Lời ca em thiên thâu – Trường ca Avril

LỜI CA EM THIÊN THÂU

Mỗi buổi sáng tôi đều có dâng hương và rất ý thức rằng đây là một ngày mới, và tôi đọc tên nó, ví dụ: đây là ngày 240. Tuần trước tôi có nói trong đại chúng: Đây là mùa Xuân cuối cùng của thế kỷ 20, và chúng ta đang ở giữa mùa Xuân ấy. Tôi muốn rằng tất cả chúng ta đều nên có ý thức là mùa Xuân đang biểu hiện, và chúng ta có thể sống sâu sắc và hạnh phúc trong mùa Xuân này, từng ngày, từng giờ và từng phút. Nếu chúng ta không sống hạnh phúc được trong giây phút hiện tại thì rất khó để chúng ta sống hạnh phúc trong tương lai. Mùa Xuân là mùa được gọi là mùa biểu hiện, mùa tuôn dậy. Chúng ta thấy hoa, thấy bướm, thấy cây, thấy cỏ: tất cả đều biểu hiện ra một cách rất nhiệm mầu. Sự biểu hiện của mùa Xuân là một thắng điểm, là một tiếng chuông chánh niệm. Chúng ta nói biểu hiện mà không nói phát sinh là tại vì nhìn cho kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng mùa Xuân đã có mặt tiềm tàng trong mùa Đông. Trong khi mùa Đông đang tiếp diễn, nếu tinh mắt thì chúng ta có thể thấy được mùa Xuân trong ấy. Vì vậy không phải mùa Xuân bắt đầu từ tháng ba hay tháng tư mà nó đã có mặt khắp nơi và lúc nào cũng có. Nếu chúng ta tiếp xúc được với mùa Xuân trong khi nó biểu hiện thì ta cũng có thể tiếp xúc được với mùa Xuân trong khi nó chưa biểu hiện. Đó gọi là mùa Xuân vĩnh cữu. Thầy Trúc Lâm, tức vua Trần Nhân Tông, gọi nó là bất thắng xuân; nghĩa là mùa Xuân không có gì cao hơn nữa, không có gì đẹp hơn nữa. Nếu không tiếp xúc được với mùa Xuân khi nó biểu hiện thì làm sao chúng ta tiếp xúc được mùa Xuân khi nó chưa biểu hiện, nghĩa là với sự sống bất diệt? Cho nên chúng ta phải có ý thức rằng chúng ta đang sống trong mùa Xuân và ta thấy được sự biểu hiện nhiệm mầu của mùa Xuân. Sau này chúng ta có thể nói với con cháu ta là ngày xưa ta đã sống trong mùa Xuân ấy, mùa Xuân năm 1999, mùa Xuân cuối cùng của thế kỷ thứ 20. Thầy mình đã thỉnh tiếng chuông chánh niệm để mình có thể sống vững chãi, hạnh phúc và thảnh thơi trong mùa Xuân này. Như vậy mùa Xuân không đi qua một cách luống uổng. Mình đã gặp được mùa Xuân. Ngày xưa khi còn là sa di, tôi thường được nghe những bài kệ, những bài thơ về pháp thân mầu nhiệm. Trong kinh Pháp Hoa có hai câu: “Chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng”. Rồi có một vị thiền sư thêm vào hai câu: “Xuân đáo bách hoa khai, hoàng oanh đề liễu thượng”. Tôi rất cảm kích khi nghe hai câu thơ đó. Tuy là hai câu thơ nhưng nó giúp cho tôi hiểu được hai câu kinh; hiểu một cách khá sâu sắc.

Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng.

Chư pháp tức là các hiện tượng như núi, sông, mây, hoa, cỏ. Tất cả những thứ đó gọi là pháp. Tùng bản lai tức là từ ngày xưa cho đến bây giờ. Bản tức là cái gốc. Từ xưa đến bây giờ các pháp thường trụ tịch diệt tướng. Tự các pháp đó an trú trong tướng tịch diệt của chúng. Tướng tịch diệt tức là tướng Niết Bàn. Núi, sông, cây, cỏ và người, tất cả đều an trú trong tự tánh niết bàn; nghĩa là tự tánh không sinh, không diệt. Niết bàn tức là không sinh, không diệt, không có, không không, không còn, không mất. Trong đời sống hàng ngày ta thường nhìn bằng con mắt của sinh – diệt, có – không, còn – mất, tới – đi, và ta nói các pháp có sinh, có diệt; có có, có không; có còn, có mất; có đi, có tới. Hai câu kinh này cho ta thấy rằng tự tánh của các pháp là không sinh, không diệt; không có, không không; không còn, không mất; không tới, không đi. Tự tánh của các pháp là niết bàn. Và vị thiền sư kia thêm vào hai câu nữa:

Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng

Khi mùa Xuân tới thì hàng trăm loại hoa nở, và con chim hoàng oanh xuất hiện ca hát trên cành liễu. Tôi dịch:

Các pháp từ xưa nay
Vốn là không sinh diệt
Xuân đến trăm hoa mừng
Oanh vàng ca liễu biếc.

Khi mùa Xuân đến, ngắm các loài hoa nở và nghe các loài chim hót, ta tiếp xúc được với sự biểu hiện của mùa Xuân. Đừng nhìn và nghe một cách hời hợt. Đừng tưởng mùa Xuân chỉ lúc đó mới có mặt. Nếu tiếp xúc sâu sắc được với mùa Xuân, ta thấy được tính niết bàn của mùa Xuân; nghĩa là tính không sinh không diệt của nó. Chỉ có sự biểu hiện hay sự ẩn tàng mà thôi. Năm đó tôi mới có mười bảy tuổi nhưng bài kệ này đã gây ấn tượng rất sâu sắc trong trái tim của tôi. Tôi còn được nghe những câu thơ khác ví dụ như:

Tử trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân

Tử trúc hoàng hoa là tre tím và hoa vàng. Phi ngoại cảnh là không phải cảnh tượng bên ngoài chúng chỉ là đối tượng của tâm. Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân. Mây trắng và trăng sáng là biểu hiện của chân lý nhiệm mầu. Cây tre tím và bông hoa vàng không phải là một cái gì xa lạ. Nó là sự biểu hiện của pháp thân, của niết bàn. Và đám mây trắng cũng như vầng trăng sáng cũng là sự biểu hiện toàn chân, của thực tại mầu nhiệm mà mình gọi là pháp thân hay niết bàn. Những bài thơ này đã đi vào trong tôi một cách rất dễ dàng, rất mầu nhiệm. Trong cuộc sống hàng ngày có thể vì bị lo lắng, ưu phiền và giận hờn che lấp nên mình không tiếp xúc được với tre tím, hoa vàng, trăng sáng và mây bạc. Vì không tiếp xúc được với những mầu nhiệm đó nên mình không được nuôi dưỡng, mình không có hạnh phúc và mình không có cơ hội đi sâu hơn để có thể thấy được bản chất không sinh, không diệt của tất cả các pháp. Cho nên trong đạo Bụt đại thừa đi đâu ta cũng gặp thơ, đi đâu ta cũng gặp nhạc, vì thơ và nhạc cũng là những biểu hiện của pháp thân, của niết bàn mầu nhiệm. Và pháp thân cũng như niết bàn mầu nhiệm đó ta có thể tiếp xúc trong từng giây phút của đời sống hàng ngày, chứ ta không cần phải thực tập năm năm, mười năm hay tịch rồi thì mới tiếp xúc được. Các vị thiền sư chứng ngộ sống như vậy nên họ có hạnh phúc lắm. Họ có khả năng thấy được cái đẹp, thấy được cái mầu nhiệm, thấy được cái bất sinh diệt của tất cả các hiện tượng xung quanh. Thơ của các vị ấy rất có thiền vị, không bao giờ mang tính chất sầu đau. Nếu các vị thiền sư có làm ra những bài hát thì những bài hát của họ cũng không bao giờ mang chất sầu đau và than khóc. Năm 1949, hồi đó tôi còn trẻ lắm, tôi có gặp một thi sĩ trẻ ở Saigon, tên là Quách Thoại. Tôi gặp thi sĩ Quách Thoại ở chùa Giác Nguyên, tại Khánh Hội. Hồi đó hòa thượng Hành Trụ đang làm trụ trì chùa này. Hòa thượng Hành Trụ cũng còn trẻ lắm. Thi sĩ Quách Thoại không có nhà cửa, nên ở nhờ trong chùa. Tôi nhớ là Quách Thoại được ở chung với Trụ Vũ. Hai anh em được các thầy cho ở một cái cốc nhỏ, phía trước cốc có một hồ sen. Lá sen thật lớn. Và vào khoảng năm 1953 hay 1954, tôi nghe tin Quách Thoại chết vì bệnh lao ở trong nhà thương Bình Dân. Nhà thương Bình Dân chỉ có những người rất nghèo mới đi vào đó. Các bạn sau khi soạn lục các bản thảo của Quách Thoại có tìm ra được một bài thơ chưa bao giờ in, đó là bài Hoa Thược Dược. Bài Hoa Thược Dược tôi đã nhiều lần đọc cho quý vị nghe:

Đứng yên ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc:
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu.

Khi đọc bài thơ đó tôi rất cảm kích. Tôi thấy nó không thua kém những bài thơ của các thiền sư đạt đạo. Quách Thoại đã tiếp xúc sâu sắc được với bông thược dược nên đã thấy được tính bất sinh, bất diệt của bông thược dược.

Đứng yên ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu

Bông hoa đang mỉm cười nụ cười huyền diệu. Ta không biết nó đã bắt đầu mỉm cười từ lúc nào. Lâu nay ta bận rộn quá chừng. Ta lo chuyện cơm, chuyện áo, chuyện nhà, chuyện cửa. Ta lo hờn, lo giận, lo buồn, lo tủi cho nên tuy bông hoa luôn luôn có mặt đó, mỉm nụ cười huyền diệu của nó mà ta lại chưa bao giờ nhìn thấy và nhận diện được. Nụ cười đó không phải mới phát sinh, mà đã có mặt từ vô thỉ. Lặng nhìn em kinh ngạc. Đây là giây phút giác ngộ. Những cái hiển nhiên như vậy mà bây giờ ta mới thấy. Lặng nhìn em kinh ngạc là gì, nếu không phải là cái giây phút bừng tỉnh, giác ngộ?

Lặng nhìn em kinh ngạc:
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu

Vừa mới thấy được nụ cười, nghe được tiếng hát của bông hoa thược dược. Tiếng hát rất im lặng nhưng cao vút và hùng hồn. Đó là một tiếng hát bất diệt. Lời ca đó không phải là lời ca của năm phút hay mười phút mà là lời ca ngàn đời.

Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu

Thái độ của thi sĩ là thái độ sùng kính. Quỳ xuống, chắp tay trước pháp thân mầu nhiệm, trước niết bàn diệu tâm. Năm chữ cuối chứng tỏ rằng trong con người thi sĩ có cái thái độ sùng kính ấy. Ta sụp lạy cúi đầu. Cúi đầu trước cái gì? Cúi đầu trước bông hoa thược dược. Cúi đầu trước sự biểu hiện mầu nhiệm của pháp thân, của bản thể, của toàn chân.
Bài thơ Hoa Thược Dược này đã có ảnh hưởng rất sâu đậm trong tôi, và cũng giống như những bài thơ khác của các vị thiền sư như bài Xuân đáo bách hoa khai, hoàng oanh đề liễu thượng hay bài Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân. Mình sẽ không thể hiểu được bài Trường ca Avril hay bài Bướm bay vườn cải hoa vàng nếu mình không thấy được điều đó. Nụ hoa vàng trong bài thơ Tử trúc hoàng hoa và hoàng oanh đề liễu thượng đã được đầu thai, biểu hiện trở lại trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng; và nó cũng được tiếp nối trong bài Trường ca Avril. Trong bài Trường ca Avril có một bông hoa. Bông hoa đó cũng hát lên bài hát ngàn đời của hiện hữu nhiệm mầu. Và trong các bài Trường ca Avril và Bướm bay vườn cải hoa vàng, chúng ta cũng thấy được pháp thân mầu nhiệm và niết bàn diệu tâm biểu hiện trong một bông hoa, trong một bài hát. Ta thấy được rằng nếu ta sống sâu sắc và tiếp xúc được với tích môn trong khi mọi loài biểu hiện thì ta cũng có thể tiếp xúc được với bản môn trong chiều sâu các pháp. Ta hãy nhận diện điều đó trong khi đọc bài Trường ca Avril. Avril tức là tháng tư. Tháng tư là tháng của mùa Xuân biểu hiện.

Avril về trong rừng cây trang nghiêm
Tình thương đã từ nơi ngàn xanh, nơi suối trong thể hiện
Bàn tay Mẹ nhiệm mầu
Sửa soạn cho chúng ta ra đời
Trong hào quang của mùa Xuân tình thương ấm áp

Mẹ ở đây không phải chỉ là thiên nhiên. Mẹ ở đây là toàn thể. Toàn thể của pháp thân, của chân như. Có những lúc đi vào trong rừng một mình hoặc leo lên đồi Dương Xuân hay ngồi ở rừng thông Đà Lạt, gặp những thân cây vươn mình đứng thẳng thì tôi đều có cảm giác là mình đang đứng ở trong một thánh đường rất trang nghiêm. Vì những thân cây đứng thẳng giống như những chiếc cột trụ của ngôi thánh đường cao vút. Chưa bao giờ mình được thấy một thánh đường đẹp như vậy. Đẹp hơn cả những thánh đường của con người tạo dựng ra. Và chỗ hay nhất để hành lễ, để thuyết pháp là những khu rừng như thế. Rất trang nghiêm, rất đẹp đẽ, rất mầu nhiệm; đó là những thánh đường, những pháp đường rất tự nhiên. Chữ trang nghiêm ở đây nghĩa là đẹp, đó là một danh từ Phật giáo, dịch từ tiếng Phạn vyùha. Trang nghiêm có nghĩa là đẹp, làm cho đẹp và cũng có nghĩa thâm nghiêm, tức là không ồn ào, náo nhiệt, nơi mọi người muốn giữ sự im lặng vì trong tim mọi người đang có thái độ kính cẩn. Khi đi vào trong rừng cây mà gặp cảnh tượng đó và thấy những thân cây vươn mình thẳng tắp như vậy thì mình có cảm tưởng đi vào trong một cung điện nghiêm trang, mình không dám nói lớn, không dám thở mạnh.

Avril về
Trong rừng cây trang nghiêm
Tình thương đã từ nơi ngàn xanh, nơi suối trong thể hiện

Trong đời sống hàng ngày ta có thể có cảm nghĩ rằng không có tình thương trong ta và xung quanh ta. Nhưng nếu thoát ra được tâm trạng cô đơn và tiêu cực thì ta mới thấy được rằng tình thương luôn luôn có mặt. Ở trong rừng ta cũng có cơ hội để tiếp xúc được với sự thật đó. Tình thương ở đây được thể hiện nơi rừng xanh và suối trong. Ngàn xanh tức là rừng. Ở Việt Nam có bà chúa Thượng Ngàn. Bà chúa Thượng Ngàn tức là bà chúa ở trong rừng. Rừng miền Thượng gọi là Thượng Ngàn. Tình thương đã từ nơi ngàn xanh, nơi suối trong thể hiện. Chỉ cần nhìn dòng suối, chỉ cần nhìn rừng cây là có thể thấy được tình thương đó. Bàn tay mẹ nhiệm mầu, sửa soạn cho chúng ta ra đời trong hào quang của mùa Xuân tình thương ấp áp. Đây là khung cảnh ấm áp của tình thương, có rất nhiều ánh sáng. Mẹ mình đã chuẩn bị cho mình ra đời trong hoàn cảnh đó. Ra đời ở đây có nghĩa là biểu hiện. Chứ không phải từ không mà mình biến thành có.

Đưa tôi ra đời hôm mồng bốn
Khắp nơi chim lạ bay về hát ca

ĐƯA TÔI RA ĐỜI

Trong bài thơ Trường ca Avril này có năm ngày mầu nhiệm. Năm ngày của biểu hiện chứ không phải là bảy ngày của tạo dựng. Ngày đầu tiên là ngày mồng bốn và ngày thứ năm tức là ngày mồng tám. Ngày mồng tám tức là ngày sau khi hoa anh đào nở rộ. Ngày mồng tám tức là ngày chúa Xuân xuất hiện. Ngày xưa Bụt giáng sinh cũng vào tháng tư, ngày mồng tám. Khắp nơi chim lạ bay về hát ca. Đưa tôi ra đời hôm mồng bốn. Tôi ở đây tức là ý thức. Vì nếu không có ý thức thì không có gì có mặt, cho dù bông hoa thược dược kia có mặt ở đó ngàn đời mà nếu không có ý thức thì bông hoa thược dược cũng được coi như là không có. Nếu ý thức không có mặt thì tiếng ca thiên thâu của bông thược dược cũng không bao giờ được nghe. Vì vậy cho nên ngày đầu là ngày biểu hiện của ý thức, là ngày tôi ra đời. Tôi nghĩa là ý thức. Các nhà khảo cổ học cho biết rằng khoảng ba triệu năm về trước khối óc của con người nhỏ chỉ bằng năm chục phần trăm khối óc của con người bây giờ. Ba triệu năm về trước con người đã biết dùng những dụng cụ bằng đá và bằng cây. Con người bắt đầu có sự khéo léo. Gọi là con người homo habilis. Con người biết sử dụng những cục đá, những thân cây, và từ từ biết mài hoặc đập bể những cục đá để lấy mảnh nhọn và dùng những mảnh nhọn đó để làm những mũi tên, cắm vào trong những thân cây để đi săn thú. Khi con người bắt đầu sử dụng những dụng cụ đó bằng hai tay thì ý thức và sự khôn khéo của con người từ từ phát triển. Cùng với sinh hoạt đó, khối óc con người lớn lên từ từ cho đến ngày hôm nay khi khối óc của con người lớn bằng ba khối óc của con người cách đây ba triệu năm. Con người có khả năng ý thức thì gọi là con người homo conscius. Sự phát triển của cơ thể sinh lý của con người cũng tùy thuộc về sự phát triển của văn hóa. Và con người bắt đầu có văn hóa. Con người bắt đầu biết sử dụng những dụng cụ. Con người bắt đầu biết tư duy. Con người bắt đầu có ý thức. Khi biết suy tư, con người biết sử dụng tư tưởng rồi trở thành con người có ý thức, lúc đó con người không còn chỉ còn là một con thú mà đã trở thành con người thật sự có văn hóa. Nếu ta nhìn vào cơ thể của ta thì ta thấy động vật tính vẫn còn trong ta. Động vật tính trong đó có những đòi hỏi giống hệt như những đòi hỏi khác. Đòi hỏi những thứ căn bản như là ăn, ngủ, dâm dục. Con người tuy có văn hóa và biết mình là một vị Bụt tương lai nhưng vẫn còn mang tính của thú vật, gọi là động vật tính. Khi có văn hóa nghĩa là bắt đầu có ý thức, chúng ta mới nhận diện ra được trong ta có tính người, tức nhân tính. Khi có ý thức rồi thì hạnh phúc của ta có thể lớn hơn nhiều lắm. Con động vật khi thấy một bông hoa có thể không thấy đẹp, không có rung cảm. Nó chỉ muốn biết cái hoa này có thể ăn được hay không thôi. Thấy trái cây thì con vật nó cũng chỉ nghĩ xem thứ trái cây này có ăn được không, ăn thì có bị ngất ngư hay không chứ nó không thấy được hình dáng của trái cây ấy đẹp hay xấu. Khi con đực thấy con cái nó chỉ nghĩ sẽ có thể giao hợp được với con cái hay không mà thôi, chứ không biết làm thơ ca tụng: em đẹp như thế này, anh đẹp như thế kia. Nhưng khi ý thức phát sinh thì ta có văn hóa. Và vì có văn hóa cho nên mới có những hình ảnh như : mắt em trong như nước hồ thu hay đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc. Đó là con người có văn hóa. Con người bắt đầu thấy được cái đẹp, thấy được sự giả dối và sự chân thật. Và con người cũng bắt đầu thấy được rằng con người đang bị áp bức bởi cái sống và cái chết. Con thú chưa có tư duy, không có sự lo lắng, không có sự bất an về cái chết tương lai. Nhưng con người thì rất bất an, rất ưu tư về cái chết trong tương lai, và sinh tử trở thành vấn đề rất lớn cho con người. Ta là ai? Tại sao ta sinh ra ở trên đời này? Sau khi chết ta sẽ đi về đâu? Đó là những câu hỏi của con người. Đó là văn hóa. Tại sao nhân loại lại đau khổ như thế này? Văn hóa đưa con người tới những ưu tư và sợ hãi. Đó là cái giá mà con người phải trả cho văn hóa. Ý thức cho con người tiếp xúc được với cái đẹp, với cái lành, với cái thiệt nhưng ý thức đó cũng cho con người tiếp xúc được với cái thân phận của mình. Cái thân phận bị chèn ép bởi sinh diệt, có không, còn mất và những câu hỏi về hiện hữu. Và cái hiện hữu này mang theo mỗi một nỗi bất an, một nỗi ưu tư (angoisse), một nỗi lo sợ. Đó là cái giá rất đắt mà con người phải trả cho văn hóa khi con người trở thành ra con người ý thức. Trước kia con người là một con vật. Bây giờ con người vừa là con vật, vừa là con người. Vì vậy nên sinh ra loại người gọi là homo sapiens. Khi cái ưu tư đã lên đến mức độ khó chịu đựng thì con người phải tạo dựng ra cho mình một tôn giáo tín ngưỡng, phải tin rằng có một đấng Thượng Đế tạo lập ra thế giới và con người, và sau khi chết con người sẽ trở về lại với Thượng Đế. Tất cả những niềm tin ấy có thể làm cho êm dịu lại cái nỗi niềm ưu tư, lo lắng của con người. Nhưng đồng thời cái ý thức đó cũng cho ta đi sâu vào sự quán chiếu để khám phá ra được cái bản tính không sinh không diệt của vạn hữu, của vũ trụ. Nhờ vậy con người đã khám phá ra được rằng mình cũng là một vị Bụt tương lai, thấy được rằng bản chất của mình là bất sinh, bất diệt và do đó con người có cơ hội vượt thoát ra được. Đạo Bụt là một nẻo thoát. Con người đi tìm một tôn giáo, một nẻo thoát cho nỗi ưu tư của mình. Nhưng con người mà gọi là con người có chánh niệm (homo conscius) mà đại diện rất xứng đáng là Bụt Thích Ca là con người đã khám phá ra rằng cái sinh, cái diệt chỉ là sự biểu hiện thôi, chứ bản chất của mình chính là tính bất sinh, bất diệt. Mình khám phá rằng tuy trong con người có động vật tính, có nhân tính nhưng đồng thời cũng có Phật tính; Mình phải làm sao để cho ba cái tính này có thể sống hài hòa và an lạc chung với nhau, đừng có sự xung đột.

Đưa tôi ra đời hôm mồng bốn. Như vậy chúng ta có thể hiểu tôi ở đây tức là ý thức. Con người ý thức. Khắp nơi chim lạ bay về hát ca. Từ khi ý thức phát hiện thì tất cả các loài chim lạ từ bốn phương đều bay về hát ca. Hình ảnh này quý vị có thể tìm lại trong truyện Tố: mỗi khi Thạch Lang cất tiếng hát thì chim bốn phương bay về quy tụ thành vòng trên đầu Thạch Lang. Ngơ ngác như môt con nai con, nhìn trời xanh, nhìn suối trong, nhìn lộc non trên cành cây, tôi về khi vũ trụ đang chuyển mình khi mùa tuôn dậy. Ý thức vừa mới sinh ra thì ngơ ngác vì có biết bao nhiêu điều mầu nhiệm đang được biểu hiện với tư cách đối tượng của ý thức. Mùa Xuân tới, cái chân tâm, niết bàn đã biểu hiện: trời xanh, suối trong, lộc non và muôn vạn con chim trở về ca hát. Cũng như em bé Nhật Tâm lần đầu tiên thấy bầu trời xanh rất ngạc nhiên. Chưa bao giờ bé thấy một cái gì lớn quá như vậy. Nó được sanh ra trong mùa Đông và suốt năm tháng cứ phải ở trong một căn phòng rất nhỏ bé. Mùa xuân đến, trời quang, mây tạnh, mẹ nó mới cho nó ra ngoài lần đầu. Có nắng. Và lần đầu tiên nó được tiếp xúc với bầu trời rộng thênh thang. Hai mắt nó biểu hiện một ngạc nhiên rất lớn. Ý thức ở đây cũng vậy. Ngơ ngác như một con nai con, nhìn trời xanh, nhìn suối trong, nhìn lộc non trên cành cây, tôi về khi vũ trụ đang chuyển mình trong mùa tuôn dậy. Mùa tuôn dậy là dịch từ chữ spring của tiếng Anh. Spring nghĩa là nhảy vọt lên, tuôn trào ra. Mới ngủ dậy ta đã thấy đọt hoa lên cao cả mấy phân. Rừng cây đang thay áo mới. Mùa Xuân là cái sự thay áo. Trút xuống những chiếc áo mầu sám và mầu trắng,vũ trụ đang khoác lên một chiếc áo khác, và kỳ này là một chiếc áo mầu xanh, mầu xanh rất non. Con nai con khờ dại soi mình trên giòng nước. Con nai con có thể không biết rằng cái hình bóng ở dưới giòng nước là hình bóng của chính mình. Con nai con có thể nghĩ rằng hình bóng ở dưới giòng nước là một con nai khác. Lắng tai nghe tiếng thì thầm gió lạ. Mạch sống dâng. Lời hát ca trong từng nụ nhiệm mầu. Tiếng hát đã có mặt trong từng nụ cây, trong giòng suối. Tiếng hát của mùa Xuân đã bắt đầu. Hoặc đã bắt đầu biểu hiện trong ý thức con người.

Quê hương tôi là rừng sâu
Có những thân cây vươn mình thẳng tắp
Mỗi khi nắng Xuân về xối chảy trên ngọn cây,
hương rừng bay
Mây trắng che trên trời xanh biêng biếc
Rừng cây
Bãi cỏ xanh non
Và một dòng nước thấm lòng đất mát.

Có ba hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất là rừng cây với những thân cây vươn mình thẳng tắp mà mỗi khi đi ngang qua là mình thấy mình đang đi và trong một thế giới nghiêm trang, một thánh đường rất thiêng liêng. Thứ hai là bãi cỏ xanh non. Bãi cỏ xanh non trong đó xuất hiện những bông hoa vàng, tím, lấm tấm hàng ngàn, hàng vạn, hàng chục ngàn, hàng chục vạn bông. Đó là cái mà quý vị có thể chứng nghiệm và trông thấy được, nếu quý vị có ý thức. Và hình ảnh thứ ba là một dòng suối. Dòng suối tưới cho cánh đồng, cho khu rừng để cho sự tươi mát được tồn tại lâu dài. Rừng cây, bãi cỏ xanh non, và một dòng nước thấm lòng đất mát. Trời đất vừa sinh ra tôi. Ý thức vừa mới được biểu hiện.

Chim chóc ca ngày thứ nhất
Đất trời dâng hương ngất ngây
Tôi lớn lên. Dòng suối ca ngày thứ hai
Và con nai con tìm tới, ngây thơ, bên bờ xanh mướt cỏ
Nghiêng đầu nghe ngóng
Nhựa dâng đầu cành giục giã những nụ hoa thẹn thùng chưa muốn hé
Cho vừa nở kịp ngày thứ ba.

Ngày thứ hai hoa đã bắt đầu nở, nhưng còn có những nụ hoa chưa kịp nở: chúng đang còn thẹn thùng chưa muốn nở. Và nhựa trong thân cây trào lên giục giã. Sinh lực vũ trụ nói: nở đi con, nở đi con. Đây là mùa Xuân rồi, nở đi các con. Con nai con cũng là một biểu hiện của ý thức. Trước đây mình nói ngơ ngác như một con nai con nhìn trời xanh, nhìn suối trong, nhìn lộc non trên cành cây. Ở đây mình nói con nai con tìm tới ngây thơ trên bờ xanh mướt cỏ và nghiêng đầu nghe ngóng. Ý thức đang lớn từ từ để nhận diện ra tất cả những gì đang phát hiện. Chúng ta là một phần của mùa Xuân, một phần của sự biểu hiện. Mỗi chúng ta là một thân cây của cuộc sống. Mỗi chúng ta là một giòng suối trong. Mỗi chúng ta là một đồng cỏ xanh có nhiều bông hoa lấm tấm. Mỗi chúng ta là một nụ hoa đang thẹn thùng chưa muốn nở, nhưng nhựa sống của mùa Xuân đang thúc đẩy chúng ta: nở đi con, nở đi con, mùa Xuân đã tới. Chúng ta sống giữa các anh, các chị và các em của chúng ta. Chúng ta phải nhận diện được rằng mỗi anh, mỗi chị và mỗi em đều là một bông hoa. Bông hoa có thể chưa nở nhưng bông hoa chắc chắn sẽ nở. Và chúng ta phải tự hiến mình cho tăng thân như một bông hoa. Vì chúng ta là một phần của hiện hữu nhiệm mầu, là một phần của mùa Xuân. Chúng ta hãy hành xử như một bông hoa, như một thân cây hay như một giòng suối trong bản hợp tấu vĩ đại của mùa Xuân. Đó là nhiệm vụ của chúng ta. Nhiệm vụ chúng ta là ca hát, là nở ra như một bông hoa. Chúng ta không có một nhiệm vụ nào khác. Ý này ta thấy rất rõ trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng: Em hãy là đóa hoa đứng yên bên hàng dậu. Là nụ cười, là một phần của hiện hữu nhiệm mầu.

Nắng ấm reo vui trên cành biếc nõn nà
Ngày thứ tư vừa lại. Hoa anh đào khai hội
Có gì mới lạ trong tiếng ca mùa mới đang lên?

Hoa anh đào đã nở rộ. Có một cái gì trong không khí báo trước một xuất hiện mới.

Ngày thứ năm. Bình minh về bất chợt    
Rừng thức giấc trong mùi thơm ngây ngất
Của ban mai kết đọng hương ngàn hoa
Và cũng bất thần Em về.

Em ở đây là sự biểu hiện đầy đủ của bản hợp tấu vĩ đại mùa Xuân. Em ở đây cũng tức là chúa Xuân. Và chính tiếng hát của chúa Xuân sẽ giúp cho chúng ta tìm về tới được với bản chất và cội nguồn của mỗi chúng ta.

Trong rừng sâu hiển hiện
Em rón rén bước từng bước nhẹ, trên màu xanh thảm lụa

Chúng ta hãy tưởng tượng trong rừng sâu rất trang nghiêm, rất huyền diệu, rất thần bí xuất hiện chúa Xuân. Chúa Xuân xuất hiện trong hình thức homo sapiens, hình thức con người có ý thức. Pháp thân Bụt cũng đã xuất hiện dưới hình thức của một con người. Thượng đế cũng đã xuất hiện dưới hình thức của một con người. Thì mùa Xuân Bất Diệt cũng thế. Chúa Xuân xuất hiện dưới hình thức diễm lệ của một nàng Xuân Nữ, xiêm y lộng lẫy và tha thướt. Nàng đang rón rén bước từng bước rất nhẹ nhàng vì sợ gây tiếng động trong khung cảnh cực kỳ trang nghiêm ấy.

Con nai con vẫn giương mắt nhìn em ngơ ngác
Trong giây phút thiêng liêng huyền hoặc
Em biến thành một bông hoa nhỏ bám vào lòng đất mẹ thương yêu.

BÀI CA BẤT DIỆT

Ở đây chúng ta nhận ra được bông hoa của thi sĩ Quách Thoại. Bông hoa rất nhỏ. Bông hoa bám vào lòng đất. Đó là cái mà con nai con thấy được. Con nai con là ý thức mới sinh còn bỡ ngỡ, còn ngơ ngác, nhưng dưới sự quán sát của nó chúa Xuân vừa hiển hiện. Chúa Xuân đã biến thành bông hoa nhỏ, bám vào lòng đất. Khi đi có ý thức thì trong mỗi bước chân ta đều có thể nhận diện ra được bông hoa này. Bông hoa không phải chỉ biểu hiện một nơi nào nhất định. Bất cứ một cây trúc tím hay một bông hoa vàng nào cũng là biểu hiện của chúa Xuân. Với thi sĩ Quách Thoại thì nó biểu hiện dưới hình thức của một bông hoa thược dược nằm bên hàng dậu. Chỉ cần ý thức có mặt là ta có thể nhận diện được biểu hiện mầu nhiệm đó của pháp thân.

Nắng lên, một giọt sương long lanh
còn vương trên cánh hoa sao bé nhỏ
Nhưng rừng cây không hay
Hiện hữu em ca bài ca bất diệt
Tiếng ca em quen thuộc như đã có từ ngàn xưa
trong rừng sâu lặng lẽ nghiêm trang.

Giờ phút mà mình trông thấy bông hoa cũng là giờ phút mà mình nghe tiếng hát của bông hoa. Tiếng hát đó cũng không phải tiếng hát mới bắt đầu. Tiếng hát đó đã có từ vô thỉ. Ở đây ta nhận diện được rất rõ ràng bài thơ của Quách Thoại. Quách Thoại đã luân hồi, đã sống dậy trong bài thơ.

Đứng yên ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu.

Hiện hữu em ca bài ca bất diệt. Tiếng ca em quen thuộc. Tại sao trong khi nghe mình có cảm tưởng như bài ca này mình đã nghe rồi, mình đã từng được nghe trong những kiếp trước. Vì lẽ bài ca này đã có mặt từ vô thỉ. Mình đã từng được nghe nó từ muôn triệu kiếp. Vì thế hôm nay mình mới có cảm tưởng như mình đang được nghe một cái gì rất quen thuộc. Bản chất của mình cũng là của vô sinh, của bất diệt. Đó là sự quen thuộc. Tiếng ca em quen thuộc như đã có từ ngàn xưa trong rừng cây lặng lẽ trang nghiêm. Không có gì khó hiểu trong những lời thơ này.

Con nai con vẫn giương mắt nhìn quanh
Không có gì thêm
Không có gì mới lạ
Không nghĩ rằng em trong rừng sâu vừa lạc
Bởi vì tiếng ca em hòa mầu nhiệm trong
khúc ca mùa tuôn dậy màu xanh
Bông hoa kia như đã từng có mặt một lần với đất mẹ buổi ban đầu.

Những câu thơ này cũng nói về một điều mà mình đã nghe. Có gì thêm đâu? Có gì mới đâu? Bất tăng, bất giảm. Vô khứ, vô lai. Bông hoa kia tuy mới được biểu hiện nhưng kỳ thực nó đã có mặt từ buổi ban đầu. Ban đầu hay không có ban đầu? Vô thỉ tức là không có ban đầu. Bông hoa kia như đã từng có mặt cùng với đất mẹ buổi ban đầu. Ban đầu thì con nai có thể có cảm tưởng là có một vì chúa Xuân xuất hiện. Đi vài bước rón rén, chúa Xuân chợt biến thành một bông hoa nhỏ. Nhìn lại, con nai con bỗng thấy bông hoa đó đã có mặt với đất mẹ từ lúc ban đầu, chứ không phải là một sự biểu hiện mới, không phải là một sự tạo sinh.

Một con chim nghiêng nghiêng mắt nhỏ nhìn em và tung ra một tràng ngọc âm thanh trong suốt

Trên cành cao có một con chim. Con chim cũng nhìn thấy bông hoa và con chim cũng đã có ý thức về sự có mặt của bông hoa. Nó tung ra một chuỗi ngọc âm thanh trong suốt để ca ngợi sự có mặt của bông hoa.

Chim, hoa, cây, suối
Không ngừng ca
Cả rừng cây hợp tấu
Không ngừng lại để hỏi em có mặt tự bao giờ.

Khúc hát không bao giờ ngừng lại. Tất cả các thành viên của ban hợp xướng đều đang hết mình bận rộn, không ai ngừng lại để đặt câu hỏi. Và cũng không ai cần đặt câu hỏi. Mình mới tới không có nghĩa là mình mới tới. Mình đã có mặt từ lúc ban đầu.

Bông hoa bé nhỏ rừng cây
Một phần của hiện hữu vô thỉ vô chung
Em không phải tạo sinh mà chỉ là biểu hiện.

Này bông hoa bé nhỏ, em chưa bao giờ sinh ra. Tôi biết bản chất của em là bản chất vô sinh bất diệt. Em chỉ biểu hiện ra cho chúng tôi thấy. Và nếu chúng tôi tiếp xúc được với em một cách sâu sắc là chúng tôi tiếp xúc được với cái tự tính bất sinh bất diệt của em và đồng thời chúng tôi cũng có thể tiếp xúc được với tự tính vô sinh bất diệt của chúng tôi. Có người tin vào lý thuyết Tạo Hóa. Họ tin rằng lúc ban đầu có một đấng tạo ra hiện hữu, tạo ra vũ trụ này. Từ không vũ trụ đột nhiên trở thành có. Còn chúng ta, chúng ta chỉ tin sự biểu hiện. Ngươi không phải tạo sinh, ngươi chỉ là biểu hiện (Tu nes pas une création, tu nes quune manifestation). Đó là bản chất của giáo lý duy biểu. Là biểu hiện, em không bị lệ thuộc sinh diệt, có không, tới đi, còn mất. Bản chất em là không sinh, không diệt, không thêm, không bớt. Để đối trị với cái ưu tư (angoisse), đạo Bụt hiến tặng cho chúng ta tuệ giác Niết bàn, nghĩa là tuệ giác về bất sinh bất diệt. Ta có thể vượt thoát cái ưu tư của con người bằng cách tu tập, sống cho sâu sắc và thoải mái để vượt thoát ý niệm sinh tử.

Rừng cây đã thay xong áo mới
Ngày mồng mười có hai đứa trẻ con nhà ai, nắm tay nhau chạy tung tăng trên bãi cỏ xanh non, tiếng cười trong veo như tiếng hót chim hoàng oanh buổi sáng
Chúng băng qua đồng cỏ và dừng lại bên cửa rừng
Nắng phơi phới reo
Hai đứa trẻ con nhà ai. Đó là chúng ta. Chúng ta tìm về cội nguồn với tư cách một tăng thân.

Chúng băng qua đồng cỏ và dừng lại bên cửa rừng
Nắng phơi phới reo
Avril đã về trong rừng cây, đứa bé thì thầm bên tai đứa lớn

BÔNG HOA VẪN KHÔNG NGƯNG LỜI HÁT CA

Hai đứa trẻ con nhà ai. Hai anh em. Hai chị em. Ý thức kia đã bừng lên trong tâm tư những đứa bé. Những đứa bé thấy được rằng Avril đã biểu hiện. Đây là một lời tuyên bố: mùa Xuân đang có mặt. Như khám phá ra điều gì tối ư quan trọng. Ta có thể nghĩ: Chuyện mùa Xuân đang có mặt thì có gì là ghê gớm, có gì là lạ kỳ lắm đâu. Nhưng đối với sự phát sinh của ý thức thì đây là chuyện cực kỳ quan trọng. Đây là một khám phá lớn. Ví dụ quý vị đang sống trong mùa Xuân cuối cùng của thế kỷ thứ 20 mà quý vị không biết. Tự nhiên có một tiếng chuông, quý vị bỗng nhiên thức tỉnh và biết rằng quý vị đang sống trong mùa Xuân của thế kỷ thứ 20. Đó là một khám phá rất quan trọng. Có thể là khám phá lớn nhất ở trong cuộc đời của quý vị. Như khám phá ra điều gì tối ư quan trọng. Chúng nắm chặt tay nhau và cùng lắng tai nghe. Mùa Xuân là một bản hòa tấu và hai đứa bé đã bắt đầu nghe được khúc nhạc bất diệt của mùa Xuân. Quý vị đã bắt đầu nghe chưa? Phải rồi, khúc hát bất diệt của mùa Xuân. Hai đứa nhìn nhau. Ta hãy nhìn sư anh của ta, ta hãy nhìn sư em của ta. Ta thấy rằng cuộc đời mầu nhiệm quá. Trong giây phút hiện tại nếu ta chìm trong quên lãng hoặc trong giận hờn thì đó là một sự uổng phí rất lớn. Avil đã về trong rừng cây, phen này đứa lớn thì thầm bên tai đứa bé. Cả hai đứa đều nói một lời. Dị khẩu đồng âm. Đó là sự biểu lộ của sự tỉnh thức. Tôi đã thấy, tôi đã nghe và tôi đang sống.

Nắng ấm tràn lan cây cỏ
Bỗng con nai con xuất hiện ở cửa rừng sưởi nắng
Bốn gót chân mang theo hương thơm
những bông hoa vàng, tím trong rừng
Có đàn bướm lạ tung tăng đọt cây, bờ suối
Bay đến gần nai.

Con nai con bước chân trên những bông hoa và giữa những bông hoa, vì vậy bốn gót chân của nó trở thành hương hoa, cho nên khi nai tới gần bờ suối thì những con bướm lầm tưởng bốn gót chân của nai là những bông hoa cho nên đều tìm tới gần nai. Có đàn bướm lạ tung tăng đọt cây bờ suối bay đến gần nai. Chúng tưởng con nai là những bông hoa.

Nắng ấm vẫn reo
Dòng nước vẫn đi vào lòng đồng cỏ xanh êm ái
Nhưng con nai con và hai đức bé đã cùng lạc vào rừng sâu
Tìm theo tiếng hát nhiệm mầu.

Cả con nai và cả hai đứa bé đều đang đi tìm bông hoa, nơi phát xuất của khúc hát mùa Xuân. Chúng ta cũng vậy, chúng ta đang đi tìm cội nguồn của bản hợp tấu. Chỉ khi nào tìm được chúng ta mới chấm dứt việc đi tìm.  

Bỗng nhiên có tiếng nổ dồn dập kinh hoàng
Một đàn chim sắt ào ào bay đến
Tóe tung lửa đồng, khạc trên đồng xanh, mặt suối
Rào rào xé mây tung gió
Tự nhiên rừng cây bặt tiếng hát ca.

Đây là sự can thiệp của chiến tranh. Đây là sự có mặt của vô minh, của những phiền não tham, sân, si. Đây là bạo động đi vào khung cảnh của biểu hiện. Trong lúc bạo động và căm thù biểu hiện thì cố nhiên sự biểu hiện của pháp thân ngưng lại, và ta thấy tự nhiên rừng cây bặt tiếng hát ca. Bặt tiếng hát ca tức là ta không còn nghe tiếng hát ca, chứ không phải là tiếng hát ca không còn nữa.

Hoa khép không dâng hương
Suối trong không soi dáng mây trời
Chim chóc lặng im như khi đêm về nằm im trong tổ kín.

Nhưng rồi cuối cùng đàn chim sắt bay đi
Rừng xanh trở về bình an
Thanh tịnh
Rừng cây mỉm cười
Tiếng hát ca mùa tuôn dậy vẫn như chưa từng bao giờ
đứt đoạn.

Ta có thể thấy rằng khi những chiếc máy bay tới dội bom và đốt phá thì tiếng hát bị đứt đoạn, nhưng khi đàn chim sắt bay đi thì ta lại nghe trở lại khúc hát bất diệt muôn đời của mùa Xuân. Chưa từng bao giờ đứt đoạn, đó là cái thấy của con nai và của hai đứa bé. Cành lá chuyền nhau tin vui. Chiếc lá này vẫy gọi chiếc lá khác: máy bay đã đi, máy bay đã đi rồi. Chiếc lá này lại chuyền tin cho chiếc lá khác, và trong rừng cái tin hòa bình đã được thiết lập được chuyền đi rất mau.

Cành lá chuyền nhau tin vui
Tiếng thì thầm êm ái
Con nai con đã cùng hai đứa bé tìm ra bông hoa tím nhỏ
(Bông hoa vẫn không ngưng lời hát ca).
Đây là một sự thành tựu rất lớn và rất đẹp. Đứa bé đó là chúng ta, chúng ta đã tìm ra được bông hoa mầu nhiệm. Chúng ta đã tiếp xúc được với cái bất sinh bất diệt của hiện hữu. Khi con nai con và hai đứa bé tìm ra bông hoa tím nhỏ thì chúng khám phá ra rằng bông hoa vẫn không ngưng lời hát ca. Bông hoa chưa bao giờ từng ngưng lời hát ca, dầu máy bay đang dội bom và đốt phá nó vẫn cứ hát ca; nó hát ca trong bản môn của nó. Câu Bông hoa vẫn không ngưng lời hát ca nằm ở trong ngoặc đơn để cho người ta chú ý tới điều đó, vậy thôi.

Đứa nhỏ ôm lấy đầu nai
Đứa lớn vuốt ve mình nai
Tất cả hát theo bài hát ngàn đời của nhiệm mầu hiện hữu.

Nai đã là biểu tượng của cái tôi, tức là của ý thức. Hai đứa bé bây giờ đã xúm lại chơi với con nai. Đứa bé thì ôm lấy đầu nai, đứa lớn vuốt ve mình nai. Cả ba đã bắt đầu tham dự vào cuộc hòa tấu của bản nhạc trùng trùng duyên khởi. Cả ba đều đang hát theo với chim, hoa, cây, suối. Chúng nghĩ rằng chúng chỉ mới bắt đầu hát theo, nhưng kỳ thực chúng cũng đã từng hát tự muôn ngàn kiếp trong bản môn của chúng.

Ngoài kia nắng ấm vẫn reo
Avril trong rừng cây nguyên vẹn

Nguyên vẹn có nghĩa là những gì xảy ra trong tích môn không chạm được vào bản môn. Chưa bao giờ có sự mất mát. Không có gì thêm, không có gì bớt. Không có bắt đầu, không có chung cuộc.

Dòng suối đi sâu êm êm vào lòng đất

Dòng suối tượng trưng cho tình thương, cho sự sống; cũng như đồng cỏ tượng trưng cho sự tự do và rừng cây tượng trưng cho sự vững chãi. Rừng cây, bãi cỏ xanh non và một dòng nước thấm dòng nước mát.

Dòng suối đi sâu êm êm vào lòng đất
Và muôn vạn bông hoa vàng tím đã nở tự bao giờ,
lấm tấm trên cánh đồng cỏ xanh non.

Đó là những hình ảnh mà quý vị thấy hàng ngày khi đi thiền hành lên đồi. Đây là sự xuất hiện của hàng vạn bông thủy tiên nơi Pháp Thân Tạng của Xóm Thượng, đây là sự xuất hiện của hàng triệu vị bồ tát tùng địa dũng xuất. Các vị này đều là đệ tử và người cọng sự của Bụt Thích Ca. Họ nói: Chúng tôi là những đứa con của trái đất. Chúng tôi sẽ đủ sức chăm sóc và cứu độ tất cả mọi loài chúng sinh trên trái đất. Xin các vị bồ tát tới từ các hành tinh khác đừng lo. Đây cũng là sự xuất hiện của hằng hà sa số chư Bụt. Sự có mặt của một bông hoa chứng minh sự có mặt của hằng hà sa số bông hoa. Mỗi khi đi thiền hành lên đồi với ý thức chánh niệm, tất cả chúng ta đều có cơ hội gặp gỡ và tiếp xúc với mùa Xuân bất diệt, với bông hoa đang hát ca, với bài hát của hiện hữu nhiệm mầu, với Bụt Thích Ca, với hằng sa bồ tát tùng địa dũng xuất. Cảnh giới mô tả trong Trường Ca Avril cũng như cảnh giới Bất Khả Tư Nghị của Hoa Tạng là cảnh giới hàng ngày của sự sống ta. Lát nữa đây đi thiền hành lên đồi, mỗi chúng ta nhớ nhận diện cho được các vị bồ tát tùng địa dũng xuất. Bây giờ đây, chúng ta hãy nghe lại cả bài thơ:

Trường Ca Avril

Avril về
Trong rừng cây trang nghiêm
Tình thương đã từ nơi ngàn xanh, nơi suối trong thể hiện
Bàn tay Mẹ nhiệm mầu
Sửa soạn cho chúng ta ra đời
Trong hào quang của mùa Xuân tình thương ấm áp

Đưa tôi ra đời hôm mồng bốn
Khắp nơi chim lạ bay về hát ca
Ngơ ngác như một con nai con nhìn trời xanh, nhìn suối trong, nhìn lộc non trên cành cây
Tôi về khi vũ trụ đang chuyển mình trong mùa tuôn dậy.

Rừng cây đang thay áo mới
Con nai con khờ dại soi mình trên dòng nước
Lắng tai nghe tiếng thì thầm gió lạ
Mạch sống dâng
Lời hát ca trong từng nụ nhiệm mầu

Quê hương tôi là rừng sâu
Có những thân cây vươn mình thẳng tắp
Mỗi khi nắng Xuân về xối chảy trên ngọn cây,
hương rừng bay
Mây trắng che trên trời xanh biêng biếc
Rừng cây
Bãi cỏ xanh non
Và một dòng nước thấm lòng đất mát.

Trời đất vừa sinh ra tôi
Chim chóc ca ngày thứ nhất
Đất trời dâng hương ngất ngây
Tôi lớn lên. Dòng suối ca ngày thứ hai
Và con nai con tìm tới, ngây thơ, bên bờ xanh mướt cỏ
Nghiêng đầu nghe ngóng
Nhựa dâng đầu cành giục giã những nụ hoa
thẹn thùng chưa muốn hé
Cho vừa nở kịp ngày thứ ba.
Nắng ấm reo vui trên cành biếc nõn nà
Ngày thứ tư vừa lại. Hoa anh đào khai hội
Có gì mới lạ trong tiếng ca mùa mới đang lên?
Ngày thứ năm. Bình minh về bất chợt    
Rừng thức giấc trong mùi thơm ngây ngất
Của ban mai kết đọng hương ngàn hoa
Và cũng bất thần Em về. Trong rừng sâu hiển hiện
Em rón rén bước từng bước nhẹ, trên màu xanh thảm lụa
Con nai con vẫn giương mắt nhìn em ngơ ngác
Trong giây phút thiêng liêng huyền hoặc
Em biến thành một bông hoa nhỏ bám vào lòng đất mẹ
thương yêu.

Nắng lên, một giọt sương long lanh còn vương
trên cánh hoa sao bé nhỏ
Nhưng rừng cây không hay
Hiện hữu em ca bài ca bất diệt
Tiếng ca em quen thuộc như đã có từ ngàn xưa
trong rừng sâu lặng lẽ nghiêm trang.

Con nai con vẫn giương mắt nhìn quanh
Không có gì thêm
Không có gì mới lạ
Không nghĩ rằng em trong rừng sâu vừa lạc
Bởi vì tiếng ca em hòa mầu nhiệm trong khúc ca
mùa Tuôn Dậy màu xanh
Bông hoa kia như đã từng có mặt một lần với đất mẹ
buổi ban đầu.
Một con chim nghiêng nghiêng mắt nhỏ nhìn em và tung ra một tràng ngọc âm thanh trong suốt
Chim, hoa, cây, suối
Không ngừng ca
Cả rừng cây hợp tấu
Không ngừng lại để hỏi em có mặt tự bao giờ.

Bông hoa bé nhỏ rừng cây
Một phần của hiện hữu vô thỉ vô chung
Em không phải Tạo Sinh mà chỉ là Biểu Hiện.

Rừng cây đã thay xong áo mới
Ngày mồng mười có hai đứa trẻ con nhà ai, nắm tay nhau chạy tung tăng trên bãi cỏ xanh non, tiếng cười trong veo như tiếng hót chim hoàng oanh buổi sáng
Chúng băng qua đồng cỏ và dừng lại bên cửa rừng
Nắng phơi phới reo
Avril đã về trong rừng cây, đứa bé thì thầm bên tai đứa lớn
Như khám phá ra điều gì tối ư quan trọng
Chúng nắm chặt tay nhau và cùng lắng tai nghe…
Phải rồi khúc hát bất diệt mùa xuân
Hai đứa nhìn nhau. Avril đã về trong rừng cây, phen này đứa lớn thì thầm bên tai đứa bé.

