Thư gửi ba mùa Vu Lan Báo Hiếu

Ba thương,

Mầu nhiệm biết bao khi con có ba cùng có mặt với con trong mùa Vu Lan năm nay. Vì vậy cho nên con đang ngồi đây và viết bức thư này gửi đến ba. Khi sư cô đến nhờ con viết thư để đọc trong buổi lễ Bông hồng cài áo, con nghĩ: “chết rồi, mắc cỡ lắm”. Cũng lâu rồi con không đặt bút xuống để viết cho người con thương nhưng hi vọng mạch văn của con sẽ tuôn ra như mạch văn của ba.

Năm vừa rồi đã có một biến cố lớn xảy ra cho gia đình của mình, là ba đã mất đi một người cha, con đã mất đi một người ông. Ba, con đã khóc rất nhiều, nhưng con nghĩ lí do chính nhất cho những giọt nước mắt của con là vì con quá muốn được về đoàn tụ với cả nhà. Khi tất cả mọi người đều tề tựu về đông đủ mà chỉ có hai chị em con là không thể có mặt được. Con thèm lắm và muốn lắm được cùng chia sẻ với cả nhà sự mất mát ấy. Nhưng nhân duyên điều kiện chưa đầy đủ, con đành phải chấp nhận. Con đặt bức hình ông lên bàn thờ, mỗi tối con vào ngồi với ông, có khi con ngồi thật lâu và con thấy bình an chi lạ, cứ như năng lượng của ông đang ôm lấy con, an ủi, vỗ về con. Cuối cùng ông đã có mặt ở đây cùng con, đồng hành với con trên những chặng đường sắp tới. Con thấy con không một mình.

Và con nghĩ tới ba mẹ. Dù sao đi nữa, ba mẹ vẫn luôn giữ được nụ cười mỗi khi con gọi về. Ba mẹ biết đây không hề là một sự mất mát. Ba mẹ biết đức độ của ông nội đã đi vào mỗi người con, mỗi người cháu trong gia đình.

Hồi nhỏ, con luôn nghĩ là con giống mẹ nhiều hơn giống ba. Những kí ức tuổi thơ trong con luôn đong đầy hình ảnh mẹ. Con nghĩ vì những năm tháng ấy con ở gần mẹ nhiều hơn. Ba phải đi làm, nên kí ức về ba trong con là những chiều chiều, tối tối với tiếng xe cày, tiếng máy xay cà phê ngoài sân, mùi mồ hôi đặc trưng của ba và những bữa cơm tối luôn luôn có đầy đủ cả nhà. Con là một đứa hoạt bát, dễ cởi mở, dễ trò chuyện, dễ kết bạn (hay đó là những gì con từng nghĩ về bản thân). Những điều này rất dễ thấy là của mẹ. Khi lớn lên, từ từ con thấy được con cũng giống ba. Con thích ở một mình nơi có nhiều cây cối, thích tắm mình trong thiên nhiên, đôi khi muốn cắt hết những sợi dây rườm rà với xã hội. Yếu tố của ba và mẹ tuôn chảy hài hoà trong mạch sống của con, như ba và mẹ là hai mảnh ghép hài hoà với nhau, nương nhau mà phát triển.

Con thấy con quá giàu có khi có ba, có mẹ. Trong quá trình tự quan sát bản thân, con thấy trong con đầy những bông hoa quý giá cũng như những nỗi buồn đau của ba mẹ. Con thấy con không hề một mình. Khi con đau buồn, con biết đây là ba mẹ trong con cũng đang đau buồn, và chỉ như vậy thôi nỗi đau đã được san sẻ, con vững lòng hơn để ôm lấy nỗi đau mà không sợ hãi. Và khi trong lòng con tràn ngập ánh sáng, hạnh phúc hay đầy hy vọng, ước mơ, con cũng biết đây là ba mẹ. Con chỉ là người tiếp tục nuôi dưỡng những điều đó như một người ấp trứng điềm tĩnh, kiên nhẫn chờ đợi những quả trứng nở ra thành những con gà con.

Với con, điều tuyệt vời nhất mà ba mẹ đã ban cho con, ngoài sự sống này là sự chấp nhận con. Ba mẹ luôn đồng hành với con như những người bạn, có niềm tin nơi con, luôn sẵn sàng chấp nhận con. Ba mẹ không đòi hỏi con phải thế này hay như thế khác. Cho dù con thành công hay con thất bại, con bị ghét hay con được thương, con khoẻ mạnh hay đau ốm, con biết con sẽ luôn có một nơi để trở về: một ngôi nhà, một mái ấm mà khi trở về tình thương trong con sẽ được đong đầy trở lại. Đây là điều quan trọng nhất đã giúp con vượt qua được những giai đoạn khó khăn. Con biết, con có những phụ huynh tuyệt vời nhất trên đời. Có một câu của ba từ thời đi học mà con còn nhớ hoài: “Chỉ cần con cố gắng hết sức thôi, còn kết quả ra sao cũng được”. Cho nên tinh thần thoải mái đã là một pháp khí lợi hại mà ba mẹ cho con những năm tháng đó. Nhờ vậy con đạt được những điều bản thân mình cũng không dám tin. Bây giờ cũng vậy, trong sự tu tập, khi con lấy lại được tinh thần thoải mái ấy, từ từ mọi thứ trong con được hài hoà trở lại. Con lại chạm tới được niềm vui và ánh sáng.

Chấp nhận vẫn là một bài học mà mình phải học cả đời phải không ba? Con đang học chấp nhận bản thân mình để rồi tự chấp nhận mình được đến đâu thì con cũng chấp nhận được người khác đến đó. Con tự thương bản thân mình tới đâu thì con mới thương được người khác đến đó. Ba mẹ luôn là những người thầy dạy cho con bài học chấp nhận và thương yêu.

Vu Lan năm nay có ba, chắc con là người may mắn nhất trên đời. Cảm ơn tất cả những điều kiện đã góp phần để phút giây này được có mặt. Con biết mẹ cũng có mặt ở đây vì mẹ luôn dõi theo từng bước chân của con. Con kính chúc ba mẹ có nhiều sức khoẻ, có nhiều thành công, hoa trái và trị liệu trong sự tu học để ba mẹ tiếp tục là chỗ nương tựa cho chị em con và tiếp tục truyền cảm hứng tu học đến những người xung quanh ba mẹ.

Kính thư

Con,

Sư cô Trăng Hồ Sen

Mùa hè – Summer Opening 2023

Mùa hè hằng năm, Khoá tu Gia đình diễn ra ở Làng là cơ hội để những bậc cha mẹ đưa con cái mình tới cùng thực tập, cùng sống với nhau trong môi trường có nhiều thương yêu và bình an của tu viện. Người lớn có thời khoá của người lớn, thanh thiếu niên có thời khoá của thanh thiếu niên và cả các em nhỏ cũng có những chương trình sinh hoạt riêng của mình. Không còn gì đẹp hơn khi cả gia đình đều thực tập để hiến tặng niềm vui, sự tươi mát cho nhau. Quý thầy, quý sư cô cũng hạnh phúc không kém khi thấy rằng mình đang góp đôi bàn tay nhỏ bé vào công trình xây dựng hạnh phúc của nhân loại.

’’Thầy rất ý thức là các con đang dâng hiến tất cả trái tim của mình cho lý tưởng. Nụ cười và hạnh phúc của thiền sinh, của người lớn cũng như các cháu bé, là phần thưởng rất xứng đáng cho chúng ta’’. (Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Xin tặng bạn một vài khoảnh khắc đáng nhớ của khoá tu:

Hương vị của tuệ giác

(Thầy Chân Trời Thiện Chí)

Thầy Trời Thiện Chí, người Bun-ga-ri, xuất gia trong gia đình Cây Dẻ Gai vào năm 2018 và hiện đang tu học tại xóm Thượng, Làng Mai. Bài viết được BBT dịch từ tiếng Anh.

Chẳng bao lâu sau khi được mặc áo tập sự, con liền nhận ra rằng mình phải tìm một cách khác để nuôi dưỡng tự thân, không thể như lúc còn là cư sĩ. Con đường mà con đã chọn là con đường đưa đến chuyển hóa, trị liệu, và phương thuốc để làm được điều đó là những phép thực tập niệm, định và tuệ. Tuệ giác thực sự là một nguồn sức mạnh, mang đến cho ta niềm tin, năng lượng cũng như sự hiểu biết và chấp nhận tự thân.

Ở đây, con muốn chia sẻ về ba tuệ giác hay ba cái thấy quan trọng đối với con, cũng như những yếu tố then chốt trong hành trình khám phá tuệ giác của chính mình.

Trò chuyện với niềm đau

Tối hôm đó, trời mưa và lạnh. Con đang trên đường đi đến kho đựng đồ đông lạnh của tu viện. Vì quên mang áo mưa nên con đi thật nhanh để khỏi bị ướt. Xung quanh tối đen như mực, con không thấy gì cả. Đi được một lúc, con nhận ra là mình đã đi nhầm đường. Con liền bước qua một bên và va phải một tảng đá lớn rất cứng ngay dưới chân. Lập tức con đưa tay ôm lấy chỗ bị thương và cảm thấy một chất gì lỏng lỏng, âm ấm và dính dính. Cảm giác đau nhói, rát buốt cũng tới liền sau đó. Con dừng lại, rồi lê bước thật chậm về lại tăng xá. Một huynh đệ thấy vậy liền giúp con rửa và băng bó lại vết thương.

Đêm đó, con không ngủ được. Tâm đầy bất an và cơn đau trở nặng. Con quyết định thực tập thở với câu thần chú nhỏ vừa hiện lên trong đầu: “Thở vào, cả vũ trụ đang chữa lành cho con. Thở ra, con buông hết những lo lắng, bất an”. Một lúc sau, con dần cảm nhận được hơi ấm và sự tĩnh lặng của màn đêm. Tình thương và lòng lân mẫn của huynh đệ đang lan tỏa nơi từng lớp băng trên vết thương. Con biết là sáng mai mình sẽ được ăn một bữa sáng nóng hổi. Một huynh đệ sẽ chở con đi bác sĩ, rồi một huynh đệ khác sẽ làm việc thay cho con để con được nghỉ ngơi và chữa trị. Trong giây phút đó, con nhận ra tất cả những điều kiện ấy chính là lời đáp lại của vũ trụ để giúp con trị liệu. Con cảm được tình thương và sự chăm sóc ấy như thể con đang được ở trong vòng tay của mẹ hiền. Cơn đau tuy còn đó, nhưng con biết cả vũ trụ vẫn đang có đó cho con, ấm áp trong từng giây phút. Con ngủ thiếp đi, lòng đầy bình an và biết ơn.

 

 

Gương soi

Vài năm trước, con có dịp đi biển chơi cùng một vài huynh đệ trong tu viện. Vốn rất yêu biển nên con vui và hạnh phúc vô cùng, suốt ngày cười toét miệng tới tận mang tai.

Sáng hôm đó, con thức dậy ăn sáng cùng huynh đệ. Nghĩ đến chuyện sắp được ra biển, ngồi uống trà và lắng nghe tiếng sóng vỗ, con hớn hở đi đánh răng và thay đồ bơi. Vừa bước vào phòng thay đồ của khu cắm trại, con thấy một tấm gương lớn treo trên tường. Không hiểu sao, có điều gì đó trong lòng khiến con khựng lại khi nhìn thấy mình trong gương. Một cảm giác cay đắng rất quen thuộc – mình không thích cơ thể mình – bắt đầu lan tỏa khắp toàn thân. Con ngừng lại, rồi cứ đứng trơ ra đó mà nhìn mình trong gương. “Tại sao mình lại ghét hình hài của mình đến vậy?”. Và rồi, con nhận ra: Con không thích hình hài mình vì nó giống hệt hình hài của ba. Khi nhìn hình hài mình, con thấy ba. “Ôi không!…”, con thầm thốt lên. Một khoảng lặng thật dài… Bao nhiêu năm qua con đã sống kiểu gì mà không hề nhận ra sự có mặt của ba trong hình hài này?

