồi cao một mình em thơ thẩn

Vẫn an lành với gió với mưa

Vẫn thanh bình với nắng dọi ban trưa

Không ngần ngại không nhọc lòng chống chỏi

 

Có một nơi không bao giờ thấy mỏi

Không ai cần bảo vệ hoặc rút lui

Ở nơi đó tâm bặt hết buồn vui

Thân ngơi nghỉ lắng sâu dòng nhựa sống

 

Có một nơi bình yên luôn ngự trị

Mọi ngôn từ ý niệm tự dung thông.

 

‘…ngọn lửa hồng trong tim…’

Bát Nhã, 1/1/2006.

Đời mình là những trang sách mở ra

Đạo đức học ứng dụng

Mỗi ngày chúng tôi đến trường học bằng xe buýt. Lòng hân hoan như lúc còn đi học. Ở đây chúng tôi tổ chức những giờ thực hành cho 1000 học sinh từ 6 đến 18 tuổi. Mỗi sáng chúng tôi tiếp xúc với 360 em bằng cách chia sẻ pháp thoại, ăn sáng chung với nhau trong yên lặng. Với lứa tuổi này mà ngồi chung với nhau trong một nhóm đông như thế thì không dễ chút nào để giữ cho các em yên lặng. Sau đó chia ra thành ba nhóm, mỗi nhóm 90 em do một thầy, một sư cô và một cư sĩ hướng dẫn. Chúng tôi dạy cho các em ngồi thiền, đi thiền hành, ăn cơm im lặng, thiền buông thư, tập hát, chơi trò chơi, vấn đáp, thiền sỏi… Mỗi lần chúng tôi tiếp xúc với các em hai tiếng đồng hồ. Sau hai tiếng thì đổi một nhóm khác, như vậy các em có cơ hội tiếp xúc với tất cả các thầy, các sư cô và các bạn thiền sinh đi theo đoàn. Tuy có một chút xíu kinh nghiệm đứng lớp trước khi đi tu, nhưng với một số lượng học sinh đông đảo như thế có khi tôi cũng thấy lúng túng. Tuy nhiên nhờ tăng thân nên mọi chuyện diễn ra tốt đẹp. Chơi với các em vui nhưng nhiều khi cũng căng lắm. Có khi cũng không biết phải nên chia sẻ những gì cho các em. Sư chị Đẳng Nghiêm, một người có nhiều kinh nghiệm trong việc cho pháp thoại, mà chị cũng thỏ thẻ: “Lần đầu tiên trong đời chị thấy run và sợ khi cho pháp thoại.” Không sợ sao được, một nhóm ba trăm mấy em ở độ tuổi 13,14 ngồi không yên, nhúc nha nhúc nhích, thích phản ứng, thích làm điều ngược lại… thì thật là không biết phải nói gì. Hơn nữa, đây là thời khóa của trường nên tất cả mọi người đều phải tham dự dù muốn hay không. Có những em nhìn thấy như không muốn nghe, ấy vậy mà tất cả đều lọt vào tai. Các em rất thông mình, hỏi gì cũng biết. Đủ mọi lãnh vực, kể cả lãnh vực y học. Trường này là một trong những trường nổi tiếng của Ấn nên quy tụ toàn những giáo viên và học sinh giỏi.

Đây cũng là một kinh nghiệm mới đối với các anh chị em chúng tôi, lần đầu tiên hướng dẫn cho một số đông người trẻ như thế. Chúng tôi hướng dẫn trong vòng bốn ngày. Trước đó, cũng tại trường này, chúng tôi tổ chức hai ngày quán niệm cho khoảng 200 thầy cô giáo đến từ nhiều trường khác nhau. Các thầy cô cũng ngồi thiền, đi thiền, nghe pháp thoại, ăn cơm chánh niệm, thiền buông thư, pháp đàm… Sau đó chúng tôi tổ chức một ngày quán niệm như thế cho phụ huynh học sinh. Nhiều phụ huynh rất háo hức muốn được nghe quý thầy quý sư cô chia sẻ, vì họ đã nghe con em mình về kể lại. Có em học sinh mới mười tuổi, sau bốn ngày thực tập, thấy ba nổi giận, em bảo ba hãy vững chãi như núi và tươi mát như hoa. Ba em không hiểu gì thì em lại bảo ba đi dự ngày quán niệm đi rồi biết. Có hai chị em kia cùng học chung trường, khi về nhà, lúc đứa em bị lên cơn suyễn, người chị bảo đứa em thở, rồi đứa em theo dõi hơi thở, cơn suyễn từ từ hạ xuống mà không cần phải dùng thuốc. Những trường hợp như vậy gây ấn tượng rất mạnh trong lòng phụ huynh. Vì thế mà họ rất háo hức để đến nghe quý thầy, quý sư cô chia sẻ, họ cũng muốn biết con em mình đã được học những gì. Có em lại khuyên ba nên đến tham dự. Tác động một lần đến ba đối tượng: thầy cô giáo, phụ huynh và học sinh đã tạo nên một năng lượng rất mạnh, yểm trở nhau rất nhiều. Họ rất cảm động. Cô Hiệu trưởng trường này chịu chơi lắm. Tuy bận rộn, nhưng cũng tham dự ngày quán niệm chung với mọi người. Cô rất nâng đỡ mọi người, tặng cho tất cả các thầy cô giáo đến tham dự khóa tu mỗi người một quyển sách Planting seeds (Quyển sách này nói về những pháp môn thực tập căn bản và cách hướng dẫn các em thực tập như một loại sách giáo khoa).

Hình: Các em học sinh trường Step by Step đang nở hoa

Sau mỗi ngày từ trường về, chúng tôi ngồi lại với nhau, chia sẻ hạnh phúc của mình, những gì đã xảy ra trong ngày để học hỏi và rút kinh nghiệm, cùng nhau nhìn xem những gì có thể tiếp tục duy trì, những gì có thể làm hay hơn cho ngày mai. May mắn trong chuyến đi là các anh em chơi được với nhau, sống với nhau rất hài hòa, quý trọng nhau nên mọi chuyện xảy ra một cách nhẹ nhàng. Các em học sinh rất dễ thương, thực tập rất hết lòng làm mọi người ai cũng ngạc nhiên, lấy làm hạnh phúc và có thêm năng lượng.

Họ thật may mắn biết đầu tư cho tuổi trẻ, cho tương lai. Họ chấp nhận đem đạo Bụt vào trường học một cách cởi mở, tôi cũng thấy hạnh phúc lây. Tuy nhiên sâu thẳm trong niềm hạnh phúc ấy là một nỗi ngậm ngùi, xót xa. Xót xa cho quê hương, đất nước mình. Không biết bao giờ nước mình mới được như thế? Tôi cầu mong cho đất nước có thể cởi mở hơn, có nhiều phước đức hơn để tuổi trẻ học được nhiều điều quý báu. Con người thực ra do không hiểu về đạo Bụt nên mới sợ đạo Bụt. Thực chất thì đạo Bụt chỉ giúp con người bớt khổ và đem niềm, vui hạnh phúc đến cho mọi người bằng những phương pháp cụ thể và rất khoa học. Tuy nhiên đạo Bụt vượt lên trên khoa học vì đạo Bụt chú trọng về mặt thực hành để tự mình chứng nghiệm mà không phải chỉ là lý thuyết. Đạo Bụt giúp con người sống đạo đức hơn, nhân bản hơn, lành mạnh hơn và hạnh phúc hơn.