Nắng ấm tràn lan cây cỏ
Bỗng con nai con xuất hiện ở cửa rừng sưởi nắng
Bốn gót chân mang theo hương thơm
những bông hoa vàng, tím trong rừng
Có đàn bướm lạ tung tăng đọt cây, bờ suối
Bay đến gần nai.
Nắng ấm vẫn reo
Dòng nước vẫn đi vào lòng đồng cỏ xanh êm ái
Nhưng con nai con và hai đứa bé đã cùng lạc
vào rừng sâu
Tìm theo tiếng hát nhiệm mầu.

Bỗng nhiên có tiếng nổ dồn dập kinh hoàng
Một đàn chim sắt ào ào bay đến
Tóe tung lửa đồng, khạc trên đồng xanh, mặt suối
Rào rào xé mây tung gió
Tự nhiên rừng cây bặt tiếng hát ca.
Hoa khép không dâng hương
Suối trong không soi dáng mây trời
Chim chóc lặng im như khi đêm về nằm im trong tổ kín.

Nhưng rồi cuối cùng đàn chim sắt bay đi
Rừng xanh trở về bình an,
Thanh tịnh.
Rừng cây mỉm cười
Tiếng hát ca mùa tuôn dậy vẫn như chưa từng bao giờ
đứt đoạn.
Cành lá chuyền nhau tin vui
Tiếng thì thầm êm ái
Con nai con đã cùng hai đứa bé tìm ra bông hoa tím nhỏ
Đứa nhỏ ôm lấy đầu nai
Đứa lớn vuốt ve mình nai
Tất cả hát theo bài hát ngàn đời của nhiệm mầu
hiện hữu.

Ngoài kia nắng ấm vẫn reo
Avril trong rừng cây nguyên vẹn
Dòng suối đi sâu êm êm vào lòng đất
Và muôn vạn bông hoa vàng tím đã nở, tự bao giờ,
lấm tấm trên cánh đồng cỏ xanh non.

Bướm bay vườn cải hoa vàng – Nhất Hạnh

TÔI KHÔNG BAO GIỜ KHÔN LỚN

Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng.

Đứng yên ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu.

Bài Bướm bay vườn cải hoa vàng cũng là một bài thơ rất vui, và tuy nhạc của Anh Việt hơi có tính hoài niệm, nhưng tinh thần của bài thơ này vốn rất thanh thoát nhẹ nhàng. Trong bài thơ này chúng ta đã thấy các giáo lý Hiện Pháp Lạc Trú và Vô Hành biểu hiện ra rất rõ. Hiện Pháp Lạc Trú là sống an lạc, vững chãi và thảnh thơi ngay trong giờ phút hiện tại.

Những câu đầu có thể cho chúng ta có cảm tưởng đây là hình ảnh của quá khứ, nhưng sau đó chúng ta biết rằng những hình ảnh đó là những hình ảnh của hiện tại. Vì nếu an trú được trong bản môn thì chúng ta có thể thấy quá khứ nằm ngay trong hiện tại. Và chuyện gì xảy ra ngày hôm qua cũng đang xảy ra ngay trong ngày hôm nay, và ta vẫn có thể tiếp tục rong chơi trong thiền đường tuổi thơ. Tất cả những gì đẹp, tất cả những gì mầu nhiệm của ngày hôm qua vẫn còn có mặt trong giây phút hiện tại, nếu chúng ta thực sự biết tiếp xúc với giây phút hiện tại.

Mười năm vườn xưa xanh tốt
Hai mươi năm nắng rọi lều tranh
Mẹ tôi gọi tôi về bên giếng nước rửa chân
Hơ tay trên bếp lửa hồng
Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống

Mười năm đầu là mười năm của tuổi thơ, không lo lắng, không cần phải đối diện với những khó khăn của sự sống.
Hai mươi năm kế tiếp là hai mươi năm của sự đương đầu với những khó khăn, với những khắc nghiệt của sự sống. Đây là kinh nghiệm không phải của riêng ai mà của tất cả chúng ta.

Mẹ tôi gọi tôi về bên giếng nước rửa chân
Hơ tay trên bếp lửa hồng
Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống

Tất cả những đứa bé ở Việt Nam đều đã có cơ hội sống qua hình ảnh này. Nếu được sinh ra ở Tây Phương thì có thể mình đã không trải qua cùng một kinh nghiệm. Đi chơi; sự có mặt của trẻ thơ là để chơi chứ không để làm gì hết. Ăn và chơi thôi. Ăn, ngủ và chơi. Cha mẹ ta chỉ mong chúng ta làm được ba chuyện đó. Ăn, ngủ và chơi.

Đi chơi nhưng luôn luôn ta được dặn rằng: con nhớ về đúng giờ cơm chiều. Có khi ham chơi quá, ta về trễ và mẹ phải ra gọi. Vì mình chơi ở một bãi cát, ngoài bờ sông hoặc ở một bến nước nào gần nhà. Và sau khi đã nấu cơm xong, mọi người trong gia đình đã có mặt rồi mà chỉ còn thiếu mình nên mẹ phải đi ra gọi mình về ăn cơm. Chơi thì chơi đủ thứ, không cần đi guốc, đi giầy gì hết. Lấm láp, hai chân dính bùn, dính đất, vì vậy khi về đến nhà trước ta phải ra bếp nước để rửa chân. Rửa chân xong, đi đôi guốc rồi mới được vào ăn cơm. Vì mâm cơm được dọn trên bộ ván gõ, nếu chân mình còn dính bùn đất thì mình không được trèo lên. Đó là hình ảnh của Việt Nam.

Ở Việt Nam hồi đó bếp chỉ đun bằng rơm hoặc củi, mà phần lớn ở thôn quê thì đun bằng rơm. Tôi là một trong những người có thể nấu cơm bằng rơm. Hôm nào các sư chú tổ chức đem rơm vào để tôi nấu một nồi cơm bằng rơm cho mà xem. Nấu cơm bằng rơm mà nấu canh cũng nấu bằng rơm được, rất hay. Trong khi nấu cơm mình phải dùng một thanh củi đẩy rơm vào để nuôi ngọn lửa cháy hoài, nếu bỏ đi chỗ khác thì rơm sẽ tắt. Nhưng mình vẫn có thể đứng dậy đi năm hoặc bảy bước để lấy cái gì đó rồi trở về kịp thời để đẩy nắm rơm vào.

Cái bếp nước (ảng nưóc) gần nhà bếp lắm. Nơi đó có một cái lu, ngoài Bắc gọi là cái chum, trên cái chum có một cái gáo dừa, cán bằng gỗ còn gáo làm bằng trái dừa. Nhà nào cũng có một cái gáo dừa như vậy. Dùng cái gáo ấy múc nước từ trong chum ra dội lên hai chân, chân này rửa cho chân kia, không cần cúi xuống dùng tay để rửa. Hoàn toàn ta rửa chân bằng chân. Chân này rửa cho chân kia và chân kia rửa cho chân này, trong khi tay trái vén ống quần còn tay phải thì múc nước.

Mẹ tôi gọi tôi về bên bếp nước rửa chân
Hơ tay trên bếp lửa hồng
Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống

Có thể là cơm canh chưa nấu xong nhưng mà mẹ đã ra gọi, vì trời tối rồi. Gọi về rửa chân cho sạch sẽ để ăn cơm chiều. Có thể cơm đã nấu xong, canh đã nấu xong, chỉ cần hâm nóng lại nồi đồ kho hoặc chỉ cần bắc nồi chè lên. Chè đây là nước uống, là trà Huế. Trà Huế là một loại thức uống ở Việt Nam rất phổ thông. Mình đi ra vườn hái những lá chè tươi, mang vào rửa và vo cho dập, sau đó rửa lại cho sạch thêm một lần nữa rồi bỏ vào cái bình tích.

Sau đó mình nấu nước thật sôi và đổ vào bình tích. Lắc lắc vài lần rồi lại đổ nước đó ra, vì nước đó có thể còn hăng và cũng như để rửa chè và bình lại một lần nữa. Cuối cùng mình lấy một củ gừng đập dập và bỏ vào bình tích, sau đó mới rót nước sôi vào và đậy nắp bình lại. Mình còn lấy ít lá chuối khô cuốn tròn lại để nhét vào cái vòi của bình tích cho hơi nóng đừng ra. Cái đó gọi là hãm. Và chừng mấy phút sau nước chè ra rất thơm, rất ngon mầu xanh vàng khá đẹp. Đó là uống cách sang, còn nếu không thì để hết tất cả lá chè đó vào một cái nồi bằng đất rồi đổ nước vào nấu sôi. Sôi xong thì tắt lửa. Khi nào muốn uống thì lấy cái tô múc một gáo nhỏ bỏ vào trong tô, rồi ra lấy thêm nước mưa chế vào cho đầy tô rồi uống. Uống rất đã khát, nhất là mình vừa làm việc lao động xong.

Có thể là nồi cơm đã chín, nồi canh đã nêm, nồi kho đã hâm rồi và chỉ cần bắc nồi chè lên thôi, nhưng mẹ đã đi ra gọi mình về để rửa chân cho kịp thời ăn cơm với gia đình. Bữa cơm gia đình là một thời gian rất linh thiêng. Nếu bữa cơm đó mà thiếu mặt một người thì hạnh phúc không được toàn vẹn. Ngày nay nhiều gia đình không có được cái hạnh phúc này. Đôi khi con về ăn trước hoặc cha mẹ về trước thì ăn trước, con về sau thì ăn sau. Vì thế mình không có được cái hạnh phúc đoàn tụ trong bữa cơm gia đình.

Hồi đó không có điện, không có nước máy, và nước ở trong chum là do mình gánh ở ngoài sông hay ngoài giếng vào. Còn đèn để thắp thì toàn là đèn dầu hỏa. Vào mùa Hè, ngày dài, thay vì ăn cơm ở trong nhà thì ta trải chiếu và dọn cơm ra ngoài sân cho có ánh sáng. Khi ăn xong, cất dọn chén bát rồi thì trăng có thể đã lên tới ngọn tre, đầu ngõ. Và anh chị em cùng ra chơi với nhau ở ngoài bụi tre. Đó là cảnh tượng rất đẹp đẽ, rất phổ thông của tất cả mọi gia đình.

Mười năm vườn xưa xanh tốt
Hai mươi năm nắng rọi lều tranh
Mẹ tôi gọi tôi về bên giếng nước rửa chân
Hơ tay trên bếp lửa hồng
Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống

Có thể đó là một buổi chiều mùa Đông, lạnh. Sau khi rửa chân rửa tay, mình vào bếp hơ cho ấm, và sự có mặt của mẹ bên mình cũng ấm như sự có mặt của lửa. Mẹ là một thứ lửa ấm.

Tôi không bao giờ khôn lớn
Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm ?

Sống trong hoàn cảnh đó là sống trong thiên đường thì sao mình lại phải lớn lên, tại sao mình phải khôn lên để làm gì? Mười năm vườn xưa xanh tốt. Tại sao phải đưa mình đi vào trong cái hoàn cảnh hai mươi năm nắng rọi lều tranh? Trong con người của mình có một đứa bé. Đứa bé từ chối, không muốn khôn lớn. Tôi không bao giờ khôn lớn. Cái ý hướng đó ở trong mọi người vẫn còn; kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm? Tôi mãi mãi vẫn còn là một em bé. Tôi mãi mãi là con của mẹ. Tôi mãi mãi còn là em của chị, em của anh và tôi muốn ở hoài, ở mãi trong khung cảnh thiên đường này.

Tôi không bao giờ khôn lớn
Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm
Mới  hôm  qua đây tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã trong khu vườn cải hoa vàng.

Đó là một hình ảnh của tuổi thơ. Ở miền quê có những khu vườn trồng cải và mỗi khi hoa cải nở thì bướm không biết ở đâu đủ loại bay tới cả hàng trăm con, hàng ngàn con trong khu vườn cải hoa vàng. Ở Tây phương thỉnh thoảng trên đường lái xe, mình cũng thấy những cánh đồng trồng toàn là colza. Colza là một thứ cây cho hạt, và hạt đó có thể làm dầu ăn. Nếu thỉnh thoảng mình thấy một ngọn đồi mầu vàng rực như vậy thì mình biết rằng đó là một ngọn đồi colza. Hoa vàng của colza nó cũng đẹp như hoa vàng của bông cải, vì colza cũng thuộc về gia đình của cải. Nếu chúng ta đi về các nước Á Châu như Ấn Độ, Thái Lan thì chúng ta cũng sẽ thấy những khu vườn trong đó cải nở hoa vàng rực và bướm bay tới rất đông.

Mới hôm qua đây tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã trong khu vườn cải hoa vàng

Khi viết bài này tôi đang ở tiểu bang Nữu Ước. Ngồi ngay ở đô thị Nữu Ước mà mình cũng thấy được hình ảnh đó. Hình ảnh này trở về trong giây phút hiện tại. Nó là hình ảnh của tích môn nhưng cũng là hình ảnh của bản môn.

Mới hôm qua đây tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã trong khu vườn cải hoa vàng
Mẹ và em còn đó
Gió chiều như hơi thở
Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi.

Trong bản môn ta thấy rõ ràng mẹ còn sống, em còn ngồi một bên, và gió chiều giống như hơi thở. Hơi thở chánh niệm, hơi thở an trú trong giây phút hiện tại. Tại sao mình phải lo lắng, phải đăm chiêu, phải sợ hãi về tương lai? Tại sao mình không sống được trong giây phút hiện tại? Chính trong giờ phút hiện tại mà mình tiếp xúc được với tất cả những mầu nhiệm của sự sống, kể cả những mầu nhiệm mà mình nghĩ là chỉ xảy ra trong quá khứ. Mẹ còn đó, em còn đó, gió chiều còn đó, vườn cải hoa vàng còn đó và tuổi thơ của mình còn đó; ở ngay trong con người của mình, mình muốn tiếp xúc lúc nào cũng được.

Có người thiếu niên nào, có người thiếu nữ nào lớn lên mà không mơ tưởng tới tương lai? Chính vì mình cứ mơ tưởng tới tương lai và lo lắng cho tương lai nên mình đánh mất đi khả năng sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Mình đánh mất tuổi thơ, và nhất là mình đánh mất tuổi trẻ.

Ngay trong câu thứ bảy, thứ tám ta đã thấy cái tuệ giác về bản môn biểu lộ. Đây là một tiếng chuông thỉnh lên để cho mình được tỉnh thức và những người đọc mình cũng sẽ được tỉnh thức. Những gì ta trân quý ngày xưa mà bây giờ ta nghĩ là không còn, quả thật chúng vẫn còn đó, nếu ta biết sống trong bản môn. Tất cả những gì đẹp, hay và mầu nhiệm của tuổi thơ vẫn có thể còn có mặt trong con người ta. Em thơ đang còn sống trong ta. Cô bé đang sống trong ta, chú bé đang sống trong ta. Tôi không bao giờ khôn lớn. Đây đích thực là giọng của thiếu nhi, giọng phụng phịu của một em bé chứ không phải là giọng của một người ba mươi mấy tuổi.

Tôi không bao giờ khôn lớn
Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm ?
Mới hôm qua đây tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã trong khu vườn cải hoa vàng
Mẹ và em còn đó
Gió chiều như hơi thở
Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi ?

Mẹ còn đó, em còn đó, người thương của mình luôn luôn còn đó; dầu mình tưởng họ đã mất, họ đã đi xa.

Gió mang tiếng ca
Ngày ra đi em dặn
Nếu ngày về thấy khung trời đổ nát
Thì tìm tôi trong tận đáy hồn anh
Tôi đã về.

EM NÊN HÁT CA

Ngày tôi rời đất nước để đi Hoa Kỳ là năm 1962. Lúc đó chiến tranh đã đi đến cái mức tàn khốc, và không khí chế độ Ngô Đình Diệm đã làm cho mọi người khó thở. Tôi ra đi trong không khí đó. Có những người em, những người  học trò, những người em trai, những người em gái đưa tiễn. Họ nói: Có thể khi Thầy về là quê hương đã đổ nát hết, và có thể chúng con sẽ không còn có mặt ở đây nữa. Muốn tìm chúng con thầy hãy tìm trong bản môn.

Gió mang tiếng ca
Ngày ra đi em dặn
Nếu ngày về thấy khung trời đổ nát
Thì tìm tôi trong tận đáy hồn anh.

Những đau khổ, thao thức và chịu đựng trong hoàn cảnh chiến tranh đã bắt đầu bao trùm lên đất nước và tàn phá tâm hồn người.

Tôi đã về
Có tiếng hát ca
Bàn tay trên liếp cửa, hỏi rằng
Có tôi hôm nay đây, tôi giúp được gì ?

Hãy tưởng tượng khi mình về lại một khu làng nhỏ bé, cổ xưa. Nơi đó mình đã sinh trưởng và lớn lên. Mình lắng tai nghe tiếng gió, rồi mình lắng tai nghe tiếng một cô thôn nữ đang hát ở ngoài đồng. Và bàn tay đặt lên trên liếp cửa chưa mở, không biết rằng khi liếp cửa mở ra thì mình sẽ gặp ai, thấy ai; rồi mình nói: Tôi đã về. Mình hỏi: Có tôi hôm nay đây, tôi giúp được gì? Tình trạng đất nước là như vậy, tình trạng xã hội là như vậy. Có sự đổ vỡ và tan nát cho nên mình muốn làm một cái gì đó để có thể dựng lại những gì đã đổ vỡ và tan nát.

Trong chúng ta người nào cũng có một vị chiến sĩ trong lòng sẵn sàng đứng đậy để hành động. Hành động để cứu đời, để giúp người, để xây dựng lại những gì đã đổ nát. Tôi đã về. Bao nhiêu người thanh niên đã về? Bao nhiêu người thiếu nữ đã về? Đã tốt nghiệp hay chưa tốt nghiệp, nhưng vì thương quê hương mà đã về tới. Đã thao thức muốn làm một cái gì đó, nhưng chưa biết sẽ làm được gì? Liệu người ta có cho mình làm hay không? Trong tình trạng nghi kỵ, hận thù và chia rẽ này mình làm được gì?

Có tôi hôm nay đây, tôi giúp được gì?
Gió thì thầm: em nên hát ca
Bởi vì hiện hữu nhiệm mầu
Hãy là đóa hoa
Hãy là nụ cười
Hạnh phúc có bao giờ được dựng xây bằng vôi với gạch.

Đây là câu trả lời. Mình phải có mặt, và có mặt thật sự. Mình phải có mặt như là một cái gì tươi mát, mầu nhiệm và lành mạnh. Đó là sự đóng góp căn bản nhất của mình. Phẩm chất của sự có mặt ấy rất quan trọng. Đó là sự có mặt của hiểu biết, của thương yêu, của độ lượng và của bao dung. Nếu đó chỉ là sự có mặt của lao tác mệt nhọc thì chưa chắc đó đã là cái mà người ta đang cần. Ai cũng muốn làm một cái gì nhưng có thể càng làm người ta càng khiến cho tình trạng thêm rối rắm. Có nhiều chiến sĩ và anh hùng quá, và chiến sĩ này cũng như anh hùng kia cứ đối chọi và tranh chấp với nhau, không chấp nhận được nhau; cho nên càng hành động thì càng đưa tới sự đổ nát và chia rẽ. Vì vậy cái mà đất nước và xã hội cần là sự có mặt của bao dung, tươi mát và từ bi của mình.

Gió thì thầm: em nên hát ca
Bởi vì hiện hữu nhiệm mầu
Hãy là đóa hoa
Hãy là nụ cười
Hạnh phúc có bao giờ được dựng xây bằng vôi với gạch?

Hiện hữu nhiệm mầu là pháp thân mầu nhiệm. Pháp thân mầu nhiệm được biểu hiện trong trúc tím, hoa vàng, trăng trong và gió mát. Nếu chúng ta không tiếp xúc được với những thứ đó, nếu chúng ta chỉ hì hục tranh chấp với nhau thì chúng ta không giúp được gì cho nhau cả. Bởi vì hiện hữu nhiệm mầu. Đây là hình ảnh của xuân đáo bách hoa khai, hoàng oanh đề liễu thượng. Khi mùa Xuân tới thì trăm hoa đua nở, và con chim oanh vàng ca hát trên cành dương liễu. Đó là câu thơ của thiền sư nối vào hai câu kinh: Chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng. Hiện hữu nhiệm mầu là như thế, vậy mà mình cứ tiếp tục phá đổ cái hiện hữu nhiệm mầu đó bằng những lao tác và tranh chấp của mình.

Ngày xưa người ta xây cất nhà cửa bằng vôi với gạch tại vì không có xi măng. Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau. Ta có thể là nguồn khổ đau cho người khác mà ta không biết. Ta tưởng mình là trang hảo hán, là người anh hùng, là chàng dũng sĩ cần thiết cho cuộc đời. Không dè vì vụng về, độc tài và hiếu thắng ta đã trở thành nguồn khổ đau cho người khác. Đây là một tiếng chuông chánh niệm. Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau. Tây phương nói: Con người là chó sói của người. Jean Paul Sartre nói: Con người là địa ngục của những con người khác (L’homme est l’enfer des autres). Con người là nguồn khổ đau cho con người.

Vì vậy điều trước tiên mình cần phải làm là đừng làm gì hết. Nghĩa là hãy chấm dứt việc làm nguồn khổ đau cho người khác. Đó là sự thực tập của ta. Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau. Tôi tìm em. Chúng ta đi tìm nhau. Chúng ta đi tìm những người đồng tâm, đồng chí, đồng lý tưởng. Biết rằng lao tác mệt nhọc không phải là chuyện cần thiết nhất; biết rằng phải làm thế nào để sống được như một tăng thân, như một gia đình, hài hòa trong thương yêu, trong hiểu biết. Đó gọi là tìm nhau.

Chúng ta tìm tới nhau để cấu kết xây dựng một tăng thân làm nơi nương tựa cho mọi người. Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau. Tôi tìm em. Tôi rất cần em. Một mình, tôi sẽ không làm được gì cả. Nếu có các em, các chị và các anh ở đó thì chúng ta có thể tạo dựng được một tăng thân và chúng ta sẽ có nơi nương tựa. Còn nếu không thì tôi sẽ cảm thấy bơ vơ, cô đơn và bất lực như trong một đêm giông tố mùa Đông, tối đen không thấy gì. Mình là một thân cây, mình không biết xung quanh mình còn có những cây khác hay không. Có thể mình là một cái cây duy nhất sống trong bão tố, và cành lá của mình sờ soạng tìm kiếm. Mình muốn biết rằng bên tay phải có một cây khác, bên tay trái cũng có một cây khác. Mình cần ý thức được rằng trong cuộc đời mình có những người em, những người anh, những người chị có cùng một nhận thức, cùng một lý tưởng như mình thì mình mới có năng lượng để đi tới.

Như đêm giông tố loạn cuồng
Rừng sâu đen tối
Những cành cây sờ soạng
Đợi ánh chớp lòe ngắn ngủi
Thấy cần được hiện hữu bên nhau
Tìm nhau.

Tất cả những gì ta cần là một tia chớp ngắn ngủi để ta có thể nhận ra là ta không chỉ một mình. Ta còn có người sư anh, còn có người sư chị, còn có người sư em, mình còn có nhau. Còn có nhau là mình còn tất cả. Mất nhau là mình sẽ mất hết. Dầu cho đất nước tan nát, dầu cho nhà cửa bị bom đạn làm cho điêu tàn, dầu cho núi rừng bị đốt cháy, dầu cho con sông đã bị ô nhiễm; nhưng nếu chúng ta còn nhau thì chúng ta vẫn có thể làm lại được tất cả. Phạm Duy có viết một bài hát với tựa đề: Chúng ta mất hết, chỉ còn nhau. Còn nhau thì đâu phải là mất hết. Còn nhau là còn đủ hết. Chỉ khi nào chúng ta mất sư anh, mất sư chị, mất sư em, mất tăng thân thì chúng ta mới mất hết. Còn nếu vẫn còn sư em, sư chị và sư anh thì chúng ta chưa mất gì.

Em hãy là đóa hoa
Đứng yên bên hàng dậu
Hãy là nụ cười
Là một phần của hiện hữu nhiệm mầu.

Quý vị có thấy lại bông hoa của Quách Thoại tái sinh ở đây không?
Đứng yên ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhì em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu.

NGÀY HÔM NAY ĐẸP LẮM THẬT MÀ

Quách Thoại đã thấy được bông hoa. Tôi đã thấy được bông hoa, và tôi muốn cho các người anh, người chị, người em và những người con của tôi cũng thấy được bông hoa đó và để chính tự thân của họ cũng trở thành một bông hoa. Em hãy là đóa hoa, đứng yên bên hàng dậu. Em hãy cứ đứng đó thôi, như một bông hoa tươi mát; điều đó là điều quan trọng nhất của cuộc đời. Hãy mỉm nụ cười mầu nhiệm. Hãy hòa bản thân mình vào khúc hát bất diệt của mùa Xuân, vào trường ca Avril. Hãy là đóa hoa đứng yên bên hàng dậu. Hãy là nụ cười, là một phần của hiện hữu nhiệm mầu.

Tôi đứng đây. Đây là một sự khẳng định. Tôi đứng đây, nghĩa là tôi đang có mặt đây. Tôi có mặt đây nghĩa là thân tâm của tôi hợp nhất trong hơi thở. Tôi không bị quá khứ lôi kéo, tôi không bị tương lai giam hãm, tôi không bị những dự án lôi đi. Tôi đứng đây, chúng ta không cần khởi hành. Chúng ta không cần đi đâu cả, vì đây là quê hương của chính chúng ta. Quê hương của chúng ta là bây giờở đây. Chúng ta không cần khởi hành.

Quê hương chúng tôi đẹp như quê hương của tuổi thơ, xin đừng ai xâm phạm. Cái mười năm vườn xưa xanh tốt đó vẫn còn có mặt trong tự thân. Nó là một thiên đường. Đó là thiên đường của tuổi thơ, và mình ước muốn rằng thiên đường đó nó còn mãi, còn hoài. Đừng xâm phạm, đừng tiêu diệt nó bằng mưu đồ, tham lam và tính toán. Đừng đày các em bé ra khỏi cái thiên đường của chúng. Và chúng ta hãy thực tập để mãi mãi còn là em bé trong thiên đường của ta. Vì nếu thiên đường đó đã từng có, đã từng là một sự thật thì thiên đường đó sẽ còn mãi mãi; vì không có gì có thể bị tiêu diệt. Rien ne se crée, rien ne se perd (Lavoisier). Vũ Hoàng Chương cũng đã nói: ‘‘Đâu có lẽ ‘có’ chiều qua mà ‘không’ sáng nay?.’’

Quê hương của chúng tôi đẹp như quê hương của tuổi thơ, xin đừng ai xâm phạm. Xâm phạm có nhiều cách. Hoặc là xâm phạm bằng chương trình năm năm, mười năm, hoặc bằng một ý thức hệ hay bằng súng đạn, chiến tranh, tiền tài và bạo động. Tôi vẫn còn hát ca. Hát ca là bổn phận của tôi. Bổn phận của em cũng vậy, em phải hát ca.Vì cuộc sống rất mầu nhiệm, chúng ta phải hòa mình vào trong bản hợp tấu vĩ đại của pháp thân nhiệm mầu. Chúng ta hãy lắng nghe bông hoa để có thể trở thành được như bông hoa, và chúng ta hòa những lời ca tiếng hát của chúng ta vào trong bản hòa tấu vĩ đại của đất trời, của hiện hữu.

Đầu còn gối trên thánh kinh, sáng nay tôi nghe xôn xao trong nắng mai vũ trụ đang được những con ong vàng siêng năng bắt đầu khởi công tạo dựng
Công trình xây dựng ngàn đời
Nhưng công trình, em xem, đã được ngàn đời hoàn tất.

Ngồi đọc kinh, khi buồn ngủ ta nằm xuống và muốn gối đầu trên kinh mà ngủ. Thánh kinh nói là Thượng đế đã tạo dựng ra con người và vũ trụ. Người ta nghĩ rằng nếu không có Thượng đế thì không có sự tạo dựng và sẽ không có hiện hữu nhiệm mầu. Con người rất siêng năng, rất muốn tạo dựng, rất muốn tiếp tục công trình của Thượng đế. Nhưng tuệ giác cho mình thấy rằng cái sự tạo dựng đó chưa bao giờ chấm dứt hoặc chưa bao giờ khởi sự cả, vì tuệ giác đó là tuệ giác không sinh cũng không diệt.

Chưa có gì đã từng được tạo dựng và không có gì sẽ bị mất mát. Chúng ta đừng nghĩ rằng chúng ta phải lao tác cho nhiều, phải thực hiện chương trình này, rồi chương trình khác. Bởi vì hiện hữu mầu nhiệm vô cùng. Trong hiện hữu mầu nhiệm như thế mình thấy rằng không có gì cần được tạo dựng, không có gì cần được hoàn tất, vì tất cả đã được hoàn tất. Anh không cần phải bôn ba, anh không cần chạy đua, anh không cần phải thao thức để thực hiện cái gì, vì những cái anh muốn thực hiện đã được thực hiện. Đó là tuệ giác mới. Đừng bị những cơn lốc của hành động lôi kéo và đánh mất đi những mầu nhiệm và an lạc trong hiện tại.

Con ong được nhận thức là siêng năng vào bậc nhất; làm việc không ngừng nghỉ. Những con ong thợ làm việc cả ngày. Chúng đi thám hiểm những bông hoa và lấy nhị hoa về để làm mật. Con người của chúng ta cũng muốn siêng năng như con ong. Có nhiều việc không cần phải làm và dù làm suốt đời cũng không hết nhưng ta lại ưa có thói quen đi tìm sự trú ẩn trong những công việc ấy. Điều này đã trở thành một tập khí. Không làm thì chịu không nổi, ta không thể ngồi yên mà không làm gì.

Thức dậy, đầu còn gối trên Thánh kinh, ta thấy cuộc đời xôn xao lắm. Ai cũng muốn hành động, ai cũng muốn thực hiện một cái gì. Chương trình năm năm, mười năm, một trăm năm. Tất cả những cái máy vi tính đều được mở ra. Ai cũng chui đầu vào máy vi tính. Đầu còn gối trên Thánh kinh, sáng nay tôi nghe xôn xao trong nắng mai vũ trụ đang được những con ong vàng siêng năng bắt đầu khởi công tạo dựng. Muốn thay thế Thượng đế, muốn tạo dựng lại cuộc đời. Công trình xây dựng ngàn đời, nhưng công trình em xem đã được ngàn đời hoàn tất. Nếu nhìn kỹ, em sẽ thấy ta đâu có cần phải làm gì. Giáo lý của Đức Thế Tôn là giáo lý vô tác. Mình là một bông hoa. Bông hoa đã mầu nhiệm lắm rồi, bông hoa chỉ cần hát ca. Bông hoa đâu cần phải lao tác mệt nhọc? Bông hoa tự nó đã là một hiện hữu mầu nhiệm. Mình cũng là một hiện tại mầu nhiệm. Mình phải thấy được mình là một bông hoa như những bông hoa khác.

Cái quý giá nhất mà mình có thể cống hiến cho cuộc đời là nụ cười, là sự có mặt tươi mát và mầu nhiệm của mình. Mình chỉ cần hát. Rửa bát cũng là hát, quét nhà cũng là hát. Tự thân mình phải là một bài ca trong suốt hai mươi bốn giờ đồng hồ trong ngày. Trồng cây cũng là hát, dạy em cũng là hát. Tất cả đều là những bài hát mầu nhiệm. Bài hát của thương yêu, bài hát ca ngợi những nhiệm mầu của hiện hữu.

Nhưng công trình, em xem, đã được ngàn đời hoàn tất
Bánh xe mầu nhiệm chuyển hoài đưa chúng ta đi tới
Nắm lấy tay tôi em sẽ thấy chúng ta đã từng có mặt từ ngàn xưa trong hiện hữu nhiệm mầu

Ta không phải mới có mặt, ta không phải mới bắt đầu biểu hiện. Ta đã có mặt từ ngàn xưa và có mặt cùng một lúc; ta tương tức và tương nhập với tất cả các hiện tượng nhiệm mầu khác. Trong giây phút hiện tại, ta tiếp xúc được với tất cả sự nhiệm mầu trong đó có những hình ảnh đẹp đẽ của tuổi thơ: Tóc mẹ tôi còn xanh và dài chấm gót. Mẹ kể lại hồi còn trẻ lúc mới đi lấy chồng, mỗi khi gội đầu xong thì nâng tóc lên như nâng một chiếc võng. Nếu thả ra thì tóc sẽ dính xuống đất. Mẹ bước lên bộ ván rồi mới xõa tóc xuống vì tóc còn dài hơn cả người của bà. Ngày xưa mình không có shampooing. Ở miền quê có nhiều thứ lá rất thơm. Nồi nước lá gội đầu thơm phưng phức. Gội đầu xong thì tóc rất thơm. Tóc mẹ dài như vậy thì tóc của con cũng dài như vậy. Không cần đến tiệm để cắt hay uốn tóc. Ngày xưa không có chuyện đó. Các cô, các bà tự tay làm lấy tất cả và vấn lên đầu những búi tóc rất đẹp. Họ chỉ cần một chiếc trâm thôi.

Tóc mẹ tôi còn xanh và dài chấm gót. Hình ảnh này không phải là một hình ảnh của quá khứ mà là một hình ảnh chính người làm thơ thấy được trong hiện tại. Những hình ảnh đó, những thực tại đó còn mãi, còn hoài. Nếu tiếp xúc trực tiếp được với bản môn thì ta sẽ thấy chưa có gì từng sanh và chưa có gì từng diệt. Những cái kia còn đó, mình còn có thể tiếp xúc được.

Tóc mẹ tôi còn xanh và dài chấm gót. Áo em tôi phơi còn phất phơ bay trước dậu. Dậu là hàng rào. Phơi áo bên hàng rào, khi có gió thì áo bay rất đẹp, ta không cần bỏ vào trong máy sấy. Không gian thênh thang, cả một khoảng vườn phía sau ta phơi bao nhiêu dây áo cũng được. Vào những lúc có gió thổi nhè nhẹ, những chiếc áo phơi bay phất phơ.

Nắng sớm mùa Thu. Tôi ở đây. Đây là lần thứ hai có sự xác nhận: tôi đang có mặt. Chính thực là vườn xưa. Vườn xưa là khu vườn trong đó mình đã rong chơi, đã đuổi bắt những con bướm nhỏ, đã lăn vào nằm trong những bụi cỏ, đã để hết tuổi thơ vào. Mười năm vườn xưa xanh tốt. Vườn xưa đó không phải là chuyện quá khứ; nó vẫn còn có mặt cho mình trong giờ phút hiện tại. Vườn xưa đó có thể là xóm Thượng, xóm Hạ hay xóm Mới bây giờ. Nếu mình muốn thì đâu cũng là khu vườn xưa của tuổi thơ.

Tôi ở đây, chính thực là vườn xưa. Những cây ổi trái chín thơm. Lâu lâu có một trái ổi chín, làm thơm phức cả khu vườn. Mình nói: chà, ta phải leo lên cho được để hái trái ổi đó. Đôi khi trái ổi đã bị chim ăn hết một nửa, nhưng mình chỉ cần “ngoặm” phần còn lại rất thơm. Bây giờ dầu có mua được cây kem đắt tiền đi nữa thì cũng không thể so sánh được với trái ổi một nửa bị chim khoét. Bởi vì ngày xưa khi mình cắn vào trái ổi chín bị chim khoét hoặc trái ổi còn hườm hườm chưa chín, mình thấy nó ngon vô cùng. Trong tâm mình lúc đó không có sự rong ruổi, không có sự quyến luyến về quá khứ hay những nỗi bồn chồn, lo lắng cho tương lai. Em bé tám hay chín tuổi, rất tự do, không ràng buộc bởi quá khứ, không lo lắng cho tương lai, còn có mặt trong thiên đường.

Tôi ở đây, chính thực là vườn xưa. Chính mình phải trở thành em bé đó, mình phải phục hồi cho được khu vườn xưa, khu vườn của tuổi thơ. Những cây ổi trái chín thơm. Những lá bàng khô, thắm, đẹp, rụng còn chạy chơi la cà trên sân gạch. Mỗi nhà đều có một chiếc sân gạch, thỉnh thoảng người ta dùng để phơi lúa, phơi bánh tráng, phơi khoai, phơi sắn, và người ta cũng có thể đem sách vở ra phơi. Có khi thấy tờ phái quy y hay bằng tú tài của mình hơi ẩm mốc thì mình cũng mang ra để phơi cho khô ráo trở lại. Những lá bàng khô, thắm, đẹp, rụng còn chạy la cà trên sân gạch. Đây là một hình ảnh rất quen thuộc. Những lá bàng mầu đỏ hoặc mầu vàng rơi xuống và khi có gió thổi, chạy đi chạy tới trên sân gạch. Hình ảnh đó là hình ảnh muôn đời bất diệt mà người Việt Nam nào cũng đã từng thấy, em bé Việt Nam nào cũng đã từng thấy.

Tiếng hát vẳng bên sông
Những gánh rơm thơm vàng óng ả
Trăng lên quây quần trước ngõ
Vườn cải hoa vàng chính mắt tôi vừa thấy sáng qua

Những hình ảnh rất điển hình: phía bên kia sông có người thanh niên cất tiếng hát và có cô thiếu nữ hát trả lại bằng những lời ca dao. Rồi có những người thanh niên gánh những gánh lúa vừa gặt đi ngang qua cầu khỉ để qua bên này sông. Cầu khỉ là chiếc cầu làm bằng một thân tre được gác trên những thân tre để xéo, và có một thanh tre khác để vịn. Tôi đã từng đi qua cầu khỉ, đã từng thử gánh một gánh rơm và đi qua cầu khỉ. Hồi đó tôi chưa tới mười lăm tuổi. Tôi đã thấy những chàng trai gánh những gánh lúa đi ngang qua cầu khỉ rất nhẹ nhàng. Tôi nói: Tại sao họ làm được mà mình không làm được? Tôi thực tập và cuối cùng thì tôi cũng gánh được một gánh rơm, tuy không nặng bằng gánh của các anh chàng nông dân, và đi qua cầu khỉ. Tôi đã đi qua sông được mà không bị té xuống sông. Những gánh rơm thơm vàng óng ả. Lúa mới gặt rất thơm và màu vàng rất rực rỡ.

Trăng lên quây quần trước ngõ. Trong nhà chỉ có một chiếc đèn dầu thôi, không được sáng lắm. Ra ngoài ngõ, không xa nơi bụi tre là mấy, trăng lên sáng rực. Quây quần trước ngõ nô đùa, chúng ta hát và kể chuyện với nhau. Cảnh sinh hoạt ấy vui vô cùng. Đó là những cảnh tượng mà đứa trẻ nào cũng đã đi qua. Ở Tây phương chắc chắn cũng có những cảnh tượng tương đương như vậy, và nếu muốn thì mình vẫn còn có thể trở về an trú trong cảnh tượng đó. An trú chứ không phải là hoài niệm. Trăng lên quây quần trước ngõ, vườn cải hoa vàng chính mắt tôi vừa thấy sáng qua. Hình ảnh chính của bài thơ là bướm bay vườn cải hoa vàng. Hình ảnh đó không phải là đã chết. Nếu muốn, mình có thể thấy hình ảnh đó ngay trên nước Pháp. Chỉ cần mình có tự do, chỉ cần tiếp xúc được với những mầu nhiệm của hiện hữu và của pháp thân là ta sẽ thấy rằng chưa có gì đã qua và chưa có gì mất đi.

Tôi không ngủ mơ đâu
Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà

Đây lại là một sự xác quyết mới. Chính ngày hôm nay đang có đầy đủ những mầu nhiệm như trời xanh, mây trắng, nắng ấm, bướm vàng, cha, mẹ, anh, chị và em. Thực tại mầu nhiệm vô cùng như vậy mà tại sao mình lại tự khóa chặt mình trong một cái vỏ ốc để rồi sầu đau. Những mầu nhiệm của cuộc đời nhiều hơn, quan trọng hơn những ganh tỵ, buồn phiền và bực tức của mình. Tại sao mình lại tự giam hãm mình vào cái vỏ cứng của sự bực tức và hờn giận đó mà không tiếp xúc được với những nhiệm mầu của cuộc đời đang có mặt ngay trong ngày hôm nay.

Tôi không ngủ mơ đâu. Em không về chơi  trò bắt tìm nơi quá khứ. Tại sao phải đi về quá khứ để chơi trò tìm bắt trong khi hiện tại có đầy đủ những mầu nhiệm có khả năng nuôi dưỡng. Chúng mình còn đây, hôm nay và ngày mai nữa. Tại vì hôm nay nếu mình biết sống thì ngày mai cũng sẽ là hoa trái của ngày hôm nay. Đến đây, khi khát ta cùng uống ở một giếng nước thơm trong. Có một giếng nước rất thơm, rất trong, đó là giếng nước của chánh pháp. Chúng ta khát khao hiểu biết, chúng ta khát khao thương yêu, chúng ta khát khao những điều mầu nhiệm của pháp thân hiện hữu, thì giếng ngọt chánh pháp đang có mặt ở đó cho ta. Ta hãy cùng bước với nhau để đi tới cái giếng này. Quý vị có nhớ cái giếng nước mà Antoine de St Exupery đưa hoàng tử bé tới không?
CHÚNG TÔI ĐANG Ở TRONG CUỘC ĐỜI

Ai nói cho em nghe rằng Thượng Đế đã bằng lòng cho con người khổ đau đứng dậy hợp tác cùng người ?
Chúng ta đã từng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp

Trong tư thế tương nhập và tương tức, chúng ta đã chưa bao giờ từng rời nhau, chưa bao giờ bị xa cách nhau. Tôi luôn luôn có ở trong em và em luôn luôn có ở trong tôi. Đây là một sự giác ngộ. Chúng ta đã từng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp. Khổ đau vì không tự biết là lá là hoa. Tờ lá rất mầu nhiệm, bông hoa rất mầu nhiệm. Chúng ta có thể đã nghĩ rằng chúng ta nhỏ bé hơn hay vĩ đại hơn một tờ lá hay một bông hoa. Nhưng kỳ thực chúng ta cũng là một bông hoa, một tờ lá. Chúng ta cũng mầu nhiệm không khác gì tất cả những mầu nhiệm khác của vũ trụ.

Khổ đau vì không tự biết là lá là hoa. Bây giờ nếu mình biết được mình là bông hoa thì tự nhiên mình sẽ hết khổ đau. Đó là sự thực tập. Vì mình cũng là một bông hoa như bất cứ một bông hoa nào. Và bông hoa nào cũng đang đóng vai trò của nó một cách hết mình. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng là một bông hoa đang cống hiến rất nhiều sự nhiệm mầu và tươi mát cho cuộc sống. Mình có thể cười được, mình có thể múa được, mình có thể thương được, mình có thể hiểu được thì tại sao mình lại phàn nàn, trách móc và co rúm lại. Làm như vậy thì mình không còn là một bông hoa. Bông hoa nào cũng đang làm được cái tối đa của nó để cống hiến sự có mặt của nó cho cuộc đời. Chúng ta cũng vậy, chúng ta không phải là một cái gì ít mầu nhiệm hơn bông hoa; vì vậy chúng ta hãy nở ra như một bông hoa. Hãy cho phép chúng ta nở ra như một bông hoa để cống hiến cho đời sự có mặt của chúng ta.

Khổ đau vì không tự biết là lá là hoa. Em hát ca đi. Hát ca bằng hai bàn tay, bằng hai bàn chân, bằng hai con mắt, bằng cái miệng, bằng lỗ tai của mình. Tất cả hiện hữu của ta phải là một bài hát. Bài hát của sự có mặt, của sự tươi mát, của sự thương yêu. Chúng ta phải hát. Vì chúng ta là một phần của bản hòa tấu vĩ đại. Em hát ca đi, bông cúc cười theo em bên hàng dậu. Bông cúc sẽ mỉm cười theo em. Đừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát. Những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình. Có ngôi sao nào lại tự xây cho mình một cái nhà tù?. Tại sao mình phải tự xây cho mình một cái nhà tù. Tại sao mình phải xây dựng một cái chùa, một cái nhà, một sự nghiệp hay là một danh tiếng? Tại sao mình phải có bò? Tại sao mình không thả bò? Tại sao mình không có tự do như bông hoa ca hát?. Hãy nhìn lên những ngôi sao trên trời. Có ngôi sao nào cần xi măng hay vôi cát đâu. Hạnh phúc của ngôi sao là không gian thênh thang. Mặt trăng cũng vậy. Chúng ta cũng thế.

Em hát ca đi, bông cúc cười theo em bên hàng dậu. Đừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát. Những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình. Họ bắt chúng ta phải nhúng tay vào vôi cát để xây dựng cái mà họ gọi là thiên đường. Xã hội chủ nghĩa hay thiên đường tại thế. Bắt phải lao động thật nhiều. Lao động, lao động, rồi lao động. Mình phải nhúng tay vào để xây dựng. Hy sinh cái hiện tại để lo cho cái tương lai. Hãy để cho chúng tôi hát ca. Phải để cho chúng tôi hát ca như những con người tự do. Để cho chúng tôi là những đóa hoa. Đòi hỏi của mình là như vậy. Cuộc sống mầu nhiệm, mình phải là một đóa hoa, một tờ lá, và tham dự vào khúc ca mầu nhiệm của hiện hữu nhiệm mầu. Để cho chúng tôi hát ca, để cho chúng tôi là những đóa hoa. Cái yêu sách này rất đơn giản. Mình có đòi hỏi gì nhiều đâu. Đòi hỏi để có tự do làm một bông hoa. Mình đòi hỏi được sống trong hiện tại và tiếp xúc được với những mầu nhiệm của hiện tại.

Chúng tôi đang ở trong cuộc đời. Chúng tôi không từ chối, không ghét bỏ, không chán ghét hiện hữu. Chúng tôi đang ở trong cõi này. Chúng tôi không đòi hỏi đi lên Nước Chúa, Tịnh Độ, Cực Lạc hay thiên đường của xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi không đòi hỏi gì ở tương lai. Chúng tôi không đòi hỏi một hình bóng hạnh phúc trong tương lai hay ở một nơi nào khác. Chúng tôi muốn ở đây thôi. Cùng tăng thân xin nguyền ở lại.

Chúng tôi đang ở trong cuộc đời, mắt chúng tôi
chứng minh cho điều ấy.

Có một vùng đất hứa nào không? Có một thiên đường nào đâu đó không? Họ muốn ta phải đi về vùng đất hứa đó. Họ muốn ta đi về thiên đường đó. Họ muốn ta phải tham gia xây dựng một cái gì đó cho tương lai. Còn ta thì ta thấy rằng hiện hữu đã rất nhiệm mầu. Ta cần sống trong hiện tại. Chúng tôi đang ở trong cuộc đời, mắt chúng tôi chứng minh cho điều ấy. Bông hoa không muốn trở thành một cái gì khác. Nó rất thoải mái trong vị trí của nó ở bên hàng dậu hay trên bãi cỏ. Đừng đày bông hoa đi một nơi nào khác; dù ở quá khứ hoặc trong tương lai. Trong thời gian cũng như trong không gian.

Bàn tay cũng là hoa. Đừng biến bàn tay em tôi thành giây chằng, thành khớp răng cưa, thành móc sắt.

Chúng tôi không muốn trở thành những cái máy, những bộ máy. Bàn tay em tôi là một đóa hoa tại sao lại bắt nó trở thành những giây chằng, những khớp răng cưa, những cái móc sắt? Để thực hiện cái gì? Chúng tôi không muốn biến chúng tôi thành những cái máy hay là một phần của cái máy.

Hiện hữu không kêu gọi tình thương
Hiện hữu không cần ai phải thương ai
Nhưng em phải là em
Là đóa hoa, là bình minh hát ca không đắn đo suy tính

Ta không cần nói thương hay kêu gọi tình thương. Hãy sống như bông hoa, hãy sống như một tờ lá, hãy sống như một đám mây. Đó đã là tình thương đích thực rồi. Sự có mặt tươi mát của độ lượng, đẹp đẽ, quảng đại đã là tình thương đích thực.

Xin ghi vào đây một tân ước nữa của tất cả chúng ta
Và xin vẫn nghe lờ tôi như nghe suối reo, như nhìn trăng trăng sáng

Trong Thánh kinh chúng ta có Cựu Ước và có Tân Ước. Tân Ước nói về những thực hiện và những hứa hẹn của Chúa Ki-tô. Chúng ta cũng muốn ghi thêm vào lịch sử văn hóa con người một tân ước nữa. Tân ước của tăng thân chúng ta là sự thực tập sống an lạc, thảnh thơi trong giây phút hiện tại. Chúng ta không cầu một thiên đường, một địa phương, một tương lai nào khác. Vì tất cả những gì mà chúng ta xác nhận và cần đến là hiện tại, là bây giờ và ở đây. Đó là sự biểu hiện mầu nhiệm của pháp thân mà ta có thể tiếp xúc được trong từng hạt sỏi, trong từng tiếng chim, trong từng bông hoa và trong từng dòng suối. Em về, em hãy về đi

Em về, đưa Mẹ về cho tôi thăm
Cho tôi hát em nghe, để tóc em sẽ dài như tóc Mẹ

Em còn đó thì Mẹ còn đó. Nhìn em, tôi thấy Mẹ. Tất cả những gì mầu nhiệm của ba đời tôi đều có thể tiếp xúc được qua hiện tại. Qua những mầu nhiệm của hiện tại, tôi có thể tiếp xúc được với thế giới trong ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai. Không có gì mất đi, kể cả hình bóng của người Mẹ tóc dài chấm gót.
Nếu phân tích thì chúng ta sẽ thấy cái cốt tủy nằm trong bài thơ này là tinh thần vô đắc. Để thực tập vô đắc chúng ta phải tập sống trong hiện pháp. Hiện pháp là tiếp xúc cho được với những gì mầu nhiệm của hiện hữu. Chúng ta không cần phải luyến tiếc tuổi thơ, vì tuổi thơ vẫn còn. Chúng ta không cần luyến tiếc những gì quá khứ, vì những gì trong quá khứ cũng đang còn trong giây phút hiện tại. Bài thơ này giống như một Tân Ước mới.

Và xin vẫn nghe lời tôi như nghe suối reo,
như nhìn trăng sáng

Lời tôi không phải là lời biện hộ, là lý thuyết, là chủ nghĩa, là lý luận. Lời tôi là khúc hát. Bởi vì tôi đang hát. Hát bằng đôi chân, hát bằng đôi mắt, hát bằng hai tay. Lời tôi không được làm bằng ngôn từ và ý niệm. Lời tôi được làm bằng niềm tin, bằng sức sống, bằng nụ cười, bằng trái tim thương yêu. Hãy nghe lời tôi như nghe suối reo, như nhìn trăng sáng. Đừng chỉ nghe bằng hai tai. Hãy nghe bằng trái tim. Ngày xưa tôi đã có lần từng nói:

‘Ngày mai, nếu có nghe,
Hãy nghe lời tôi như nghe suối reo
Hãy nghe lời tôi như nghe chim hót
Như xem liễu lục bông hồng
Như ngắm hoa vàng trúc biếc
Như nhìn bạch vân minh nguyệt’
(Hãy nguyện cầu cho bóng tối thêm sâu, hỡi ngàn sao lấp lánh… (1954))

Thì hôm nay tôi lặp lại: ‘Và xin vẫn nghe lời tôi như nghe suối reo.’ Chúng ta là một tăng thân. Chúng ta muốn sống trong tinh thần vô đắc, trong tinh thần Hiện Pháp Lạc Trú để có thể chấm dứt việc gây khổ đau cho nhau và giúp cho người khác chuyển hóa khổ đau, thực hiện an lạc. Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau. Chúng ta tìm tới với nhau, xây dựng một tăng thân để cho tiếng hát của hiện hữu nhiệm mầu được tiếp nối và luôn luôn biểu hiện.
Chúng ta hãy cùng nghe lại toàn bài:

Bướm Bay Vườn Cải Hoa Vàng

Mười năm vườn xưa xanh tốt
Hai mươi năm nắng rọi lều tranh
Mẹ tôi gọi tôi về bên bếp nước rửa chân
Hơ tay trên bếp lửa hồng
Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống.