Lúc còn nhỏ, con hơi sợ ba. Giọng ba lớn và trầm. Năng lượng của ba nặng nề. Đôi khi ba đi lại và nói năng rất hung dữ. Rồi cả cái mùi nồng nặc khó chịu trong phòng ngủ mỗi khi ba uống rượu. Bấy lâu nay, con đã cố gắng để trở thành một người không có chút gì giống ba, từ cách nói chuyện, điệu bộ hài hước, phong cách ăn mặc, nhóm bạn chơi cùng hay là nghề nghiệp của con, v.v. Như thể bên trong con có một cơ chế lúc nào cũng kiểm tra để đảm bảo rằng mọi hành động của con sẽ giúp con không trở nên giống như ba. Chính trong khoảnh khắc đó, con nhận ra rằng trốn chạy ba nghĩa là con đang trốn chạy chính mình.

Bữa cơm trưa với thầy Đạo Quang

Trong mùa an cư vừa rồi, có một lần con bị căng thẳng khi phải trông lo nhiều việc. Mỗi khi bị áp lực, con không nói những lời con muốn nói, mà chỉ nói những điều ngược lại. Khả năng lắng nghe của con cũng yếu đi. Con cũng đặt ra nhiều câu hỏi vô lý. Cảm giác sợ hãi, lo lắng luôn tìm đủ mọi cách để sinh sôi nảy nở và đơm hoa kết trái trong con.

Buổi sáng hôm đó, con đi ngang qua thầy Đạo Quang. Nhìn điệu bộ cáu kỉnh của con trong cách xá chào, thầy nhìn con và hỏi thăm đã xảy ra chuyện gì. Chuông thỉnh giờ thọ trai vang lên trước khi con kịp trả lời thầy. Chúng con đi vào khất thực và vài phút sau, cuộc trò chuyện đã diễn ra trong nhà trà:

“Hình như lúc nào con cũng tìm cơ hội để bị căng thẳng”, con kể với thầy. “Dù ở tu viện hay ở bên ngoài, con sắp xếp cuộc sống của mình kiểu gì mà lúc nào cũng vướng vào nhiều áp lực”.

“Ồ, quan sát hay đó. Tiếp tục nữa đi, nhìn sâu thêm nữa đi. Nhìn vào những vùng thật là đau nhức ấy”, thầy Đạo Quang nói.

“Cho dù nhận lãnh trách nhiệm nào đi nữa, kiểu gì con cũng đi tới chỗ làm nhiều hơn, nhiều hơn nữa cho tới lúc kiệt sức. Luôn là câu chuyện cũ. Giống như con đang ở trong một cuộc đua với chính mình. Như thể con đang cố gắng tự thuyết phục rằng mình giỏi đủ, mình hay đủ… Dường như trong sâu thẳm, con luôn tin rằng mọi người ai cũng tốt hơn mình, giỏi hơn mình. Như thể mọi hành động của con đều dựa trên căn cứ là muốn chứng minh bản thân, rằng con không đến nỗi nào… Phải là một sang chấn tâm lý lớn với cảm giác “mình không đủ tốt”, hay là đã có một mặc cảm thua kém rất sâu trong lòng mới có thể tạo ra một sức mạnh lớn đến vậy, đủ để con làm việc dưới áp lực cao và chịu đựng sự căng thẳng nhiều năm qua mà không chịu từ bỏ”.

Tuệ giác = sự thực tập?

 

 

Theo kinh nghiệm còn hạn hẹp của con, tuệ giác thường ẩn nấp dưới những lớp vỏ bọc không mấy dễ chịu. Giống như trái cây thì có những lớp da hay vỏ dày, gai góc bao bọc bên ngoài. Để có được phần cơm quả bên trong, có lẽ con phải buông thư và chấp nhận những lớp vỏ đau đớn và coi đó là một phần của chính mình. Khi tự đặt những câu hỏi như: “Sao mình không thích hình hài này của mình?” hay “Sao lúc nào mình cũng căng thẳng vậy?” giúp con nhẹ nhàng định hướng lại sự chú tâm của mình. Khi chạm tới ngưỡng cửa của tuệ giác, con thường thấy mình có nhu yếu từ bỏ ý muốn tranh đấu với những đau nhức để có thể mở lòng ra, dù rằng có khi điều đó làm con càng mong manh và dễ bị tổn thương hơn.

Thấy được ba đang có mặt trong con với những phẩm chất đẹp và chưa đẹp, cái thấy đó không làm cho con hạnh phúc hơn. Trái lại, điều đó khiến con khiêm nhường, vững vàng và thực tế hơn. Nếu cách đây vài năm, có lẽ con không thể nào chấp nhận và chịu nổi sức nặng của cái thấy này. Có lẽ, con sẽ bị nó đè bẹp mất.

Nhưng giờ đây, con đã bắt đầu mở lòng ra với ba hơn. Mỗi ngày, con cho phép mình được là ba và dành tình thương cho ba trong mình. Đôi lúc, con vẫn còn có chút cảm giác mình là nạn nhân, nhưng con thôi không còn đấu tranh gì nữa cả.

Sau buổi trò chuyện với thầy Đạo Quang, con cảm nhận trong lòng mình đang có một cái hố thật sâu, thật to, có lẽ to bằng một phần ba thân thể con. Thật là nản lòng khi nhận ra trong mình đang có một cái máy phát năng lượng khổng lồ, mà động cơ để chạy cái máy đó chính là ước muốn được tốt, được giỏi như người khác! Nếu ai đó hỏi con cái thấy này có hương vị gì, con sẽ nói rằng nó đắng gấp mười lần trái khổ qua! Đây là một cái thấy khá mới đối với con và nó vẫn còn làm con xúc động lắm. Con biết mình cần có mặt nhiều hơn cho cảm giác đó, còn chuyện liệu nó có thay đổi hay không dường như chẳng quan trọng lắm.

Trong quyển Nghệ Thuật Sống (The Art of Living), Thầy có nhắc đến tuệ giác vô thường: “Chúng ta có thể biến tuệ giác vô thường trở thành một tuệ giác sống động có mặt trong ta trong mỗi giây phút”. Nhìn lại những tuệ giác, hay cái thấy, mà con đã chứng nghiệm, con tự hỏi mình: “Con có thể sống với những tuệ giác này trong mỗi giây mỗi phút của đời sống hàng ngày hay không?”.

 

 

Đất bằng nổi sóng

Thư Lê Thương viết

“Tp Hồ Chí Minh 01.8.1987 đến 21.10.87

PH thân mến

Công an thẩm vấn: Đất bằng nổi sóng!

Một chuyện “Sóng nổi đất bằng” từ tháng 10-86 đến giữa tháng 1-87 đã đặt tôi vào cuộc “kiểm tra tư tưởng” kéo dài đến 16 lần lên C.A thành phố.

Thẩm vấn có lễ phép và nể nang tuổi tác nhưng cũng soi mói khá nhiều làm tôi cụt hứng viết thư đến nay. Vì đến khoảng 5 lần có sự hỏi han về PH và quà tặng đều đều từ trước đến nay. Các bạn lãnh quà hầu hết đã chết hay ra đi nên không còn ai mà hỏi. Họ cho tôi coi qua 1 cái hình vợ chồng Nguyễn (Lê Trọng Nguyễn?) trước một hàng cờ bên đó nhưng lấy lại ngay khi tôi tính lật mặt sau để xem hình gửi cho ai. Họ cũng đưa tôi một hình đen trắng phóng đại và bảo tôi ký đằng sau là “giống PH”. Tôi không ký vì không biết rõ. Anh cũng có hỏi tôi đưa hình PH nhưng tôi nói là con cháu trong nhà tôi làm lạc mất rồi.

Họ nói là HH Thuỷ khai là Phương Hương chính là CN Phượng đã thường dùng nhiều tên khác nhau để liên lạc với văn thi sĩ và cho coi xa xa một số đáy thùng có chữ viết gì đó.

Tôi nói không đúng, và cho họ coi một lá thư có en-tête Dr. Phương Hương mà tôi đã lãnh được từ lâu và chung quy họ muốn dồn tôi vào một thế bí thuộc loại “cấu kết với bên ngoài để hoạt động gì đó”, nhưng không đủ bằng chứng và cũng không hề có như PH biết, nên cuối cùng đã để tôi yên. Tôi có hỏi như vậy họ không muốn tôi lãnh quà nữa sao? Thì sau vài phút họ nói là không có ý đó, nhưng tôi tự kết luận là nhiều thư của tôi đã bị đọc và có lẽ có thư mất đi như thư gửi cho tôi cũng có cái lạc mất. Hình vợ chồng Nguyễn chắc cũng số phận đó.

Chút ảnh hưởng của Gorbachev

Gần một năm nay tại Việt Nam có cuộc báo chí hưởng ứng tinh thần đồi mới của Goocbachấp (Gorbachev) và nêu ra công khai nhiều chuyện bê bối của cán bộ, gọi là những tiêu cực “của các cán bộ nhiều cơ quan”.

Đọc nhiều mục như nói thẳng nói thật cũng thấy giới lãnh đạo, nhất là ở miền Nam, có gắng làm sạch sẽ chính quyền địa phương từ bấy lâu nay quen hoành hành một mình một chợ và đã làm mất lòng dân.

Cuộc “Phấn đấu để đổi mới tư duy” thúc đẩy tiềm năng kinh tế, chọn người mới thích ứng được với tình thế khó khăn ngày một trầm trọng chắc sẽ lâu dài và có phần gay go. Dân chúng có hưởng ứng nhưng vẫn chờ xem. Xã hội Sài Gòn không ngớt sôi động về mọi mặt, tìm tiền để sống, tìm hàng mua đi bán lại, ăn xài khi kiếm ra tiền, chờ tin tức giật gân để đọc, cho xe chạy đôn đáo, tìm các phương tiện kiếm ra tiền mong theo kịp với thời giá cứ lên cao bất thường mà không biết có thể kịp thời giá đó không?

Kinh tế vẫn điều động chính trị. Các giáo điều được theo bấy lâu nay về quản lý nhân dân đang được cởi mở dần dần: Từ cách thả lỏng cho hàng hoá di chuyển tự do, đến các việc trì trệ hành chánh, các kiểm soát quá kỹ trong đời sống người dân… đều được ông Tổng bí thư Đảng Nguyễn Văn Linh ra chỉ thị nới rộng, thả lỏng, giảm thiểu. Mọi sự đều theo gương Liên Xô cho tháo gỡ các chướng ngại, thường hạn chế lợi tức để người dân dễ sống hằng ngày.

Kể ra thì đó là một gắng công, nhưng chắc lâu dài và khó khăn diệu vợi. Dân Sè Goòng thì vẫn có vẻ suy tư nhiều về thời thế và lo nghĩ trọn vẹn cho sự sống còn của gia đình, con cái. Người mắc bệnh lo âu thì lên áp huyết cao mà chết, người thờ ơ với mưa gió dễ bị cảm cúm thì nằm ụ. Tang chay vẫn âm ỉ đó đây với tiếng kèn sáo bát âm và khói tại các lò thiêu toả mùi khét lẹt của các dịp hoả táng. Bụi tro lại trở về với bụi tro.

Can tràng rối rắm

Lê Thương sống trong một hoàn cảnh bế tắc, không có hứng thú sáng tác, không thấy được tương lai cho mình và cho con cháu. Anh chưa biết cách thực tập hơi thở và bước chân ý thức, nên không biết cách nào dừng lại những suy tư chằng chịt, rối bòng trong đầu. Chỉ có một chút tình bạn với cô bác sĩ đầy lòng từ bi hiểu biết, gửi thuốc men cho những văn nghệ sĩ nghèo mà cũng bị hạch sách 16 lần… Chỉ có giấc ngủ mới giúp cho anh chấm dứt được suy tư. Nghĩ đến Phương Hương, anh thấy loé lên một chút ánh sáng niềm tin và có tạm chút năng lượng ngồi dậy viết lá thư đề ngày 21.10.1987

“Năm tháng chạy vùn vụt nhanh hơn bao giờ hết. Không khí cuối đời của tuổi già trà trộn với tin tức sôi sục của trần gian chạy nhanh vào cuối thế kỷ. Nhiều ý nghĩ bế tắc chặn ngang cái cuống họng không cho nói ra được gì hơn là băn khoăn rối nùi không cách gì tránh được định mệnh.

Cứ nghỉ yên bằng giấc ngủ mỗi đêm dài là lối giải thoát các lo nghĩ chằng chịt trong tâm não của các tuổi đời. Thanh niên lo hoạt động để tìm sống, người làm cha mẹ nhìn con cái với các thương mến và tội nghiệp chúng và tự hỏi:

Đường hướng nào sẽ chiếm mất đám con tôi? Những lý tưởng xác xơ đang rách nát hay những ý niệm cũ càng của lòng ỷ lại vào an thân phì gia mặc thây cho thiên hạ quay cuồng?