Bảy ngày liên tiếp tiếp xúc với các em học sinh và thầy cô giáo, ai cũng thấy hạnh phúc. Đó chỉ mới là giai đoạn đầu của chuyến đi. Chúng tôi còn tổ chức một chương trình sinh hoạt như vậy nữa cho một trường học khác. Trường này cũng là một trong mười trường nổi tiếng nhất Ấn Độ, họ quy tụ toàn là những thầy giáo cô giáo giỏi, có nhiều khả năng. Họ lấy hai trường này làm thí điểm. Nếu thành công họ sẽ tiếp tục tổ chức cho những trường khác.

Ở trường này cũng vui lắm. Chung quy, nội dung thì giống nhau, nhưng hình thức thì hơi khác. Mỗi trường mình làm một thời khóa khác nhau, tùy vào sức khỏe của mình. Ở trường này sức khỏe của mọi người có phần giảm xuống nên bắt đầu các buổi sinh hoạt bằng thời khóa buông thư. Như vậy mình cũng có cơ hội được nghỉ ngơi. Các em rất dễ thương, quen rồi, nên cứ vào lớp là nằm xuống, dù có khi thời khóa bắt đầu bằng pháp thoại. Các em thích thiền buông thư lắm. Mới đầu các em cứ nhúc nhích, không em nào chịu nằm yên, nhưng sau một hồi buông thư thì ngủ luôn, thức không chịu dậy. Nhìn các em tôi thấy tình thương trong mình lớn lên. Mình mới tiếp xúc với các em có mấy ngày mà thấy thương như vậy, huống gì mẹ mình thương mình thì tình thương lớn cỡ nào? Nghĩ mà cảm động.
Xong những ngày quán niệm ở trường học này là khóa tu giáo dục cho thầy cô giáo và sinh viên đại học, đa số là sinh viên sư phạm và tâm lý học. Ngoài ra còn có chương trình Wake up cho hai trường đại học khác nữa. Các em cư sĩ cũng giúp đỡ mình rất nhiều trong chương trình này. Các em đã tạo thêm sinh khí năng động cho giới sinh viên.

Khóa tu giáo dục diễn ra rất nhẹ nhàng. Sau những ngày tiếp xúc với các em học sinh nhỏ, khóa tu giáo dục cho người lớn bỗng trở nên đơn giản, nhẹ nhàng, yên ắng hẳn ra. Ai cũng thấy khỏe ru như không có khóa tu vậy, mình chỉ thực tập với họ thôi, không cần phải hướng dẫn nhiều. Ngồi ăn cơm với hai trăm mấy người mà thấy yên lặng và khỏe nhẹ như ngồi với một mình mình. Thật bình an. Có những ngày khó mới thấy được giá trị của những ngày nhàn. Người lớn thật khỏe, không hiếu động như các em nên không mất năng lượng khi hướng dẫn. Những ngày chơi với các em học sinh vui thiệt đó, song cũng làm mình hao tổn ít nhiều năng lượng vì các em quá năng động.

Thầy thuốc

Chuyến đi này tôi thấy mình được nuôi dưỡng và học hỏi nhiều. Mục đích của tôi là để học hỏi chứ không phải để hướng dẫn. Thầy Pháp Dung, sư chị Đẳng Nghiêm và các sư em Pháp Siêu, Mai Nghiêm, Đàn Nghiêm, Bảo Tích ai cũng có nhiều kinh nghiệm chơi với người trẻ, mọi người thay nhau hướng dẫn những pháp môn thực tập khác nhau như ngồi thiền, thiền hành, thiền ăn, thiền buông thư… Mỗi người có một cách hướng dẫn khác, và mỗi lần hướng dẫn lại mỗi lần khác nữa nên chính mình cũng háo hức muốn được nghe huống gì là thiền sinh. Tôi thấy hiểu và trân quý các anh chị em của mình hơn.

Các anh chị em giỏi nên tôi có nhiều không gian và thời gian để tận hưởng. Tôi thường đi bộ sau mỗi cuối ngày sinh hoạt. Nhận ra những loại rau dại có thể ăn được, tôi hái về luộc hay nấu canh. Sáng và trưa, chúng tôi ăn tại trường, buổi tối tự túc. Thực ra không phải là không ai nấu cho mình, thức ăn Ấn tuy ngon nhưng có cảm giác ăn hai bữa trong ngày là đủ, buổi tối chúng tôi thích ăn nhẹ.

Trong chuyến đi ai cũng mang theo thật nhiều thức ăn, cho đến cuối chuyến đi thức ăn mang theo vẫn còn, sư chị Đẳng Nghiêm mang theo những hai thùng mì gói Kim Chi từ Mỹ, Sư em Pháp Siêu mang theo xì dầu maggi, sư em Đàn Nghiêm và thầy Pháp Dung mang theo thức ăn từ Pháp, tôi mang theo muối xả do các sư em làm. Ở Ấn thức ăn ít chese, bơ, không như ở Bhutan nhưng lại nhiều đậu, nên chúng tôi nhớ rau tươi. Khi nào có rau thì mọi người hạnh phúc. Chúng tôi chuẩn bị buổi ăn tối và ăn chung với nhau rất vui, mà dụng cụ nấu bếp chỉ là một ấm nấu nước sôi ½ lít. Thau rửa rau là những cái túi ni lông. Trong trường hợp nào chúng tôi cũng xoay xở được. Chương trình của chuyến đi cũng khá dày, nhưng nhờ anh chị em sống vui với nhau và hòa hợp, nên mọi thứ trở nên nhẹ nhàng. Anh Shantum phát hiện ra tôi biết các loại rau dại thì vô cùng ngưỡng mộ, những loại rau mọc trên đất nước ông, ông không biết mà tôi lại rất rành. Thực ra thì chỉ là những thứ rau sam, rau dền thôi. Những ngày sau đó, đến đâu, ngay cả những nơi công cộng, ông cũng giới thiệu tôi là một chef cook (đầu bếp trưởng) và một herbalist (thầy thuốc, người hay nghiên cứu về dược thảo). Tôi thì mắc cỡ cho những lời giới thiệu này, còn anh Shantum thì lấy làm đắc ý. Ông thích như thế hơn là giới thiệu tôi trước đây là cô giáo. Mọi người có vẻ ngưỡng mộ. Sau đó có mấy người tới hỏi tôi và xin chỉ cho họ những loại rau ấy. Thấy mắc cười trong bụng tôi nhưng cũng dẫn họ ra bờ rào chỉ. Thậm chí có người lại đến hỏi tôi: “Sư cô ơi, tôi bị nổi mấy cái hạt đỏ đầy người, ngứa và rát lắm, đã mấy ngày rồi. Cô có cách gì giúp tôi không? Có loại lá nào để xức không?” Cứ như thể tôi là một thầy thuốc thứ thiệt vậy. Tôi ôm bụng cười thầm. Về kể lại cho mấy anh chị em, ai cũng “cười lăn”.

 

Mình là môi trường, môi trường là mình

Ấn Độ, môi trường ô nhiễm nhiều quá. Đi ra đường một chút là hai lỗ mũi đen thui. Ở đây người ta bị suyễn nhiều, chắc phần lớn là do khí hậu. Ấn Độ là một đất nước đang phát triển, chênh lệch giữa người giàu và nghèo cũng lớn. Hình như ở đây họ không ý thức nhiều về môi trường. Chúng tôi đến đây hơn cả tháng mà chỉ có một ngày là thấy được trời xanh, mà cũng không xanh lắm, xanh lơ thôi. Còn lại là một màn dày xám xịt. Nhìn không khí nơi đây tôi có một ước mơ phác họa đồng phục cho các em học sinh. Ở đây mỗi trường đều có một kiểu và sắc màu đồng phục riêng chứ không phải tất cả đều quần xanh áo trắng như ở Việt Nam. Đồng phục mà tôi mơ ước là áo màu xanh da trời, quần (hay váy) màu xanh lá cây đậm, giày màu nâu đất. Tất cả trời đất phối hợp với nhau thật hài hòa. Sở dĩ tôi có ý tưởng này là vì tôi thấy, nếu không có yếu tố hòa hợp thì sẽ không làm gì được. Đồng thời cho các em thấy được mình là thiên nhiên, thiên nhiên là mình và yêu thiên nhiên ngay từ nhỏ, để các em ý thức hơn về môi trường, tạo ra một ý thức và năng lượng cộng đồng tốt, tạo cho môi trường trong lành, khí hậu ôn hòa và đất mẹ được xanh tươi.