Tôi không bao giờ khôn lớn
Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm ?
Mới hôm qua đây tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã trong khu vườn cải hoa vàng
Mẹ và em còn đó
Gió chiều như hơi thở
Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi ?

Gió mang tiếng ca. Ngày ra đi em dặn:
“Nếu ngày về thấy khung trời đổ nát
Thì tìm tôi trong tận đáy hồn anh”
Tôi đã về. Có tiếng hát ca. Bàn tay trên liếp cửa
Hỏi rằng: “Có tôi hôm nay đây, tôi giúp được gì ?”
Gió thì thầm: em nên hát ca
Bởi vì hiện hữu nhiệm mầu
Hãy là đóa hoa, hãy là nụ cười
Hạnh phúc có bao giờ được dựng xây bằng vôi với gạch?

Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau
Tôi tìm em. (Như đêm giông tố loạn cuồng
Rừng sâu đen tối
Những cành cây sờ soạng
Đợi ánh chớp lòa ngắn ngủi
Thấy cần được hiện hữu bên nhau, tìm nhau)
Em hãy là đóa hoa đứng yên bên hàng dậu
Hãy là nụ cười, là một phần của hiện hữu nhiệm mầu
Tôi đứng đây. Chúng ta không cần khởi hành
Quê hương của chúng tôi đẹp như quê hương của tuổi thơ
Xin đừng ai xâm phạm – tôi vẫn còn hát ca
Đầu còn gối trên thánh kinh, sáng nay tôi nghe xôn xao trong nắng mai vũ trụ đang được những con ong vàng siêng năng bắt đầu khởi công tạo dựng
Công trình xây dựng ngàn đời
Nhưng công trình em xem, đã được ngàn đời hoàn tất
Bánh xe mầu nhiệm chuyển hoài đưa chúng ta đi tới
Nắm lấy tay tôi, em sẽ thấy chúng ta đã cùng có mặt từ ngàn xưa trong hiện hữu nhiệm mầu.

Tóc mẹ tôi còn xanh và dài chấm gót
Áo em tôi phơi còn phất phơ bay trước dậu
Nắng sớm mùa Thu
Tôi ở đây. Chính thực là vườn xưa
Những cây ổi trái chín thơm
Những lá bàng khô thắm
Đẹp
Rụng
Còn chạy chơi la cà trên sân gạch
Tiếng hát vẳng bên sông
Những gánh rơm thơm vàng óng ả
Trăng lên, quây quần trước ngõ
Vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua.

Tôi không ngủ mơ đâu
Ngày hôm nay đẹp lắm thật mà
Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ
Chúng mình còn đây, hôm nay, và ngày mai nữa
Đến đây
Khi khát chúng ta cùng uống ở một giếng nước thơm trong

Ai nói cho em nghe rằng Thượng Đế đã bằng lòng cho con người khổ đau đứng dậy hợp tác cùng người?
Chúng ta đã từng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp,
Khổ đau vì không tự biết là lá là hoa
Em hát ca đi. Bông cúc cười theo em bên hàng dậu,
Đừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát
Những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình.
Để cho chúng tôi hát ca. Để cho chúng tôi là
những đóa hoa.
Chúng tôi đang ở trong cuộc đời
mắt chúng tôi chứng minh cho điều ấy.
Bàn tay cũng là hoa. Đừng biến bàn tay em tôi thành giây chằng
Thành khớp răng cưa
Thành móc sắt.
Hiện hữu không kêu gọi tình thương
Hiện hữu không cần ai phải thương ai
Nhưng em phải là em, là đóa hoa, là bình minh hát ca không đắn đo suy tính
Xin ghi vào đây một tân ước nữa của tất cả chúng ta
Và xin vẫn nghe lời tôi như nghe lời suối reo, như nhìn trăng sáng

Em về, đưa Mẹ về cho tôi thăm
Cho tôi hát em nghe, để tóc em sẽ dài xanh như tóc Mẹ.

Lệnh truyền (Xuân Diệu) và Thoát hình (Vũ Hoàng Chương)

Năm nay, tiết Tiểu hàn bắt đầu từ ngày 06 tháng giêng năm 2007. Tiểu hàn tức là cái lạnh nhỏ và tiết Đại hàn bắt đầu từ ngày 20 tháng giêng năm 2007. Ngày Lập xuân bắt đầu là ngày 17 tháng chạp (tức là ngày 04 tháng hai dương lịch), hôm nay đã là ngày 30 tháng chạp và chúng ta đang ở vào trong tiết Lập xuân. Lập xuân có nghĩa là bắt đầu của mùa xuân. Mùa đông còn đó nhưng đã bắt đầu rút lui, mùa xuân chưa tới, chưa biểu hiện một cách rõ ràng nhưng mùa xuân đã bắt đầu tiến tới.

Khi chúng ta đọc bài thơ Lệnh Truyền của Xuân Diệu ở trong tác phẩm Xuân Diệu trường ca, ta thấy lệnh này ban bố vào tiết Lập xuân. Ban đầu có chúa Xuân ra lệnh cho mùa đông từ từ rút lui để mùa xuân bắt đầu lớn dậy. Trong Xuân Diệu Trường Ca có một bài thơ bằng văn xuôi tên là Lệnh Truyền và lệnh truyền cho ai? Lệnh truyền cho tứ đại là đất, nước, lửa và gió để bốn vị tướng tài đó bắt đầu hành động đem mùa xuân trở về. Xuân Diệu Trường Ca được sáng tác năm Xuân Diệu 28 tuổi. Chúng ta đang đón xuân nên chúng ta đọc bài Lệnh Truyền của Xuân Diệu.

Trước khi các thầy, các sư cô đọc bài thơ bằng văn xuôi Lệnh Truyền của Xuân Diệu, tôi muốn nói tới một bài kệ của vua Trần Thái Tông. Vua Trần Thái Tông có sáng tác ra 43 công án thiền. Vua đã viết niêm và tụng cho những công án đó. Công án tức là những đề tài của sự thiền tập mà Trần Thái Tông đã thừa hưởng được từ Tông phái Lâm Tế. Người đem giáo lý phái Lâm Tế cho vua là quốc sư Đại Đăng. Trần Thái Tông đã biết tu học từ năm 20 tuổi, đã sáng tác những tác phẩm Phật học nổi tiếng, trong đó có sách Khóa Hư. Trong sách Khóa Hư chúng ta thấy 43 công án mà vua Trần Thái Tông đã sáng tác và đã sử dụng như những đề tài thiền quán.

Cách đây ba mươi năm, tôi đã có cơ hội phiên dịch 43 công án này từ chữ Hán ra tiếng Việt, nhưng chưa bao giờ có dịp đem ra in hết. Có thể mai mốt mình đưa lên trang nhà của Làng Mai. Đây là công án thứ mười sáu có liên hệ tới Lệnh của mùa xuân.

Tổ sư Lâm Tế của chúng ta có phương pháp gọi là hét. Mỗi khi thấy một vị du tăng lấp ló ngoài cửa muốn xin vào, thì chuyện đầu tiên ngài làm là hét. Tiếng hét của thiền sư Lâm Tế giống như tiếng gầm của sư tử lớn, giúp cho vị thiền giả chấm dứt được những suy tư, giúp cho vị thiền giả có cơ hội mở ra một mùa xuân của trí tuệ, của giác ngộ.

Người ấy đang sống trong một mùa đông lạnh giá kéo dài của u mê, của cố chấp, của hận thù, của thành kiến và của tập khí. Người ấy nghĩ rằng mình có đường hướng, có phương pháp, mình đang đi trên con đường chánh đạo, nhưng tiếng hét của thiền sư Lâm Tế có nghĩa rằng anh đang đi trong một mùa đông giá lạnh kéo dài, anh phải để cho mùa đông chấm dứt, để mùa xuân của đạo lý, của giác ngộ, của chuyển hóa đi tới. Tiếng hét đó ra lệnh cho mùa đông rút lui và ra lệnh cho mùa xuân bắt đầu. Vua Trần Thái Tông đã diễn bày tiếng hét của thiền sư Lâm Tế là Tiếng Lệnh. Tiếng Lệnh ra lệnh cho mùa đông phải chấm dứt từ từ và ra lệnh cho mùa xuân phải bắt đầu chớm dậy. Đây là nguyên văn của bài kệ:

Nhập môn tiện hát dục hà hành
Dẫn đắc nhi tôn túy lúy tinh
Bất thị xuân lôi thanh nhất chấn
Tranh giao hàm giáp tận khai manh

Thiền sư Lâm Tế khi bắt đầu ra giảng dạy đã sử dụng cây gậy và tiếng hét. Hễ khi có một vị du tăng đi vào cửa thì lập tức hét lớn.

Vừa tới cửa ngoài nghe tiếng hét
Tỉnh giấc hôn trầm lũ cháu con
Một tiếng sấm xuân vừa chấn động
Khắp nơi cây cối nẩy mầm non

Đó là cách vua Trần Thái Tông diễn tả tiếng hét của thiền sư Lâm Tế. Đó là tiếng sấm xuân, ra lệnh cho tất cả cây cối phải bắt đầu chuẩn bị để đâm chồi, nẩy lộc. Hôm nay mình đọc bài Lệnh Truyền trong Trường Ca Xuân Diệu là để thấy Lệnh đó được ban ra như thế nào và ban ra cho ai?

Xin mời quý vị nghe Xuân Diệu Trường Ca, bài thơ Lệnh Truyền viết bằng văn xuôi do Xuân Diệu sáng tác, lúc thi sĩ mới 28 tuổi.

Lệnh truyền
(Xuân Diệu)

Lệnh đã truyền ra,
đất vâng trước nhất.
Suốt một đêm trường
đất không sao ngủ được.
Cả mình sấm chuyển
cái ngực của đất phồng lên không muốn ngủ.
Mà ngủ làm chi
Đất cựa mình vì xốn xang trong da thịt

Lệnh đã truyền.
ngày mai đây
tháng sau đây
biết có xong công trình hay chăng?
Thật tấm lòng của đất dạt dào
tính toán ngay từ phút đông vừa bớt lạnh
Đất mẹ đã nghe muôn con đòi nở
muốn vượt chồi lên trên đất, thở ánh sáng trời
Hàng triệu mầm hé ra khép vào
đầu hướng lên, chân mạch căng thẳng
ngửa cả mình đất
Vi trùng sáng tạo lên men dưới da
từ đáy sâu đưa lên bao sức lực để đỡ nâng
Đất mẹ sung sướng
đất mẹ lo âu
đất mẹ nằm sinh và làm việc

mẹ bao la chạy chia nghìn ngả
này núi này rừng này đồng này ruộng
lại còn linh tinh muôn vạn núi đồi nữa
làm sao đủ sữa căng lên

Lệnh đã truyền
đất lãnh lấy công đầu.
đất nghìn năm đất triệu năm
đậm đà chắc chắn
càng già càng dai
Máu cũ biến mới
sục sục quang tuyến
mạch chạy đầm đìa
máu đen kế máu đỏ,
nhựa nâu đến ngã ba cùng với nhựa xanh.
Những con đường xéo lẫn nhau
chở chất chua chất ngọt chất mát chất nồng
theo rễ muôn cây lên cho mặt trời hòa hợp
Trên mặt đất vẫn chưa lộ gì cả
nhưng dưới nhà hầm biết bao là vội vàng
Thì giờ trễ rồi
thời gian tính từng phút một
ngón tay nghiêm nghị không bao giờ đếm nhầm
cho nên đất mẹ làm việc không nghỉ

Không lẽ năm nay lại trễ hơn mọi năm?
Ánh sáng vâng lệnh thứ hai
có cô em sức nóng đi kèm
nàng tiên quyền cao phép cả chẳng ai dám đương
khi hứng thú nồng nàn ánh sáng lấn áp cả không gian
ôm chầm vũ trụ, đè bẹp bóng tối dưới triệu móng chân
mi của ánh sáng thật dài, tia của ánh sáng thật đượm
ánh sáng bắn tin truyền hịch đưa lệnh khắp hang cùng núi hẻm
bảo rằng sắp sửa tin vui
Ánh sáng nhún nhảy tươi cười không chút lo lắng
tài lực của nàng nhiệm mầu nhanh chóng
nàng có thể giấu mình suốt tháng vờ như không hay gì cả
nhưng mánh khóe tinh anh sao
nàng làm việc ngấm ngầm
chỉ một ngày một sáng mai nàng đến
là cả bầu không đã treo ngọc giăng tơ
cả mặt đất đã trải vóc gấm thêu thùa trong gió lăng líu qua cây.

Ánh sáng đứng một chỗ
mà ở khắp nơi con mắt điện quang thấu suốt muôn trùng
trông nom từng nụ mầm non từng vọt sâu bọ
nàng ôm những thân cây giá lạnh,
sưởi những luống đất ẩm hiu
Nàng lách vào những kẽ lá
cho màu xanh non biến thành màu lục đậm
cho nên những cội tùng già yếu
nàng cũng gõ mãi ngoài vỏ
đến nỗi một ngày kia bật ra mầm xanh
và ánh sáng ngồi kéo muôn triệu chỉ vàng
tiếp theo muôn triệu chỉ vàng cuộn tròn vào bánh xe hay mắc ngang khung cửi,
giấu diếm khắp nơi để đến lúc cần dùng sợi ngày vàng sẽ lộ ra chi chít.

Nước nhận lấy phần
nước đi theo ánh sáng
làm thành cặp uyên ương kỳ dị
rẽ nhau một lần là đồng khô cỏ cháy
Nước mát êm cho nắng tựa vào
nước cũng chảy chia nghìn ngã
chạy vào làm máu cho đất
chạy ra làm lời cho suối
độn thổ đằng vân.
Ánh sáng loảng xoảng trong mình
âm điệu róc rách giữa lòng
nước lấy ôn nhu vỗ về nuôi nấng cho muôn vật phát sinh
mà cái liếc mắt đưa dài nghìn lý
Nàng chen vào búp hoa này lẫn vào nhánh cây kia
trái uống nàng vào bụng,
mây giữ nàng trong mình
nụ hút nàng vào tim
cây kiếm nàng làm nhựa
ôi nước ngọt ngào mát mẻ thảnh thơi

Không ai tranh
nên về phần gió.
phải xem dáng điệu nàng thu gọn
mới biết nàng khéo dấu sức phá hoại của mình
chỉ còn là một làn phớt qua
áo nàng tha thiết phiêu phiêu
hồn nàng phất trần
Nàng lên tinh tú gió bay gió lượn
gió phất phơ như hơi thở ân tình
gió đưa duyên bướm
gió làm mối lái cho hoa
gió múa điệu lẳng lơ
nói lời cợt ghẹo
vạn vật nghe gió mà rợn tình.
Gió phẩy móng tay búng muôn đầu lá
gió rào rào rúng động ngàn cây
âm nhạc theo nàng mà vào không gian
nàng là những sợi dây sắt cầm lượn bay
Không khí tự xoay vang tiếng tơ đồng
miền xa lại gần gió mới tỏ tình
hương đà theo hút
gió có cần vội vã đâu
chỉ thoáng lên xe đi thúc giục các chồi các nụ
đến hôm ấy gió chỉ việc dịu dàng bay chơi
là cuốn theo muôn lòng đắm say.

Lệnh được vâng
tất cả đều làm việc
tất cả giao hòa giúp sức lẫn nhau.
tất cả cũng đều một niềm yêu thương quảng đại
tất cả cùng đồng một ý trau chuốt điểm trang.
Ngày ấy Lệnh đốt tiếng pháo đầu
muôn tiên đã núp sau màn
chim chóc cũng lên đầy cổ họng
mặt trời xé màn sương mỏng
xé màn mơ mộng còn ủ ấp non sông
nhạc vang reo hương nồng tỏa.

Công chúa Xuân nương hiện hình
sương đeo một triệu hoa tai cho nàng
nàng cười một nghìn điệu hoa
nàng mặc chín triệu lá non
má nàng điểm đôi chút sương hồng
tóc nàng gió xuân lỏa tỏa
muôn lời của vũ trụ
đồng tấm tắc khen nàng công chúa con chung.

Xuân nương! Xuân nương! hội mừng nàng
hội của nàng sẽ lâu chín mươi ngày
góp thêm chín mươi đêm vui suốt sáng
Nàng ra đời nàng lại về
nàng không mỏi tái sinh
trời ơi Xuân Nương cười
trông thấy công chúa phụ hoàng đôi mắt sáng ngời
đáp lại bằng nụ cười thái dương
âm nhạc khởi lên chín mươi ngày đêm
bắt đầu bằng một buổi sớm.

Xuân Diệu sinh năm 1917 và Xuân Diệu Trường Ca được xuất bản năm 1945, năm thi sĩ 28 tuổi.

* * *

Vũ Hoàng Chương sinh trước Xuân Diệu một năm, vào năm 1916. Năm 24 tuổi thì xuất bản thơ Say, năm 38 tuổi làm bài ca Siêu Thoát và trước đó hai năm, tức năm 1952 làm được bài Thoát Hình, mà chúng ta sẽ được nghe bình thơ. Bài Thoát Hình cũng nói về mùa xuân nhưng mà đi sâu hơn Xuân Diệu, bài Thoát Hình cho ta thấy được nghiệp sinh diệt và sự liên hệ giữa nhân và quả.

Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân
Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần
Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến
Này phút hồn hoa sắp hiện thân
Nụ đã trên cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần.

Trong bài Thoát Hình, Vũ Hoàng Chương nói tới sự xuất hiện, sự biểu hiện, giờ phút sinh ra của một bông hoa. Phát hiện sự sinh nở của bông hoa kèm theo những khổ đau, những lo lắng, những cái chết, những gì đưa tới cho bông hoa ấy. Trong những câu đầu mình cũng thấy là lệnh đã đưa ra và nhựa trong cây bắt đầu dồn tới để đem lại mùa xuân, làm cho đóa hoa mùa xuân nở.

Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần

Nhựa trong cây bắt đầu rào rạt, bắt đầu chảy mạnh vì lệnh đã ban truyền.

Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân

Có thì giờ, có hai lỗ tai, có chánh niệm, mình có thể nghe được sức sống lưu chuyển trong vũ trụ, trong lòng đất, trong thân cây để đưa tới một mùa xuân, tới sự thoát hình của một bông hoa, sự có mặt của một bông hoa.

Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân
Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần

Ở đây mình cũng thấy lại hình ảnh của tứ đại: đất, nước, gió, lửa.

Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần

Có nghĩa là lệnh truyền ra, mình tiếp nhận được lệnh, mình truyền lại cho tất cả mọi người. Cũng như khi vị trụ trì nhận được lệnh phải có một khóa tu tháng sáu, vị trụ trì mới truyền lệnh lại cho tất cả đại chúng, để chuẩn bị cho khóa tu tháng sáu thành công, khóa tu tháng sáu là một đóa hoa. Muốn có khóa tu tháng sáu, nhựa phải lưu chuyển trong hình hài của tăng thân lâu ngày, mình mới có được khóa tu tháng sáu. Tin hương là một tin rất thơm, tin nói rằng sẽ có một bông hoa nở, bông hoa đó là mùa xuân.

Bây giờ chúng ta đọc báo chỉ nghe những tin không thơm lắm, mỗi ngày bao nhiêu người chết, bao nhiêu trái bom nổ. Những tin đó không phải là tin thơm. Nhưng tin mùa xuân đang về là một tin thơm vì mùa xuân về nó đưa lại cho chúng ta biết bao nhiêu là nụ hoa kỳ diệu.

Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến
Này phút hồn hoa sắp hiện thân
Nụ đã trên cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần.

Giây phút của sự sinh nở không phải là một giây phút tầm thường, nó bao gồm cả sự đau đớn. Khi sắp sinh mình, mẹ đau đớn lắm và khi trái đất sắp hạ sinh mùa xuân, trái đất cũng đau đớn lắm. Có một cái gì giống như cái chết xảy ra trong khi chuẩn bị cho cái sống thành hình. Vũ Hoàng Chương hồi đó chưa nghiên cứu Phật giáo sâu sắc, nhưng đã có một  linh tính, một tuệ giác. Vũ Hoàng Chương thấy được cái sống dựa vào cái chết, nếu không có cái chết thì không có cái sống.

Khi một hạt cây nứt ra để cho mầm cây trở thành ra một cây con thì đó là cái chết của hạt cây. Ở trong Thánh kinh có nói là nếu hạt không chết thì làm sao mầm sinh ra được? Và Vũ Hoàng Chương thấy được điều đó. Vì vậy khi sinh mình, mẹ cũng có chết ở trong lòng một ít; khi trái đất sinh ra mùa xuân, trái đất cũng chết trong mình một ít; khi thầy sinh ra mình, thầy cũng chết trong lòng một ít. Cái chết đó không phải là cái chết, mà là tất cả sức sống của người mẹ trao truyền cho thai nhi, cho đứa con.

Đất mẹ truyền tất cả sức sống cho mùa xuân và khi thầy sinh ra mình, thầy cũng truyền sức sống của thầy vào trong mình. Đó cũng là một hình thái chết, nhưng cái chết này không phải là một cái chết đau buồn, mà là một cái chết rất đẹp. Chúng ta phải học chết như vậy để sự sống càng ngày càng đẹp hơn.

Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến

Cả rừng, cả vườn nhận được lệnh đều xao xuyến hết vì máu chảy trong huyết quản, nhựa chảy trong lòng cây.

Vườn đây, rừng đấy cùng xao xuyến

Là tại vì sao?

Này phút hồn hoa sắp hiện thân

Đã tới giây phút mà bông hoa của mùa xuân nở.

Nụ đã trên cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần.

Có sự đau đớn của sự sinh nở. Cái chết nó đưa thành sự sống, cái sống không thể nào có được nếu không có sự chết. Cái chết này không phải là sự chết mà nó là sự tiếp nối của sự sống và sự sống này không phải là sự sống mà là sự tiếp nối của sự chết. Sống và chết là tương tức với nhau, không thể nào lấy ra khỏi nhau được.

Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến
Này phút hồn hoa sắp hiện thân
Nụ đã trên cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần.
Muôn vạn tế bào đang hủy thể

Hủy thể tức là đang chết và chết như vậy để làm cho sự sống có thể xảy ra được. Trong hình hài của mình cũng vậy, mỗi giây phút có hàng ngàn tế bào hủy thể và nếu những tế bào trong mình không hủy thể thì không thể nào sinh ra những tế bào mới. Khi nhìn vào lớp da ngoài của hình hài, mình biết rằng lớp da ngoài gồm có những tế bào khô, những tế bào chết và mỗi khi mình gãi có hàng ngàn tế bào chết rơi xuống và nếu những tế bào đó không chết thì làm sao có những tế bào mới sinh ra? Cái chết và cái sống tương tức. Nhìn thấy cái chết dưới ánh sáng của tương tức thì mình không còn đau buồn nữa.

Muôn vạn tế bào đang hủy thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần

Ý lớn ở đây tức là nguyên lý của vũ trụ: có sinh thì có diệt, cái diệt làm bằng cái sinh, cái sinh làm bằng cái diệt. Ý lớn là ý trời, ý trời ở đây tức là ý của thiên nhiên, ý của sự sống và phá hủy là để thành tựu chứ không phải phá hủy, chỉ để phá hủy. Chính vì phải thành tựu cho nên phải có sự hủy thể.

Phá cho thành đấy, sinh là diệt.

Mình thấy rằng nhà thi sĩ ba mươi sáu tuổi đã thấy được tính tương tức của sinh và diệt.

Mười một năm sau, Vũ Hoàng Chương làm bài Lửa Từ Bi, nhưng Lửa Từ Bi là một đóa hoa sinh trên cái xác của bài Thoát Hình. Bài Thoát Hình là một bước và Lửa Từ Bi là một bước khác nữa. Nếu không có bài Thoát Hình thì sẽ không có bài Lửa Từ Bi. Càng ngày Vũ Hoàng Chương càng trở nên một thi sĩ có tuệ giác Phật giáo.

Muôn vạn tế bào đang hủy thể

Không phải là một cái gì đau buồn, đây là chuẩn bị cho sự sinh nở, cho sự sống.

Muôn vạn tế bào đang hủy thể.
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần.

Ý lớn nhịp xoay vần, đó là sự vận hành của vũ trụ

Phá cho thành đấy sinh là diệt
Đời quả lên từ mỗi xác nhân

Cái nhân nó sung sức, nhưng khi sinh ra quả tự nó trở thành một cái xác, gọi là xác nhân. Khi hạt giống nứt mầm để cho ra một cây mới thì hạt giống đó chết. Chết nhưng không phải là chết, nó chỉ thoát hình.

Muôn vạn tế bào đang hủy thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần
Phá cho thành đấy sinh là diệt
Đời quả lên từ mỗi xác nhân

Cái xác này thật ra không phải là một cái xác, nó chẳng qua chỉ là một cái da mà mình lột ra, như con rắn lột da. Khi hạt cây biến thành mầm non, thật sự không là cái chết. Mình gọi là xác nhân, nhưng kỳ thực nó là mầm quả, cái xác nhân trở thành cái mầm quả.

Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân

Mảnh da này là một mảnh da của thân cây, phải nứt ra một cái thì mới có thể nẩy ra một cái mầm được. Lệnh đã truyền thì thế nào nhựa cây cũng phải lưu chuyển cho mạnh và sự hoạt động đó, sức mạnh đó, năng lượng đó sẽ làm cho vỏ cây nứt ra. Và hễ có sự nứt ra là có sự đau đớn.

Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân
Lòng cây mấy thuở ai người biết
Từng khóc, từng reo đã mấy lần?

Người nào đã từng làm cha mẹ, từng làm thầy, từng làm sư chị, sư anh mới thấy điều đó. Đây là lòng của người mẹ, lòng của đất mẹ đã khóc, đã cười, đã reo vì đứa con mà mình đang thai nghén, đứa con mà mình sắp cho ra đời. Bốn câu này nói về lòng cây, lòng cây đây tức là lòng mẹ, lòng đất đang chuẩn bị để đưa ra một mùa xuân.

Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn.
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân
Lòng cây mấy thuở ai người biết

Có ai biết cho không, có ai biết cho niềm đau, những tiếng khóc và tiếng reo trong lòng của bà mẹ, trong lòng của người cha, trong lòng của trái đất?

Lòng cây mấy thuở ai người biết
Từng khóc, từng reo đã mấy lần

Càng ngày sự giục giã càng lớn và nhựa càng lưu chuyển mạnh.

Nhựa ứ càng cao niềm giục giã
Đất trời mong mỏi nức hương lân.

Cả trời, cả đất đang chờ đợi giây phút mầu nhiệm, đó là bông hoa hé nở, tỏa hương thơm ngát của đất trời, tức là mùa xuân.

Đất trời mong mỏi nức hương lân

Nức tức là thơm ngát, hương lân tức là mùi thơm trong cả một vùng.

Cánh hoa sắp hé phô kiều diễm
Nụ thoát hình trong phút nhập thần

Giây phút sinh nở là giây phút rất trọng đại, cần phải có sự tập trung rất lớn.

Cánh hoa sắp hé phô kiều diễm
Nụ thoát hình trong phút nhập thần
Ôi đã then sương cài lỏng lẻo
Buồng thơm rạo rực ý thanh tân.

Then ở đây tức là cái then cửa và bây giờ nó lỏng lẻo ra rồi và có thể mở cửa cho mùa xuân thoát hình, một cách rất dễ dàng. Có một sự trông chờ, có một sự chờ đợi. Tất cả đều đã chuẩn bị, bây giờ mình chỉ cần đưa ngón tay rút cái then cửa, mở cửa ra là mùa xuân tới.

Có ai tha thiết ngoài mây nước
Chờ lối đào nguyên tự mở dần

Ngày xưa có Lưu Thần và Nguyễn Triệu đi thơ thẩn ở Đào nguyên và tự nhiên cánh cửa Đào nguyên mở ra, có những nàng tiên xuất hiện và hai anh chàng được đi vào cõi Tiên. Bây giờ mình đang chờ như vậy, đất trời đã sẵn sàng và chúng ta đang tha thiết ở ngoài mây nước, để cửa động Đào Nguyên bắt đầu mở ra cho chúng ta đi vào mùa xuân.

Hồi đó chiến tranh đã bắt đầu khốc liệt ở miền Bắc và cái chết đã xảy ra. Có bạo động, có hận thù, có chiến tranh, có hư hỏng, có tuyệt vọng, nhưng thi sĩ đã tìm cách giữ cho lòng mình an tĩnh. Trong một hoàn cảnh biến động, khổ đau phát hiện đầy dẫy, tham đắm, giận hờn, hận thù tràn lan, nếu mình không có tu tập, nếu mình không biết giữ lấy thân mình, mình cũng sẽ bị cuốn theo dòng xoáy đó. Cho nên, nhà thơ cũng thấy được như người tu, là phải làm thế nào để trong đêm ba mươi mình tiếp xúc được với tấm lòng trong trắng nguyên vẹn của mình.

Hồi đó Vũ Hoàng Chương chưa biết danh từ Bồ đề tâm, chỉ cho trái tim trong sáng, cho Phật tánh của mình và thi sĩ đã dùng danh từ trang lòng. Trang lòng này là trang lòng còn nguyên vẹn, chưa bị hoen ố bởi hận thù, bởi tuyệt vọng, bởi sự tranh chấp. Nếu mình sống sót được là nhờ mình còn giữ được sự nguyên vẹn đó trong trái tim. Đêm ba mươi ngồi im lại để tìm cách tiếp xúc được với cái tâm trong trắng đó của mình, để đừng đánh mất mình trong tuyệt vọng, trong hận thù.

Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi

Tin rằng mình vẫn có một trang lòng nguyên vẹn. Cũng như người tu chúng ta tin rằng chúng ta có Phật tánh, chúng ta có Bồ đề tâm, chúng ta luôn luôn có thể trở về nương tựa nơi Phật tánh đó, nơi Bồ đề tâm đó để chúng ta đừng bị cuốn đi theo những tuyệt vọng, những khổ đau của xã hội ngày hôm nay.

Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen ố vết trầm luân

Đó là niềm tin mà mình cần phải có, dù thế giới có tan tành thì nụ cười, bông hoa cũng không bao giờ tan biến. Mình phải tin vào Phật tánh nơi mình, vào thiên lương nơi mình, vào tâm bồ đề nơi mình. Đó là chỗ mình trú ẩn, là cái pháo đài để mình không đánh mất mình. Thi sĩ đã nói lên được điều đó, không bằng ngôn từ Phật giáo, mà bằng ngôn từ của riêng ông ta.

Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen ố vết trầm luân

Đây là một lời cầu nguyện để kết thúc bài thơ.

Đêm nay xuống một bài thơ trắng

Một bài thơ trinh nguyên như là một người cầu cơ, như là một người ngồi thiền, mở trái tim ra để cho Phật tánh bừng nở. Cũng như người cầu cơ để cho đức Thế Tôn, để cho Thượng đế, để cho tinh hoa của vũ trụ giáng xuống dưới hình thức một bài thơ mới, một bài thơ có khả năng làm mới lại cuộc đời mình.

Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở ái ân

Hai câu chót là một lời cầu nguyện. Cầu nguyện bằng cái gì? Bằng trái tim của chúng ta. Nếu trái tim của chúng ta đầy dẫy những tuyệt vọng, đau buồn và hận thù làm sao chúng ta cầu nguyện được? Chúng ta phải có một cái gì đó mới có thể tiếp xúc được với tinh hoa của vũ trụ, với Trời, với Phật. Vì vậy phải mở trang lòng nguyên vẹn ra, đây là tâm Bồ đề của mình, đây là Thiên lương của mình.

Đêm nay xuống một bài thơ trắng

Phải ngồi yên, ngồi rất yên, phải trải tấm lòng thanh tịnh của mình ra. Không thù hận, không tuyệt vọng thì may ra mới có một bài thơ trắng, một bài thơ trinh nguyên giáng xuống. Như người cầu cơ, phải rất thanh tịnh, phải rất chí thành thì niềm tin, sự giác ngộ, phương thuốc trị liệu mới có thể đi vào trong trái tim của mình. Cho nên trong thời gian chiến tranh, thi sĩ ngồi thật yên lặng, đem tâm trong sáng của mình ra để chờ đợi phút linh cầu cho cái đó giáng về.

Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở ái ân

Trong cuộc đời chỉ có hận thù, bạo động và tuyệt vọng. Cuộc đời cần có sự thương yêu, cho nên lời cầu nguyện duy nhất của thi sĩ trong đêm ba mươi, không phải là làm ăn phát tài bằng năm bằng mười năm ngoái, đầu năm sinh con trai cuối năm sinh con gái, mà cầu nguyện cho tình thương giáng sinh trong trái tim của mình và trong trái tim của con người. Bài thơ này cũng là một bài thơ đạo.

Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở ái ân

Ái đây tức là bác ái, là từ bi, là lòng thương của Bụt, của Chúa. Ân đây tức là ân nghĩa, ân tình của con người đối với nhau. Chữ ái ân đây thực sự có nghĩa là tình thương, là lòng từ bi. Có gì đẹp hơn khi mình cầu nguyện cho tình thương, cho lòng từ bi giáng sinh trong trái tim của mình. Nhạc sĩ Phạm Duy cũng có đặt một bài nhạc với tựa đề Khi Tình Yêu Giáng Sinh. Làm thế nào để tình yêu giáng sinh? Phải có sự trầm tĩnh, phải có sự lắng đọng, phải đem trang lòng nguyên vẹn của mình ra, mình mới cầu cho tình yêu giáng sinh được.

Ôi đã then sương cài lỏng lẻo
Buồng thơm rạo rực ý thanh tân
Có ai tha thiết ngoài mây nước
Chờ lối đào nguyên tự mở dần
Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở ái ân

Xin chúc quý thầy, quý sư cô, quý Phật tử bên nhà một năm mới nhiều hạnh phúc và nhất là có nhiều thì giờ để ngồi chơi, để có thể thấy được mặt nhau, đừng có bận rộn quá. Xin đọc lại bài Thoát Hình của Vũ Hoàng Chương trước khi chấm dứt bài bình thơ này.

 

 

Thoát hình
Vũ Hoàng Chương

Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân
Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần
Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến
Này phút hồn hoa sắp hiện thân
Nụ đã trên cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần.
Muôn vạn tế bào đang hủy thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần
Phá cho thành đấy sinh là diệt
Đời quá lên từ mỗi xác nhân
Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân
Lòng cây mấy thuở ai người biết
Từng khóc từng reo đã mấy lần
Nhựa ứ càng cao niềm giục giã
Đất trời mong mỏi nức hương lân.
Cánh hoa sắp hé phô kiều diễm
Nụ thoát hình trong phút nhập thần.
Ôi đã then sương cài lỏng lẻo
Buồng thơm rạo rực ý thanh tân
Có ai tha thiết ngoài mây nước
Chờ lối đào nguyên tự mở dần
Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở ái ân.
/.

 


 

Xuân Diệu (1917 – 1985)

 

Tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 tại Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha là Ngô Xuân Thọ và mẹ là Nguyễn Thị Hiệp.

Xuân Diệu sau ra Hà Nội học, 1938-1940 ông và Huy Cận ở gác 40 Hàng Than. Ông tốt nghiệp kỹ sư canh nông năm 1943. Ông mất ngày 18 tháng 12 năm 1985.

Xuân Diệu viết nhiều, có khoảng 450 bài thơ. Một số lớn chưa được xuất bản. Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Ngọn quốc kỳ (1945), Một khối hồng (1964), Thanh ca (1982), Tuyển tập Xuân Diệu (1983); truyện ngắn Phấn thông vàng (1939); và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.

Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Ông mang ngọn gió rạo rực, thiết tha, nồng cháy, khao khát yêu thương đến cho thi ca. Thơ Xuân Diệu ca ngợi tình yêu bằng muôn sắc điệu, âm thanh và hương vị trong Thơ thơ, pha lẫn chút vị đắng cay trong Gửi hương cho gió. Nhiều câu nhiều bài chịu ảnh hưởng từ thi ca lãng mạn Pháp.

 

Vũ Hoàng Chương (1916-1976)

 

Sinh ngày 5 tháng 5 năm 1916, sinh quán tại thành phố Nam Định, chính quán tại xã Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên. Đã được dạy Kinh thư bằng chữ Nho và Quốc Sử Diễn ca bằng chữ Nôm trước khi đến trường học Quốc ngữ và sinh ngữ Tây phương khác.

Năm 1939, Vũ Hoàng Chương thôi học, ra làm phó kiểm soát Hỏa xa Đông dương.

Hoạt động Văn chương từ năm 1940, in thơ viết kịch v..v….

Năm 1940, Vũ Hoàng Chương cho ra thi phẩm đầu tay là tập Thơ Say do nhà in Cộng Lực ấn hành.

Năm 1941, thôi làm sở Hỏa xa và tiếp tục học theo ban Đại học Khoa học.

Năm 1942, lại nghỉ học, Vũ Hoàng Chương xuống Hải Phòng dạy học. Và trong thời gian này thành lập ban kịch Hà Nội cùng với Nguyễn Bính và Chu Ngọc.

Vân Muội là vở kịch đầu tiên của Vũ Hoàng Chương được trình diễn tại Nhà Hát Lớn Hà Nội đêm 12.12.1942.

Đến năm 1943, cho in thi phẩm thứ hai, tên là Thơ Mây.

Năm 1944, xuất bản kịch thơ Trương Chi, gồm 3 kịch thơ ngắn là Trương Chi, Vân Muội, Hồng Điệp.

Năm 1945, giai đoạn chiến tranh chống Pháp, Vũ Hoàng Chương tản cư về dạy học ở Thái Bình. Mặc dù chiến trang đang hồi ác liệt nhưng nhà thơ vẫn sáng tác và cho ra đời tập Thơ Lửa cùng viết với nhà thơ đồng quê Đoàn Văn Cừ xuất bản năm 1947.

Năm 1950, chiến tranh tạm lắng dịu, ông hồi cư về Nam Định dạy học và tiếp tục sáng tác thơ như vở kịch thơ Tâm sự kẻ sang Tần (1951), Thằng Cuội (1952).

Tác phẩm đầu tiên của nhà thơ họ Vũ tại miền Nam là Rừng Phong được chào đời vào năm 1954, Hoa Đăng (1959).

Năm 1961, ngoài việc sáng tác, ông còn cộng tác với nhiều tạp chí văn học ở thủ đô như Phổ thông, Bút hoa, Nguyệt san Đại từ bi, v.v…

Tập Lửa Từ Bi do Thanh Tăng xuất bản năm 1963. Ánh Trăng Đạo Lý (1966) do Sàigòn Tuyên úy Phật giáo xuất bản. Bút Nở Hoa Đàm (thơ, Vạn Hạnh xuất bản năm 1967).

Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thúy Vũ Đoản Từ.

Thơ Xuân cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn (Tết Bính Thìn 1976). Sau đó nhà thơ bị bắt, giam ở ngục Chí Hòa, bị bệnh nặng đưa về nhà mấy hôm thì mất, đó là ngày 6.9.1976 nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bính Thìn, lúc 23 giờ.

Bình thơ Lưu Trọng Lư – Lẽ nào anh chết

Truyền thống của Làng Mai là mỗi đêm giao thừa sẽ được nghe đọc thơ và bình thơ. Chúng ta đã từng đọc thơ của Tản Đà, của Nguyễn Bính, của Thâm Tâm, của Thế Lữ và của nhiều thi sĩ khác rồi. Ngày hôm nay chúng ta đọc thơ Lưu Trọng Lư, một bài thơ được viết năm thi sĩ 70 tuổi mà rất ít người biết. Bài thơ này có những suy tư khá sâu sắc về sống chết.

Chúng ta cũng sẽ đọc một bài thơ nữa mà thi sĩ viết trước khi qua đời chỉ mấy tiếng đồng hồ. Bài thơ đó được coi như tương đương với một bài kệ của một thiền sư sắp tịch. Có nhiều vị thiền sư khi sắp tịch, bảo đệ tử đưa giấy mực, viết một bài hay ba câu, bốn câu gì đó, viết xong, quăng bút rồi tịch. Lưu Trọng Lư cũng có một bài như vậy. Hôm nay chúng ta cũng sẽ có cơ hội đọc bài thơ đó.

Vào một buổi trưa tháng 7 năm 1991, lúc Lưu Trọng Lư đang nằm trong bệnh viện Việt-Xô ở Hà Nội, các cô y tá chuyền serum và cho thi sĩ hít oxygen. Một cô y tá nói: «Bác ơi bác, khi nào bác khỏe, bác làm cho chúng cháu một bài thơ đi». Trong nhà thương ai cũng biết Lưu Trọng Lư là một thi sĩ nổi tiếng. Khi ấy, đang truyền nước biển và thở bình oxy, Lưu Trọng Lư vung tay ra viết một bài thơ, trong lúc tay còn đầy dây với dợ. Bài thơ chỉ có bảy, tám câu thôi, nhưng rất thật, có thể nói là một bài thơ thật nhất trong cuộc đời thi sĩ. Lúc đó thi sĩ không còn sợ hãi, không còn phải đối phó với ai nữa. Không cần đối phó với kẻ thù, cũng không cần đối phó với hoàn cảnh, không cần đối phó với một tổ chức chính trị nào nữa hết.

Lưu Trọng Lư là người Huế , mẹ của Lưu Trọng Lư có nụ cười đen nhánh tại vì thời đó người dân có « mốt »  nhuộm răng đem. Quan niệm ngày xưa về cái đẹp rất khác bây giờ, ai mà răng trắng người ta nói trông giống hệt con ma, cho nên phải nhuộm răng cho đen. Mẹ và chị Cầm của tôi ngày xưa cũng vậy, cũng nhuộm răng đen. Nhưng về sau phong trào răng trắng xuất hiện, nên chị của tôi phải cạo cho răng trắng lại, cũng lại do cái mốt mới mà ra.

Nhà văn Nguyễn Trọng Thuật là một cây viết của tập san Phật học Đuốc Tuệ ở Hà Nội, xuất bản vào những năm 1930. Nguyễn Trọng Thuật có viết một tiểu thuyết Quả Dưa Đỏ, một cuốn tiểu thuyết dã sử nói về An Tiêm, con của vua Hùng Vương, người đầu tiên phát hiện ra trái dưa đỏ, nghĩa là trái dưa hấu. An Tiêm bị đày ra ngoài đảo cho chết nhưng nhờ khám phá ra trái dưa đỏ thành ra có cơ hội sống và cuối cùng được trở về nước. An Tiêm có làm một bài thơ vịnh Quả Dưa Đỏ, quả dưa có ruột rất đỏ và hạt rất đen, bài thơ như thế này:

Gặp em ngoài cõi biển Đông

Yêu em vì một tấm lòng thắm tươi

Răng đen mỉm miệng em cười

Dẫu trời nóng nực cũng nguôi cơn nồng
Yêu em anh bế anh bồng
Nước non ghi nghĩa tao phùng từ đây

Còn Lưu Trọng Lư thì có một bài nói về nụ cười đen nhánh của mẹ, là bài « Nắng Mới ».

Nắng mới      

Mỗi lần nắng mới hắt bên song,
Xao xác gà trưa gáy não nùng.
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những ngày không.
Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống tôi lên mười.
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,
Áo đỏ người đưa trước dậu phơi.
Hình dáng me tôi chửa xóa mờ,
Hãy còn mường tượng lúc vào ra.
Nét cười đen nhánh sau tay áo,
Trong ánh trưa hè trước dậu thưa.

Thế hệ của tôi đã được ru bằng thơ của Lưu Trọng Lư, cái lãng mạn này thật nhẹ nhàng thôi. Thơ của Lưu Trọng Lư là thơ tình, thơ mộng và thơ sầu, bất cứ người nào sống trong thời đại đó đều được ru bởi những bài thơ của Lưu Trọng Lư, vì trong chúng ta ai cũng có những hạt giống của tình, của mộng, của sầu cả.

Ở chùa không đọc và hát những bài thơ và những bài nhạc có tính cách trữ tình, sầu mộng. Nhưng hôm nay là Tết, nên mình cho phép các sư cô, các sư chú được nghe loại thơ, nhạc này. Tôi có chọn được hai bài điển hình của Lưu Trọng Lư nói về tính sầu, tính mộng.

Sầu Rụng

Vầng trăng từ độ lên ngôi
Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ
Để tóc vướng vần thơ sầu rụng
Mái tóc buồn thơ cũng buồn theo
Năm năm tiếng lụa se đều
Những ngày lạnh rớt, gió vèo trong cây
Nhẹ bàn tay, nhẹ bàn tay
Mùi hương hàng xóm bay đầy mái đông
Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng
Thời gian lặng rót một dòng buồn tênh.

Tiếng Thu

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?

Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?

Các vị đã từng nghe qua các bài thơ này rồi, hôm nay cho phép tưới tẩm hạt giống đó trở lại. Những người trẻ, nhất là các cô, các chú chưa bao giờ được nghe, cũng được phép thưởng thức những bài thơ này, đó là thứ thơ và nhạc lãng mạn ngày xưa tôi đã đi ngang qua. Sau đó tôi sẽ nói chuyện thêm về Lưu Trọng Lư thời còn trẻ, thời tham gia kháng chiến chống Pháp và cuối cùng là thời tham gia cuộc chiến có người Mỹ tham dự

Trong đời sống hàng ngày nếu bận rộn quá, chúng ta sẽ không có cơ hội để nhìn sâu vào sự sống và nhất là sự sống của chính mình. Mình cứ để thời gian đi qua một cách oan uổng, mình lo những chuyện gọi là « thực tế »  vì vậy mình không có cơ hội nhìn sâu để thấy được mình là ai? Mình từ đâu tới và mình sẽ đi về đâu?

Lưu Trọng Lư hồi còn trẻ đã từng mơ mộng, đã từng yêu đương, đã từng sầu khổ. Khi lớn lên đã đi vào thực tế, ông tham gia kháng chiến, trải qua hai cuộc chiến tranh và đến tuổi bảy mươi thì ấn tượng của hai cuộc chiến đó vẫn còn ghi dấu nặng nề trong lòng. Nhưng Lưu Trọng Lư đã có cơ hội nhìn lại cuộc đời mình, đã suy tư và đã có quán chiếu về vấn đề sống chết.

Chúng ta từng thấy có những vị xuất gia lên đến tuổi bảy mươi mà chưa chắc có được cái thấy bằng cái thấy của Lưu Trọng Lư. Nhiều vị xuất gia chỉ lo làm chùa, lo hoạt động, lo hoằng pháp và không có thì giờ để tu tập, quán chiếu. Cái thấy của Lưu Trọng Lư là cái thấy của người xông pha trong tên đạn, tham dự vào cuộc chiến và đi qua bao nhiêu khó khăn, tủi nhục. Lưu Trọng Lư có một người con trai tên là Nông chết ở miền Nam trong khi tham dự vào cuộc chiến chống Pháp.

Anh không ngồi đếm bao thu còn lại
Bao tuần lá đổ vàng rơi
Khi cánh song anh khép kín cõi đời
Anh vẫn không tin mình chết

Đến khi hình hài này tan rã rồi, anh vẫn không tin rằng anh sẽ chết. Như vậy có nghĩa là Lưu Trọng Lư đã thấy được tính bất sinh bất diệt của mình. Thi sĩ không tin rằng mình có thể chết được. Nhưng trong cuộc sống, thi sĩ đã có cơ hội để nhìn lại cuộc đời mình, nhìn kỹ sinh tử và có thể thấy được tính không sinh, không diệt ở chiều sâu. Tôi rất mừng khi thấy Lưu Trọng Lư còn có thể làm được bài này khi thi sĩ ở tuổi 70 và càng mừng hơn nữa khi đọc bài thơ cuối cùng, sáng tác trước khi thi sĩ chết mấy tiếng đồng hồ, chứng tỏ thi sĩ đã có sự giải thoát.

Chúng ta thường nói năm cũ sẽ đi qua để nhường chỗ cho năm mới. Năm cũ sẽ chết để cho năm mới sinh ra nhưng kỳ thực năm cũ không chết, năm cũ được tiếp tục trong năm mới và nếu nhìn vào năm mới cho sâu sắc, ta thấy năm cũ vẫn còn nguyên vẹn trong năm mới. Những gì ta làm trong năm cũ còn y hệt trong năm mới. Như vậy năm cũ không đi đâu hết, năm cũ vẫn còn ở lại với ta. Ngay bốn câu đầu mình đã thấy con người này có bản lãnh.

Anh không ngồi đếm bao thu còn lại
Bao tuần lá đổ vàng rơi
Khi cánh song anh khép kín cõi đời
Anh vẫn không tin mình chết

Khi chia tay không cất lời vĩnh biệt
Buổi giao ban không đứt đoạn đường dây
Trong gian nan ta gọi thép sáng ngời
Giữa đối thoại ngày mai ta sẽ không vắng mặt

Vào giây phút phải chia tay, tôi sẽ không nói vĩnh biệt, tôi chỉ nói: see you again (hẹn gặp lại). Vĩnh biệt có nghĩa là không bao giờ lại gặp lại nhau nữa nhưng đây không phải là vĩnh biệt. Mình sẽ gặp nhau nơi suối nguồn, mình sẽ gặp nhau khắp nơi trên mọi nẻo đường.

Hãy cười cùng tôi, hãy nắm tay tôi,
Hãy vẫy tay chào để rồi tức thời gặp lại.1

Vì vậy, nếu khi chia tay không cất lời vĩnh biệt là bởi không có sự biệt ly. Tôi với anh, tôi với em sẽ mãi mãi ở bên nhau, trong em có tôi và trong tôi có em, không có sự chia ly, xa cách.

Buổi giao ban không đứt đoạn đường dây

Có một thời khắc gọi là giao thời giữa năm mới và năm cũ, nhưng không có sự đứt đoạn, tại vì năm cũ tiếp tục trong năm mới cho nên chữ vĩnh biệt không còn có nghĩa. Giờ phút mình gọi là chuyển tiếp, không phải là giờ phút biệt ly.

Trong gian nan ta gọi thép sáng ngời
Giữa đối thoại vào ngày mai ta sẽ không vắng mặt

Khi lâm vào thế gian nan, một thế cờ cần phải tranh đấu, thì mình cần có một lưỡi gươm, lưỡi gươm của trí tuệ, lưỡi gươm của ý chí. Tôi sẽ có mặt và hình hài mà anh thấy đây tuy sẽ tan rã nhưng tôi sẽ vẫn có mặt trong ngày mai. Cuộc đối thoại vẫn còn tiếp tục giữa con người với con người. Và Lưu Trọng Lư hiện đang có mặt trong giờ phút này với chúng ta.

Bão gió ba mươi đầu cành vẫn trong tiếng hót
Ôi mẹ! Với mây xanh, sao biếc, nắng vàng
Tơ rút ruột, kén thời gian tằm lót ổ
Cho trời, cho đất một tình thương

Ba mươi năm chiến tranh, ba mươi năm bão tố, giờ đây đầu cành vẫn vang lên tiếng con chim nhỏ đang líu lo, bông hoa vẫn chưa ngưng lời hát ca.

Đứng yên ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu2

Bông hoa nhỏ bé mà ta thấy ngoài hàng dậu ấy đang tiếp tục hát bài thiên thu. Con chim nhỏ đậu đầu cành kia dầu có trải qua ba mươi năm bom đạn vẫn còn vang tiếng hót.