Quả thật là tâm tư vẫn chằng chịt những ý nghĩ dọc ngang bủa vây từng ngày, từng tuần lễ làm cho thơ tín viết mãi không xong và cảm hứng cũng vừa chớm nở đã tự tắt ngòi để yên lặng.

PH thân mến, tôi vừa bày ra một can tràng rối rắm kéo dài gần một năm nay, nó làm cho tôi bặt tin đối với các bạn bè nơi xa. Nay may ra tôi tìm lại được sự an lòng và tin tưởng để viết cho“tạm xong” lá thư lê thê gửi qua đứa cháu đến PH, mong PH lãnh được nó và cho tôi hay tin bằng một carte postale để tôi yên dạ nhé.

Chào PH thân mến L.T.”

Nỗi lòng của Sư cô Chân Không khi đọc bức thư kéo dài từ 1 tháng 8 năm 1987 đến 21 tháng 10 năm 1987 của Lê Thương

Tôi không ngờ đó lại là bức thư cuối cùng anh viết cho tôi. Sau này tôi được biết là công an TPHCM đã để yên cho anh được vài tháng, nhờ thế anh mới dám viết thư cho tôi.

Cái tội của tôi Phương Hương là vì quá bận hay cũng vì “bí” mà không tìm cách tiếp tục gửi thư tưới tẩm những gì hứng thú nơi nhạc sĩ. Một phần vì sợ Lê Thương bị liên luỵ, một phần là vì năm 1988 đó, khi hay tin hai thầy Tuệ Sĩ và Trí Siêu bị tuyên án, tôi dồn nhiều sức lực trong các chuyến được theo Thầy đi hướng dẫn những khoá tu và thuyết pháp côngcộng về Chánh Niệm ở Đức, Thuỵ Sĩ, Hoa Kỳ để cố tìm ra những phương pháp nào khéo léo nhất vận động huỷ bỏ án tử hình cho hai thầy. Một phần tôi cũng “bí” không biết cách nào tưới tẩm tinh thần cho anh phấn khởi lại.

Hình như tại vắng thư tưới tẩm hạt giống phấn khởi như xưa, chỉ vài năm sau, năm 1990, Lê Thương bị lẫn (Alzheimer) thật, và chết ngày 17 tháng 9 năm 1996.

Năm 1988, trên núi Linh Thứu, tôi được Thầy cho xuất gia với sự chứng minh của Đức Bổn Sư Thích Ca và tăng thân cùng đi với Thầy lần đó. Sau đó tôi sống cuộc đời xây dựng tăng thân xuất sĩ, bề bộn hơn, nên chỉ gửi quà cho ai có thư thăm hỏi và quên hẳn gửi thư và quà cho Lê Thương, vì không nghĩ là anh bị bắt như Hoàng Cầm. Hoàng Cầm thì dù không dám viết thư, tôi cũng gắng gửi tiền mỗi năm chừng ba lần qua Phan Đạm Hiệp, qua chị Bảo Từ, qua chị Hồng Phúc vì nghe anh bị ở tù. Còn Lê Thương, vì nghĩ anh không bị tù tôi đã tự nhủ “thôi mình để thư thư sẽ gửi quà sau”, nhưng vì không có thư của anh nên chuyện này kéo qua những gì cần giải quyết cấp bách, trong đó có mấy trăm bức thư cho thuyền nhân mỗi tuần nên quên hẳn. Khi rảnh rang hơn và định hỏi thăm gửi quà thì nghe nói anh đã tịch. Trước đó các con của anh là Liễu Thu và Loan cũng không có thư. Theo con gái anh là Liễu Thu khi gặp tôi ở Hoa Kỳ thì anh không bị bỏ tù. Công an chỉ mời anh tới thẩm vấn. Về đến nhà thì anh nằm vật ra như người chết. Sau ba tuần thấy anh quá mệt mỏi, họ ngưng bắt lên Công an làm việc. Anh được để yên nhiều tháng.

Thấy thế, anh nghĩ rằng yên rồi nên viết bức thư dài 10 trang cho tôi. Không ngờ bức thư ngày 01.08. 1987 ấy lại là bức thư chót.

Hòn vọng phu

Tôi đã từng hỏi anh về hoàn cảnh sáng tác những bài Hòn Vọng Phu. Một ngày mùa thu 1987, anh đã viết cho tôi một lá thư kể cho tôi nghe chi tiết về diễn trình biên soạn ba bài Hòn Vọng Phu. Tôi rất mừng khi nhận được lá thư này. Đây là một tài liệu quý hiếm cho nên tôi phải chép ra đây để nhiều người được đọc.

Tôi xin chép nguyên văn lá thư Lê Thương viết ngày 1.8.1987 để quý bạn biết được trong hoàn cảnh nào Lê Thương đã sáng tác Hòn Vọng Phu 1, Hòn Vọng Phu 2 và Hòn Vọng Phu 3.

Lê Thương viết nói về những lý do thâm sâu về tình yêu chồng mãnh liệt và trung kiên đến hoá đá của Hòn Vọng Phu. Vọng Phu 2 – Ai xuôi vạn lý được Lê Thương viết ra trong trạng thái mười phần chết một phần sống, anh nhớ đến nén hương thương tiếc mối tình chung thuỷ với đất nước quê hương, anh phác thảo những nốt nhạc trong rừng sâu Chẹc Xậy Bến Tre, toàn lá dừa nước, trong khi đang bị Tây ruồng tấn công tứ phía, có thể chết bất kỳ lúc nào.

Lời kể của Lê Thương:

Tháng thu 87

Mến gửi Phương Hương thân mến.

Cách đây 43 năm, (1944-1945) tại xứ dừa tỉnh Kiến Hoà, lúc đó còn là cù lao An Hoá, tỉnh Mỹ Tho.

Tình trạng giao động của một tâm hồn ưu tư về thời cuộc (Nhật chiếm Lạng Sơn 40 rồi tràn vào Hải Phòng, Hà Nội, tôi vào Nam 1941) hoà nhiễm nỗi lòng chinh phu trong văn thơ đưa tôi đến việc sáng tác lần hồi ba bài Hòn Vọng Phu thành một truyền kỳ cảm động.

Năm đó tôi tự cho là một kẻ phiêu lạc, đã từng ghé bến Quảng Châu Trung Hoa 4 tháng – ghi xong hơn 384 trang nhật ký – tiếc rằng nay đã mất hết ở Trà Vinh năm 1945 – mang nặng mối tình nước non đang xao xuyến, phân vân trước bao nhiêu nghi vấn của đời người, nên tôi gửi thác tâm tình vào đề tài dân tộc là “Tích người đàn bà hoá đá”.

Tất cả luân lý Đông phương hầu như căn cứ trên lẽ tiết chung của Con Người các thế hệ, các giai cấp trong một nhân sinh quan sâu đậm Tình và Nghĩa.

Người mẹ ôm con đợi chồng rồi hoá đá quả là một truyện ly kỳ tuyệt đẹp.

Thành đá đây là thành chứng quả tình thâm, tình vợ chồng chưa toại lòng nhau đã cách biệt, tình cha con chưa từng ôm ấp đã chia ly, tình đồng loại chưa sum vầy đã tan rã.

Nước ta có 3 đá Vọng Phu: Một ở Lạng Sơn có nàng Tô Thị như trong câu “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa, có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”, hai là ở Phú Yên (Nam Trung Việt) có núi Vọng Phu vùng Đèo Cả (tỉnh Phú Khánh), ba là ở Hà Tiên, có Vọng Phu Thạch.

Núi Vọng Phu ở Phú Yên, tại một vùng địa lý hơi man rợ, thâm u, là đá đẹp nhất xem từ biển nhìn vào làm cho tôi cảm mến.

… Nhớ lại năm 1470 đầu niên hiệu Hồng Đức tại vùng này có ‘‘Thạch Bi Sơn” làm biên giới Việt Nam và Chiêm Thành còn sót lại… Cảnh trí đường đèo quanh co, cây cỏ um tùm man rợ làm cho dân gian ghi tạc mấy câu vè siêu thực đầy tính bí hiểm.

“Mưa Đồng Cộ, gió Tu Hoa, cọp Ổ Gà, ma Hòn Lớn”.

Lời sơ giải của dân gian kể là: Trên một cao nguyên nhỏ vùng đèo thường có mây dày đặc, chỉ cần gọi nhau trên đó là có mưa rớt xuống (còn nhiều di tích dân cổ Chiêm Thành trên đó).

Đường lên ngọn cao nơi đó, sườn núi bị soi mòn, gió biển thổi qua các khúc quanh co, nghe như tiếng hú âm u.

Đó là mưa Đồng Cộ, gió Tu Hoa.

Cọp thời xưa dạn dĩ đến nỗi sau những trận mưa chúng ra đường lộ phơi nắng cho khô bộ áo rằn ri, xe hơi thời đó bóp kèn năn nỉ chúng cũng không thèm nhúc nhích (xe thời đầu Pháp thuộc có mui dựng lên để hai bên hông trống rỗng) nên xe phải dừng lại cho mấy “ông ba mươi” đi hết mới chạy qua, vừa lên tốc độ chối chết vừa la như giặc.

Còn Hòn Lớn nghe như một cái đảo âm u ngang vùng Phan Rang gì đó, có rất nhiều “ma Hồi” đêm cứ lập loè nhát các ngư phủ ghé thuyền tránh gió đến đó qua đêm.

Quang cảnh hú vía của thiên nhiên, trộn vào ảnh cảm địa lịch qua từng bước đường nam tiến vẫn ám ảnh tâm hồn tôi, một cậu trai giàu tưởng tượng, để lúc sống bên bờ kinh Chẹc Xậy (tỉnh Bến Tre thân mến) phải thể hiện thành bài Hòn Vọng Phu.

“Lệnh vua hành quân trống kêu dồn…”(Hòn Vọng Phu 1). Bài này đã xong và đưa anh Lưu Hữu Phước trước ngày 23.9.45 để anh đem ra Bắc.

Bài Ai xuôi vạn lý (Hòn Vọng Phu 2) là cuối năm 1945 sang 46, tôi theo kháng chiến tỉnh Mỹ Tho đi từ Cai Lậy, Thuộc Nhiêu, Vĩnh Kim qua sông, đi với các em phần đông là học sinh Petrus Ký mà tôi là trưởng đoàn ca nhạc với những bài thanh niên lịch sử và riêng Hòn Vọng Phu 1 nghêu ngao qua các làng dừa từ Thành Triệu, An Khánh, Phú An Hoà, Quới Sơn, Giao Long, Giao Hoà, cho đến Dòng Sầm, gần Bình Đại.

Bỗng Tây đem tàu tấn công ba cù lao, cù lao Minh, cù lao Bảo, cù lao An Hoá. Tiếng Canon 75 bắn tủa vào các bờ sông có dừa, máy bay phun lửa “spitfire” từ trời bắn xuống. Đoàn phải tan rã, các em trong đoàn chạy hầu hết về gia đình, chỉ còn tôi và người bạn (anh này đã chết) trốn được vào vùng lá Dòng Sầm cách Bình Đại 4 cây số.

Chúng tôi được một gia đình người Cao Đài làm đầu tộc đạo nơi đó thương xót giấu trong bìa lá và giúp lương thực sống trong sự khủng khiếp hằng ngày vì tên Pháp lai Leroy và bọn lính Partisans đầu đỏ xục xạo làng xóm gieo khủng khiếp. Lúc đầu chúng tôi còn trốn vào sâu trong ruộng, đem gạo cơm đi ăn, tối về nằm trong kho lúa. Sau vì còn thấy nguy hiểm nên anh Tư bà con với ông đầu tộc đạo dẫn chúng tôi vào bìa lá Dòng Sầm dày 4, 5 trăm thước sát cửa biển Bình Đại.

Tại nơi yên tĩnh này chúng tôi được sống bên bờ rạch dày đặc lá dừa nước! May mà còn chiếc mùng “Tuin” (tulle) để tránh muỗi, đêm đêm nghe dế than, cá thòi lòi đập đuôi lạch bạch dưới sình và tâm hồn lo âu vô vọng. Tôi hay nghĩ đến sự chết thê thảm cô đơn và lẩn vẩn trong trí óc sự tiếc nuối mênh mang như lòng người chinh phụ trong giang san Đèo Cả.