Đời mình là những trang sách mở ra

Cuối chuyến đi, chúng tôi có cơ hội viếng thăm viện bảo tàng Gandhi. Thật cảm động! Lúc nhỏ ba tôi thường kể về Thánh Gandhi cho tôi nghe, nhất là mỗi lần tôi có những vụng về, yếu kém, không chịu nghe lời. Tôi thương Thánh Gandhi từ đó. Một người có nhiều tình thương và bản lãnh. Đặt những bước chân trên con đường Ngài đã bước những bước cuối cùng từ phòng ra nhà cầu nguyện và nơi Ngài bị ám sát mà lòng rung động, nước mắt tôi như cứ muốn rơi xuống. Tôi ý thức rất rõ là mình đang thăm viện bảo tàng cho ba. Tôi thấy ba cũng có nhiều nét giống Ngài. Tôi chụp rất nhiều hình để gởi về cho ba xem. Điều đặc biệt ở viện bảo tàng này là người ta không cấm chụp hình như hầu hết những viện bảo tàng khác, thật đáng ngạc nhiên. Đúng như Ngài đã nói: “My life has been an open book. I have no secrets and I encourage no secrets” (Cuộc đời tôi là những trang sách mở ra. Tôi không có gì bí mật và tôi khuyến khích mọi người đừng giữ bí mật). Tôi thấy cảm động trước tấm lòng rộng lượng từ bi của Ngài. Sau khi vào trong thăm những cổ vật và những di ảnh lịch sử của Ngài, chúng tôi ra ngoài, cũng trong khuôn viên bảo tàng viện, ngồi yên trên bãi cỏ xanh, để cho năng lượng từ bi bất bạo động và ý chí kiên cường của Ngài thấm đẫm vào mình. Và tôi cũng muốn gởi nguồn năng lượng thánh thiện này đi khắp muôn phương, đến với tất cả mọi người, đặc biệt là những người trong ban tổ chức, đã hết lòng đứng đằng sau để sắp xếp, yểm trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi hoàn thành sứ mạng của mình một cách tốt đẹp.

Còn bao nhiêu điều lý thú nữa muốn mở ra cho tất cả, nhưng bài viết đã khá dài nên xin tạm đóng lại, hẹn sẽ mở ra lại vào dịp tới.

Đi thăm Bụt

Về lại Ấn

Rời Bhutan trong niềm quyến luyến, chúng tôi lên xe buýt trở lại Ấn Độ. Trên đường, mọi người tiếp tục ngắm núi ngắm mây, tận hưởng những giây phút cuối cùng ở Bhutan. Về đến biên giới Ấn Độ, không khí môi trường hoàn toàn khác hẳn. Ồn ào, nóng bức, bụi bặm, tuy hai nước nằm sát nhau. Chúng tôi về lại nhà nghỉ ở Padgodha để hôm sau bay đến New Delhi tháp tùng phái đoàn Phật giáo quốc tế, tham quan những khu Phật tích, mặc dù đây không phải là mục đích chính của chúng tôi trong chuyến đi này. Đoạn đường từ biên giới đến Padgodha có rất nhiều ổ… không phải là ổ gà mà là “ổ voi”. Xe cứ đưa mình sang trái rồi đưa sang phải, có khi nhấc bổng người mình lên rồi bất thình lình thả xuống. Chúng tôi không muốn mình là nạn nhân của những “ổ voi” này nên cứ việc thả lỏng cơ thể để cho chiếc xe đưa mình đi đâu thì đi, không kháng cự, cứ để xe tự massage cho mình. Chúng tôi cứ phá lên cười mỗi khi xe nhấc bổng mình lên khỏi ghế. Nhờ vậy mà chúng tôi không thấy mệt trên một đoạn đường dài mấy tiếng đồng hồ. Tôi thấy hay và lạ. Nếu là trước đây khi chưa đi tu, tôi sẽ mệt nhừ tử khi đi trên những đoạn đường như thế và sẽ đặt không biết bao nhiêu câu hỏi cho không biết bao nhiêu lần rằng, tại sao người ta không sửa đường? Tại sao người ta để tình trạng như thế?

 

Đi thăm Bụt

Chúng tôi nghỉ ở đây (Padgodha) một đêm, hôm sau bay đến New Delhi, thủ đô của Ấn Độ. Chúng tôi được đưa đến khách sạn Asoka, khách sạn sang trọng nhất nước Ấn. Mỗi người một phòng mà phòng nào cũng rộng lớn có thể chứa được hết tất cả các anh chị em tôi. Khi mới bước vào tôi cảm thấy hơi lúng túng, không biết phải làm gì. Ai cũng thấy xót xa. Phí quá, mọi người đều nói như vậy. Nhưng điều này nằm ngoài tầm tay của mình. Mình đâu phải ban tổ chức. Thôi thì họ sắp đặt sao mình theo vậy. Trong cuộc hội nghị Phật giáo này gồm nhiều nước, có cả Việt Nam, nhưng hình như phần lớn là để kêu gọi du lịch. Trong số đó có một đức cha mà chúng tôi tình cờ gặp ở bàn ăn. Cha rất thân thiện và cởi mở nên bắt chuyện làm quen ngay với chúng tôi và theo chúng tôi trong suốt chuyến đi mặc dù cha đã trên 50 tuổi, còn chúng tôi thì đa số là những người trẻ. Tôi không đặt cho mình một mục đích, mong ước nào cả cho chuyến đi này. Chỉ có mặt hết lòng và trân quý những gì đang diễn ra. Phương tiện đi lại trong những ngày này là máy bay. Đến đâu chúng tôi cũng được đón tiếp long trọng. Xuống máy bay là chúng tôi được tiếp đón bằng nhạc, kèn, trống theo văn hóa Ấn. Hai hàng người hai bên tiếp đón, rải hoa, đeo tràng hoa cho từng người. Người ta chấm trên trán mỗi người một vết son đỏ, đây là phong tục tiếp đón của họ. Đi nhiều nơi mà đến đâu người ta cũng đón tiếp như thế, rất trang trọng, làm cho mình cứ có cảm tưởng như đây là lần đầu tiên đặt chân lên nước Ấn. Đặt những bước chân nơi đây, tôi ý thức là mình phải bước cho thật bình an, thở cho thật nhẹ nhàng. Mình phải bước cho Bụt, phải thở cho Bụt vì mình là sự tiếp nối của Bụt. Tôi bước và thở cho Bụt mà cũng là bước và thở cho tôi và cho các thế hệ tương lai. Có thể ngày xưa Bụt chưa đi qua những nơi này vì hồi xưa chưa có máy bay, chưa có phi trường, hay nếu Bụt đã đi qua thì lúc đó nơi này mới chỉ là làng mạc hay những cánh đồng không. Khắp nơi, hai bên đường, người ta giăng đầy biểu ngữ “Welcome to the International Bhudhist Conclave” (Chào mừng phái đoàn đến với hội nghị Phật Giáo quốc tế).