Tơ rút ruột, có nghĩa là tôi vẫn còn làm thơ, làm thơ trong bão tố, làm thơ trong chiến tranh, làm thơ trong hy vọng, làm thơ trong tuyệt vọng. Giống như con tằm luôn luôn rút ruột ra để làm sợi tơ óng ánh kết thành tổ kén. Thơ của tôi với sợi tơ vàng óng ánh cùng với mây xanh, sao biếc, nắng vàng là để hiến tặng cho trời cho đất một tình thương. Nhiệm vụ của tôi là chế tác tình thương, hiến tặng tình thương cho cuộc đời. Đây đích thực là một thi sĩ, là một chiến sĩ mà cũng là một đạo sĩ. Nếu cần phải tranh đấu thì ta là người chiến sĩ, nếu cần ca hát thì ta là người nghệ sĩ và nếu cần tình thương thì ta là nhà đạo sĩ chế tạo tình thương. Nhà đạo sĩ là người hiến tặng tình thương, tình thương là cái mà con người đang cần.

Đâu phải anh vào nơi bất diệt
Vì trăm năm sau
Cô bé nào bên cầu ao
Chợt ngâm đùa mấy câu thơ anh, vơ vẩn

Nói như vậy không có nghĩa là tôi sẽ đi vào một nơi gọi là Niết bàn, gọi là bất diệt, tách rời ra ngoài sự sống. Niết bàn, bất sinh bất diệt nằm ngay trong sự sống. Ta Bà là Tịnh Độ, Sinh Tử tức Niết bàn.

Tôi không mơ ước một cõi Niết bàn, một cõi vô sinh bất diệt tách rời ra khỏi sự sống, tại vì tôi biết rằng sự sống có sinh có diệt, nó chứa đựng niết bàn trong nó và không có sự phân biệt giữa niết bàn bất diệt với sự sống có sinh diệt. Tìm niết bàn ngay trong sinh tử.

Trăm năm sau, khi hình hài tôi tan rã, có những cô bé quê ở bên bờ ao sẽ ngâm nga một vài câu:

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức.  (3)

Đó là sự tiếp nối của tôi, cô bé đó là tôi. Thơ tôi và người đọc thơ tôi vẫn còn mãi mãi. Lưu Trọng Lư thấy được sự tiếp nối của mình ngay khi hình hài ông chưa tan rã. Chúng ta là người đã từng nghe pháp thoại nhiều lần về đề tài sinh tử, chúng ta là người đã được hướng dẫn ngồi thiền, nhưng chúng ta có được một cái thấy như Lưu Trọng Lư hay chưa? Hay tại quá bận rộn trong đời sống hàng ngày, chúng ta không có cơ hội để nhìn, để thấy?

Anh biết rồi mắt anh sẽ tan thành bụi phấn
Nhưng em có hay hạt bụi mắt anh
Là con thương của giọt nắng rơi tự trên cành
Và của hạt sương tự đất đen tụ lại?

Cái gì mà không trở thành cát bụi nhưng cát bụi này lại trở thành quí giá. Sau này hình hài anh tan rã, mắt anh trở thành bụi phấn nhưng những hạt bụi phấn ấy cũng là đứa con thương mến của giọt nắng rơi từ trên cành. Tất cả đều tương tức. Những bụi phấn rơi từ con mắt cũng là đứa con thương của những hạt sương từ đất đen tụ lại.

Mắt là tứ đại: đất, nước, lửa và gió. Tai cũng là tứ đại, nhưng trong văn học đạo Bụt mắt đại diện cho sáu căn vì mắt luôn luôn đi trước (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Mắt của anh khi rơi xuống cũng sẽ trở thành bụi vàng và tai khi rơi xuống cũng sẽ thành bụi vàng. Bụi vàng đó cũng là đứa con thương của ánh sáng mặt trời từ trên rơi xuống, cũng là con thương của những hạt sương từ đất nâu kết tụ lại. Mắt của anh sẽ không bao giờ mất.

Hôm nay chúng ta ngồi đây trong giây phút chờ đợi giao thừa và đọc thơ của Lưu Trọng Lư. Đọc với tính cách quán chiếu, đọc ngay trong lòng, trong cơ thể của mình.

Còn say, còn mơ, còn luân hồi mãi mãi
Bụi phấn vẫn bay đi cướp lửa những sao trời
Để sưởi nồng mảnh mảnh trăng rơi
Và chút chút nhen hồng trong mắt người bất hạnh

Luân hồi nghĩa là sự tiếp nối, nghĩa là không có sự đứt đoạn, nghĩa là không có sự chấm dứt. Bụi phấn kia rơi từ mắt anh, đi luân hồi với tính cách của thơ, của mộng, của tình thương, tác hợp với ánh lửa sao trời để sưởi nồng mảnh mảnh trăng rơi và chút chút nhen hồng trong mắt người bất hạnh. Có những con người không may, có những em bé đói, những người già không ai chăm sóc, có những người đang bị giam cầm, có em bé mất cha, mất mẹ. Những người bất hạnh đó cần có tình thương, cho nên bụi vàng trong mắt anh sẽ tiếp tục làm trong công việc đó với thơ, với mộng, với tình thương.

Nếu chút thương còn vương trên mẩu bánh
Chút đau còn vướng áo chưa lành
Bọn côn đồ còn dọa dẫm hành tinh
Bụi mắt anh, cả hồn anh khắp trời bủa lưới

Mẩu bánh đây tức là bát cơm nguội, miếng bánh mì khô mà em bé đói đang mơ ước. Em bé cầm cái bát sứt mẻ trong tay chờ đợi giờ này sang giờ khác mà không có được một muỗng cơm, một miếng bánh nào. Em bé đứng trong trời lạnh căm căm không có một manh áo che thân. Chút đau đó, chút thương đó làm động trái tim mình và thơ trong lòng mình được xúc tác tạo ra trong lòng mình chút yêu thương, chút từ bi.

Bọn côn đồ còn dọa dẫm hành tinh
Bụi mắt anh, cả hồn anh khắp trời bủa lưới

Khi bọn côn đồ còn dọa dẫm hành tinh này thì thơ của anh vẫn tiếp tục làm công việc xúc tác chất tình thương, chất hiểu biết trong con người. Bụi vàng rơi từ mắt anh khi thân xác này tan rã cùng với tâm hồn anh sẽ bủa lưới khắp trời, bủa lưới tình thương để chăm sóc và bảo hộ cho hành tinh này, để lo lắng cho những người bất hạnh.

Sau khi hình hài tôi tan rã thì thơ tôi, tình thương tôi, những hạt bụi rơi xuống từ cơ thể tôi sẽ cộng tác với tất cả tâm hồn tôi để bủa thành tấm lưới để che chở, để ngăn ngừa không có cho tàn ác, bất công và bạo động hoành hành trên hành tinh này.

Xin cảm tạ ngọn sóng lòng vừa tới
Giữa dòng thơ trên tờ giấy trắng tinh

Khi mình có một ít cảm thọ, một ít xúc động, ngọn sóng lòng đưa tới sẽ biểu hiện thành một câu thơ trên tờ giấy trắng.

Và bâng quơ tiếng gió trên cành
Xua chút lạnh bên bờ cây còn sót lại

Có tiếng gió trên cành bâng quơ và tiếng gió đó sẽ giúp cho hình hài tôi tạo thành sức ấm để có thể xua bớt cái lạnh còn sót lại bên bờ cây.

. Có nhạc nào bằng khúc nhạc ấy
Của lời trao tiếng gởi giữa con người

Khi giữa những con người với nhau có sự đối thoại, có sự truyền thông, có nhạc, có thơ, có sự tìm hiểu nhau thì không có khúc nhạc nào hay bằng khúc nhạc của sự đối thoại, của sự truyền thông đó. Con người phải tiếp tục truyền thông với nhau, trao đổi, cười nói và chia sẻ với nhau. Đó là khúc nhạc hay nhất trong tất cả các bản nhạc. Trong nhạc khúc đó, thơ là phương tiện lớn, thơ thiết lập sự truyền thông, thơ lấy đi những hiểu lầm, thơ lấy đi những hận thù, thơ thiết lập sự thương nhau và hiểu nhau.

Có nhạc nào bằng khúc nhạc ấy
Của lời trao tiếng gởi giữa con người
Cũng bấy nhiêu tiếng khóc tiếng cười
Mà vàng ngọc trên thế gian không sánh nổi

Chỉ cần tiếng khóc, tiếng cười, chỉ cần phương tiện truyền thông, mà không có vàng nào, ngọc nào trên thế gian có thể sánh nổi. Không gì quí bằng sự truyền thông giữa con người với con người mà ngày mai phải tiếp tục và tôi sẽ có mặt với các vị.

Ta chẳng bao giờ tiếc nuối
Những giọt nước mắt đổ ra
Vì một ý đẹp, một cành hoa
Hay vì một nỗi đau bên đường đụng phải

Trong thơ ta đã cười, ta đã mơ nhưng ta cũng đã khóc và ta không tiếc rằng ta đã khóc tại vì tiếng khóc đó cũng là một phương tiện để truyền thông.

Có một ý đẹp, ta có thể khóc, khóc vì nó quá đẹp. Đó là những giọt nước mắt của sự cảm động. Có phải mình chỉ khóc khi mình khổ đau? Mình cũng khóc khi thấy đất trời quá đẹp, khi thấy tình người quá đẹp, những giọt nước mắt đó có khả năng trị liệu, làm lành thương tích nơi mình và nơi người.

Thấy một cành hoa đẹp quá mình cũng có thể khóc được. Thầy Giác Thanh, đệ nhất trụ trì của tu viện Lộc Uyển kể rằng có một hôm thầy đi vào trong núi, thầy thấy rất nhiều hoa nở vào mùa Xuân, thầy quỳ xuống, chắp tay lại và khóc. Tại sao khóc? Tại sao phải quỳ xuống? Tại vì thầy thấy được những cái hết sức mầu nhiệm của đất trời.

Vì một ý đẹp, một cành hoa
Hay vì một nỗi đau bên đường đụng phải

Anh hùng gặp chuyện bất bình không thể nào bỏ qua được. Khi trông thấy sự bất bình, những bất công, những thương đau, thì mình sẽ luôn luôn lấy thơ ra để đáp ứng. Thơ của mình là tình thương, thơ của mình là sự hiểu biết.

Có những hoàng hôn kia tan xóa mờ chân sói
Giữa nơi đây ta chong sáng ngọn đèn

Bóng tối không cho chúng ta nhận diện được loài lang sói đang có mặt. Ta giữ ngọn đèn của ta cho thật sáng, đừng để bóng tối tràn ngập, đừng để cho những loài ma quái xâm chiếm cuộc đời ta. Giữ cho ngọn đèn của mình sáng chói để thấy, biết những gì đang xảy ra. Những con chó sói sắp ùa vào, tức là những mê mờ, thù hận bắt đầu biểu hiện trong tâm ta thì lúc ấy ta thắp lên một ngọn đèn chánh niệm đó là công việc rất là cần thiết.

Giữ mãi hồn thương, sắc mơ còn đỏ mãi
Dầu mơ kia chưa trọn nở trước thềm

Bổn phận của chúng ta là luôn nuôi dưỡng hồn thương, nuôi dưỡng bồ đề tâm. Những mơ ước của mình phải được giữ gìn đừng để cho chúng chết. Mơ ước gì? Mơ ước một ngày kia, nhân loại biết thương nhau, biết nắm tay nhau và tha thứ cho nhau. Thà là tôi bị lừa gạt còn hơn tôi bị mất niềm tin nơi con người. Dầu tôi có ngây thơ, tôi có bị lừa gạt, tôi vẫn muốn chấp nhận điều đó hơn là tôi nghi ngờ con người. Thành công của Lưu Trọng Lư là ở chỗ vẫn còn niềm tin nơi con người. Chừng nào bạn hết niềm tin nơi con người thì chừng đó bạn sẽ chết. Mình phải tin rằng trong mỗi con người đều có Phật tính mà Phật tính đó không bao giờ có thể tiêu diệt được. Dầu con người có độc ác, có nham hiểm nhưng mình vẫn tin rằng con người ấy một ngày nào đó sẽ vươn lên.

Tình thương và mộng ước, mộng ước này trong đạo Bụt gọi là đại nguyện. Nếu không có đại nguyện thì không có sức sống, còn nếu không có đại bi thì không có hạnh phúc. Đại bi và đại nguyện là hai cái mình phải nuôi dưỡng trong đời sống hàng ngày.

Giữ mãi hồn thương, sắc mơ còn đỏ mãi.

Đỏ mãi tức là còn cháy mãi như là một ngọn đèn.

Dầu mơ kia chưa trọn nở trước thềm.

Có hạnh phúc nào như hạnh phúc niềm tin

Dầu mơ ước của mình mới thực hiện được một phần, một phần rất nhỏ, nhưng mình vẫn giữ được niềm tin và tình thương đó.

Chừng nào niềm tin không còn là mình sẽ chết. Ngày nào mình còn giữ được niềm tin, ngày đó mình vẫn còn năng lượng để sống: “Đã có đường đi rồi, con không còn sợ nữa”. Niềm tin là năng lượng giúp ta đi tới.

Vẫn như thuở nào tóc để lơi chiếc lược
Cho mắt anh lại được gặp mắt em
Cho hai tia lửa nhỏ hồng thêm

Ngày xưa khi còn trẻ, anh hai mươi tuổi, em mười chín tuổi, chúng ta còn rất ngây thơ, tuy rằng ngây thơ như vậy nhưng chúng ta có niềm tin nơi nhau và muốn làm sao để cho niềm tin đó còn mãi cho dù mình lớn lên, 30 tuổi, 50 tuổi, 70 tuổi hay 90 tuổi.

Gà ban mai mỗi ngày còn đập cánh
Thì ai tắt được lửa bình minh

Gà là con vật thức dậy sớm nhất, những con gà trống buổi sáng nào cũng đập cánh kêu ò ó o o o… Thời kháng chiến, nhất là ở miền quê, làm gì có đồng hồ nên sáng tinh sương mà còn nghe gà gáy thì đó là một tin mừng:

Gà ban mai vẫn còn đập cánh,
Thì ai tắt được lửa bình minh ?

Không ai thể có ai tắt được lửa bình minh.

Khi tim anh còn chan chứa ân tình
Lẽ nào em tin rằng: Anh sẽ chết?

Trái tim của anh còn đầy dẫy ân tình thì làm sao anh có thể chết được. Thành ra cái chết là cái mình có thể vượt thắng. Cái chết không có, chỉ có sự tiếp nối thôi, cho nên tới tuổi bảy mươi, tám mươi mình vẫn giữ được niềm tin và tình thương trọn vẹn. Làm sao nói là mình chết được? Lưu Trọng Lư bằng cách sống của mình đã tìm thấy được chân lý vô sinh bất diệt, thấy rằng không có cái chết và nhờ đó thi sĩ đánh bại cái chết. Đó là đỉnh cao của Lưu Trọng Lư. Lưu Trọng Lư từ “Em không nghe mùa Thu dưới trăng mờ thổn thức” cho tới Lưu Trọng Lư của tuệ giác, của sự vượt thoát sống chết.

Và tiếp theo đây tôi xin đọc bài thơ cuối cùng của nhà thơ Lưu Trọng Lư. Khi cô y tá chưa kịp lấy cây kim ra, sợi dây truyền serum vẫn còn đó nhưng thi sĩ nhất định kêu cô y tá đưa cho ông ta cây bút để thi sĩ viết bài thơ cuối cùng.

Trời đã về chiều.

Chiều này không phải là chiều ở bên ngoài. Đó là chiều ở trong lòng, thi sĩ biết là thân hình mình sắp tan rã.

Buồn tà, vơ vẩn tà.

Tà tức là buổi chiều nghiêng nghiêng, có cái buồn, có cái vơ vẩn và ta đi tìm ai bây giờ? Cố nhiên cuộc sống là một cuộc đi tìm, một cuộc đi tìm không ngưng nghỉ. Chúng ta ai cũng là người đi tìm cả và cuộc tìm kiếm đó không bao giờ chấm dứt. Cho đến giờ phút chót, vẫn thấy rằng mình phải đi tìm nhưng mà tìm ai?

Ta đi tìm ai bây giờ?
Và ai tìm ta nổi?

Rất là lạ, mình cũng đang đi tìm mà mình không biết có tìm được hay không? Có thể có người đang đi tìm mình và không biết người đó có thể tìm được mình hay không? Khi đọc đến đây thì mình thấy được giáo lý về Bất khả đắc. Bất khả đắc là không nắm bắt được.

Có một lần khi thầy A Nậu La Độ đang đi khất thực thì bị một số thầy ngoại đạo chận lại rồi nói: huynh phải trả lời cho chúng tôi vài câu hỏi về giáo lý. Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt rồi thì Ngài còn hay là Ngài không còn? hay là Ngài vừa còn vừa không còn? hay là Ngài vừa không còn cũng không không còn? Huynh phải trả lời cho chúng tôi trong phạm vi bốn mệnh đề đó:

Đó gọi là tứ cú. Huynh không thể nào thoát ra khỏi bốn phạm trù đó được. Huynh phải trả lời là Bụt sau khi chết thì là Bụt nằm vào trong cái box nào của bốn cái box đó, bốn khái niệm đó? Thầy A Nậu La Độ nói: Theo như tôi hiểu thì đức Thế Tôn không bao giờ nói đến sự có mặt của Ngài trong bốn phạm trù như vậy.

Trong khi đi về, thầy A Nậu La Độ nghĩ rằng có thể là mình sẽ tiếp tục gặp những người du sĩ ngoại đạo như thế, và họ sẽ hỏi mình câu đó nhiều lần nữa và mình làm sao để trả lời được cho đúng ý của đức Thế Tôn. Cho nên thầy mới tới thăm Bụt và kể lại câu chuyện mình đã gặp những du sĩ ngoại đạo như thế nào và nhờ đức Thế Tôn cho mình một câu trả lời.

Đức Thế Tôn nhìn thầy A Nậu La Độ cười và nói rằng: Thầy có thể tìm Như Lai trong sắc hay không?

Thầy A Lậu Na Độ: Đâu được, đâu có thể nhận diện đức Như Lai qua sắc được, tại đức Như Lai vượt thắng, vượt qua sắc, không kẹt vào trong sắc.

Đức Thế Tôn: Như vậy có thể nhận thức được Như Lai qua thọ, qua tưởng, qua hành, qua thức được không?

Thầy A Nậu La Độ: Không được, cũng không thể nhận thức được Như Lai qua thọ, tưởng, hành thức.

Rồi đức Thế Tôn nói: Như vậy có thể nhận diện Như Lai ngoài sắc được không?

Thầy A Nậu La Độ: Không được, không thể nhận diện Như Lai ngoài sắc được.

Bụt cười: Như Lai đang ngồi sờ sờ đây mà thầy tìm Như Lai còn không được, huống hồ là sau khi sắc thân Như Lai tan rã !

Như Lai không phải là một đối tượng có thể nắm bắt được bằng cái trí năng của mình.

Ta đi tìm ai?
Ai tìm ta nổi?

Có thể ta có người yêu và người đó đang muốn nắm ta, muốn bắt ta.

Biết ta là ai nhưng ai tìm ta nổi?

Tự thân của Lưu Trọng Lư bao giờ cũng mầu nhiệm như tự thân của đức Như Lai, tự thân một chiếc lá hay một đám mây. Chúng ta không thể nắm bắt được một chiếc lá hay một đám mây bằng trí năng của ta được. Cái đó gọi là vô khả đắc, vô đắc, bất khả đắc.

Làm sao mà Lưu Trọng Lư đạt tới được cái thấy này? Lưu Trọng Lư học được cái này ở chỗ nào? Cố nhiên là Lưu Trọng Lư đã từng đi chùa, có thể là đã được nói chuyện với các thầy. Thi sĩ đã có cơ hội chiêm nghiệm, để mà nhìn sâu vào trong bản chất của sự sống.

Bài thơ này là bài thơ thật nhất trong tất cả các bài thơ tại vì lúc đó thi sĩ đã gần chết rồi. Bài thơ này không phải làm ra để tặng cho các cô y tá. Các cô y tá lúc đó sức mấy mà hiểu được bài thơ này ! Bài thơ này là để cho chúng ta, ngày hôm nay ngồi ở Lộc Uyển,

Ta đi tìm ai bây giờ?
Ai tìm ta nổi?

Mà ai tìm ta nổi và người ta đi tìm ta cũng không nắm bắt được nhưng ước muốn đi tìm vẫn còn đó. Có một thao thức muốn đi tìm, nhưng tìm bằng cái gì? Tìm bằng trí năng của mình hay tìm bằng trái tim của mình?

Ngày xưa đức Thế Tôn nói rằng: Với cái trí năng của mình và bốn mệnh đề: có, không, có và không, không có cũng không không ta không thể nắm bắt được cái gì hết. Ai tìm ra mình được và mình có thể tìm ra được ai?

Ai tìm cho nổi?

Có thể người yêu ta đang đi tìm ta nhưng người yêu ta cũng không tìm ra ta được. Mà cảnh sát công an có muốn tìm ta thì cũng không tìm ra ta được; sức mấy mà cảnh sát công an có thể tìm ra được ta. Họ có thể tìm ra được bóng dáng, có một khái niệm về ta rằng ta là người ngay hay kẻ gian, nhưng không ai có thể tìm ra chân tướng của ta, tìm ra chân như của ta. Với trí năng đó không ai có thể nào tìm ra ta được, tìm Bụt không được mà tìm Lưu Trọng Lư cũng không được, tìm một tờ lá hay một đám mây cũng không được.

Ta đi tìm ai bây giờ?
ai tìm ta nổi?
trăm khóa không giữ lấy ta

Trăm khóa tức là một trăm cái xiềng, một trăm cái xích. Một trăm cái khóa cũng không giữ được ta, dù đó là kẻ thù hoặc dù đó là người thương cũng không thể nào khóa được ta. Ta đã trở thành con người tự do rồi, không cái gì có thể xích ta lại được. Và nếu các ngươi đi tìm ta bằng khái niệm của các ngươi, bằng những nhãn hiệu, những cái mũ chụp lên ta thì không bao giờ tìm  thấy được ta hết. Trăm khóa không giữ nổi ta, tại vì ta đạt tới tự do rồi.

Ta như con chim giữa trời
Vô ích, vô ích, vô ích

Trong bài thơ này có đến sáu chữ vô ích. Chữ vô ích đó mình có thể hiểu theo nhiều cách. Tất cả những cái mình chạy chọt tìm kiếm, những cái mình đang tranh đấu, lùng bắt, theo đuổi đều là vô ích cả. Đây là cơ hội để chúng ta nhìn lại. Chúng ta đã và đang chạy theo cái gì? Chúng ta đã và đang mơ ước cái gì? Chúng ta thấy cái gì quan trọng nhất trong cuộc đời? Tất cả những cái đó thi sĩ Lưu Trọng Lư nói đều là vô ích hết. Đây là những tiếng hét, những tiếng hét rất lớn không kém gì tiếng hét của Thiền tổ Lâm Tế. Đó là lời tuyên án.

Vô ích, vô ích, vô ích.

Tất cả những cái mà các người theo đuổi, tất cả những gì mà ta theo đuổi trong thời trai trẻ, tất cả đều là vô ích. Chúng ta đã để cho những cái đó làm mất cuộc đời của ta. Chữ vô ích được lập lại sáu lần trong một bài thơ ngắn.

Vô ích, vô ích, vô ích

Đó là tiếng của một con chim đã bay trên không và phán xuống cho chúng ta: tất cả những cái gì mà các ngươi đang làm đều là chuyện vô ích. Quí vị nên quán chiếu lại: những cái làm ta thất vọng, khổ đau, rên xiết, làm ta suýt chút nữa là tự tử, những cái đó có thật sự ích lợi cho cuộc đời ta hay không? Hay đó toàn là những chuyện không đáng, toàn những chuyện vô ích?

Tôi rất mừng và tôi rất biết ơn các cô y tá, đã thỏ thẻ như thế nào mà mời được người thi sĩ già, gom hết toàn lực của mình để viết ra bài thơ này. Bài thơ tương đương với một bài kệ của thiền sư trước khi nhập diệt.

Không ai giữ nổi ta hết
Ta đi tìm người ta yêu

Mục đích của sự sống là đi tìm người yêu của mình. Nếu quí vị để thì giờ đi làm chuyện khác là quí vị sai lầm.

Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương4

Đó là việc đáng làm nhất.

Ta đi tìm người ta yêu
Cứu nhân của đời ta

Cứu nhân (Savior, my savior) chính là người yêu của ta đã mở mắt cho ta, đã cho ta cái thấy, đã đưa ta thoát khỏi thân phận tù đày của con người, đã chỉ cho ta thấy được con đường để ta đi tìm người yêu của ta.

Con đã đi tìm Thế Tôn
từ hồi còn ấu thơ
Con đang nghe tiếng gọi của Thế Tôn
từ khi mới bắt đầu biết thở
Con đã ruổi rong vạn nẻo đời hiểm trở
Ta từng đau khắc khoải
với trăm thương ngàn nhớ
trên bước đường hành hương5

Mình phải đi tìm người yêu của mình.

Ta đi tìm người ta yêu
Cứu nhân của đời ta
Muôn lần …
Chỉ có người, người ta yêu

Chữ người ở đây được hiểu là chỉ có con người, chỉ có người ta yêu mới đáng để ta đi tìm thôi.

Ai bắt ta nổi?

Ta đã tự do, không có ai cấm cản chuyện ta đi tìm người yêu ta, dầu đó là một guồng máy, dầu đó là một sự dọa nạt, một sự hứa hẹn, dầu đó là gông cùm. Không khóa nào giữ được ta, không có một lực lượng nào ngăn cản ta trên con đường đi tìm người yêu, người tôi yêu.

Ai bắt ta nổi?
Vô ích, vô ích, vô ích
Ta đi tìm người ta yêu

Thông điệp rất là rõ và thông điệp đó đã được gởi đi cho tất cả những người đã yêu mến thi sĩ.

_____________________________

Lẽ nào anh chết

Anh không ngồi đếm bao thu còn lại
Bao tuần lá đổ vàng rơi
Khi cánh song anh khép kín cõi đời
Anh vẫn không tin: mình chết

Khi chia tay không cất lời vĩnh biệt
Buổi giao ban không đứt đoạn đường dây
Trong gian nan ta gọi thép sáng ngời
Giữa đối thoại ngày mai ta không vắng mặt.

Bão gió ba mươi năm đầu cành vẫn trong tiếng hót
Ôi mẹ ! Với mây xanh, sao biếc, nắng vàng
Tơ rút ruột, kén thời gian tằm lót ổ
Cho trời, cho đất một tình thương.

Đâu phải anh vào nơi bất diệt
Vì trăm năm sau
Cô bé nào bên cầu ao
Chợt ngâm đùa mấy câu thơ anh, vơ vẩn.

Anh biết rồi mắt anh sẽ tan thành bụi phấn
Nhưng em có hay: hạt bụi mắt anh
Là con thương của giọt nắng rơi tự trên cành
Và của hạt sương tự đất đen tụ lại?


Còn say, còn mơ, còn đời luân hồi mãi mãi
Bụi phấn vẫn bay đi cướp lửa những sao trời
Để sưởi nồng mảnh mảnh trăng rơi
Và chút chút nhen hồng trong mắt người bất hạnh.

Nếu chút thương còn vương trên mẩu bánh
Chút đau còn vướng áo chưa lành
Bọn côn đồ còn dọa dẫm hành tinh
Bụi mắt anh, cả hồn anh khắp trời bủa lưới.

Xin cảm tạ ngọn sóng lòng vừa tới
Giữa dòng thơ trên tờ giấy trắng tinh
Và bâng quơ tiếng gió trên cành
Xua chút lạnh trên bờ cây còn sót lại
Có nhạc nào bằng khúc nhạc ấy
Của lời trao tiếng gởi giữa con người
Cũng bấy nhiêu tiếng khóc tiếng cười
Mà vàng ngọc thế gian không sánh nổi

Ta chẳng bao giờ tiếc nuối
Những giọt nước mắt đổ ra
Vì một ý đẹp, một cành hoa
Hay vì một nỗi đau bên đường đụng phải

Có những hoàng hôn toan xóa mờ chân sói
Giữa nơi đây ta chong sáng ngọn đèn
Giữ mãi hồn thương, sắc mơ còn đỏ mãi
Dẫu mơ kia chưa trọn nở trước thềm

Có hạnh phúc nào như hạnh phúc niềm tin
Vẫn như thủa nào tóc để lơi chiếc lược
Cho mắt anh lại được gặp mắt em
Cho hai tia lửa nhỏ hồng thêm.

Khi gà, mai mỗi ngày còn đập cánh
Ai tắt được lửa bình minh?
Khi tim anh còn chan chứa ân tình
Lẽ nào em tin rằng: Anh chết?

Hà Nội – Nha Trang – Phan Thiết
Lưu Trọng Lư (1981 )

 

Bài thơ cuối cùng

Trời đã chiều
Buồn tà, vơ vẩn tà
Ta đi tìm ai?

Bây giờ
Ai tìm ta nổi?
Trăm khóa không giữ nổi ta
Ta như con chim giữa trời

Vô ích! Vô ích! Vô ích!
Không ai giữ nổi ta hết

Ta đi tìm người ta yêu
Cứu nhân của đời ta
Muôn lần…
Chỉ có người, người ta yêu

Ai bắt ta nổi?
Vô ích! Vô ích! Vô ích
Ta đi tìm người ta yêu.

______________________________________

21.01.2004 Lộc Uyển – Hoa Kỳ

  1. thi kệ của Sư Ông Làng Mai
  2. Thơ Quách Thoại
  3. Thơ Lưu Trọng Lư
  4. Ca dao
  5. Thơ của Sư Ông Làng Mai

     

    Bình thơ Tản Đà – Thề Non Nước

    Hôm nay, chúng ta sẽ thưởng thức một thi phẩm của thi sĩ Tản Đà – Bài  thề non nước. Nội dung bài Thề non nước là lời thề giữa núi và nước, là mối tình, là sự cam kết giữa núi và nước. Đồng thời qua câu chuyện giữa núi và nước, tác giả cũng muốn đề cập đến lời thề giữa hai người thương nhau. Hai người đó có thể là hai cha con, hai mẹ con, hai anh em, hai vợ chồng hay hai thầy trò. Người này nguyền với người kia, hứa hẹn với người kia là không bỏ người kia cho dù biển có cạn đá có mòn. Nhưng vì biến cố nào đó, mà cách xa nhau. Do cách xa nên có sự trách móc, giận hờn.

    Chữ thề trong “Thề non nước“ là lời nguyền. Non là núi và nước là sông, là biển. Một điểm rất thú vị ở bút hiệu của tác giả thi phẩm: Tản Đà là từ được ghép từ hai chữ đầu của hai địa danh rất nổi tiếng ở miền Bắc – Núi Tản Viên và sông Đà Giang. Đây cũng chính là quê hương của thi sĩ. Được sinh ra, được lớn lên, được hun đúc bởi khí thiêng của sông núi nơi đây –Núi Tản, sông Đà, đã hình thành trong ông khí phách của người chí sĩ.

    Hai câu đầu của bài thơ là:

    Nước non nặng một lời thề,
    Nước đi, đi mãi, không về cùng non
    .

    Lời thề rất nặng, rất sâu. Mình đem cả trái tim của mình để thệ nguyện, để cam kết. Nhưng mà:

    Nước đi, đi mãi, không về cùng non.

    Tôi rời quê hương năm 1966, và hứa với bạn bè sẽ trở về sau ba tháng. Vậy mà phải ở nơi đây suốt bốn mươi năm. Đọc bài thơ này, tôi thấm lắm. Mặc dù chưa được phép về quê hương, nhưng tôi tìm cách về. Nếu không về quê hương bằng thân xác này, tôi sẽ về bằng con đường tinh thần. Tôi gửi đệ tử xuất gia cũng như đệ tử tại gia từ nhiều nước về. Sách của tôi, đĩa của tôi đã được nhiều người trong nước biết đến. Mặc dù sách, đĩa ấy chưa được phép phát hành công khai trong nước. Đó là một cách về quê hương của tôi. Mình cần nhìn mọi thứ bằng con mắt vô tướng, đừng để kẹt vào hình tướng bên ngoài. Tuy tôi chưa về quê hương bằng thân xác này, nhưng nếu nhìn cho kỹ, tôi đã về rồi.

    Nước non nặng một lời thề.

    Thế mà nước lại cứ đi hoài.

    Nước đi, đi mãi, không về cùng non.

    Trong chúng ta, nếu ai đã từng ở trong trạng huấn ấy, khi đọc bài này sẽ rất thấm.

    Nhớ lời “nguyện nước thề non”,

    Nguyện nước thề non là một thành ngữ gốc Hán việt, thệ hải minh sơn. Mình và cô nàng (mình tạm cho núi là anh chàng và nước là cô nàng) đã thề thốt rất sâu nặng với nhau, vậy mà cô nàng đi, đi hoài không chịu về.

    Nước non nặng một lời thề,
    Nước đi đi mãi, không về cùng non.
    Nhớ lời  “nguyện nước thề non”,
    Nước đi chưa lại, non còn đứng không.

    Non còn đứng không tức là núi đứng chơ vơ một mình. Nước đi chưa lại tức là nước đi chưa về. Khứ và lai, khứ là đi, và lai là trở lại. Núi đứng một mình, và núi nói giọng trách móc.

    Nước đi chưa lại, non còn đứng không.
    Non cao những ngóng cùng trông,

    Mình chưa có hạnh phúc, vì mình luôn có tâm trạng chờ đợi, ngóng trông. Mình nghĩ rằng, khi nào người kia trở về, mình mới được hạnh phúc. Sự chờ đợi, ngóng trông cản trở mình tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống đang có trong giây phút hiện tại. Có thể nói, cuộc đời mình bị đánh cắp bởi những chuỗi dài đợi chờ. Thật uổng phí. Nói đến sự chờ đợi ngóng trông, người ta nghĩ ngay đến tích Vọng phu. Ngày xưa, có đôi vợ chống rất mực yêu thương nhau. Chồng ra trận, thiếu phụ bồng con, vò võ trông chồng mỗi ngày trên bãi biển. Cuối cùng, nàng và con đã hóa đá.

    Non cao những ngóng cùng trông,

    Những ngóng cùng trông tức là suốt ngày chỉ để tâm vào chuyện nhớ thương, đợi chờ, và trách móc. Cuộc sống của những người như vậy sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Trong chúng ta, người nào sống trong tâm trạng chờ đợi, khổ đau, than trách nên đọc bài này, và chiêm nghiệm cho kỹ. Bởi bài thơ này chứa đựng tuệ giác của đạo Bụt.

    Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.

    Tác giả dùng hình ảnh “suối khô dòng lệ” để chỉ sự héo hắt, sự cạn kiệt, vì chờ đợi quá nhiều, khổ đau quá nhiều. Mong chờ mỏi mòn đến nỗi không còn có thể khóc được nữa. Tác giả lại còn cường điệu thêm nữa.

    Xương mai một nắm hao gầy,

    Nhớ thương, chờ đợi đến nỗi trở thành mình hạc, xương mai. Người ta hay nói, buồn như liễu rũ. Bởi cành lá nó mềm, và rũ xuống như người đứng ủ rũ vậy. Buồn thì héo hon, thì gầy mòn đi, gầy như cây mai vậy. Người Việt Nam thường chơi mai vào dịp tết. Người ta chưng nó giữa nhà, hoặc nơi bàn thờ tổ tiên. Cái đẹp của cây mai là ở thế của nó và hoa của nó. Cành mai, thân mai gầy guộc mới đẹp. Người nào mảnh mai, gọi là mình hạc xương mai. Mình hạc, xương mai là hai hình ảnh đẹp. Nhưng hình ảnh xương mai một nắm  hao gầy của núi trong bài thơ này cho thấy núi xơ xác quá, xơ xác vì quá nhớ thương.

    Xương mai một nắm hao gầy,
    Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.

    Thường vào buổi tối, những đỉnh núi cao có mây che phủ. Mình có thể nói, ban ngày, mây lang thang dạo chơi khắp bầu trời, tối về, mây lên đỉnh núi ngủ. Do vậy, khi nhìn mây phủ đỉnh núi, thi sĩ nói : Ôi, tóc bạc rồi, nhớ thương quá tóc bạc rồi. Khi nhớ thương nhiều, lo lắng nhiều, đầu mình bạc rất mau. Ngày có nhau, mình hạnh phúc, tóc mình xanh mướt. Bây giờ xa nhau, tóc mình trở nên bạc. Bạc tóc vì nhớ thương. Mình hạc, xương mai, tóc bạc là để nói tới sự nhớ thương của núi đối với nước.

    Trời Tây ngả bóng tà dương

    Triều dương là ánh sáng buổi ban mai, tà dương là ánh sáng buổi chiều. Khi mặt trời đã ngả bóng về phía Tây, ánh sáng vàng vọt phủ lên núi càng làm cho tình trạng  của núi trông xác xơ hơn.

    Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha.

    Kẻ đợi là núi. Núi có thể là đàn ông, núi có thể là đàn bà. Kẻ đợi có thể là cha, và kẻ ra đi có thể là con; kẻ đợi có thể là mẹ, và kẻ ra đi có thể là con; kẻ đợi có thể là thầy, và người bỏ đi có thể là đệ tử. Tự nhiên, con bỏ thầy ra đi, làm thầy phải thương, phải nhớ, và nếu thầy không thực tập, chắc thầy cũng xương mai một nắm hao gầy như bất cứ ai.

    Trời Tây ngả bóng tà dương,

    Khi trời về chiều, sự sầu muộn, tàn tạ của người ở lại, của người nhớ thương càng tăng. Vì chờ đợi nhiều quá, khổ đau nhiều quá, nét ngọc, nét vàng ngày xưa đã phai mờ, phôi phai. Nhớ thương quá, chờ đợi quá thì đâu còn niềm vui, đâu còn hạnh phúc nữa. Và trời càng về chiều, niềm đau ấy như càng được trông thấy rõ hơn. Thơ như vậy mới đúng là thơ.

    Trời Tây ngả bóng tà dương,
    Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.

    Càng phơi tức là phơi ra rõ hơn, bày ra rõ hơn nét buồn tủi.

    Non cao tuổi vẫn chưa già,

    Tác giả đã dùng nghệ thuật chơi chữ trong câu này. Chữ non có nghĩa là núi, nhưng cũng có nghĩa là trẻ. Mình cũng hay nói, núi thì non, trăng thì già. Tại sao nói vậy? Ca dao Việt Nam có câu:

    Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
    Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non.

    Trăng bao nhiêu tuổi thì bị gọi là già? Núi bao nhiêu tuổi còn được gọi là trẻ?

    Non cao tuổi vẫn chưa già,
    Non thời nhớ nước, nước mà quên non.

    Non thời nhớ nước, mà nước nhởn nhơ, chẳng thèm đoái hoài gì đến non.

    Có khi Thầy xuất hiện giữa đường con đi, nhưng mắt con vẫn nhìn Thầy như nhìn một người xa lạ.

    Lời thề non hẹn biển ngày xưa đã bay theo gió mất rồi.

    Nước non nặng một lời thề,
    Non thời nhớ nước, nước mà quên non.

    Ngày xưa mình nói rằng: con quỳ xuống, con cầu mong Bụt và đại chúng cho con được xuất gia, cho con được ở luôn, suốt đời. Cúi đầu xuống con nhận cái y này, đời đời nguyện mang theo. Thế mà mới tu được mấy năm đã bỏ thầy, bỏ chúng mà ra đi.

    Non thời như nước, nước mà quên non.

    Sự than trách, sự sầu muộn được diễn tả qua mười hai câu thơ. Quá nhiều rồi, không thể nào thêm được nữa. Chữ được dùng rất thường, nhưng trong bài này nó có ý trách móc rất đậm đà, rất hay.

    Giữa hai người yêu nhau, giữa cha con, giữa mẹ con, giữa những người bạn, giữa thầy trò, giữa huynh đệ với nhau có thể mở ra một lời thề, như lời thề của non và nước: dù núi có cạn, sông có mòn, liên hệ của mình vẫn không bao giờ suy chuyển. Trong bài tựa kinh Lăng Nghiêm có câu: Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong, thước ca la tâm vô động chuyển. Thuấn nhã đa tánh tức là: tính chất của hư không có thể tiêu vong được, nhưng tâm Bồ đề của con sẽ không bao giờ lay chuyển; con sẽ tu hành cho tới khi con thành đạt mới thôi, con sẽ không bỏ Bụt, không bỏ Pháp, không bỏ Tăng. Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng có nghĩa là: hư không kia có thể có được sự chấm dứt của biên giới, nhưng nguyện của con là không có biên giới.

    Dù cho sông cạn đá mòn,
    Còn non, còn nước vẫn còn thề xưa.

    Khi nào anh còn đó, em còn kia, lời thề năm xưa giữa đôi ta vẫn còn giá trị, còn hiệu lực. Nhưng tại sao em nỡ vứt bỏ lời nguyền, đạp lên lời nguyền mà ra đi, mà phụ bạc anh?

    Khi nghe những lời tâm sự đau khổ của núi, thi sĩ can thiệp. Tác giả đưa ngón tay lên, và nói:

    Non xanh đã biết hay chưa?

    Thi sĩ gọi tên núi, và nói: núi xanh ơi, hãy lắng nghe ta nói, đừng có ngồi đó mà than phiền nữa.

    Non xanh đã biết hay chưa?
    Nước đi ra biển lại mưa về nguồn.

    Nếu quan sát kỹ, mình có thể thấy được người kia sẽ trở về hoặc đã trở về rồi. Do thất niệm, nên mình nghĩ người kia một đi không trở lại, rồi mình sầu, mình khổ, mình than khóc: nước đi rồi, nước đã bỏ mình, nước sẽ không bao giờ trở lại. Mình bị kẹt vào hình tướng, nên không thấy nước đã trở về dưới hình thức khác, có thể là đám mây hay cơn mưa.

    Nhiều người nói rằng, thầy Nhất Hạnh đi bốn mươi năm chưa về. Nhưng tôi đã về rồi, về trong những người đệ tử, về qua những cuốn sách, băng giảng. Nếu nói rằng, thầy Nhất Hạnh chưa về thì còn kẹt vào con mắt hữu tướng. Vậy nên, cần thực tập tam giải thoát môn: không, vô tướng và vô tác, cần áp dụng được nó vào cái nhìn đối với các vấn đề của cuộc sống.

    Sau chuyến về Việt Nam, một số bạn hữu ở Hoa kỳ hay Úc châu có nói rằng: Tuy  hình hài Thầy không có ở Việt Nam, nhưng con thấy sự có mặt của Thầy ở Việt Nam rất rõ ràng, đi ra Trung cũng thấy Thầy, đi ra Bắc cũng thấy Thầy, đi vô Nam cũng thấy Thầy. Những người bạn ấy có con mắt vô tướng. Họ có thể thấy được những cái ngoài tướng. Trong kinh Kim Cương, có câu: phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, tức là nơi nào có hình tướng, nơi đó có sự lường gạt. Thi sĩ đã nhìn vấn đề của núi với con mắt vô tướng: Núi ơi, núi đừng than khóc! Nước đã trở về rồi, tại sao núi còn than khóc?

    Nếu có người thân qua đời, mình thường nghĩ, họ đã bỏ mình ra đi vĩnh viễn. Con ơi, sao con bỏ mẹ mà đi? Anh ơi, sao anh bỏ em mà đi, đành đoạn bỏ em mà đi một mình? Người ở lại thường trách móc người quá cố giống như cách núi trách móc nước vậy. Người ở lại đập ngực, bứt tóc, khóc lăn ra, vì họ còn kẹt vào hình tướng. Nếu biết nhìn kỹ, mình có thể thấy được những người thân đã quá cố của mình đang ở trong mỗi tế của mình. Mình có thể nói: ba ơi, con biết là ba đang có mặt trong con, và con đang mỉm cười với ba đây này. Nếu biết nhìn với con mắt vô tướng, mình không còn cảm thấy xa cách với những người đã khuất, mình không còn cảm thấy sầu khổ nữa. Do vậy, người nào mới vừa mất người thương, muốn bớt sầu khổ, phải theo lời khai thị này của tác giả, phải nhìn để thấy rằng không có gì đi, không có gì mất, vô khứ, vô lai, và cái mình tưởng đã mất , kỳ thực nó đang còn ở trong mình.

    Non xanh đã biết hay chưa?
    Nước đi ra biển lại mưa về nguồn.
    Nước non hội ngộ còn luôn,
    Bảo cho non chớ có buồn làm chi

    Rất từ bi! Nước non hội ngộ còn luôn nghĩa là sự gặp mặt giữa nước và non xảy ra trong từng giây phút. Mình trách móc người kia phụ bạc mình, nhưng kỳ thực người kia đang ở trong mình. Nếu gọi thầy, con tức khắc thấy thầy ngay. Nếu mình gọi mẹ, mình thấy rõ ràng, mẹ đang có trong mình, đang mỉm cười với mình, và mẹ chưa bao giờ chết. Bản chất của đức Thế Tôn là vô khứ, vô lai, bất sinh bất diệt thì bản chất của mẹ mình cũng vậy. Thấy được điều này, mình sẽ thoát khỏi sầu khổ. Điều này cần được khai thị chúng ta mới thấy được.

    Nước non hội ngộ còn luôn,
    Bảo cho non chớ có buồn làm chi.

    Buồn là kết quả của vô minh. Bởi mình nghĩ, giữa mình và người ra đi có sự xa cách, vĩnh viễn xa cách, nhưng kỳ thực không có gì tới, không có gì đi.

    Nước non hội ngộ còn luôn,
    Bảo cho non chớ có buồn làm chi.

    Câu này chứa đựng tuệ giác của đạo Bụt.

    Nước kia dù hãy còn đi,
    Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.

    Nơi sườn núi có ngàn dâu mọc xanh tốt. Nếu không có nước liệu dâu có mọc tốt tươi được không? Mình tìm nước ở đâu? Nhìn dâu xanh tốt mọc bên sườn núi, mình có thể thấy được nước đang còn ở đây, đang còn ở với mình. Nếu nước không có ở đây, ngàn dâu sao có thể mọc tốt tươi được. Nước vẫn còn đây, sao núi lại trách móc?

    Nước kia dù hãy còn đi,

    Trên phương diện hình thức, nước đang đi, đang còn đi mãi. Nhưng trên phương diện nội dung, nước đã về rồi. Ngày hôm qua, thấy nước chảy đi, mình nghĩ, nước đã ra đi.  Nhưng thực tế, nước có thể đã trở thành mây đang bay trên đầu chúng ta, nước có thể trở thành mưa đang rơi xuống xung quanh chúng ta, nước đang luân lưu trong ngàn cây nội cỏ tốt tươi.

    Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui.

    Chữ ngàn này có nghĩa là rừng, rừng dâu. Ngàn dâu xanh tốt là một đối tượng của sự quán chiếu. Nếu nhìn những tướng không phải tướng nước mà thấy được nước trong đó thì mới thực sự là thấy nước. Ví dụ, nhìn vào phô mai (cheese), mình thấy được sữa thì mới giỏi. Còn mình nói, sữa đâu còn nữa, chỉ có cheese thôi thì chưa giỏi. Cũng như nhìn vào nước đá, mình có thể thấy mây. Nếu không có mây, làm sao có mưa, không có mưa làm sao có nước để làm nước đá. Khi nhìn tuyết rơi, mình thấy tuyết đâu phải nước, đâu phải mây, nhưng kỳ thực tuyết cũng là mây.

    Con mắt của người tu là phải nhìn cái này mà thấy được cái khác thì mới hay. Đó là con mắt tương tức. Ví dụ nhìn anh mình, mình thấy ba, thấy mẹ, và thấy mình trong đó. Đó mới là cái nhìn của tuệ giác. Khi giận anh mình, nếu mình nói: anh đi đi, tôi không có dính líu gì với anh hết , chứng tỏ mình chưa có cái nhìn tương tức. Có một người thanh niên giận cha, anh ta nói: ông đó không phải ba của tôi, tôi không có muốn dính líu gì với ổng hết. Nói như vậy là vô minh, là không thấy được mình là ba mình, mình là sự tiếp nối ba của mình. Mình giận cha, giận mẹ cũng như việc nước đá giận mây vậy. Nước đá giận mây là tự giận chính mình.

    Tác giả có rất nhiều tuệ giác. Tác giả mời mình nhìn vào ngàn dâu xanh tốt, nhìn vào rừng dâu để thấy nước trong đó. Núi ơi, xin núi đừng có than phiền, đừng có sầu khổ nữa. Núi hãy vui lên, đừng có chờ đợi nữa, không có sự xa cách đâu. Ba mình, mẹ mình, người thương luôn luôn có mặt trong giây phút hiện tại.

    Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui

    Và đây là câu kết luận:

    Nghìn năm giao ước kết đôi,
    Non non nước nước không nguôi lời thề.

    Non non nước nước, chỗ nào có non là chỗ đó có nước, chỗ nào có nước là chỗ đó có non, không thể chia tách ra được. Không có gì có thể chia cách thầy trò, cha con, huynh đệ, anh em mình được, khi mình có tình thương đích thực, khi mình có mặt trong nhau. Lời thề đó rất nặng, sự cam kết đó rất sâu xa. Muốn giữ được sự cam kết đó, mình cần phải có tuệ giác. Có tuệ giác, có trí tuệ, mình không sầu khổ, than trách nữa.

    Bài thơ Thề non nước của thi sĩ Tản Đà có tổng cộng hai mươi hai câu, có mười bốn câu than trách, sầu khổ, và tám câu dùng để khai thị. Chỉ với tám câu khai thị, tác giả đã giúp chúng ta biết nhìn mọi vấn đề của cuộc sống bằng con mắt vô tướng, và khuyên chúng ta phải biết sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại.

     

     

    Thề non nước

    Nước non nặng một lời thề,
    Nước đi, đi mãi, không về cùng non.
    Nhớ lời “nguyện nước thề non”,
    Nước đi chưa lại non còn đứng không.
    Non cao những ngóng cùng trông,
    Suối khô giòng lệ chờ mong tháng ngày.
    Xương mai một nắm hao gầy,
    Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
    Trời tây ngả bóng tà dương,
    Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
    Non cao tuổi vẫn chưa già,
    Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
    Dù cho sông cạn đá mòn,
    Còn non, còn nước, vẫn còn thề xưa.

    Non xanh đã biết hay chưa?
    Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
    Nước non hội ngộ còn luôn,
    Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
    Nước kia dù hãy còn đi,
    Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
    Nghìn năm giao ước kết đôi,
    Non non nước nước không nguôi lời thề.

    (Tản Đà)

     


    Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1888 (tức ngày 29 tháng 4 năm Mậu Tý), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây; nay là huyện Ba Vì.

    Thân sinh ông là Nguyễn Danh Kế, đỗ Cử nhân, làm đến Án sát và từng giữ chức Ngự sử trong kinh. Mẹ là Lưu Thị Hiền, cũng có sách ghi là đào Nghiêm, vốn là một đào hát, nổi tiếng tài sắc, giỏi văn thơ.

    Do ảnh hưởng gia đình, năm 14 tuổi, ông đã thạo các lối từ chương thi phú. Năm 1907, ông theo anh ra Hà Nội, học trường Quy Thức ở phố Gia Ngư. Năm 1909, đi thi hương ở Nam Định bị hỏng. Năm 1912, đi thi khoa Nhâm Tý vẫn hỏng, chán nản bỏ về Hòa Bình uống rượu, làm thơ và thưởng trăng.

    Năm 1915, ông lập gia đình. Năm 1916, người anh từ trần, gia đình trở nên cùng túng, Tản Đà quyết định chuyển hẳn sang nghề cầm bút. Thời gian này ông viết tuồng cho các rạp và được đọc thêm nhiều sách dịch Âu Tây bằng chữ Hán, nhờ đó tư tưởng có nhiều biến chuyển.

    Năm 1920, đi du lịch ở Huế, Đà Nẵng, trở về viết truyện “Thề non nước”. Năm 1921, làm chủ bút tờ Hữu Thanh tạp chí. Được 6 tháng, từ chức, trở về quê. Năm 1922, lại ra Hà Nội lập Tản Đà thư điếm, sau tập hợp với Nghiêm hàm ấn quán thành Tản Đà thư cục.