“Thôi đứng đợi làm chi. Thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng kỳ. Những người mang mệnh biệt ly.”

Nhờ cây viết máy Kao lo khô mực và nước rạch nhỏ vào cho ướt lại, tôi viết mấy ô nhịp trên.

Tâm hồn rạo rực trong mỗi buổi chiều tà làm bốc lên những tiếng mới của bài Hòn Vọng Phu 2. Ai xuôi vạn lý được ghi vội vã lộn xộn nhưng cuồng nhiệt như tâm hồn tôi ghì lấy sự sống.

Ngày chót ở Dòng Sầm là ngày đại bố của tên Leroy. Hắn nghe tin có người lạ mặt trốn trong lá (vì có tên lính kín của hắn trà trộn trong đám người đi chặt lá bất ngờ gặp 2 chúng tôi).

Tên này giả đò thương hai chúng tôi, hỏi vu vơ vài câu rồi ra lộ làng. Anh Tư người che chở chúng tôi thấy nó chạy vội xuống Bình Đại, anh hốt hoảng vào kêu chúng tôi thu xếp túi áo quần, xoá vết củi than rồi tìm chỗ trốn càng sâu càng tốt như ráng chui dưới đống lá mới chặt kẻo vào bụi rậm thì dễ bị chúng bắn bừa vào cho chết.

Cả một ngày khủng khiếp tột độ kéo dài cho đến gần tối đen, chúng tôi mới dám lần về nhà anh Tư, hỏi thăm nơi nào còn trốn được nữa. Anh dẫn đến nhà người bề trên trong dòng họ và cả trong đạo, năn nỉ xin giúp. Ông này chỉ lối cho chúng tôi ra một tha ma nhỏ có 1 cái mộ đào sẵn nhưng chưa chôn. Lấy rơm nơi gần đó trải đầy xuống đáy mộ, chúng tôi đành xuống đó nằm nghỉ qua đêm, yên lặng trong ngôi mộ như chờ lấp đất.

Vòm trời sao hình chữ nhật toả xuống hai thằng người nửa sống nửa chết, tuy chưa chôn nhưng đang phó thác tâm hồn cho thượng đế với hai cái xác còn đầy sức sống cầu mong được thoát nạn. Sáng hôm sau lời nguyện đã được nghe từ thiên cao: Một em trong đoàn hát tìm được chúng tôi và dẫn qua đường làng đến Vang Quới (Dòng Quới), xuống đò máy về được Mỹ Tho để ngồi tù… rồi thoát nạn.

Ba tôi cũng đã từng sống chui như Lê Thương

Vì hoàn cảnh gia đình đông con, ba tôi không thể đi theo kháng chiến, ba tôi chỉ mong trở lại thành phố và làm những nghề nghiệp không có hại cho đồng bào đất nước để nuôi gia đình. Lê Thương viết: “Về Mỹ Tho để ngồi tù… rồi thoát nạn”, ở đây tôi xin giải thích thêm “về ngồi tù” từ kinh nghiệm gia đình tôi. Về ngồi tù có nghĩa là về lại vùng bị Tây chiếm đóng, đi ở tù một thời gian và sau đó được trả tự do, ra sống trong vòng Tây kiểm soát. Nếu một chiến khu không còn lực lượng chống trả và không có nhiều du kích thì Tây cứ đi lùng và giết cho hết những người kháng chiến ít ỏi còn lại. Vậy ai trốn mãi trong các vùng ấy thì thế nào một ngày cũng bị giết. Thà rằng ra đầu thú rồi tìm cách khác mà lặng lẽ giúp cho quê hương trong khả năng của mình. Biết bao nhiêu người đi tìm cách thức ấy, trong đó có ba tôi và anh Tư tôi. Cũng đúng thời điểm mà Lê Thương sống chui gian khổ, thì Tây cũng đã về tận An Định Cái Quao, nơi gia đình tôi tá túc trong nhà đãi của ông nội tôi (nhà to dùng để đãi khách mỗi khi có giỗ).

Gia đình tôi gồm ba má, chị Hai, chị Ba, anh Tư, chị Năm, anh Sáu, chị Bảy, chị Tám, tôi (bé Chín) và em Mười, 11 miệng ăn mà không có cách gì làm ra tiền. Tiền dành dụm của ba má tôi nghe nói được 6.000 đồng mà từ hôm đi di cư về quê nội cứ ăn dần dần, sắp cạn. Từ khi Tây đến đóng đồn tại Cái Quao, ba tôi phải đi trốn vì sợ bị bắt. Nếu Tây bắt, họ sẽ buộc mình điểm chỉ đồng bào nào làm du kích thì làm sao mà ba tôi có thể làm việc đó được. Ba tôi và anh Tư tôi cứ phải đi trốn trong nhà các bác tá điền cũ của ba tôi, những căn nhà nằm sâu trong các lạch con, sình lầy và đầy cả rừng dừa nước mà Tây không dám đi tới như chỗ anh Lê Thương.

Ngày nào khi nghe có tin Tây đi ruồng bắt thì phải ra ruộng núp giữa những cây rơm hay núp sau các ngôi mả giữa những bụi trăm bầu của nghĩa địa làng. Có một hôm khi đang về An Định thăm các con thì Tây tới, ba tôi phải chui vô quan tài của ông nội (áo quan bằng gỗ quý, nội tôi mua trước để dành khi chết xài). Còn anh Tư tôi thì chui vô cái lu trống phía sau đống củi nấu ăn to tướng. Chị Hai tôi lúc đó 22 tuổi bình tĩnh ra nói tiếng Pháp với những người lính Lê Dương để họ có cảm tình không vào xét nhà tôi.

Chị Hai tôi giỏi tiếng Pháp lắm, nói năng giải thích đàng hoàng hôm đang giấu Ba và anh Tư. Nhưng những hôm sau, khi mấy người lính Pháp trở lại nhờ chị đi thông dịch thì chị giả đò không hiểu rành tiếng Pháp, chị làm bộ lơ mơ nói vài chữ cố ý phát âm trật để họ không hiểu chị muốn nói gì nên mới được tha, không bị bắt buộc làm “Việt gian”. Ba tôi rất sợ bị nghi là Việt gian hay bị bắt làm Việt gian, nên suốt bảy tám tháng phải sống trốn chui như Lê Thương ngoài ruộng lúa hay trong các lùm dừa nước. Má tôi và chị Hai khi ở tỉnh Bến Tre rất là khéo về nữ công gia chánh. Má và các chị tôi biết làm các món bánh tây và nấu những món ăn ngon sang trọng cho những tiệc cưới nơi thành phố làm phương tiện sinh sống. Nhưng ở An Định, người dân quê không ai biết ăn bánh Tây, không ai mướn làm tiệc cưới linh đình như hồi ở tỉnh nên tiền dành dụm cứ cạn dần. Nếu không trở về Bến Tre kịp tìm việc làm như xưa thì không còn tiền mua gạo nữa.

Cuối cùng chị Hai tôi phải liều đi về Bến Tre dò dẫm tình hình. Trở lại Cái Quao, chị báo cáo là những người bạn của Ba đã hồi cư như bác Đốc Trinh, thầy giáo Tròn, thầy giáo Dân, cô Tửng… có việc làm, nghề giáo dục khá an ổn. Ở thành phố lớn như tỉnh lỵ Bến Tre, nếu mình trở về nhà cũ của mình cũng không ai để ý. Ba tôi và anh Tư ra trình diện và bị tù vài ngày thì ba trở về làm việc lại ở sở Công chánh Tỉnh. Anh Tư tôi 19 tuổi bị bắt đi lính Pháp. Anh vào quân đội Pháp nhưng đã khéo léo giúp du kích chiến rất nhiều. Hình như anh lặng lẽ báo tin trước cho đồng bào biết quân đội Pháp định làm gì, ở vùng nào để du kích trốn trước. Anh Tư tôi thi hành một năm quân dịch thì xin về và ba má tôi cho anh đi Pháp du học ngay. Sau 1975 có nhiều người du kích cũ ra làm lớn đã tuyên dương anh Tư tôi như anh hùng!

Lê Thương, Sài Gòn 1947 – 1948 với Hòn Vọng Phu

Xin mời các bạn đọc tiếp lá thư ngày 01.8.1987 của Lê Thương. Sau khi về được Sài Gòn, anh hoàn tất tác phẩm Hòn Vọng Phu II – Ai xuôi vạn lý vào cuối năm 1947, và trong suốt năm 1948 bài hát này đã được trình diễn vang dội trên các sân khấu Sài Gòn với giọng hát của nhiều nam nữ ca sĩ trong đó có nữ ca sĩ Ánh Mai.

Sài Gòn cuối 1947, Hòn Vọng Phu 2 với nỗi lòng “người Vọng Phu” (qua) lúc gió mưa thành hình và trong nội năm 1948 nỗi lòng ấy vang dội trên các sân khấu Sài Thành với giọng ca điêu luyện của nhiều nam nữ ca sĩ, trong đó có Ánh Mai, sau này thành vợ cũ của Huỳnh Văn Tiểng và vài người đẹp đã quên tên.

Sống lại với nền tân nhạc giữa thời “khai sơn phá thạch”, tôi không ngớt theo đuổi ý chí kể lại khúc chót của chuyện tích, mặc dù mắc kẹt với bao sáng tác của năm 1948, một năm khởi sắc với sáu bài nhạc thời sự (Hoà bình 48, Báo thương, Liều thuốc độc lập, Dao ca…), tạp khúc ca, kịch ngắn, thâu âm đĩa hát, tìm nhà ở, tìm chỗ dạy học lại,…

Người chinh phu về (Hòn Vọng Phu 3) với tình nghĩa vợ chồng đổi sang tình nghĩa non sông, nhìn đứa con để trao cho nó thanh kiếm sơn hà. “Trao nó đi gây lại cơ đồ”. Linh tính làm người Việt Nam giữa thời khói lửa vẫn đinh ninh là Hạnh Phúc vẫn là mục tiêu không kỳ hạn mà dân tộc phải tìm lâu dài cho đến khi quân bình được những cảm tình trái ngược mà lẽ đời sôi động của cuối thế kỷ đã lôi cuốn bao lớp người vào lãng phí sinh mạng như vào hận tủi bi thiết của nhân sử nòi Việt.

Đến đây – nhân lúc mới khoẻ lại về thân thể và tin đời, tôi gửi thác P.Hương một điệp khúc từ sự của bài Hòn Vọng Phu 2.

Có thơ xuôi vạn lý

Nhắn Phương Hương mấy lời 

Đá non sông tình ý

Vẫn trơ gan dưới đời 

Ghi nghĩa nặng tình sâu

Và lòng thân tín với nhau 

Vững như đá tảng non đầu 

Vẫn chan chứa Tình Bể Dâu

Lê Thương

TB: Nhớ lại những giọng Hoàng Oanh, nõn nà thuỳ mị, rồi mới đây, giọng Mai Hương, đơn chuyên thẳng tắp sau những thổn thức của Thái Thanh trong các kỳ diễn lại Ai xuôi vạn lý.

Phải kể nhiều về giọng Long Xuyên tinh nghệ của Phạm Bá Phước (đã khuất), của Thanh Hùng và nhất là giọng Duy Khánh thiết tha chải chuốt và mới đây giọng Hoài Trung diễn kể Người Chinh Phu Về còn cảm tình gió Khơi Dĩ Vãng.

Nhớ PH qua sự nín lặng lâu dài chỉ vì bất tiện chứ không mảy may vì gì khác.

Mong Trời Phật giúp con người khả ái ấy giữ mãi được sức khoẻ và tin tưởng về Mai Hậu.

N.B: Sẵn Noel, Nouvel An và Tết Mậu Thìn sắp tới xin chúc Phương Hương và gia đình toàn vẹn ở biệt thự Khoai Lang được tràn trề vui mừng sức khoẻ và các cụ bà được sống lâu trăm tuổi để chờ ngày về thăm Bến Tre thân mến trong niềm vui an hoà của những năm xưa.

Cả gia đình tôi cầu chúc. LT.”

