Thông bạch, đề nghị

Trước thảm cảnh của người Rohingya theo đạo Hồi bị đàn áp bởi quân đội Myanmar, Sư Cô Chân Không – người chị cả của Dòng tu Tiếp Hiện – đã viết lá thư dưới đây gửi những người đứng đầu Nhà nước Myanmar, kêu gọi chấm dứt bạo lực đối với người Rohingya theo đạo Hồi tại đất nước này. Đạo tràng Mai thôn, ngày 16 tháng 2 năm 2017 Kính gửi: Ngài Tổng thống U Htin Kyaw Nước Cộng hòa Liên bang Myanmar Văn phòng phủ Tổng thống Văn phòng số 18, Nay Pyi Taw Myanmar Đồng kính gửi: Bà DawAung San Suu Kyi Cố vấn Nhà nước của Cộng hòa Liên bang Myanmar Văn phòng Cố vấn ...
Hơn tám giờ sáng, thứ Hai, ngày 04.09.2017, ánh mặt trời thắp trong vắt trên các ngọn cây và thả từng vạt mỏng trên nền vườn chùa Tổ, Sư Ông đã có gần hai giờ đồng hồ rong chơi quanh khuôn viên Tổ đình Từ Hiếu, nơi đã gắn bó sâu sắc với những năm đầu tiên Sư Ông xuất gia học đạo. Đây, ngôi tháp cổ phủ rêu phong theo năm tháng, nơi bóng hình của Tổ khai sơn Tánh Thiên Nhất Định vẫn còn đó bài học hiếu đạo và công trình dựng tăng đã lưu xuất nhiều thế hệ xuất sĩ, nhiều bậc cao tăng tài đức. Đây, con đường đất sỏi đi ngang Tàng Tháp, nơi ...
CÁO BẠCH 
về việc thực tập tưởng niệm cố Hòa Thượng Thích Chí Mãn

     Kính gửi: Bốn chúng Đạo Tràng Mai Thôn và các Tăng thân trên thế giới
     Kính thưa liệt quý vị,   Hội đồng Giáo Thọ quốc tế Đạo tràng Mai Thôn xin báo tin đến quý vị:     Bậc Tôn Đức đệ tử của sư tổ Thanh Quý – Chân Thật (trú trì Tổ đình Từ Hiếu – Huế), pháp đệ của Sư Ông Làng Mai, Hòa thượng pháp danh TRỪNG VIÊN, pháp tự CHÍ MÃN, sau một thời gian ngắn bệnh yếu, Hòa Thượng đã an nhiên thị tịch lúc 21:30 ngày 8/9/2017, tại chùa Pháp Vân thành phố Đà ...
Chiều nay, Chủ Nhật, 03.09.2017, chúng con đã rất xúc động khi chứng kiến khoảnh khắc Sư Ông Làng Mai về đến Tổ đình Từ Hiếu, Huế vào lúc 18h40. Sư Ông trông rất hạnh phúc khi trở về thăm lại quê hương và thăm lại Tổ đình Từ Hiếu – nơi Sư Ông bắt đầu con đường xuất gia tu học vào năm 1942. Từ cổng Tam quan, Sư Ông thăm qua hồ bán nguyệt, lên chánh điện, niêm nhang cúng dường ở hậu Tổ, thăm thiền đường Trăng Rằm, thăm thất Lắng Nghe rồi mới về phòng nghỉ. Những cái nắm tay của Sư Ông với Hòa thượng Giác Quang, Thượng tọa Từ Đạo đã khiến nhiều người ...
Làng Mai, ngày 29 tháng 8 năm 2017 Kính gửi: Các trung tâm tu học thuộc Đạo tràng Mai Thôn – Các tăng thân cư sĩ tu học theo pháp môn Làng Mai và quý thân hữu trên thế giới Chúng con rất hạnh phúc được thông báo rằng Sư Ông chúng con đã về đến Việt Nam an toàn. Chuyến bay đưa Sư Ông từ Thái Lan đã hạ cánh tại sân bay quốc tế Đà Nẵng vào 12 giờ 35 (giờ Việt Nam) ngày 29 tháng 8 năm 2017. Kể từ năm 2008, đây là lần đầu tiên Sư Ông về thăm lại Việt Nam. Trong một vài tuần gần đây, Sư Ông chúng con thể ...
Hoàng hậu Mahamaya sinh Siddhartha một cách rất dễ dàng. Trên con đường về quê ngoại để sinh nở, bà và đoàn tùy tùng dừng chân nghỉ ngơi ở vườn Lumbini. Đang đi dạo thì bà cảm thấy giây phút sinh nở đang tới. Bà vịn vào một cành cây asoka, và sinh ra thái tử Siddhartha trong thế đứng. Các thị nữ đã kịp thời đỡ lấy em bé với những trang bị cần thiết đã đem theo sẵn. Sau khi sinh Siddhartha, bà Mahamaya trở về lại Kapilavastu. Có những người hầu cận được gửi về trước để thông báo tin mừng này cho cả hai bên nội ngoại. Công nương Yasodhara khi sinh bé Rahula, con của ...
Năm 2014, tổ chức Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) đã mời Thiền sư Thích Nhất Hạnh, với tư cách một nhà lãnh đạo tâm linh quốc tế, viết một thông điệp ngắn về vấn đề biến đổi khí hậu và về mối liên hệ giữa con người với con người, cũng như giữa con người với trái đất. Thông điệp này đã được đăng trên trang mạng của UNFCCC, trước thềm Hội nghị thượng đỉnh về Biến đổi khí hậu diễn ra tại Paris vào tháng 9 năm 2015. Dưới đây là bản dịch từ nguyên bản tiếng Anh. Hành tinh xinh đẹp, rộng lớn và đầy sức sống mà chúng ...
Sáng ngày 10.12.2016, chiếc chuyên cơ đưa Sư Ông Làng Mai cùng một nhóm quý thầy, quý sư cô thị giả đã đến Thái Lan an toàn. Sư Ông hiện đang nghỉ ngơi và thưởng thức khung cảnh yên bình của rặng núi Khao Yai từ thất Nhìn Xa, tại trung tâm Làng Mai Thái Lan. Cách đây một tuần, Sư Ông đã thể hiện rõ ước muốn về thăm trung tâm Làng Mai Thái Lan. Việc sắp xếp cho Sư Ông đi Thái không hề dễ dàng, nhưng cuối cùng nhờ sự gia hộ của chư Bụt, chư Tổ, và sự yểm trợ của rất nhiều thân hữu khắp nơi trên thế giới mà ước muốn của Sư Ông ...
Khóa tu kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Dòng Tu Tiếp Hiện do Thiền sư Thích Nhất Hạnh thành lập năm 1966, đã diễn ra từ ngày 1.6 đến ngày 21.6.2016 tại Làng Mai, Pháp. Từ 6 người thành viên đầu tiên, đến nay đã có hơn 4000 thành viên trên khắp thế giới, góp sức đem đạo Bụt đi vào cuộc đời. Sư cô Chân Không, người chị cả của Dòng Tu Tiếp Hiện, đã viết những lời chia sẻ dưới đây về hiện tình của Đất Mẹ và lời cầu cứu của Đất Mẹ đến với những người con của mình. Thân gửi những người con của Đất Mẹ, Bốn mươi sáu năm về trước, năm ...
Năm nay, hàng trăm thiền sinh khi đến Làng Mai vào dịp lễ Giáng sinh và Năm Mới, hẳn sẽ rất ngạc nhiên khi khi thấy những cây sồi vẫn chưa rụng hết lá và tiết trời vẫn còn ấm dù là đã giữa tháng Chạp. Màu sắc của những khu rừng xung quanh tu viện làm cho ta có cảm giác như thu chưa qua và đông chưa tới. Nhưng có lẽ điều đó sẽ không phải là điều quá ngạc nhiên đối với những ai đang theo dõi tin tức về những gì đang xảy ra trên khắp hành tinh của chúng ta. Trong dịp Giáng sinh và Năm mới này, hơn bao giờ hết, chúng ta đang ...
Dưới đây là những cam kết hành động mà tăng thân “Earth Holder” – một tăng thân tu tập theo pháp môn Làng Mai – khởi xướng để kêu gọi mọi người cùng chung tay bảo vệ Đất Mẹ. Hy vọng những thực tập này có thể đem đến cho các bạn cảm hứng để thay đổi một vài thói quen trong đời sống hàng ngày, góp phần bảo vệ sự sống của chính mình và của trái đất này. Dừng lại Chúng tôi muốn mời bạn dành một chút thời gian để ngồi yên và nhìn kỹ nếp sống hàng ngày của mình. Bạn hãy chọn ra một vài thói quen cụ thể mà bạn có thể thay đổi để ...
Làng Mai, ngày 12 tháng 11 năm 2015 Kính gửi: – Các trung tâm tu học thuộc Đạo Tràng Mai Thôn trên thế giới – Các thành viên thuộc Dòng tu Tiếp hiện
– Các tăng thân tu học theo pháp môn Làng Mai trên thế giới
– Toàn thể nam nữ cư sĩ phật tử và thân hữu của Đạo Tràng Mai Thôn trên thế giới   Để yểm trợ cho Hội nghị lần thứ 21 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (COP21) được tổ chức tại Paris từ ngày 30.11 đến ngày 11.12.2015, và trong tinh thần đoàn kết cùng với Global Buddhist Climate Change Collective ...
Mười lăm nhà lãnh đạo Phật Giáo có uy tín trên thế giới, trong đó có Đức Đạt-lai Lạt-ma và Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đã cùng ký vào một thông điệp lịch sử kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị đi đến một thỏa thuận hiệu quả về biến đổi khí hậu tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu, bắt đầu từ ngày 30 tháng 11 tại Paris.
Sư cô Chân Không – đệ tử lớn nhất của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – đã chia sẻ tại buổi họp báo: “Chúng ta gây tàn hại đối với trái đất cũng có nghĩa là chúng ta đang tàn hại chính mình. Trái đất ...
Thông điệp tại Hội nghị các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới về
XÓA BỎ CHẾ ĐỘ NÔ LỆ HIỆN ĐẠI   Nhận lời mời của Đức Giáo Hoàng Francis, một phái đoàn gồm 22 quý thầy, quý sư cô Làng Mai, trong đó có sư cô Chân Không và thầy Pháp Ấn – Viện trưởng Viện Phật học Ứng dụng châu Âu (EIAB), đã có mặt tại Rome từ ngày 1 – 2/12/2014 để đại diện và chuyển tải thông điệp của Thiền sư Nhất Hạnh đến Hội nghị các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới về xóa bỏ nạn buôn người, một hình thức “nô lệ hiện đại”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử các ...
  Kính thưa liệt vị Hòa Thượng, chư vị Tôn Đức cùng bốn chúng thuộc các đạo tràng trong Môn Phái Từ Hiếu, trong và ngoài nước. Nhân ngày giỗ tổ Thiền Sư Tăng Hội năm 2006, tôi xin kính gửi đến liệt vị Hòa Thượng, chư vị Tôn Đức và bốn chúng lời thăm hỏi ân cần, nguyện cầu Đức Thế Tôn và chư vị Tổ Sư bảo hộ cho tất cả được thân tâm khinh an, đạo nghiệp viên thành. Truyền thống chúng ta có nguồn gốc nơi cả Thiền tông và Tịnh độ tông, vì vậy chúng ta hãy cố gắng để phục hồi và duy trì được nếp thực tập thiền tịnh song tu ấy ...
  Kính gửi liệt vị Tôn Túc, Sư Trưởng và Tứ Chúng thuộc môn phái Từ Hiếu
Kính thưa liệt vị,   Thế kỷ thứ hai mươi là thế kỷ bạo động và đẫm máu nhất của nhân loại từ trước đến nay.Nhờ sự phát triển của kỹ thuật, con người của thế kỷ hai mươi đã đạt tới nhiều quyền lực để chinh phục thiên nhiên và bắt đầu can thiệp được vào cơ cấu của tế bào sinh vật để lái thiên nhiên đi về hướng phục vụ ước muốn của mình. Đồng thời con người của thế kỷ hai mươi cũng trở nên rất cô đơn, bơ vơ, lạc lõng, không có niềm tin, không có nơi ...
Kính gửi liệt vị tôn đức, các vị sư trưởng và toàn thể đại chúng, Năm mới tôi kính cẩn cầu chư Bụt, chư Bồ Tát và liệt vị Tổ Sư nhiếp thọ và bảo hộ cho liệt vị tôn đức, sư trưởng và toàn thể đại chúng được an vui suốt năm và gặt hái được nhiều hoa trái của sự thực tập giáo pháp mầu nhiệm của đức Thế Tôn. Rất mong trong năm nay tất cả các Chùa, Viện, Niệm Phật Đường và tư gia thuộc môn phái thực hiện được những bước tiến sau đây trong đường hướng xây dựng một nền Phật giáo dân tộc và một đạo Bụt hiện đại. Tại các tổ đường, ...
Mai Thôn Đạo Tràng 1-1-1996
Kính gởi các vị Tôn đức và Sư trưởng các chùa thuộc môn phái Từ Hiếu
Kính thưa liệt vị, Từ ngày sư tổ Tánh Thiên Nhất Định khai sơn chùa Từ Hiếu đến nay, một trăm năm mươi năm đã đi qua và con cháu của môn phái từ hiếu bây giờ đã trở nên thật đông đảo, xuất gia cũng như tại gia. Trong một trăm năm mươi năm ấy, môn phái đã cống hiến cho đất nước nhiều vị cao tăng, đóng góp không nhỏ cho công trình phục hưng nền phật giáo dân tộc. Nhân dịp năm mới Bính tí, cũng là năm kỉ niệm một trăm năm mươi năm khai ...
Kính gửi các vị Tôn Túc, các vị Sư Trưởng và đại chúng xuất gia trong các tổ đình và tự viện thuộc môn phái Từ Hiếu. Kính thưa liệt vị, Hàng ngàn Phật tử xuất gia cũng như tại gia, trong cũng như ngoài nước, đã tỏ lộ sự hân hoan và vui mừng khi nhận thấy tứ chúng trong môn phái Từ Hiếu đã tiếp nhận, tán trợ và hành trì thật nghiêm túc thông bạch ngày 1.1.1996 về việc tổ chức lễ kỷ niệm 150 năm ngày thành lập tổ đình Từ Hiếu và sự áp dụng Năm Giới Quý Báu trong công phu tu tập cũng như trong phương thức tiếp xử với các đạo tràng ...
  Những pháp môn tu tập của đạo Bụt vì sự phát triển kinh tế – xã hội Thông điệp cho  Đại Lễ Phật Đản Quốc Tế, 2011 tổ chức tại Thái Lan   Thân kính gửi chư tôn Hoà Thượng và các bậc chức sắc trong các Phái Đoàn đại diện tham dự Ngày Phật Đản QuốcTế, Chúng tôi xin chúc mừng Hội Đồng Tăng Già tối cao Thái Lan cũng như tất cả những thành viên tham dự và tổ chức Đại Hội Phật Đản Quốc Tế lần thứ tám, 2011. Quý vị đã tập họp ngày hôm nay thành một cộng đồng để cảm nhận tình thân hữu, sự có mặt cho nhau, và để cùng nhau ...
Thiền sư Nhất Hạnh Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc lần thứ năm là dịp để tất cả chúng ta tới với nhau như một đại gia đình, như một cộng đồng cùng thừa hưởng nguồn tuệ giác của Đức Bổn Sư. Chúng ta hãy cùng đón mừng niềm vui sum họp và ý thức rằng nếu chúng ta biết cách nuôi dưỡng mình bằng nguồn tuệ giác vĩ đại đó, chúng ta sẽ có khả năng thay đổi xã hội hiện nay và cải thiện chất lượng cuộc sống trên hành tinh này. Với sức mạnh cộng đồng, chúng ta có thể làm được điều đó. Chủ đề cho sự quán chiếu của chúng ta năm nay là Những ...
Hôm 11 -10- 2012 vừa qua, Đại chúng bốn chùa Làng Mai đã tập họp tại thiền đường Hội Ngàn Sao ở Xóm Hạ Làng Mai để mừng ngày sinh của Thầy, mừng Ngày Tiếp Nối của Thầy. Đường dây trực tuyến đã được nối kết với Tu Viện Bích Nham ở Hoa Kỳ, Thiền Đường Hơi Thở Nhẹ ở Paris; Nhóm Tăng thân Wakeup đang tổ chức khóa tu ở Anh Quốc và Tổ Đình Từ Hiếu ở tận quê hương. Buổi sinh hoạt rất vui, nhất là khi các Xóm Hạ và Xóm Mới chiếu lên màn ảnh những cuộn phim do các thầy và các sư cô thực hiện để mừng Ngày Tiếp Nối của Thầy. Thông ...
Lời tâm sự trong ngày sinh nhật*
Thầy Làng Mai
Có người nói rằng: tuổi trẻ là đóa hoa đẹp nhất trong các đóa hoa và tuổi già là trái cây ngon ngọt nhất trong tất cả các loại trái cây. Tôi nghĩ rằng nó có sự thật ở trong câu nói đó. Khi lớn tuổi thì mình không còn gấp gáp, hối hả nữa, mình có nhiều thì giờ hơn để ngồi với những người khác, và lắng nghe họ. Tuổi già đem đến cho mình rất nhiều tuệ giác. Tôi nhận thấy rằng những gì chướng ngại, khó khăn nhất của cuộc đời xảy ra cho mình, lại chính là những cái kích thích cho tuệ giác của ...
Dành Cho Các Nhà Giáo Dục và Học Sinh Khóa học này được xây dựng dành cho đối tượng là các nhà giáo dục, những người có niềm ao ước tạo dựng một đời sống, một nghề nghiệp an vui và hạnh phúc cho chính bản thân và góp phần xây dựng một môi trường học đường và lớp học lành mạnh, có thương yêu và có tình huynh đệ. Làng Mai Thiền Sư Nhất Hạnh cùng Tăng thân xuất sĩ và cư sĩ thuộc Đạo Tràng Mai Thôn đã có trên 30 năm kinh nghiệm tu tập, giảng dạy nếp sống chánh niệm, và đang phát triển hướng đi đạo đức tâm linh cho xã hội hiện đại. Chúng ...
Ăn Mừng Một Ngàn Năm Thăng Long Sử gia Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt nói: “Đời Lý là đời thuần từ nhất trong lịch sử Việt Nam. Đó là nhờ ảnh hưởng của đạo Phật.” Ăn Mừng Một Ngàn Năm Thăng Long, là phải nhớ tới điều ấy. Vua đầu của triều Lý, Lý Thái Tổ, hồi còn bé thơ đã được tu học tại chùa Lục Tổ dưới sự chỉ dạy của Thiền sư Vạn Hạnh. Khi lên ngôi, vua đã tổ chức đời sống chính trị và văn hóa theo tinh thần vô trụ, vô úy và bất nhị của Thiền sư Vạn Hạnh. Nền hòa bình và hạnh phúc của đất nước kéo dài ...
Hội Đồng Giáo Thọ của Đạo Tràng Mai Thôn kính xin thông báo để quốc dân và đồng bào Phật tử trong nước và ngoài nước được biết là ba Đại Trai Đàn Chẩn Tế Bình Đẳng Giải Oan sẽ được tổ chức trong mùa xuân Đinh Hợi (2007) để cầu siêu độ cho tất cả những đồng bào tử nạn trong chiến tranh, trong đó có chiến sĩ trận vong, nạn nhân chiến tranh, những người bị mất tích mà hài cốt chưa tìm ra được, cho những người đã chết trong tù ngục, và cho những đồng bào thuyền nhân không may đã bỏ mình trên biển cả vì sóng gió và hải tặc. Những Đại Trai Đàn ...
  1. Xin chính phủ ra lệnh lập một đài tưởng niệm thuyền nhân thiệt mạng trên biển cả tại Vũng Tàu. 2. Xin cho các thân nhân của những người được chôn trong các nghĩa trang quân đội VNCH cũ được dễ dàng viếng thăm, cúng lễ và bốc mộ. 3. Xin chính phủ yểm trợ việc xây dựng tháp kỷ niệm Bồ tát Thích Quảng Đức tại TP HCM. 4. Xin cho những người gốc Việt cư trú ở nước ngoài được về nước thăm viếng, làm việc, đầu tư, giảng dạy, hoằng pháp mà không cần Visa. 5. Xin bắt đầu cho phép một số những người gốc Việt cư trú ở nước ngoài được có song ...
  1. Người Cộng Sản Việt Nam cảm thấy thoải mái trong nếp sống văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam và nguyện sống như thế nào để có thể mỗi ngày làm đẹp thêm nếp sống ấy.