Ngồi trên máy bay ngắm nhìn khung cảnh ngoạn mục bên dưới, những mẫu ruộng xanh tươi, những ngôi nhà được thu nhỏ, những con sông, dòng suối, những đám mây bồng bềnh đủ hình dáng… làm tôi nhớ lại lần đầu tiên ngồi trên máy bay từ Việt Nam sang Pháp, nhìn ra khung cảnh bên dưới tự nhiên tôi có một ước mơ là ai cũng có ít nhất một lần trong đời được đi máy bay. Bây giờ ngồi đây tôi cũng có cùng ước mơ ấy.

Hành lý tôi mang theo có cả một tượng Bụt nhỏ và ba thiên thần. Đến đâu tôi cũng bày những thứ ấy ra, xem đây là nhà của mình dù có nơi chỉ ở được một hay hai ngày. Buổi sáng thức dậy, uống trà với Bụt và thiên thần. Những giây phút bình yên đầu ngày như thế là thức ăn nuôi dưỡng tôi.

Có ngày, bước vào phòng, kéo màn ra là một mặt trời đỏ ửng sắp lặn. Tôi đứng yên và hít thở thật sâu, rồi tự hỏi có phải mặt trời này là mặt trời mà Bụt đã ngắm cách đây 2600 năm không? Tôi mỉm cười sung sướng và tiếp tục nuôi dưỡng ý thức trong mình có Bụt. Tối đó chúng tôi được đưa ra sông Hằng để xem buổi lễ cầu nguyện. Sông Hằng được xem là con sông linh thiêng của người Ấn. Xe đi vào thành phố, khu phố cổ nhất ở Ấn có mặt cách đây 5000 năm. Trên đường đi có cảnh sát đứng dẹp đường cho xe đi qua. Hội nghị này do nhà nước tổ chức nên về mặt hình thức rất chu đáo. Với lượng công an cảnh sát nhiều như thế chắc cũng được điều từ nhiều nơi về. Dân làng, già trẻ gái trai đều đổ ra hai bên đường đứng xem. Nhìn họ trông thật hiền lành. Họ vẫn còn mang những nét chân chất và xa xưa của những người xưa cổ. Có lẽ họ được thừa hưởng từ nền văn minh lâu đời của họ. Công an và cảnh sát cũng vậy. Họ cũng cầm súng và cầm gậy nhưng khuôn mặt của họ rất hiền lành, không lộ một chút giận giữ hay căng thẳng. Dường như súng và gậy của họ chỉ để cho dân biết họ là công an cảnh sát để không làm những điều sai trái vậy thôi. Nhìn họ thấy thiện cảm liền. Ở sông Hằng, họ lập nên mười một giàn cầu nguyện. Mỗi giàn gồm một người con trai và năm người con gái trong trang phục truyền thống. Họ múa đủ các loại nhạc với những khay nến được xây thành hình tháp trên tay. Rồi họ tụng kinh và hát những bài hát truyền thống. Họ xoay đủ bốn phương để cầu nguyện. Trăng tròn cũng đang lên, đêm nay là đêm rằm. Ánh trăng làm cho đêm nay tăng thêm vẻ huyền bí. Quanh năm, đêm nào cũng có người cầu nguyện như thế trên con sông này, chỉ hơi khác là hôm nay đông hơn và hoành tráng hơn. Mọi người đến rất đông. Tôi nghĩ là ngày xưa chắc Bụt cũng từng tham dự những buổi lễ như thế. Tôi muốn đặt chân xuống nước, nơi mà ngày xưa Bụt cũng đặt chân xuống, nhưng không tiện. Ai cũng thấy tiếc là mình không được đặt chân trên dòng sông này, không được đi bộ dọc bờ sông. Nhưng may quá, ngày hôm sau, anh Shantum đưa chúng tôi trở lại sông Hằng ở một bến khác. Ở đây, chúng tôi được đi thuyền trên sông. Khung cảnh thật diễm lệ. Ai cũng cảm động. Chúng tôi ngồi yên trên thuyền ngắm mặt trời mọc với ý thức là ngày xưa Bụt cũng đã từng ngắm cảnh này. Tại con sông này, người ta cầu nguyện, tắm giặt, đánh răng, súc miệng, tất cả đều diễn ra trên một khúc sông mà khoảng cách giữa họ không xa là mấy, như thể nước sông có thể tẩy đi tất cả những dơ dáy bụi trần của họ. Nước sông thì đục ngầu mà họ thì lại thấy rất linh thiêng. Đúng là niềm tin! Trên thuyền, cũng có người lên theo để bán cá sống, đây là nghề của họ. Chúng tôi mua một ít để thả. Nâng những con cá trên tay để thả xuống dòng sông tôi thấy cảm động, ngày xưa ba tôi cũng đã từng làm như thế. Khi nào mấy chị đi chợ ba cũng dặn mua cá ra hồ thả. Tôi cảm động là thấy mình thật may mắn được tiếp nhận những hạt giống lành từ ba. Đi được một đoạn đường dài thì thuyền quay lại cập bến. Chúng tôi lên bờ và đến thăm những giàn hỏa thiêu. Một giàn đã cháy hết thành tro nhưng hơi ấm vẫn còn đó. Một giàn đang bốc cháy. Chúng tôi đến gần hơn thì thấy hình ảnh một cụ già đang nằm teo tóp trên giàn lửa, mặt mũi và hai chân đã teo lại vì sức nóng. Phần giữa thì đã cháy hết, không còn thấy rõ gì nữa. Chúng tôi đứng yên rất lâu và gởi năng lượng lành đến cho cụ, mặc cho hơi nóng táp vào mặt và những đốm lửa lách tách bay lên cao biến thành tro và rơi xuống đầy người. Chung quanh đó là những đống củi lớn được chất lên. Đằng kia nữa là một xác chết khác đang được chờ để đặt lên giàn hỏa. Người ta sẽ không thiêu một lần hai giàn. Người chủ xướng cho công việc này kể lại, họ đem những người già sắp chết, không nơi nương tựa về đây, cho họ uống sữa, chăm sóc, đợi ngày người ấy nhắm mắt thì làm lễ cầu nguyện và đưa lên giàn hỏa. Tôi cứ tưởng những cảnh tượng này chỉ còn lại trong lịch sử của những thời xa xưa, ấy thế mà bây giờ đang diễn ra trước mặt mình. Tôi không biết phải diễn tả tâm trạng mình như thế nào.

Đến đây tôi chứng kiến được nhiều thứ mà mình cứ nghĩ là chỉ còn trong sách vở. Ở đây bò vẫn còn được coi là con vật linh thiêng. Nó đi bình an mà cũng ngang nhiên giữa lòng đường phố. Mọi người hay xe cộ qua lại phải tự tránh nó. Hầu như không thấy người chăn dắt nó. Nó tự đi, mọi người tự tránh. Không biết nó có nhớ đường về nhà không nữa? Phân của nó người ta làm thành từng bánh, trét lên đầy tường, đầy các thân cây để phơi khô, sau đó họ dùng để nướng bánh như than vậy.