    Năm 1925, phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ, Tản Đà càng nhập thế tích cực hơn. Ông tổ chức một chuyến du lịch vào Nam, gặp gỡ nhiều nhà chí sĩ và viết bài trên nhiều báo.

    Tháng 2 năm 1928, trở về Bắc, rồi lên định cư vùng Yên Lập (Vĩnh Yên), sau xuống Hải Phòng, rồi lại lên Hà Nội. Năm 1933, sau khi An Nam tạp chí bị đình bản, ông chuyển sang trợ bút cho Văn học tạp chí ít lâu rồi về quê ở ẩn.

    Cuối năm 1937, chuyển về làng Hà Trì (Hà Đông), tham gia dịch thuật, viết báo. Sau chuyển ra Hà Nội, mở lớp dạy Quốc văn hàm thụ, Hán văn diễn giảng, kiêm cả xem lý số Hà lạc. Ông sống nghèo, không đủ trả tiền nhà phải cùng gia đình dọn về phố Cầu mới.

    Trong hai năm 1937 và 1938, ông dịch thơ Đường đăng trên báo Ngày nay, trong đó có bài Hoàng Hạc lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu.

    Ông qua đời vì bệnh vào ngày 17 tháng 6 năm 1939.

    Trên văn đàn của văn học Việt Nam trong hơn 3 thập niên đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tạo. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực, đi khắp miền đất nước, ông để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là “gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại”.

    Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường ra thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ Đường hay nhất.

    Tác phẩm gồm nhiều thể loại. Văn: Giấc mộng con I (1917), Giấc mộng con II (1932), Giấc mộng lớn (1932), Thề non nước (1922), Tản Đà văn tập (1932). Thơ: Khối tình con I (1916), Khối tình con II (1916), Tản Đà xuân sắc (1918), Khối tình con III (1932). Kịch: Tây Thi (1922), Tống biệt (1922). Dịch thuật: Liêu Trai chí dị (1934). Nghiên cứu: Vương Thúy Kiều chú giải (1938), Một số bài báo…

    _________________________
    Nắng Mới phiên tả từ pháp thoại của Thầy Làng Mai 12.07.2003

    Bình thơ Nguyễn Bính – Xuân tha hương

     

     

    An trú trong giây phút hiện tại là sự thực tập của Làng Mai. Vì an trú trong giây phút hiện, mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong mình và chung quanh mình. Hiện tại được làm bằng quá khứ và cũng được làm bằng tương lai. Hiện tại không có cái ngã riêng biệt nên hiện tại được làm bằng những yếu tố không phải là hiện tại. Do vậy, quá khứ đóng một vai trò khá quan trọng trong sự góp mặt tạo nên hiện tại. Nếu chúng ta chưa có một quá khứ, chúng ta cần xây dựng quá khứ. Bởi bất kì người nào cũng cần dựa trên một quá khứ, gia đình nào cũng phải dựa trên quá khứ, dân tộc, đất nước nào cũng phải có một quá khứ để mà dựa. Mình có thể xây dựng một quá khứ vững chắc làm chỗ dựa cho chính bản thân bằng cách sống của mình trong hiện tại

    Người ta thường nói xây dựng tương lai chứ không ai nói xây dựng quá khứ, tại vì quá khứ đã đi qua, nhưng kỳ thực quá khứ có thể xây dựng được và quá khứ là cái rất cần thiết để làm chỗ nương tựa cho tương lai. Có những người trong chúng ta có quá khứ rất đẹp, chúng ta có một tuổi thơ hạnh phúc với những kỷ niệm êm đềm cùng gia đình và bè bạn. Đó là những người rất may mắn. Nhờ có quá khứ đẹp mà chúng ta có được niềm vui trong hiện tại và niềm tin trong tương lai. Nhưng cũng có những người trong chúng ta kém may mắn hơn, không có được một quá khứ như vậy. Có thể trong gia đình, mình đã phải chứng kiến cảnh ba mẹ, anh chị em làm khổ nhau. Có khi phải chứng kiến gia đình tan nát, chia rẽ. Bạn bè thì thù oán hoặc chơi xấu với nhau. Những nỗi đau đó chúng ta đã mang trong mình, và những vết thương của quá khứ ấy cứ ám ảnh chúng ta, nó như một bóng ma làm cho ta không có khả năng an trú trong giây phút hiện tại và không cho ta xây dựng tương lai một cách dễ dàng. Trong bài hát của Tịnh Thủy có câu: “Ta vẫn có ngày mai, ta vẫn còn quá khứ, nên hôm nay ta vẫn sống nhẹ nhàng.” Câu đó có nghĩa là ngày mai rất có triển vọng nhưng ngày hôm qua của mình cũng đẹp lắm và mình muốn giữ lấy ngày hôm qua để nuôi dưỡng hôm nay và ngày mai.

    Nếu ta không có một quá khứ đủ đẹp, đủ hạnh phúc thì ta phải biết sử dụng hiện tại để xây dựng cho mình một quá khứ đẹp. Nhưng xây dựng quá khứ như thế nào khi quá khứ đã đi qua? Ngày hôm nay, nếu mình sống với nhau hài hòa, an lạc, hạnh phúc, thì ngày hôm nay sẽ trở thành quá khứ của ngày mai. Do vậy, xây dựng quá khứ có thể làm được, và làm được trong hiện tại..

    Khi gặp khó khăn ở hiện tại, nhiều người thường nghĩ về quá khứ để được an ủi : Ngày xưa, thân của mình được như vậy, cảm thọ của mình được như vậy, tâm hành của mình được như vậy, nhận thức của mình được như vậy. Nhưng than ôi, ngày hôm nay, thân xác của mình lại như vậy, cảm thọ mình lại như vầy… Rồi trách móc, than khóc cho số phận mình. Trong bài hát Les Feuilles d’Automne cũng toàn đề cập đến tiếc nuối về những gì đã qua. Cái gì ngày xưa cũng đẹp, còn ngày hôm nay, cái gì cũng thật chán.

    Có rất nhiều người chỉ sống bám vào quá khứ. Họ không có khả năng sống trong hiện tại. Họ không lo xây dựng tương lai. Họ cũng không lo xây dựng một quá khứ mới mà chỉ khư khư ôm lấy cái quá khứ gọi là vàng son của họ.  Có thể là chúng ta từng có một quá khứ thật hào hùng mà bây giờ nó không còn nữa, nhưng chúng ta không cần phải tiếc nuối quá khứ ấy vì chúng ta có thể xây dựng một quá khứ còn đẹp đẽ hơn cái quá khứ ngày xưa. Nếu có chánh niệm, chánh định, mình có thể tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống, mình có thể có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, và hạnh phúc hiện tiền này chính là quá khứ của ngày mai. Ta thường nói, “ngày ấy bên nhau”. Nhưng “ngày ấy” là ngày nào? Ngày ấy là ngày hôm nay, và nếu ngày hôm nay, mình biết sống bên nhau có hạnh phúc, ngày hôm nay trở thành một quá khứ thật đẹp.

    Hôm nay, mình sẽ thưởng thức những bài thơ với nội dung xoay quanh vấn đề vừa đề cập. Bài Xuân tha hương được Nguyễn Bính viết cách đây 60 năm, khi ông còn đang ở Huế. Ngày xưa, Nguyễn Bính sống với mẹ ở quê nhà, khi mẹ mất, Nguyễn Bính bỏ quê lên tỉnh thành – Hà Nội – tìm kiếm chút danh, chút lợi. Khi đuổi theo những đối tượng của sự ham muốn, không lâu Nguyễn Bính đã nếm đủ mùi đau khổ. Trong những lúc khổ đau ấy, ông nhớ tới quá khứ, và nghĩ rằng chỉ có quá khứ mới đáng để cho mình sống thôi. Trong Xuân tha hương, Nguyễn Bính viết:

    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng
    Ôi, chị một em, em một chị
    Trời làm xa cách mấy con sông

    Lúc này Nguyễn Bính đã cùng với một người bạn rời bỏ Hà Nội, đi vào Nam. Sau nhiều tháng sống lăn lóc, rã rời ở Nam, họ trở về Huế. Khi đó Huế đang là mùa mưa, mưa dầm dề, mưa thối đất thối cát, mưa từ ngày này sang ngày khác.

    Trời mưa ở Huế sao buồn thế!
    Cứ kéo dài ra tới mấy ngày

    Mưa ở Huế không phải chỉ vài ngày, mà mưa suốt cả mười mấy ngày luôn, ai đã từng ở Huế thì biết. Với tâm trạng buồn chán, thất vọng, chẳng biết làm gì, đôi bạn dùng rượu để làm vơi bớt đi nỗi khổ đau.

    Hôm qua còn sót hơn đồng bạc
    Hai đứa bàn nhau uống rượu say

    Nón lá áo tơi ra quán rượu
    Chơ vơ trên bến nước sông đầy
    Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả
    Chén ứa men lành lạnh ngón tay

    Không hiểu vì sao đứa lại
    Chung lưng làm một chuyến đi đầy?

    Đây là những kỉ niệm với Huế, năm 1941, và năm 1942, Nguyễn Bính viết bài xuân tha hương để nhớ lại những kỉ niệm này.

    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng
    Ôi, chị một em, em một chị
    Trời làm xa cách mấy con sông

    Nguyễn Bính đã cùng một người bạn đi từ Bắc vào Nam, rồi từ Nam trở ra Huế. Huế với Hà Nội cách nhau bởi bảy con sông: sông Mã, sông Cả, sông Gianh, sông Đồng Hới, sông Quảng trị, sông Bến Hải rồi tới sông Hương.

    Em đi dang dở đời mưa gió
    Chị ở vuông tròn phận lãnh cung
    Chén rượu tha hương, trời, đắng lắm
    Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông

    Chiều qua ngồi ngắm hoàng hôn xuống
    Nhớ chị làm sao, nhớ lạ lùng…

    Mình thưởng thức đoạn ba.

    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng
    Chao ơi, tết đến em không được
    Trông thấy quê hương thật não nùng
    !

    Ai bảo mắc duyên vào bút mực
    Suốt đời mang lấy số long đong
    !
    Người ta đi kiếm giàu sang cả
    Mình chỉ mơ toàn chuyện viễn vông

    Trong khi mọi người đang lao vào kiếm bằng cấp, đang cố gắng làm giàu còn mình lại từ bỏ tất cả để đi tu đó có phải là đang mơ chuyện viễn vông không? Hãy thử hỏi chính mình, có phải mình cũng giống Nguyễn Bính : toàn mơ chuyện viễn vông, Niết bàn, Tịnh độ xa vời ?

    Người ta đi kiếm giàu sang cả
    Mình chỉ mơ toàn chuyện viễn vông
    Em biết giàu sang đâu đến lượt
    Nợ đời nặng quá gỡ sao xong?

    Chúng ta xuất gia vì một lý tưởng cao đẹp. Chúng ta biết con đường cần đi. Mỗi ngày, chúng ta biết cần làm gì. Mỗi giờ, chúng ta biết cần làm gì. Còn Nguyễn Bính rời quê hương với mục đích kiếm tìm một công danh, một tình yêu nào đó. Và ta biết rõ, công danh và sắc dục chỉ khiến cho người ta thất điên bát đảo mà thôi. Chỉ cần đọc vài câu, là ta biết được tâm hồn của Nguyễn Bính lúc đó như thế nào.

    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng
    Tết này, ô thế mà vui chán
    Những một mình em uống rượu hồng

    Rượu cay nhớ chị hồi con gái
    Thương chị từ khi chị lấy chồng
    Cố nhân chẳng biết làm sao ấy
    Rặt những tin đồn chuyện bướm ong

    Qua những câu thơ trên, ta nhận biết được, những khổ đau, những giận hờn trong chuyện tình yêu của Nguyễn Bính.

    Thôi em chẳng dám đa mang nữa
    Chẳng buộc chân vào sợi chỉ hồng
    Nàng bèo bọt quá, em lăn lóc
    Chắp nối nhau hoài cũng uổng công
    !

    Và với giọng rất là chua chát:

    Một trăm con gái đời nay ấy
    Đừng nói ân tình với thủy chung
    !

    Lúc này Nguyễn Bính không còn có thể tin tưởng được bất kì người con gái nào nữa. Bởi họ đã cho chàng leo cây, khiến chàng chật vật, lên xuống thất thường.

    Người ấy xuân già chê gối lẻ
    Nên người nong nả chuyện sang sông

    Sang sông là đi lấy chồng. Đây là cách dùng hình tượng.

    Đò ngang bến dọc tha hồ đấy
    Quý hóa gì đâu một chữ
    đồng”!

    Đò ngang bến dọc tức là nếu không lấy được người này thì lấy người khác. Có hơi chút mỉa mai, cay cú, xen lẫn với sự giận hờn những người con gái đã đi qua, và để lại những vết thương cho lòng Nguyễn Bình.

    Vâng, em trẻ dại, em đâu dám…
    Thôi, để người ta được kén chồng

    Thiếu nữ hoài xuân mơ cát sĩ
    Chịu làm sao được những đêm đông…
    (Khốn nạn, tưởng yêu là khó chứ
    Không yêu thì thực dễ như không)

    Đây là tâm trạng của Nguyễn Bính khi tình duyên và công danh sự nghiệp thất bại.

    Chị ơi, tết đến em mua rượu
    Em uống cho say đến não nùng
    Uống say cười vỡ ba gian gác
    Ném cái chung tình xuống đáy sông!

    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng
    Sương muối gió may rầu rĩ lắm
    Còn vài hôm nữa hết mùa đông
    Xuân đến cho em thêm một tuổi
    Thế nào em cũng phải thành công

    Dù thất bại ê chề, nhưng vẫn cố bám víu và hy vọng ở tương lai.

    Xuân đến cho em thêm một tuổi
    Thế nào em cũng phải thành công
    Em không khóc nữa, không than nữa
    Đây một bài thơ hận cuối cùng

    Nguyễn Bính nói rằng, đây là bài thơ than khóc cuối cùng, nhưng sau bài thơ này còn có  tới hàng trăm bài thơ than khóc khác nữa.

    Không than chắc hẳn hồn tươi lại
    Không khóc tha hồ đôi mắt trong

    Bài Hoa với Rượu viết vào tháng Chạp, năm Nhâm Ngọ tức 1942, khi Huế đang chuẩn bị đón tết. Bài Hoa Với Rượu cho ta thấy rõ hơn về thói thường của con người khi gặp khó khăn ở hiện tại đó là tìm về quá khứ để được an ủi. Quá khứ của Nguyễn Bính là mối tình con nít hồi còn sáu bảy tuổi. Ngày ấy, Nguyễn Bính sống với mẹ, và gọi mẹ bằng u. Hàng xóm của Nguyễn Bính là hai chị em cô hàng rượu. Cô bán rượu có một người em gái nhỏ xíu chừng sáu bảy tuổi. Nguyễn Bính thường sang chơi với cô bạn nhỏ này.

    Thấy rét u tôi bọc lại mền
    Cô hàng cất rượu ủ thêm men

    Loại rượu cô hàng bán là rượu nếp. Nó giống như rượu Sake của Nhật Bản. Khi trời lạnh, muốn cho nếp thành rượu dễ dàng hơn cần phải bỏ thêm men.

    Mẹ cha mất sớm còn em nhỏ
    Say cả tứ mùa cho khách quen

    Cô gái cất rượu để đem bán vào các phiên chợ. Rượu  của cô làm cho người ta say sưa, và đặc biệt làm cho khách quen say cả bốn mùa : làm cho họ say mùa xuân, say mùa hạ, say mùa thu, say luôn mùa đông.

    Em nhỏ là Nhi, bạn nhỏ tôi
    Suốt ngày hai đứa nhẩn nha chơi

    Cô bé Nhi, cô bạn của Nguyễn Bính, trạc tuổi hoặc nhỏ hơn Nguyễn Bính một chút. Hai đứa thường chơi chung với nhau.

    Chị Nhi bán rượu đôi chiều chợ
    Vẫn nhớ mua quà cho cả đôi

    Mỗi khi đi chợ về, chị của bé Nhi đều mua bánh ú, bánh giò cho cả hai đứa. Lẽ ra thì chỉ mua cho Nhi thôi nhưng có thằng nhỏ hàng xóm hay sang chơi nên chị Nhi mua cho cả hai.

    Hai đứa thường nhân buổi vắng nhà
    Người ta bắt chước chị người ta
    !
    Ra vườn nhặt những hoa cam rụng
    Về bỏ đầy nồi cất nước hoa

    Trong vườn của hai chị em cô hàng xóm có nhiều hoa cam đang nở. Và khi hoa cam rụng, chị Nhi hay nhặt lấy hoa cam rồi bỏ vào nồi nấu làm nước hoa. Con nít thấy người lớn làm vậy thì cũng bắt chước làm theo, chúng cũng nhặt hoa cam để nấu nước hoa. Giọng của con nít rất hay, rất ngộ nghĩnh :  ” Người ta bắt chước chị người ta! ”

    Ra vườn nhặt những hoa cam rụng
    Về bỏ đầy nồi cất nước hoa

    Nước hoa tuy chẳng thơm là mấy
    Hai đứa bôi đầy cả tóc nhau

    Chúng đùa giỡn với nhau rất ngây thơ và dễ thương.

    Hí hửng bảo nhau: Thơm đấy chứ
    Nước hoa ngoài tỉnh thấm vào đâu

    Chất giọng Bắc rất hay: ” Thơm đấy chứ, thấm vào đâu,… ”

    Một tối nhà Nhi có giỗ thầy
    Chị Nhi cho uống rượu cay cay

    Cúng bố xong, chị Nhi cho hai đứa ăn, và còn cho uống rượu nữa.

    Chừng đâu chén nhỏ làm hai đứa
    Mặt đỏ lên rồi chếnh choáng say

    Chị rót cho hai đứa một chén nhỏ xíu, chén nhỏ bằng ngón chân, nhưng tụi nó say chếnh choáng, vì tụi nó đâu có biết uống rượu.

    Hai đứa ôm nhau đánh giấc dài

    Bất đồ ngủ đến sáng ngày mai

    Hai đứa ôm nhau để ngủ, rất là ngây thơ. Đánh giấc một giấc dài tức là ngủ luôn một giấc dài. Đánh ở đây có nghĩa là liên tục không gián đoạn.

    Chị Nhi cứ chế làm sao ấy
    Hai đứa nhìn nhau ngớ ngẩn cười

    Nghe người lớn chế nhạo, hai đứa trẻ không hiểu gì hết, chúng nhìn nhau cười rất ngớ ngẩn.

    Chị Nhi thường nói với u tôi:
    Hai đứa, thưa bà, đến đẹp đôi!”
    U tôi cười đáp ngay như thật:
    Tôi có nàng dâu giúp đỡ rồi!

    Đó là những gì Nguyễn Bính có thể nhớ lại được, là những gì Nguyễn Bính bám vào để sống. Nguyễn Bính cần một chỗ để nương tựa, vì Nguyễn Bính có quá nhiều khổ đau trong chuyện tình duyên.

    Thuở ấy làm sao thật thái bình
    Trai hiền bạn với gái đồng trinh
    Đời say men rượu thơm hoa rụng
    Tràn những thơ ngây ngập cảm tình…

    Rượu và hoa là hai thứ mà Nguyễn Bính nhớ nhất. Giấc mơ trở về quá khứ là để gặp hoa và rượu ở ngày xuân.

    Ấy thế mà rồi cách biệt nhau,
    Nhà Nhi không biết dọn đi đâu?

    Cuộc đời thật vô thường, hai đứa nhỏ thân với nhau như vậy, hạnh phúc như vậy, mà phải bị lìa xa.

    Mình tôi giời bắt làm thi sĩ
    Mẹ mất khi chưa kịp bạc đầu

    Bỏ lại vườn cam, bỏ mái tranh
    Tôi đi dan díu với kinh thành
    Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới
    Chuốc mãi men say rượu ái tình

    Chàng có số làm thi sĩ, nên muốn tới chốn kinh kỳ để kiếm chút công danh sự nghiệp. Hơn nữa mẹ mất rồi, ở quê cũng chẳng làm gì. Và thi sĩ nghĩ rằng, mình sẽ tìm thấy hạnh phúc nơi kinh thành hoa lệ, nơi ấy sẽ có đủ những điều kiện mà một người con trai mới lớn cần tới. Nhưng sau một thời gian ngắn, Nguyễn Bính biết rằng, nó không hề dễ dàng như mình tưởng tượng.

    Rượu ái tình kia thành thuốc độc
    Vườn trần theo bướm phấn hương bay
    Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc
    Hoa hết thơm rồi, rượu hết cay

    Hoa với rượu là hai biểu tượng của hạnh phúc của nguyễn Bính. Nhưng hoa ngày xưa không còn thơm nữa, rượu ngày xưa cũng không còn cay nữa, nhạt nhẽo vô cùng, thất vọng não nề.

    Trăm sầu nghìn tủi mình tôi chịu
    Ba bốn năm rồi năm sáu năm
    Khóc vụng mỗi lần tôi nhớ lại
    Men nồng gạo nếp nước hoa cam

    Những thất bại, những khổ đau được diễn tả bằng câu : ”  trăm sầu nghìn tủi mình tôi chịu ” . Còn ai chịu chung với mình đâu? Nhi bây giờ lớn rồi, có thể đã đi lấy chồng rồi, đâu biết mình đang trải qua cơn khổ đau oằn oại như vậy. Mẹ cũng mất rồi. Và vì vậy cảm giác cô độc, lẻ loi càng lớn hơn. Những nỗi khổ đau của mình chỉ mình biết, chỉ mình mình chịu thôi.

    Nguyễn Bính dùng chữ rất hay, rất đơn giản, trăm sầu nghìn tủi mình tôi chịu, ba bốn năm rồi năm sáu năm. Nói thơ như mình nói chuyện bình thường vậy.

    Khóc vụng mỗi lần tôi nhớ lại
    Men nồng gạo nếp nước hoa cam

    Khi nhớ lại thời thơ ấu thanh bình hạnh phúc, thì tiếc nuối, đôi khi khóc thầm, khóc vụng. Cũng may mà Nguyễn Bính có một quá khứ của thời thơ ấu để nhớ về, nếu không có quá khứ ấy, chắc sống không nổi.

     

    Xa lắm rồi Nhi! Muộn lắm rồi
    Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi
    !
    Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ
    Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi

    Đó là hình ảnh đẹp duy nhất của quá khứ. Nhưng nếu muốn trở về để tìm lại người cũ, thì cơ hội được gặp lại rất mong manh, chắc gì đã gặp được. Lâu quá rồi còn gì, trong thời gian ấy biết bao nhiêu biến cố đã xảy ra, không biết bây giờ người ấy ra sao rồi.  Nên đã nói, muộn lắm rồi, xa lắm rồi. Mình đã bỏ lại miền quê của mình, lỡ bỏ thiên đường của mình để đi tìm danh vọng, đi tìm tình duyên ở kinh đô ánh sáng, và làm hình ảnh hạnh phúc của ngày xưa tan biến.

    Xa lắm rồi Nhi! Muộn lắm rồi
    Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi
    !
    Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ
    Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi

    Thi sĩ đang tưởng tượng, nghề của các chàng là tưởng tượng, các chàng không thể sống trong hiện thực mầu nhiệm. Thi sĩ và nhạc sĩ là như vậy. Cũng như Văn Cao, tác giả bài Bến Xuân, tưởng tượng rằng, nhà tôi bên chiếc cầu ven suối, em đến tôi một chiều… Nhưng anh nào có một chiếc nhà bên suối, để cô nàng tìm tới suối với anh. Nguyễn Bính tưởng tượng :

    Chắc ở nơi nào dưới mái tranh
    Chị em Nhi vẫn sống yên lành
    Chị Nhi cất rượu cho Nhi bán

    Hồn vẫn trong và mộng vẫn xinh

     

    Nguyễn Bính tưởng tượng Nhi lớn rồi, có thể bán rượu được rồi, nhưng nàng vẫn còn trong sáng và ngây thơ như ngày xưa. Điều này liệu có xảy ra được không ? Hồn của em còn trong không? Mộng của em còn xinh không? Còn hồn tôi đã tan vỡ, đã xấu xí, đục ngầu. Tôi đã đi lên tỉnh thành, tôi đã lăn lóc, và đã thất bại, đã mệt nhoài, tôi đã như muốn chết. Do vậy, tôi vẫn mong rằng em đừng bị như tôi. Tôi muốn em cứ đẹp hoài như ngày xưa, nếu cả tôi và em đều bị cuộc đời làm vẩn đục thì chẳng còn gì để cho tôi bám víu mà sống nữa, lúc ấy chắc chỉ có chết mà thôi. Tôi ước rằng, em còn giữ gìn trong khung cảnh lành lặn của thôn quê, không bị những bụi bặm, những chất độc của kinh thành quyến rũ, làm hư hỏng. Tôi hy vọng rằng, hồn em vẫn trong và mộng của em vẫn xinh.

    Ngày xưa còn bé Nhi còn đẹp
    Huống nữa giờ Nhi đã đến thì
    Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ
    Cho người thiên hạ phải say mê

    Cô bán rượu rất đẹp và còn rất trẻ. Mỗi khi có chợ phiên, đem rượu ra bán, ai trông thấy cô hàng xinh đẹp, tươi mát cũng tới mua rượu. Đây là những câu hỏi tới tấp với cô hàng xinh đẹp:

    Xóm chị em Nhi ở mấy nhà?
    Bến đò đông vắng? Chợ gần xa?

    Xóm em ở có mấy nhà? Xóm em gần bến đò không? Cách bến đò, cách chợ bao xa?

    Nhà Nhi thuê có vườn không nhỉ?
    Vườn có trồng cam, có nở hoa?

    Nguyễn Bính mơ ước, người xưa vẫn còn sống ở trong một khung cảnh yên bình: Có xóm nhà tranh, có chợ phiên, có bến đò gần đó, và vườn nhà của người xưa vẫn còn có hoa cam mỗi độ xuân về.

    Mơ tưởng vu vơ lòng dối lòng

    Nguyễn Bính mơ mộng, và biết rằng mình mơ mộng.

    Thở vào tôi biết rằng tôi đang mơ mộng
    Thở ra tôi biết là tôi không có thực tế

    Không hẳn thi sĩ không thấy, nhưng sự thật có thể rất phũ phàng.

    Mơ tưởng vu vơ lòng dối lòng
    Thực ra có phải thế này không?
    Chị Nhi đã lấy chồng năm trước
    Nhi đến năm sau lại lấy chồng

    Hết rồi còn gì nữa mà mong. Biết vậy nhưng vẫn tiếp tục mơ tưởng như thường, vì nếu không mơ tưởng thì chết. Những câu tiếp theo, tác giả vẫn tiếp tục mơ mộng.

    Ước gì trên bước đường lưu lạc
    Một buổi chiều nào gặp gió mưa
    Gõ cửa nhà ai xin ngủ trọ
    Giật mình tôi thấy tiếng Nhi thưa

    Tưởng tượng rằng, mình đơn độc đi trong mưa gió lạnh lẽo, ở miền quê xa lắc xa lơ. Tối rồi mà vẫn chưa có chỗ ngủ trọ. Đánh liều tới ngôi nhà nào đó, rồi gõ cửa. Tác giả giật mình khi nghe tiếng người xưa đáp: Ai đó? Ai đó? Tác giả sung sướng quá.

    Ngồi bên lò rượu đêm hôm đó
    Nhi rót đưa tôi nước rượu đầu

    Nước rượu đầu ngon hơn nước rượu thứ hai, thứ ba. Nguyễn Bính được người xưa cho uống nước rượu đầu sau bao năm xa cách.

    Nhắc chuyện ngày xưa mà thẹn lại

    Nhắc lại chuyện xưa, hai đứa cảm thấy thẹn. Chuyện ngày xưa, hai đứa được chị cho một chung rượu rất nhỏ, hai đứa châu đầu uống chung với nhau.

    Nhắc chuyện ngày xưa mà thẹn lại
    E dè hai đứa uống chung nhau

    Họ nhắc lại chuyện cũ, rồi hai người bắt chước chuyện ngày xưa, rót một chén thôi, rồi uống chung với nhau.

    Tôi kể: U tôi đã mất rồi,
    Cửa nhà còn có một mình tôi …

    Mẹ mất, Nguyễn Bính không ở quê, bỏ lên tỉnh. Sống ở tỉnh mười mấy năm, bị gió bụi thị thành làm tan nát cả tâm hồn và thể xác. Nhưng Nguyễn Bính nói dối rằng, mẹ mất, mình vẫn một mình nơi quê nhà. Nói dối để được cô nàng thương xót.

    Ngậm ngùi Nhi bảo: Không anh ạ
    Anh chẳng lo gì thiếu lứa đôi…

    Nhi nói với tác giả thế này.

    Chị em mới lấy chồng năm trước
    Chồng chị trồng cam ở mé sông
    Em ở mình đây nhà trống trải
    Trăng vàng đầy ngõ gió mênh mông …

    Em ở đây có mỗi một mình, buồn lắm, nếu anh ở lại được thì rất quý. Chị em vừa lấy chồng, bây giờ nhà chỉ còn mình em chăm sóc. Nhà rộng quá, mỗi khi gió lùa vào rất lạnh: trăng đầy ngõ, gió mênh mông,… Tất cả những điều kiện đều rất thuận lợi để mình và người xưa thành đôi.

    Như truyện Tương Như và Trác Thị
    Đưa nhau trở lại đất Lâm Cùng
    Vườn xuân trăng sáng hoa cam rụng
    Tôi với em Nhi kết vợ chồng

    Ngày xưa, có Trác Văn Quân, một người có nhan sắc, rất giỏi văn chương, thơ phú, lại thích nghe đàn. Nàng còn trẻ, nhưng sớm góa chồng nên về sống với cha ở đất Lâm Cùng. Một hôm, có chàng nhạc sĩ tên Tư Mã Tương Như qua thăm, và đã gảy lên khúc đàn Tư Mã Phượng Cầu (Phượng Cầu Hoàng). Trác Văn Quân nghe được tiếng đàn thì không thể cưỡng lại được sự say mê, nên lén bỏ nhà đi theo Tư Mã Tương Như lên tận thành đô, tỉnh Tứ Xuyên. Sau một thời gian, hai người trở về đất Lâm Cùng, và mở ra một một quán ăn.

    Rượu cất kỳ ngon men ủ khéo
    Say người thiên hạ lại say nhau

    Rượu của Nhi bán làm say thiên hạ, và làm say cả hai đứa –Nguyễn Bính và Nhi.

    Chiều chiều hai đứa sang thăm chị
    Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu

    Thi sĩ đã tự họa cho mình bức tranh rất đẹp. Dù biết rằng, đó không thật nhưng vẫn phải mơ ước, vì ngoài mơ ước ra đâu còn gì để bám vào mà sống. Nhiều nghệ sĩ đã sáng tác, đã trình diễn, vì họ muốn cống hiến cho mình những ước mơ. Mình cần những ước mơ đó, vì mình có quá nhiều khổ đau, khó khăn, tuyệt vọng.

    Nhưng những bài thơ, những bản nhạc, những cuốn sách, những tác phẩm nghệ thuật đó chỉ có thể giúp mình quên đi trong chốc lát những tình trạng khó khăn, khổ đau trong cuộc sống hiện thực này. Những thi phẩm của Nguyễn Bính cũng không ngoài tác dụng “giảm đau tạm thời” ấy. Rõ ràng, những điều này đi ngược lại với sự thực tập theo tinh thần của đạo Bụt. Sự thực tập của đạo Bụt là lìa bỏ những giấc mơ để đi vào thực tế. Nếu có niệm và định, chúng ta có thể tiếp xúc được mầu nhiệm của sự sống, và thấy rằng, những điều ta cần tìm không cần tìm ở quá khứ hay tương lai xa xôi, nó nằm ngay trong hiện tại.

    Nếu mình tu học nghiêm chỉnh, có sự tu chứng, có kinh nghiệm, có sự hiểu biết về giáo pháp, về sự hành trì thì khi đọc những bài thơ như thế này, mình thấy rất rõ con đường mình đi. Dầu cho mình đọc thơ tình hay chuyện chưởng của Kim Dung cũng vậy, mình không bị những cái đó kéo đi. Cho nên trong đạo Bụt có nói bất cứ cái gì cũng có thể trở thành Phật pháp, có khả năng tưới tẩm hạt giống chánh pháp nơi mình, củng cố ý chí tu học của mình. Thấy rõ tâm người để so với tâm mình; biết con đường người ta đi để thấy rõ con đường của mình đi. Mình đang đi  trên con đường rất đẹp, rất sáng, và rất lành.

    Nếu chưa có một quá khứ đẹp ta có thể xây dựng cho mình một quá khứ đẹp. Khi xây dựng quá khứ đồng thời mình cũng đang xây dựng tương lai. Nếu mình biết chăm sóc hiện tại, sống một đời sống thiện lành thì chắc chắn mình sẽ có một tương lai tươi sáng, vững chãi. Vì tương lai được làm bằng chất liệu của hiện tại, điều này không ai có thể phủ nhận được. Và ngày hôm nay sống có hạnh phúc thì ngày hôm nay trở thành quá khứ đẹp của ngày mai. Do vậy, chăm sóc hiện tại tức là đang xây dựng cho mình một tương lai, đồng thời cũng là đang xây dựng cho người mình một qúa khứ. Mình có đủ phương pháp để làm việc đó: khi đi, đứng, nằm ngồi mà biết trở về với giây phút hiện tại tiếp xúc được với những màu nhiệm của cuộc sống, tạo được niềm tin, tình thương, xây dựng tình bằng hữu thì đó là đang chăm sóc hiện tại để làm chỗ nương tựa cho qúa khứ và tương lai. Đó là ý nghĩa của câu hát:  Ta vẫn có ngày mai, ta vẫn còn quá khứ.

    Khi đau khổ, nhiều người không có một quá khứ để tìm về. Nên họ tìm một nơi nương tựa ở tương lai, bám vào những hứa hẹn nào đó để có thể vượt qua những khó khăn trong hiện tại. Hiện tại với họ vốn là những chuỗi ngày đau khổ, khó khăn, nặng nhọc. Chúng ta có thể tin vào một Thiên đường nào đó, một Tịnh độ nào đó ở trong tương lai để chúng ta có khả năng chịu đựng được hiện tại. Ta ráng chịu đựng để ngày mai ta sẽ được rời bỏ cái cõi đau khổ, bạo động, uế trược này và ta sẽ bước vào cõi thanh tịnh an vui, gọi là Thiên đường hay là Cực lạc. Theo Làng Mai, mơ ước này có thể là một ảo tưởng, vì ta biết rõ,  ngày mai chỉ có thể được làm bằng chất liệu của hiện tại. Hiện tại như thế nào thì tương lai sẽ như thế đó. Vậy nên muốn có một tương lai tươi sáng thì mình phải chăm sóc hiện tại. Hiện tại có bình an, có vững chãi, có tình nghĩa, có nụ cười, có hạnh phúc, chắc chắn tương lai sẽ có vững chãi, sẽ có tình thương, và sẽ có niềm vui. Nhìn vào hiện tại, đánh giá hiện tại, ta có thể biết, mình có tương lai hay không. Do vậy, ta phải biết quản lý hiện tại thật thông minh, để có thể xây dựng cho mình một quá khứ, và cũng xây dựng cho mình một tương lai. Ngoài ra không còn có con đường nào khác.

    Rượu cất kỳ ngon men ủ khéo,
    Say người thiên hạ lại say nhau
    Chiều chiều hai đứa sang thăm chị
    Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu

    Thi sĩ là nhà ảo thuật. Họ đã tạo ra một khung cảnh lý tưởng, một khung cảnh hạnh phúc mà mình chưa tự tìm được trong giây phút hiện tại. Rồi họ đem bán cho mình. Mình tiêu thụ nó, vì muốn quên đi trong chốc lát những đau khổ da diết của hiện tại. Những nghệ sĩ biết rất rõ điểm yếu này. Đây là điểm yếu của nhiều người, và có thể cũng là điểm yếu của chính họ. Họ ru ngủ mình, và ru ngủ chính họ bằng những tác phẩm nghệ thuật.

    Say người thiên hạ lại say nhau

    Đa số trong chúng ta chỉ có khả năng dệt mộng hoặc trở về bám vào quá khứ. Tưởng tượng ra một tương lai, trong đó mình có hạnh phúc chính là dệt mộng. Bám vào quá khứ để sống cũng là dệt mộng.

    Chao ôi! Là mộng hay là thực?

    Tác giả biết rõ, đó là mộng nhưng phải tiếp tục dệt, vì không dệt thì không sống nổi. Mình dệt mộng để giúp chính mình đỡ khổ, và cũng có thể giúp người khác quên đi một vài giây phút khổ đau thống thiết của họ.

    Chao ôi! Là mộng hay là thực?
    Là thực hay là mộng bấy lâu?
    Hai đứa sống bằng hoa với rượu
    Sống vào trời đất, sống vào nhau

    Trong giây phút hiện tại, mình có thể sống được với những mầu nhiệm của vũ trụ hay không? Mình có thể sống với nhau một cách an lành, người này dựa vào người khác hay không? Mình có thể tạo được tình huynh đệ hay không?  Đó là vấn đề. Và tác giả đã kết thúc bài thơ một cách rất tội nghiệp.

    Nhưng mộng mà thôi, mộng mất thôi
    Hoa thừa rượu ế, đấy tình tôi

    Sự thật hoa đã thừa và rượu đã ế. Hoa đã tàn, rượu đã chua. Đó là tình trạng của tôi. Tôi biết rõ tình trạng của chính mình. Tôi không muốn gặp lại người xưa, vì gặp, tôi sẽ thất vọng, mộng tôi sẽ tan, và tôi không còn chỗ nào để bám víu.

    Chiều nay tôi chắp tay tôi lạy
    Đừng gặp người xưa nữa, lạy trời

    Thực tế quá phũ phàng. Đó là tình trạng của chúng ta, của rất nhiều người trong chúng ta. Nhưng nhiều người lại nói rằng, các vị đi tu là các vị mơ mộng, các vị sống với ảo tưởng Tịnh độ hay Niết bàn, các vị bỏ lạc thú trong hiện tại để tìm cái lạc thú phi thời.

    Trong kinh Tuổi trẻ và Hạnh phúc, có vị khất sĩ trẻ tên là Samiddhi gặp cô Thiên nữ, cô nói như thế này: ” Tại sao còn rất trẻ mà thầy lại bỏ đi tu? Cuộc đời có những vui thú, có những mục đích thiết thực sao thầy không chịu hưởng thụ, mà lại đi mơ tưởng những cái xa xôi như niết bàn, tịnh độ,  với giải thoát?

    Trong đời sống hàng ngày, cũng có những cô Thiên nữ tới nói với mình như vậy, nhưng mình đã biết cách trả lời, mình trả lời giống như thầy Samiddhi vậy: Thiên nữ ơi, tôi đang sống rất thực tế đấy chứ. Tôi biết rõ, chạy theo năm đối tượng của dục vọng sẽ làm người ta tan nát cả thân thể lẫn tâm hồn. Do vậy, tôi đã khước từ nó. Tôi không trốn chạy, chính tôi đang thực tập để có thể có những giây phút đích thực của hiện tại, không mơ tưởng về những điều trong tương lai.

    Pháp hiện pháp lạc trú của đức Thế Tôn dạy: Biết sống sâu sắc trong giây phút hiện tại để tiếp xúc với tất cả mầu nhiệm của cuộc sống. Khi có người hỏi như cô thiên nữ nọ, thì mình trả lời: Chúng tôi không mơ tưởng niết bàn, chúng tôi không mơ tưởng tịnh độ trong tương lai. Sự thực tập pháp hiện pháp lạc trú giúp chúng tôi sống trong cõi cực lạc ngay trong giây phút hiện tại.

    Sự thực tập của chúng ta là thiết lập được Tịnh Độ trong giây phút hiện tại. Khi thực tập, chúng tôi xây dựng tình huynh đệ, xây dựng hạnh phúc, xây dựng tình thương và xây dựng sự hiểu biết. Chúng tôi có một con đường, nếu các bạn muốn thì chúng tôi chia sẻ sự thực tập của chúng tôi để các bạn cũng có khả năng tiếp xúc với những mầu nhiệm của đời sống hiện tại, để các bạn xây dựng cho các bạn một quá khứ, và để các bạn xây dựng cho các bạn một tương lai.

    Hoa với rượu

    Thấy rét u tôi bọc lại mền
    Cô hàng cất rượu ủ thêm men
    Mẹ cha mất sớm còn em nhỏ
    Say cả tứ mùa cho khách quen

    Em nhỏ là Nhi, bạn nhỏ tôi
    Suốt ngày hai đứa nhẩn nha chơi
    Chị Nhi bán rượu đôi chiều chợ
    Vẫn nhớ mua quà cho cả đôi

    Hai đứa thường nhân buổi vắng nhà
    Người ta bắt chước chị người ta
    !
    Ra vườn nhặt những hoa cam rụng
    Về bỏ đầy nồi cất nước hoa

    Nước hoa tuy chẳng thơm là mấy
    Hai đứa bôi đầy cả tóc nhau
    Hí hửng bảo nhau:
    Thơm đấy chứ
    Nước hoa ngoài tỉnh thấm vào đâu

    Một tối nhà Nhi có giỗ thầy
    Chị Nhi cho uống rượu cay cay
    Chừng đâu chén nhỏ làm hai đứa
    Mặt đỏ lên rồi chếnh choáng say

    Hai đứa ôm nhau đánh giấc dài
    Bất đồ ngủ đến sáng ngày mai
    Chị Nhi cứ chế làm sao ấy.
    Hai đứa nhìn nhau ngớ ngẩn cười

    Chị Nhi thường bảo với u tôi:
    Hai đứa, thưa bà, đến đẹp đôi!”
    U tôi cười đáp ngay như thật:
    Tôi có nàng dâu giúp đỡ rồi!”

    Thuở ấy làm sao thật thái bình
    Trai hiền bạn với gái đồng trinh
    Đời say men rượu thơm hoa rụng
    Tràn những thơ ngây ngập cảm tình…

    Ấy thế mà rồi cách biệt nhau
    Nhà Nhi không biết dọn đi đâu
    Mình tôi giời bắt làm thi sĩ
    Mẹ mất khi chưa kịp bạc đầu

    Bỏ lại vườn cam, bỏ mái tranh
    Tôi đi dan díu với kinh thành
    Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới
    Chuốc mãi men cay rượu ái tình

    Rượu ái tình kia thành thuốc độc
    Vườn trần theo bướm phấn hương bay
    Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc
    Hoa hết thơm rồi, rượu hết cay

    Trăm sầu nghìn tủi mình tôi chịu
    Ba bốn năm rồi năm sáu năm
    Khóc vụng mỗi lần tôi nhớ lại
    Men nồng gạo nếp nước hoa cam

    Xa lắm rồi Nhi! Muộn lắm rồi
    Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi
    !
    Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ
    Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi

    Chắc ở nơi nào dưới mái tranh
    Chị em Nhi vẫn sống yên lành
    Chị Nhi cất rượu cho Nhi bán
    Hồn vẫn trong và mộng vẫn xinh

    Ngày xưa còn bé Nhi còn đẹp
    Huống nữa giờ Nhi đã đến thì
    Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ
    Cho người thiên hạ phải say mê

    Xóm chị em Nhi ở mấy nhà?
    Bến đò đông vắng? Chợ gần xa?
    Nhà Nhi thuê có vườn không nhỉ?
    Vườn có trồng cam có nở hoa?

    Mơ tưởng vu vơ lòng dối lòng
    Thực ra có phải thế này không?
    Chị Nhi đã lấy chồng năm trước
    Nhi đến năm sau lại lấy chồng

    Ước gì trên bước đường lưu lạc
    Một buổi chiều nào gặp gió mưa
    Gõ cửa nhà ai xin ngủ trọ
    Giật mình tôi thấy tiếng Nhi thưa

    Ngồi trên lò rượu đêm hôm đó
    Nhi rót đưa tôi nước rượu đầu
    Nhắc chuyện ngày xưa mà thẹn lại
    E dè hai đứa uống chung nhau

    Tôi kể: U tôi đã mất rồi,
    Cửa nhà còn có một mình tôi …

    Ngậm ngùi Nhi bảo: Không anh ạ
    Anh chẳng lo gì thiếu lứa đôi…

    Chị em mới lấy chồng năm trước,
    Chồng chị trồng cam ở mé sông.
    Em ở mình đây nhà trống trải,
    Trăng vàng đầy ngõ gió mênh mông …

    Như truyện Tương Như và Trác Thị
    Đưa nhau trở lại đất Lâm Cùng
    Vườn xuân trăng sáng hoa cam rụng
    Tôi với em Nhi kết vợ chồng

    Rượu cất kỳ ngon men ủ khéo
    Say người thiên hạ lại say nhau
    Chiều chiều hai đứa sang thăm chị
    Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu

    Chao ôi! Là mộng hay là thực?
    Là thực hay là mộng bấy lâu?
    Hai đứa sống bằng hoa với rượu
    Sống vào trời đất, sống vào nhau

    Nhưng mộng mà thôi, mộng mất thôi
    Hoa thừa rượu ế, đấy tình tôi
    Chiều nay tôi chắp tay tôi lạy
    Đừng gặp người xưa nữa, lạy trời.

    Nguyễn Bính ( 1941 )

     

    Xuân tha hương

    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng
    Ôi, chị một em, em một chị
    Trời làm xa cách mấy con sông
    Em đi trăng gió đời sương gió
    Chị ở vuông tròn phận lãnh cung
    Chén rượu tha hương, trời: đắng lắm
    Trăm hờn nghìn giận một mùa đông

    Chiều nay ngồi ngắm hoàng hôn xuống
    Nhớ chị làm sao, nhớ lạ lùng…
    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng

    Vườn ai thấp thoáng hoa đào nở
    Chị vẫn môi son vẫn má hồng?
    Áo rét ai đen mà ngóng đợi
    Còn vài hôm nữa hết mùa đông
    !

    Cột nhà hàng xóm lên câu đối
    Em đọc tương tư giữa giấy hồng
    Gạo nếp nơi đây sao trắng quá
    Mỗi ngày phiên chợ lại thêm đông

    Thiên hạ đua nhau mà sắm Tết
    Một mình em vẫn cứ tay không
    Vườn nhà Tết đến hoa còn nở
    Chị gửi cho em một cánh hồng

    Tha hương chẳng gặp người tri kỷ
    Một cánh hoa tươi đủ ấm lòng
    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng…

    Chao ơi, Tết đến em không được
    Trông thấy quê hương thật não nùng
    Ai bảo mắc duyên vào bút mực
    Sòng đời mang lấy số long đong

    Người ta đi kiếm giàu sang cả
    Mình chỉ mơ hoài chuyện viễn vông
    Em biết giàu sang đâu đến lượt
    Nợ đời nặng quá gỡ sao xong?

    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng
    Tết này, ô thế mà vui chán
    Nhưng một mình em uống rượu nồng

    Rượu cay nhớ chị hồi con gái
    Thương chị từ khi chị lấy chồng
    Cố nhân chẳng biết làm sao ấy
    Rặt những tin đồn chuyện bướm ong

    Thôi, em chẳng dám đa mang nữa
    Chẳng buộc vào chân sợi chỉ hồng
    Nàng bèo bọt quá, em lăn lóc
    Chấp nối nhau hoài cũng uổng công
    !

    (Một trăm con gái đời nay ấy
    Đừng nói ân tình với thủy chung
    !)
    Người ấy xuân già chê gối lẻ
    Nên càng nôn nả chuyện sang sông

    Đò ngang bến dọc tha hồ đấy
    Quý hoá gì đâu một chữ đồng
    !
    Vâng, em trẻ dại, em đâu dám
    Thôi, để người ta được kén chồng

    Thiếu nữ hoài xuân mơ cát sĩ
    Chịu làm sao được những đêm đông
    Khốn nạn, tưởng yêu thì khó chứ
    Không yêu thì thực dễ như không
    !

    Chị ơi, Tết đến em mua rượu
    Em uống cho say đến não lòng
    Uống say cười vỡ ba gian gác
    Ném cái chung tình xuống đáy sông

    Thiên hạ chi nghinh Nam Bắc điểu
    Tình đời
    Diệp tống lãng lai phong
    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một chút lòng

    Sương muối gió may rầu rĩ lắm
    Còn vài hôm nữa hết mùa đông
    Xuân đến cho em thêm một tuổi
    Thế nào em cũng phải thành công

    Em không khóc nữa, không than nữa
    Đây một bài thơ hận cuối cùng
    Không than chắc hẳn hồn tươi lại
    Không khóc tha hồ đôi mắt trong

    Chị ơi, Em Cưới Mùa Xuân nhé?
    Đốt pháo cho thơm với rượu hồng
    Xa nhà xa chị tuy buồn thật
    Cũng cố vui ngang gái được chồng

    Em sẽ uống say hơn mọi bận
    Cho hồn về tận xứ Hà Đông
    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng

    Với lá thư này là tất cả
    Những lời tâm sự một đêm đông
    Thôn gà eo óc ngoài xa vắng
    Trời đất tàn canh tối mịt mùng

    Đêm nay em thức thi cùng nến
    Ai biết tình em với núi sông
    Mấy sông mấy núi mà xa được
    Lòng chị em ta vẫn một lòng

    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng
    Cầu mong cho chị vui như Tết
    Tóc chị bền xanh, má chị hồng

    Trong mùa nắng mới sầu không đến
    Giữa hội hoa tươi ấm lại lòng
    Chắc chị đời nào quên nhắc nhở:
    – Xa nhà, rượu uống có say không ?

    Nguyễn Bính

    Bình thơ Nguyễn Bính – Hành Phương Nam

    Vì lý tưởng, vì chí hướng, sự nghiệp mà người con trai đành phải từ giã người mình yêu để lên đường. Rồi sau đó, vào một ngày cuối năm, trong khi mọi người đang chuẩn bị đón giao thừa, ngồi một mình trên căn gác trọ người con trai cảm thấy cô đơn và chợt chạnh lòng nhớ lại người xưa, nhưng anh cũng biết rằng mình không thể nào ở lại được, mình phải tiếp tục con đường, phải tiếp tục theo đuổi sự nghiệp của mình thôi. Người ở nhà nếu quả thực là hiểu được người mình yêu thì phải yểm trợ cho người ấy, để cho người ấy đi dù rằng đó là một quyết định rất khó khăn, dù trong lòng mình có xót xa, tiếc nuối.

    Người con trai ấy có hoài bão, có chí hướng mà mình giữ chặt người ấy cho riêng mình thì người ấy sẽ không có hạnh phúc. Người ấy có một năng lượng mà mình đem nhốt năng lượng đó lại thì chỉ làm khổ người yêu và làm khổ chính mình thôi. Một làn hương, một tia nắng mà mình còn không giữ được, huống nữa là giữ một người con trai có chí nguyện lớn ?

    Ngày xưa Yasodhara cũng có tâm trạng như vậy. Yasodhara biết rằng Siddhata không thể không ra đi. Yasodhara cũng chỉ là một người phụ nữ thường tình, nhưng cô biết là phải để cho chồng ra đi, bởi nếu vì mình mà người con trai không ra đi được thì người con trai đó đâu còn là người con trai của mình ? Tuy thân người ấy bên mình nhưng tâm người ấy không còn ở bên mình nữa. Có giữ thì cũng không còn.  Và Yasodhara cũng hiểu rằng dùng tất cả mọi cách để trói buộc người con trai đều vô hiệu nghiệm.

    Hồi 1940 cho tới 1945 phần lớn những người con trai Việt Nam đều muốn ra đi, tôi lớn lên trong giai đoạn đó và tôi đã chứng kiến được những cuộc ra đi. Hồi ấy người Pháp đang đô hộ Việt Nam, đất nước ta đang lầm than trong cảnh nô lệ, người dân đói khát, khổ đau. Năm tôi khoảng 14, 15 tuổi có những buổi sáng thức dậy, tôi thấy ngoài đường có những chiếc xe cam nhông chở đầy những xác chết của những người đói. Và tôi cũng thấy những anh, những chị, chỉ khoảng 20, 22 tuổi bị bắt, họ bị người ta trói lại, giải đi, trông cảnh đó tôi rất sót thương. Lúc ấy tôi không biết họ đã làm gì để bị bắt như vậy? Nhưng tôi biết rằng trong trái tim họ đã ôm ấp một lý tưởng gì đó nên mới bị lâm vào vòng tù tội. Mới 14 tuổi tôi đã được đọc sách báo cách mạng và tôi cũng muốn ra đi.