2. Người Cộng Sản Việt Nam ý thức rằng cây có cội, nước có nguồn và tổ tiên là nguồn gốc của mình, từ đó mình đã tiếp nhận được rất nhiều tuệ giác, kinh nghiệm và nếp sống văn hóa đẹp và lành.

3. Người Cộng Sản Việt Nam cảm thấy thoải mái khi mặc quốc phục và thắp một cây hương ở Đền Hùng, trên bàn thờ tổ tiên đặt trong nhà mình, và trước các đài ...
1. Nhà nước xác nhận ý muốn thực hiện sự tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền. Giáo quyền và chính quyền là hai lãnh vực riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản. Vì vậy tôn giáo có thể giúp cho chính trị và chính trị có thể giúp cho tôn giáo, nhưng cả hai bên đều phải theo luật pháp quốc gia. Bên tôn giáo có thể đóng góp tuệ giác và nhắc chừng về chiều hướng tâm linh đạo đức trong cả hai ngành lập pháp và hành pháp, bên chính trị có thể đóng ...
Đạo Tràng Mai Thôn Martineau – 3358 Dieulivol – France   Kính gửi: Ngài Trương Tấn Sang,
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (thư gửi qua Ngài Đại sứ nước CHXHCN Việt Nam tại Pháp) Kính thưa Ngài Chủ tịch nước, Chúng tôi – thành viên và thân hữu của Đạo Tràng Mai Thôn ở Pháp, trong đó có các giới xuất gia và cư sĩ thuộc nhiều quốc tịch – kính viết thư này đến Ngài Chủ tịch để xin Ngài với sự đồng thuận của Nhà nước CHXHCN Việt Nam ra lệnh bãi bỏ án tử hình tại Việt Nam. Hiện giờ trên thế giới có rất nhiều quốc gia đã bãi bỏ án ...
Ngày 24.12.2013, thiền sinh quốc tế tham dự lễ Giáng Sinh tại Làng Mai đã góp ý viết một lá thư và đồng lòng ký vào thư thỉnh nguyện gửi đến các vị lãnh đạo Nhà nước Việt Nam. Lá thư nhằm thỉnh cầu Nhà nước Việt Nam cho phép thành lập một trung tâm thực tập chánh niệm ngay trên đất nước đã sản sinh ra một vị thiền sư nổi tiếng – người đang giảng dạy pháp môn chánh niệm khắp nơi trên thế giới. Chúng tôi xin chia sẻ lá thư này đến quý vị thân hữu và mong rằng quý vị cũng sẽ viết thư hay kí tên vào thư này gửi đến các vị lãnh ...
Như chúng ta đã biết, trong mùa An Cư Kết Đông 2010 – 2011 tại đạo tràng Mai thôn, đã có 176 xuất sĩ và 49 vị cư sĩ kết giới tu học tại đạo tràng. Nhưng cũng có khoảng 60 vị cư sĩ ghi tên “tùng hạ” theo kiểu tại gia. Nghĩa là mỗi ngày những vị này cũng có ngồi thiền, đi thiền, ăn cơm trong chánh niệm và làm việc trong chánh niệm. Nhiều người phải đi làm, nhưng ngoài thời gian đi làm, họ không đi đâu nữa. Họ cũng được nghe mỗi tuần hai pháp thoại và mỗi tuần họ được dự một buổi pháp đàm trực tuyến điện thoại do các sư cô ở thiền ...
Thông bạch gởi tứ chúng thuộc đạo tràng Mai Thôn
Về việc trì niệm kinh sám cầu nguyện cho sức khỏe của Hòa Thượng Giám Tự Tổ Đình Từ Hiếu Kính gởi liệt vị Tôn Đức trong Môn Phái Tổ Đình Từ Hiếu.
Kính gởi các vị Viện Chủ, Trú Trì, Giám Tự, Tri Sự các tự viện am thất thuộc Môn Phái Tổ Đình Từ Hiếu
Kính gởi toàn thể nam nữ cư sĩ Phật tử và thân hữu cùng các đạo tràng tu tập thuộc Môn Phái Tổ Đình Từ Hiếu trong và ngoài nước.   Tôi vừa được báo tin Hòa Thượng Thích Chí Mậu, Giám Tự Tổ Đình Từ Hiếu trở bệnh nặng: tủy không tái tạo được máu ...
Tổ Đình Từ Hiếu Tổ 10, khu vực 2 – Phường Thủy Xuân – Thành Phố Huế – Tel : (+84) 543.884.051
Tiểu Sử Giám Tự Mới
Thượng Tọa Thích Từ Minh   Pháp Tự: Thích Từ Minh
Pháp danh: Tâm Trí
Thế danh: Hồ Thức
Sinh ngày: 15 tháng 09 năm 1970
Nơi sinh: Thừa Thiên Huế – Việt Nam Thầy tập sự xuất gia tại Chùa Từ Hiếu năm 1989 (19 tuổi).
Thọ giới Sa Di tại chùa Từ Hiếu vào ngày 18 tháng 07 năm 1992 với Hòa thượng Thích Đức Phương.
Thầy là đệ tử của Hòa Thượng Thích Chí Mậu. Thầy thọ giới lớn trong Đại Giới Đàn Từ Hiếu tổ chức tại Chùa Từ Hiếu vào ...
ĐẠO TRÀNG MAI THÔN THÔNG BẠCH Về tình trạng sức khỏe và sự thực tập hộ niệm
cầu nguyện cho sức khoẻ của Sư Ông Làng Mai   Làng Mai, ngày 12 tháng 11 năm 2014. Kính gửi các trung tâm tu học thuộc Đạo Tràng Mai Thôn trên thế giới.
Kính gửi các tăng thân tu học theo pháp môn Làng Mai trên thế giới.
Kính gửi toàn thể nam nữ cư sĩ phật tử và thân hữu của Đạo Tràng Mai Thôn trên thế giới.   Kính thưa quý vị. Sức khỏe của Sư Ông đã có dấu hiệu suy yếu từ khoảng hai tháng trước. Vào ngày 01 tháng 11 năm 2014 Sư Ông đã vào bệnh viện đa ...
THÔNG BẠCH Về việc thăm viếng Sư Ông và Làng Mai trong giai đoạn Sư Ông đang chữa trị Làng Mai, ngày 14 tháng 11 năm 2014. Kính gửi các trung tâm tu học thuộc Đạo Tràng Mai Thôn trên thế giới.
Kính gửi các tăng thân tu học theo pháp môn Làng Mai trên thế giới.
Kính gửi toàn thể nam nữ cư sĩ phật tử và thân hữu của Đạo Tràng Mai Thôn trên thế giới.   Kính thưa quý vị. Như chúng ta đã biết, Sư Ông đang ở trong giai đoạn chữa trị sau cơn xuất huyết não. Hiện tại Sư Ông đang được các bác sĩ chuyên ngành về não bộ theo dõi ...
THƯ TRÌNH Về tình trạng sức khoẻ của Sư Ông Làng Mai Làng Mai, ngày 14 tháng 11 năm 2014   Nam mô đức Bổn sư Bụt Shakyamuni. Kính bạch Chư tôn Trưởng lão Hoà thượng,  
chư vị Hoà thượng, chư vị Thượng toạ,
quý Ni trưởng, quý Ni sư cùng Chư tôn Thiền đức.   Chúng con ý thức rằng chư liệt vị đều đang rất quan tâm và đang hết lòng cầu nguyện cho sức khỏe của Sư Ông chúng con được mau chóng phục hồi. Hiện tại Sư Ông chúng con đang được các bác sĩ chuyên ngành về não bộ theo dõi và điều trị. Sư Ông chúng con cũng đang được các y ...
Liên quan đến sự kiện hai phóng viên của Reuteurs – những người đang tường thuật về cuộc khủng hoảng Rohingya ở miền bắc Myanmar – bị  bắt giữ vào ngày 12 tháng 12 năm 2017, Sư Cô Chân Không – người chị cả của Dòng tu Tiếp Hiện – đã viết lá thư dưới đây gửi những người đứng đầu Nhà nước Myanmar. Ngày 21 tháng 12 năm 2017 Kính thưa Ngài Tổng thống U Htin Kyaw, Kính thưa Bà Cố vấn Nhà nước Myanmar Daw Aung San Suu Kyi, Tôi là tỳ kheo ni Thích Nữ Chân Không, đệ tử lớn nhất  của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Với tất cả khiêm cung và e dè, ...
SƯ ÔNG LÀNG MAI VỀ ĐẾN VIỆT NAM Ngày 25 tháng 10, Làng Mai Thái Lan vừa hoàn mãn mùa An cư kiết hạ 2018. Sáng hôm sau, Sư Ông Làng Mai ra phi trường về Việt Nam. Tại sân bay quốc tế Don Mueang (Bangkok, Thái Lan), Sư Ông đã được các Phật tử cư sĩ người Thái nghinh đón và tặng hoa theo phong tục người Thái. Trong thời gian chờ đợi làm thủ tục xuất cảnh, quý Phật tử cư sĩ ngồi bao quanh và cúng dường những bài thiền ca cho Sư Ông cùng quý thầy, quý sư cô. Không khí rất ấm cúng của một gia đình tâm linh. Chiếc chuyên cơ đưa Sư Ông ...
Trung tâm Thiền tập Làng Mai Quốc tế Le Pey, Thénac 24240, Pháp THÔNG CÁO Thứ Sáu, ngày 2 tháng 11 năm 2018 Tăng thân Làng Mai quốc tế hiện đang sát cánh bên người Thầy thương kính – Thiền sư Thích Nhất Hạnh, một nhà lãnh đạo tinh thần của thế giới, nhà hoạt động vì hòa bình và cũng là một nhà thơ, trong chuyến trở về quê hương lần này của Thầy. Sau buổi kỷ niệm Ngày Tiếp nối lần thứ 92 vào tháng trước, Thầy đã bày tỏ ước nguyện sâu sắc mong được trở lại ngôi chùa gốc rễ tâm linh của mình là Tổ đình Từ Hiếu ở Việt Nam để sống những ...
Huế năm nay ít mưa. Dù vậy, vẫn có những ngày bầu trời giăng đầy mây, không một chút nắng và những cơn mưa kéo dài từ sáng đến tối. Từ hôm Thầy trở về Từ Hiếu vào ngày 28.10.2018, có ba hay bốn ngày trời mưa và gió se lạnh. Đó là những ngày Thầy không thể đi dạo quanh khuôn viên Tổ đình. Những ngày còn lại, hầu như ngày nào Thầy cũng dạo thăm nhiều không gian khác nhau trong chùa. Hôm qua, ngày 12.11, là ngày giỗ Sư Tổ Tánh Thiên Nhất Định, khai sơn Tổ đình Từ Hiếu. Khi âm thanh tán tụng trầm hùng theo nghi lễ truyền thống Phật giáo Huế trên ...
Ngày 23 tháng 12 năm 2018 Kính thưa tăng thân khắp chốn, Thầy kính thương của chúng ta về lại chùa tổ Từ Hiếu tính đến nay đã được hai tháng, cùng với nhiều quý thầy, quý sư cô lớn, trong đó có Sư cô Chân Không, thầy Pháp Ấn và nhóm thị giả. Thầy hiện vẫn khỏe, đôi mắt Thầy vẫn sáng quắc và thấu suốt như bao giờ. Mỗi ngày Thầy đều viếng thăm tháp tổ, ngay cả khi mưa nặng hạt, có khi vài ba lần trong ngày. Thầy ra ngoài để thưởng thức khung cảnh chùa tổ, thăm hồ bán nguyệt, đi dọc những con đường rợp bóng tre và tới giếng nước nơi mà ...
Ngày 2 tháng 2 năm 2019 Kính thưa tăng thân khắp chốn, Tết Kỷ Hợi này, tăng thân có một niềm vui lớn là Sư Ông đang có mặt tại Tổ đình Từ Hiếu, Huế. Đây là lần đầu tiên Sư Ông đón Tết tại quê hương kể từ năm 2005, và lần đầu tiên tại chùa Tổ kể từ năm 1960. Sư Ông thích thú quan sát đại chúng chuẩn bị Tết ở Tổ đình, xem quý thầy, quý sư cô lau dọn bàn thờ và thiền đường, chuẩn bị những món ăn đặc biệt để cúng dường lên chư tổ, trang hoàng bằng hoa tươi và những cây đào, cây mai đương nụ để đón chào Năm ...
  Trung tâm Thiền tập Làng Mai Quốc tế Le Pey, Thénac 24240, Pháp   Ngày 11 tháng 10 năm 2019 Kính thưa tăng thân khắp chốn, Chúng ta rất hạnh phúc khi ngày tiếp nối lần thứ 93 của Thầy được tổ chức tại chùa Từ Hiếu, thành phố Huế – Việt Nam, ngôi chùa Tổ nơi Thầy bắt đầu cuộc đời xuất sĩ ở tuổi mười sáu. Trong những ngày qua, các đệ tử xuất sĩ của Thầy ở Việt Nam đã có mặt tại chùa Từ Hiếu để mừng Ngày tiếp nối của Thầy. Có quý thầy đến từ chùa Từ Đức, có quý sư cô đến từ miền Nam. Trong ngày đặc biệt này, quý ...
Ngày 28/11/2019, sau đúng một năm một tháng kể từ ngày về tới Việt Nam năm ngoái, Sư Ông đã cùng các thị giả trở về thăm lại Thái Lan. Chuyên cơ chở Sư Ông đã đáp xuống phi trường Don Mueang, Bangkok vào lúc 11g 20 sáng. Trong suốt chuyến bay, Sư Ông rất vui và ngồi thẳng, nhìn qua cửa sổ ngắm mây bay. Bữa cơm trưa được thị giả chuẩn bị sẵn và Sư Ông đã dùng rất ngon miệng, thậm chí Sư Ông còn thử chút ít trái cây dọn ra trên máy bay. Đến sân bay Don Muong, gần năm mươi đệ tử xuất sĩ đến từ tu viện Vườn Ươm và phật tử cư ...
Trung tâm Thiền tập Làng Mai Quốc tế Le Pey, Thénac 24240, Pháp   Ngày 4 tháng 1 năm 2020     Kính thưa Tăng thân khắp chốn,   Tăng thân Làng Mai chúng con rất hạnh phúc được thông báo rằng Sư Ông chúng con đã về lại Tổ đình Từ Hiếu ngày hôm nay (4.1.2020) sau năm tuần tịnh dưỡng để kiểm tra sức khỏe định kỳ. Hiện giờ, sức khỏe của Sư Ông chúng con tương đối ổn định và tinh thần vẫn rất sáng suốt, tinh anh.    Trong thời gian ngắn tịnh dưỡng tại Làng Mai Thái Lan tọa lạc bên núi Khao – Yai nên thơ hùng vĩ, Sư Ông đã tận hưởng năng ...
  Làng Mai, ngày 18 tháng 9 năm 2020 Kính thưa tăng thân khắp chốn, Chỉ vài tuần nữa thôi, chúng ta sẽ mừng ngày Tiếp nối lần thứ 94 của Sư Ông – ngày 11 tháng 10 năm 2020. Đã gần sáu năm trôi qua kể từ khi Sư Ông bị đột quỵ, và giờ đây thật là hạnh phúc khi thấy Sư Ông vẫn đang còn đó với chúng ta, đầy bình an và vững chãi. Sư Ông vẫn đang có mặt và chứng kiến các đệ tử của mình  – cả xuất sĩ lẫn cư sĩ – đang tiếp nối công trình tu học và xây dựng tăng thân mà Người đã trao truyền. Kể từ ...
Kính thưa quý thân hữu,  Trong thời gian qua, nhờ vào mạng xã hội mà những hình ảnh và lời dạy của Sư Ông Làng Mai đến được với đồng bào ở khắp mọi nơi. Chúng tôi vô cùng biết ơn các bạn quản trị viên (admin) các trang Facebook (fanpage) và các nhóm Facebook (Facebook group) đã dành thời gian, tâm sức để đầu tư, chăm sóc và làm cho những lời dạy của Sư Ông về sự thực tập chánh niệm được lan tỏa rộng rãi đến với mọi người.  Tuy nhiên, để tránh những hiểu lầm đáng tiếc, đặc biệt là liên quan đến việc quyên góp tiền cũng như để đảm bảo tính chính xác khi ...
      Làng Mai, Pháp, ngày 10 tháng 10 năm 2021 Kính gửi tăng thân khắp chốn, Chúng con vui mừng được thông báo đến quý vị thân hữu là Đại Giới Đàn Qua Bờ được tổ chức tại tu viện Lộc Uyển (California, Mỹ) từ ngày 1 – 4.10.2021 và được truyền trực tuyến đến năm trung tâm thuộc Làng Mai tại Pháp, Thái Lan và Việt Nam đã thành công viên mãn. 123 giới tử đã tiếp nhận giới Khất sĩ nam và Khất sĩ nữ trong Đại Giới Đàn được tổ chức mỗi hai năm một lần này.  Màn lưới đế châu Đại Giới Đàn đã cung thỉnh được Chư Tôn Đức từ Bắc Mỹ ...
Tổ Đình Từ Hiếu Đạo Tràng Mai Thôn Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni Kính khải bạch chư tôn Trưởng lão Hòa thượng, chư Thượng tọa Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý vị Thân hữu, Thiền sinh và Phật tử cư sĩ các giới khắp nơi trên thế giới, Sau những năm tháng an dưỡng tại Tổ đình Từ Hiếu, vào lúc 01:30 ngày 22 tháng 01 năm 2022 (nhằm ngày 20 tháng Chạp năm Tân Sửu), Thiền sư pháp hiệu trước Nhất sau Hạnh, Niên Trưởng Trú trì Tổ đình Từ Hiếu đã thâu thần thị tịch tại Tổ đình, nơi Người đã xuất gia cách đây tám mươi năm, trụ thế 96 ...
Tổ Đình Từ Hiếu – Compassionate Filial Piety Monastery Đạo Tràng Mai Thôn – Plum Village Practice Center Thông Báo Di Huấn Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni Kính khải bạch Chư Tôn Trưởng lão Hòa Thượng, Chư Thượng tọa Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý vị Thân hữu, Thiền sinh và Phật tử cư sĩ các giới khắp nơi trên thế giới, Sau những năm tháng an dưỡng tại chốn Tổ Từ Hiếu từ ngày 26 tháng 10 năm 2018, Thiền Sư pháp hiệu trước Nhất sau Hạnh Niên Trưởng Trú Trì Tổ Đình Từ Hiếu, Khai Sơn Đạo Tràng Mai Thôn Quốc Tế đã thâu thần thị tịch vào lúc 01:30 giờ sáng ...
        02.04.2022 Kính gởi toàn thể gia đình nhân loại yêu quý, Nhìn thảm kịch chiến tranh đang diễn ra từng ngày trên đất nước Ukraine, tim chúng tôi cùng thổn thức với những đau thương đang đè nặng trên mỗi người dân, già cũng như trẻ của đất nước này. Đạo Tràng Mai Thôn Quốc Tế chúng tôi chứng kiến cuộc chiến đang diễn ra với tất cả niềm đau, với đầy ý thức cẩn trọng và tỉnh giác. Mặc dầu chúng tôi tu học theo Đạo Bụt nhưng vào mỗi dịp Giáng sinh về, chúng tôi đều cảm thấy hân hoan khi được ngồi thiền cùng với tiếng chuông nhà thờ chính thống của Nga, ...
Mindfulness Concentration Insight     Đức Bụt, bậc Giác Ngộ đã thực chứng được sự giải thoát cao tột với nếp sống thánh thiện đầy an lạc, giải thoát và vững chãi trong thời đại đầy xung đột và bạo động của Ngài, đã không ngừng hiến tặng cho nhân loại một con đường đưa đến an lạc tự thân và hòa bình cho thế gian này. Ngài đã dạy rằng trên thế gian này không cách nào có thể dùng lòng hận thù để đối đáp lại được ngọn lửa của hận thù; mà chỉ có lòng từ bi mới có thể làm xoa dịu và dập tắt được sự thù hận mà thôi. Ngài gọi điều này ...
    Giờ phút này chúng con tập hợp tại đây như một gia đình tâm linh để cùng nhau chế tác và gửi năng lượng tâm linh và từ bi đến người dân Palestine, Do Thái và tất cả những ai đang bị kẹt trong hoàn cảnh chiến tranh và xung đột tại Trung Đông. Chúng con cũng cầu nguyện cho người dân các nước Ukraina, Nga, Sudan và tất cả những ai đang đau khổ vì nạn chiến tranh. Hiện đang có hơn 100 cuộc xung đột vũ trang xảy ra trên thế giới, trong đó có những cuộc xung đột kéo dài hơn nửa thế kỷ. Nguyện cho tất cả mọi người đều được an toàn ...