Trong những ngày này hầu như ngày nào chúng tôi cũng di chuyển. Di chuyển bằng máy bay, nhưng không cần phải check in, người ta đã in vé sẵn cho mình. Phái đoàn đông lắm, khi nào cũng đi hơn một máy bay. Chúng tôi đến Bodhgaya, Varanasi, Gaya, đến thăm những nơi mà ngày xưa Bụt ở, Bụt ngồi thiền, thuyết pháp. Đặt những bước chân lên những khu thánh địa này, tôi ý thức là ngày xưa Bụt cũng đã từng đi qua đây, những dấu chân của Ngài vẫn còn đó như lời của Thầy thường nhắc nhở. Chúng tôi bước đi trong niềm thương kính lắng đọng, tuy chung quanh mọi người vẫn ồn ào, náo nhiệt. Chúng tôi không biết ban tổ chức có thực tập không hay chỉ đưa khách đi tham quan. Nhưng đến đâu chúng tôi cũng có cảm giác là mình không đủ thời gian để tận hưởng cho lâu và cho sâu năng lượng của Bụt. Đến Bodhgaya đông nghẹt cả người, đông quá. Hỏi ra mới biết, thường ngày không đông như vậy, hôm nay có đoàn du khách đến, nên mới đông như thế. Trước cảnh tượng này tôi nảy lên một ước mơ là mình đừng bao giờ nổi tiếng để người ta không ồ ạt kéo đến, để giữ cho nơi mình ở được thanh bình và yên lắng. Để cho mọi người khi đến cảm được năng lượng bình yên này. Trở về lại khách sạn chúng tôi thấy tiếc là mình không được ngồi yên dưới cội bồ đề ở đây, mặc dù cội bồ đề này không phải là cội ngày xưa Bụt ngồi, chắc nó là cháu mấy đời của cây bồ đề gốc rồi. Sáng hôm sau, chúng tôi rủ nhau đi bộ qua đây vì khách sạn chúng tôi ở rất gần. Không khí yên tĩnh, lắng đọng của buổi sáng làm cho nơi này trở nên linh thiêng hơn. Không giống như hôm qua đến, chúng tôi ngồi thiền ở đây khá lâu. Đó là buổi sáng thích nhất trong những ngày viếng thăm Phật tích.

Chúng tôi cũng được Shantum đưa đi thăm một nơi mà ngày xưa cô gái Sudata đã cứu sống Bụt bằng bát sữa của mình lúc Ngài kiệt sức sau sáu năm khổ hạnh (Điều này nằm ngoài dự tính). Và người ta đã xây lên một cái tháp lớn để tưởng niệm. Đoạn đường này cũng nhiều ổ voi lắm. Chúng tôi đi bằng xe lam. Người nào cao là đầu sẽ đụng trần xe. Mỗi lần đi ngang ổ voi, chúng tôi lại bảo nhau thụt đầu vào, thụt đầu vào, như thể mình là một con rùa. Một con rùa đang cỡi trên lưng ngựa.

Một lần cho mãi mãi

Thăm những khu Phật tích xong, chúng tôi chia tay phái đoàn để bắt đầu công việc chính của mình – hướng dẫn khóa tu, ngày quán niệm và chương trình Wake Up. Chúng tôi đến ở lại một khu resort khá đẹp, yên tĩnh, có nhiều cây xanh, rất thiên nhiên và rất lành. Vừa đặt chân đến đây là thấy khỏe nhẹ như thể mình để lại sau lưng những huyên náo rộn ràng của du khách, những lao xao bận rộn của những ngày di chuyển qua. Nhìn cây cối vườn tược nơi đây, tôi thấy họ rất quan tâm đến môi trường và thiên nhiên. Nhìn cách chăm sóc của họ tôi cảm là họ thấy được môi trường là mình, mình là môi trường. Những ngày ở đây thật thích. Thích hơn là ở những khách sạn sang trọng. Rất thiên nhiên và rất lành. Đó là lý do tôi nói: “Không biết có gặp Bụt không nữa. Nhiều khi gặp hàng xóm mà tưởng là Bụt, nhiều khi gặp Bụt mà tưởng là hàng xóm”. Mặc dù những ngày trước, khi viếng thăm Phật tích, lúc nào mình cũng ý thức là Bụt luôn còn đó. Ý thức đôi khi cũng cần phải vắng mặt để mình thật sự cảm nhận sự kiện một cách nhẹ nhàng và sâu lắng hơn. Bởi vì trên hình thức, Sanskriti không phải là thánh địa mà sao thấy nhẹ nhàng, thanh thản. Đâu phải đến đất Bụt mới gặp được Bụt? Ở đây, gia đình sư em Bảo Tích cũng thường đến thăm, mang theo nhiều loại trái cây và bánh trái. Đặc biệt là xoài, lựu và đu đủ ở đây rất ngon. Ba mẹ sư em rất thân thiện, nhất là mẹ rất cởi mở. Mẹ cưng sư em lắm.

 

Thức ăn nuôi dưỡng tôi hằng ngày ở đây là những buổi sáng yên lắng, ngồi yên, uống trà chơi với Bụt và thiên thần. Lắng nghe chim hót, ngắm nhìn mặt trời đang lên hay giẫm chân trên những hạt sương còn đọng trên cỏ, thật tinh khôi và mát lành. Một buổi sáng như thế đủ nuôi tôi một ngày. Có những ngày làm biếng, mấy anh chị em ra uống trà ở hồ hoa súng. Rất thiên nhiên và thanh bình. Có ngày anh chị Shantum, Ghitu và hai cháu nhỏ cũng đến chơi chung.

Ngày cuối cùng ở Sanskriti thật ấn tượng. Người ta cũng tổ chức đám cưới nơi đây, họ chuẩn bị rất chu đáo. Đủ các loại hoa được kết thành từng tràng treo khắp nơi, đây cũng là phong tục của họ. Đi đâu cũng thấy họ bán những tràng hoa như thế. Rồi họ rải đầy những cánh hoa cúc trắng, cúc vàng, cúc cổ đồng theo nhiều kiểu hình khác nhau. Họ lại vun lên thành những đống nhỏ hình tháp đứng cạnh nhau, rất đẹp. Bước vào cổng, đập vào mắt mình là những hình ảnh đẹp như thế. Chung quanh có đèn cầy được thắp sáng suốt đêm. Đi sâu vào trong là một cái hồ, diện tích chắc cũng mười mấy mét. Hồ không có nước nhưng đáy hồ bằng phẳng được rải lên bởi vô số cánh hoa hồng. Hương thơm tỏa ra ngào ngạt. Từ đáy hồ đi lên bờ là những bậc tam cấp được rải bằng những cánh hoa cúc, đủ màu, mỗi bậc mỗi màu. Người ta rải kín hết cả đất. Bên kia nữa, là nơi tụ hợp nhảy múa cũng được trang trí như thế thành hình tròn, rất đẹp. Chúng tôi chưa bao giờ thấy một cảnh tượng được trang trí với nhiều hoa đẹp tuyệt vời như thế. Với số lượng hoa này thì chắc chắn người ta đem từ nhiều nơi về, hay là phải đặt trước cho những nhà trồng hoa mới có đủ. Ở Ấn Độ người ta có truyền thống làm lễ cưới vào ban đêm. Có lẽ là để tăng thêm vẻ huyền bí. Tuy chuẩn bị khá công phu và chu đáo nhưng cả chủ lẫn khách, không ai có đủ thời gian để tận hưởng. Người ta bận rộn với khách khứa, ăn uống, nhảy múa, đến khuya thì đã mệt nhoài. Sáng mai mọi thứ vẫn còn y nguyên. Thế là mấy anh chị em tha hồ thưởng thức. Chúng tôi ngồi yên, uống trà và ngắm hoa. Đó là lần đầu tiên trong đời chúng tôi. Một buổi sáng đầy ấn tượng. Lần đầu tiên mà có lẽ cũng là lần cuối cùng. Một lần cho mãi mãi.

Sông núi Bhutan

 

Sông núi Bhutan

Sông ôm núi cho mây lành kết tụ

Ôm ruộng đồng cho lúa trổ đầy bông

Ôm phố phường cho em thơ về ngủ

Cho tình người mãi bước bước thong dong.