    Năm 1940, Thâm Tâm có viết một bài thơ rất nổi tiếng đó là bài «Bài Tống Biệt Hành » :

    Đưa người ta không đưa qua sông,

    Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

    Phải đưa qua sông thì mới thấy có sóng và thấy sóng ở bên ngoài thì sóng ở trong lòng mới nổi dậy. Nhưng ở đây mình đâu có đưa sang sông « sao có tiếng sóng ở trong lòng? » Tình trạng đất nước, xã hội, và những khổ đau đã thúc đẩy những người con trai, những người con gái lên đường. Là một người thanh niên trong hoàn cảnh ấy thì phải nên làm một cái gì đó cho đất nước. Tác giả cũng muốn đi nhưng chưa đi được, mà phải ở lại. Và khi những người bạn của mình, những người anh, người chị, người em của mình ra đi thì mình phải đưa tiễn. Đưa tiễn mà trong lòng không yên, những đợt sóng cứ chồm lên không ngớt.

    Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

    Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

    Tuy đang là mùa hè, đất trời đang xanh tươi, cây cối chưa vàng vọt nhưng sao nhìn vào mắt của người kia mình thấy có hoàng hôn, có một nỗi buồn nào đó.

    Đưa người, ta chỉ đưa người ấy

    Một giã gia đình, một dửng dưng.

    Gia đình có mẹ, có chị, có em, lúc từ giã người đi phải làm bộ dửng dưng, nếu không thì không thể cất bước được.

    Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ.

    Chí lớn chưa về bàn tay không,

    Ly khách là người đi. Nếu đã ôm một chí nguyện to lớn thì không thể nào về với hai bàn tay không được.

    Thì không bao giờ nói trở lại!

    Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.

    Khi ra đi mình đã mang một chí nguyện nào đó và nếu không đạt được chí nguyện ấy thì mình sẽ nhất định không trở về. Có một hình ảnh mà tất cả thanh niên Việt Nam thời đó đều tôn thờ đó là hình ảnh của Kinh Kha. Kinh Kha sống ở thời Chiến Quốc, cuối đời Xuân Thu, vào thế kỷ thứ 5 cho đến thế kỷ 13 trước Tây lịch, khi ấy có bảy nước đang tranh chấp nhau. Có hai người anh hùng, một người tên Nhiếp Chính, một người tên là Kinh Kha. Nhiếp Chính là một người anh hùng ẩn thân đời Chiến Quốc đi giết tướng quốc của nước Hàn là Hiệp Lũy, rồi rạch nát mặt, tự vẫn chết để không ai tìm được tung tích. Kinh Kha là người nhận trách nhiệm đi ám sát Tần Thủy Hoàng, ngày Kinh Kha lên đường Thái tử Yên Đan tổ chức lễ tiễn đưa rất lớn vì biết rằng người này đi sẽ không bao giờ trở lại. Tại vì Kinh Kha đã lãnh một sứ mạng rất lớn, đó là phải giết cho được Tần Thủy Hoàng, giết cho được tên bạo chúa. Câu thơ ca ngợi hình ảnh đó người thanh niên Việt Nam thời bấy giờ người nào cũng thuộc :

    Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn

    Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn

    Nghĩa là gió thổi rờn rợn, nước sông Dịch lành lạnh và người tráng sĩ một phen đi thì không bao giờ trở lại. Bây giờ, trong bối cảnh phải đưa tiễn người bạn ra đi cũng  vậy, cũng nghĩ tới Kinh Kha.

    – Ly khách ! Ly khách! Con đường nhỏ.

    Chí lớn chưa về bàn tay không,

    Thì không bao giờ nói trở lại !

    Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.

    Trước năm 1940 các thi sĩ sáng tác toàn thơ tình, cứ yêu qua yêu lại rồi đau khổ, rồi sầu thương. Nhưng bắt đầu từ năm 1939-1940 có sự thức tỉnh trong giới thanh niên, tỉnh dậy trước thực tại cay đắng, khổ đau đen tối của đất nước, của xã hội. Do đó  họ không còn làm những  bài  thơ theo lối khóc gió thương mây nữa. Bài này là một trong những bài đánh dấu giai đoạn thức tỉnh của người thanh niên Việt Nam thời chống Pháp.

    Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước,

    Bây giờ mùa hạ, sen nở nốt,

    Một chị, hai chị cũng như sen,

    Khuyên nốt em trai dòng lệ xót.

    Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay

    Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay,

    Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

    Vo tròn thương tiếc chiếc khăn tay…:

    Buồn chứ sao không buồn, bỏ mẹ, bỏ các em ở lại để ra đi trong khi chưa biết rõ con đường phía trước như thế nào. Không biết mình sẽ làm cái gì? Chỉ biết là mình muốn đi thôi, con đường trước mặt là cả một khu rừng chưa khai phá. Rất là mờ ảo. Con đường cách mạng xã hội của một dân tộc, chưa có cái gì rõ ràng, chưa có gì được chuẩn bị, sắp đặt cả. Người ra đi mang tâm trạng hoang mang, nhớ nhung, luyến tiếc nhưng cố giả vờ dửng dưng « Một giã gia đình, một dửng dưng ».

    Người đi? Ừ nhỉ ! Người đi thực !

    Không phải chuyện chơi.

    Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

    Chị thà coi như là hạt bụi,

    Em thà coi như hơi rượu cay.

    Đi là phải như vậy, thương mẹ bao nhiêu cũng phải đi, thương em bao nhiêu cũng phải đi tại vì chí hướng của người thanh niên là phải lên đường. Sống trong thời đại của mình, mình là một chàng trai, mình là một cô gái, thì mình đại diện cho cả một thế hệ của mình. Mình không đi với tư cách một cá nhân, mình đi với tư cách của cả một thế hệ. Mình thấy tất cả những người đó trong mình, mình không phải đi đơn độc.

    Nguyễn Bính cũng ra đi nhưng trước khi giật mình tỉnh thức thì Nguyễn Bính đã nghiện rượu, đã nghiện thuốc phiện. Thời đó thanh niên Hà Nội cũng ăn chơi, cũng lao vào cuộc sống của sự hưởng thụ.

    Bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính làm vào khoảng năm 1946-1947.

    Hai ta lưu lạc phương Nam này

    Trải mấy mùa qua én nhạn bay

    Xuân đến khắp trời, hoa rượu nở

    Riêng ta với ngươi buồn vậy thay !

    Hai đứa không nhà, không cửa, đi vào Nam, đi tìm con đường, tìm chí hướng nhưng mà tìm chưa ra, cũng không biết tìm ở đâu nữa, hai đứa cứ lang thang với nhau trong cảnh cô đơn không nhà. Tội nghiệp ghê.

    Lòng đắng xá gì đôi hớp rượu

    Mà không uống cạn mà không say !

    Đã nghiện rượu rồi, đâu có thể không uống được, vì vậy có đồng nào là đem ra uống rượu hết đồng đó. Muốn ra đi lắm nhưng vốn liếng của mình còn nghèo nàn quá, đã vướng vào rượu, vào ma túy rồi thì ‎ ý chí còn được bao nhiêu ?

    Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã

    Mà áo khinh cừu không ai may !

    Tư Mã Tương Như là một chàng nhạc sĩ đánh đàn cho Trác Văn Quân nghe, khúc đàn đó là Tư Mã Phượng Cầu. Phượng Cầu Hoàng là con chim Phượng đi tìm con chim Hoàng tức là khúc hát của tình yêu.

    Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã

    Mà áo khinh cừu không ai may.

    Không có ai may cho mình, đan cho mình một chiếc áo để mình có thể ra trận.

    Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo

    Ta trói thân vào nợ nước mây

    Vấn đề cơm áo là vấn đề rất lớn. Nợ nước mây là nói về sự nghiệp của người con trai.

    Ai biết thương nhau từ thuở trước

    Bây giờ gặp nhau trong phút giây

    Nợ tình chưa trả tròn một món

    Sòng đời thua đến trắng hai tay

    Tất cả những cố gắng của mình từ trước đến nay đều thất bại hết từ sự nghiệp cho tới danh vọng.

    Nợ tình chưa trả tròn một món

    Tình yêu thì không xong mà chí hướng cũng chẳng thành.

    Nợ tình chưa trả tròn một món

    Sòng đời thua đến trắng hai tay

    Quê nhà xa lắc xa lơ đó

    Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

    Quê nhà thì ở mãi Hà nội còn mình đang lưu lạc tận miền Nam.

    Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc

    Phân tán vì cơn gió bụi này

    Người ơi ! Buồn lắm mà không khóc

    Mà vẫn cười qua chén rượu đầy

    Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết

    Ngày mai ra sao rồi sẽ hay

    Trong lòng mình có mang một sứ mệnh lớn muốn ra đi nhưng những tập khí cũ, những thói quen xấu nghiện ngập, yếu đuối cứ trói buộc lấy mình. Nguyễn Bính cũng có nhắc tới Kinh Kha, cũng nhắc tới Nhiếp Chính.

    Ngày mai sáng lạn mầu non nước

    Cốt nhất làm sao từ buổi này

    Đây là một sự giác ngộ, thi sĩ thấy rằng ngày mai có tươi sáng hay không là do ngày hôm nay quyết định. Nhưng ngày hôm nay như thế nào? Hoàn cảnh của mình, tâm trạng của mình ra sao, và vốn liếng thì đến đâu rồi?

    Ngày mai sáng lạn mầu non nước

    Cốt nhất làm sao từ buổi này

    Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn

    Mặt đỏ lên rồi, cứ chết ngay

    Hỡi ơi ! Nhiếp Chính mà băm mặt

    Giữa chợ ai người khóc nhận thây?

    Kinh Kha quán lạnh sầu nghiêng chén

    Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?

    Trước khi lên đường Kinh Kha được Thái tử Yên Đan hậu đãi, có một cô thị nữ mang khay trà vào, Kinh Kha khen hai bàn tay của cô đẹp quá. Thái tử Đan nghe báo cáo như vậy thì nói với cô thị nữ: cô tặng cho tráng sĩ hai bàn tay đi. Rồi sai chặt hai bàn tay cô thị nữ để trên khay rồi mang vào tặng cho Kinh Kha. Thái Tử đã hy sinh một mạng người để nung nấu chí hướng của người tráng sĩ.

    Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?

    Tráng sĩ nói ưa hai bàn tay đó thì chúng tôi dâng tặng cho tráng sĩ hai bàn tay. Ngày Kinh Kha lên đường, đi qua sông Dịch, ba ngàn người mặc đồ tang đến đưa tiễn.

    Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự

    Hài cỏ, gươm cùn, ta đi đây

    Đôi giày của mình là giày cỏ, gươm của mình là gươm cùn nhưng người tráng sĩ Nguyễn Bính vẫn không biết đi về đâu?

    Ta đi nhưng biết về đâu chứ?

    Đã dấy phong yên khắp bốn trời

    Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ

    Uống say mà gọi thế nhân ơi!

    Muốn đi mà không biết đi về đâu! Thôi, nếu không đi thì ở lại uống cho say. Nguyễn Bính có tâm trạng như vậy nhưng rốt cuộc vẫn đi vào chiến khu, phục vụ trong Ủy ban Việt Minh tỉnh bộ tỉnh Rạch Giá và đi vào rừng U Minh phục vụ kháng chiến trong vòng chín năm trời cho đến khi tập kết ra Bắc. Trong thời gian đó Nguyễn Bính cưới một người vợ người miền Nam. Tôi đọc thơ thì thấy rằng thơ kháng chiến, thơ cách mạng của Nguyễn Bính không hay lắm, thơ Nguyễn Bính không hợp với thơ kháng chiến.

    Số thanh niên có lý tưởng cách mạng, có lý tưởng kháng chiến ra đi rất là đông nhưng có hàng ngàn người, hằng chục ngàn người, hằng trăm ngàn người đã ngã gục. Không phải giữa súng đạn mà ngã gục trong tổ chức gọi là cách mạng. Điều này không phải chỉ đúng ở Việt Nam mà đúng cho hết tất cả các nước. Trong cuộc cách mạng có sự thủ tiêu lẫn nhau.

    Khi ra đi mình mang một lý tưởng rất cao đẹp nhưng khi đã đi vào trong tổ chức, dù là tổ chức cách mạng, thì mình cũng thấy được sự lạm quyền, sự lợi dụng, thói đạo đức giả… Trong hoàn cảnh ấy nỗi khổ, niềm đau của người trẻ rất lớn, muốn lùi lại thì không được mà muốn tiến tới cũng chẳng xong, đi tới đây thì không còn phương hướng nữa. Đi tu cũng vậy, ban đầu mình nghĩ rằng trong tổ chức giáo hội có sự thánh thiện, có hào quang, có sự tốt đẹp nhưng khi đi vào trong tổ chức giáo hội mình cũng có thể thấy được những hư hỏng những tham vọng, những danh lợi, những giả dối, và người xuất gia cũng có thể ngã gục trên bước đường tu của mình.

    Quý vị có thể đặt câu hỏi là tại sao tôi không đi vào đảng mà lại đi vào chùa? Đó là câu hỏi rất là hay. Chắc chắn phải có một hạt giống nào đó, phải có một nguyên do nào đó khiến một người thay vì đi vào một đảng chính trị thì lại đi vào một ngôi chùa. Muốn tìm hiểu được điều này thì phải đi vào trong đời sống của dân tộc mình, tại vì mình có tổ tiên huyết thống  nhưng cũng có cả tổ tiên tâm linh và người thanh niên nào cũng có ít nhiều chí hướng cả.

    Thái tử Siddhatta cũng có thể đi vào con đường chính trị nhưng Siddhatta đã chọn con đường tâm linh. Trong khi vua Tịnh Phạn rất muốn Siddhatta đi vào con đường chính trị, ông đã đặt hết hy vọng của mình vào Siddhatta nhưng Siddhatta khước từ con đường đó và đi kiếm một lối đi khác. Mình là những người con trai, những người con gái đã không đi làm chính trị mà đi tu là vì mình cũng có cái gì đó giống như Siddhatta. Mình thấy đây cũng là con đường phụng sự, mình hợp với con đường này hơn và mình thấy con đường này đem lại cho mình nhiều sự an tâm, nhiều năng lượng hơn.

    Những năm gần đây tôi khám phá ra rằng niềm thao thức, niềm trăn trở ở nơi mỗi người thanh niên phải được nuôi dưỡng, và người thanh niên không thể nào sống một cách thất niệm chôn vùi đời mình trong chuyện ăn chơi được. Thanh niên Việt Nam hồi 1940 đã làm được như vậy, trước tình hình của đất nước họ đã không thể tiếp tục sống cuộc sống quên lãng, ăn chơi. Thanh niên Việt Nam thời đó đã thức dậy, hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người đã đi vào con đường cách mạng nhưng cũng có hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn đã ngã gục trên bước đường phục vụ cho cách mạng. Có những thầy trẻ, có những sư cô trẻ đi tu nhưng cũng phục vụ cách mạng và có nhiều người bị bắn chết. Tôi đã mang những người đó trong tôi. Liệu lý tưởng tâm linh có thể đi đôi với lý tưởng cách mạng? Có sự dùng dằng giữa hai con đường, một là cởi áo tu đi theo cách mạng, hai là tiếp tục giữ áo tu? Câu hỏi đó day dứt trong rất nhiều người tu sĩ trẻ của thời đại 1945-1950. Hồi đó tôi có viết bài Trái Ý Thức Chín Rồi.

    Tuổi trẻ tôi
    Trái mơ xanh
    Vết răng của em
    Gây thành thương tích nhỏ
    Những chân răng rúng động
    Và nhớ hoài
    Nhớ hoài

    Đây là tình yêu của tuổi thanh niên.

    Nhưng từ thuở yêu em
    Cánh cửa tôi mở rộng trước gió
    Thực tại kêu gào cách mạng
    Trái ý thức chín rồi
    Cánh cửa
    Không thể nào còn khép lại

    Đó cũng là tâm trạng chung của những người thanh niên Việt Nam thời 1940. Một khi đã thấy được những đau thương, những khổ nhục của đất nước mình thì không thể nào an tâm để sống một cuộc đời hưởng thụ được nữa.

    Nhưng từ thuở yêu em
    Cánh cửa tôi mở rộng trước gió
    Thực tại kêu gào cách mạng

    Đòi hỏi cách mạng

    Trái ý thức chín rồi
    Cánh cửa
    Không thể nào còn khép lại

    Lửa
    Lửa cháy tràn thế kỷ
    Loang lổ núi rừng hoang
    Gió thét ngang tai
    Bão tuyết bên trời quằn quại
    Vết thương mùa đông
    Vết thương mùa đông nằm nhớ lưỡi thép lạnh
    Bồn chồn, trăn trở,
    Nhức nhối
    Thâu đêm

    Những câu thơ rất ngắn, chỉ có hai chữ, ba chữ. Những hình ảnh vết thương và đêm không ngủ, ôm lấy vết thương đó và nhớ lưỡi gươm đã tạo ra vết thương của mình.

    Vết thương mùa đông
    Vết thương mùa đông nằm nhớ lưỡi thép lạnh
    Bồn chồn, trăn trở,
    Nhức nhối
    Thâu đêm

    Mình biết tình trạng của giáo hội và của đất nước thời kỳ ấy như vậy và ký ức đó không thể nào phai mờ được. Mình có một nỗi niềm thao thức, trăn trở và chính trăn trở đó, thao thức đó đã đưa mình đi tới. Trong hàng vạn người thanh niên đi cách mạng, người nào cũng có niềm trăn trở đó nhưng họ đã đi tới đâu? Sau hai năm, sau ba năm, sau năm năm, sau mười năm ý chí của họ bị nhụt đi. Tại vì họ thiếu chất liệu nuôi dưỡng, họ không có đủ tình thương, không có đủ tình người, trong đó có sự tranh đua, có sự đè nén, có sự thủ tiêu. Vì vậy cho nên biết bao người thanh niên bị gục ngã trên con đường cách mạng.

    Số thanh niên bị nhụt chí, chùn chân, bị thất vọng trên con đường phụng sự, con đường tranh đấu, rất là đông. Có những người chết âm thầm, có những người chết oan ức, có những người không có cơ hội nói ra được sự thật trong lòng mình. Số người sống âm thầm, chết oan khốc như vậy ở trong các trào lưu cách mạng đông lắm. Nếu quí vị có cơ hội nói chuyện với những người đã ở 10 năm, 20 năm, 40 năm trong cách mạng và nghe họ kể chuyện của họ thì quí vị sẽ thấy được.

    Những thao thức, trăn trở của mình có thể đưa mình đi tới giai đoạn nào đó trong thời đại nào đó, nhưng nếu mình không được nuôi dưỡng, nuôi dưỡng bằng chất liệu rất cần thiết cho tâm linh thì mình cũng bị khô kiệt tại vì sức người có giới hạn. Vì vậy cho nên chỉ trăn trở và thao thức không thôi thì chưa đủ. Trên bước đường cách mạng cũng như trên đường tu học mình phải được nuôi dưỡng, phải có môi trường trong đó mình vừa phấn đấu, vừa được trị lành những thương tích.

    Nếu không có môi trường thích hợp, không được nuôi dưỡng thì không thể đi xa được và mình sẽ chết giữa đường, khi ấy chí hướng của người thanh niên không thể thành tựu được. Nghĩ như vậy thì chúng ta thấy cảm thông cho biết bao nhiêu triệu người thanh niên Việt Nam đã bị ngã gục. Trong nửa đầu thế kỷ 20 vừa qua, những người thanh niên có dư bầu nhiệt huyết, có dư năng lượng của sự chiến đấu nhưng họ lại không được nuôi dưỡng trong môi trường của họ, môi trường của tổ chức, môi trường của đảng, môi trường của xã hội, mà trong đó chỉ có sự giành giật, sự lấn áp, sự thủ tiêu, mà không có đủ sự nâng đỡ, nuôi dưỡng và thương yêu.

    Chuyện ngoài đời như vậy mà chuyện trong đạo cũng như vậy, một tổ chức giáo hội cũng có thể có sự hư hỏng, cũng có sự tham nhũng, hủ hóa. Những người lãnh đạo trong giáo hội có thể hoạt động trên cơ sở cái ngã của danh và lợi. Ngoài đời thì họ xôi thịt, danh lợi, còn trong đạo thì có thể “xôi chuối” thôi. Danh lợi trong chùa tuy “chay” hơn nhưng nó vẫn là danh lợi như thường.

    Người trẻ khi thấy những người lớn bị  vướng vào vòng danh lợi thì họ mất niềm tin, họ không đi tới được và họ cũng “chết” như những người đi làm cách mạng. Biết bao nhiêu người tu cũng đã chết theo cái kiểu đó. Cởi áo tu đi ra đời là gì nếu không phải là cái “chết” của người tu? Bao nhiêu người đã chết trong môi trường của sự tu học? Mình có dư ý chí, có dư sự thao thức, mình có dư sự trăn trở nhưng mình không có được sự nuôi dưỡng, mình không có được sự vỗ về, không có đủ tình thương.

    Làm người xuất gia, Tôi đã đi ngang qua những kinh nghiệm đau thương đó, không những ở ngoài đời mà còn trong đạo nữa. Tôi sẽ đọc một bài thơ nói lên thông điệp đó:

    Trán tôi đã từng nhăn
    Và ưu tư cuộc đời đã về ghi dấu chân nặng nề
    Trên khoảng trời mai ấy
    Nhưng trẻ thơ tâm hồn tôi hôm nay trở lại
    Hoa lá về trên nụ cười buông thả
    Vô tình xóa mờ những nếp nhăn đi

    Nếp nhăn ở trên trán, mình đã đi tu rồi nhưng trên trán cũng có hằn lên những vết nhăn. Nếp nhăn đó vừa do hoàn cảnh xã hội bên ngoài tạo ra và cũng vừa do hoàn cảnh của giáo hội đem lại.

    Trán tôi đã từng nhăn
    Và ưu tư cuộc đời đã về ghi dấu chân nặng nề
    Trên khoảng trời mai ấy

    Vầng trán của người thanh niên là một bình minh nhưng cuộc đời đã ghi dấu nhăn lên trên đó.

    Nhưng trẻ thơ tâm hồn tôi hôm nay trở lại

    Rồi không biết vì lý do nào đó mà hôm nay những nếp nhăn trên trán biến đi. Như trẻ thơ tâm hồn tôi hôm nay trở lại, có nghĩa là tâm hồn tôi hôm nay trở lại như tuổi thơ.

    Hoa lá về trên nụ cười buông thả

    Mình có thể cười được và vì cười được nên những nếp nhăn trên trán biến đi.

    Hoa lá về trên nụ cười buông thả
    Vô tình xóa mờ những nếp nhăn đi
    Như mưa chiều nay xóa đi
    những dấu chân trên bãi vắng – qua một chu kỳ.
    Tôi đi giữa rừng chông gai
    Như đi giữa vườn kỳ hoa dị thảo

    Đó là một phép lạ, khi mình đi trong rừng chông gai mà mình thấy như mình đi trên vườn kỳ hoa dị thảo.

    Đầu cất cao, nụ cười ngày xưa còn đó
    Những vần thơ đã nở trong tiếng gào súng đạn
    Nước mắt ngày xưa khóc nắng quái chiều hôm
    Trên chiến trường vàng vọt
    Bỗng đã trở thành mưa.
    Tiếng mưa rơi êm êm trên mái lá
    Quê hương tuổi thơ thầm gọi tôi về
    Mưa xóa đi bao tâm tư sầu muộn

    Có những người có quê hương tuổi thơ rất đẹp và khi ấy phải về cầu cứu cái quê hương đó.

    Tôi vẫn còn – nụ cười chiều nay bình lặng
    Trái ngọt chín trên cây rừng cay đắng
    Ôm xác em thơ, tôi băng qua ruộng lúa quê hương đêm nay

    Biết bao nhiêu người vào nhà thương ôm xác người em của mình, người anh của mình băng qua ruộng lúa.

    Đất mẹ sẽ gìn giữ em
    Để trên bãi cỏ xanh non,
    Sáng mai này em sẽ luân hồi thành những bông hoa mới
    Những bông hoa cười trầm lặng trong bình minh đồng nội.

    Giờ phút này em có còn khóc đâu
    Qua một đêm dài thăm thẳm sâu
    Sáng nay tôi quỳ trên bãi cỏ xanh
    khi trông thấy những bông hoa mang nụ cười huyền diệu
    Thông điệp của hy sinh của hiểu biết quả đã tới nơi rồi.

    Tôi đã thấy những người bạn tu, những người thanh niên 25 tuổi, 20 tuổi, 18 tuổi, 17 tuổi, 16  tuổi bị bắn chết.

    Khi đi tu tức là mình phải nhập vào một đoàn thể và mình đặt hết niềm tin vào đoàn thể đó, nhưng cũng có thể trong đoàn thể đó có người phản bội mình, phản bội lý tưởng của chính họ. Mình đi làm cách mạng, mình phải đặt niềm tin nơi đảng; mình đi tu mình phải niềm tin nơi giáo hội, nhưng đảng có thể phản mình, phản bội lý tưởng của người trẻ; giáo hội có thể phản bội lại niềm tin của người xuất gia trẻ. Tôi sẽ đọc bài “Xin Cúi Đầu Đưa Về”, bài này nói lên những khổ đau của tôi đối với những người trong giáo hội thời bấy giờ.

    Nếu đọc bài này mà không để ý thì không thấy được.

    Đây hai bàn tay tôi
    Xin trả về cho em
    Thành khẩn nguyện cầu xin đừng nghiến nát
    Tôi đã trở về, như một kẻ đầu hàng ngoan ngoãn
    Dù muôn khổ đau, lòng không oán thán,
    Bởi vì dưới ngôi sao em tôi đã sinh ra,
    Bởi vì vì em tôi mới sinh ra
    Để vạn kiếp làm người trai khờ dại

    Người ta phụ mình nhưng mình vẫn cứ thương. Mình thương Tăng bảo, mình đặt hết niềm tin vào Tăng bảo và Tăng bảo không có đủ “bảo”, Tăng bảo có phần tử vì danh, vì lợi đã phản bội mình, phản bội lý tưởng của mình. Mình gọi là người yêu của mình, mình nói là em, em đây tức là tổ chức giáo hội.

    Đây hai bàn tay tôi
    Xin trả về cho em

    Đầu hàng thôi, mình đã bỏ đi rồi nhưng bỏ đi không được phải trở về xây dựng tăng thân, dù tăng thân hư hỏng, dột nát thì vẫn phải trở về để xây dựng lại tăng thân, không có sự lựa chọn thứ hai.

    Đây là hai bàn tay tôi
    Xin trả về cho em
    Thành khẩn nguyện cầu xin đừng nghiến nát

    hai bàn tay đã từng bị nghiến nát rồi và mình đã băng bó cho lành rồi để bây giờ đem dâng lại. Mình chỉ có hai bàn tay thôi, hai bàn tay của một người trẻ, hai bàn tay để mà thương yêu, để mà xây dựng, đóng góp nhưng bàn tay cứ bị nghiến nát hoài, nên có khi giận, có khi buồn bỏ đi, rồi vì thương nên bị nghiến mà vẫn trở về.

    Đây hai bàn tay tôi
    Xin trả về cho em
    Thành khẩn nguyện cầu xin đừng nghiến nát
    Tôi đã trở về, như một kẻ đầu hàng ngoan ngoãn
    Dù muôn khổ đau, lòng không oán thán,
    Bởi vì dưới ngôi sao em tôi đã sinh ra,
    Bởi vì vì em tôi mới sinh ra
    Để vạn kiếp làm người trai khờ dại

    Yêu rồi bị phụ tình, phụ tình mà vẫn cứ yêu như thường mới lạ?

    Đây là hai bàn tay tôi
    Là trái tim
    Là khối óc
    Là cuộc đời
    Là tất cả những gì còn sót lại
    Những bàn tay không mang quyền phép lạ
    Nhưng đã hơn một lần nhỏ máu trên cung bậc thương yêu.

    Trên phím Piano đó, trên cây Guitar đó, những ngón tay này đã đàn, những bản nhạc của thương yêu, của phụng sự nhưng những ngón tay đó đã nhỏ máu. Thương hết sức, thương bằng tất cả trái tim của mình chứ không phải là thương sơ sơ.

    Đây là hai bàn tay tôi
    Là trái tim
    Là khối óc
    Là cuộc đời
    Là tất cả những gì còn sót lại
    Những bàn tay không mang quyền phép lạ
    Nhưng đã hơn một lần nhỏ máu trên cung bậc thương yêu.

    Trong Truyện Kiều cũng có câu: “Bốn dây nhỏ máu, năm đầu ngón tay.”

    Những bàn tay không mang quyền phép lạ
    Nhưng đã hơn một lần nhỏ máu trên cung bậc thương yêu.

    Đây hai bàn tay tôi
    Xin trả về cho em
    Kẻ thương yêu, mẹ dạy, không bao giờ tính toán
    Cỏ mộ úa vàng, cũng như hoa hồng đương lứa
    Thương yêu muôn đời vẫn hạt sương trong

    Người ta có sao thì sao mình vẫn cứ thương như thường.

    Đây hai bàn tay tôi
    Xin cúi đầu đưa về
    Em nhìn xem: những vết thương ngày xưa vẫn chưa lành dấu máu
    Mười ngón đơn sơ hồn em xin đậu
    Như những giọt sương ngời đầu ngọn cỏ rung rinh

    Đây là những câu đẹp nhất của bài thơ. Những ngón tay của mình dâng hiến cho lý tưởng, cung đàn của thương yêu, của phụng sự và dầu mình có nhỏ máu trên năm đầu ngón tay thì mình vẫn phải tiếp tục như thường.

    Đây hai bàn tay tôi
    Một kiếp luân hồi chưa xóa nhòa thương tích
    Nụ cười còn đây, tôi không bao giờ oán trách
    Còn đây tâm hồn thơ dại ngày xưa

    Đây hai bàn tay xưa
    Băng bó vẫn chưa lành
    Tôi mang về trả lại
    Thành khẩn nguyện cầu xin đừng nghiến nát
    Nguyện cầu mười phương trăng sao chứng minh.

    Những bài thơ này không phải là thơ, những bài thơ này là xương thịt của sự sống hàng ngày. Nếu quí vị có thì giờ tìm đọc truyện ngắn của tôi, câu chuyện “Người Con Trai Khờ Dại.” Dù bị phụ tình hoài mà vẫn cứ trở về như thường. Bí quyết của tôi là chỗ biết rằng mình phải nuôi dưỡng chính mình, đừng để cho nguồn năng lượng của mình bị khô cạn. Tôi viết những câu rất đơn sơ:

    Quê hương tôi là đây
    Chỉ có dòng sông, hàng cau, bụi tre, vườn chuối.
    Mặt trái đất dù mang đầy cát bụi
    Nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm Rằm

    Tuy trên mặt đất nơi mình đang đứng có nhiều bụi nhưng mỗi khi ngước mặt lên thì mình vẫn tiếp xúc được với trăng sao trên bầu trời. Vừa có một thế giới của trần lụy, của nhỏ mọn, ganh đua nhưng cũng có một thế giới của tâm linh lung linh đầy mầu sắc nếu mình không bỏ cuộc. Nếu không thua cuộc chính là nhờ mình tiếp xúc được với thế giới đó. Có một câu ngạn ngữ nói rằng: “đừng tự khinh mình”. Phải biết rằng mình rất quí giá tại vì mình được làm bằng trăng sao. Ở trong ta có trăng sao, có tinh hà.

    Trong tôi có ngọn hùng phong
    Vẫn vươn cao, trời mây khói
    Trong tôi có một tinh hà chuyển động âm thầm
    Những triệu tinh cầu sáng chói

    Trong con người của mình có hai phần, một phần đất bụi và một phần trăng sao. Nhưng mình đừng mặc cảm vì là đất bụi, cũng đừng có tự hào quá vì chất liệu của trăng sao.

    Quê hương tôi là đây
    Chỉ có dòng sông, chỉ có hàng cau, bụi tre, vườn chuối.
    Mặt trái đất dù mang đầy cát bụi
    Nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm Rằm

    Mỗi khi tiếp xúc với những cái trần tục, với những cái hèn mọn, nhỏ nhoi thì mình đừng quên rằng trăng sao vẫn còn đó, chỉ cần ngẩng đầu lên thì sẽ thấy năng lượng, niềm tin của mình không hề mất đi. Đây là chuyện rất quan trọng đối với người tu. Cho nên có một bài thơ tôi đã tự nhắc lại cho mình cái câu đó, nó giống như là ngẫu nhiên mà không phải ngẫu nhiên. Đó là bài Tươi Son Bền Sắt, hãy giữ cho mình được tươi như là một thỏi son, bền vững như một thanh sắt:

    Trăng sao vẫn đẹp đêm Rằm
    Bãi dương vẫn mướt, sóng tùng vẫn xao

    Khi tiếp xúc với những khổ đau, tuyệt vọng, mình có thể đánh mất thăng bằng, vì vậy phải tìm cách thiết lập lại sự thăng bằng để vượt qua giai đoạn của cơn bão tố đó.

    Trăng sao vẫn đẹp trăng Rằm
    Bãi dương vẫn mướt, sóng tùng vẫn xao

    Có những bãi tùng rất lớn, khi gió thổi tùng như là sóng.

    Lòng quê dù có khát khao
    Hoa mai vẫn cứ đồi cao gọi mời
    Tháng tư lá lục hoa cười
    Cho trăng thêm tuổi, cho đồi thêm xuân
    Vườn xanh cây mướp trổ bông
    Trẻ thơ đùa giỡn trước sân nắng đào
    Chợ Văn bán sách lầu cao
    Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui

    Đây là năm 1975, là thời điểm tất cả các cơ sở của giáo hội, tất cả những hoạt động văn hóa xã hội bị ngưng hết điều này đã gây ra rất nhiều khổ đau cho đất nước, cho những người đồng hành trên con đường tu học. Vì vậy, trong lúc đó nếu muốn sống sót phải biết nhìn lên, nhìn lên để tiếp xúc với trăng sao. Những câu thơ này không phải để ca tụng trăng sao đẹp, ca tụng bãi dương, sóng tùng, ca tụng hoa mai, ca tụng tháng tư, trường ca Avril mà là để nhắc cho mình rằng ngoài bình diện của khổ đau, của tuyệt vọng thì còn có bình diện của sự nhiệm mầu của trăng sao. Những hình ảnh đó không làm cho mình tuyệt vọng, những hình ảnh đó nó nuôi dưỡng mình. Bài này tôi viết ở Phương Vân Am.

    Chợ Văn bán sách lầu cao
    Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui

    Hồi đó thầy trò xuất bản sách và bán sách.

    Xót quê lòng cũng ngậm ngùi
    Tin quê dồn dập tới lui chẳng ngừng
    Chùa xưa vắng tiếng chuông ngân
    Trẻ kia cha mẹ gởi thân tù đày
    Văn nhân nghệ sĩ bó tay
    Con thơ nheo nhóc chẳng ai ngó ngàng
    Sóng xô nghiêng vịnh Thái Lan
    Bao nhiêu tuổi ngọc chìm làn nước sâu

    Cái bi kịch của thuyền nhân, cái bi kịch của các chùa bị đóng cửa và các thầy bị đi học tập cải tạo thì chỉ có tám câu thôi nhưng vì tám câu đó nên mới có mười hai câu trước và nếu không có mười hai câu trước thì tám câu kia nó sẽ làm cho mình ngã quỵ.

    Chùa xưa vắng tiếng chuông ngân
    Trẻ kia cha mẹ gởi thân tù đày
    Văn nhân nghệ sĩ bó tay
    Con thơ nheo nhóc chẳng ai ngó ngàng
    Sóng xô nghiêng vịnh Thái Lan
    Bao nhiêu tuổi ngọc chìm làn nước sâu

    Trong tình trạng đó mình chưa tìm ra cách nào để có thể nâng đỡ cho những người đang kẹt vào trong tình huống khổ đau đó, tại vì bao nhiêu công tác của mình ở nhà đều bị ngưng lại hết. Không những người tu sĩ mà là người cư sĩ cũng vậy, không những nhà chính trị, những nhà văn hóa mà những nhà nghệ sĩ đều bị đi vô tù hết.

    Tấm thương, lòng vẫn nguyện cầu
    Nỗi đau dường ấy, làm sao đỡ đần?

    Nỗi đau khổ quá lớn, trong khi đó thì mình không được phép làm gì để yểm trợ, giúp đỡ. Có cái gì giống như là niềm tuyệt vọng và đó là giai đoạn khó khăn mà mình phải đi ngang qua. Khi ấy phải cầu cứu tới trăng sao, cầu cứu tới hoa mai, cầu cứu tới trẻ thơ.

    Trước sau xin chớ ngại ngần
    Những bàn tay ấy tình thâm vẫn tròn
    Giữ cho bền sắt tươi son
    Giữ cho tâm lặng giữa cơn ba đào

    Rất là tuyệt vời, giữ cho bền sắt tươi son, cho bền, cho tươi, hai cái đó là sắt là son. Son thì luôn luôn là đỏ thắm và sắt thì luôn luôn bền vững, đó là bản chất của người tu, đó là bản chất của nhà cách mạng.

    Siddhatta có những đêm ngồi trong rừng, sức khỏe hao mòn gần như tuyệt vọng, ban đêm ngồi thiền dưới gốc cây, nghe một cành cây khô gãy, tưởng tượng là có con trăn đang trườn tới làm gãy. Có tiếng lá khô xào xạc, tưởng tượng là có một con cọp đang từ từ tiến lại. Siddhatta xa hoàng cung đã bốn năm, năm năm mà vẫn chưa làm nên một công trạng gì hết, giờ này thì vẫn đang ngồi một mình trong rừng, còn những người bạn đồng tu đã bỏ chàng đi hết, những lúc đó thật là khó khăn, nếu không có son, không có sắt thì không thể nào tiếp tục được.

    Giữ cho bền sắt tươi son
    Giữ cho tâm lặng giữa cơn ba đào

    Còn đây nắng gọi đồi cao
    Còn đây những gốc anh đào trước sân
    Còn đây trăng đẹp đêm Rằm
    Còn đây dương mướt sóng tùng năm xưa

    Bài thơ này là một chứng tích của một cuộc tranh đấu nội tâm để mình có thể đứng vững trên con đường của mình.

    Bây giờ mời đại chúng nghe bài “Thơ Từng Ôm và Mặt Trời Từng Hạt”. Bài thơ này nếu không quen thì sẽ thấy nó hơi lạ, cố nhiên không quen thì là lạ rồi, tại vì không biết tác giả muốn nói gì trong này.

    Nắng trên không gian và thơ trên nắng

    Thơ làm ra nắng nắng ra thơ

    Đây có phải là những suy luận triết học? Hay thi sĩ muốn diễn bày một giáo lý nào đó?

    Nắng trên không gian và thơ trên nắng

    Thơ là một cái gì rất là hiện thực. Thơ là nỗi khổ, niềm đau; thơ là hy vọng, là niềm vui; thơ là sự giải thoát. Có thơ vào tất cả đều thay đổi hết.

    Nắng trên không gian và thơ trên nắng

    Nếu không có thơ trên nắng thì nắng không còn là nắng nữa và mình sẽ không thấy mình, nhờ thơ mình còn thấy được nắng, cho nên có nắng là có thơ và có thơ là có nắng, nắng và thơ tương tức.

    Thơ làm ra nắng nắng ra thơ

    Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua

    Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,

    Trong khi bên ngoài gió hú

    Thơ theo gió đi về cồn xưa bãi cũ

    Mái tranh nghèo còn đứng đợi ven sông

    Có đủ hết trong này. Mùa hè mình trồng rau và có thể khổ qua ra trái nhiều quá ăn không hết, mình đem để dành trong tủ đá. Vào mùa Đông, khoảng tháng giêng mình đem ra để nấu canh. Mình thấy rõ ràng rằng trời lạnh như vậy, mặt trời đi vắng luôn cả tháng không chịu xuất hiện, nhưng mình vẫn thấy được mặt trời ở trong trái khổ qua, trái khổ qua đã giữ mặt trời lại cho mình, mình chứa mặt trời ở trong tủ đá và bây giờ mình lấy khổ qua ra thì khổ qua nói: Ở trong tôi có mặt trời. Mặt trời đâu phải chỉ ở ngoài, nó có cả ở trong nữa.

    Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua

    Nếu không có mặt trời thì làm sao có trái khổ qua?

    Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,

    trong khi bên ngoài gió hú

    Có khổ qua tức là có thơ rồi, có khổ qua là có bát canh mùa đông và bát canh đó bốc hơi lên. Thơ là đó chứ thơ ở đâu nữa?

    Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,

    trong khi bên ngoài gió hú

    Mùa Đông ở Làng Mai có nhiều khi như vậy, mùa Đông năm nay rất lạnh. Có những mùa Đông cứ mưa, mưa, mưa hoài… không thấy mặt trời đâu hết, chỉ thấy một màu xám xịt và gió hun hút.

    Thơ theo gió thì mình nghe gió, đi theo gió, gió đi đâu, mình đi đó. Thơ theo gió, đi đâu? Đi về cồn xưa bãi cũ và mình thấy.

    Mái tranh nghèo còn đứng đợi ven sông

    Lời thề của mình năm xưa nó còn, nhìn lên trời không hổ câu vàng đá. Khi ra đi, cũng như Siddhatta, mình đã phát lời nguyền lớn, bây giờ nhìn lên trời, mình không thấy hổ thẹn với lòng, tại vì đời sống của mình không có giây phút nào trong đời sống hàng ngày mà mình phản lại lời thề năm xưa. Mình vẫn còn là mình. Anh vẫn còn là anh chứ? Chị vẫn còn là chị chứ? Em vẫn còn là em chứ? Mình đã phản bội mình chưa? Mình đã phản bội lại cái câu gọi là đá vàng năm ấy chưa?

    Thấy trăng chẳng thẹn lời nguyền non sông

    Tại vì ngày xưa, trăng sao đều chứng giám cho lời nguyền của mình. Làm sao để nhìn trăng mà không thấy mắc cỡ? Trong Kiều có câu:

    Thấy trăng mà thẹn những lời non sông

    Lời thề non sông là gì? Là lời nguyền khi mình đi xuất gia, mình đã hủ hóa chưa? Mình đã phản bội lý tưởng xuất gia của mình chưa? Mình đã để Bồ đề tâm của mình chết rũ chưa?

    Thơ theo gió đi về cồn xưa bãi cũ.

    Vẫn canh cánh bên lòng. Tình trạng xã hội, tình trạng đất nước, tình trạng quê hương, nó vẫn còn là đối tượng, chí hướng của người xuất gia, cho nên trong vùng tâm thức đó, mái tranh nghèo năm xưa bên bờ sông nó hiện ra và nói : Tôi vẫn đang chờ đợi. Mình chưa phản bội lời thề năm cũ. Trong khi ăn bát canh ở cái vùng rất xa lạ, thơ của mình chợt sống dậy, thơ của mình đi theo gió và gió đưa mình về ven sông để thấy được mái tranh nghèo còn đứng đợi. Mình chưa phản bội, mình chưa bao giờ phản bội.

    Lời nguyền xưa còn nguyên vẹn như trái tim ban đầu.

    Thơ nơi từng giọt mưa Xuân

    Thơ trong từng đốm lửa hồng

    Mưa Xuân có đó, lửa hồng có đó và thơ bao giờ cũng còn đó. Thơ là chất liệu của lý tưởng, thơ là sự sống của từng giây, từng phút.

    Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm.

    Khi mình lấy ra một thanh gỗ để bỏ vào lò suởi, mình phải thấy rõ ràng đó là nắng, tại vì mình cần năng lượng của mặt trời để sưởi ấm, bây giờ mặt trời bị mây che lấp thì thanh củi này nó đại diện cho mặt trời vì thanh gỗ chứa mặt trời trong đó.

    Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm.

    Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử

    Nhờ sức ấm của mặt trời từ gỗ thơm đưa ra mà mình ngồi đó và mình viết được những trang của tác phẩm « Am Mây Ngủ ». « Am Mây Ngủ » là một ngoại sử, một truyện thuộc lịch sử nhưng mà không phải là chính sử. Vì vậy cho nên mặt trời, trái khổ qua, bát canh mùa đông bốc hơi lên là những nguyên tố làm ra tác phẩm « Am Mây Ngủ », tác phẩm viết về Trúc Lâm Đại Sĩ và công chúa Huyền Trân.

    Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm

    Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử

    Nắng vắng trong hư không,

    nhưng nắng chất đầy một lò sưởi đỏ.

    Ai nói là không có nắng?

    Nắng trong trái khổ qua, nắng trong lò sưởi.

    Nắng lên thành mầu Khói, thơ đọng lại thành mầu Sương.

    Không có sự xa cách nào hết, nắng luôn luôn có đó cho mình và vì vậy thơ cũng luôn luôn có mặt.

    Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm

    Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử

    Nắng vắng trong hư không,

    nhưng nắng chất đầy một lò sưởi đỏ.

    Nắng lên thành mầu Khói,

    thơ đọng thành mầu Sương

    Nắng cất giữ trong từng hạt mưa Xuân

    Giọt nước cúi xuống hôn đất, cho hạt cây nẩy mầm

    Thơ đi theo mưa, về trên từng đọt lá

    Nắng thành mầu xanh, thơ mầu hồng

    Thơ cũng có mầu và nắng không phải chỉ là mầu vàng hay là mầu đỏ. Nắng có thể là mầu xanh. Mình là người tu thì mình có khả năng thấy được nắng trong màu xanh. Tại vì nếu không có nắng thì làm sao có màu xanh của cây cỏ? Cho nên thấy màu xanh của cây cỏ là phải thấy nắng, không thấy như vậy thì không thấy được duyên sinh mà không thấy được duyên sinh thì không thấy được Bụt, dầu cho mình vào chánh điện một ngày mười lần cũng vậy. Cho nên mình phải thấy nắng là mầu xanh và mình phải thấy nắng trong những màu khác, mình phải thấy thơ màu hồng và thơ thêm nhiều màu sắc khác nữa.

    Nắng chở trên cánh ong tới trút ấm lên đài hoa

    Khi con ong bay, nó chở những tia nắng trên đôi cánh và khi nó bay tới bông hoa thì nó trút nắng lên trên đài hoa.

    Nắng chở trên cánh ong tới trút ấm lên đài hoa

    Thơ theo nắng về rừng xa uống mật

    Có những tổ ong trong rừng và thơ theo nắng về rừng xa uống mật. Tại vì hoa với ong vốn gần nhau lắm. Hoa, ong với mật là một cho nên thơ mà đi theo nắng thì thơ thể nào cũng theo ong, mà thơ đi theo ong thì thơ thế nào cũng về rừng và thơ thành mật.

    Nắng chở trên cánh Ong tới trút Ấm lên đài hoa

    Thơ theo nắng về rừng xa uống Mật

    Tưng bừng, xôn xao, bướm ong về chật đất

    Nắng làm nên khúc múa, thơ làm nên lời ca

    Chiều nay, trong buổi văn nghệ các sư cô có múa và cái đó do thơ làm ra hết. Nắng làm nên khúc Múa. Ta thử nghĩ xem cái gì làm nên khúc múa nữa? Nếu không phải là nắng, nếu không có nắng thì làm sao quí vị múa được? Nếu trong quí vị không có nắng và không có thơ và không có khổ qua thì làm sao múa được?

    Nắng làm nên khúc múa, thơ làm nên lời ca

    Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày

    Thơ bây giờ trở thành mồ hôi của người nông dân, nhỏ từng giọt xuống đất khô.


    Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở

    Nắng rụng bên sông, bóng chiều ngập ngừng bỡ ngỡ

    Thơ đi về chân trời, nơi vầng sáng đang đắp chăn mây

    Chăn mây là cái mền làm bằng mây, đắp cho một người sắp đi ngủ và người đó là mặt trời. Mặt trời sắp đi ngủ và mây làm cái mền đắp cho mặt trời.

    Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi

    Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám

    Các vị có thấy rằng nắng mầu xanh, nhìn vào rổ rau tươi đó mình thấy mặt trời. Mình chưa nhìn thấy mặt trời trong rổ rau xanh là mình chưa thấy rau mà cũng chưa thấy mặt trời. Người tu là người quán chiếu về tự tánh duyên khởi, người tu nhìn vào rổ rau xanh là thấy được mặt trời và thấy được mặt trời thì mới thật sự thấy được rổ rau xanh, còn không thấy được như vậy thì không thật thấy cái gì hết.

    Việt Nam có gạo Tám thơm rất ngon, khi nhai hạt cơm gạo Tám thơm là thấy như mình nhai mặt trời, còn nếu không thấy tức là mình đang ăn trong thất niệm, ăn trong thất niệm tội lắm đó! Thế nào quí vị cũng đã từng được ăn cơm gạo Tám rồi mà quí vị không biết rằng mình đã ăn cơm gạo Tám. Có ai nói mặt trời dẻo thơm không?

    Thơ trong ánh mắt em thơ,

    thơ trong mầu da nắng sạm

    Thơ nơi từng cái Nhìn chăm chú

    Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm

    Đã là người tu thì phải nhìn với con mắt chánh niệm, phải có định lực, nhìn chăm chú, sâu sắc để có thể thấy hết được chân tướng của sự vật. Nhìn rổ rau phải thấy được mặt trời, thấy được nắng, mưa. Muốn như vậy thì phải thực tập chánh niệm trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày.

    Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương

    Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào Tiên tháng tám

    Mình đã đi tới tháng tám rồi.

    Thơ nơi từng bước chân thiền quán

    Nếu mà sư chú bước những bước chân có chánh niệm là sư chú đang làm thơ, nếu mà sư cô đang nhìn với ánh mắt của chánh niệm là sư cô đang làm thơ. Và sáu năm mà Siddhatta ở trong rừng để tu tập khổ hạnh là sáu năm làm thơ và nguồn thơ đó nó đã tỏa chiếu, nó đã trôi về cho nhân loại trong suốt 2500 năm.

    Thơ nơi từng dòng chữ

    Dòng chữ của cái gì ? Dòng chữ của những trang sách ngoại sử.

    Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương.

    Hồi đó, trước tình hình của đất nước chúng tôi không làm được gì nhiều về phương diện cứu trợ xã hội. Khi ấy đang ở nước ngoài, tuy không thể gửi tiền về cho những người nghèo được nhưng mỗi ngày thầy trò đều gói những gói quà gửi về Việt Nam với danh nghĩa là thân nhân. Ai cũng biết rằng thuốc Tây thời đó có giá trị kinh tế cao nên thầy trò đã gửi những hộp thuốc Tây về và biết rằng những loại thuốc nào thì người nhận có thể giữ lại một hộp để uống còn những hộp thuốc khác đều đem bán để lấy tiền để mua gạo và mua thức ăn.

    Có biết bao nhiêu người cần được cứu trợ mà ở nhà chưa có thuốc tây, hồi đó đất nước bị phong tỏa nên thuốc men rất thiếu thốn, người dân chỉ dùng toàn thuốc dân tộc, chưa có “thuốc phi dân tộc” mà thiên hạ lúc ấy rất cần những “thuốc phi dân tộc” như: vitamin B, B1, B6, B12. Đối tượng mà thầy trò tôi gửi những thùng thuốc ấy là những gia đình có người đi học tập cải tạo, cho những trẻ em đói, cho các gia đình văn nghệ sĩ. Khi nhận được những gói quà này thì các gia đình có thể sống được trong ba tháng hay là bốn tháng và cũng có thể có phương tiện đi thăm nuôi những người đang ở trong tù hay trong các trại học tập cải tạo.