Bé đã sinh ra rồi

Bé đã sinh ra rồi

Chân trời xôn xao dâng ánh sáng

Hoa cỏ ơi sống dậy

Núi rừng ơi sống dậy

Thật đã qua rồi đêm tối hãi hùng

Ánh sáng dồn

Trên cánh bướm mong manh

Hoa cải rực vàng

Trên lối cũ.

Cành mai ấy

Ngày tôi về trước ngõ

Có rưng rưng giọt ngọc nhìn tôi cười?

Đất tái sinh

Cho sắc hương đoàn tụ

Cho nước non này

Lại thành cẩm tú

Hãy cho hết hai bàn tay anh

Cơ hội muôn thuở một lần

Níu sự sống trên vành nôi ươm biếc.

Bài này tác giả làm tại Vọng Các ngày 29.01.1973 sau khi nghe tin hiệp định Paris được ký kết và lệnh đình chiến được ban hành. Tôi nhớ trước đó cuộc chiến ác liệt quá và mỗi khi có được 24 giờ đình chiến vào các ngày lễ lớn như Phật Đản, Giáng Sinh, Tết Dương lịch hay ba ngày đình chiến nhân dịp Tết Nguyên Đán, tất cả chúng tôi đã mừng đến chảy nước mắt rồi. Cứ tưởng tượng hai mươi bốn giờ đồng hồ không có máy bay oanh tạc, không có bom nổ, không có nhà cháy, người chết, cỏ cây cũng dám vươn mình lên thở, chúng tôi thấy được hết tất cả sự quý giá của mỗi giờ đình chiến. Trong nước và ngoài nước vận động tranh đấu bao nhiêu tháng năm, nghe tin đình chiến ai mà không mừng vui, không hy vọng. Buổi sáng đó, khi Laura Hassler tới (Laura là người bạn gái phụ tôi tại văn phòng về văn thư Anh ngữ), tôi ôm chầm lấy cô, cả hai chị em đều chảy nước mắt. Các bạn đánh điện tới văn phòng Phái Đoàn Phật giáo tại số 11 rue de la Goutte d’or Paris mừng tới tấp. Lúc đó thầy Nhất Hạnh đang ở tại Vọng Các vì nơi đây có một cuộc gặp gỡ giữa Phật Giáo quốc nội và Phái Đoàn quốc ngoại để điều hợp công việc. Thượng toạ Thiện Hoa, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo mới viên tịch trước đó vài ba ngày. Người hướng dẫn Phái Đoàn quốc nội là Thượng Toạ Huyền Quang Tổng Thư  Ký của viện. Cuộc họp mặt đã đi đến nhiều quyết nghị quan trọng, trong đó có chương trình thành lập Uỷ Ban Tái Thiết và Phát Triển Xã Hội của Giáo Hội, bản Hiệu Triệu của Viện Hoá Đạo nhân dịp đình chiến và sự thành lập Uỷ Ban Phóng Thích Tù Nhân Chính Trị do hai phía lâm chiếm giam giữ. Tại Paris tôi nhận được bài thơ này viết tay trên một tờ giấy vàng bạc (thứ giấy ngày xưa dùng làm tiền để đốt xuống cho người cõi âm dùng). Sau đó tác giả cho biết đã làm bài thơ trên tại một trạm bưu điện nhỏ ở thành phố Vọng Các, và ông đã chép tay mấy chục bản trên giấy vàng bạc mua được ở khu chợ bình dân gần đấy.

Trong sự mừng vui, người mà tác giả nghĩ tới đầu là Nhất Chi Mai, người con gái đã đem thân làm đuốc ngày phật Đản 1967 để kêu gọi các phía lâm chiến thực hiện hoà bình. Chị Mai là bạn cùng tu của tôi. Chúng tôi cùng thọ giới năm 1966 tại chùa Pháp Vân. Tôi có viết một thiên hồi ký để kể lại những ngày chúng tôi cùng tu chung trong Dòng Tiếp Hiện. Hồi ký này tên là Ngày Tháng, đã được đăng trong Văn Tập Chim Về Trên Không do Viện Hoá Đạo xuất bản năm 1971, vào ngày giỗ thứ tư của chị.

Cành mai ấy, ngày tôi về trước ngõ

Có rưng rưng giọt ngọc nhìn tôi cười?

Tôi nghĩ hình ảnh ấy rất đúng. Chị Mai mà thấy thầy Nhất Hạnh về khi đất nước Hoà Bình thì đúng là vừa cười vừa chảy nước mắt. Cười vì vui, chảy nước mắt là vì sung sướng. Thầy Nhất Hạnh biết trước là hòa bình sẽ mong manh lắm và hiệp ước đình chiến rất khó tôn trọng cho nên đã xin quý thầy trong Giáo Hội nổ lực vận động quần chúng Phật tử tranh đấu bảo vệ đình chiến và kêu gọi hai bên tôn trọng hiệp ước. Hiệu triệu của Viện Hoá Đạo ngày 2.12.1973 do Thượng Toạ Thiện Minh ký phản chiếu được nổ lực này. Bài thơ cũng nói lên ước vọng là cơ hội rất hiếm có, ai nấy đều phải góp phần vào việc nuôi dưỡng bảo vệ con chim hòa bình còn yếu đuối và trứng nước mà tác giả gọi là “bé”

Hãy cho biết hai bàn tay anh

Cơ hội muôn thuở một lần

Níu sự sống trên vành nôi ươm biếc.

Dặn dò

Xin hứa với tôi hôm nay
Trên đầu chúng ta có mặt trời
Và buổi trưa đứng bóng
Rằng không bao giờ em thù hận con người
Dù con người
Có đổ chụp trên đầu em
Cả ngọn núi hận thù
Tàn bạo,
Dù con người
Giết em,
Dù con người
Dẫm lên mạng sống em
Như là dẫm lên giun dế,
Dù con người móc mật moi gan em
Đầy ải em vào hang sâu tủi nhục,
Em vẫn phải nhớ lời tôi căn dặn :
Kẻ thù chúng ta không phải con người.
Xứng đáng chỉ có tình xót thương
Vì tôi xin em đừng đòi điều kiện
Bởi không bao giờ
Oán hờn lên tiếng
Đối đáp được
Sự tàn bạo con người.
Có thể ngày mai
Trước khuôn mặt bạo tàn
Một mình em đối diện.
Hãy rót cái nhìn dịu hiền
Từ đôi mắt
Hãy can đảm
Dù không ai hay biết
Và nụ cười em
Hãy để nở
Trong cô đơn
Trong đau thương thống thiết
Những người yêu em
Dù lênh đênh
Qua ngàn trùng sinh diệt
Vẫn sẽ nhìn thấy em.
Tôi sẽ đi một mình
Đầu tôi cúi xuống
Tình yêu thương
Bỗng trở nên bất diệt
Đường xa
Và gập ghềnh muôn dặm
Nhưng hai vầng nhật nguyệt
Sẽ vẫn còn
Để soi bước cho tôi.

 

Bài này quả thật là những lời dặn dò thầy để lại cho thế hệ trẻ đang phụng sự bằng con đường bất bạo động. Chị Nhất Chi Mai trước khi tự thiêu cho hòa bình đã đọc bài này vào trong một cuộn băng nhựa để lại cho ba má chị cùng những bức thư tuyệt mạng của chị. Có thể nói bài này nói lên được lập trường tuyệt đối bất bạo động của tác giả. Nó cho ta thấy rằng bất bạo động là phương châm hoạt động duy nhất cho những người đã nhất quyết học theo đại bi tâm của các bậc bồ tát. Để hiểu rõ thêm tâm tư của tác giả về vấn đề này, tôi xin đề nghị các bạn đọc đoạn sau này mà thầy viêt trong Nẻo về của ý: “Dưới con mắt của đại bi, không có tả, không có hữu, không có thủ, không có bạn, không có thân, không có sơ. Mà đại bi không phải là vật vô tri. Đại bi là tinh lực mầu nhiệm và sáng chói. Vì dưới con mắt của đại bi không có cá thể riêng biệt của nhân của ngã cho nên không một hiện tượng nhân ngã nào động tới được đại bi.

Em ơi, nếu con người có độc ác đến nước móc mắt em hay mổ ruột em thì em cũng nên mỉm cười và nhìn con người bằng con mắt tràn ngập xót thương: hoàn cảnh, tập quán và sự vô minh đã khiến con người hành động dại dột như thế.

Hãy nhìn con người đã đành tâm tiêu diệt em và đang tạo nên cho em những khổ đau oan ức, khổ nhục lớn lao như trăm ngàn quả núi, hãy nhìn con người ấy với niềm xót thương: hãy rót tất cả niềm xót thương từ suối mắt em vào người đó mà đừng để một gợn oán trách giận hờn xuất hiện trên tâm hồn. Vì không thấy đường đi nước bước cho nên cái người làm khổ em mới vụng dại lỗi lầm như vậy.

Giả sử một buổi sáng nào đó em nghe rằng tôi đã chết tăm tối và tàn bạo vì sự độc ác của con người, em cũng nên nghĩ rằng tôi đã nhắm mắt với một tâm niệm an lành không oán hận, không tủi nhục. Em nên nghĩ rằng giờ phút cuối, tôi vẫn không quay lại thù ghét con người. Nghĩ như thế chắc chắn em sẽ mỉm cười được, rồi nhớ tôi, đường em, em cứ đi. Em có một nơi nương tựa mà không ai có thể phá đổ hoặc cướp giật đi được. Và không ai có thể làm lung lay niềm tin của em, bởi vì niềm tin ấy không nương tựa nổi bất cứ một giả lập nào của thế giới hiện tượng. Niềm tin ấy và tình yêu là một, thứ tình yêu chỉ có thể phát hiện khi em bắt đầu nhìn thấu qua thế giới hiện tượng giả lập để có thể thấy được em trong tất cả và tất cả trong em.

Ngày xưa, đọc những câu chuyện như câu chuyện đạo sĩ nhẫn nhục để cho tên vua cường bạo xẻo tai, cắt thịt mà không sinh lòng oán giận, tôi nghĩ đạo sĩ không phải là con người. Chỉ có thánh mới làm được như vậy. Nhưng Nguyên Hưng ơi, tại lúc đó tôi chưa biết đại bi là gì. Đại bi là sự mở mắt trông thấy. Và chỉ có sự mở mắt trong thấy tận cùng mới khiến cho tình thương trở thành vô điều kiện, nghĩa là biến thành bản chất đại bi. Đạo sĩ nhẫn nhục kia đâu có sự giận hờn nào mà cần nén xuống? Không, chỉ có lòng xót thương. Giữa chúng ta và đạo sĩ kia, và vị bồ tát kia, không có gì ngăn cách đâu, Nguyên Hưng. Có phải tình yêu đã dạy em rằng em có thể làm được như Người?”

Sau đây là bản dịch Pháp văn bài thơ Dặn dò của Michèle Chamant. Bản này Pierre Marcgand cũng đã phổ nhạc và hát tại nhiều đại hội trên đất Pháp khi đi trình diễn với Graeme Allwright:

 

Promets moi aujourd’hui

promets-moi maintenat

pendant que le soleil est haut

au zénith exactement

promets-moi.

Même s’ils te terassent

sous une montagne de haine et de violence,

même s’ls marchent sur ta vie et t’écrasent

comme un ver,

même e s’ils t’écartèlent, t’e1ventrent,

rappelle-toi, frère,

rappelle-toi

l’homme n’est pas notre ennemi.

 

seulement ta compassion,

seulement ta bonté,

sont invincibles, sans limite, absolues.

Parce que la haine,

jamais jamais ne répondra

à la bête dans l’homme.

 

Et un jour

où, seul, tu affronteras cette bête,

ton courage intact, tes yeux calmes,

pleins d’amour

(même si personne ne les voit),

de ton sourire

s’ épanouira une fleur

et ceux qui t’aiment

te verront

à travers des milliers de mondes de naissance et de mort.

 

Seul, de nouveau,

j’avancerai la tête baissée,

en sachant que l’amour est immortel.

Et sur la longue et difficile route,

le soleil et la lune brilleront ensemble

pour éclairer mes pas.

Bền bỉ lửa trái tim

Chị thương kính của em,

Như vậy là chị đã xa chúng em thấm thoát 47 năm rồi. Ngày chị ra đi, em không thế nào quên được, em đã ngồi khóc như mưa bên nhục thân của chị. Thời gian tuy đã xa lắm, nhưng bây giờ hồi tưởng lại, em vẫn còn khóc và thấy mọi chuyện như mới xảy ra.

Ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch năm Đinh Mùi (1967), lúc 7 giờ 20 sáng tại chùa Từ Nghiêm, đường Bà Hạt, quận 10 mọi người đang tất bật chuẩn bị cho một ngày lễ lớn, ngày vía đức Phật đản sanh. Trên chánh điện tầng một của chùa, các sư cô đang lau chùi bàn thờ, trang hoàng cờ xí, sắp xếp hương hoa, trà quả để dâng cúng chư Bụt và Bồ tát. Mọi người chú tâm lo phần việc của mình nên không để ý đến những gì sắp xảy ra chung quanh.

Đến khi thấy ngọn lửa bùng lên thật mãnh liệt ở ngay trước chánh điện và sức nóng lan tỏa khắp nơi, các sư cô mới hốt hoảng tri hô lên. Mọi người sững sờ nhìn thân chị ngã gục phía trước trong tư thế ngồi chắp hai tay.

Khi ấy em đang ở nhà ôn bài thi tốt nghiệp sư phạm. Mẹ em từ ngoài chợ về cho hay chị Mai đã tự thiêu ở chùa Từ Nghiêm hồi sáng sớm. Nhà em ở gần chùa, nên mỗi lần chị chở hai bác đến chùa lễ Phật, tụng kinh, chị hay ghé qua nhà em để nhắn nhủ những việc cần thiết hoặc rủ em đi tụng kinh, chị Mai nhớ không?

Em vội lấy xe đạp chạy như bay đến chùa. Khi bước vào trong giảng đường thì thấy nhục thân chị đã được đặt ở đấy và được che phủ bằng lá cờ Phật giáo. Em buông mình quì phục xuống bên cạnh chị và khóc nức nở trong thương tiếc. Chị Tuyết Hoa cũng đang cúi đầu khóc thút thít.

Thôi rồi! Chị đã thật sự xa chúng em rồi! Em thẫn thờ như người mất hồn ngồi ôm đầu khóc như một đứa trẻ. Em không thể nào tin được, chị Mai ơi.

Quê hương mình thì chiến tranh, bom đạn. Thầy mình thì làm Phật sự nơi xa. Chị giờ đã ra đi thật rồi! Mỗi khi có nỗi niềm sâu kín, em biết lấy ai tâm sự bầu bạn, vì chị là người hiểu rõ em nhiều.

Chị hiền lắm, giọng chị nhỏ nhẹ từ tốn và luôn lắng nghe những khổ đau, u uất của mọi người. Em vẫn như còn nghe văng vẳng bên tai giọng khuyên nhủ của chị: “Hổng được làm vậy nghe Hiệp, nghe lời chị khuyên đi! Hiệp biết không, em có nhiều điều kiện hạnh phúc lắm mà em không biết đó. Em có một cơ thể khỏe mạnh, lành lặn, đẹp đẽ nè, có điều kiện học hành, có văn hóa tri thức nè. Em không phải đi buôn gánh bán bưng cực khổ để kiếm sống. Ba má có bất hòa, gia đình có xào xáo nhưng rồi cũng qua đi, vì đời là vô thường mà em, vài năm nữa ba má hòa thuận lại cho coi.”

Và chị hướng dẫn em đi vào những xóm nghèo để phát gạo hoặc quần áo cũ. Lần đầu theo chị vào Xóm nghĩa địa ở sau rạp Quốc Thanh, em sửng sốt nói nhẹ bên tai chị: “Trời Phật ơi! Sao người ta sống khổ quá vậy chị?” Con đường lầy lội nước bùn loi ngoi, lóp ngóp, nhà ở của những gia đình này là những ngôi mộ, được che bởi những tấm carton dày hoặc những manh chiếu rách. Rồi những đêm mưa to, gió lớn, họ phải sống ra sao?

Tất cả vợ chồng con cái đều trú ẩn trong những túp lều rách nát, mong manh như thế! Em đứng mím môi thật chặt để khỏi bật ra tiếng khóc mà nước mắt cứ thi nhau chảy quanh. Chị nắm nhẹ tay em dẫn đi sâu vào trong xóm tiếp tục phát quà và thăm hỏi.