Nhận được lá thư trên của Lê Thương, tôi mừng lắm và cũng lấy làm rất hân hạnh vì được anh làm tặng một điệp khúc nữa của bài Ai xuôi vạn lý. Những lúc tưới rau sau vườn Nội Viện Phương Khê, tôi cứ hát mãi cái điệp khúc này:

Có thơ xuôi vạn lý

Nhắn Phương Hương mấy lời 

Đá non sông tình ý

Vẫn trơ gan dưới đời 

Ghi nghĩa nặng tình sâu

Và lòng thân tín với nhau 

Vững như đá tảng non đầu 

Vẫn chan chứa Tình Bể Dâu.

Những bức thư của Lê Thương

Chia sẻ nếp sống an trú hiện tại

Nhìn kỹ phút giây hiện tại

Tôi viết cho Lê Thương ngày 31 tháng 12 năm 1979

“Anh Lê Thương,

Phương Hương có một người chị và một lũ cháu vừa vượt biên sang Pháp mới đây nên vâng lời mẹ PH đã nhận lời làm việc lại cho bệnh viện nhỏ của tỉnh. Chỉ còn có bốn mươi mấy phút nữa là hết năm 1979. Bên ngoài mưa gió dữ lắm. Đêm Noel vừa qua, tuyết đã rơi trên miền Đông Nam sông Aube của chúng em một lớp dày 30 phân, PH phải trực bệnh viện nhưng Giao thừa dương lịch này PH được ở nhà. Tới bữa 28 tháng 12, tuyết mới bắt đầu tan. Đêm nay bọn con nít đi dự réveillon trong các buổi liên hoan của Việt Kiều. Cao Thái và Trần Văn Trạch nghe đâu cũng hát cho nhiều tiệm ăn lớn. Hát suốt đêm. Em khỏi trực, ở nhà nấu một nồi cháo nấm lớn, có nấm, tiêu, gừng, ngò, thơm phức. Ăn với cả nhà có cả má và chị PH nữa. Nấm nầy ngọt và thơm như nấm mối bên ta (hơn nấm rơm nhiều lắm), PH hái được ở các gốc thông trên rừng. Mùa thu năm nay dài lắm, kéo mãi đến mồng 10 tháng 12 năm 1979 vẫn còn nắng ấm nên nấm mới mọc nhiều hơn mọi năm. Lúc 9 giờ 30 tối, đài truyền hình TF 1 trình bày chương trình Joyeux Noel Tino của Tino Rossi. Tino Rossi của các bài Petit Papa Noel chắc anh biết. Bài nầy con nít Pháp nào sinh từ năm 1940 đến giờ cũng biết hát, và con nít Việt nào học trường Pháp cũng quen thuộc. Chương trình đứng đắn lắm và dễ chịu nữa. Trong đó ông ta giới thiệu nồng nhiệt cái bài hát mới của ông “La vie commence à 60 ans” (Cuộc đời thực sự bắt đầu từ năm 60 tuổi). Ông ta vừa hát vừa cười hoài, khoe mãi cái hàm răng giả của mình! Bao quanh Tino là nhiều ca sĩ trẻ tuổi, hình như tất cả đều muốn ăn mừng đặc biệt cho ông trong chương trình này, nên mỗi người chỉ hát có một bài và để dành cho Tino hát có đến trên 15 bài, bài nào cũng có nhạc cảnh và vũ khúc yểm trợ.

Trong cái bài “La Vie commence à 60 ans” Tino nói tuổi trẻ hấp tấp quá, đi mau quá, không thực sự có thì giờ để sống. Ông ta nói đến 60 tuổi mới bắt đầu cuộc sống, mới có thì giờ để nhìn rõ sự vật quanh mình, nhìn vào mắt của những người thân yêu, thực sự nghe tiếng chim kêu, thực sự nhìn hoa nở. Cái mặt ông già trông dễ thương quá. PH càng thương ông khi nghĩ rằng cái triết lý sống của ông, bọn PH đã học được từ hồi… 20 tuổi và tập sống với nó từ dạo ấy. Hồi đó PH và các bạn hay đi chùa, một ngôi chùa lá ở Gia Định và đã được đọc một đoản văn về tình mẹ tên là “Bông hồng cài áo”. Đoản văn này đã dạy cho PH nhìn kỹ mẹ, nhìn kỹ tất cả mọi việc xẩy đến cho PH hằng ngày, từ câu nói của người thân, một em bé hàng xóm, từ tiếng rao hàng đến tiếng cười, tiếng khóc, chiếc lá, nụ hoa chung quanh. Cũng dạo ấy, trong lớp học Thiền tại chùa Gò Vấp, PH được dạy phải “sống với giây phút hiện tại, đừng luyến tiếc quá khứ, đừng quá mơ tưởng, bị níu kéo bởi tương lai”. PH cùng các bạn tưởng mình thực hành phép sống trong hiện tại giỏi lắm cho đến ngày PH bị ông Thiệu nhốt vào tù. Suốt mấy tuần lễ trong tù, PH thèm đi xe gắn máy, thèm dạo phố quá, và thèm coi ti vi nữa, những thứ mà khi tự do PH không thèm đoái hoài tới. Khi được thả ra, PH kể lại kinh nghiệm cho mấy đứa bạn nghe, chúng nó cười PH hết sức. Chúng nó nói PH được ngồi tù gần một tháng mà không sống cuộc đời trong tù được một ngày cho trọn vẹn. PH mắc cỡ quá nói: “Để kỳ sau vào tù PH sẽ sống trọn vẹn trong tù cho mà xem!” Nhưng từ đó về sau, PH không được vào tù nữa! Tuy nhiên PH đã học được bài học và đang tập sử dụng ngày tháng của PH một cách có ý thức.”

Tăng thân Phương Vân Am chúng tôi muốn chia sẻ một cách khéo léo nếp sống trong chánh niệm của Thầy trò chúng tôi, học sống sâu sắc trong giây phút hiện tại để có ý thức cha mẹ còn sống bên mình, nhìn kỹ mẹ hơn, ba hơn và tìm nhiều cách làm cho ba mẹ vui hơn, nhìn kỹ những người chung quanh và trân quý những gì tích cực trong phút giây hiện tại. Chúng tôi chọc quê ca sĩ Tino Rossi đến 60 tuổi mới biết sống trong hiện tại. Tino tuyên bố: La vie commence à 60 ans – đời sống bắt đầu khi ta đến tuổi 60 – trong khi hồi hai mươi tuổi tôi đã học được cách sống trong giây phút hiện tại để Nhìn Kỹ Mẹ như trong đoản văn Bông hồng cài áo. Sau đó tôi cũng tự chế giễu mình rằng nói thì dễ, đến phiên mình bị sống trong tù thì không nhìn kỹ hơn những gì xảy ra chung quanh để học hỏi, tìm hiểu và nhìn sâu vào cái vô minh của con người, để mà thương, tha thứ và an trú, chăm sóc và an ủi từng bạn tù…

Kể về vườn rau Phương Vân Am

Trong thư gửi cho anh Lê Thương tháng 12.1979 này, tôi viết cho nhạc sĩ:

“PH đã nhận được thư của anh viết vào những ngày 7 và 30.11.1979 và cả ngày 1.12.1979, nhận được cả hai bản nhạc PH mừng lắm. Mừng nhất là anh được bình an và anh không hề giận PH. Thư của anh làm PH vui quá đi thôi, tụi này châu đầu xem và lên tinh thần quá. PH rất mừng vì thư anh viết vẫn đầy phong độ. Những nét hài hước của anh cho PH thấy anh còn hùng mạnh (không hết xí quách chút nào) và an lành. Cái hài hước của anh cho PH thấy một tâm hồn vừa sain (thanh bạch) vừa sobre (tinh khiết). Nó là một món thuốc rất quý báu. Nó có khả năng níu giữ lại ánh sáng, nụ cười và lòng tin tưởng ở tương lai. Thư của anh làm cho PH và các em vui vô hạn. Nó bổ gấp mấy lần thuốc bổ PH gửi các anh.

Từ ngày nhận làm việc lại cho bệnh viện, PH cũng gắng nhận công việc tối thiểu để có thì giờ cuốc đất làm vườn, trồng rau trồng cải. Mùa đông nầy PH dựng được một cái nhà mặt trời bằng ny lon để có thể tiếp tục có cải bẹ xanh và rau ngò, rau húng ăn suốt mùa đông tuyết giá. Ở bệnh viện PH lưu tâm nhiều đến các cô y tá, các người lao công, cười đùa với bệnh nhân luôn, như một đại gia đình. Trong xã hội tiêu thụ này thiên hạ hay dùng thừa thãi phí phạm quá anh à. PH tập không tham gia vào guồng máy tiêu thụ phí phạm này. Cái nông trại cũ PH chữa lại bằng tay chân mình (làm thợ hồ 70%, mướn thợ 30%). Tuy có hệ thống lò sưởi gaz to lớn nhưng PH ít dùng lắm. PH mặc nhiều áo ấm, đốt nhiều than củi thôi. Chỉ khi có đại giá từ 10 đến 15 độ dưới 0° thì PH mới dùng lò sưởi. Khi đi làm việc, PH chỉ có chiếc xe hơi hai ngựa và trong nhà chỉ có rất ít đồ đạc. Cái máy ti vi cũ mua lại của tiệm bán ti vi cũ. Khách và chủ chỉ có túi ngủ mà đứa nào cũng thấy sang và hạnh phúc lắm và PH vẫn nuôi hy vọng khi có dịp trở về Việt Nam sống sẽ không bị đời sống vật chất bên này níu kéo. PH chẳng có tâm sự u uất gì đâu anh à, tập tành sống cho vui, cho lúc nào cũng thảnh thơi. PH chỉ còn phải học cái tinh thần hài hước của anh, tập sống được như anh trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước hiện tại, chắc không dễ đâu. Có được tánh đó nữa thì trong hoàn cảnh nào PH cũng có được “Bông hồng cài áo”, an trú trong hiện tại, nhìn kỹ mẹ, nhìn kỹ người thương, có phải không thưa anh?

Hôm đêm Giáng Sinh (Noel) PH giành phần trực bệnh viện và nhường cho các bác sĩ người Pháp về đoàn tụ với gia đình con cái họ vì lễ này rất thiêng liêng với người Tây phương. Bây giờ là giao thừa Tết Tây năm 1979-1980 thì PH không trực ở bệnh viện nữa, ở nhà ăn cháo nấm nóng, có ngò, gừng, tiêu thơm lừng, chơi với mẹ và chị và các bạn xong. Bây giờ thì cả nhà đi ngủ, PH lấy viết khai bút năm 1980 cho anh đây. Bây giờ ngoài trời vẫn còn mưa gió dữ lắm. Tết Tây bên nầy họ ăn uống, khiêu vũ, uống rượu say và lái xe như điên ngoài đường. Chở vào bệnh viện bao nhiêu là người bị tai nạn xe cộ đêm giao thừa Tết Tây, thật uổng phí và đáng thương. Nghĩ đến những người như vậy PH phát lòng thương họ quá chừng. Họ không biết trân quý những phút giây bình an để nhìn lại một năm qua mình đã làm gì cuộc đời mình và quyết định năm nay mình sẽ làm khá hơn ra sao? PH viết những dòng chữ đầu năm này cho anh và chúc năm mới mang lại cho anh, chị nhiều an lành. Ôi có biết bao nhiêu điều PH muốn chia sẻ với anh chị mà chắc phải đợi chừng nào gặp anh chị, PH mới nói hết được những điều PH cảm nghĩ. Năm mới kính chúc anh chị một năm mới thật vừa ý và riêng anh, nhạc cảm dâng lên như hải triều.

Kính thư

Phương Hương”

Lễ Giáng Sinh ở Phương Vân Am

Trong thư, tôi thị hiện làm một nữ bác sĩ trẻ làm việc trong bệnh viện ngày Noel xa gia đình cho điệu! Nhưng thật ra Noel ở Phương Vân Am rất là tuyệt vời, cũng rất “điệu” theo cách của riêng mình. Tuy trời tối nhưng vì tuyết trắng xoá bao trùm đất trời nên lúc nào cũng có ánh sáng bàng bạc trên đường. Tăng thân, mười mấy người mặc áo thật ấm, mang ủng cao và ấm, đi hàng một, thiền hành trên tuyết trắng, tay cầm nến đỏ. Đi một đoạn thì dừng lại nắm tay nhau thành vòng tròn và hát Đêm Thánh vô cùng… tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt, rồi tiếp tục im lặng thiền hành, rồi dừng lại, và hát các bài dân ca, thánh ca Noel truyền thống của Pháp, Anh, Mỹ. Đi đến nhà thờ của Làng Fontvannes, mọi người đều cảm thấy tĩnh lặng, thảnh thơi và lòng lâng lâng… Vào nhà thờ, nghe thánh ca, dự lễ rồi thiền hành về nhà ăn cháo nấm nóng, có gừng thái nhỏ, có hành xanh, tiêu và ngò, thơm ơi là thơm. Sau đó lại ăn buche de Noel không thể thiếu (bánh ngọt kem bông cuộn hình khúc cây đêm Noel), và uống trà Tàu!