    Hồi ấy người ta chưa vượt biên nhiều, chưa có thuyền nhân nhiều, chưa có đồng bào ở Cali, ở Pháp để có thể gửi tiền về cho người thân của họ, nhưng mình đã “sản xuất” ra không biết bao nhiêu là “thân thân nước ngoài”. Theo luật lúc đó thì mỗi gói quà gởi về chỉ được tối đa là 1 kg, cho nên mình đã chọn những loại thuốc có thể bán được tiền nhiều nhất và trong những nắp hộp đề có ghi lời căn dặn: “Thuốc này rất quý, thuốc này phải bán với giá này mới không bị lỗ, còn cái hộp này có thể giữ lại để trị bệnh cho gia đình và phải uống như thế này, thế này…” Người nhận được hướng dẫn rất kỹ cách sử dụng để có thể vừa trị bệnh cho gia đình vừa mua được gạo mà cầm cự sống sót qua mấy tháng trước khi nhận được một gói quà mới.

    Bưu điện mỗi ngày nhận hàng trăm gói quà như vậy và họ rất lấy là lạ. Những gói quà gửi về Hà Nội, Huế cho tới Sài Gòn. Thầy trò chúng tôi đều thực tập chuyện gói quà, lấy dây để cột và viết những hàng hướng dẫn trên nắp hộp một cách rất khéo để không bị hiểu lầm là bức thư có tính cách chính trị.

    Người họ Đào thì có thân nhân họ Đào ở bên này gởi về, người họ Lê thì có thân nhân người họ Lê gởi về, toàn những cái thân, cái tên hóa ra hết. Vì vậy mình cần rất nhiều hóa danh và hóa thân, ví dụ ở bên kia là Đào Duy Từ thì bên này có cháu là Đào thị Mây, bên kia là Lê Thương thì bên này là Lê thị Phương Hương.

    Như một phép lạ, có những văn nghệ sĩ đã buông bút, không sáng tác nữa vậy mà khi nhận được những gói quà và những lời thăm hỏi khơi gợi cảm hứng, đã thúc đẩy họ họ sáng tác trở lại. Thầy trò làm việc dưới sự chỉ huy của sư cô Chân Không, sư cô rất giỏi về lĩnh vực này, sư cô biết rất rõ thuốc này là thuốc nào, đáng giá bao nhiêu, làm sao để không bị đánh lừa, làm sao để bán được với giá cao nhất và những điều đó đều được ghi lại trong những bức thư.

    Thơ từng bước chân nơi thiền quán

    Thơ nơi từng dòng chữ

    Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương

    Hồi ấy phải làm một cách rất là kín đáo, để không ai biết là mình làm việc cứu trợ xã hội. Làm kín đáo thì bên kia mới có an ninh và việc làm này hoàn toàn không có danh, có lợi gì hết. Mỗi tuần thầy trò nhịn đói một buổi chiều để nhớ là bên quê nhà dân mình đang đói khổ. Tôi nhớ là thầy trò tôi đã sống một cách rất xứng đáng trong thời gian đó và vượt thắng được những thất vọng, những u buồn, những gánh nặng bằng phương pháp tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống và nuôi lớn tình thương ở trong trái tim của mình, chớ không để cho nó khô héo và chết dần chết mòn.

    Trong cuộc đời có những lúc chúng ta rơi vào tình trạng bế tắc, không biết mình có thể làm được gì nhưng một khi đã tìm ra được một vài việc có thể giúp cho chí hướng phục vụ, chí hướng thương yêu được biểu hiện thì trong người mình bỗng cảm thấy nhẹ nhàng và mình có thể sống vui được trong hoàn cảnh đó, còn nếu như khi ấy mình bị hoàn cảnh chi phối, mình sống một cách bất động không tìm ra con đường nào để đi hết thì rất là khó sống.

    Nếu không có thơ, nếu không có nắng, nếu không có bát canh khổ qua, nếu không có hoàng hôn, nếu không có những bước chân thiền quán, nếu không có những dòng ngoại sử, nếu không có những nắp hộp để mình dàn trải tình thương của mình vào đó thì làm sao mình sống được? Và đó là nuôi tình thương. Tình thương ở đâu mà nuôi? Tình thương bên nhà hay là bên này? Tình thương nằm trong trái tim mình và mình phải nuôi tình thương thì mình mới sống được. Chừng nào tình thương của mình chết là chừng đó mình cũng chết luôn. Bởi vậy, người tu là người phải biết nuôi tình thương và có khi phải nuôi cho kín đáo, đừng có rầm rộ.

    Ngoài ra cũng phải nuôi mình bằng thơ nữa nếu không mình cũng sẽ chết.

    Bài thơ này có tựa đề là Thơ Từng Ôm và Mặt Trời Từng Hạt. Thường thường người ta nhìn mặt trời như những luồng ánh sáng nhưng ở đây mình thấy từng hạt. Tại vì không có mặt trời thì làm sao mà nước bốc thành hơi, hơi trở thành mây và đến khi mây nặng thì hóa thành mưa rơi xuống dưới dạng những hạt nước và mình phải thấy trong những hạt mưa có mặt của mặt trời. Vì vậy mặt trời có thể thấy được từng hạt và thơ có thể thấy từng ôm, ta dễ thấy một ôm hoa hay một ôm lá nhưng ta cũng thấy được một ôm mặt trời. Mình đã rất nhiều lần ôm từng ôm mặt trời đưa vào trong nhà, chất lại, nó là những ôm củi, tại vì trong những ôm củi đó có chất chứa mặt trời bên trong.

    Bài “Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt” sử dụng một hình ảnh mầu nhiệm của tương tức và tương tục để nói lên nếp sống lý tưởng của mình. Tuy không có mục đích để nói, nhưng tự thơ đã phản ảnh lại sự sống hàng ngày của mình và bài thơ nào cũng có chất liệu của sự nuôi dưỡng.

    Nếu tình thương của anh, của chị không được nuôi dưỡng thì anh, chị sẽ chết. Chết với tư cách của một người làm cách mạng, chết với tư cách của một người tu. Vì vậy phải tự lo liệu cái thân của mình mà lo cho thân mình tức là lo cho lý tưởng của mình, lo cho tăng thân của mình. Đừng bao giờ để cho mình bị khô cạn, bị đốt cháy, đừng để cho khổ đau tiêu diệt mình, đừng để cho tuyệt vọng xâm chiếm mình. Cuộc đời của người đi tu cũng không khác gì cuộc đời của một nhà cách mạng. Biết bao nhà cách mạng đã ngã gục trên con đường lý tưởng của mình, biết bao người tu cũng ngã gục trên con đường lý tưởng của mình. Vì vậy cho nên cả người cách mạng, cả người tu đều phải biết giữ gìn thân tâm, phải biết thương lấy mình, đó là kinh nghiệm của tôi. Biết tự nuôi dưỡng thân tâm thì mới có thể đi xa được. Phải ngước lên để trông thấy trăng sao, mà đừng đòi về với cát bụi.

    Giá trị của mình không phải nằm ở chỗ mang nhiều khắc khoải, thao thức. Nếu anh chị không có nỗi thao thức trong lòng để đi tới thì anh chị cũng chết. Nhưng nếu anh chị bồn chồn, khắc khoải lắm anh chị cũng chết. Giá trị của mình là ở chỗ biết giữ gìn thân tâm, nuôi dưỡng tình thương để gìn giữ cho năng lực đừng cạn kiệt

    Hành phương nam

    Hai ta lưu lạc phương Nam này
    Đã mấy mùa qua én nhạn bay
    Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
    Riêng ta với ngươi buồn vậy thay !

    Lòng đắng xá chi muôn hớp rượu
    Mà không uống cạn mà không say !
    Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
    Mà áo khinh cừu chưa ai may !

    Ngươi giam chi khí vòng cơm áo
    Ta trói thân vào lụy nước mây
    Ai biết thương nhau từ buổi trước
    Bây giờ gặp nhau trong phút giây


    Nợ tình chưa trả tròn một món
    Sòng đời, thua đến trắng hai tay
    Quê nhà xa lắc xa lơ đó
    Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

    Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
    Ly tán vì cơn gió bụi này
    Người ơi ! Buồn lắm mà không khóc
    Mà vẫn cười qua chén rượu đầy
    Vẫn dám  tiêu hoang  cho đến hết
    Ngày mai ra sao rồi sẽ hay
    Ngày mai sáng lạn màu non nước
    Cốt nhất làm sao tự buổi này
    Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
    Mắt đỏ lên rồi, cứ chết ngay.

    Hỡi ơi ! Nhiếp Chính mà băm mặt
    Giữa chợ ai người khóc nhận thây?
    Kinh Kha quán lạnh sầu nghiêng chén
    Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?
    Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
    Giày cỏ, gươm cùn, ta đi đây

    Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
    Đã dấy phong yên khắp bốn trời
    Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
    Uống say mà gọi thế nhân ơi !

    Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
    Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
    Dằn chén hất cao đầu cỏ dại
    Hát rằng phương Nam ta với ngươi
    Ngươi ơi ! Ngươi ơi ! Hề ngươi ơi !
    Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
    Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi !


    (Nguyễn Bính – Đa Kao 1943)

    ____________________________________

    Nguyễn Bính sinh vào năm 1918 với tên thật Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội nay là xã Cộng Hòa, huyện Vụ Bản, tỉnh Hà Nam Ninh nay là tỉnh Nam Định.

    Thuở nhỏ Nguyễn Bính không được đi học ở trường mà chỉ được học ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và người cậu ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy kèm. Ông mồ côi mẹ rất sớm, gia đình túng quẫn, lên 10 tuổi đã phải theo anh là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Nội sinh sống. Thời gian này ông được người anh dạy học ở nhà. Năm 13 tuổi ông đã bắt đầu làm thơ và năm 1937 được giải khuyến khích về thơ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn với tập thơ Tâm hồn tôi. Những năm đầu thập niên 1940, Nguyễn Bính nhiều lần lưu lạc vào miền Nam và đổi tên là Nguyễn Bính Thuyết. Năm 1943, Nguyễn Bính lại đi vào miền Nam lần thứ ba và đã gặp Đông Hồ, Kiên Giang. Đó là thời ông viết những bài Hành Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ Độ Về Đây… Chính vì vậy ông được gọi là “thi sỹ giang hồ”.

    Năm 1947, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Nam. Đến năm 1954, khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước, Nguyễn Bính tập kết về Bắc năm 1955 và được bố trí phục vụ trong Hội Nhà Văn ở Hà Nội một thời gian. Năm 1956, ông được giao nhiệm vụ phụ trách tờ Trăm Hoa và tham gia vào phong trào Nhân văn – Giai phẩm. Đến năm 1958, bị buộc chuyển về tỉnh nhà Nam Định phục vụ trong Ty Văn hoá Nam Định cho đến khi mất.

    Nguyễn Bính mất ngày 20 tháng 1 năm 1966, để lại cho đời nhiều tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Lỡ Bước Sang Ngang (1940), Tâm Hồn Tôi (1940), Hương Cố Nhân (1941), Mây Tần (1942), Người Con Gái Ở Lầu Hoa (1942), Tình Nghĩa Đôi Ta (1960), Tuyển Tập Nguyễn Bính (1984); kịch thơ Bóng Giai Nhân (1942); truyện thơ Truyện Tỳ Bà (1944)…

    Bình thơ Thế Lữ – Giây phút chạnh lòng

    Bài thơ Giây Phút Chạnh Lòng của Thế Lữ được viết năm 1936 để tặng cho Nhất Linh, tác giả tiểu thuyết Đoạn Tuyệt. Tôi nhớ bài thơ này được in vào đầu trang tiểu thuyết Đoạn Tuyệt.

    Trong cuộc sống hàng ngày lâu lâu tâm mình hơi chùng xuống một chút, yếu đi một chút, mất đi một ít năng lượng, giây phút ấy gọi là giây phút chạnh lòng.

    Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
    Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
    Đã quyết không mong sum họp mãi.
    Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?

    Đó là lời của một người con gái nói với một người con trai trong giờ phút người con trai từ giã để lên đường phụng sự lý tưởng của mình. Chuyện xảy ra đã nhiều năm trước và hôm nay người con trai đang ngồi hồi tưởng lại.

    Đất nước hồi đó còn nằm dưới sự đô hộ của người Pháp. Những người thanh niên Việt Nam lớn lên bắt đầu có ý thức rằng đất nước mình không phải là một đất nước độc lập cho nên tâm tư họ có những xao xuyến, thao thức: làm thế nào để giành lại độc lập cho đất nước mình, tự mình làm chủ lấy mình?

    Trong khi đó guồng máy công an, cảnh sát dưới sự cai trị của người Pháp rất hùng hậu, vững mạnh. Họ tìm mọi cách để người Việt không có cơ hội đứng dậy giành lại chủ quyền. Nhưng những thanh niên tân học thấy rõ ràng rằng người dân của một nước mà không làm chủ được đất nước của mình là chuyện rất nhục nhã, không những đối với quốc dân trong giờ phút hiện tại mà còn đối với tổ tiên, tại vì tổ tiên của mình cũng đã từng tranh đấu để quốc gia có chủ quyền, có độc lập. Trung Quốc đã từng chiếm cứ đất nước Việt Nam đến một ngàn năm. Việt Nam trở thành lãnh thổ, một tỉnh của Trung Quốc. Việt Nam trong thời kỳ ấy hoàn toàn bị mất chủ quyền đối với người Trung Quốc.

    Khi Thế Lữ viết bài này thì Việt Nam đã bị Pháp đô hộ gần một trăm năm. Thế Lữ cũng như một số các bạn đã từng có cơ hội đi sang Pháp du học, đậu bằng cử nhân khoa học. Vì vậy những người đó biết thế nào là một quốc gia có chủ quyền, nên khi về nước họ rất thao thức, muốn kết hợp bạn bè, tìm mọi cách để có cơ hội giành lại độc lập cho tổ quốc.

    Người Pháp không cho phép ra những tờ báo hay in những cuốn sách và thành lập những tổ chức với mục đích gây ý thức cho quốc dân nhằm khôi phục lại nền độc lập. Nhưng các thanh niên đó đã tìm đủ mọi cách khéo léo để xuất bản những tờ báo, lập những nhà xuất bản sách để truyền bá gián tiếp những tư tưởng đó cho quốc dân. Họ chỉ cần một tờ báo thôi, một nhà xuất bản thôi, vậy mà trong vòng sáu năm, bảy năm họ đã gây được ý thức trong quốc dân và ảnh hưởng của họ đối với quốc dân rất lớn. Nhất Linh là một người đã từng bí mật tổ chức những đảng chính trị để hoạt động, đã từng bị người Pháp bắt bỏ vào tù và đã từng trốn qua Trung Quốc để lánh nạn nên những điều mà Nhất Linh nói, những điều Thế Lữ nói là những điều phát xuất từ kinh nghiệm của chính mình.

    Anh đi đường anh, tôi đường tôi.
    Tình nghĩa tôi ta có thế thôi.
    Đã quyết không mong sum họp mãi.
    Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?

    Người con gái nói với người con trai: Anh đi cứu nước đi, em sẽ ở nhà. Người con gái này tên là Loan và người con trai tên là Dũng. Loan sinh trưởng trong một gia đình phong kiến, có những lề thói không còn phù hợp với nếp sống mới nữa và nhất là tình trạng mẹ chồng nàng dâu đã làm Loan rất khổ sở. Loan là người đã từng được đi học trường Tây và đã học hết bằng trung học Pháp. Loan đã bị ảnh hưởng tư tưởng Tây phương về tình yêu tự do và không muốn bị ràng buộc vào đại gia đình. Nhưng vì hoàn cảnh, Loan bắt buộc phải lấy Thân mà không được lấy người mình yêu là Dũng. Tại vì Dũng có những tư tưởng cách mạng nguy hiểm nên cha mẹ Loan cấm không cho phép Loan yêu Dũng, lấy Dũng mà bắt Loan phải lấy Thân, một người con trai rất tầm thường.

    Hai vợ chồng Loan có một đứa con nhưng chẳng may đứa bé đó chết và bà mẹ chồng nghĩ rằng vì Loan không thể sinh đẻ được nữa nên đã bắt ép Loan phải đồng ý cho Thân cưới một người vợ lẽ. Loan là một thiếu nữ được học trường Tây, cô mang trong mình tư tưởng tự do cá nhân của Tây phương mà phải sống trong khung cảnh gia đình phong kiến với những lề thói ép buộc như vậy thì rất là đau khổ, cho nên Loan thường hay nhớ tới người yêu xưa là Dũng. Còn Dũng thì thấy mình không còn có cơ duyên nào nữa để có thể cưới Loan nên quyết tâm đi kháng chiến, đi làm cách mạng.

    Có một nguyên do thầm kín nữa là mẹ của Loan có mắc nợ mẹ của Thân nên phải hứa gả Loan cho Thân. Điều này Loan chỉ khám phá ra sau khi sự việc bị đổ vỡ. Trong một cuộc xung đột, khi Thân xông tới để đánh Loan thì tai nạn xảy ra. Thân vấp té vào lưỡi dao Loan đang cầm để rọc giấy, lưỡi dao đó đâm vào bụng Thân và Thân chết. Lúc ấy báo chí Hà Nội loan tin: Cô Loan giết chồng! Cô Loan giết chồng! Rốt cuộc nhờ một cặp vợ chồng người bạn vận động các luật sư giỏi để cãi cho Loan nên cuối cùng thì Loan được tha bổng vì đây là trường hợp tai nạn chứ không phải là tội cố ý giết chồng. Lúc đó Dũng đang hoạt động cho cách mạng, bí mật đi công tác về thành phố và đã nghe tin có buổi xử án như vậy.

    Đêm đó là một đêm giao thừa, và người con trai không có gia đình đã bôn ba nhiều năm, sống rất vất vả, khó khăn, trong khi về công tác ở thành phố và được nghỉ ngơi một vài ngày trước khi tiếp tục lên đường thì nghe tin tòa xử trắng án cho Loan. Dũng nhớ tới ngày xưa khi hai người yêu nhau, và có ý muốn rằng bây giờ Loan được tự do rồi, thì mình sẽ tìm cách liên lạc với Loan để nối lại tình yêu ngày xưa. Dũng nhờ hai vợ chồng cô giáo Thảo liên lạc để dò xem ý của Loan như thế nào? Đây là những ý tưởng tới với Dũng khi Dũng nằm trên căn gác một mình lạnh lẽo chiều cuối năm và nhớ lại những điều ngày xưa Loan đã nói với Dũng lúc hai người chia tay nhau:

    Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
    Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.

    Lúc ấy giọng điệu Loan rất cứng cõi, mạnh mẽ để giúp Dũng phấn chấn lên đường, có thêm  nghị lực mà hoàn thành công việc.

    Nàng còn nói: Duyên của chúng ta không thuận lợi thì em đi lấy chồng, anh đi làm cách mạng. Tại sao phải vương vấn với nhau cho nó khổ? Anh cứ đi đi và em sẽ âm thầm yểm trợ.

    Đã quyết không mong sum họp mãi.
    Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?

    Tại sao phải bịn rịn, anh cứ đi, em không sao đâu!

    Non nước đang chờ gót lãng du
    Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
    Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
    Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ

    Nước non đang cần những người con trai như anh. Anh hãy đi đi. Chinh phu là những người con trai đi đánh trận, đi làm cách mạng đánh đuổi quân ngoại xâm.

    Em có thương, có tiếc thật nhưng vì lý tưởng mà em đành để cho anh đi và em thúc đẩy cho anh đi, anh là con trai, anh không nên bịn rịn.

    Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ.

    Hải hồ tức là sông biển, nơi người con trai có không gian thênh thang để tung hoành. Ý nói rằng tình là cái vướng víu, nếu anh có chí hướng cao cả, anh phải giật đứt sợi giây tình để anh có không gian thênh thang mà thực hiện chí hướng của người con trai.

    Anh đi vui cảnh lạ, đường xa,
    Đem chí bình sinh dãi nắng mưa,
    Thân đã hiến cho đời gió bụi
    Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ?

    Anh đang đi trên con đường rất đẹp, con đường của cách mạng, con đường đem lại độc lập tự do cho đất nước. Anh đã có chí bình sinh, có tình yêu đối với tổ quốc, anh sẽ không sợ nắng mưa, khó khăn. Cuộc sống của anh đã hiến tặng cho lý tưởng phụng sự đất nước, tại sao anh còn bịn rịn?

    Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ?

    Người con gái đem chút duyên tơ, sự thông minh và thiện chí của mình để giúp người con trai ra đi, rất vững vàng. Nhưng sức người có hạn, cô chỉ nói được như thế trong mười hai câu thôi, đến câu thứ mười ba thì người con gái chùng xuống.

    Rồi có khi nào ngắm bóng mây,
    Chiều thu đưa lạnh gió heo may.
    Dừng chân trên bến sông xa vắng,
    Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây.

    Trong bốn câu này, tâm tình của Loan bắt đầu chùng xuống và tất cả những thiện chí được diễn tả trong mười hai câu trên do đó đã tan thành mây khói. Trên con đường anh đi, có khi nào anh dừng lại ngắm một bóng mây ở chân trời? Và một buổi chiều nào lành lạnh có gió heo may, đứng trên bờ sông xa vắng thì xin anh nhớ lại một chút là ngày xưa chúng ta đã từng yêu nhau.

    Dừng chân trên bến sông xa vắng
    Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây,

    Như vậy là chết rồi !

    Xin anh cứ tưởng, bạn anh tuy
    Giam hãm thân trong cảnh nặng nề.
    Vẫn để hồn theo người lận đận,
    Vẫn hằng trông đếm bước anh đi.

    Anh nên nhớ bạn của anh tuy đang bị kẹt trong một hoàn cảnh nặng nề, khó thở, nhưng mà trái tim của người đó vẫn luôn luôn theo dõi bước chân anh và cầu nguyện anh đạt thành chí nguyện. Đó là những lời mà cô nàng đã nói nhiều năm về trước và bây giờ anh chàng nhớ lại. Anh cảm thấy cô độc, cảm thấy cuộc đời của người chinh phu lạnh lẽo, có những giây phút nhớ nhà, có những giây phút cần có sự ấm cúng, có những giây phút cần sự có mặt của một người thương. Giây phút đó là giây phút chạnh lòng.

    Lấy câu khẳng khái tiễn đưa nhau,
    Em muốn cho ta chẳng thảm sầu.
    Nhưng chính lòng em còn thổn thức,
    Buồn kia em giấu được ta đâu?

    Chàng trai ngay từ lúc đó đã biết rằng tuy cô gái đang dùng những lời khẳng khái để động viên mình nhưng kỳ thực trái tim của nàng đang còn thổn thức lắm.

    Lấy câu khẳng khái tiễn đưa nhau,
    Em muốn cho ta chẳng thảm sầu,

    Là sự vuốt ve, là lòng tốt của người con gái.

    Nhưng chính lòng em còn thổn thức

    Anh biết rằng trái tim của em đang thổn thức, nỗi buồn ấy của em, làm sao giấu được anh?

    Em đứng nương mình dưới gốc mai,
    Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
    Cười nâng tà áo đưa lên gió,
    Em bảo: hoa kia khóc hộ người.

    Khi hai người chia tay, họ đứng ở dưới một gốc mai. Loan vịn vào cành mai và có những hoa mai rơi rụng xuống. Hoa khóc chứ em đâu có khóc, Loan đã nói như vậy.

    Rồi bỗng ngừng vui cùng lẳng lặng,
    Nhìn nhau bình thản lúc ra đi.
    Nhưng trong khoảnh khắc thờ ơ ấy,
    Thấy cả muôn đời hận biệt ly.

    Hai người nói nói, cười cuời nhưng tới giây phút biệt ly, người con trai phải đi thôi. Hai người không còn nói nữa, họ im lặng, họ im lặng trong chốc lát rồi người con trai bước đi. Giây phút đó là giây phút khó khăn nhất của cả hai người vì không có hy vọng gì để trong tương lai hai người có thể đoàn tụ với nhau được.

    Anh đi đường anh, tôi đường tôi

    Đất nước đang lâm nguy, lại thêm ảnh hưởng nặng nề của chế độ phong kiến, nên đã gây ra không biết bao nhiêu mất mác, chia ly đau thương. Ta có thể thấy, hai vấn đề lớn của đất nước vào những năm 30 :

    –  Vấn đề thứ nhất : đất nước không có chủ quyền.

    –  Vấn đề thứ hai : xã hội đang bị chìm đắm, ràng buộc trong những lề lối phong kiến, xưa cũ.

    Dân trí chưa mở và những tập tục phong kiến chưa thể tháo được là hai trở lực mà cả hai người đang phải chịu đựng. Người con trai ra đi hoạt động để thay đổi tình trạng, còn người con gái ở nhà có thể làm được gì hay chỉ tiếp tục làm nạn nhân cho những tập tục phong kiến của gia đình cô?

    Nhất Linh sinh vào năm 1905 và viết cuốn tiểu thuyết này lúc 31 tuổi. Cuốn sách có tựa là « Đoạn Tuyệt », muốn đoạn tuyệt với tất cả những cái gì cổ hủ, phong kiến của xã hội, của gia đình, nó đã trói buộc tự do của con người. Thế Lữ đã viết bài thơ « Giây Phút Chạnh Lòng » này để tặng cho Nhất Linh cũng vào năm đó, tức là năm 1936.

    Hồi đó họ chỉ là một nhóm nhỏ có khoảng sáu bảy người gọi là « Tự Lực Văn Đoàn ». Họ sinh ra vào đầu thế kỷ hai mươi, khoảng năm 1905, 1906 và 1907. Họ có cơ duyên được đi học và được ảnh hưởng tư tưởng tự do dân chủ của Tây phương nên họ quyết định phải làm một cái gì cho đất nước. Một mặt họ muốn tổ chức những hội kín để vận động quần chúng đi tới chuyện lật đổ chánh quyền Pháp, một mặt họ biết rằng mật thám Pháp có khắp nơi, trong đó có rất nhiều người Việt đi theo Pháp để làm tay sai, để do thám họ vì vậy công việc của họ rất khó khăn. Biết bao nhiêu người đã bị bắt, bị ở tù, bị xử tử vì đã muốn đứng dậy để làm cách mạng đánh đuổi Pháp.

    Năm 1932, có một tờ báo sắp chết tên là Phong Hóa, nhóm văn sĩ ấy xin lại giấy phép của tờ báo đó và với tài năng của mình, họ làm cho tờ báo đó trở thành một tờ báo rất nổi tiếng trong quốc dân. Họ viết những truyện ngắn, những truyện dài, họ làm những bài thơ, họ viết những bài khảo luận đánh động vào tâm trí của giới trẻ và tức khắc rất nhiều thanh niên trong toàn quốc đã trở thành độc giả của báo Phong Hóa (Bộ mới 1932, số 13).

    Nhất Linh tên thật Nguyễn Tường Tam có người em trai tên là Nguyễn Tường Long lấy bút hiệu Tứ Ly. Tứ ly là giờ xấu nhất trong ngày (người ta thường kiêng làm những chuyện quan trọng vào giờ này), và Tứ Ly đã thật sự là một cây bút châm biếm tài tình. Tất cả những gì cổ hủ, lỗi thời, tất cả những gì lố bịch, ông ta đều dùng ngòi bút để châm biếm và cây bút Tứ Ly đã làm cho chính quyền, nhất là chánh quyền Pháp, rất sợ hãi và đến năm 1936 chính quyền Pháp bắt buộc phải đóng cửa tờ Phong Hóa.

    Chưa chịu thua, nhóm Tự lực văn đoàn đã tìm cách cho ra đời một tờ báo khác với tên gọi « Ngày Nay ». Kỳ này, Nguyễn Tường Long bỏ bút hiệu Tứ Ly, lấy bút hiệu mới là Hoàng Đạo –Hoàng đạo là giờ tốt nhất trong ngày. Với những bài khảo luận, truyện ngắn, truyện dài, họ giúp mở dân trí, và chỉ trong vòng bảy tám năm, họ đã giúp thay đổi được suy nghĩ của cả một thế hệ thanh niên trong nước. Tôi lớn lên trong hoàn cảnh ấy và đã bị ảnh hưởng tư tưởng và văn chương của Tự Lực Văn Đoàn khá nhiều.

    Một người con trai lớn lên trong không khí, trong hoàn cảnh ấy, rõ ràng chỉ có hai cách lựa chọn : một là vâng lời cha mẹ đi cưới vợ và sống trong môi trường cũ ; hai là bỏ nhà đi làm cách mạng. Một là làm như Loan, lập gia đình, sanh ra vài ba đứa con, cho nó đi học rồi chịu đựng tất cả những tập tục cổ hủ; hai là làm Dũng, cương quyết bỏ ra đi làm cách mạng. Nếu không có nhân duyên trở thành người xuất gia, chắc tôi cũng đã đi vào một trong hai con đường ấy, và hôm nay, tôi đã không ngồi đây.

    Thời đó ảnh hưởng của Tự Lực Văn Đoàn rất lớn, thơ của Thế Lữ, của Xuân Diệu và tiểu thuyết của Khái Hưng, của Nhất Linh ảnh hưởng đến tuổi trẻ rất nhiều. Thơ của Nguyễn Bính, những câu thơ rất đơn giản cũng đã ảnh hưởng sâu sắc tới tôi. Xin đọc lại vài câu để xem có thầy cô nào nhớ nhà không?

    Tết này chưa chắc em về được
    Em gửi về đây một tấm lòng
    Ôi, chị một em, em một chị
    Trời làm xa cách mấy con sông
    ………………………………
    Cột nhà hàng xóm lên câu đối
    Em đọc tương tư giữa giấy hồng
    Gạo nếp nơi đây sao trắng quá
    Mỗi ngày phiên chợ lại thêm đông

    Tôi đọc những dòng này hồi mười mấy tuổi mà tới bây giờ vẫn còn thuộc.

    Gạo nếp nơi đây sao trắng quá
    Mỗi ngày phiên chợ lại thêm đông
    ……………………………
    Đêm nay em thức thi cùng nến
    Ai biết tình em với núi sông

    Lớn lên, đêm giao thừa nào, tôi cũng ưa ngồi một mình, đốt đèn bạch lạp, và đọc thơ, chỉ vì chịu ảnh hưởng vỏn vẹn hai câu thơ của Nguyễn Bính. Và khi trở thành một ông thầy tu trẻ, tôi vẫn còn thói quen đó, cũng tìm ba ngọn bạch lạp, cũng đem thơ của thi sĩ mình yêu thích ra đọc. Bây giờ, tôi bỏ cái tật ấy rồi, đêm giao thừa ngồi chơi với đệ tử thôi.

    Ngày xưa có cái mốt là những người trí thức văn nghệ sĩ tới giờ giao thừa là phải đốt nến, đốt trầm lên để đọc thơ, nhất là nến bạch lạp (đèn cầy trắng) và thơ phải in trên giấy thật tốt tức là giấy bản trắng. Đọc thơ Đường in trên giấy lụa dưới ánh sáng của bạch lạp là một hình ảnh đẹp. Hồi đó chưa có đèn điện, mà thắp đèn dầu mờ mờ thì đọc thơ không được rõ lắm. Vì vậy thắp lên một ngọn bạch lạp, thắp lên hai ngọn bạch lạp, hoặc thắp lên ba ngọn bạch lạp để đủ ánh sáng mà đọc thơ.

    Cách đây mấy hôm, tôi thấy có một vị trên xóm Thượng đọc tiểu thuyết của Minh Đức Hoài Trinh, tôi nói thôi đừng có đọc cái này. Tại vì tôi biết hơn ai hết, mình đọc cái gì thì sẽ thường chịu ảnh hưởng cái đó. Vì vậy phải rất cẩn thận với nội dung văn nghệ mà mình tiêu thụ. Trong luật nói rằng, vị sa di, sa di ni muốn đọc sách gì thì phải hỏi y chỉ sư, điều này rất đúng. Vì nếu rủi mình đọc lỡ những cuốn có chất độc, thì nó hại mình lâu lắm.

    Hồi còn làm học tăng tại Phật học đường Báo Quốc, tất cả các tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn chúng tôi đều không được đọc. Có mấy chú học tăng « ăn gian », làm một thư viện bí mật, mua những cuốn tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, đem giấu lên trên một cây nhãn, nếu chú nào muốn đọc thì chỉ cần ra leo lên cây nhãn mà đọc, ở dưới dù các thầy cứ đi ngang qua mà không biết rằng trên đầu mình học tăng đang đọc tiểu thuyết. Mình tưởng như vậy là mình khôn ranh lắm, mình qua mặt được mấy thầy, ai dè làm như vậy là tự đầu độc mình. Dầu đã là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni rồi, mình cũng phải cẩn thận lắm mới được, chỉ nên đọc những cuốn sách nào, và thưởng thức những tác phẩm văn nghệ nào mà không đem lại độc hại cho trái tim của mình mà thôi.

    Năm 1935 Hội Phật Giáo Bắc Kỳ xuất bản một tạp chí Phật học tên là tờ Đuốc Tuệ. Sự kiện của tờ Đuốc Tuệ, đã cứu được tôi. Nếu chỉ có Tự Lực Văn Đoàn thì một là tôi làm Loan và hai là làm Dũng. Nhưng nhờ có Đuốc Tuệ nên tôi đã làm Phùng Xuân. Tuy đã là Phùng Xuân rồi nhưng Loan, Dũng vẫn cứ đi bám lấy tôi. Tại vì những hạt giống mình đã gieo trước đó vẫn tiếp tục đi theo mình. Nhưng hạt giống của Đuốc Tuệ rất mạnh nên nó có thể ôm được cả hai hạt giống kia mà không sao cả. Tờ Đuốc Tuệ có những bài viết về Nhân Gian Phật Giáo, tức là về đề tài Phật Giáo Đi Vào Cuộc Đời. Và mầm móng về ước nguyện đem đạo Phật nhập thế trong tôi đã có từ đó.

    Tờ Đuốc Tuệ có nhiều bài viết nói đến các thiền sư Việt Nam trong quá khứ và hạnh nguyện của các ngài trong việc giúp dân, giúp nước. Điều này giúp tôi thấy được, đạo phật có thể đóng một vai trò rất lớn trong công cuộc xây dựng đất nước và cứu độ con người. Con đường phục vụ đất nước theo tinh thần đạo phật nhập thế đã mở ra cho tôi một chân trời mới rất rộng lớn.

    Tại thư viện quốc gia Pháp ở Verseille, quý vị có thể tìm được những tờ Đuốc Tuệ ngày xưa, vì mỗi số Đuốc Tuệ được phát hành, thì phải đem nộp lưu chiểu một bản. Và người Pháp đã đem về nước đầy đủ các ấn bản đã được phát hành từ số đầu –khoảng nam 1935, đến số báo cuối, khoảng nam1945, và lưu trữ nó tại thư viện quốc gia Pháp. Tờ Đuốc Tuệ chỉ được lưu hành khoảng mười năm. Nếu không có tờ Đuốc Tuệ và không có mười năm đó, đã không có tôi đang ngồi đây. Do vậy, những cái mà quí vị đang làm như Lá Thư Làng Mai, nhà xuất bản Parallax, nhà xuất bản Lá Bối, những khóa tu được tổ chức khắp nơi sẽ có ảnh hưởng rất lớn trong các thế hệ. Có thể trong vòng năm năm hay mười năm nữa, mình sẽ có thể tạo ra được một thế hệ mới, mình có thể làm nên lịch sử. Mình nên biết, mình đang nắm giữ lịch sử trong tay.

    Ngày xưa nhóm Tự Lực Văn Đoàn chỉ tồn tại dưới mười năm, nhưng đã làm được chuyện rất lớn. Chúng ta với tư cách là một tăng thân, nếu ý thức được con đường mình đi thì trong mười năm chúng ta cũng có thể làm được lịch sử.

    Năm năm theo tiếng gọi lên đường,
    Tóc lộng tơi bời gió bốn phương,
    Mấy lúc thẫn thờ trông trở lại,
    Để hồn mơ tới bạn quê hương.

    Cuộc sống của người chiến sĩ, của người đang ở chiến khu rất cực nhọc, không có sự an ủi, thiếu thốn tình thương nên thỉnh thoảng trong lòng hay nhớ lại người yêu cũ. Đây là một điểm yếu, và người con trai biết rằng nếu muốn thành đạt chí nguyện thì mình phải cương quyết đi tới, đừng để cho tâm hồn chùng lại, đừng để cho lòng mình có những giây phút trầm lắng xuống. Nhưng đã sinh ra làm con người thì làm sao tránh thoát khỏi những giây phút gọi là chạnh lòng đó? Vì vậy lòng mình, nhiều khi tự nhiên bất chợt yếu đi.

    Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng,
    Gác tình duyên cũ thẳng đường rong.
    Song le hương khói yêu đương vẫn,
    Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng.

    Người con trai nào lớn lên hoặc người con gái nào lớn lên mà không khao khát thương yêu? Dù lý tưởng của mình có vĩ đại cách mấy, dù Bồ Đề Tâm của mình có vững chãi cách mấy thì sự khao khát ấy cũng luôn luôn còn đó. Trên bước đường phụng sự, trên bước đường cách mạng, trên bước đường lý tưởng nếu có xảy ra những giây phút Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng cũng là chuyện bình thường thôi. Tôi đã quán chiếu và đã thấy trong trường hợp của một nhà cách mạng và trong trường hợp của một người tu, có sự khác nhau.

    Có một bài thơ khác của Thế Lữ có thể giúp mình hiểu được thêm về bài Giây Phút Chạnh Lòng này, đó là bài Tiếng Gọi Bên Sông. Tôi xin đi lạc đề một chút để đọc bài thơ này.

    Ta là một khách chinh phu,
    (một người đi làm cách mạng, một chiến sĩ)
    Dấn bước truân chuyên khắp hải hồ.
    Mũ lượt bốn bề sương nắng gội,
    Phong trần quen biết mặt âu lo.

    Vất vả bao từng, chi xá kể?
    Gian lao như lửa rèn tâm trí,
    Bấy lâu non nước mãi xông pha,
    Chưa phút dừng chân, chưa lúc nghỉ.

    Trong thuở bình sinh đôi mắt ta
    Không hề cho đẫm lệ bao giờ.

    (tôi chưa bao giờ khóc)
    Cười theo thất bại, khinh nguy hiểm,
    Nện gót vang đường nhịp khúc ca.

    Đang độ nam nhi vui trẻ hoài,
    Sầu tư bi thiết, gác bên tai.
    Trái tim chỉ rộn khi căm tức,
    Ghét lũ vô minh, giận nỗi đời.

    Vì bất bình, vì muốn có tự do dân chủ và bình đẳng xã hội mà đi làm cách mạng vậy thôi.

    Trong khi lật đật nẻo sông Mê,
    Trận gió heo may đuổi nhạn về.
    Bụi cuốn đường xa, chinh khách mỏi,
    Bỗng nghe tiếng hát vẳng bên kia.

    Cố nhiên trên bước đường của người chiến sĩ, lâu lâu cũng có những giờ phút mỏi mệt và trong những giờ phút ấy nếu có một tiếng hát rất trong trẻo vẳng lên thì lòng người chinh khách sẽ bị chùng lại:

    Tiếng hát trong như nước ngọc tuyền,
    Êm như hơi gió thoảng cung tiên,
    Cao như thông vút, buồn như liễu,
    Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên.

    Một người đi đường trường từ ngày này sang ngày khác, hai chân đã mỏi, mồ hôi đầm đìa, khát nước, cổ cháy khô mà tự nhiên thấy được một dòng nước trong, nghe được tiếng suối reo thì không dừng lại sao được? Trong lúc mệt mỏi lại được nghe một tiếng hát vẳng bên đường.

    Chinh phu trong dạ dường tê tái,
    Quay gót ta buồn trông trở lại.
    Đường vẫn còn xa, còn phải đi,
    Song le tiếng hát bên sông gọi.

    Người thiếu nữ bên sông nói rằng anh đi đâu mà vội mà vàng, anh hãy ngừng ở lại đây, và cái đó đánh động tới sự khao khát yêu thương của người con trai.

    Tiếng ái ân kia réo rắt hoài,
    Mà lời mây nước giục bên tai.

    Có hai khuynh hướng chống đối nhau, một bên là tiếng hát của ái ân, cứ tiếp tục réo rắt; một bên là lời mây nước giục bên tai, anh phải đi, anh phải đi, tại vì chí nguyện anh buộc anh phải dứt khoát lên đường.

    Tiếng ái ân kia cứ réo rắt hoài,
    Mà lời mây nước giục bên tai.
    Đau lòng dứt mối tơ vương vấn,
    Nước mắt đầu tiên lã chã rơi.

    Người con trai vừa khóc vừa bước đi vì không thể nào dừng lại được nữa, tại vì dừng lại là phản bội chí nguyện của mình. Có cái thế tương phản ở trong lòng làm người con trai phải khóc.

    Đau lòng rứt mối tơ vương vấn,
    Nước mắt đầu tiên lã chã rơi.

    Đây là lần đầu tiên người con trai khóc.

    Trong thuở bình sinh, đôi mắt ta,
    Không hề cho đẫm lệ bao giờ,

    Tôi chưa bao giờ khóc hết, tôi chỉ :

    Cười theo thất bại, khinh nguy hiểm,
    Nện gót vang đường nhịp khúc ca.

    Bây giờ, tôi khóc, vì có sự mâu thuẫn trong lòng. Mâu thuẫn giữa sự khao khát yêu thương và chí nguyện muốn thành tựu. Là con trai mới lớn, mình khao khát yêu thương như bất cứ người con trai nào. Nhưng non sông mờ cát bụi, nếu mình vướng víu vào chuyện tình duyên, làm sao mình có thể đạt thành chí nguyện? Cần phải dứt khoát, và lần đầu tiên nước mắt rơi xuống.

    Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng.

    Đó là cái lý trí.

    Gác tình duyên cũ thẳng đường trông
    Song le hương khói yêu đương vẫn
    Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng

    Không đuổi nó đi được, nó vẫn còn nằm trong trái tim.

    Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan
    Trong lúc gần xa pháo nổ ran
    Rũ áo phong sương trên gác trọ
    Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang

    Đây là một đêm giao thừa, là giờ phút người con trai chùng chân mỏi gối, là giờ phút người con trai nhớ về người yêu cũ và cảm thấy rất cô đơn và rất khao khát thương yêu.

    Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi

    Ai cũng đang lo chuẩn bị đón giao thừa. Ở Việt Nam có tám chục triệu người, ở Trung quốc có một tỷ hai trăm ngàn người đang chuẩn bị đón giao thừa. Nhà nào cũng có một cành mai, cũng có một cành đào, cũng có năm bảy cái bánh chưng, cũng có một phong pháo, chỉ có một mình là không có gì cả, ngoài một cái áo, một đôi giầy đầy bụi đường. Khi mùa xuân về và mọi người đang được đoàn tụ thì mình – thân chiến sĩ cô đơn trong cuộc đời, mình thấy mệt mỏi và khát khao.

    Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi,
    Trên đường rộn rã tiếng đua cười,
    Động lòng nhớ bạn xuân năm ấy,
    Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.

    Ta tìm thấy ba chữ xuân trong bốn câu thơ này : xuân nồng thắm khắp nơi, xuân đã về, bạn xuân năm ấy. Loan và Dũng cũng từng ngắm xuân về trên khóm mai. Ngày chia ly của hai đứa là một ngày xuân. Hôm đó, Loan mặc áo dài, tay vịn vào cành mai, nói những lời tiễn biệt. Loan làm rung cành mai, những cánh mai rơi xuống, và Loan nói, cây mai khóc dùm em, chớ em đâu cần khóc, em bảo hoa kia khóc hộ người.

    Lòng ta tha thiết đượm tình yêu.
    Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều,
    Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,
    Phút giây chừng mỏi gót phiêu lưu…

    Cuộc sống của người chiến sĩ quá kham khổ, quá khắt khe, thiếu vắng những cái vỗ về và nuôi dưỡng cho nên ý tưởng muốn bỏ cuộc đời chiến sĩ nó hấp dẫn, nó cứ tới ám ảnh hoài.

    Cát bụi tung trời – Đường vất vả
    Còn dài – Nhưng hãy tạm dừng chân.

    Chàng chiến sĩ ấy cho phép lòng mình chùng xuống trên căn gác trọ phong sương đó.

    Tưởng người trong chốn xa xăm ấy
    Chẳng biết vui buồn đón gió xuân?

    Không biết Loan còn nhớ mình hay không? Loan còn thương mình hay không? Dũng rất cần tình thương đó.

    Đêm hôm ấy liên lạc được với vợ chồng cô giáo Thảo, Dũng biết là Loan được tha bổng, Loan bây giờ có tự do rồi. Dũng có thể trở về với Loan như một cặp thanh niên tự do, không còn bị lề lối phong kiến ràng buộc nữa. Loan có thể xin đi dạy học hay đi làm nghề nào đó, Dũng cũng có thể đi kiếm một việc làm, hai người có thể kết hợp lại thành một gia đình. Trong căn gác đó Dũng lấy cây viết chì và một tờ giấy viết thơ cho Loan: Nếu em còn thương anh thì chúng ta hãy nghĩ tới chuyện trở về với nhau.

    Nếu chuyện này xảy ra thì không biết rằng lý tưởng của anh chàng sẽ đi tới đâu? Nếu hai người cưới nhau, hai người cần làm việc để kiếm sống thì lý tưởng của người chiến sĩ, người chinh phu đâu còn giữ được nữa? Vì vậy coi như con đường của Dũng bị thất bại.

    Quí vị nào chưa từng có cơ hội nghiên cứu về lịch sử của đất nước, chưa biết những gì đã xảy ra cho những thế hệ con trai và con gái sinh ra từ đầu thế kỷ thứ hai mươi thì đây là sự mời gọi, quí vị phải tạo ra cơ hội để làm chuyện đó.

    Quán chiếu thì chúng ta sẽ thấy con đường cách mạng cứu nước là một con đường rất hấp dẫn đối với thanh niên và con đường làm cách mạng xã hội để giải thoát thân phận của con người cũng là một con đường rất hay và những thanh niên sinh ra từ đầu thế kỷ thứ hai mươi đã dấn thân vào một trong hai con đường đó.

    Khi đem vào tình trạng một chiều thứ ba, tức chiều tâm linh, chúng ta thấy rằng chúng ta có thể có một bức tranh khác. Tờ Đuốc Tuệ đã đem tới một chiều thứ ba trong không gian của tôi và trong lòng người con trai mười lăm tuổi hồi đó đã mở ra được một hướng đi.

    Bây giờ nhìn lại, tôi thấy một cách rất rõ rệt là khi mình đi tu, cũng giống như mình đi làm cách mạng, tại vì hành động cạo đầu của mình đích thực là một hành động rất cách mạng. Hủy hình phi pháp phục, tức là hủy cái đẹp hình thức, mặc cái áo thầy tu là hành động can đảm. Cát ái từ sở thân, cắt đứt những dây lưu luyến ràng buộc với những  người thân, đó là quả thực là một hành động cách mạng.

    Hủy hình phi pháp phục
    Cát ái, từ sở thân

    Bỏ cái đẹp hình thức, mặc vào chiếc áo thầy tu, xa lìa những người thân yêu để đi theo lý tưởng độ chúng sanh, đó là nội dung phần đầu bài kệ được đọc lên khi đưa mái tóc cho thầy cạo. Đó là con đường lớn của cách mạng.

    Xuất gia cũng là làm cách mạng, đích thực làm cách mạng, nhưng người xuất gia có một mái nhà gọi là gia đình tâm linh, có những giới luật, có sự tu tập.

    Khi làm cách mạng, mình chia sẻ với những người đồng chí lý tưởng cách mạng, tức là phục hồi độc lập quốc gia, thực hiện dân chủ. Mặc dù có chung lý tưởng nhưng phương tiện dùng để đi đến mục tiêu đó khác nhau. Đơn cử như việc thành lập rất nhiều đảng trong hoàn cảnh ấy :Quốc Dân đảng, Đại Việt đảng, đảng Cộng Sản,…và những đảng này có thể không hài hòa nhau, có thể chống đối nhau, loại trừ nhau.

    Nếu có cơ hội, mình nên đọc lại lịch sử của đất nước giai đoạn này. Mình biết được, giữa đảng Quốc Dân, đảng Đại Việt, đảng Cộng Sản và những đảng khác có những bất hòa nào? Có ý hướng loại trừ nhau, tiêu diệt nhau, ám sát nhau như thế nào? Những chuyện này gây ra niềm đau rất lớn cho những thanh niên đi làm cách mạng. Bởi cùng làm cách mạng, nhưng nếu không cùng đảng, bắt buộc họ phải lên án lẫn nhau, thậm chí còn bắt cóc, ám sát nhau.

    Trong môi trường của người tu thì không có chuyện đó xảy ra. Trong tăng thân mình đã có giới luật, mình đã có lý tưởng, mình đã có nguyên tắc Lục Hòa, mình đã có những phương pháp thực tập và vì vậy cho nên dầu người kia theo Tịnh Độ, dầu người kia theo Thiền, dầu người kia theo những tông phái khác thì không có lý do gì mình phải chống đối. Đạo Phật có tới tám vạn bốn ngàn pháp môn và tinh thần của đạo Phật là tinh thần của sự bao dung cho nên những người xuất gia không bao giờ nghĩ đến chuyện thủ tiêu nhau, tiêu diệt nhau. Đó là một sự khác biệt rất lớn giữa những người đi xuất gia với những người đi làm cách mạng.

    Điều khác biệt thứ hai, khi làm cách mạng, mình có thể thấy con đường quá dài. Có khi sống hết cuộc đời rồi, mà vẫn chưa thấy được cụ thể một kết quả nào của cách mạng mang lại. Hoặc đảng của mình, đường lối của mình đôi khi bị tiêu diệt, bị đàn áp đến nỗi không còn có thể phục hồi được. Có khi hai mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm vẫn không thấy được một kết quả nào cụ thể mà sự tổn thất về nhân mạng vẫn tiếp tục xảy ra.

    Trong khi đó, nếu mình tu tập nghiêm chỉnh với tăng thân thì trong vòng vài ba tháng, mình đã thấy an lành, mình có thể bắt đầu độ được người. Nếu các thiền sinh từ xa tới thấy các sư cô, các sư chú –dù họ chỉ thực tập được sáu tháng hay một năm –đi đứng trong chánh niệm, có oai nghi, có nụ cười, có sự tươi mát, họ có niềm tin nơi chánh pháp, và họ đã đỡ khổ rất nhiều.

    Ngày xưa, khi số lượng các thầy, các sư cô ở Làng còn ít, tôi hay đi hướng dẫn các khóa tu một mình. Tuy những khóa tu đó rất thành công, nhưng không thể so sánh được với những khóa tu sau này. Khi tôi đem tới khóa tu ba mươi vị xuất gia hay năm mươi vị xuất gia, các thiền sinh thấy các vị xuất gia đi theo đều biết đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm, nói cười trong chánh niệm. Điều này đã mang lại cho họ niềm tin về chánh pháp. Rõ ràng, không cần phải tu năm mươi năm hay sáu mươi năm mới có thể mang lại hạnh phúc cho người khác, chỉ cần hành trì giới luật, uy nghi và chánh niệm có nội dung trong vòng ba tháng, năm tháng hay sáu tháng, mình có thấy được hiểu quả của con đường xuất gia.

    Trong khi đó người thanh niên đi làm cách mạng có thể thấy con đường dài hun hút, tổn thất có thể tới hàng ngày mà sự ích lợi thiết thực của con đường lý tưởng chưa thấy đâu cả?

    Mình không cần phải đợi khi nào trở thành giáo thọ rồi mới bắt đầu độ đời. Ngay trong ngày đầu tiên, giờ đầu tiên, nếu mình có hạnh phúc, mình thực sự nương tựa vào tăng thân thì niềm hạnh phúc đó được biểu hiện ngay trong lời nói, tiếng cười, dáng đi của mình, và như thế, mình bắt đầu làm hạnh phúc cho tăng thân và cho những người tới với mình.