Nhất Chi Mai (tóc dài, bên phải)

Tối hôm ấy về nhà em buồn không ngủ được. Hình ảnh những mảnh đời cơ cực, bất hạnh nơi xóm  nghèo nghĩa địa Quốc Thanh luôn ám ảnh em trong giấc ngủ. Và từ đây con tim phụng sự đã theo em trọn đời không quên lãng.

Chị lại dẫn chúng em đi giúp dân làng làm trường học ở Cầu Kinh hoặc Thảo Điền, bên kia cầu Xa lộ. Các anh chị tác viên Trường Thanh Niên Phụng sự Xã hội dễ thương và nhiệt tình quá. Chú Tâm Thể, anh Dương, anh Lưu, anh Thơ, chị Lành, chị Đồng, cô Mai và nhiều nhiều những anh chị khác đều hiền lành dễ mến nên làm việc tuy vất vả nhưng vui quá. Em bỗng nhớ nụ cười thật hiền của chị!

Các anh chị dạy người dân biết cách ăn ở vệ sinh hơn, biết làm hố tiêu để tiêu tiểu đúng chỗ, biết uống nước đun sôi để nguội để tránh bị tiêu chảy. Chị Chín dạy các cháu nhỏ đừng bắt chước người lớn hút thuốc, uống rượu. Làng Thảo Điền ở cạnh sông, ban đêm dân làng thường đi giăng câu, bắt cá. Trời lạnh nên người ta hay uống rượu và hút thuốc cho ấm. Con nít độ 9 hoặc 10 tuổi đi theo chú, bác thả câu cũng tập tành uống rượu như người lớn.

Những ngày cuối tuần đi giúp dân làng của chị em mình đẹp và vui quá phải không chị? Thỉnh thoảng em được chị Chín đọc thư Thầy cho em nghe ké để chia sẻ hạnh phúc. Em thích nhất câu: “Các em hãy rửa mắt trên những cánh đồng lúa xanh.” Thơ mộng và lãng mạn quá! Hình bóng Thầy vẫn lung linh sáng ngời trong lòng chị em mình tuy Thầy đang ở xa.

Rồi tai họa liên tiếp đổ ập lên trường chúng ta: sáu tác viên của Trường trong lúc đi thực tập đã bị bắt cóc cho đến bây giờ cũng không biết dấu tích.

Sau đó ít lâu, vào một đêm thứ bảy, bỗng có một toán người lạ mặt xông vào trường, dùng súng đạn bắn giết các anh chị đang nằm nghỉ trong phòng. Hai chị Liên và Vui bị thiệt mạng. Chị Hương bị cưa một bàn chân. Anh Vinh bị lưu đạn trúng đầu, lòi não ra ngoài nên bị liệt cả tay chân phải nằm điều trị ở bệnh viện Chợ Rẫy suốt cả năm.

Các anh chị tác viên và những vị thân hữu của Trường thay phiên nhau vào nuôi anh Vinh. Mỗi ngày phải hai người túc trực bên giường bệnh để chăm sóc cho anh. Các vị thân hữu thì tình nguyện nấu cơm và ngày hai buổi đem vào phục vụ cho người nuôi bệnh. Gia đình em tình nguyện nấu cơm mỗi ngày thư tư và đích thân em đem cơm vào nhà thương cho các anh chị.

Chị sợ em làm lâu ngày rồi nản lòng bỏ cuộc, nên đã nhắc nhở em trước khi chị tự thiêu một ngày, mà em đâu có biết: “Hiệp ơi, ráng đi thăm anh Vinh và lo cơm nước đàng hoàng nghe em. Đừng bỏ rơi các anh chị lúc này tội nghiệp lắm!” Chị nhìn em với đôi mắt thành khẩn, thương yêu nhắn nhủ trước khi ra đi. Em vẫn vô tình nên chỉ trả lời nhẹ: “Dạ!”

Chị đã chuẩn bị cho việc ra đi nên mấy tháng trước, chị đã nhắn nhủ, khuyên bảo mà em không biết. Có lần hai chị em ngồi chơi ở phía sau chùa lá, nhìn ra cách đồng lúa bát ngát mênh mông, chị đã nói với em:

“Dù sau này không còn Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội nữa, em nhớ luôn giữ tấm lòng phụng sự trong tim nghe Hiệp.”

Em lật đật cãi lại chị: “Trường mình sẽ tồn tại mãi chị Mai ơi! Các anh chị tác viên của Trường hiền lành, dễ thương, chỉ đi giúp đồng bào xây nhà, làm trường, giúp nông dân trồng tỉa, chăn nuôi gia súc, giúp đủ thứ hết. Mình đâu có làm chính trị hoặc làm điều gì xấu ác mà chính quyền không cho Trường mình hoạt động hả chị?”

Chị buồn buồn, hướng mắt nhìn ra xa trả lời: “Đời vô thường lắm em ơi! Không có gì chắc chắn cả. Hiệp phải hứa với chị, lúc nào trái tim thương yêu và phụng sự cũng phải luôn cháy trong em bền bỉ đó nha. Quê mình còn chiến tranh, dân còn khổ nạn nhiều. Chị em mình phải làm gì để xoa dịu những đau thương, tang tóc do chinh chiến gây ra. Như vậy cuộc sống mình mới có ý nghĩa!”

Rồi chị quay đi làm mặt giận :”Hổng thôi, chị giận, nghỉ chơi luôn cho coi!”

Em ôm chị nũng nịu và hứa chắc với chị: “Em sẽ mang lý tưởng thương yêu, phụng sự đi suốt cuộc đời, chị Mai chịu chưa?”

Chị cười rạng rỡ trên đôi mắt hiền từ. Em đâu ngờ đó là những điều chị trối trăn cùng em trước lúc ra đi!

Em cũng không thể ngờ một người nhỏ nhắn, nhu mì, dịu dàng, hiền hòa như chị lại có thể can đảm hiên ngang làm công việc của một đại trượng phu như thế: chị đã đem thân mình làm đuốc hồng để cảnh tỉnh lương tri loài người!

Hôm tiễn đưa chị về An Dưỡng Địa làm lễ hỏa thiêu, đồng bào mình đi dài hàng mấy cây số. Đọc mười bức thư của chị để lại, gửi cho cha mẹ, chính quyền hai miền Nam Bắc và cho quý Tôn đức trong Giáo Hội Phật giáo, mọi người đã thấy hạnh nguyện của một vị Bồ Tát.

Em vẫn khóc sướt mướt đi theo dòng người để tiễn đưa chị. Em không ngờ chị Mai của em cũng văn thơ bay bướm lắm. Đọc thư chị, em thật kính ngưỡng và trân trọng đại nguyện của chị:

Chắp tay tôi quỳ xuống

Chắp tay tôi quỳ xuống

Chịu đau đớn thân này

Mong thoát lời thống thiết !

Dừng tay lại người ơi !

Dừng tay lại người ơi !

Hơn hai mươi năm rồi

Nhiều máu xương đã đổ

Đừng diệt chủng dân tôi !

Đừng diệt chủng dân tôi !

Chắp tay tôi quỳ xuống …

Bây giờ em không còn khóc nữa. Em sẽ hát chị nghe bài hát Một Cành Mai tức Đạo Ca 5 của Nhạc sĩ Phạm Duy :

“… Nước mắt bỗng ngừng trôi, khi người đã nguyện dâng

Thân mình làm đuốc hồng, cho đồng lúa trổ bông ….

Cành mai đã rụng rơi, rơi rụng xuống cuộc đời

Một cành mai rụng rời, làn hương vẫn chẳng phai

Người không riêng của ai, nhân loại vẫn của người

Đặt mình trong dòng đời, tử sinh cũng là vui…”

Và đây chính là ca khúc nhạc sĩ Phạm Duy viết về chị Nhất Chi Mai đó, chị thương kính của em.

Gần 50 năm trôi qua, đất nước mình cũng đã “thưở trời đất nổi cơn gió bụi ” bao phen. Đã hết chiến tranh nhưng vẫn còn rất nhiều niềm đau nỗi khổ, vì vậy hạnh nguyện của Thầy và của anh chị em mình vẫn phải tiếp tục.

Thầy mình bây giờ đã gần 90 tuổi nhưng vẫn bôn ba đó đây để dạy cho mọi người biết cách sống hạnh phúc, bớt thù hận, khổ đau. Thầy và chị Chín (nay là sư cô Chân Không) và một số thân hữu đã lập ra làng Mai ở miền Nam nước Pháp. Làng càng ngày càng lớn rộng, nay đã có tất cả 4 Xóm lớn là: Xóm Thượng, Xóm Hạ , Xóm Mới và Chùa Sơn Hạ, lại thêm những Xóm nhỏ như Xóm Trung, Xóm Đoài, Xóm Lưng Đồi…

Pháp môn tu tập của Thầy đã đem đến hạnh phúc cho không biết bao nhiêu người trên thế giới. Bây giờ đã có hàng ngàn các thầy và sư cô trẻ ở khắp nơi tu học và thực tập theo pháp môn Chánh Niệm của Thầy.

Dòng tu Tiếp Hiện, khởi đầu với 6 người mà chị Mai là chị Cả, nay đã lên đến hàng chục ngàn anh chị hay nhiều hơn nữa, đang tiếp nối cánh tay Thầy đem pháp môn Chánh niệm đến khắp các quốc gia.

Sáu thành viên đầu tiên của dòng tu Tiếp Hiện (Nhất Chi Mai đứng thứ ba từ bên trái)

Mỗi lần nhớ chị, em ngậm ngùi rưng rưng nước mắt. Song Thầy đã dạy chị Mai không bao giờ mất. Chị vẫn ẩn tàng đâu đó và biểu hiện trong mỗi thành viên Tiếp Hiện chúng em. Nụ cười, hình ảnh và đại nguyện của chị vẫn luôn ấp ủ trong lòng chúng em, lời hứa năm xưa em vẫn thủy chung giữ tròn cùng chị.

Em vừa gầy dựng một blog để trình bày những sinh hoạt tu học mà chúng em đã thực hành trong cuộc sống. Qua những bài viết của các cô, chú bác, hy vọng rằng sau này giới trẻ sẽ hiểu được những nguyện ước, những hoài bão cùng những hy sinh âm thầm mang nhiều đại nguyện của những người đi trước.

Em sẽ trân trọng dành ưu ái cho chị khai trương trang blog này, vì chị là người đã trao cho em ngọn lửa cháy bỏng yêu thương, phụng sự của Thầy. Và trang blog này sẽ được vinh dự mang tên Nhất Chi Mai, người chị thương kính muôn đời của chúng em.

Chị kính yêu ơi! Chị hãy vào đọc cùng chúng em nha!

Đứa em hay nũng nịu và “mít ướt” của chị

Chân Bảo Nguyện.

Để tìm hiểu thêm về Nhất Chi Mai, xin đọc hồi ký của sư cô Chân Không: Dòng tiếp hiện và những hoạt động dấn thân

Cành mai năm ấy

Buổi sáng có mặt trời, ơi vũ trụ, ta muốn ôm người vào hai tay. Buổi sáng có chim hót và chị bán xôi đi ngang ngõ trúc, ơi quê hương, ta muốn ôm ngươi vào hai tay. Buổi sáng có chợ họp, ôi thế gian, ta muốn ôm ngươi vào hai tay. Chỉ còn hai mươi giờ nữa thôi, tôi đã không còn có mặt ở đây. Tôi sẽ giao tôi cho lửa.

Quê hương đẹp biết bao nhiêu. Ôi, còn nào chùa, nào lũy tre, nào vườn cau, nào giàn trầu, nào bến sông quen thuộc. Tôi muốn quay trở lui. Nhưng quay trở lui cũng không tìm thấy quê hương.

Đất quê hương, tôi đang đếm bằng những bước chân. Đất quê hương, bom đạn cày nát. Lời cầu nguyện cho những khu vườn xanh, có trúc đào, có xương rồng trước ngõ. Chắp tay tôi nhận chịu lửa đỏ như một lời cầu nguyện. Cho tôi thấy phố thấy nhà lần chót. Cho tôi thấy trời thấy nước thấy cây thấy cỏ lần chót. Cho tôi thấy trăng thấy sao. Cho tôi thấy người, thấy cô thấy bác thấy anh thấy chị thấy già thấy trẻ, thấy đồng bào cười nói. Cho tôi ôm tất cả vào hai vòng tay nhỏ. Tôi đã tìm thấy. Anh chị em ơi, tôi đi nhưng tôi còn ở lại. Sáng mai mặt trời mọc, thơ tôi sẽ tới với người.”

(trích tác phẩm Chân dung – Thiền sư Nhất Hạnh)

Năm 1096, trước khi an nhiên cõi trời phương ngoại, Thiền sư Mãn Giác đã để lại tặng đời một cành mai vô ngại, cành mai vượt thời gian, nở lên từ một tâm hồn thanh thoát. Đến hôm nay, cành mai đó vẫn sống rất thật, trong mỗi độ xuân về, trong mỗi lần xem mai nở, trong mỗi dịp được ngồi yên bên chén trà ấm bốn mùa mà nghe phảng phất đâu đây hòa vào hương trà lời Thiền sư nhắc nhở: “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”. Cành mai đã đi vào cõi vô khứ lai, để rồi sẽ biểu hiện tiếp tục một cách mầu nhiệm dưới những hình thái khác, góc độ khác, ngay trên cõi đời này, khi nhân duyên vào độ chín. Và vì thế, mãi mãi, lời vị Thiền sư năm nao vẫn còn vang vọng, chớ có cho rằng khi xuân hết thì hoa tàn cả, nhìn cho kỹ đi, một cành mai đêm qua nơi sân trước vẫn tròn đầy.

“Xin tình thương tỉnh thức

Xin Việt Nam hòa bình”

871 năm sau, 1967, cành mai ngày ấy lại biểu hiện. Nhất Chi Mai – một trong sáu thành viên đầu tiên của dòng tu Tiếp Hiện do Thiền sư Nhất Hạnh sáng lập, ngày 16 tháng 05 đã khiến cho cả thế giới chiêm ngưỡng khí phách bi hùng của hương thơm nguyện phụng hiến mình vì nghĩa lớn, vì một Việt Nam hòa bình, vì một dân tộc biết thương yêu nhau, vì một thế giới biết nhìn về lẽ phải.

Được sinh ra trong gia đình khá giả, dù trong thời chiến tranh tàn khốc, chị Mai vẫn được đi về trên một chiếc xe hơi sang trọng. Tương lai chị thật tươi sáng. Tốt nghiệp đại học, chị theo con đường phụng sự xã hội, nguyện sống đời an vui cho đất Việt. Thế nhưng, Việt Nam vẫn cứ chiến tranh, máu xương vẫn mỗi ngày đổ xuống, điêu tàn tiếp nối điêu tàn, đâu đâu cũng nghe tiếng khóc than của đứa con thơ, của người vợ trẻ, tiếng khấn nguyện của những người già không biết con mình sống chết ra sao. Chị Nhất Chi Mai phải chứng kiến điều đó hằng ngày khi vẫn được nghe nói về từ bi, rao giảng về lòng bác ái, tuyên truyền về đoàn kết… có cái gì nghe thật xót xa. Chị không thù hận con người, đích thị trong chị chỉ có tình xót thương. Chị muốn ôm trọn tất cả, vì con người đáng thương, vì con người đang nô lệ cho hận thù, bạo động, nghi ngờ và lòng tham mà giày xéo lên nhau từng ngày. Mỗi ngày, chị tự dặn dò mình bằng cách đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần lời thơ của thầy mình trao gởi. Bài thơ trở thành một đề tài quán chiếu thật sâu sắc của chị:

“Xin hứa với tôi hôm nay
Trên đầu chúng ta có mặt trời
Và buổi trưa đứng bóng
Rằng không bao giờ em thù hận con người
Em vẫn phải nhớ lời tôi căn dặn :
Kẻ thù chúng ta không phải con người.
Xứng đáng chỉ có tình xót thương
Vì tôi xin em đừng đòi điều kiện
Có thể ngày mai
Trước khuôn mặt bạo tàn
Một mình em đối diện.
Hãy rót cái nhìn dịu hiền
Từ đôi mắt
Hãy can đảm

Dù không ai hay biết…”

(Trích Dặn dò –  thơ Sư Ông Làng Mai)

Những người xung quanh nghĩ rằng, chắc chị Mai thích bài thơ ấy quá, nên cứ suốt ngày ngâm nga cho qua thời giờ, cho khỏi nghĩ đến những công tác từ thiện, khỏi nghĩ đến chiến tranh, khỏi nghĩ đến những em bé nghèo ngửa bàn tay bé xíu xin chút tình thương với tấm thân đen đủi trần truồng và đôi mắt đã bớt long lanh. Vậy mà, chị lẩm nhẩm bài thơ ấy không phải để trốn chạy thực tại, mà để nghĩ về thực tại, nghĩ về cách để có thể hiến dâng cuộc đời mình cho một cuộc tỉnh thức lương tâm nhân loại, cho ước mơ một đất nước hòa bình.

“Và nụ cười em
Hãy để nở
Trong cô đơn
Trong đau thương thống thiết
Những người yêu em
Dù lênh đênh
Qua ngàn trùng sinh diệt
Vẫn sẽ nhìn thấy em.
Tôi sẽ đi một mình
Đầu tôi cúi xuống
Tình yêu thương
Bỗng trở nên bất diệt
Đường xa
Và gập ghềnh muôn dặm
Nhưng hai vầng nhật nguyệt
Sẽ vẫn còn

Để soi bước cho tôi”.

(Trích Dặn dò –  thơ Sư Ông Làng Mai)

Phật đản sanh lần thứ 2511, đúng ngày 8 tháng 4 âm lịch, cành mai kia đã nở. Nhất Chi Mai đã nở giữa biển lửa. Nhưng không phải biển lửa của hận thù. Mai đã tỏa hương giữa biển lửa, để hóa thân thành tình thương và tỉnh thức, cho con người thấy đường đi lên. Chị Mai đã tự thiêu.

Một buổi sáng chùa Từ Nghiêm lửa tỏa, lửa cháy lan thế kỷ, lửa xuyên thấu các hành tinh xa để vượt thời gian và mãi mãi không bao giờ tắt. Thế gian chấn động bởi ánh lửa như tiếng chuông đại hùng lực, đại từ bi. Lửa đốt rụi vô minh, tỵ hiềm, lòng tham cơ hội. Lửa kêu gọi nghĩa đệ huynh. Tự tay mình châm lửa đốt thân sau khi để lại 10 bức thư cho Ba Má, Thầy bạn và chính quyền, cái chết chừng đó thôi cũng đã là vô úy.