Phương Hương viết tiếp:

“Xin anh tiếp tục gửi bài hát cho PH. Những bài đã nhận được là: Tuổi thơ, Cô bé gẩy đàn, Đám múa lân ca, Mẹ khuyên con, Miền sơn cước, Nhịp võng ru em, Nhạc cảm, Lòng mẹ Việt Nam, Biển sau giông tố, Lặng về tưởng nhớ, Bài ca nửa đêm, Lịch sử loài người. Để tiện việc ấn loát, xin anh chép cùng một format và cùng nét chữ tay.

Khi nào thừa giờ, (chắc chẳng thừa đâu) anh kể chuyện ma về những người vượt biển cho tụi nhỏ nó nghe. Chắc tụi nhỏ mê lắm đấy. Chưa chi mà đọc thư anh đến đây, tụi nó đã nhao nhao tiếc rẻ sao anh không kể thêm nghe cho rùng rợn.”

Philippe, Martine và bé Minh Tâm đi chơi tuyết Phương Vân Am

Giọng dí dỏm rất Lê Thương

Thư Lê Thương viết ngày 27 tháng 1 năm 1980

“Mến gửi Phương Hương,

Mới nhận được colis thứ hai của Phương Hương tôi vội biên thư đáp ngay kẻo chậm chạp sẽ gây thắc mắc. Colis 1 tới ngày 7.1.80 mang danh hiệu các vị thuốc Optalidon Ganidan nhức đầu, đau bụng nên tôi chậm phúc đáp vì còn đợi chép xong một số bài nhạc trẻ em, gửi PH… mà cũng như đợi đau bụng đẻ. Chưa chép được bao nhiêu thì đã bị một colis thứ 2 rớt ngay vào lưng. Nó mang danh hiệu Ukapen Nibion ông cụ bà cụ. Nó rớt vào lưng ngày 26.1.80. Thế là nội cái tháng giêng đầu thập niên, Phương Hương đã đánh trúng vào kẻ xa xôi này 2 colis nặng tình thương hải ngoại. Sung sướng vì những món quà dễ thương do cô PH gửi và không biết còn sống kịp cho đến thập niên 90 và thế kỷ 21 để lãnh hoài hoài không, nhưng nhắm mắt sớm quá sợ hụt bao nhiêu kỳ vọng văn nghệ nên Lê Thương lại càng khoẻ thêm và lại còn có thể trở thành “Tarzan nổi giận” để mà biên thư cám ơn PH không ngừng. Đó PH nghĩ xem, cây viết Parker PH cho, nó chạy đều cũng trên mặt giấy của PH mà lại thêm cả mực Parker và Ruban Kores mà không tăng gia sản xuất âm nhạc thì kể tội ấy đáng chết.

Ông cụ được Nibiol-Forte mừng quýnh và tự hứa sẽ khỏi bệnh ngay để ăn tết Canh Thân cho yên dạ. Bà cụ được thuốc chích và Suppositoire đâm lo, vì sẽ không được nằm yên suốt ngày như trước mà phải đi tống độc rắc rối cho cuộc đời. Nhưng nỗi tạm khổ ấy sẽ thoáng qua nếu hai đầu gối láng bóng đầu voi sẽ xẹp đi và chắc lần này sẽ có hy vọng khỏi.

Các cụ xin trân trọng gửi lời đa tạ bác sĩ Phương Hương vì các cụ khẳng định PH phải là bác sĩ thì mới chọn thuốc hay được. Và tôi liền phụ đề ngay câu “Thưa cụ, bác sĩ này mát tay có tiếng ạ”, các cụ mỉm cười gật đầu thán phục và tôi ra về với cảm giác say sưa là đã nhờ Phương Hương đem lại cho hai cụ một hứng sống đầy phấn khởi.

Ít nữa là thế, trong cảnh đời hoàng hôn lúc con cháu bỏ đi. Hoặc chưa đi thì cũng như gần đi mà thân già thì càng thấy trơ trọi và cả cô đơn ngay giữa đô hội.

Chính tôi cũng gửi lời khen PH hiểu rõ tâm lý và bệnh lý trong gia đình Việt Nam mà gửi nhiều thứ thuốc rất cần dùng và thông dụng gần như hằng tuần cho người lớn, trẻ em. Tôi có lại thăm các bạn, hai ông Vĩnh Phan và Ngô Nhật Thanh, hai “suyễn sĩ” nổi danh; hai ông cũng đều có trong túi hộp Ventoline cứu khổ, nên chuyện trò với tôi có bề lưu loát, khác với những lần cứ phải tạm ngừng nói để thanh toán những cái tắt thở bất tri kỳ vị. Anh Lê T Nguyễn, tác giả “Nắng chiều” có chép thêm bài nhạc với cả lời ngoại ngữ nào đó. Tôi rất mừng và cũng mong PH không thất vọng vì chúng tôi. Tôi chưa lại thăm ông Bửu Lộc nên không biết ông còn cái bao tử cũ đau yếu hay đã thay bao tử mới rồi. Ông ấy rất dễ thương, người thì nhỏ bé, lời nói thì ôn tồn nhỏ nhẹ mà bà ấy thì to lớn khoẻ mạnh, dám gấp rưỡi ổng. Có khi trước mặt vợ, ổng nói đùa, chỉ vào thân hình vợ: “Bà mà đánh tôi một cái thì tôi ngay vào tường dẹp lép ngay liền à!” Chúng tôi đều cười. Có lẽ Phương Hương nên tặng thêm thuốc Contracide nào đó vì bệnh đau bao tử lúc này vượt chỉ tiêu. Ăn uống nhiều chất lạ nên bao tử phản đối om sòm. Tiếng vang dội sang tới Pháp là đem thêm bận rộn và cứu xét cho Phương Hương và các bác sĩ mát tay.

Sự thông cảm giữa những người bệnh và người tặng thuốc đang là một đề tài thời sự khá nóng bỏng làm tăng nhiệt độ sở Bưu Điện lên đến khoảng 40 độ bách phân chứ không ít. Quả về sức nóng và mồ hôi dầu, mồ hôi muối đổ ra đáng gọi nơi đó là một sa mạc đông người.”

Anh Lê Thương viết thư một cách ý tứ, khéo cám ơn giúp cho từng người nhận quà với giọng văn trào phúng ngọt ngào, làm hứng khởi những người gửi thuốc. Anh cũng viết khéo là thiên hạ đi bưu điện xếp hàng lãnh quà rất rất đông và vất vả như những con lạc đà chở hàng hoá băng qua sa mạc vậy và cũng cho biết hàng hoá thực ra cũng chỉ là để biến thành gạo mà nuôi cả nhà. Anh tiếp:

“Và tôi là một trong những con lạc đà lưng có bướu, bước tới để cõng lên lưng những kiện hàng qua hàng ngàn cây số. Vui ở chỗ đó và cũng đáng thán phục dân tộc Việt Nam mình có một sự kiện lịch sử độc đáo là: Lúc kia… bỗng có kẻ đi người ở rồi bỗng có lời nhớ lời thương… rồi bỗng có thư đi hàng về… rồi phù thuỷ Sè Goòng bỗng biến hàng thành gạo như người khác biến đạo thành đời. Chỉ có thế mà thôi.”

Thuyền nhân và hồn ma những người chết vì vượt biển

Trước tết Canh Thân 1980, Lê Thương đã viết cho tôi về chuyện những người vượt biên lấy thuyền tàu ra biển để mong tìm tới định cư ở một nước khác. Anh viết nhiều lần về đề tài này, kể cả những chuyện hồn ma của những người vượt biên chết giữa biển cả.

Có lẽ vì ám ảnh bởi những thao thức của bao nhiêu người đi tìm một chân trời, một hoài vọng mới mà anh mới viết ra khúc nhạc Biển sau giông tố. Sau khi nhả ra được nhạc khúc đau thương kia thì anh lại dùng ngòi bút viết tả cái bề mặt của Sài Gòn. Xin mời các bạn đọc một vài đoạn trong lá thư này cho vui và cũng để biết tâm trạng đồng bào Việt Nam vào thời điểm ấy:

“Lại Tết Sài Gòn!

Hôm nay chỉ còn cách tết Nguyên Đán có độ hai mươi ngày, chợ Sè Goòng đã dựng lều dựng quán bán đồ tết, rượu Chợ Lớn, văn hoá phẩm (tức là các thiệp chúc tết, đồ tặng ngày tết) xứ sở tuy kém lộng lẫy nhưng không kém sặc sỡ. Quán ăn thì nhiều hơn cả, vì bao tử Sè Goòng vẫn phải tồn kho để mà tồn tại. Thời nào cũng như thời ấy. Nghĩ đến Tết ai cũng thốt ra những hận với tủi, những quyết chí không thèm sắm sửa gì cho nó cực thân rồi rốt cuộc gần ngày 30, hàng nào cũng bán hết đồ; mà lúc này nhiều cán bộ lại ăn tết xôm hơn ai hết. Các cô các cậu vẫn cố diện như hồi nào, áo từ nước ngoài gửi về vẫn nhan nhản các sắc màu; đường Lê Lợi mỗi chiều vẫn đầy dẫy đám trẻ với cả một số Hippi choai choai còn sót lại, và nhiều thanh niên non choẹt để râu “dây thép gai” tua tủa, tóc dài vẫn còn. Họ có bùa “miễn cắt tóc” vì là người đang đợi danh sách xuất ngoại hoặc là người Hoa đang chờ kỳ tàu vượt biển. Phố phường còn vui thì họ còn đi lại để nhiễm lấy hình ảnh chót của một “quê hương”… chắc sẽ không quay về nhìn lại. Nét mặt tinh anh và nụ cười trên môi họ như thoảng một nét sầu vạn cổ của những bài đường thi có nói đến “tống biệt” đến“Giang Nam”, đến “bến Tiêu Tương” nào đó. Mai kia khi từ xa nhìn lại quê hương cũ, lòng họ sẽ được se lại từ từ, êm dịu như được bàn tay ngọc của một mỹ nhân bóp nhẹ, nắn vuốt cho ra được một viên ngọc gọi là giọt lệ…

Giọt đó trong trẻo thì ghi vào thi văn, còn những luồng nước mắt chảy ào ào như suối thì để thấm vào khăn hồng mà phơi khô trong đêm lạnh.

Mỗi lần ra đi là làm héo tấm lòng một ít và nụ cười khi từ giã chỉ giống như hoa Huệ sầu, câu ca dao đẹp đẽ của miền Nam đã nói:

Hoa huệ sầu ai nên hoa huệ héo

Hoa huệ sầu “tình” trong héo ngoài tươi.

Những người bỏ nước đi chui

Tôi đã được chào từ giã nhiều lần bởi những con người ra đi.

Con người ra đi. Có khi đi được, sáu bảy tháng sau mới có tin gửi tréo từ trại sang nước xa rồi mới tới nhà, có người đi hụt, gặp nhau lại vừa mới gọi chào đã thấy “người đi hụt” tiu ngỉu như mèo mất tai trông tức cười. Anh đành an ủi “xin nhận nơi này làm quê hương” vậy. Cũng có khi người đi biệt tăm hơi hỏi ai cũng không biết. Rồi một lá thư hải ngoại gửi về có lời kể kinh khủng “lúc tàu chúng tôi đang đi giữa đêm, biển lúc bấy giờ lặng sóng, ở dưới hầm nóng quá, tôi (người kể) lóp ngóp lên boong ngóng gió, lát sau lúc mọi người đã ngủ gục thì tôi còn thao thức. Bỗng lúc nhìn xuống phía dưới tàu lúc trời đen càng sẫm màu mực tôi thấy ba bốn bóng người rũ rượi quần áo trắng như dính sát vào thân. Họ nhìn tôi như đưa tay cầu cứu và nói khều khào: “Cứu chúng tôi với, cứu chúng tôi với, chúng tôi là người chết bị đắm tàu. Cứu chúng tôi với… với. ” Tôi (người kể) hết hồn gục mặt xuống không dám nhìn và cũng không có lối xuống hầm đành nằm chịu trận. Lát sau nhìn lại thì biển vẫn đen và mênh mông tối ám. ”

Phương Hương thấy không, biển Đông hầu như có đông đảo những “hồn ma bóng quế” bơ vơ chết không có mồ chôn, còn lưu lạc tìm thuyền kẻ đồng hương qua lại, để nhắn gởi gì không biết.