Nước sông trong cho lòng em thêm sáng

Núi vững xanh cho chí khí em cao

Tâm hồn em là những vì sao

Tỏa ánh sáng giữa đêm dài tăm tối

Em ở đây cho tôi hằng lui tới

Để nuôi mình bằng hơi thở núi sông

Bằng nhân từ, khiêm cung và độ lượng

Bằng hồn nhiên, tuổi thơ em trắng trong.

Sông núi đã sinh ra em

Đất mẹ đã sinh ra em

Chất liệu đẹp lành thánh thiện

Chắp tay tôi nguyện cầu cho em

Luôn giữ mãi màu xanh

Của núi sông đất mẹ

Bằng ý thức tin yêu

Để nuôi em, nuôi triệu trái tim lành.

Bhutan

Hôm sau chúng tôi bay đến Bhutan. Bhutan là một đất nước được xem là một trong những nước hạnh phúc nhất thế giới. Tôi thấy mình quá đỗi may mắn và hạnh phúc được đặt chân lên đất nước này. Bhutan rất đẹp, nên khi máy bay sắp đến địa phận Bhutan người ta đua nhau chụp hình. Xuống máy bay là thấy khỏe ngay. Từ Ấn bay qua Bhutan chỉ có 40 phút mà khung cảnh và khí hậu rất khác. Đẹp và trong lành. Đặt những bước chân đầu tiên trên đất nước này, tôi ý thức là mình phải thở cho ba, phải bước cho ba. Hai người ra đón chúng tôi là chú Thọ, một giáo thọ cư sĩ của Làng người Pháp gốc Việt và một người nữ Bhutan trong trang phục truyền thống. Họ quàng vào cổ chúng tôi những chiếc dãi trắng dài, đây là phong tục chào đón của họ, rất trang trọng. Con đường từ phi trường đến thủ đô rất đẹp. Chung quanh là núi đồi xanh tươi và những con suối dòng sông chảy dài đến vô tận. Bhutan là một thung lũng nên đi đâu cũng thấy sông núi đẹp như thế. Khung cảnh và khí hậu nơi đây tương tự như ở Sapa mình, nhưng con người thì văn minh tiến bộ hơn. Chắc chắn rồi. Vì nơi đây có một ông vua rất nhân từ.

Trên đường, thỉnh thoảng chúng tôi dừng xe lại ngắm cảnh, khung cảnh tú lệ và khí hậu mát lành làm cho người mình khỏe khoắn và tỉnh táo hẳn ra. Chúng tôi ghé ăn cơm trưa ở một tiệm bên đường. Thức ăn rất tươi và lành. Ăn cơm xong chúng tôi được đưa về nhà trọ. Quý thầy thì ở lại nhà một người Phật tử. Ngôi nhà đẹp và thoải mái. Nhìn ra là thấy núi.

Bhutan nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc, có 70% dân số là đạo Bụt, 20% là Hồi Giáo, 10% là Thiên Chúa Giáo. Là một đất nước Phật giáo nên đạo Bụt phát triển rất mạnh. Học sinh được học về đạo Bụt trong trường học, bắt đầu từ lớp ba. Mỗi ngày các em tập trung trong một hội trường lớn để ngồi thiền trong vòng hai phút trước khi vào lớp học. Hai phút thì ngắn ngủi, nhưng làm mỗi ngày là nhiều lắm. Có lẽ vì vậy mà tâm hồn các em rất trong sáng, hiền lành, hồn nhiên và thánh thiện. Các em chân chất nhưng không quê mùa. Dân chúng cũng vậy, rất hiền lành. Có lẽ họ được thừa hưởng những đức tính quý báu này từ tổ tiên của họ và từ ông Vua đang trị vì. Vua nhân từ lắm, dân chúng rất thương ông. Ông rất chú trọng đến hạnh phúc của dân. Ở đây bệnh viện miễn phí hoàn toàn cho tất cả mọi người, kể cả người nước ngoài. Họ cũng thực tập một ngày không đi xe hơi mỗi tuần, kể cả Vua. Nếu cần thiết, họ sẽ đi taxi. Số lượng taxi cũng được giảm xuống một nửa. Thimpu là thủ đô của Bhutan, nhưng rất yên tĩnh, chung quanh toàn là sông núi. Có lẽ sông núi đã tạo nên những con người hiều lành, thánh thiện nơi đây. Chúng tôi ở Bhutan bảy ngày, trong đó có bốn ngày hướng dẫn thực hành quán niệm cho các em học sinh từ 13 đến 18 tuổi, còn lại là đi tham quan. Chương trình này do Gross National Happiness Center (Trung tâm Tổng hạnh phúc quốc gia) tổ chức, chúng tôi chỉ đến hướng dẫn. Hai Công Chúa cũng ra dự lễ khai mạc. Họ rất gần gũi, thân thiện và nhân từ, không những đối với khách mà đối với học sinh, dân chúng của họ cũng vậy. Một đất nước thật may mắn. Chúng tôi chia sẻ những pháp môn thực tập nhưng chính mình cũng được học hỏi rất nhiều từ họ, học từ bản chất trong sáng và thánh thiện, từ những đức tính khiêm cung và nhân từ. Đến đây, những bước chân của mình bỗng trở nên nhẹ nhàng và bình an hơn. Không bao giờ là hấp tấp, vội vàng. Con người ở đây là vậy, môi trường ở đây là vậy. Đúng là môi trường là mình, mình là môi trường. Không cần cố gắng gì cả, tự nhiên vậy thôi. Con người họ rất thư thái. Tôi cứ đùa với mấy chị em rằng ở đây không biết dạy cho họ buông thư như thế nào, vì thấy họ còn buông thư hơn mình nữa, không bao giờ vội vã, gấp gáp cho dù trễ giờ cũng vậy, họ cứ thong thả mà đi. Có lẽ mình phải học cách buông thư từ họ? Ông Samdo là một trong những người như thế, rất cởi mở, thân thiện, hài hước và khiêm cung. Ông tiếp đón chúng tôi rất chu đáo và theo sát chúng tôi trong những ngày ở đây. Chúng tôi được gặp ông Bộ Trưởng bộ giáo dục, ông chia sẻ rất chân tình. Cách nhìn nhận vấn đề của ông rất hay. Ông nói: “Cái quan trọng của người thầy giáo cô giáo là phẩm chất của mình. Cách mình đi vào lớp, cách mình đặt quyển sách xuống bàn, cách mình viết bảng, cách mình mở sách, cách mình hành xử… những cử chỉ ấy sẽ đi vào các em học sinh mà không phải là kiến thức mình trao truyền. Với lượng kiến thức đó, ngày nay các em có thể tự tìm kiếm trên mạng để học hỏi mà không cần đến mình. Cái mà các em học là nhân cách của mình.” Ôi, sao giống người tu thế nhỉ?

Chúng tôi đến trường mỗi ngày để hướng dẫn những ngày quán niệm cho các em học sinh. Bước những bước chân an lành đầu ngày trên những con đường yên tĩnh này làm cho người mình sảng khoái. Đoạn đường từ nhà nghỉ đến trường học khoảng 20 phút đi bộ. Con đường đến trường của những buổi sáng thật đẹp. Nếu đi đường tắt, mình sẽ băng qua những con suối và quanh đó là những đám hoa dại đủ sắc màu mọc rải rác khắp nơi. Thật trong lành và thanh khiết. Tôi bước đi từng bước nhẹ nhàng, bình an, hít thở không khí trong lành cho ba, khí hậu như thế này chắc chắn ba sẽ khỏe mạnh, tươi vui hơn. Năng lượng tràn đầy sức sống. Sinh hoạt bắt đầu từ 9 giờ sáng nên chúng tôi có nhiều thời gian cho buổi sáng của mình. Sư em Mai Nghiêm thích đi bộ vào sáng sớm. Sư chị Đẳng Nghiêm thích tập thể dục. Sư em Đàn Nghiêm thích ngủ thêm cho đủ giấc. Hai em cư sĩ làm việc riêng trong phòng. Tôi thì thích dậy sớm, ngồi yên, uống trà, ngắm núi, ngắm mây, nghe tiếng suối chảy. Thích lắm! Khung cảnh ấy làm cho không gian trong mình bao la. Bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến hết. Ở Bích Nham, Sư chị Đẳng Nghiêm đang bệnh, nhưng đến đây thì sư chị lại khỏe hơn nhiều. Tôi thấy giống như mình đang được đi nghỉ mát vậy. Chúng tôi thường đến trường sớm, có khi ngồi ở lan can trên lầu uống trà với nhau và ngắm núi. Mấy chị em cứ trầm trồ, mình thật sang trọng, từ Pháp bay qua Bhutan ngắm núi. Chúng tôi đã nuôi mình bằng hơi thở núi sông nơi đây.