Sẽ có những người thóa mạ cái chết ấy, chị Mai tự biết điều ấy, nhưng điềm nhiên mặc kệ, có sao đâu. Chị không điên, không hành động dại dột, không phải vì cảm hứng. Chị đã suy nghĩ nhiều, đã chuẩn bị tất cả. Vì tình thương nhân loại, chị phải hành động. Vì thức tỉnh tình thương trong trái tim nhân loại, chị càng phải hành động. Vì Việt Nam hòa bình, chị lại càng phải hành động. Thế giới đã cúi đầu trước người Mẹ Việt Nam vừa tròn 33 tuổi. Cao Ngọc Phượng, một người em đồng giới Tiếp Hiện với chị, sau này trở thành sư cô Chân Không – một đệ tử lớn của Thiền sư Nhất Hạnh, đã trả lời người phương Tây khi họ thắc mắc về cái chết ấy thật cảm động: “Khi bạn muốn mua một món gì bạn phải trả tiền. Khi bạn muốn mua một món gì quý nhất mà tiền bạc không thể mua được như sự hiểu biết, sự thương yêu, sự nhân nhường nhau để đưa đến chấm dứt chiến tranh khổ đau thì bạn chỉ có thể trả cho người bạn đang đối thoại bằng cái gì quý giá nhất mà bạn có trên đời. Chị tôi không tự tử như nhiều người Tây phương đã tưởng. Không, chị tôi có học thức, có đầy đủ điều kiện để sống tiện nghi như các bạn (Tây phương) dù rằng nước Việt Nam đang chiến tranh. Nhưng chị muốn dâng cái quý nhất của con người trên đời để xin cái quý nhất của con người trên đời. Cái đó là sự sống”. Chị đã dâng sự sống quý nhất trên đời của chị để giữ lại sự sống quý nhất của một dân tộc.

Người bạn trẻ của nước Việt ơi, các bạn đang tiếp nối hồn thiêng sông núi mà bao thế hệ trước đã thao thức, đã hy sinh xương máu để giữ gìn, các bạn cũng là một cành mai. Chúng ta hãy làm sao để cành mai vươn lên giữa biển lửa. Cành mai ấy không được chết giữa biển lửa, càng không được chết vô nghĩa giữa bầu trời bình yên. Bao nhiêu người đã chết oan uổng như vậy rồi, mình đừng tiếp nối hạt giống ấy nữa. Mình mãi phải xứng đáng, đừng bao giờ cô phụ hồn thiêng sông núi.

Chị Nhất Chi Mai, kỷ niệm ngày chị có mặt vì hòa bình, cũng là ngày kỷ niệm một cành mai tỏa thơm trang sử Việt, em viết lại đây vài dòng như lời tri ân sâu sắc đến chị. Từ ngày biết chị, em chưa bao giờ thấy chị vắng mặt trong em, em chưa bao giờ thấy chị vắng mặt trong cành hoa của Thiền sư Mãn Giác. Rồi những cành hoa như chị sẽ được tiếp nối và biểu hiện, hôm nay và mai sau, như chị chưa bao giờ từng sinh mà cũng chưa bao giờ từng diệt. Những thế hệ sau chị sẽ tiếp nối và mời cành mai thơm trong chị biểu hiện như điều chị từng nhắc nhở: “Con đường dài mà chông gai quá, mỗi người nhân bản phải đi một đoạn đường gai chông, tiếp nối, bằng cách này hay bằng cách khác, mới mong hết được đường dài…”

Nguyên Tịnh.

Đồi Trị Liệu, 15.05.2012


LỜI TỰ THUẬT
SAU CÙNG CỦA NHẤT CHI MAI

Tôi viết tất cả 10 bức thư để lại.

Ngày mai tôi sẽ lo lắng một mình tôi buổi lễ tự thiêu.

Tôi cho các nhà báo, nhiếp ảnh hay và một ít bạn thân đến nơi tôi dự định mà không cho họ biết trước chuyện gì sẽ xẩy ra.

Tôi mua 10 lít xăng. Địa điểm tôi chọn là Chùa Từ Nghiêm, tôi có ý đến Nhà Thờ Đức Bà hay một nơi công cộng có tính cách lịch sử một chút, mà thôi.

Phía trước mặt tôi đặt hai bức tượng: Đức Mẹ Maria với hai bàn tay đưa ra. Đức Quán Thế Âm với đôi mắt dịu hiền. Cả hai nhìn tôi và ban ơn cho tôi tròn ước nguyện. Trước mặt và sau lưng tôi có hai biểu ngữ tôi viết:

“Con chắp tay quỳ xuống

Xin Đức Mẹ Maria

Đức Quan Âm, Phổ Hiền

Cho con và ước nguyện.”

Và:

“Xin đem thân làm đuốc

Xin soi sáng U Minh

Xin Tình người thức tỉnh

Xin Việt Nam Hòa Bình”.

Cầu xin cho tôi can đảm, bình tĩnh mà ngồi yên trong lửa đỏ.

Tôi sẽ quỳ xuống chấp tay niệm Phật và thầm gọi “Việt Nam”.

Người tự thiêu cầu Hòa Bình
Thích Nữ Nhất Chi Mai
Tự: Nhất Chi
Pháp danh: Diệu Huỳnh.

THƯ GỬI THẦY
(Chị Nhất Chi Mai là một trong sáu người đầu tiên được thọ 14 Giới Tiếp Hiện với Thầy Làng Mai)

Việt Nam, 15 – 5 – 67.
Kính bạch Thầy,

Ngày mai con sẽ thiêu thân để cầu Hòa Bình cho Việt Nam. Con xin đóng góp với Thầy, với tất cả những nhà nhân bản Việt Nam và thế giới trong phong trào Mong Hòa Bình cho Việt Nam bằng tất cả những gì con hiện có.

Con mong tất cả an lòng, tiếng nói nhân bản, chính nghĩa sẽ được tiếp nối và kết quả không lâu.

Thư Nhất Chi Mai gởi Thầy

Kính thư,
Thích Nữ Nhất Chi Mai
Tự: Nhất Chi
Pháp danh: Diệu Huỳnh
Tự thiêu để cầu Hòa Bình Việt Nam
Mùa Phật Đản 2511 (5-1967)

 

____________________________________

Những bài có liên quan:

Thông điệp lửa – Tưởng niệm Nhất Chi Mai

Khi Nhất Chi Mai tự thiêu, Vũ Hoàng Chương vô cùng xúc động và đã làm bài thơ “Lửa…Lửa…và Lửa” để ca ngợi chị. Lửa Nhất Chi Mai giống như hỏa lệnh, một hiệu lệnh bằng lửa để cho cánh chim Hòa Bình trở về. Đó là thông điệp của Vũ Hoàng Chương.

Bồ câu truyền hỏa lệnh
Sáng trưng Hỏa Lệnh bồ câu trắng – Tranh vẽ: sư cô Trăng Tuyết Hoa

LỬA…LỬA…VÀ LỬA

Vừa mới hôm nào Lửa YẾN PHI

Bay lên…nối cánh LỬA TỪ BI;

Giờ đây, lại nỗi lòng dân Việt

Đau xé trời Nam: Lửa NHẤT CHI…!

Ba đợt cháy lên Thông Điệp Lửa,

Đêm sao có thể đặc như chì?

Đốt cho bom đạn tan thành lệ,

Hai ngả sông sầu hãy nguyện đi!

Hãy nguyện cho màu tang nổi gió

Trên đầu quả phụ với cô nhi!

Mẹ ơi, tóc hãy làm giông tố!

Màu tóc màu tang có khác gì…

Trắng một vòng bay quanh Trái Đất,

Nối dài Thông Điệp Lửa uy nghi.

Sáng trưng Hỏa Lệnh, bồ câu trắng

Sẽ đốt Thời Gian mở lối về.

(Đêm Phật Đản 2511)

Trích trong tập thơ Bút Nở Hoa Đàm của Vũ Hoàng Chương

 

sáng trưng hỏa lệnh bồ câu
Bút pháp thiền sư Thích Nhất Hạnh

LỜI TỰ THUẬT
SAU CÙNG CỦA NHẤT CHI MAI

Tôi viết tất cả 10 bức thư để lại.

Ngày mai tôi sẽ lo lắng một mình tôi buổi lễ tự thiêu.

Tôi cho các nhà báo, nhiếp ảnh hay và một ít bạn thân đến nơi tôi dự định mà không cho họ biết trước chuyện gì sẽ xẩy ra.

Tôi mua 10 lít xăng. Địa điểm tôi chọn là Chùa Từ Nghiêm, tôi có ý đến Nhà Thờ Đức Bà hay một nơi công cộng có tính cách lịch sử một chút, mà thôi.

Phía trước mặt tôi đặt hai bức tượng: Đức Mẹ Maria với hai bàn tay đưa ra. Đức Quán Thế Âm với đôi mắt dịu hiền. Cả hai nhìn tôi và ban ơn cho tôi tròn ước nguyện. Trước mặt và sau lưng tôi có hai biểu ngữ tôi viết:

“Con chắp tay quỳ xuống

Xin Đức Mẹ Maria

Đức Quan Âm, Phổ Hiền

Cho con và ước nguyện.”

Và:

“ Xin đem thân làm đuốc

Xin soi sáng U Minh

Xin Tình người thức tỉnh

Xin Việt Nam Hòa Bình”.

Cầu xin cho tôi can đảm, bình tĩnh mà ngồi yên trong lửa đỏ.

Tôi sẽ quỳ xuống chấp tay niệm Phật và thầm gọi “Việt Nam”.

Người tự thiêu cầu Hòa Bình
Thích Nữ Nhất Chi Mai
Tự: Nhất Chi
Pháp danh: Diệu Huỳnh.

THƯ GỬI THẦY
(Chị Nhất Chi Mai là một trong sáu người đầu tiên được thọ 14 Giới Tiếp Hiện với Thầy Làng Mai)

Việt Nam, 15 – 5 – 67.
Kính bạch Thầy,

Ngày mai con sẽ thiêu thân để cầu Hòa Bình cho Việt Nam. Con xin đóng góp với Thầy, với tất cả những nhà nhân bản Việt Nam và thế giới trong phong trào Mong Hòa Bình cho Việt Nam bằng tất cả những gì con hiện có.

Con mong tất cả an lòng, tiếng nói nhân bản, chính nghĩa sẽ được tiếp nối và kết quả không lâu.

ThuguiThayNhatChiMai.jpg
thư Nhất Chi Mai gởi Thầy

Kính thư,
Thích Nữ Nhất Chi Mai
Tự: Nhất Chi
Pháp danh: Diệu Huỳnh
Tự thiêu để cầu Hòa Bình Việt Nam
Mùa Phật Đản 2511 (5-1967)

 

____________________________________

Những bài có liên quan:

– Dòng tiếp hiện và những hoạt động dấn thân
– Bền bỉ lửa trái tim
– Giọt nước cánh chim

Để lại cho em

(Hành trình 50 năm và Hạnh phúc chính là con đường)

Chị Chân Xuân Tản Viên (Mỹ Hằng) thuộc thế hệ Tiếp Hiện trẻ. Chị là một tác viên xã hội năng động, nhiệt huyết của chương trình Hiểu và Thương, đã thọ giới Tiếp Hiện năm 2013. Dưới đây là những chia sẻ về tâm nguyện của chị trong quá trình tu học và phụng sự.

 

Hôm qua là ngày tu học đầu năm của anh chị em chúng tôi. Một ngày hạnh phúc khi gia đình tâm linh được ngồi lại bên nhau, lắng nghe tâm sự của bốn chị em vừa được thọ giới Tiếp Hiện trong khóa tu Core Sangha được tổ chức tại Làng Mai Thái Lan hồi cuối tháng 12. Chúng tôi nói đùa là bây giờ mình có sáu anh chị em rồi, sao mà trùng hợp với “sáu người sung sướng nhất đời” ở chùa Lá Pháp Vân cách đây 50 năm quá đi. Bất chợt tôi nhớ đến bài Tâm ca số 5 của nhạc sĩ Phạm Duy mà Sư Ông nhắc đến trong cuốn sách Nói với tuổi hai mươi. Tôi cũng nhớ đến vở nhạc kịch Để lại cho em mà mấy anh chị em chúng tôi đã biên đạo và biểu diễn trong khóa tu ở chùa Pháp Vân gần ba năm về trước. Người đóng vai chị Phượng, chị Uyên và anh Khôn bây giờ đã trở thành con trai, con gái của Bụt rồi. Những người còn lại vẫn đang gắn bó với tăng thân trong chí nguyện mang đạo Bụt đi vào cuộc đời. Tôi chợt nhận ra rằng bốn chữ để lại cho em chưa bao giờ ngưng nghỉ cả mà đã được tiếp nối và biểu hiện liên tục theo dòng thời gian…

Trong những tháng ngày sinh hoạt cùng đồng sự, tôi thường hay động viên các em để dành thì giờ mà đọc tập 1 cuốn Hồi ký 52 năm theo Thầy học đạo của Sư cô Chân Không. Hồi đó tôi cũng đã từng đọc đi đọc lại nhiều lần, có những lúc không kiềm chế được xúc động, đã phát thệ nguyện xin được đi tiếp trên con đường cao đẹp này. “Chúng ta chỉ cần làm những việc gì ta ưa thích nhất, ta có thể dần dần đi đến giác ngộ trên con đường hành động đó nếu ta luôn luôn nuôi dưỡng định trong từng hành động. Khi làm việc mình nên nhìn sâu để tự hỏi, hành động này có đủ từ bi không? Có đủ hỷ và xả không? Hành động và việc làm đó là vì lý tưởng làm lợi lạc cho người khác hay vì danh và vì lợi cho chính mình? Quán chiếu như vậy suốt ngày trong mọi công tác, mọi lời nói và mọi tư duy thì chúng ta vừa tu phước mà cũng vừa tu huệ” (Sư cô Chân Không). Nhờ vậy mà sau này khi trở thành tác viên xã hội cho chương trình Hiểu và Thương, tôi luôn cảm thấy mình là người hạnh phúc và may mắn. Có những chuyến đi dài ngày và liên tục, tôi tập cho tâm mình tĩnh lặng và an trú trong giây phút hiện tại. Đi thăm người nghèo hay nhà trẻ Hiểu và Thương, gặp những hoàn cảnh khốn cùng hay những điều bất như ý, tôi thực tập định tâm trở lại, nhìn thật sâu và khi có những cảm xúc mạnh đi lên thì tôi dừng lại, quay về với hơi thở để có thể mang lại sự bình an cho chính tự thân và cũng là cho những người mà tôi muốn giúp đỡ.

Tôi được nghe giảng nhiều lần về ý nghĩa của dòng tu Tiếp Hiện và những hoạt động dấn thân trong các bài pháp thoại của Thầy cũng như trong các khóa tu Tiếp Hiện. Tôi cũng thật may mắn khi có nhiều cơ hội để tiếp xúc và học hỏi với các thế hệ đi trước trong những ngày tu chánh niệm hoặc khi làm việc với các cô chú trong chương trình Hiểu và Thương. Khoảng cách 40 hay 50 năm giữa hai thế hệ là khá xa trên bề mặt lý thuyết. Tuy nhiên, nếu được tưới tẩm và vun trồng ý thức về sự tương tức, về hạt giống hiểu và thương thì thời gian và không gian chỉ còn là một ý niệm. Tôi còn nhớ lời dạy của ôn Thủ tọa trong ngày làm biếng sau khóa tu: “Tiếp Hiện nói ngắn gọn là sự tiếp xúc và làm cho nó biểu hiện”. Quán chiếu sâu sắc lời dạy của Ôn thì mọi ý niệm về thời gian hay không gian chợt tan biến trong tôi. Thế là buổi sáng hôm sau như bao buổi sáng khác ở Pakchong nhưng tôi lại thấy trong mình có rất nhiều sự khác lạ. Anh chị em chúng tôi ngồi cùng với sư cô và các bạn thiền sinh đến từ Singapore, Trung Quốc, Indonesia bên tách trà nóng và ngọn nến hồng trên bãi cỏ xanh phía trước cốc Sư Ông. Tôi thấy mình thật tự do. Xung quanh tôi mọi thứ đều rất đẹp. Chẳng phải là anh chị em chúng tôi đang tiếp xúc với sự mầu nhiệm của cuộc sống, tiếp xúc với sự cao quý của tình huynh đệ và làm cho nó biểu hiện ra hay sao? Cũng như thế, buổi tối hôm qua thật dễ thương và ấm áp tình người biết bao nhiêu!

Mỹ Lệ, người em gái Huế nhân hậu dịu dàng vừa thọ giới với pháp tự Chân Dung Lâm đã có những cảm nhận thật sâu sắc: “Con kính tri ơn Sư Ông cùng đại chúng đã giúp chúng con có mặt và biểu hiện trong khóa tu Core Sangha, đã biểu hiện như những người con Tiếp Hiện mới sinh của Thầy. Một con đường đã mở ra cho chúng con tiếp bước. Con nguyện đem tình thương và sự hiểu biết chân thật của mình lan tỏa khắp muôn nơi. Khóa tu này đã cho con thấy rõ ràng hơn về bốn dấu ấn của pháp môn mà chúng con đang thực tập. Con nguyện sống sâu sắc với những phút giây hiện hữu nhiệm mầu mà mình đang có. Con luôn có niềm tin vào Thầy và tăng đoàn, nơi đã nuôi dưỡng và giúp con chuyển hóa rất nhiều niềm đau nỗi khổ. Từ đó con cảm nhận được hạnh phúc chân thật từ chính tự tâm và chia sẻ đến những người thân thương của con cùng những người con chưa có cơ hội để thương. Những ngày ở khóa tu, con hạnh phúc được nhìn những tà áo nâu và quán chiếu tính tương tức là Thầy đang có mặt trong tăng đoàn. Vì vậy, mỗi giây phút của khóa tu là những giây phút hạnh phúc của con. Con đã nhìn thấy những người con thương kính của Thầy biểu hiện dưới nhiều quốc gia khác nhau, cùng trao nhau những nụ cười chân thật và đi với nhau như một dòng sông. Với hạnh nguyện hiểu biết và thương yêu trên con đường mà Thầy và tăng đoàn đã trao truyền cho chúng con, con xin nguyện sống thật sâu sắc để có hiểu biết và thương yêu chính mình. Hiểu và thương được mình thì mới có thể trao tình thương đến cho những người khác”.

Thế An, cô tình nguyện viên bé nhỏ nhưng “gan lì” của chương trình Hiểu và Thương cũng được thọ trì 14 giới với pháp tự Chân Khai Lâm. Em chia sẻ sau khóa tu: “Con đang thở nhẹ nhàng và cảm nhận năng lượng còn đọng lại sau khi trở về từ khóa tu Core Sangha. Con đã nhận được tấm Điệp hộ giới Tiếp Hiện và con ý thức rõ ràng rằng con đang là sự tiếp nối của con đường Hiểu và Thương mà Sư Ông, Sư cô và tăng thân đã xây dựng. Con cũng ý thức rằng con đang bước vào và hòa mình cùng tăng thân để đi như một dòng sông mà không còn là một cá nhân tách biệt. Con dần nhận thấy rõ con đường mà con sẽ đi. Ôn thủ tọa Giác Viên có chia sẻ với anh chị em Tiếp Hiện mới của chúng con rằng: “Tiếp hiện là tiếp xúc và để chuyển hóa”. Do đó, con sẽ ý thức hơn vào sự thực tập của mình nhằm chuyển hóa những khó khăn, yếu kém, bạo động, giận hờn trong con, nguyện thực tập làm phát triển nguồn năng lượng chánh niệm để con có thể chia sẻ với mọi người và cùng góp bàn tay yêu thương cùng tăng thân trên con đường Hiểu Thương”.