    Điểm khác giữa người tu với người làm cách mạng là thấy được kết quả của những hành động của chính mình. Bởi giáo lý đạo Bụt là giáo lý vượt thoát thời gian, đến để mà thấy, có hiệu lực ngay trong giây phút hiện tại, nếu bắt đầu thực tập thì thấy có kết quả ngay lập tức, dù kết quả còn khiêm nhường.

    Điểm khác biệt thứ ba, những người đi làm cách mạng ít được hưởng tình huynh đệ, tình gia đình, cuộc sống của họ phong sương rất nhiều, còn sự tập mỗi ngày của người tu hướng đến tình huynh đệ, thực tập như thế nào để sư anh, sư chị, sư em của mình trở thành những người thương thật sự của mình, thực tập như thế nào để mỗi ngày có cơ hội để thương và được thương, thực tập như thế nào để xây dựng không khí đầm ấm của một gia đình tâm linh và do đó chúng ta có cơ hội mỗi ngày để thương và để được thương.

    Người tu sĩ không thiếu thốn tình thương như người chiến sĩ, vì mỗi ngày, ta đều thực tập hiến tặng tình thương theo tinh thần tứ vô lượng tâm –thứ tình thương không bi lụy, không vướng mắc, không đánh mất tự do của mình và người kia. Ta hiến tặng tình thương ấy cho những người bạn tu của ta, cho những người đến tu học với ta. Do vậy, ta không bị lâm vào tình trạng của Dũng

    Đọc bài thơ này, ta thấy thương cho những người con đã ra đi để tranh đấu cho chủ quyền quốc gia, bình đẳng xã hội. Lý tưởng đó rất đẹp, lý tưởng đó không thua gì lý tưởng của một vị Bồ Tát, nhưng tổ chức cách mạng có thể đã không nuôi dưỡng được người cách mạng như tăng thân nuôi dưỡng được những người xuất gia.

    Một đảng chính trị, một đảng cách mạng, một hội cách mạng có thể áp dụng những phương thức để nuôi dưỡng những thành viên của họ. Nhưng cho đến bây giờ, chúng ta vẫn chưa thấy được dấu hiệu rõ rệt nào chứng tỏ điều đó. Còn với đạo Bụt, qua hơn 2500 năm lịch sử, chúng ta thấy rất rõ, chúng ta có đủ những lề lối, những phương thức, những pháp môn áp dụng để có thể đi trọn được con đường tu tập của chúng ta với tư cách một vị Bồ Tát. Và đức Thế Tôn mong muốn rằng, chúng ta trở thành những vị Bồ Tát có thể giúp được mình và giúp được người.

    Chúng ta xuất gia là phát nguyện dấn thân vào một cuộc cách mạng lớn. Chúng ta có nhiều cơ hội thành công cuộc cách mạng này, vì chúng ta có tăng thân và có pháp môn rất rõ ràng, rất thực tế. Vấn đề bây giờ là khả năng nắm lấy cơ hội đó nơi mỗi người. Nếu khéo léo thực tập mỗi ngày để được nuôi dưỡng và nuôi dưỡng đến các thành viên khác của tăng thân thì thành công là vấn đề nằm trong tầm tay của mình. Và mình sẽ có rất ít những giây phút chạnh lòng. Giả sử, nếu có xảy ra những giây phút như vậy, mình vượt qua rất mau. Vì mình có tình thương của thầy, tình thương của anh, tình thương của chị, tình thương của em, tình thương của Bụt nên mình sẽ không lâm vào tình trạng của Dũng trong bài thơ này.

    Bài thơ này nói về tình yêu lứa đôi, nhưng nếu đọc thơ với con mắt của chánh pháp, mình có thể sử dụng những yếu tố không phải phật pháp để làm thành phật pháp. Phật pháp tức Thế gian pháp, đó là điều mình đã được học. Đọc thơ với sự quán chiếu sâu sắc, tình thương trong mình sẽ trào dâng. Mình thương cho Loan, mình thương cho Dũng, mình thương cho biết bao thế hệ thanh niên đã có một tấm lòng, đã có chí nguyện thương nước, thương dân và cải tạo xã hội. Nhưng vì chưa có những điều kiện thuận lợi để thực hiện chí nguyện ấy nên không biết bao nhiêu người đã ngã gục.

    Tôi đã có nói với quý vị, chúng ta đang nắm lịch sử trong tay. Bởi chúng ta đã và đang có rất nhiều cơ hội góp phần vào việc tạo nên một thế hệ mới lành mạnh. Ngày xưa, nhóm Tự Lực Văn Đoàn hoạt động chưa tới mười năm. Hơn nữa lại hoạt động trong tình cảnh rất khó khăn. Nhưng họ đã rất thành công trong sự nghiệp của mình.

    Ngày xưa, Hoàng Đạo, em ruột của Nhất Linh, đã lấy bút hiệu là Tứ Ly viết một tác phẩm với tựa là Mười Điều Tâm Niệm. Mười Điều Tâm Niệm kêu gọi thanh niên đi làm cách mạng. Chúng ta nên đọc nó và quán chiếu bằng con mắt trạch pháp, xem thử điều nào có thể chấp nhận được, điều nào hơi quá đà.

    Theo giáo lý Tứ đế, chúng ta cần nhìn sâu vào khó khăn, đau khổ của tình trạng hiện tại để hiểu được nguyên nhân đưa đến những khó khăn, khổ đau đó –Nhìn vào khổ đế thấy được Tập đế. Thấy được Tập đế, chúng ta sẽ khai mở con đường Đạo đế để đi tới kết quả là Diệt đế.

    Tất cả những gì ta làm, ta nói, ta viết đều có tác dụng mở rộng con đường cho những thế hệ tương lai. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn tồn tại rất ngắn, chúng ta có thể may mắn hơn họ. Những gì chúng ta đang làm như mở những khóa tu cho người Việt, cho người Mỹ, người châu Âu, cho người Nhật, cho những nhà tâm lý trị liệu, cho giới văn nghệ sĩ, cho giới thương gia, cho giới bảo vệ môi trường, cho những thầy giáo, cô giáo,…là những phương tiện, những cơ hội hướng dẫn cho thế hệ tương lai con đường của chuyển hóa, con đường của trị liệu. Chúng ta đang thật sự làm một cuộc cách mạng, chúng ta phải ý thức điều đó. Chúng ta không làm như những cá nhân, chúng ta làm với tư cách một tăng thân.

    Chúng ta phải biết trân quí thời gian của mình. Trong mỗi giờ, mỗi phút, chúng ta phải nắm tay nhau, chúng ta phải thấy được lý tưởng vĩ đại, cao đẹp của chúng ta, chúng ta phải làm cho được, thực hiện cho được chí nguyện lớn của chúng ta trong thế kỷ hai mươi mốt này.

    Còn khoảng một giờ đồng hồ nữa, chúng ta sẽ bước sang một năm mới. Đây là năm đầu của thiên năm đầu của thế kỷ mới, của thiên niên kỷ mới. Đọc bài thơ này, chúng ta phải ý thức rằng, chúng ta đang có may mắn được cùng sống với nhau như một tăng thân, chúng ta có lý tưởng, đường hướng và phương tiện để hoàn thành cuộc cách mạng của chúng ta. Thế giới hôm nay cần cuộc cách mạng đó, vì có rất nhiều người đang chìm đắm trong đau khổ, trong hận thù, trong đam mê. Chúng ta sẽ thành công như một tăng thân, chúng ta sẽ thành công như một dòng sông mà không phải là những giọt nước.

    Trong giờ giao thừa, chúng ta sẽ tụng chung với nhau bài tụng Hạnh Phúc để chúng ta biết rằng, mình đang có nhau, đang cùng đi trên cùng một con đường. Nếu chúng ta ý thức được điều này, hạnh phúc của chúng ta sẽ tăng tiến rất mau chóng, và năng lượng đó sẽ giúp chúng ta thành đạt được lý tưởng mà chúng ta đã nguyện đi theo.

    Hủy hình phi pháp phục
    Cát ái, từ sở thân
    Xuất gia hành Phật đạo
    Nguyện độ nhất thiết nhân

    Đó là giây phút mà ta nói lên lời cam kết, lời thề của tất cả những người xuất gia.

     

     

    Giây phút chạnh lòng

    Tặng tác giả “Đoạn Tuyệt”

    “Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
    Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
    Đã quyết không mong xum họp mãi.
    Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?

    “Non nước đang chờ gót lãng du,
    Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu,
    Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
    Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ.

    “Anh đi vui cảnh lạ, đường xa,
    Đem chí bình sinh dãi nắng mưa,
    Thân đã hiến cho đời gió bụi
    Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ?

    “Rồi có khi nào ngắm bóng mây
    Chiều thu đưa lạnh gió heo may
    Dừng chân trên bến sông xa vắng,
    Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây;

    “Xin anh cứ tưởng bạn anh tuy
    Giam hãm thân trong cảnh nặng-nề,
    Vẫn để hồn theo người lận đận;
    Vẫn hằng trông đếm bước anh đi.”

    Lấy câu khẳng-khái tiễn đưa nhau,
    Em muốn cho ta chẳng thảm sầu.
    Nhưng chính lòng em còn thổn-thức,
    Buồn kia em giấu được ta đâu?

    Em đứng nương mình dưới gốc mai,
    Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
    Cười nâng tà áo đưa lên gió,
    Em bảo: hoa kia khóc hộ người.

    Rồi bỗng ngừng vui cùng lẳng lặng,
    Nhìn nhau bình-thản lúc ra đi.
    Nhưng trong khoảnh khắc thờ-ơ ấy,
    Thấy cả muôn đời hận biệt-ly.

    Năm năm theo tiếng gọi lên đường,
    Tóc lộng tơi bời gió bốn phương.
    Mấy lúc thẫn thờ trông trở lại,
    Để hồn mơ tới bạn quê hương.

    Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng
    Gác tình duyên cũ chẳng đường trông.
    Song le hương khói yêu đương vẫn
    Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng.

    Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan.
    Trong lúc gần xa pháo nổ ran.
    Rũ áo phong sương trên gác trọ.
    Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.

    Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi,
    Trên đường rộn rã tiếng đua cười,
    Động lòng nhớ bạn xuân năm ấy.
    Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.

    Lòng ta tha thiết đượm tình yêu,
    Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều,
    Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,
    Phút giây chừng mỏi gót phiêu lưu…

    Cát bụi tung trời – Đường vất vả
    Còn dài – Nhưng hãy tạm dừng chân,
    Tưởng người trong chốn xa xăm ấy
    Chẳng biết vui buồn đón gió xuân?


    Thế Lữ (1936)

    Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, còn có bút danh Lê Ta, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1907, tại ấp Thái Hà, Hà Nội trong một gia đình Ki tô giáo. Ông quê ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông theo người nhà lên sống ở Lạng Sơn từ nhỏ cho đến năm 11 tuổi. Năm 1918, Thế Lữ về sống ở Hải Phòng và từ năm 1925 đến năm 1928 học thành chung ở trường Bonnal (ở địa điểm nay là trường Ngô Quyền). Học đến năm thứ ba thành chung, ông thôi học lên Hà Nội học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, sau đó một năm (1930), ông bỏ học. Năm 1932, Thế Lữ bắt đầu tham gia Tự Lực Văn Đoàn và là một trong những cây bút chủ lực của báo Phong hóa, Ngày nay, Tinh hoa. Ông mất tại Sài Gòn ngày 3 tháng 6 năm 1989, để lại cho đời nhiều tác phẩm: Mấy vần thơ, Vàng và máu, Bên đường Thiên Lôi, Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh, Ba hồi kinh dị, Con quỷ truyền kiếp, Lê Phong phóng viên, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, ,

    *Gồm 7 người là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, và Xuân Diệu.

    Trái tim thiền tập

    Thiền tập không nằm ngoài xã hội, không trốn tránh xã hội mà là chuẩn bị để đi vào lại xã hội. Ta gọi là đạo Bụt nhập thế, hay đạo Bụt dấn thân. Khi đến một trung tâm tu học nào đó, có thể ta có cảm tưởng là mình bỏ lại mọi thứ sau lưng, như gia đình, xã hội, bỏ lại tất cả những vấn đề rắc rối liên quan đến gia đình và xã hội. Mình đến thực tập với tính cách cá nhân để tìm kiếm an lạc. Nghĩ như vậy đã là vô minh rồi, bởi vì trong đạo Bụt không có cái gì là cá nhân cả.

    Cũng giống như tờ giấy là hoa trái, là sự kết hợp của nhiều yếu tố mà ta có thể gọi những yếu tố ấy là những yếu tố không phải giấy. Cá nhân được làm bằng những yếu tố không phải là cá nhân. Nếu là nhà thơ chúng ta sẽ thấy được đám mây đang trôi nổi bồng bềnh trong tờ giấy. Không có mây thì sẽ không có mưa, không có mưa thì sẽ không có nước, không có nước cây sẽ không lớn lên được, và không có cây chúng ta không thể nào làm ra giấy. Vì vậy mây có mặt trong tờ giấy. Sự có mặt của tờ giấy phụ thuộc vào sự có mặt của đám mây. Giấy và mây rất gần gũi thân thiết với nhau. Chúng ta hãy nghĩ về những thứ khác như ánh nắng mặt trời. Ánh nắng mặt trời rất quan trọng vì rừng cây không thể lớn lên mà không có ánh nắng mặt trời. Con người chúng ta cũng vậy, chúng ta không thể lớn lên mà không cần ánh nắng mặt trời. Vì vậy người tiều phu cần mặt trời để có cây đốn củi, cây cũng cần ánh nắng mặt trời để được làm cây. Cho nên nhìn vào tờ giấy chúng ta thấy ánh nắng mặt trời. Nếu nhìn sâu hơn nữa với con mắt của các vị Bồ tát, con mắt của những người tỉnh thức, chúng ta thấy không chỉ có mây và ánh nắng mặt trời trong tờ giấy mà tất cả mọi thứ đều nằm trong tờ giấy. Lúa mì để làm nên bánh mì cho người tiều phu ăn, ba mẹ người tiều phu cũng có mặt trong tờ giấy.

    Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka) nói rằng chúng ta không thể tìm ra một thứ gì mà không liên quan đến tờ giấy. Vì vậy, ta nói giấy được làm bằng những yếu tố không phải giấy. Mây là một yếu tố không phải giấy. Rừng cây là một yếu tố không phải giấy. Ánh nắng mặt trời là một yếu tố không phải giấy. Giấy được làm bằng tất cả những yếu tố không phải là giấy. Nếu chúng ta nhìn rộng hơn, trở về những yếu tố không phải giấy cho đến nguồn gốc của những yếu tố không phải giấy ấy, như từ đám mây đến bầu trời, từ ánh nắng mặt trời đến mặt trời, từ người tiều phu đến cha mẹ của người tiều phu thì tờ giấy là không. Không cái gì? Không có một thực thể riêng biệt. Nó được làm bằng những yếu tố vô ngã, những yếu tố không phải giấy, và nếu lấy tất cả những yếu tố không phải giấy ra thì tờ giấy thực sự không có. Tờ giấy không có một cái ngã riêng biệt. Không trong trường hợp này nghĩa là không có một cái ngã riêng biệt. Giấy có đầy đủ mọi thứ, có cả toàn thể vũ trụ nhưng không có một cái ngã riêng biệt. Sự có mặt của một tờ giấy nhỏ cho thấy sự có mặt của toàn thể vũ trụ.

    Cũng vậy, một cá nhân được làm bằng những yếu tố không phải cá nhân. Làm sao các bạn nghĩ là mình có thể bỏ lại mọi thứ sau lưng khi đến một trung tâm tu học được? Nỗi khổ đau mà các bạn mang trong mình cũng là của xã hội. Các bạn mang nỗi khổ đau trong mình cũng là mang xã hội trong mình. Các bạn mang tất cả chúng tôi trong các bạn. Khi thiền tập, các bạn không chỉ thiền tập riêng cho cá nhân các bạn mà cho toàn xã hội. Các bạn tìm phương án giải quyết cho những vấn đề của các bạn cũng không phải là cho cá nhân của các bạn mà cho tất cả mọi người.

    Người ta hay xem thường lá, cho lá là con của cây. Đồng ý lá là con của cây, được sinh ra từ cây, nhưng lá cũng là mẹ của cây. Lá tổng hợp nhựa nguyên, nước, chất khoáng, chất khí cùng với ánh nắng mặt trời, chuyển thành nhựa luyện để nuôi cây. Như thế thì lá trở thành mẹ của cây. Tất cả chúng ta đều là con của xã hội nhưng chúng ta cũng là mẹ của xã hội. Nếu chúng ta bị bứng văng ra khỏi xã hội thì chúng ta không thể biến xã hội thành một nơi có thể chúng sống được cho chúng ta và cho con cháu chúng ta.

    Tôi đã làm vườn nhiều năm và tôi biết có những loại cây rất khó để cấy ghép. Muốn cấy ghép ta phải dùng thuốc kích thích để giúp chúng đâm rễ dễ dàng. Tôi tự hỏi liệu trong thiền tập có thể tìm thấy một loại năng lực, sức mạnh nào có thể giúp cho những người bị mất gốc (bị bứng văng ra khỏi xã hội) cắm rễ lại vào xã hội được hay không? Thiền tập không phải là chạy trốn khỏi xã hội. thiền tập là để trang bị cho mình khả năng hội nhập lại với xã hội.

    Trong các trung tâm thiền tập có những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm, ví dụ như một số người trẻ thấy mình không thoải mái khi sống với xã hội, vì vậy họ vào chùa tu. Họ không biết một sự thật rằng là họ không thể đến trung tâm tu học với tính cách cá nhân. Đến trung tâm tu học với nhau, họ hình thành một xã hội khác. Là một xã hội  (dù ở trong trung tâm tu học) thì nó cũng có những vấn đề như những xã hội khác. Trước khi đến một trung tâm tu học, họ hy vọng tìm thấy được sự bình an trong thiền tập. Nhưng giờ đây, khi thực tập và hình thành một xã hội mới, họ vỡ lẽ ra rằng cái xã hội này thậm chí còn khó hơn cái xã hội lớn bên ngoài nữa. Toàn là những người xa lạ. Sau vài năm họ thấy thất vọng, tình trạng còn tệ hơn trước khi đến trung tâm tu học. Điều này xảy ra là do ta hiểu lầm thiền tập, do ta hiểu lầm mục đích của thiền.

    Thiền là cho tất cả mọi người mà không phải chỉ cho những người thực tập. Đưa trẻ em đến trung tâm tu học là điều rất tự nhiên. Ở Làng Mai, trẻ em thực tập chung với người lớn. Thỉnh thoảng Làng mở cửa cho thiền sinh mang theo con cái đến thực tập chung với nhau. Chúng ta chăm sóc trẻ em rất đặt biệt. Khi trẻ em hạnh phúc, người lớn cũng hạnh phúc. Có ngày tôi nghe các em nói chuyện với nhau: “Sao ở đây ba mẹ mình dễ thương quá vậy?”. Có người thực tập được 14 năm rồi mà chưa bao giờ chỉ cho con cái thực tập. Chúng ta không thể thực tập một mình. Chúng ta phải thực tập chung với con cái chúng ta. Nếu con ta không hạnh phúc, không thể cười được thì ta cũng không thể cười được. Khi chúng ta bước được một bước chân an lạc thì bước chân ấy không chỉ cho ta mà còn cho con cháu ta và cho cả xã hội.

    Tôi nghĩ rằng sống ngoài xã hội rất khó. Nếu không cẩn trọng, ta có thể bị văng ra khỏi xã hội và một khi bị văng ra khỏi xã hội thì ta không thể làm gì được để giúp thay đổi tình trạng xã hội, không thể biến xã hội thành một nơi để có thể dễ dàng chung sống với nhau được. Thiền tập là một phương pháp giúp ta có mặt cho xã hội. Điều này rất quan trọng. Chúng ta đã chứng kiến những người thấy mình bị lẻ loi, xa cách với xã hội và không thể hội nhập được với xã hội. Điều này cũng có thể xảy ra với tất cả chúng ta nếu ta không cẩn thận.

    Tôi biết nhiều người thực tập đạo Bụt ở Mỹ rất trẻ và có trí thức. Họ đến với đạo Bụt không phải bằng tín ngưỡng mà bằng cánh cửa tâm lý. Nhiều người ở Tây phương khổ đau nhiều vì tâm lý, chính vì vậy mà họ đã trở thành Phật tử, thực tập thiền để giải quyết những vấn đề tâm lý ấy. Nhiều người vẫn sống với xã hội, nhưng một số thì bị văng ra khỏi xã hội. Sống khá lâu trong xã hội này, chính bản thân tôi cũng thấy khó sống, không thể đi theo xã hội được. Nhiều thứ xảy ra khiến tôi không muốn làm gì cả, chỉ muốn rút về trong cái vỏ của mình. Nhưng sự thực tập giúp tôi tiếp tục duy trì, tiếp xúc với xã hội bởi vì tôi ý thức rằng nếu từ bỏ xã hội thì tôi sẽ không có khả năng giúp thay đổi tình trạng. Hy vọng rằng những ai đang thực tập đạo Bụt thành công, có khả năng đứng vững trên đôi chân của mình thì ở lại với xã hội. Đó là niềm hy vọng của chúng ta cho sự an lạc và hòa bình thế giới.

    Cách đây hơn 30 năm, lúc đó tôi khoảng 27,28 tuổi, tôi có làm một bài thơ về một thầy tu rất đau khổ đã từ bỏ xã hội để đến trung tâm thiền tập. Vì chùa là cửa từ bi nên mọi người ai cũng tiếp đón thầy. Khi một ai đó có nhiều khổ đau, họ tìm đến chùa chiền hoặc trung tâm tu học. Trước hết là để được xoa dịu và an ủi. Những người trong chùa có đủ từ bi để cho họ đến, cho họ một nơi để khóc. Người đó cần bao lâu, bao nhiêu năm để khóc? Chúng ta không biết. Nhưng cuối cùng họ nương tựa vào chùa, vào trung tâm tu học và không muốn trở lại xã hội nữa. Đã quá đủ cho thầy ấy. Thầy nghĩ là thầy đã tìm thấy được một ít an lạc. Nhưng một ngày nọ tôi đến châm lửa đốt cái thất nhỏ, nơi trú ngụ cuối cùng của thầy. Theo thầy thì thầy không có gì khác ngoài cái chòi tranh đó. Thầy không có một nơi nào để đi bởi vì xã hội không phải của thầy. Thầy nghĩ thầy phải đi tìm giải thoát cho riêng mình. Nhưng dưới ánh sáng của đạo Bụt thì không có một cái ngã cá nhân như thế. Như chúng ta đã biết , khi đến một trung tâm tu học chúng ta mang theo tất cả những thương tích, những vết thẹo từ xã hội và chúng ta cũng mang theo cả xã hội. Trong bài thơ này tôi là người thầy tu trẻ đó và cũng là người đến châm lửa đốt chòi tranh.

     

    TÔI SẼ XIN RẰNG TẤT CẢ

    Nếu hỏi rằng “người muốn bao nhiêu”
    tôi sẽ xin rằng “tất cả”
    tôi tham lam hơn ngày xưa, tham lam tột độ,
    cả ngài, cả tôi
    cả người thiên hạ
    xuôi về, sáng hôm nay, trong duy nhất nhiệm mầu.
    ôi những mảnh rời nhau, khổ đau.
    tách rời ngoài đại thế !
    đã từ lâu, ngàn vạn đời,
    chúng tôi tự tìm, sờ soạng, trong ngục tù giả trá an vui
    sáng hôm nay em tôi trở về quỳ dưới Phật đài
    mắt đầm đìa lệ,
    ôi những linh hồn đi tìm bến đỗ
    (hình bóng của tôi xưa
    phiêu lưu ngàn năm, một hôm sầu khổ, khao khát bến bờ)
    hãy để yên cho em quỳ lâu trên điện Phật
    cho lệ em thầm lặng chảy
    cho lệ em mặc sức tràn trề
    hãy để yên cho quỳ lâu thêm nữa
    đủ thì giờ cho lệ em khô ráo
    bởi vì người ơi, một sáng mai kia,
    tôi sẽ đến châm lửa vào túp lều nho nhỏ của em ở ven đồi
    túp lều duy nhất còn lại của đời em
    cho lửa cháy lên cao
    cho tan hoang tất cả
    cho chỗ nương tựa cuối cùng tan rã
    cũng như chiếc bè, trên đại dương, tan rã
    để vỏ cứng hồn em, trong hỗn độn nhiệm mầu,
    sẽ vỡ toang, tràn trề ánh sáng!
    tôi sẽ gặp em, bên ánh lửa hồng cháy rực của túp lều
    nước mắt sung sướng chan hoà
    tôi nhìn em
    và khi cầm tay em, tôi hỏi rằng: “em muốn bao nhiêu ”
    tất nhiên em sẽ cười và sẽ xin rằng “tất cả ”

    Đối với tôi, trung tâm thiền tập phải là nơi mà ta có thể trở về với chính mình để hiểu rõ mình, hiểu rõ thực tại và làm lớn mạnh thêm hiểu biết thương yêu trong ta, chuẩn bị để trở lại xã hội. Nếu không thì đó không phải là một trung tâm tu học đích thực. Khi chúng ta đạt được sự hiểu biết đúng đắn thì chúng có thể trở lại xã hội và đóng góp đích thực cho xã hội. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta có nhiều hình thức sinh hoạt khác nhau. Có khi ngồi thiền, có khi không ngồi thiền. Hai thời điểm này rất khác nhau nhưng liên quan mật thiết với nhau. Ta thường nghĩ rằng khi ngồi thiền là mình thực tập chuyên sâu (intensive) còn khi không ngồi thiền là mình không thực tập chuyên sâu. Kỳ thực thì chúng ta có thể thực tập cái không thực tập một cách chuyên sâu. Đó là “tu vô tu tu”. Chúng ta đã tạo ra một bức tường ngăn cách giữa thực tập và không thực tập. Thực tập chỉ dành cho những thời công phu như ngồi thiền, đi thiền, tụng kinh… còn lại thì chúng ta không thực tập. Làm sao để ta có thể hòa trộn hai thời điểm này lại với nhau? Làm sao để ta có thể đem thiền ra khỏi thiền đường? Đem thiền vào nhà bếp và văn phòng? Làm thế nào để thời gian ngồi thiền ảnh hưởng tốt đến suốt thời gian còn lại trong ngày của ta, ảnh hưởng đến những lúc ta không ngồi thiền? Khi bác sĩ chích thuốc cho ta thì không những thuốc ảnh hưởng lên cánh tay ta mà nó còn ảnh hưởng lên toàn bộ cơ thể. Nếu trong ngày ta thực tập một giờ ngồi thiền thì một giờ đó phải ảnh hưởng lên 24 giờ mà không phải chỉ ảnh hưởng trong giờ ngồi thiền thôi. Một nụ cười, một hơi thở phải mang lại lợi ích cho ta cả ngày mà không phải chỉ có lợi ngay lúc thở và lúc cười. Chúng ta phải thực tập như thế nào để lấy đi ranh giới giữa thực tập và không thực tập.

    Khi đi trong thiền đường, ta bước những bước chân thật chậm rãi và cẩn trọng. Còn ở phi trường thì ta bước nhanh hơn, ít chánh niệm hơn. Làm thế nào để ta có thể thực tập được lúc ở phi trường và ở chợ? Đó là đạo Bụt nhập thế, hay đạo Bụt dấn thân. Đạo Bụt nhập thế không chỉ có nghĩa là xử dụng đạo Bụt để giải quyết những vấn đề chính trị, xã hội, để chống lại những trái bom nguyên tử hay những bất công xã hội mà trước hết là để giải quyết những vấn đề trong đời sống hàng ngày. Vì vậy chúng ta phải mang đạo Bụt vào trong đời sống hàng ngày của ta. Tôi có một người bạn thực tập hơi thở ý thức khi gọi điện thoại, điều đó giúp cô ấy rất nhiều. Một người khác thì đi thiền hành từ điểm hẹn này đến điểm hẹn khác, bước những bước chân chánh niệm từ dãy nhà này sang dãy nhà khác trong khu thương mại ở Denver. Khách qua đường nhìn ông mỉm cười, những cuộc gặp gỡ của ông dù với những người khó tính đến mấy cũng biến thành vui vẻ và thành công.

    Chúng ta nên đưa sự thực tập trong thiền đường vào trong đời sống hàng ngày. Thực tập như thế nào để hiểu được cảm thọ, tri giác của mình. Chúng ta không chỉ xử lý cảm thọ, tri giác trong lúc ngồi thiền mà phải xử lý chúng suốt ngày. Chúng ta phải pháp đàm với nhau làm thế nào để thực hiện được điều đó. Chúng ta có thực tập hơ thở ý thức khi gọi điện thoại không? Chúng ta có mỉm cười khi lặt rau, làm bếp không? Chúng ta có thực tập buông thư sau mỗi giờ làm việc biết ứng dụng đạo Bụt vào bữa cơm tối, vào thời gian rảnh rỗi và ngủ nghỉ thì đạo Bụt sẽ đi vào đời sống hàng ngày của ta. Và như vậy sẽ có những ảnh hưởng lớn đến những mối quan tâm của xã hội. Bụt, Pháp, Tăng trở thành những vấn đề hàng ngày của ta trong mỗi giây, mỗi phút mà không phải là những lời giảng giải xa xôi.

     

    Tìm Niết bàn trong sinh tử

     

    Sinh Phật bất nhị

    Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)

    Vào hạ bán thế kỷ thứ 20, những nhà thần học cho rằng: Tuy Thượng đế không phải là một con người nhưng Ngài cũng không ít hơn một con người. (God is not a person but is not less than a person). Người ta đi tới quan niệm: Thượng đế không phải chỉ là một con người. Đó là một bước tiến rất lớn!

    Trong đạo Bụt chúng ta có quan niệm chúng sinh và Bụt. Chúng sinh là những người mê mờ đang đau khổ và Bụt là một người giác ngộ không còn đau khổ. Chúng ta thường phân biệt chúng sinh khác với Bụt. Ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng khi đã thành Bụt thì không còn là chúng sinh nữa. Nhưng quan niệm đó không đúng với cái thấy của Phật giáo đại thừa. Theo cái thấy của Phật giáo đại thừa, nếu không có chúng sinh thì không có Bụt. Đó là lý thuyết: Sinh Phật bất nhị 生 佛 不 二, tức Bụt và chúng sinh không phải là hai cái riêng biệt. Cái này không thể có ngoài cái kia. Chúng sinh và Bụt không phải là hai thực thể riêng biệt. Sở dĩ có Bụt là nhờ có chúng sinh, không có chúng sinh thì không bao giờ có Bụt. Bụt và chúng sinh là một cặp, tuy bề ngoài có vẻ như đối lập nhau nhưng phải nương nhau mà thành. Cũng như bùn và sen, không có bùn thì ta không thể có sen.

    Theo giáo lý duyên khởi thì tất cả đều là duyên sinh. Nhìn vào con người ta thấy những yếu tố không phải con người như đất đá, cây cỏ, cầm thú. Những yếu tố như đất, nước, lửa, gió lâu ngày có đủ điều kiện thì sinh ra cây cỏ và những loài chúng sinh, rồi từ những loài chúng sinh phát sinh ra con người. Nếu lấy những loài khoáng chất, cây cỏ và cầm thú ra khỏi con người thì con người không còn nữa. Vì vậy con người cũng là đất đá, cây cỏ và cầm thú. Ta không thể cho rằng khi trở thành con người rồi thì ta không còn là đất đá, cây cỏ và cầm thú nữa. Ta vẫn tiếp tục làm đất đá, cây cỏ và cầm thú tại vì những yếu tố không phải con người vẫn còn trong ta. Tuy đã là Bụt rồi nhưng những yếu tố không phải Bụt vẫn còn trong Bụt. Trong Bụt có những yếu tố như: chúng sinh và những khổ đau, những phiền não, những si mê đã được chuyển hóa. Nhìn vào sen ta thấy những yếu tố không phải sen như là bùn. Nếu muốn tiếp tục làm bông sen thì sen phải sử dụng chất bùn để làm ra sen. Ta đã là con người, nhưng nếu không có đất đá, cây cỏ và cầm thú thì ta không thể tiếp tục làm con người. Vì vậy con người và cái gọi là sinh môi không phải là hai cái khác nhau, hai cái phải dựa trên nhau mà có. Chừng nào không còn chúng sinh thì cũng không còn Bụt. Chừng nào không còn đất đá, thảo mộc, cầm thú thì không còn con người. Vì vậy ta đừng nên hy vọng hão huyền là khi thành Bụt rồi thì ta vĩnh biệt chúng sinh. Sinh Phật bất nhị là cái thấy bất nhị (non dualistic) và cái thấy này phải được áp dụng cho tất cả mọi trường hợp như tay trái và tay phải, chừng nào có tay phải thì có tay trái. Tay phải không thể có mặt một mình mà không cần tay trái. Phật và chúng sinh hay con người và đất đá, cỏ cây, cầm thú cũng như vậy: không có cái này thì không có cái kia. Đó gọi là duyên sinh, là tương đãi.

    Thành Bụt rồi có còn thực tập nữa không?

    Trong Bụt có hạnh phúc, có tuệ giác, có bồ đề. Bồ đề ngược lại với phiền não, tuệ giác ngược lại với si mê và hạnh phúc ngược lại với khổ đau. Nhưng theo tuệ giác mà ta có được do sự quán chiếu thì tất cả đều vô thường. Không phải chỉ có khổ đau là vô thường mà hạnh phúc cũng vô thường. Không phải chỉ có phiền não là vô thường mà bồ đề cũng vô thường. Tuy có bồ đề nhưng nếu ta không tiếp tục tu thì bồ đề của ta cũng hao mòn. Ta đừng tưởng một khi có bồ đề rồi thì ta sẽ có nó mãi mãi, tại vì bồ đề cũng vô thường. Có khi ta có giác ngộ nhưng vì ta không biết nuôi nấng nên giác ngộ đó lu mờ và ta không sử dụng được. Điều này ta thấy rất rõ: Có nhiều cái ta đã biết rồi nhưng ta không đem ra sử dụng, ta hành xử giống như ta không có tuệ giác.

    Bụt cũng vô thường, vô ngã. Nếu muốn tiếp tục làm Bụt thì ta phải tiếp tục sử dụng chất liệu khổ đau, phiền não và si mê để chế tác hạnh phúc, bồ đề và tuệ giác. Chúng ta thường đặt câu hỏi: “Thành Bụt rồi có còn thực tập nữa không?” Câu hỏi này rất đơn sơ nhưng cũng rất quan trọng. Phần lớn trong chúng ta, có thể nói là 99% thường nghĩ rằng: Khi đã thành Bụt rồi thì ta khỏi tu nữa, tại vì thành Bụt là có bồ đề, có tuệ giác, có hỷ lạc. Sự thật là Đức Thế Tôn vẫn đi thiền hành, vẫn ngồi thiền, vẫn thực tập An ban thủ ý. Hạnh phúc, bồ đề, tuệ giác đều vô thường. Nếu muốn nuôi dưỡng nó thì Đức Thế Tôn phải tiếp tục thực tập và Ngài cũng sử dụng khổ đau, phiền não, si mê để tạo ra hạnh phúc, bồ đề và tuệ giác. Bông sen, tuy đã thành bông sen nhưng vẫn không thể nhảy ra khỏi bùn. Muốn tiếp tục làm bông sen nó phải ở với bùn và tiếp tục sử dụng bùn.

    Có thể nhận diện được Bụt qua những hình thái khác hay không?

    Bụt Thích Ca có hình dáng của một con người. Ta biết rằng con người là một sinh vật sinh sau đẻ muộn, xuất hiện rất trễ trên địa cầu này, trễ hơn tất cả những chủng loại khác trên trái đất. Như vậy trước khi có Bụt thì không có tuệ giác, không có bồ đề, không có hạnh phúc hay sao? Trước khi có Bụt vẫn có tuệ giác, vẫn có bồ đề, vẫn có hạnh phúc, nhưng dưới hình thức khác. Bây giờ ta đặt một câu hỏi rất đơn sơ: “Có thể nhận diện được Bụt qua một hình thức khác, nghĩa là qua một hình thức không phải con người hay không?” Kinh Kim Cương nói rất rõ: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng.” Nếu bị mắc kẹt vào tướng con người thì ta không thể thấy được Bụt. Bụt không phải chỉ là con người. Nếu đi tìm Bụt qua hình tướng, âm thanh thì sẽ không tìm ra được.

    Nhược dĩ sắc kiến ngã
    Dĩ âm thanh cầu ngã
    Thị nhân hành tà đạo
    Bất năng kiến Như Lai

    Ai đi tìm Bụt qua hình sắc, âm thanh thì người đó đang đi trên con đường tà và ít có cơ hội thấy được Như Lai. Vì vậy chúng ta đừng kẹt vào tướng Bụt là một con người. Bụt có thể là một hành tinh như trái đất. Trái đất của chúng ta là một vị Bụt. Trong trái đất có tuệ giác, có bồ đề, có hạnh phúc và nhiều đức tính khác. Vị Bụt này là một bà mẹ, Bụt không phải chỉ là đàn ông. Trong Cơ đốc giáo người ta thường nghĩ Thượng đế là đàn ông, Thượng đế không thể nào là đàn bà. Nhưng trong đạo Bụt thì có Phật bà. Trái đất là Phật bà, là một bà mẹ. Mẹ của ai? Mẹ của những vị Bụt dưới hình thái con người và mẹ của những vị Bụt dưới hình thái khác. Một cây thông hay một bông hoa hồng cũng là Bụt. Không những con người thành Bụt thuyết pháp mà cây thông cũng đang thuyết pháp, bông hoa cũng đang thuyết pháp. Nó thuyết pháp về cái gì? Nó thuyết về vô thường, vô ngã, Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần. Nhìn với con mắt của Phật giáo đại thừa ta thấy Bụt khắp nơi. Ta thấy Bụt nơi một đóa hồng, nơi một cây thông. Thấy được như vậy ta sẽ không có khó khăn để nhận diện trái đất là một vị Đại Bồ tát gọi là Bồ tát Thanh Lương Đại Địa, hay nhận diện mặt trời là một vị Bụt gọi là Bụt Đại Nhật Như Lai. Không bị kẹt vào cái tướng thì ta nhận diện được Bụt dễ dàng hơn.

     

     

    Chúng ta hay có tính kỳ thị. Nói tới bùn và sen thì ta thích sen, không thích bùn, ta kỳ thị bùn. Nhưng nếu không có bùn thì sẽ không có sen. Vì vậy không những trong sen có Phật tánh mà trong bùn cũng có Phật tánh. Trong kinh Bát Nhã có nói Phật tánh đó không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt. Ta phải có con mắt vô tướng, (animitta) thì mới có thể nhận diện được sự có mặt của Bụt. Bụt không chỉ có hình thức của một con người. Bụt có thể là một hành tinh, một bông hoa hay một viên sỏi. Vì vậy trong kinh nói: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Ta phải lấy đi cái ranh giới giữa Bụt và chúng sinh.

    Bụt có trong ta, ta có trong Bụt

    Trước khi lạy Bụt, ta được dạy phải quán chiếu tính duyên sinh của Bụt. Ta đọc bài “Năng lễ sở lễ tính không tịch.” Đứng trước tượng Bụt ta nói:

    Bạch Đức Thế Tôn, Ngài cũng duyên sinh như con vậy. Tự tánh của Ngài cũng là Không. Ngài được làm bằng những yếu tố không phải Ngài. Nhờ có phiền não, khổ đau mà Ngài có thể thành Bụt cũng như bông sen nhờ có bùn mới thành ra sen. Con thấy Ngài như vậy nên con thấy con trong Ngài.

    Nhìn vào Bụt ta thấy tính Không (the nature of Emptiness) của Bụt. Ta thấy Bụt chứa đựng tất cả chứ không phải chỉ có trí tuệ, từ bi, bồ đề, hạnh phúc mà thôi. Nhìn lại mình, ta thấy mình không chỉ là chúng sinh, ta cũng có Phật tánh. Trong Bụt có ta và trong ta có Bụt. Thấy được như vậy rồi thì ta mới nên lạy xuống, lạy xuống như vậy mới có sự truyền thông. Nếu Bụt chỉ là Bụt và ta chỉ là ta thì không có sự truyền thông đích thực. Lấy đi ranh giới giữa ta và Bụt thì lạy Bụt mới có hiệu quả. Bụt không phải ở ngoài ta, Bụt ở trong ta, vì vậy khi lạy Bụt ta tiếp xúc được với Phật tánh trong mình. Nếu cho rằng Bụt khác với ta thì vĩnh viễn ta chỉ có thể là ta và Bụt chỉ là Bụt. Bụt không bao giờ trở thành ta và ta không bao giờ trở thành Bụt và không có sự thông cảm giữa Bụt và ta. Cảm ứng đạo giao nan tư nghì có nghĩa là sự cảm thông giữa Bụt và chúng sinh khó có thể diễn tả được, tại vì ta thoát khỏi cái thấy lưỡng nguyên phân biệt.

    Trong kinh Kim Cương nói rất rõ: Ta có một ý niệm về ngã 我 , về nhân 人, về chúng sinh 眾生, đó là ba ý niệm mà ta cần phải vượt thắng. Nhìn vào ngã ta phải thấy vô ngã, nhìn vào con người ta phải thấy những yếu tố không con người, nhìn vào chúng sinh ta phải thấy Bụt. Kinh Kim Cương dạy ta phải lấy đi bốn ý niệm là: ngã, nhân, chúng sinh và thọ mạng. Thọ mạng là đời sống của con người, lấy đi ý niệm về thọ mạng thì ta trở thành bất tử. Ta không chỉ có mặt ở đây trong 100 năm.

    Không có ranh giới đích thực giữa hữu tình và vô tình

    Ta cần phải thoát khỏi một ranh giới khác nữa, đó là ranh giới giữa hữu tình và vô tình. Hữu tình là chúng sinh, vô tình là những cái không phải chúng sinh như đất, nước, lửa, gió, khoáng vật. Vô tình, tiếng Anh là inanimate things). Một thi sĩ người Pháp đã hỏi: Objets inanimés, avez  vous donc une âme? Hỡi các vật vô tri kia, chúng bây có một linh hồn hay không? Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng có một câu tương tự: Làm sao em biết bia đá không đau? Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau. Những vật vô tri đều có tình trong nó nên không thể gọi chúng là vô tình. Học về lịch sử của trái đất, ta thấy lúc bắt đầu chỉ có các loại vô tình. Trong nước cháo thời nguyên thỉ (primordial soup) từ từ sinh ra các loại hữu tình đơn tế bào. Những sinh vật đơn tế bào sinh ra những sinh vật đa tế bào. Những sinh vật này từ dưới nước bò lên trên đất và trở thành rong rêu, cây cỏ, các loại cầm thú và thành con người. Vì vậy không có ranh giới giữa các vật vô tình và hữu tình.

    Hiện nay khoa học khám phá ra những vật mà ta cho là vô tình như những quang tử, những điện tử rất là thông minh. Nó có cái biết ở trong, ví dụ như nhìn vào một hột bắp ta không thể nói hột bắp là vô tình. Trong hột bắp có thức, có tài năng, có cái biết trong đó. Ta chỉ cần gieo hột bắp xuống đất thì nội trong bảy ngày nó biết nẩy mầm thành cây bắp con rồi tiếp tục làm lá, làm hoa và làm trái bắp. Hột bắp không vô tình, nó cũng là hữu tình.

    Chúng ta được làm bằng những chất liệu vô tình. Giữa vô tình và hữu tình không có ranh giới đích thực. Vì vậy cho nên đất đá cũng có Phật tánh. Trong Thiền người ta thường hỏi: “Con chó có Phật tánh hay không?”. Không những con chó có Phật tánh mà cục đá kia cũng có Phật tánh.

    Chúng ta phải tìm cách vượt thoát ý niệm: Bụt chỉ là một con người. Chúng ta có một bài thiền hướng dẫn: Mời Bụt thở, mời Bụt ngồi. Bài tập rất hay và tôi đã thực tập rất nhiều. Khi ngồi xuống ta nói:

    Mời Bụt thở nhẹ,
    mời Bụt ngồi yên

    Bụt ở đây không phải là một thực tại ở ngoài mình. Ta nói: “Lạy Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy dùng lưng của con để ngồi, xin Ngài hãy dùng phổi của con để thở”. Bụt không phải là một cái ngã. Mỗi khi thở có an lạc, hạnh phúc, bình an là có Bụt. Mỗi khi ngồi có vững chãi, thảnh thơi là có Bụt. Bụt không phải chỉ là người, đồng nhất Bụt với con người là sai. Hễ có vững chãi, an lạc, thảnh thơi là có Bụt. Ta biết rằng Bụt không ngồi thì thôi, nếu ngồi thì Ngài ngồi rất thẳng và thoải mái; Bụt không thở thì thôi, nếu thở thì Ngài thở nhẹ và có ý thức. “Mời Bụt thở, mời Bụt ngồi”, ta đưa hai lá phổi cho Bụt thở, ta đưa lưng cho Bụt ngồi. Khi đó ta bắt đầu vượt thoát ý niệm: Bụt là một thực thể ở ngoài mình. Nếu Bụt thở bằng phổi của mình và ngồi bằng lưng của mình thì Bụt và mình rất là gần.

    Bụt đang thở nhẹ, Bụt đang ngồi yên
    Mình được thở nhẹ, mình được ngồi yên

    Bụt đang dùng phổi của mình để thở, đang dùng sống lưng của mình để ngồi. Nếu Ngài đang thở nhẹ và đang ngồi yên thì mình cũng được thở nhẹ và cũng được ngồi yên. Ta không còn thấy Bụt là một cái gì ngoài mình nữa. Nếu ta thấy nhẹ và yên thì cứ như vậy mà thở. Bài tập này đưa tới thoải mái, hạnh phúc rất nhiều. Ta tiến thêm một bước nữa với bài tập thứ ba:

    Bụt là thở nhẹ, Bụt là ngồi yên
    Mình là thở nhẹ, mình là ngồi yên

    Ta không thể tìm một vị Bụt ở ngoài “thở nhẹ và ngồi yên”. Là Bụt thì phải biết thở nhẹ và ngồi yên. Không biết thở nhẹ và ngồi yên thì không phải là Bụt. Bụt không phải là một hình hài, Bụt là sự có mặt của hơi thở nhẹ nhàng và dáng ngồi bình yên. Ta đi tìm Bụt ở đâu nữa? Ta thấy hơi thở đang nhẹ và dáng ngồi bình yên tức là đã có Bụt ngay trong giây phút hiện tại. Đó là cái nhìn vô tướng về Bụt. Mình cũng vậy, mình không có cái ngã riêng biệt. Mình là thở nhẹ, mình là ngồi yên. Vì vậy cái ranh giới giữa mình và Bụt được xóa liền lập tức.

    Bụt là hơi thở nhẹ, Bụt là thế ngồi yên. Mình là hơi thở nhẹ, mình là thế ngồi yên. Như vậy ta và Bụt là một, ta vượt thoát cái nhị nguyên. Đi tới một bước nữa ta đốn ngã cái cây ngã chấp với bài tập thứ tư:

    Chỉ có thở nhẹ, chỉ có ngồi yên
    Không ai thở nhẹ, không ai ngồi yên

    Đó là vô ngã. Có Bụt và có ta, nhưng ta và Bụt đều là hơi thở nhẹ, đều là dáng ngồi yên. Không cần phải có một chủ thể, một cái ngã. Với bài tập thứ tư ta vượt thoát ý niệm về một cái ta đang thở nhẹ và đang ngồi yên. Chỉ có sự thở nhẹ và sự ngồi yên đang xảy ra, mà không cần có một cái ta đang thở nhẹ hay đang ngồi yên.

    Chúng ta thường nói: “Gió thổi” hay “Mây bay” hay “Mưa rơi”. Gió đã là thổi rồi, là gió thì không cần phải thổi nữa, nếu không thổi thì không phải là gió. Mưa mà không rơi thì không phải là mưa. Nhìn kỹ ta không thấy có một cái ngã chủ trương thổi hay chủ trương rơi. There is no blower, no rainer, there is only the wind and the rain. Không có Bụt và không có ta như những cái ngã, chỉ có thở nhẹ, chỉ có ngồi yên.

    Nhìn về địa cầu của chúng ta, ta thấy địa cầu cũng đang thở nhẹ, cũng đang ngồi yên. Ta không cần phải tưởng tượng Bụt dưới hình dáng một con người. Khi có sự yên tĩnh và an lạc thì có Bụt. Bụt không phải là một chủ thể. Đi tới bài tập thứ năm ta thấy rất rõ:

    An khi thở nhẹ, lạc khi ngồi yên
    An là thở nhẹ, lạc là ngồi yên

    Có an và lạc là tại vì có thở nhẹ và ngồi yên. Không cần phải có người an và người lạc mà vẫn có thể có an lạc. Không cần phải có cái ngã rồi mới có an lạc.

     

     

    Nói tóm lại chỉ có thở nhẹ, ngồi yên và nhờ vậy có an và có lạc. Không cần có Bụt, không cần có ta mà an lạc vẫn có. Muốn tìm Bụt ta không cần phải trở về Ấn Độ của 2600 năm trước. Ta cũng không cần phải đi vô chùa, tại vì vô chùa ta chỉ thấy tượng Bụt bằng cẩm thạch hay bằng đồng. Nếu thấy Bụt bắt buộc phải là một con người có 80 vẻ đẹp và 32 tướng tốt là ta bị kẹt vì ta đi tìm Bụt qua hình tướng và âm thanh. Nếu ta ngồi yên, thở nhẹ, chế tác hỷ lạc và giải thoát thì ta thấy được Bụt thật mà không phải là Bụt bằng đồng hay bằng đá.

    Xử lý phiền não là chế tác hạnh phúc

    Chính nhờ những phiền não, bất an, lăng xăng, rối loạn nên ta mới có khuynh hướng đi tìm Bụt. Từ những bức xúc, khổ đau, buồn tủi đó ta chế tác ra chất thảnh thơi, an lạc cũng như nhờ bùn mà ta làm ra được bông sen. Vì vậy ta đừng nên chạy trốn phiền não, khổ đau. Nếu biết cách thì ta có thể sử dụng những phiền não, khổ đau để chế tác ra hạnh phúc, bồ đề và tuệ giác.

    Câu hỏi “Thành Bụt rồi có cần tu nữa hay không?” rất là hay. Thành Bụt là có hạnh phúc, bồ đề, tuệ giác. Nhưng dù có rồi mà nếu ta không thực tập thì hạnh phúc, bồ đề, tuệ giác cũng đi mất từ từ. Vì vậy ta phải nuôi dưỡng nó bằng sự thực tập. Ta phải sử dụng khổ đau, phiền não và si mê để chế tác hạnh phúc, bồ đề và tuệ giác.

    Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bàn là sinh tử. Niết bàn và sinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia, cũng như mặt trái và mặt phải là một cặp bài trùng, không có trái thì không có phải. Nghĩ rằng khi có Niết bàn rồi thì không còn sinh tử nữa là ta bị kẹt vào cái thấy lưỡng nguyên. Một người đệ tử hỏi một vị thiền sư:

    Con phải đi tìm Niết bàn ở đâu?
    Thiền sư trả lời:
    Con đi tìm nó ngay trong sinh tử!

    Nó là sinh tử, nhưng nhìn cho sâu thì nó cũng chính là Niết bàn. Sự thực tập hàng ngày của chúng ta phải thực tế. Với những bước chân, những hơi thở, những lời nói, ta phải tạo ra bình an, hỷ và lạc từ những chất liệu không bình an, không hỷ và không lạc. Ta phải luôn luôn sử dụng bùn để làm thành sen, sử dụng phiền não để chế tác bồ đề. Đó là công việc của chúng ta. Công việc chế tác hạnh phúc có liên hệ tới công việc xử lý phiền não. Xử lý được phiền não là chế tác được hạnh phúc. Hai công việc đó tuy hai nhưng thật ra là một. Ta đừng nên chạy trốn khổ đau, ta phải nắm lấy khổ đau và tìm cách chuyển nó thành ra hạnh phúc. Ta ngã ở đâu thì chống ở chỗ đó mà đứng dậy.