Chúng tôi bắt đầu thời khóa cho các em bằng thiền hướng dẫn, sau đó quý thầy quý sư cô cho pháp thoại. Nhìn khuôn mặt rất ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng của các em ai cũng hạnh phúc và có nhiều cảm hứng. Trong nguồn cảm hứng ấy, thầy Pháp Dung chia sẻ pháp thoại mà cứ như là Bụt nhập vào hồn thầy. Thầy bắt đầu bằng câu chuyện thời thơ ấu của Bụt với những làn khói sage tỏa ra nghi ngút (Có lẽ thầy cũng muốn bắt đầu bằng những nét văn hóa của họ, văn hóa thờ cúng ông bà tổ tiên). Ai cũng có nhiều cảm hứng lắng nghe. Hôm ấy thầy giảng về Bát chánh đạo. Thầy hỏi các em Bát chánh đạo gồm những gì? Các em trả lời răm rắp: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Thế mới biết là các em được học những điều ấy ở trường. Sau đó thầy bật mí là thầy không dám hỏi gì thêm nữa vì sợ các em nói thêm những điều mình chưa biết. Thực ra thầy khiêm cung thế thôi. Tuy nhiên các em phần nhiều chỉ được học trên lý thuyết. Với tài năng khéo léo, thầy đưa các em đến thực hành. Và đó cũng là nội dung chính của suốt chuyến đi – Đem đạo Bụt ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày qua trường lớp, gia đình và xã hội, gọi là Đạo đức học ứng dụng. Làm thế nào để biến lớp học thành gia đình thứ hai của mình. Sau thời pháp thoại là đi thiền hành, ăn cơm trưa, thiền buông thư và pháp đàm, có ngày thì vấn đáp. Quý thầy quý sư cô khác thay nhau hướng dẫn. Các em rất nhiệt tình và năng nỗ, thực tập hết lòng. Có em thấy thế, thích quá gọi điện cho ba em lên tham dự, mặc dù chương trình chỉ giành cho các em học sinh. Chúng tôi hướng dẫn như thế trong suốt bốn ngày cho 200 học sinh. Chúng tôi thấy mình được nuôi dưỡng nhiều bởi các em, bởi khung cảnh, khí hậu và con người nơi đây. Bhutan là một đất nước đang phát triển, người ta cũng đang xây dựng thêm nhiều khách sạn. Nhưng phát triển như thế nào thì tôi cũng mong sao cho họ luôn giữ được màu xanh của núi sông, giữ mãi không khí trong lành, vì chính những yếu tố ấy đã tạo nên những con người hiền lành, thánh thiện nơi đây. Chúng tôi yêu Bhutan mất rồi.

Ba đi Ấn

Chân Hội nghiêm

Ba đi Ấn

–          Ba ơi, mai con đi Ấn.

–          Cho ba đi với, cho ba đi thăm Bụt với !

Trước khi đi đâu xa khỏi Làng, tôi thường gọi điện cho ba mẹ để hỏi thăm sức khỏe và báo tin là tôi đi đâu đó để ba mẹ không trông điện thoại của tôi trong những ngày này. Thường thì ba tôi nói: «Chúc sư cô đi vui, nhớ giữ gìn sức khỏe nhé.» Nhưng lần này thì: «Cho Ba đi với, cho ba đi thăm Bụt với!»

Câu nói của Ba khích lệ tôi rất nhiều, cho tôi thêm cảm hứng và trân quý hơn chuyến đi của mình. Tôi chuẩn bị hành lý trong niềm phấn khởi với ý thức là mình sẽ đi Ấn cho ba, sẽ mang ba theo mình. Tôi ra đi trong một niềm hân hoan. Các sư em chuẩn bị cho tôi thật chu đáo. Bình thường đi đâu tôi chỉ xách theo mấy bộ đồ và những thứ thật cần thiết. Lần này thì… nào là mì gói, rong biển, nào là muối xả, muối ớt, nào xì dầu, bánh Pháp… Các em nói thức ăn bên đó khó ăn lắm, những người đi đợt trước về bảo là thức ăn bên đó ăn không được. Rồi nào là đồ cạo gió, nào là xà bong giặt, các em nói ở bên đó dơ và nóng lắm nên đem theo xà bong để giặt đồ cho tiện, bên đó trời nắng phơi đồ sẽ rất mau khô. Vì thế chuyến đi này tôi được xem là well prepared (chuẩn bị chu đáo).

Tôi đi bằng đôi chân của ba, thở bằng hơi thở của ba và nhìn bằng đôi mắt của ba. Tôi thăm Bụt cho ba. Ba tôi thương Bụt nên thương luôn nước Bụt, thương luôn những con người được sinh ra trên đất nước này, mặc dù ba tôi chưa biết gì về Ấn và những con người nơi đây. Có đi chăng nữa cũng chỉ trên sách vở. Ba tôi thương Ấn và thương người Ấn, như thể khi mình thương ai thì thương luôn cả gia đình, dòng họ, quê hương và đất nước của người ấy vậy. Tôi tận hưởng chuyến đi của mình hết lòng. Từ ngày đi đến ngày về. Một chuyến đi thật đầy.

 

Bụt hay hàng xóm?

Cuối chuyến đi, mọi người chia tay nhau. Người thì bay về Mỹ, người thì bay về Hongkong. Quý thầy đi thăm gia đình của sư chú Bảo Tích. Tôi và sư cô Đàn Nghiêm đáp máy bay về lại Pháp, đến phi trường lúc 11 giờ đêm. Quý thầy ra đón chúng tôi như đi đón các bậc Tôn túc từ Việt Nam qua, mang theo đầy đủ trà nước, áo ấm. Chúng tôi đi lúc Làng đang bước vào Thu và khi về lại là chuẩn bị sang Đông nên khí trời khá lạnh. Thầy Pháp Hữu và sư chú Giới Tạng đi đón, sợ quý thầy không đủ đồ ấm nên mang theo rất nhiều. Quý thầy kể cho chúng tôi nghe chuyện ở Làng. Chúng tôi kể cho quý thầy nghe sơ lược những chuyện ở Ấn. Sơ lược thôi, chứ hết thì không hết được. Chúng tôi về đến Xóm Hạ khoảng 2 giờ sáng. Khung cảnh rất yên tĩnh và vắng lặng, không một bóng người. Tất cả đều đi ngủ hết rồi. Chúng tôi nhẹ nhàng vào phòng và tìm chỗ của mình. Mọi người đổi phòng, chuẩn bị cho khóa an cư. Phòng sư em Đàn Nghiêm giữ nguyên, phòng tôi thì có thay đổi, tôi được chuyển sang một phòng khác, tôi được báo tin rồi, nhưng không biết là giường nào. Tôi bật đèn bên ngoài, nhẹ nhàng mở hé cửa cho ánh sáng lọt vào đủ để thấy giường nào trống, không người. Tôi nhẹ nhàng leo lên giường, đặt lưng xuống, ngủ một giấc đến sáng. Thì ra các sư em nằm đợi tôi về rồi ngủ quên hồi nào không hay.