Anh chàng Trọng Nhân hiền lành, dễ mến, rất nhiệt tình thì lòng vui như hội khi được nhận Mười bốn giới với pháp tự Chân Dũng Lâm. Em đã gửi thư cho tôi với vài dòng ngắn nhưng gói trọn cả tấm chân tình: “Con đường tu tập của con được mở rộng ra nhiều, con cảm nhận được một động lực rất lớn để nỗ lực công phu nhiều hơn, để tạo hạnh phúc cho mình và người. Con rất vui và cảm ơn tăng thân cho con sự nâng đỡ, tình huynh đệ ấm áp, môi trường sinh hoạt nuôi dưỡng”.

Vâng, tiếp xúc và biểu hiện để chuyển hóa là con đường mở rộng mà anh chị em chúng tôi đang đi bằng những bước chân bình an và hơi thở trị liệu. Nếu như ngày xưa dòng Tiếp Hiện cùng với những hoạt động dấn thân vì hòa bình thì ngày nay, chúng tôi nguyện tiếp nối bằng con đường hiểu thương. Sư Ông từng dạy rằng xã hội càng hiện đại thì con người càng đói hiểu, đói thương. Chúng tôi chập chững tiếp nối thế hệ đi trước bằng việc tập hiểu tập thương chính mình. Chúng tôi đã biết quay về với hải đảo tự thân và bảo hộ sáu căn khi lựa chọn bốn loại thức ăn cho mình. Cùng tăng thân tham gia vào những ngày tu chánh niệm, cùng đi thiền hành, nghe pháp thoại, dự pháp đàm hay những giây phút thoải mái của buông thư, uống trà bên nhau là những nguồn dinh dưỡng lành mạnh và lợi lạc nhất mà chúng tôi nếm được.

Mắt thương nhìn từng huynh đệ
Mỗi người là một bài thơ
Say sưa đọc hoài đọc mãi
Vẫn không hết những bất ngờ

(Sư cô Uyển Nghiêm)

Từ đó chúng tôi nhận ra mình đã có trong nhau tự bao giờ. Ban đầu là hiểu và thương chính mình, và thật bất ngờ, sau đó thấy xung quanh mình là cả một sự sống mầu nhiệm mà mỗi một sự việc, mỗi một con người chính là điệu nhạc, vần thơ điểm tô cuộc đời. Anh chị em chúng tôi có thể ngồi hàng giờ bên nhau để ngắm bình minh trên tháp Borobudur bên tách trà nóng, ấm áp tình huynh đệ mà không cần phải nói gì cả. Rồi cùng đi thiền hành trên biển Thuận An, hay dạo quanh chùa Tổ và ý thức rõ những điều kiện hạnh phúc mà từ đó vun trồng tưới tẩm lòng biết ơn.

Có những ngày làm tình nguyện viên rong ruổi trên chiếc xe gắn máy mang chút tấm lòng của chương trình Hiểu và Thương đến với các cụ già neo đơn ở những vùng xa xôi hẻo lánh. Có khi đi hoài mà chẳng thấy tiệm cơm chay nào nên chỉ dừng lại để uống ly nước mía, ấy vậy mà anh chị em cứ nhìn nhau cười tủm tỉm và thấy yêu đời chi lạ. Rồi những lần đi theo các cô chú phát học bổng “Giúp em đến trường”, chúng tôi có cơ hội được tiếp xúc sâu sắc với trẻ em nghèo khi ngồi vòng tròn bên nhau theo từng nhóm nhỏ, tập cho các em nghe chuông và ăn cơm chánh niệm. Nhớ lại những ngày đầu, tôi còn lúng túng khi không biết phải chuyển tải nội dung của Năm quán như thế nào để các em hiểu được. Cho đến một ngày chú Nghiệm đưa cho tôi tờ giấy đi photo ra thành nhiều bản để đưa cho các em nhỏ có tựa đề Năm điều em ghi nhớ, tôi chợt nhận ra các cô chú đã chuyển tải nội dung của năm phép thực tập chánh niệm trở thành những câu văn vô cùng dễ hiểu và gần gũi với các em nhỏ. Thế là tôi cũng học theo và áp dụng vào Năm quán để đọc cho các em nghe trước bữa ăn. Có lần một bạn nhỏ nhanh nhẩu đáp lại: “Con rất biết ơn người đã mang cơm vào đây cho con ăn” khiến cho cả vòng tròn ai cũng vừa mắc cười vừa xúc động.

Tôi rất thích được ngồi hàng giờ để lắng nghe những câu chuyện của chú Nghiệm hồi mới chập chững làm tình nguyện viên của chương trình Hiểu và Thương, tôi hay thắc mắc tại sao các cô chú luôn chú trọng đến chương trình chăm sóc trẻ em. Có một hôm chú kể cho tôi nghe chuyện của những em bé xóm chài, những đứa trẻ hoặc mồ côi, hoặc cha mẹ ly dị. Có những đứa, cha đi biển rồi mất tích, thế là mẹ khổ quá bỏ đi, các em phải sống với ông bà. Các em có thể sẽ có cơm ăn áo mặc qua ngày, nhưng nếu nhìn kỹ và tiếp xúc sâu sắc thì những đứa trẻ đó đang lâm vào tình cảnh đói khát hiểu biết và đói khát thương yêu. Chú nói rằng, mình giúp các em đến trường cũng giống như đang ươm mầm và gieo hạt. Mình phải biết tưới nước và vun bón mỗi ngày thì cây mới xanh tươi, ra hoa và kết trái. Có những lần đọc thư cảm ơn của các em học sinh nghèo đã từng nhận học bổng của chương trình liên tục mười mấy năm liền, tôi và những em tình nguyện rơm rớm nước mắt…

Nếu như bài Tâm ca số 5 trong Nói với tuổi hai mươi là những lời tự thú của một người anh bốn mươi tuổi nói với người em hai mươi tuổi “khiến cho giận hờn trách móc tan biến và khiến cho nguồn thông cảm được khơi mở” thì 50 năm sau, Để lại cho em như những lời tri ân và thệ nguyện của những đứa em tuổi hai mươi hay ba mươi nói với thế hệ đi trước. Câu chuyện phụng sự bằng con đường bất bạo động luôn được trao truyền và tiếp nhận qua bao thế hệ. Đó là sự vững chãi bên nhau trong thời chiến, khả năng sống an lạc và hạnh phúc cùng với niềm tin kiên định vào giáo pháp và sự tu tập mang lại hoa trái của chuyển hóa, chữa trị, an vui cho mọi người trong hiện tại. Những người tác viên của khóa một đến khóa năm giờ đây đang là những cây đại thọ cho anh chị em chúng tôi nương tựa và tiếp nối.

Tôi thấy mình thật may mắn được tiếp nhận gia tài là sự bình an và tình thương đích thực, là sự buông bỏ những ý niệm đúng sai phân biệt, là sự trở về để an trú nơi hiện tại. Trên tất cả là một gia đình tâm linh có anh có chị có em, là nơi chốn để quay về trong tĩnh lặng và tự tại. Tôi là một con sóng nhỏ, anh chị em mình là những con sóng nhỏ hòa với những đợt sóng lớn cùng chảy ra đại dương mênh mông.

Để lại cho em cuộc sống hòa bình
Để lại cho em vạn nẻo tự do
Nguyện cầu bao dung được tiếp nối
Nguyện cầu yêu thương làm lẽ sống
Để lại cho em ngọc quý từ bi.
Để lại cho em tình nghĩa thầy trò
Để lại cho em tình nghĩa đệ huynh
Một lòng thương yêu và gắn kết
Một dòng sông đi về biển lớn
Để lại cho em một biển gia tài.
 

Tôi xin được cảm ơn Sư Ông, cảm ơn sư cô Chân Không, Ban biên tập Làng Mai, các cô chú chương trình Hiểu và Thương, anh chị em tăng thân Trăng Rằm đã tạo cảm hứng cho tôi được chia sẻ những cảm nhận của mình nhân dịp kỷ niệm 50 năm ra đời của dòng tu Tiếp Hiện. Nguyện giữ vững ngọn đèn chánh niệm, trái tim vẫn cháy một tình thương bao la và nụ cười an nhiên trên con đường tiếp nối. Nguyện an trú trong hiện tại, đem mắt thương nhìn cuộc đời để có thể tiếp xúc được với sự sống nhiệm mầu, tiếp xúc được với chư Bụt, Tổ và tiếp xúc được với Thầy cùng tăng thân ở khắp mọi nơi.

Khóa tu dành cho các thành viên nòng cốt của tăng thân tại Làng Mai Thái Lan

 

Trăng sao vẫn đẹp đêm rằm

Cô Chân Bảo Nguyện, thọ giới Tiếp Hiện năm 1994, đã theo Thầy Làng Mai phụng sự gần như từ những năm đầu của Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Hiện giờ cô là một trong những thành viên nòng cốt của tăng thân Tiếp Hiện ở Thiền đường Hơi Thở Nhẹ, và cũng là “cánh tay nối dài của Thầy”, là “trạm dừng chân của Làng” ở Paris. Cô nhận truyền đăng từ Thầy năm 2011, tiếp tục con đường tu học và phụng sự với tấm lòng đầy yêu thương và nhiệt huyết.

 

Thầy thương kính của con,

Thấm thoắt đã 50 năm trôi qua! Một nửa đời người với biết bao tang thương, biến đổi, song hành trang và lý tưởng Thầy truyền trao vẫn không hề đổi thay, vẫn luôn cháy bỏng trong tim con. Đó là tình thương và lòng phụng sự tha nhân. Ánh mắt Thầy luôn rực sáng niềm tin và bao dung độ lượng, tấm lòng Thầy luôn chất ngất tình thương. Thầy mãi mãi là ánh đuốc soi đường cho chúng con noi theo tiến bước.

Con vẫn còn giật mình khi nhớ lại tâm trạng bơ vơ, lạc lõng trong một đất nước đang khổ đau cùng cực vì chiến tranh bom đạn. Tuổi trẻ chúng con khi ấy mất cả niềm tin và phương hướng. May thay chúng con tìm đọc được Nói với tuổi hai mươi của Thầy và từ đấy chúng con đã chọn con đường đi cho đến hôm nay. Đó là con đường của tình thương và sự hiểu biết, con đường phụng sự để đem lại bình an hạnh phúc cho tự thân và cho mọi người.

Trường TNPSXHNgày ấy, lần đầu tiên được tiếp xúc với các anh chị tác viên thuộc trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (TNPSXH), con thật vô cùng hạnh phúc. Cả một thế hệ thanh niên thật trong sáng với bao nhiệt huyết đóng góp cho quê hương. Tiêu chí của Trường gồm 3 chữ T thật đẹp: Tình thương, Trách nhiệm và Tự nguyện. Đây chính là hạnh nguyện của những vị Bồ tát suốt đời dấn thân giúp đời vì tình thương lớn. Con đã bị thuyết phục vô điều kiện và đã tâm nguyện rằng, con sẽ đi theo con đường phụng sự của Thầy cho đến trọn đời và mãi mãi về sau.

Bằng thơ ca, Thầy đã thay mọi người nói lên ước vọng của dân tộc, ước vọng hòa bình mà trong hoàn cảnh bi đát của chiến tranh, bao nhiêu người bất lực không thể nói được:

Sáng nay vừa thức dậy
Nghe tin em gục ngã nơi chiến trường
Nhưng trong vườn tôi, vô tình,
Khóm tường vi vẫn nở thêm một đóa
Tôi vẫn sống, vẫn ăn và vẫn thở
Nhưng đến bao giờ mới được nói thẳng điều tôi ước mơ?

(Hòa bình, tập thơ Cho bồ câu trắng hiện)

Chính niềm ước mơ ấy mà Thầy lên đường bôn ba nơi xứ người để kêu gọi chấm dứt chiến tranh và xây dựng hòa bình cho quê hương. Vì lẽ đó, Thầy bị lưu vong nơi xứ người ngót 40 năm. Thầy đã sống như một tế bào phải tách rời khỏi cơ thể, lẻ loi, cô đơn vì bao nỗi nhớ nhà, nhớ người, nhớ quê nhà tuổi nhỏ thân thương.

Chúng con nơi quê nhà, thỉnh thoảng được truyền cho nhau đọc thư Thầy gửi về gói ghém biết bao nhớ nhung, thương yêu cho quê hương, cho hàng cau, vườn chuối… Thầy nhắc chúng con phải nhớ “rửa mắt” trên những cánh đồng lúa xanh. Lãng mạn và thơ mộng quá! Bài thơ Chỗ đứng của Thầy đã nằm lòng trong ký ức của con:

Quê hương tôi là đây
Chỉ có dòng sông, hàng cau, bụi tre, vườn chuối
Mặt trái đất dù mang đầy cát bụi
Nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm rằm.
 

Các anh chị tác viên đã thay mặt Thầy đi vào những xóm nghèo để chia sớt nỗi cơ cực, lầm than của đồng bào. Chúng con mỗi cuối tuần đều đến thăm Làng Tình Thương ở bên kia cầu Thị Nghè và Làng Thảo Điền qua khỏi cầu Xa Lộ. Chỉ cách thành phố không xa mà cuộc sống người dân nơi đây thật lạc hậu không tưởng: ăn ở mất vệ sinh, đi tiêu tiểu khắp nơi, không có trường học cho con nít học chữ, trẻ em nhỏ đã tập tành người lớn uống rượu, hút thuốc mỗi khi đi giăng câu…

Con vẫn đi dạy học ở Tân Uyên, một vùng quê giáp ranh chiến khu D, vẫn đi thu học bổng cho trường TNPSXH và cuối tuần vẫn về Làng tham gia công tác cùng các anh chị. Chiến tranh bom đạn cứ lan dần tàn phá quê hương mình. Người dân phải đứt ruột rời bỏ xóm làng để tập trung vào những trại tị nạn hoặc những vùng tương đối an ninh hơn. Các tác viên xã hội lại ngày đêm cùng đồng bào xây dựng lại xóm làng, dựng trường, mở lớp, trồng lúa, chăn nuôi…

Rồi tai ương cứ tiếp tục dồn dập xảy đến: Sáu tác viên trong lúc đi thực tập đã bị mất tích, trường TNPSXH bị kẻ lạ vào tấn công lúc ban đêm khiến hai chị Liên, Vui bị tử nạn, chị Hương bị cưa mất một chân và anh Vinh bị bắn vào đầu nên phải nằm liệt một thời gian dài, sau đó được sang Đức điều trị.

Mọi người vẫn không nao núng, vẫn tiếp tục dấn thân, các tác viên vẫn đi vào làng để giúp đồng bào và rồi lại thêm một mất mát lớn: Năm tác viên trong khi đi công tác ở Thủ Đức đã bị bắn chết lúc trời chạng vạng tối, chỉ có một người bị thương nặng song thoát chết trở về mà thôi.

Trước những thảm trạng ngày càng bi đát cho quê hương, người chị cả của dòng tu Tiếp Hiện Nhất Chi Mai đã nguyện đem thân làm đuốc để thắp sáng lương tri mọi người trên thế giới và để kêu gọi hòa bình cho dân tộc.    

Tết Mậu Thân với cảnh nhà cháy, chết chóc bất ngờ xảy ra cùng khắp trong thành phố và ngoại ô. Đồng bào quanh vùng Phú Thọ Hòa đều tập trung về khuôn viên chùa Lá và trường TNPSXH để tạm trú. Thầy Thanh Văn khi ấy đang là giám đốc trường và các anh chị tác viên phải đối phó với biết bao bất trắc không lường được khi bỗng nhiên có hàng vài ngàn gia đình đến ở bên cạnh chùa. Giữa bao khó khăn chồng chất thì có tin một sản phụ đang chuyển bụng, các anh chị tác viên phải bất đắc dĩ làm “bà mụ” đỡ đẻ giúp cho người thiếu phụ trẻ được mẹ tròn con vuông ngay trong khuôn viên Trường.

Các vấn nạn như lương thực, thuốc men, nước uống, vệ sinh hàng ngày luôn là gánh nặng mà mọi người phải trăn trở giải quyết. Các cơ quan xã hội của chính quyền vì ngại xa xôi nguy hiểm nên không ai đến cứu trợ. Chỉ có các thân hữu của Trường đi quyên góp và xông pha vượt qua hiểm nguy bom đạn để đem quần áo, thực phẩm, thuốc men đến chùa Lá tiếp tế. Trong công tác này, con đã được anh Hảo, giám đốc trường Anh văn quốc tế đặt cho biệt danh là “nữ hoàng ăn xin” vì tài đi xin hàng cứu trợ ở chợ cho đồng bào.

Nhà con buôn bán sơn dầu ở trước chợ Nguyễn Tri Phương, quận 10 nên quen biết hầu hết các cô bác buôn bán trong chợ. Do vậy con chỉ vừa khóc vừa kể tình trạng thảm khốc của đồng bào tị nạn là xin được vô số thức ăn như gạo, mì, tương, chao, khoai, đậu… Anh Hảo có xe hơi và tình nguyện cùng con khuân vác lương thực lên xe, chuyên chở, mạo hiểm chạy qua vùng vừa ngưng tiếng súng để đem đến chùa Lá cùng các tác viên TNPSXH phân phát cho đồng bào.

Ngoài ra chúng con còn tham gia vào việc giúp nhân viên Sở Vệ sinh đi chôn xác chết. Trong cơn lửa đạn ngất trời, mạng sống con người như chỉ mành treo chuông nên cái chết đến bất ngờ cho tất cả mọi người. Xác chết vô thừa nhận cứ lăn lóc ngoài đường qua bao ngày không ai chôn cất. Thầy Thanh Văn và chị Chín (sư cô Chân Không) đã mạnh dạn đề xướng việc kêu gọi mọi người giúp Sở Vệ sinh đi thu dọn các xác chết để phòng ngừa bệnh dịch lây lan trong thành phố.

Những đau thương tang tóc rồi cũng qua đi, cuộc sống bình yên dần dần trở lại. Mọi người như tạm quên đi quá khứ buồn đau để hướng về tương lai tươi sáng hơn.

Trong một dịp coi thi Tú tài, con và anh Đức quen nhau, tình yêu chúng con chớm nở từ đây. Con có giới thiệu anh về trường TNPSXH và dẫn anh về thăm Làng (khi ấy con gọi trường TNPSXH là Làng). Anh Đức được ăn cơm chung với thầy Thanh Văn hai lần và có trao đổi khá thân mật với thầy. Có lẽ nhờ nhân duyên này mà khi định cư tại Pháp, anh đã đóng góp thật đắc lực cho Làng Mai mỗi khi có việc cần. Hai chúng con luôn vui sướng kề vai giúp Làng một tay.

Vài năm sau đó, trong một chuyến đi cứu trợ đồng bào tại các trại định cư Biên Hòa, thầy Thanh Văn đã qua đời vì tai nạn xe. Con được một chị bạn làm y tá ở phòng cấp cứu bệnh viện Biên Hòa thuật lại, có một vị sư trẻ bị tai nạn trầm trọng được đưa vào cấp cứu trong tình trạng hôn mê. Ít lâu sau đó, thầy có tỉnh lại và hỏi thăm các đệ tử đã có ai thay thầy lo việc cứu trợ đồng bào ở trại định cư chưa? Mọi người đều cảm động ứa nước mắt vì tấm lòng của thầy, cho đến khi sắp lìa đời vẫn còn mang những nỗi lo cho tha nhân.