Đi chui, thanh toán và báo thù

Đời thì đầy khoa học, chuyện hồn ma không có gì là khoa học cả, ai muốn tin thì tin, nhưng sự kiện xảy ra cứ làm sửng sốt cả những người trí thức ít mê tín nhất, như chuyện sau đây. Người kể là một giáo sư trường Marie Curie (tôi nghe lại qua chị Ba Bảng, người Bến Tre như Phương Hương, hình như cũng đang đợi được sum họp gia đình, giấy tờ nghe đâu xong cả, chị tóc bạc phơ, ốm nhom). Hai vợ chồng nọ ra miền Trung, nơi hẹn đi gọi là “bãi đáp” ở một vùng trời yên bể lặng, núi cao hùng vĩ. Trong đám người cùng đi có một cô gái có một nhan sắc, cô được con trai ông chủ tàu yêu tha thiết, muốn cưới cho kỳ được nhưng kỳ lạ là chàng nhất định không đi, vì linh tính báo điềm nguy nan làm sao không biết. Cô gái thì nhất định ra đi và có hẹn sang nước ngoài sẽ lấy chàng nhưng vô hiệu. Có thể chàng có hăm đi tố nên trong đám người đi có người cương quyết bít miệng chàng và một đôi ngày trước giờ khởi hành họ giết chàng trai để trừ hậu quả… Giờ lên đường đã đến. Tàu ra khơi, được khoảng một ngày trời thì trong đám người làm tàu, mọi khi họ vẫn hoà thuận nhau, bỗng nhiên cứ cãi cọ dữ dằn. Việc kỳ dị này làm mọi người khó chịu nhưng tàu nhỏ cứ tiến. Bỗng một đêm mọi người đang ngủ ngon thì một người trong họ bỗng ngồi lên hốt hoảng nhìn các bạn đồng hành. Có người hỏi sao thì bà ta kể rằng: Tôi nằm mơ thấy chiếc tàu chúng ta đi trên biển mà có một cái hòm nổi theo sau. Mọi người đều sợ nhưng trấn an nhau cho đó chỉ là một ác mộng của người bệnh hoạn, bỏ qua. Đêm hôm sau, đang ngủ một người khác cũng chồm lên hốt hoảng như bà đêm trước. Hỏi ra bà cũng thấy một cái hòm theo tàu mà còn có dây nối cái hòm vào tàu nữa. Mọi người bắt đầu lo là điềm xấu gì đây nhưng cũng phải trấn tĩnh cho im chuyện mà đi tiếp. Tàu vẫn lướt trên biển, mọi người có cảm giác là đang sắp đến một đất lành nào đây… vì đã qua vài ngày. Song đêm đó, một trong những anh làm tàu vì nóng nên ra nằm ở mũi để ngủ cho mát. Đang đêm anh ngồi bật người lên, la lối nhìn hai bên tàu, mặt mũi kinh hoàng. Hỏi tại sao thì anh nói là mới đây anh vừa mơ thấy một cái hòm theo tàu ngay gần mũi. Mà hòm lại hé mở có một cánh tay thò ra tính nắm lấy anh. Anh hết hồn nên tỉnh dậy. Đó là lần thứ ba mơ thấy cái hòm, mà trên tàu người ta đã dặn nhau đừng tiết lộ chuyện đó cho nhiều người kẻo hốt hoảng cả đám. Thế mà vẫn thấy hòm. Sáng sau, không hiểu tại sao tàu như trục trặc, kẹt gì không chịu chạy và lạc phương hướng không còn biết đang ở đâu, và biến mất cả các hy vọng gần tới bờ (vì hôm trước có người nhìn thấy núi ở xa xa rồi). Bỗng thấy bốn con cá nược, con chạy đầu, con chạy đuôi, hai con vây bên hông hầu như đến để dẫn tàu theo hướng đi của chúng, tàu chạy lại được, nhưng đi trong mù mịt… mặc theo số phận, có lúc bốn con cá nược như đi đâu mất, tàu bị xoay sở lấy hướng vu vơ khó điều khiển không biết tại sao. Hôm sau lại thấy mấy con cá trở lại vây lấy tàu như dẫn đi nữa. Tàu chạy hầu như theo định hướng vô hình, cứ tiến, cứ tiến đến chiều hôm đó thì thấy cảnh núi non xa xa rồi gần gần. Khi tới bờ thì ôi thôi tàu lại trở về “bãi đáp” cũ. Nơi mới vĩnh biệt cách đây vài hôm. Mọi người bị bắt, nhốt. Bảy tháng sau, hai vợ chồng giáo sư trở về SG chưa hết kinh hoàng vì câu chuyện huyền bí vừa xảy ra cho họ. Việc xảy ra cho ông, ông nhớ mãi suốt đời và nói ai muốn tin thì tin. Nhưng hai vợ chồng ông thì biết rành rành và ghi suốt đời vào tâm cảm…

Năm Thân

Đó Phương Hương, chuyện vặt xứ nhà, lâu lâu kể lại cho vui. Đôi khi cũng nghe lại bốn chữ “Đồng bào thân mến” nhưng đồng bào ruột thịt nghe mà ghê sợ vì ruột đã mềm đứt làm chín khúc mà thịt cũng đang rã lần trên mặt xí quách đang lỏng le như long đanh óc cả. Đó là nhân loại năm Canh Thân chăng? “Không pết”, không còn ai để mà hỏi, vì Khánh Sơn đã chết năm ngoái, năm kia nhà bói toán Huỳnh Liêng cũng chết ở Lái Thiêu, nhà tướng số Huỳnh Minh đổi sang nghề đông y, các cô coi bài (bói bài) nay đều đi “xung phong” đi lao động. Đầu năm không có ai xem cho một quẻ.

Thơ “Phụ lục” 1 tháng 12 năm 1979

Cánh nhạn 15.7 của Phương Hương tưởng là lạc mất hút đã lò dò xà xuống nhà tôi. Vừa hạ cánh, khoai lang của nông trại đã rơi loỏng loỏng rất ngoạn mục, bao thơ rộng thênh thang, ba lá thư như ba mảng sơ mi ủi xếp gọn gàng và mỗi chương một đề tài hồi hộp. Quả Phương Hương là một cô chủ trại chu đáo hết mực.”

Thư Lê Thương gửi Cao Thái ngày 5 tháng 1 năm 1980

Sau đây là thơ của Lê Thương gửi cho anh Cao Thái, một ca sĩ mà anh quen biết. Anh cũng biết Cao Thái là anh ruột của cô Phương Hương. Lá thư này là một bức tả chân tình trạng và tâm trạng của các nghệ sĩ đang sống ở bên nhà, sống mà không thấy được một ngày mai nào cả cho mình và cho đất nước.

“Mến gửi anh Cao Thái

Từ đầu năm 79, được gói quà của anh với cô Phương Hương đã là một năm qua, hôm qua 4.1.80 mới được carte postale của anh; như vậy cũng đã là một gắng công vượt bực rồi. Như vậy tôi phải xếp anh hạng nhì còn hạng nhất là trật, chưa viết thư vì kẹt nặng vi trùng “lambien” không cho viết thư vì không chắc có cây viết nào sẵn trong túi chưa? Tôi có gặp anh Trần Văn Khê tháng trước ở Việt Nam và nghe anh nói về Trạch. Nay Trạch (từ ít lâu) ở chung với anh thì hai người đỡ cô đơn vì tôi biết tài nói chuyện tiếu lâm của Trạch. Tụi tôi hồi đó đã tôn ảnh làm “á hậu” vì một tài ba quái kiệt.

Tháng 10, khi được thư Phương Hương tôi cũng được nghe nói anh ca hát giúp các nhóm bên ấy và đã được đồn đại này nọ về xu hướng này kia nhưng hát giúp là nhiệm vụ và vui thích của “đời chim” nên cứ ca cứ hát cho trời xanh gió mát và cho thông cuống họng. Thây kệ ai muốn nghĩ gì thì nghĩ, phải không anh?

Tôi chịu thái độ khoảng khoát ấy của anh và chắc anh đã được vui phần nào là đẹp lòng đồng bào và cho đồng bào quen với phong tục của loài chim. Trên cành ca hát cho trời quang gió mát, cho dịu lại tâm hồn của bà con cô bác: Đời chỉ có thế thôi. Trạch thì như tôi biết trước đây vẫn hát chắc chưa khoảng khoát như anh. Song Trạch hình như vẫn thiếu bài ca vừa ý mình, nên vẫn e dè.”

Lê Thương hát tiếu lâm

Mãi sau này đọc tiểu sử của Lê Thương trên Wikipedia tôi mới biết những bài hát tiếu lâm đã từng làm chúng tôi cười quá chừng khi xưa là của Lê Thương. Tuy Trần Văn Trạch hát nhưng lời và nhạc lại chính của Lê Thương. Như chuyện cô Quờn ghen đòi đốt chồng Đốt hay không đốt, bản nhạc Nàng Hà Tiên mà cả gia đình tôi, nhất là chị Hai tôi, hay hát. Bản nhạc Đêm đông lời Việt và Pháp cũng của Lê Thương.

Lê Thương tả Sài Gòn với giọng tiếu lâm có thể gây cảm hứng cho những ca sĩ như Trần Văn Trạch lắm. Cũng với tính khôi hài tiếu lâm này, Lê Thương thuật cách nhận được thư và quà của chúng tôi “Cánh nhạn ấy bay một tháng 21 ngày lần này thơ rớt vào ngực (không có trúng lưng) nên tôi vội bắt nó bằng hai tay mừng rỡ.

Lê Thương viết tiếp:

“Anh em nghệ sĩ bên ấy ra sao? Anh Thái ráng cho tôi biết ít nhiều cho vui mà nhớ họ. Chứ bên này họ ít gặp nhau và thấy nhau xa xa là có vẻ lảng xẹt sang hướng khác để khỏi phải chào hỏi vô vị, trừ những bạn thân thì cà phê cà pháo bên nhau đều đều; đôi khi nhậu nhẹt ba sợi với nhau rồi hát lại vài câu đại khái: Hãy rót cho ta vài ly (à vài ngàn ly) rượu độc và đừng nói chi những lời hằn học để ta say trong men đắng hương đời và nhìn mặt trời đêm đang mọc!… đó là lời một ca sĩ già cọc, hát tiếng ca chọn lọc và bộ mặt hơi mốc… nên đáng bị oọc! Đáng kiếp và khiếp khiếp.

Đấy mới là một khía cạnh chút xíu của cái Sè Goòng vẫn muôn mặt này. Sè Goòng ôi (chớ không có ơi)!

Cao Thái ôi, anh em già như Lê Thương này vẫn sống phây phây không chờ một ngày mai ráo trọi… mà hay nhìn lại những mẩu dĩ vãng chưa đến nỗi khô queo để thương lại cuộc đời và nhớ lại các bạn ra đi, toàn bạn trẻ đẹp trai con nhà giàu và lúc nhìn kế mình ở Sè Goòng thì cứ phải gặp toàn là “các cụ” trông xốn con mắt.

Cứ qua phố là thấy những chàng trai má phính còn bấm ra sữa mẹ mà họ thả toàn râu mép dài thoòng, tóc tai nhầy nhụa mồ hôi muối, để tỏ ra ta đã già, ta đang bụi đời vì đời chẳng còn lý gì với ta, tuy ta vẫn níu lấy nó… (nếu hỏi thăm kỹ) thì các chàng có thể thêm câu thòng vọng cổ vì Nàng đã đi rồi – hay các nàng Hippi choai choai cũ mà ta vẫn thương vẫn nhớ đã đi tuốt luốt hết rồi… trơ trụi cái đời mất hụi.