Sáng mai căn phòng tôi cứ rộn ràng tiếng nói cười của từng nhóm các chị em đến chơi. Chúng tôi say xưa kể chuyện, nhiều khi cùng một chuyện mà không biết kể đi kể lại mấy lần. Có em hồ hởi hỏi: «Sư cô có gặp Bụt không?» Tôi trả lời: «Cũng không biết nữa, nhiều khi gặp hàng xóm mà tưởng là Bụt, nhiều khi gặp Bụt mà tưởng là hàng xóm cũng không chừng».

Có em đề nghị: «Thôi, sư cô thâu băng rồi ai vào chơi mở ra cho nghe, khỏi phải kể đi kể lại nhiều lần, hết hơi.» Tôi cười, ừ chắc sẽ làm thế.

Ngày đầu tiên trên đất Ấn


Chuyến đi của chúng tôi gồm có thầy Pháp Dung, thầy Pháp Siêu, sư chú Bảo Tích, sư cô Đàn Nghiêm và tôi bay qua từ Làng, sư cô Mai Nghiêm từ Hongkong, sư cô Đẳng Nghiêm từ Mỹ và bốn em cư sĩ, hai người từ Mỹ, một người từ Đức và một người từ Hà Lan. Nhân lực khá hùng hậu. Trong chuyến đi này, ngoài sư chú Bảo Tích là người Ấn, thầy Pháp Dung đã đến Ấn một lần, còn lại ai cũng mới đi lần đầu nên rất hồ hởi và phấn khởi. Đặt chân xuống phi trường là thấy thích rồi. Trên tường, người ta gắng một loạt những bàn tay bắt ấn cát tường làm cho mình thêm cảm giác gần gủi thân thương.

Chúng tôi được đón về nhà anh chị Shantum và Gitu. Anh chị Shantum và Gitu đã đến Làng tu học từ khi mới quen nhau, họ làm lễ cưới ở Làng và thường xuyên về Làng tu học nên trở thành thành viên rất thân thiết của Làng. Tối đó, chúng tôi được ăn cơm Ấn, theo phong tục Ấn. Không dùng muỗng đũa, chỉ dùng năm ngón tay của mình. Trong niềm hân hoan, phấn khởi, ai cũng vui thích hòa mình vào trong buổi ăn đó. Mọi người quây quần chung quanh chiếc bàn tròn. Trong bữa ăn có cả ông bà nội ngoại của mấy cháu nhỏ. Một bữa ăn gia đình thân mật và ấm cúng. Ngay từ đầu chúng tôi đã thấy gần gũi thân thiết như đây là nhà mình. Ngồi quây quần bên bàn ăn với nhiều món được bày lên, chúng tôi được hướng dẫn cách ăn, ăn thức gì với thức gì, sử dụng bàn tay của mình như thế nào. Rồi gia đình anh chị kể cho chúng tôi nghe thêm vài nét về truyền thống Ấn Độ. Tôi nhớ có lần làm thị giả cho Thầy, Thầy cũng dạy tôi ăn theo kiểu Ấn, Thầy lấy cơm và thức ăn bỏ lên bàn tay phải, rồi dùng ngón tay cái vo lại thành viên tròn, và cũng ngón tay cái này đẩy cơm vào miệng. Mình chỉ được dùng tay phải để ăn cơm thôi. Nhưng lúc đó thầy dùng cơm với muối xả, tương đối đủ khô ráo. Còn bây giờ ăn cơm với cà ri mà cũng ăn theo kiểu đó. Người ta chan cà ri lên cơm, dùng mấy ngón tay trộn đều cơm và cà ri lại với nhau rồi khoanh thành một nhúm, bốc lên, dùng ngón cái đẩy cơm vào miệng. Chúng tôi cũng được ăn bánh chapati, bánh mà hồi xưa Bụt cũng ăn như trong sách Đường Xưa Mây Trắng có nói đến. Một bữa ăn đáng nhớ! Thực ra không phải mình không được dùng muỗng nĩa, trên bàn cũng bày ra đầy đủ những thứ ấy, nhưng vì muốn hội nhập, muốn mình là một với gia đình, muốn học hỏi văn hóa của họ nên ai cũng muốn thử.

Nghỉ một đêm ở đây, hôm sau chúng tôi đến Padgodha, ngủ lại qua đêm để sáng mai bay đến Bhutan. Chiều đó chúng tôi có cơ hội đi dạo trên những con đường làng chung quanh. Trên đường quốc lộ thì đầy những tiếng ồn ào và bụi bặm. Nhìn xe chạy mà mình không sao tưởng tượng được cảnh người ta nhét người, hơn cả những ngày gần Tết ở Việt Nam, mà đường sá thì bụi bặm hơn nhiều, khí trời thì nóng bức. Đúng là mỗi nơi văn hóa mỗi khác. Thế nhưng khi đi vào làng thì yên tĩnh và trong lành hơn, không xe cộ qua lại. Chúng tôi đi dọc một con sông mà không biết tên nó là gì. Ở đây người ta cũng ra sông tắm giặt, rửa chén bát và đùa giỡn trên sông. Những câu chuyện xưa cứ từ từ hiện về trong tôi. Dân làng cũng đổ ra nhìn. Chúng tôi có cơ hội tiếp xúc với họ, thân thiện và cởi mở. Đi sâu vào làng là một đồng cỏ mênh mông, ở đó những em bé chạy nhảy, nô đùa, đá banh và những đàn bò bình an đang gặm cỏ. Chúng tôi mon men đến gần vài em, chào hỏi và chụp hình lưu niệm. Sau đó, nhiều em chạy tới, em nào cũng thích chụp hình chung. Các em rất thân thiện, hiền lành và dễ thương. Mặt mũi thì lấm lem nhưng tâm hồn thì trong sáng. Chúng tôi tiếp tục đi dạo, các em cũng kéo nhau đi theo. Càng lúc càng đông. Cuối cùng thì tất cả đều bỏ chơi và đi theo chúng tôi. Lúc đầu chỉ có các em nhỏ, sau đó có cả người lớn. Những câu chuyện trong sách Đường Xưa Mây Trắng kể về cuộc đời của Bụt và các em bé chăn trâu cứ từ từ hiện về trong tôi. Tôi thầm nhủ, sao giống thời của Bụt thế. Chúng tôi hát cho các em nghe bài Con về nương tựa Bụt, rồi các em hát lại cho chúng tôi nghe một bài hát bằng tiếng Ấn. Các em ở đây không hiểu tiếng Anh. Chúng tôi nói các em không hiểu, các em nói chúng tôi không hiểu. Nhưng sau đó có một em, có học tiếng Anh ở trường. Chúng tôi hỏi em tên gì, em đứng nghiêm trang, hai tay buông xuôi ép sát vào thân thể như thể đang trả bài cho cô giáo. «My name is… » _ «How old are you?» _ «I’m 11 years old». Tất cả những con mắt kinh ngạc và thán phục của những em khác đổ dồn vào em. Hễ chúng tôi hỏi điều gì là các em đều hướng về em ấy đợi câu trả lời, vừa như để khích lệ, vừa như đặt hết niềm tin tưởng và trông đợi của mình. Dễ thương quá đi! Mắt nào mắt nấy mở to, tròn xoe, ngây thơ đứng nhìn. Chúng tôi đứng chơi với các em như thế rất lâu.