Bên này chúng con buồn lắm và khóc thật nhiều. Chúng con được tin Thầy bên phương trời xa cũng nhập thất cả tháng khi hay tin một biến cố lớn đã xảy ra nơi quê nhà! Quả thật con đường cho lý tưởng từ bi thật đẹp nhưng cũng đầy gian nan, khốc liệt, mất mát!

Thầy Châu Toàn lên thay thầy Thanh Văn tiếp tục công việc. Thầy năng nổ làm việc hết mình cho đồng bào được no cơm ấm áo. Trong dịp mừng lễ Tết cuối năm, thầy Châu Toàn phát biểu mơ ước của thầy khiến con ngồi rưng rưng nước mắt: “Chúng ta sẽ cố gắng làm thế nào để đến cuối năm, đằng trước sân mỗi gia đình là một đống lúa vàng cao ngất ngưởng”. Trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng của quê hương mà thầy vẫn cháy bỏng những ước mơ cao đẹp cho đồng bào như thuở thanh bình thì bảo sao con không khóc cho được! Ngồi phía đằng sau ngôi chùa Lá, nhìn qua những hàng cau xanh là cánh đồng bát ngát một màu vàng của bông lúa chín, con chợt nhớ đến hai câu thơ tuyệt đẹp của Thầy trong bài Đường quê:

Cô gái đồng quê về lối xóm
Tươi cười gánh cả một hoàng hôn
 

Có lẽ vì làm việc quá sức nên trong buổi lễ tổng kết sinh hoạt cuối năm, khi đang trình bày những việc làm của trường cho cử tọa, thầy kiệt sức và xin ra ngoài hội trường nghỉ đôi phút. Sau đó thầy vào đọc hết bản tường trình để rồi gục xuống bàn và vĩnh viễn ra đi.

Chúng con thật ngỡ ngàng đau xót. Thư Thầy gửi về an ủi nhưng chúng con biết Thầy cũng đứt từng khúc ruột: “Nhận được tin dữ, tôi đóng cửa phòng một ngày. Tôi như một gốc cây bị đốn ngã. Tôi đánh điện về an ủi các em nhưng tôi thì không an ủi được. Sao trên đời có những chuyện “lỡ hẹn” đớn đau đến thế, hả em?”.

Trải qua bao cuộc thăng trầm bể dâu, chúng con may mắn được gặp lại Thầy vừa lúc thiền đường Hoa Xương Rồng mới hình thành ngày 03.09.1985, sau này đổi thành thiền đường Hoa Quỳnh và hiện tại là thiền đường Hơi Thở Nhẹ. Gia đình con và các cháu nhờ vậy có nơi nương tựa như quê hương tâm linh tại Paris, sau quê hương lớn hơn là Làng Mai. Quả thật chúng con có phước báu quá lớn!

Tăng thân Thiền đường Hơi thở nhẹ, Paris

Ròng rã suốt 30 năm qua, chúng con luôn được Thầy thương yêu, nhắc nhở và chỉ dẫn tường tận hành trang sẵn có để thực tập, đó là hơi thở ý thức, bước chân chánh niệm và nụ cười bình an. Pháp môn chánh niệm trong từng giây phút của cuộc sống giúp chúng con nhận biết những điều kiện hạnh phúc đang có để nâng niu trân quý, đã cho chúng con biết bao niềm an lạc, tự do.

Việc xây dựng tăng thân cũng gian nan, lên xuống bao phen nay mới được hình thành tương đối tạm ổn, mặc dù đôi lúc cũng trải qua sóng gió. Chúng con nghĩ đây là những thử thách đo lường nghị lực và kiên nhẫn của chúng con mà thôi, vì Thầy đã trao cho chúng con chiếc đũa thần “Hiểu và Thương” rồi.

Khi Làng Mai kỷ niệm 20 năm, tăng thân Hơi Thở Nhẹ chỉ mới có 3 thành viên Tiếp Hiện. Hiện nay tăng thân chúng con đã có gần 30 thành viên, năng nổ trong tu tập và đóng góp công sức xây dựng tăng thân, nuôi dưỡng tình huynh đệ.

Con thật sự ngỡ ngàng và hạnh phúc đến lặng người khi nhận được bài kệ truyền trao của Thầy trong buổi lễ trao đèn, vì bài kệ Thầy trao cho con và bài kệ con kính dâng lên Thầy và chư Bụt đã ăn khớp một cách tuyệt vời, mặc dù cho đến khi được quỳ trước mặt Thầy con mới đọc lên:

Bài kệ Thầy truyền trao:

Nâng niu pháp bảo nguyện hành trì
Hoa lá bên đường mở lối đi
An trú thân tâm vào giới định
Quê hương trong mỗi bước chân về

Bài kệ của con kính dâng lên Thầy:

Từng bước chân chánh niệm
Từng hơi thở ý thức
Từng nụ cười bình an
Đây gia tài thiêng liêng
Thầy ân cần trao gửi
Đây hành trang mầu nhiệm
Cùng tăng thân vun bồi”.
 

Con xúc động mãnh liệt khi Thầy hướng đôi mắt đầy thương yêu trìu mến và ân cần nhắn nhủ: “Chiếc đèn này là để trao cho cả gia đình chứ không phải cho một mình Chân Bảo Nguyện đâu. Trong kinh có nói đức Bồ tát có rất nhiều cánh tay vươn ra rất dài, và con là cánh tay của Thầy ở Paris. Cánh tay Thầy rất dài, do đó khi nào có việc cần là có con ở đó, không kể đêm ngày, không kể có thì giờ hay không có thì giờ, luôn luôn có mặt cho tăng thân, phụng sự tăng thân. Một cánh tay không đủ, phải có nhiều cánh tay. Thầy trò mình biết thực tập theo bài kệ trên sẽ mang lại nhiều hạnh phúc. Thầy trò ta làm việc rất nhiều và đều không có lương gì cả, nhưng có rất nhiều niềm vui trong khi phụng sự. Đó là pháp lạc có công năng nuôi dưỡng và trị liệu. Con hãy cùng tăng thân thực tập và nuôi dưỡng tình huynh đệ…”

Qua 50 năm âm thầm theo con đường Thầy chỉ dạy, con vẫn luôn tự hỏi: Con có phải là tri kỷ của Thầy chưa? Con đã quá hạnh phúc và may mắn khi được bơi lội trong dòng suối thơm tho, mát trong chứa đầy tuệ giác và từ bi mà Thầy kính thương đã dày công tạo dựng bằng cả một đời dấn thân đầy truân chuyên và bi hùng.

Việc thị hiện bệnh của Thầy cũng đã cho chúng con biết bao bài học để thực tập, để cố gắng. Chúng con chỉ biết cúi đầu đảnh lễ Thầy với tất cả tình thương và kính ngưỡng.

Thầy kính yêu ơi, chúng con thương Thầy nhiều lắm, Thầy có biết không!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

       

 

Ngày 14.01.2016

Trả về cho non sông

Ngày 18 tháng 07 năm 1974,
Các em tác viên Thanh niên Phụng sự xã hội,

 

Hồi sáng tôi có đọc một lá thư từ nhà gửi qua, tỏ vẻ lo lắng về “cuộc đất” của trường. Mỗi lần có tai nạn xảy ra cho trường là những lo lắng về địa lý lại có dịp sống lại. Không phải là tôi không tin nơi địa lý, nhưng tôi thấy “tâm lý” quan trọng hơn “địa lý” nhiều. Chùa Pháp Vân ngảnh mặt về hướng nào mới đúng? Cố nhiên là ngảnh mặt về phía quần chúng. Ngảnh lưng về phía quần chúng thì buồn cười quá đi, phải không các em?

Đất nước mình bị tai họa liên miên trong mấy chục năm nay có phải vì địa lý xấu không? Điện Thái Hòa, phủ Chủ Tịch và phủ Tổng Thống đã đặt hướng sai phải không? Theo mấy ông thầy địa lý, có lẽ ta phải thay hướng tất cả mọi tòa nhà hành chánh từ cấp trung ương đến cấp xã ấp. Nhưng chúng ta biết rằng tâm lý quan trọng hơn địa lý: chiến tranh và tai nạn phát xuất từ lòng người. Tâm bình thì thế giới bình, ai cũng biết điều đó, nhưng không mấy ai chịu bình tâm trước khi bình thiên hạ. Câu “nồi da xáo thịt” và câu “gà một nhà bôi mặt đá nhau” đứa bé nào cũng học thuộc nhưng không mấy ai khôn lớn mà lại biết thực hành nguyên tắc khôn ngoan kia để tránh cái cảnh tương tàn tương sát. Trường TNPSXH từ ngày thành lập, đã gánh chịu nhiều tổn thất. Bao nhiêu người chết, bao nhiêu người bị thương tích. Mỗi lần có tai nạn xảy đến như thế, mỗi người trong chúng ta đều thấy chết trong lòng một phần, và bị thương tích trong trái tim một ít. Hiện Hương và Vinh đang ở bên cạnh tôi; cả hai người đều mang thương tích nhưng thương tích mà tôi mang trong lòng không phải là không đớn đau bằng. Liên, Vui, Hy, Tuấn, Thơ, Lành, chú Trí và bảy người đồng tán toán công tác, chị Nhất Chi Mai, thầy Thanh Văn, thầy Châu Toàn… và Diệu, Xuân, Kê, Út, Lành, ngọc, Nguyện, Triều, Kỷ. Chúng ta là ai mà có thể tránh được thiệt hại, trong lúc toàn dân đang gánh chịu khổ đau? Chúng ta chia xẻ đau xót với dân tộc, chúng ta hiến phần đau thương của chúng ta. Bao nhiêu người đã chết vì bom đạn và hận thù. Những người đang mang thương tích và những người ra đã ra đi, trong chúng ta, là những người chưa hề đem hận thù gieo rắc. Hồi tháng bảy năm 1967 khi nghe tin Hy, Tuấn, Thơ và Lành bị giết, tôi viết:

Có mặt đồng bào
Có mặt các chị các anh
Máu của các em, tôi xin trả về cho non sông
Xương của các em, tôi xin trả về cho non sông
Máu xương đó trinh nguyên
Chưa bao giờ làm hoen ố giống Lạc Hồng
Còn những bàn tay các em
Tôi xin trả về cho nhân loại
Những bàn tay kia
Chưa bao giờ gây tàn hại
Những trái tim kia
Từ thời thơ ấu
Chưa bao giờ nhận gửi máu hờn căm

Và con da các em đây, xin gửi trả về cho đồng bào
Các em chưa bao giờ chấp nhận cảnh nồi da xáo thịt
Xin hãy dùng những mảnh da các em đây
Mà vá lại
Những đường rạch
Những vết cắt rướm máu
Trên thân hình dân tộc thương đau”

 

Tất cả chúng ta, những người đã bị thương tích hay đã ra đi đều đã chấp nhận sự hy sinh và những đớn đau với tâm niệm không oán thù. Tay chúng ta, may mắn thay, chưa từng dính máu đồng bào. Công lao chúng ta không có bao lắm, không đáng kể gì, nhưng chúng ta đã biết từ chối bạo lực. Tôi biết thế nên khuyên các em đừng nên đau xót lắm. Tôi khuyên các em, nhưng cũng là để khuyên tôi. Thương những người đã ra đi, ta biết thương những người còn ở lại. Ta phải sống với nhau cho xứng đáng. Đừng để khi mất đi người đồng sự ta mới biết tiếc nuối. Sống thì bắt nhịn đói nhịn khát. Chết đi mới làm cỗ bàn linh đình để hiến cho những con ruồi. Chúng ta hay lãng quên. Vì những tị hiềm phân bì nho nhỏ, chúng ta không cho nhau những ngọt ngào thương mến. Ta làm việc để thỏa mãn ước vọng thương yêu, đâu phải để kể công hay tích tụ phước đức. Người đồng sự của ta không làm được như ta, điều đó đâu có thể là nguyên nhân khiến ta ngưng bớt công việc của ta. Tôi nghe người ta nói các em làm việc giỏi. Điều đó chưa đủ cho chúng ta mừng. Điều quan trọng nhất chưa phải là làm việc giỏi. Điều quan trọng nhất là thương yêu nhau, và biết sống hạnh phúc bên nhau. Chúng ta làm việc cho hòa bình, thì chúng ta xây dựng hòa bình trong lòng ta và trong gia đình ta, có phải không?

Tại vì tôi nghĩ TNPSXH là một gia đình, nên tôi mới gọi các em là em. Nếu không tôi đã viết: các anh các chị tác viên. Không phải tôi thân cận với các em khóa một hơn với các em khóa hai và khóa ba. Có em tôi chưa được gặp, nhưng không phải vì thế mà tôi có cảm tưởng xa lạ khi nghĩ đến các em. Tôi nghĩ có thể rằng các em khóa ba mà ít chấp chặt và ít thành kiến hơn một vài em khóa một. Khóa nào thì cũng là TNPSXH. Khóa nào cũng chấp nhận đường lối xây dựng bất bạo động, từ bỏ bạo lực, phá trừ hận thù, xây dựng hòa giải. TNPSXH là một cái bè đưa ta tới bờ phụng sự, không phải là một gia tài để nâng niu, không phải một tượng thần để thờ cúng, không phải một cái Ngã để tô điểm. Các em đừng sợ mất TNPSXH, mà chỉ nên sợ mất tình thương và ý chí phụng sự. Khi nào thấy không khí TNPSXH khó thở quá thì bỏ mà đi quách; ra ngoài mà thực hiện lý tưởng thương yêu. Có biết bao người không còn trong TNPSXH nhưng đời sống của họ vẫn là một sự tiếp nối của lý tưởng phụng sự bất bạo động.

Em, tôi buồn lắm. Thầy Châu Toàn có hứa với tôi là sẽ tìm đất làm một làng TNPSXH, trong đó mỗi chúng ta có một lô đất để làm nhà và làm vườn. Đi đâu thì chúng ta cũng có một cái nhà và một cái vườn để tìm về, để nhớ, để thương. Tôi định gặp thầy Châu Toàn để nói: cho tôi một lô đất không xa lô đất của em để làm nhà và làm vườn (hồi sinh tiền thầy, tôi luôn gọi thầy là em). Và tôi xin thầy duy trì tất cả những cây lớn nhỏ mà có giá trị nghệ thuật trong khu đất làng. Tôi còn mơ ước có nhiều tảng đá lớn, và một con suối chảy qua làng. Em cũng có một lô đất, tôi cũng có một lô đất, Vinh cũng có một lô đất, Hương cũng có một lô đất, thầy Châu Toàn cũng có một lô đất… Chúng ta sẽ làm nhiều công viên nho nhỏ. Làng chúng ta sẽ mát dịu sáng trong như tình thương. Tôi tin thầy Châu Toàn có thể cộng tác với các em để tạo ra một khu làng đẹp đẽ như thể, bởi tôi biết thầy Châu Toàn là một chân nghệ sĩ. Thầy là vị tăng sĩ cắm hoa đẹp nhất mà tôi quen biết. Tôi biết nếu giao thầy việc làm làng cho chúng ta thì ta sẽ có làng rất đẹp, bởi vì tôi tin ở khả năng thẩm mỹ của thầy.

Ngày xưa chúng ta có Phương Bối, cũng là một nơi nương tựa của trường. Khi Phương Bối mất an ninh, ta có Trúc Lâm. Chắc chắn các em đã được hưởng những giờ phút an lạc ở trong lòng chiếc nôi tâm linh đó. Nhưng nay thầy Châu Toàn không còn nữa, một cây cổ thụ đã bị đổ ngã rồi. Làng TNPSXH, mà tôi muốn đặt tên là làng Hồng nếu ở đó ta trồng nhiều cây hồng ăn trái hoặc là làng Mai nếu ở đó ta trồng nhiều hoa mai, chưa thành hình thì thầy đã ra đi. Tôi mắc kẹt bên này chưa về được, vừa xót xa vừa trống lạnh. Tôi chẳng giúp gì cho các em được cả, nội một chuyện viết thư cho các em mà cũng chẳng viết được thường xuyên.

Thế nào các em cũng làm cho được làng Hồng, các em nhé. Tôi sẽ viết thư cho anh Thiều, cho thầy giám đốc mới. Chúng ta sẽ để dành nơi làm một công viên kỷ niệm chị Nhất Chi Mai, thầy Thanh Văn, thầy Châu Toàn và những anh em khác. Các em tìm cho ra một nơi có đất tốt, cây xanh, có đá, có nước. Tôi mê những thứ đó. Cây đá và nước là những thứ đẹp nhất: những thứ đó chữa lành thương tích của chúng ta. Và các em hãy cho tôi một lô đất trong làng ấy nhé. Tôi sẽ làm nhà, và xung quanh tôi sẽ trồng rau và rất nhiều rau thơm” ngò, tía tô, kinh giới, bạc hà, tần ô, lá lốt, thì là, vân vân. Khi em đến chơi thế nào tôi cũng đãi em một bát canh có rau thơm rắc lên trên mặt bát.

Mỗi năm, ta có ít nhất một tháng tĩnh tu tại làng, không hoạt động gì hết. Cả ngày ta đối diện với đá, với nước, với cây; cả ngày ta đối diện với chính ta. Trồng rau, tỉa đậu, chơi với các cháu nhà bên, ta tìm lại ta, chữa lành thương tích, trang bị thương yêu để sẵn sàng trở lại môi trường phụng sự. Tôi về thì tôi sẽ ở giữ làng cho các em. Tôi sẽ ra cổng làng đón từng em, tôi sẽ ngồi lắng nghe các em than thở, phân trần. Rồi tôi sẽ đưa các em về nhà em. Và chiều hôm đó tôi sẽ mở hội mừng em, mời trẻ em trong xóm đến ca hát. Tôi sẽ đọc cho em những bài thơ mà tôi viết để ca tụng tình thương và những bàn tay cần mẫn của các em, cùng những hoa lá các em làm xanh tốt trên mọi nẻo đường. Tôi thấy một làng và đem về làng cho các em những người anh những người chị những người mẹ để săn sóc cho em khi em cần đến sự săn sóc.

Thầy Châu Toàn tôi quen từ hồi thầy còn tám tuổi. Thầy đến tu viện của tôi trên núi Dương Xuân để hái hoa về trang trí cho ngày giỗ tổ tại chùa Trà Am. Thầy lúc ấy là chú điệu Hòa. Hòa leo lên cây hoa đại (tức là hoa sứ) hái từng giỏ hoa trắng muốt. Nhưng một cành hoa đại gảy, Hòa té xuống đất, gảy xương ống chân. Thầy Mật Thể (tác giả sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược) bổn sư của Hòa phải đưa Hòa vào bệnh viện, thầy ngồi hàng giờ trong bệnh viện với Hòa.

Rồi Hòa được gửi vào học Phật học đường Báo Quốc Huế, sau này mới có tên Hoàng Minh và pháp danh Châu Toàn. Năm 1952, tôi mời thầy Châu Toàn vào Nam, vừa để học thêm sinh ngữ, vừa để sống chung với nhau. Thầy Châu Toàn có viết vài truyện ngắn. Có một lần tôi nghe thầy kể về cốt chuyện của truyện “lỡ hẹn” mà thầy định viết (hoặc đã viết mà bản thảo không còn). Cốt chuyện ấy như sau. Một em bé nhà nghèo phải xa mẹ đi làm ăn chốn xa. Một hôm được biết trong tháng tới em sẽ phải đi tới một làng xa để nhận việc, và sẽ đi xe lửa ngang qua làng mình, em mới viết thư cho mẹ: “Mẹ ơi, ngày thứ hai tuần tới con sẽ đi xe lửa ghé qua làng mình năm phút. Xin mẹ ra ga cho con thăm, kẻo con nhớ mẹ quá. Và mẹ đem cho con vài cái bánh ít của mẹ làm, kẻo lâu nay con không được ăn bánh ít ngon của mẹ. Xe lửa sẽ đổ lại chừng năm phút”. Cậu bé trong mãi đến ngày khởi hành. Còn mười lăm phút nữa xe lửa sẽ ghé làng. Cậu nóng ruột. Cậu nhìn ra ngoài. Rồi cậu ra đứng sát cửa toa xe. Xe lửa hét lên một tiếng. Rồi từ từ ngừng lại. Cậu bé nhìn xớn xác. Không thấy hình bóng mẹ. Một phút, hai phút. Rồi ba phút, bốn phút. Cậu nhìn ra con đường đất từ xóm ra ga: không có một bóng người. Năm phút. Xe lửa lại mở còi, bánh xe từ từ lăn trên đường sắt. Mắt cậu bé vẫn dán vào con đường làng. Không có bóng người. Xe bắt đầu lăn tốc độ rằm rập. Cậu bé khóc nước mặt nhòe cả lũy tre và con đường làng. Bỗng cậu gạt nước mắt, trố mắt nhìn. Trên con đường làng đất đỏ, bóng một thiếu phụ, đầu đội một chiếc rổ con. Đúng là bà mẹ của cậu bé. Thấy xe đã chạy rồi, bà đứng dừng lại. Bà nhìn theo con tàu. Cậu bé đưa tay vẫy mẹ, nhưng tàu đã chạy khuất. Cậu trong thấy mẹ, nhưng mẹ không thấy cậu, cậu đứng trên xe, khóc như mưa. Một người hành khách nắm cánh tay cậu đưa vào trong toa.

Trong một khóa tu cách đây chừng hai tháng, thầy Châu Toàn viết cho tôi: “em mong có hòa hình để ra Quảng Bình tìm lại mẹ, mong rằng bà còn sống.” Không biết mẹ thầy còn sống hay không nhưng thầy không còn có dịp gặp mẹ nữa. Lời ước hẹn đã không được thành tựu. Ngày thầy mất 24.6.74, là ngày tôi ước hẹn gặp thầy ở Vạn Tường để bàn chuyện làm làng Hồng. Nhưng tôi đã không được gặp thầy. Nhận được tin dữ, tôi đóng cửa phòng một ngày. Tôi như một gốc cây bị đốn ngã. Tôi đánh điện về an ủi các em  nhưng tôi thì không an ủi được, sao trên đời có những chuyện “lỡ hẹn” đớn đau đến thế, hả em?

Tôi đọc kinh cầu nguyện cho thầy, cho tôi, và cho các em. Tôi viết những dòng này cho các em trong khi bên ngoài gió thổi rất mạnh. Tôi xin các em tạm nghỉ công việc một vài ngày. Chúng ta hãy nhìn lại nhau, để biết thương nhau hơn. Tôi gửi em tất cả niềm tin cậy của tôi.

Văn bản 14 giới Tiếp Hiện tân tu

Kính thưa các bạn đồng tu, hôm nay chúng ta có cơ hội quý báu được ngồi lại với nhau để ôn tụng mười bốn giới Tiếp Hiện. Mười bốn giới Tiếp Hiện là nền tảng của dòng tu Tiếp Hiện. Đó là bó đuốc soi đường, là con thuyền chuyên chở, là bậc thầy chỉ lối của chúng ta. Những giới này giúp ta tiếp xúc được với tự tánh tương tức của vạn vật và thấy được rằng hạnh phúc của chúng ta liên hệ một cách mật thiết với hạnh phúc của mọi người, mọi loài. Tương tức không phải là một lý thuyết, đó là một sự thật mà mỗi người trong chúng ta đều có thể kinh nghiệm trực tiếp bất cứ lúc nào trong đời sống hàng ngày. Mười bốn giới Tiếp Hiện có công năng chế tác và nuôi lớn Định và Tuệ trong ta và do đó giúp ta vượt thắng sự sợ hãi và ảo tưởng về một cái ta riêng biệt.

Giới thứ nhất: Thái độ cởi mở

Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để không bị vướng mắc vào bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Con nguyện nhìn nhận những giáo nghĩa Bụt dạy như những pháp môn hướng dẫn thực tập để làm phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động. Thấy được rằng niềm cuồng tín dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị, con xin nguyện tập nhìn với thái độ cởi mở và với tuệ giác tương tức để có thể chuyển hóa tập khí vướng mắc vào giáo điều và năng lượng bạo động trong con và trên thế giới.

Giới thứ hai: Phá bỏ kiến chấp

Ý thức được những khổ đau do kiến chấp và vọng tưởng gây ra, con xin nguyện thực tập để phá bỏ thái độ hẹp hòi và cố chấp, để có thể mở lòng ra mà đón nhận kinh nghiệm và tuệ giác của kẻ khác, và nhờ đó thừa hưởng được nhiều lợi lạc từ trí tuệ tập thể. Con biết rằng những kiến thức hiện giờ con đang có không phải là những chân lý bất di bất dịch. Tuệ giác chân thật chỉ có thể đạt được do sự thực tập quán chiếu và lắng nghe, bằng sự buông bỏ tất cả mọi ý niệm mà không phải bằng sự chứa chấp kiến thức khái niệm. Con nguyện suốt đời là một người đi tìm học và thường trực sử dụng chánh niệm để quán chiếu sự sống trong con và xung quanh con trong từng giây phút.

Giới thứ ba: Tự do nhận thức

Ý thức được những khổ đau do sự cưỡng bức người khác vâng theo cái thấy của mình, con nguyện không ép buộc bất cứ một ai, kể cả trẻ em, đi theo quan điểm của mình, bằng bất cứ cách nào: uy quyền, sự mua chuộc, sự dọa nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và quyền tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên con biết con phải sử dụng những phương tiện đối thoại từ bi và ái ngữ để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp.

Giới thứ tư: Ý thức về khổ đau

Ý thức rằng tiếp xúc và quán chiếu về bản chất của khổ đau có thể giúp con có thêm hiểu biết và phát khởi tâm từ bi, con nguyện thực tập quay về với tự thân và sử dụng năng lượng chánh niệm để nhận diện, chấp nhận, ôm ấp và lắng nghe những nổi khổ niềm đau trong con. Thay vì trốn tránh thực tại khổ đau và tìm cách khỏa lấp niềm đau trong con bằng sự tiêu thụ, con sẽ hết lòng thực tập hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm để nhìn sâu vào những gốc rễ của khổ đau. Con ý thức rằng con chỉ có thể tìm thấy con đường thoát khổ khi nào con thấu hiểu được nguồn gốc của khổ đau. Và một khi thấu hiểu được khổ đau của tự thân thì con mới có khả năng hiểu được những khổ đau của người khác. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình ảnh, âm thanh, con nguyện thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những đau khổ hiện thực khắp nơi trên thế giới. Con nguyện tìm tới với những kẻ khổ đau để hiểu biết được tình trạng của họ và để giúp đỡ họ.

Giới thứ năm: Nếp sống lành mạnh và từ bi

Ý thức rằng hạnh phúc chân thật chỉ thật sự có mặt khi nào các yếu tố an ổn, vững chãi, thảnh thơi và từ bi có mặt, con nguyện không tích lũy tiền bạc và của cải trong khi nhiều người đang đói khổ thiếu thốn, không đặt danh vọng, quyền hành, giàu sang và sự hưởng thụ dục lạc làm mục tiêu của đời mình vì con biết những thứ ấy sẽ đem lại cho con nhiều khổ đau và tuyệt vọng. Con nguyện thực tập nhìn sâu vào cách con nuôi dưỡng thân tâm bằng bốn loại thực phẩm: đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Con nguyện không chơi bài bạc, không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy và bất cứ một sản phẩm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới toàn cầu, trò chơi điện tử, phim ảnh, các chương trình truyền thanh, truyền hình, sách báo và cả chuyện trò, vì con biết rằng những thứ ấy có thể gây tàn hại trên thân tâm con cũng như trên thân tâm của cộng đồng. Con nguyện thực tập tiêu thụ như thế nào để nuôi dưỡng được lòng từ bi, sự lành mạnh và niềm vui sống cho thân tâm con cũng như cho gia đình, xã hội và cả cho trái đất.

Giới thứ sáu: Chăm sóc cơn giận

Ý thức được rằng sân hận và oán thù có tác dụng cắt đứt truyền thông giữa người với người và tạo ra nhiều khổ đau cho cả hai phía, con nguyện học hỏi phương pháp chăm sóc năng lượng sân hận và oán thù khi chúng phát khởi trên ý thức con; cũng như phương pháp nhận diện và chuyển hóa hạt giống của sân hận và oán thù trong chiều sâu tâm thức con. Con nguyện tập luyện để mỗi khi cơn giận hoặc sự bực tức phát khởi, con sẽ không nói gì và làm gì cả mà chỉ thực tập hơi thở chánh niệm hoặc đi thiền hành để nhận diện và nhìn sâu vào bản chất của các tâm niệm sân hận và oán thù ấy. Con ý thức rằng gốc rễ của các cơn giận đó không phải ở bên ngoài con mà nằm ngay trong nhận thức sai lầm của con và nơi sự thiếu hiểu biết về khổ đau của chính con và của người kia. Bằng phương pháp quán chiếu về vô thường, con sẽ có thể nhìn lại chính con và nhìn lại người mà con nghĩ đã gây nên tâm niệm sân hận và oán thù trong con bằng con mắt từ bi và nhận ra rằng mối liên hệ giữa con và người đó quý giá biết nhường nào. Con cũng nguyện thực tập Chánh Tinh Tấn để nuôi dưỡng khả năng hiểu biết và thương yêu, khả năng chế tác niềm vui và lòng bao dung, không kỳ thị trong con. Nhờ đó, con sẽ dần dần chuyển hóa những bạo động, hận thù, sợ hãi trong con và giúp cho những người khác cũng làm được như vậy.

Giới thứ bảy: Hiện pháp lạc trú

Ý thức được rằng sự sống chỉ có thể thật sự có mặt trong giây phút hiện tại, con nguyện tập luyện để có thể sống sâu sắc từng giây phút trong cuộc sống hàng ngày của con. Con nguyện không để cho những hối tiếc về quá khứ, những lo lắng về tương lai và những tham dục, giận hờn và ganh tỵ đối với những gì đang xảy ra trong hiện tại lôi kéo con và làm cho con đánh mất sự sống mầu nhiệm. Con xin nguyện thực tập giáo lý hiện pháp lạc trú, sử dụng hơi thở và nụ cười chánh niệm để tiếp xúc với những gì đang diễn ra trong giây phút hiện tại và tiếp xúc với những gì mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh trong con và chung quanh con dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nhờ đó, con sẽ có thể nuôi lớn những hạt giống an lành, hiểu biết và thương yêu trong con để làm động lực chuyển hóa và trị liệu trong chiều sâu tâm thức. Con ý thức rằng hạnh phúc chân thật được phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn của con chứ không phải từ những điều kiện bên ngoài, và con có thể sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại bằng cách nhận ra rằng con đã có quá đủ những điều kiện hạnh phúc.

Giới thứ tám: Xây dựng đoàn thể tu học chân chính và duy trì sự truyền thông

Ý thức được rằng những khó khăn trong việc truyền thông giữa người với người luôn luôn đưa tới ngăn cách và khổ đau, con nguyện thực tập lắng nghe bằng tâm từ bi và nói năng bằng lời ái ngữ. Ý thức rằng một đoàn thể chân thật được xây dựng trên nền tảng không kỳ thị và hài hòa trong quan điểm, tư duy cũng như lời nói, con nguyện thực tập chia sẻ những hiểu biết và kinh nghiệm của con với những thành viên khác trong đoàn thể để cùng nhau đi đến một cái thấy chung.

Con nguyện học hạnh lắng nghe chăm chú mà không phán xét, phản ứng, không nói ra bất cứ một lời nào có thể tạo nên sự bất hòa và có thể làm tan vỡ đoàn thể. Mỗi khi có khó khăn xảy ra, con nguyện ở lại cùng tăng thân và thực tập nhìn lại chính mình cũng như nhìn lại những người khác để tìm ra tất cả những nguyên nhân và điều kiện đã tạo nên tình trạng khó khăn, trong đó có cả những tập khí của chính con. Con sẽ nhận trách nhiệm về những gì con đã nói và đã làm, những gì có thể đã góp phần tạo nên sự bất hòa và tìm cách duy trì được sự truyền thông. Con sẽ không hành xử như một nạn nhân mà sẽ cố gắng hết sức để giải quyết mọi vụ bất hòa, dù lớn dù nhỏ.

Giới thứ chín: Ngôn ngữ chân thật và từ ái

Ý thức được rằng lời nói có thể tạo ra khổ đau hay hạnh phúc, con xin nguyện thực tập sử dụng lời nói chân thật, từ ái và có tính xây dựng. Con chỉ sử dụng những lời nói nào có thể mang lại niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có tác dụng hòa giải và mang lại an lạc cho tự thân con cũng như giữa mọi người với nhau. Con nguyện thực tập ái ngữ và lắng nghe để giúp con và những người khác chuyển hóa khổ đau và tìm ra con đường vượt thoát tình trạng khó khăn đó. Con nguyện không nói dối để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con xin nguyện bảo vệ hạnh phúc và sự hòa hợp của tăng thân bằng cách tránh nói lỗi của người khác khi họ vắng mặt và luôn đặt câu hỏi về tính chính xác của những tri giác mà con đang có. Con nguyện chỉ nói với mục đích muốn hiểu rõ và giúp chuyển hóa tình trạng. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những gì con không biết rõ. Con nguyện can đảm nói ra sự thật về những tình trạng bất công, dù hành động này có thể gây khó khăn cho con hay mang lại những đe dọa cho sự an thân của mình.

Giới thứ mười: Bảo vệ và nuôi dưỡng tăng thân

Ý thức rằng mục đích và bản chất của một đoàn thể tu học là sự thực hiện tuệ giác và từ bi, con nguyện sẽ không bao giờ lợi dụng đạo Bụt và các đoàn thể giáo hội vào mục tiêu lợi dưỡng hoặc quyền bính, không biến các giáo đoàn thành những tổ chức hoạt động chính trị. Tuy nhiên, con nhận thức rằng một đoàn thể tu học phải có ý thức và thái độ rõ rệt về tình trạng áp bức, bất công xã hội, và tìm cách chuyển đổi các tình trạng ấy mà không cần và không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái. Con nguyện học nhìn với con mắt tương tức để thấy con và những người khác đều là những tế bào của cùng một tăng thân. Một khi đã là một tế bào thật sự của tăng thân, có khả năng chế tác ra Niệm, Định và Tuệ để nuôi dưỡng chính mình và nuôi dưỡng toàn thể tăng thân thì mỗi người trong chúng con cũng đồng thời là một tế bào của Phật thân. Chúng con nguyện tích cực xây dựng tình huynh đệ, đi với nhau như một dòng sông và thực tập để làm lớn thêm ba đức là trí đức, ân đức và đoạn đức, để thực hiện được sự nghiệp giác ngộ tập thể.

Giới thứ mười một: Chánh mạng

Ý thức rằng thiên nhiên và xã hội con người đã bị tàn phá trầm trọng vì bất công và bạo động, con nguyện không sinh sống bằng những nghề nghiệp có thể gây tàn hại cho con người và thiên nhiên. Con sẽ làm mọi cách có thể để chọn những phương tiện sống nào có khả năng góp phần vào sự an lành của mọi loài trên trái đất và có khả năng cho phép con thực hiện được lý tưởng từ bi và cứu khổ của đạo Bụt. Ý thức được về hiện thực của thế giới trên các mặt kinh tế, chính trị và xã hội, cũng như mối tương quan giữa con người với môi trường sinh thái, con nguyện hành xử một cách có trách nhiệm với tư cách một người tiêu thụ và một công dân. Con nguyện không đầu tư vào hay mua sắm những sản phẩm của những doanh nghiệp chuyên làm lợi cho một nhóm người trong khi tước đoạt môi trường và cơ hội sinh sống của những nhóm người khác.

Giới thứ mười hai: Tôn trọng sự sống

Ý thức được những khổ đau do chiến tranh và các cuộc xung đột tạo ra, con nguyện thực tập sống đời sống hàng ngày của con theo tinh thần bất hại, thương yêu và theo tuệ giác tương tức. Con nguyện thực tập chánh niệm để góp phần vào công việc giáo dục hòa bình, làm trung gian hòa giải trong phạm vi gia đình, cộng đồng, giữa những nhóm dân tộc và tôn giáo, quốc gia và quốc tế. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự chém giết. Con nguyện sẽ không yểm trợ bất cứ một hành vi giết chóc nào trên thế giới, trong tư tưởng hoặc trong cách sống hàng ngày của con. Con cũng sẽ thường xuyên quán chiếu với tăng thân con để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ sinh mạng, ngăn chặn chiến tranh và xây dựng hòa bình.

Giới thứ mười ba: Tôn trọng quyền tư hữu

Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin nguyện nuôi dưỡng lòng từ bi trong cách suy nghĩ, nói năng và hành động của con. Con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia sẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.

Giới thứ mười bốn: Tình thương đích thực

(Dành cho Tiếp Hiện Tại Gia)

Ý thức được rằng tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau, rằng sự phối hợp giữa hai cơ thể do thúc đẩy của tình dục không những đã không thể giải tỏa được nỗi cô đơn mà còn tạo thêm nhiều khổ đau, chua cay và xa cách, con nguyện không ăn nằm với bất cứ ai không phải là vợ hay chồng của con. Ý thức được rằng thân và tâm là một, con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con và nuôi lớn các tâm Từ, Bi, Hỷ và Xả giúp làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con ý thức được rằng hành động tà dâm sẽ gây ra khổ đau cho kẻ khác và cho chính con trong hiện tại và trong tương lai. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những điều mà mình và kẻ khác đã cam kết. Con nguyện sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con sẽ đối xử với thân thể con một cách kính trọng và từ bi. Con nguyện thực tập nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để thực hiện lý tưởng độ đời. Con cũng ý thức trọn vẹn trách nhiệm của con về sự cho ra đời những sinh mạng mới và thường xuyên quán chiếu về môi trường sinh hoạt trong tương lai của những sinh mạng này.

(Dành cho Tiếp Hiện Xuất Gia)

Ý thức được rằng lý tưởng xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ràng buộc đối với ái dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh của con và hết lòng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết cô đơn và khổ đau không thể nào được giải tỏa bằng dục tình mà chỉ có thể được chuyển hóa bằng sự thực tập Từ, Bi, Hỷ và Xả. Con biết hành động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con, làm hại đến cuộc đời của kẻ khác và không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sanh của mình. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con. Con nguyện không ép uổng thân thể con, không đối xử với thân thể con một cách bạo động và khinh xuất, không xem thân thể chỉ như là một dụng cụ. Con nguyện bảo trọng thân thể con, nguyện thực tập nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để đi tới trên đường thành tựu đạo nghiệp.

___________________________________
Tu chỉnh năm 2012