Với câu vọng cổ xuống xề ấy, thì ai cũng phải tối tăm mặt mũi vì hình ảnh các cụ non quá là nhiều mà các cụ già cũng không thể cạnh tranh được với họ về cái vẻ lừng khừng ngày ngày mọc rễ ở quán cà phê, quán nhậu ven đường. Một ly cà phê một đồng (500 cũ) phải đệm một điếu 3 số 5, 2 đồng rưỡi (1250 đồng cũ) mới thoả chí tang bồng.

Đó cũng chỉ là một khía cạnh nhỏ xíu nữa của cái Sè Goòng lên mặt này. Mặt thì “dzậy” nhưng lòng thì có trời mà hiểu nó đang nghĩ gì. Mà không hiểu nổi hết thì cứ cho là bộ đồ lòng nó không còn ngon như trước, nếu ma cà rồng nào lăm le muốn ăn, vì có ăn thì chỉ thấy toàn sợi pha bo bo và nui bột khoai mì, ma cà rồng ăn sẽ phải chết vì không tiêu và đáng đời. Ai biểu nghèo mà ham.

Nếu kể ra thì có 1001 chuyện dzui dzui kể ra phải 1 ram giấy mới hết. Năm tháng còn dài, trong những thơ sau sẽ kể cho nhau nghe mà cứ yêu đời một cách lỳ lợm, kệ bà nó. Phải không Cao Thái.

Lê Thương

Tái bút:

Anh Đặng Bá Thế bị Diabete từ vài năm nay, nay nó biến chứng ra bại xụi, anh vào nhà thương đã vài lần, nhờ các con ảnh gửi thuốc về khá đều nên ảnh không trầm trọng thêm nhưng chưa khoẻ. Anh ở gần nhà nên tôi lại thăm anh luôn. Lúc này anh buồn chuyện gia đình nhiều vì các con ở xa học giỏi tài cao, nhưng lúc già và bệnh thì vẫn cô đơn như thiếu con và thiếu tình thân mật của con.

Nguyễn Đình Nghĩa thì càng lão luyện về sáo. Cả nhà con trai con gái đều học sáo và thổi càng ngày càng hay trong lúc túi áo càng ngày càng rỗng. Tôi hay lại thăm Nghĩa, nhà thì đầy tre làm sáo mà chưa thèm cắt. Gia đình có giấy Certificate d’héberg (giấy bảo lãnh cư trú ở Pháp) từ gần một năm mà vẫn chờ chưa thấy gì cả.

Còn thuốc thì nếu Cao Thái có gửi cho tôi xin nhớ vài món như Lincocine, Decaris trừ lãi cho các cháu ngoại tôi, Aspirine pH8, Collyre nhỏ mắt nào trừ nhặm mắt hàng ngày, thuốc nhức mỏi cho tuổi già, và một số tétracycline viên và một số viết Bic. Phương Hương đã gửi cho tôi nhiều lần thuốc vào tháng 12.79, tôi có gửi cho cổ thư dài 6 trang và bài hát. Cao Thái nhắn giùm cổ là có lãnh được xin báo tin. Thơ lúc này lang bang đi hay lạc, khi mau 19 ngày khi 4 tháng rưỡi không chừng đời.

Cao Thái hỏi giùm Trạch là đã gặp vợ con ở Lò Heo cũ chưa? Mong thư ảnh, nếu ảnh cần có thể có bài hát “thời sự” cười gửi ảnh cho vui nhưng mong thơ lắm. Cánh thư xa là một liều thuốc bổ chữa những biến chứng của bệnh buồn bệnh khổ.

NB. Tôi nghe về đau mắt có thuốc Collyre Triantibiotique CHIBRET tốt lắm. Mong anh gửi.

Sự tin nhảm bành trướng rất mạnh ở Sài Gòn

Lê Thương rất ưa kể chuyện Sè Goòng cho tôi nghe. Tôi có cảm tưởng ngồi viết thư cho tôi anh cảm thấy thoải mái như đang chuyện trò với một người mà anh có thể tâm sự được. Đây là một vài câu chuyện anh kể, trong đó có những chuyện ma. Anh nói từ mùa thu 1979, sự tin nhảm bành trướng rất mạnh ở Sài Gòn, và thiên hạ rất ưa nói và nghe những chuyện ấy. Đây là thơ anh viết ngày 29 tháng 2 năm 1980

“Thư của Phương Hương viết 3 trang nói về giao thừa Tết Tây lạnh lẽo mới tới vào ngày 25.2.80. Cánh nhạn ấy bay một tháng 21 ngày lần này thơ rớt vào ngực (không có trúng lưng) nên tôi vội bắt nó bằng hai tay mừng rỡ. Sẵn có bà xã ra lãnh nó từ tay người đưa thư nên tôi đọc cả cho bả nghe.

Vừa nghe đến chỗ Phương Hương lãnh săn sóc bệnh nhân cho một nhà thương bà xã tôi vội ngắt “đúng cô Phương Hương là một bác sĩ” (nghe cái giọng nhận xét giống như ông cụ) (đã nói trong thư 12 trang mà bây giờ chắc Phương Hương đã lãnh được vì gửi từ khoảng 12.12.79). Tôi chỉ mỉm cười không thêm, (bác sĩ mát tay) như đã nói với ông cụ.

Tôi nghiêm sắc mặt vì chữ “bác sĩ”, vì từ hồi nào đến giờ tôi vẫn sợ chích (nhất là khi chính mắt thấy tại nhà thương thời nay nhiều bác sĩ thọc mũi kim một cách không nề hà vào đùi non của chúng sinh).

Chuyện người thiếu ăn đói quá xỉu

Nói đến câu chuyện chích mũi kim, tôi còn câu chuyện hết hồn mà một bác sĩ đã kể cho nghe.

Hồi đó Phương Hương nhớ, nhà thương Thị Nghè cũng là nhà dưỡng lão hay có nhiều người chết dồn lại đó. Cứ thường ngày hay có chiếc xe cày màu đen chở một số xác chết vào gửi ở trong nhà thương Chợ Rẫy ở trong một cái bồn lạnh khá rộng. Tất nhiên những xác ấy đều là xác của những người vô thừa nhận, không còn ai bà con gì ráo dòm ngó xin về, nên vào gửi ở Chợ Rẫy để sinh viên Y khoa ngành giải phẫu tập sự mổ xẻ cho quen tay. Xác chết vào đó thì cứ nằm yên đã… để tôi nói chuyện về một hôm tại Thị Nghè.

Tại nhà xác Thị Nghè thì mỗi lần có người chết tính để dành xác cho Chợ Rẫy thì anh gác nhà xác liền chích cho xác một vài mũi Formol để cho đỡ hôi thối sớm mà còn gởi đi chứ.

Nhưng một chiều người ta khiêng vào cho anh xác của một bà già, đặt lên cái cáng đó. Đáng lẽ như thường lệ anh đi lấy ống chích và làm phận sự thông thường thì hôm đó anh hơi say rượu, anh bỏ khay chích lạng vạng đi nhậu tiếp… Sáng sớm hôm sau tỉnh giấc, anh chợt nhớ tới bà già chưa được mũi Formol anh vội đi lấy thuốc vào nhà xác.

Đến cái cáng bà già nằm, anh lật xem sơ qua xác bả để tính chích vào mông gì đó, anh vừa lấy tay đập đập vào mông thì bỗng bà già lóp ngóp ngồi xổm dậy, bà quay mặt nhìn qua anh gác dan với đôi mắt mờ mờ hơi ngạc nhiên, nhìn quanh phòng xác rồi bà bước xuống đất, đứng dậy đi ra cửa từ từ.

Anh gác dan hết hồn hết vía từ lúc bà ngồi dậy, đã lùi vài ba bước khi thấy bả quay nhìn ảnh. Song khi thấy “xác bả” biết đi ra cửa anh tò mò đi theo. Bà già ra đến sân thấy trời sáng trưng, bà nhìn qua vài người qua lại rồi hỏi lối về nhà.

Lúc bấy giờ anh gác dan mới hoảng hồn vì cảm thấy là bà già chưa chết, mặc dầu chiều hôm qua người bà đã lạnh đến nỗi người nhà thương tưởng chết cho khiêng xuống nhà xác. Nghe đâu bà già còn sống với con cháu hàng lâu năm sau. Đó là chuyện có thật trước đây.

Chuyện xổ số đề

Dưới đây là một chuyện ma mà người kể cũng nói là có thật ở Sè Goòng mới đây không xa.

Lúc này chẳng là lúc có xổ số lu bù tèo gần như mỗi ngày. Không ở Sè Goòng thì ở Tiền Giang, Hậu Giang cho thiên hạ ham độc đắc trút tiền túi ra mà mua, vé số cũng bán theo giá thông cảm nghĩa là mắc hơn đôi chút đối với giá chính thức và cũng là dịp mặc sức cho dân Sè Goòng Chợ Lớn xổ đề xả giàn.

Đi đâu xóm nào chợ nào cũng nghe bàn đề. Con bướm, con chó, con mèo, con dê, số đầu số đuôi cứ tíu tít cả lên, chẳng còn nghĩ gì hơn là hôm nay “đánh số mấy”, chắc hôm nay nó ra con gà, con heo, con khỉ. Người trúng đề cũng nhiều, mặt tròn xoe mắt sáng quắc còn các chị đánh trật số lắc đầu cười lạt như nước ốc, mặt bí xị.

Những ma quái ở trong việc tin dị đoan đi hỏi số đề ở nghĩa địa mới là ghê.

Cô gái bị ma cưới mất

Chuyện này xảy ra khoảng tháng 9 năm ngoái cho một “cô gái bị ma cưới mất”. Toàn là chuyện rất kỳ dị rất khó tin nhưng các bà kể lại một cách xác tín mạnh mẽ đến nỗi người nghe là tôi ít tin bậy mà cũng phải lưu ý và hôm nay ghi vào “sổ đoạn trường” để gửi sang cho Phương Hương và các bạn nghe cho vui.

Ở Bình Thới, phía bên trên Phú Thọ, lối ngồi ở xa phía trường đua Sè Goòng, Phương Hương nhớ không, nơi đó trước đây hay là chỗ xử bắn những người mắc tội này nọ. Các bà lại tin nơi đó chắc là có những hồn người chết oan nên chắc là “thiêng!” Mấy bà kéo nhau lên định đúng 12 giờ đêm là lạy khấn xin trúng đề sẽ tạ ơn nhớ là mấy bà lúc này túng tiền quá, mà đã lo tiền thì cũng dám liều cả, nên đợi đến khuya vào chỗ xử bắn khấn lâm râm.

Một bà cụ có con gái đến tuổi cập kề cũng đi theo và bà nhiệt tâm quá sức mà chắc cũng hết hồn hết vía quá đỗi, xin trúng số đề. Và còn khấn là nếu trúng thì hồn ma xin gì được nấy. Bỗng bà thấy một bóng gì thoáng tới rất nhanh rồi một bàn tay lành lạnh đặt trên vai bà. Bà nghe rõ vài câu… cho con số nên đánh, nhưng ma lại bồi thêm một câu độc ác, nói là anh chết chưa có vợ con, nên xin cưới con gái bà (vì xin gì được nấy). Lúc này bà hết chịu đựng nổi cái điều kiện ghê sợ này nên bà té xỉu, các bà khác thấy vậy cũng hồn vía lên mây vực bà ra… và cho bà nằm để sớm mai về nhà gấp. Sáng ra bà già đã tỉnh nhưng không nói cho ai hay con số đã nghe được, bà đánh con số và trúng mấy trăm ngàn thật. Các bà kia theo dõi cứ đợi xem bà ra sao, thấy bà trúng đề thật mới xúm nhau lại mừng quýnh. Nhưng… lúc bà vừa đi lãnh tiền về đến nhà thì ôi thôi, con gái bà nằm chết tại nhà không biết tại sao, mà cũng chẳng ai hay biết cô bệnh gì ráo. Thiên hạ xôn xao kêu bác sĩ lại thì người cô đã lạnh ngắt không còn ai biết cứu đàng nào, nghe đâu có người lại chích thuốc làm hô hấp nhân tạo… nhưng vô hiệu quả.

Các bà tin chắc là con gái bà đã bị ma cưới mất, từ đó các bà bàn tán không còn dám lên Bình Thới khấn đề gì ráo.

Phương Hương chắc đã thấy chỗ xuống tinh thần của một số đông người chán nản và đời sống gay gắt đã tạo nên nhiều tệ đoan, dị đoan, đa đoan làm điên đầu bất cứ ai muốn nghĩ đến tiền đồ xã hội.

Tết năm nay dân chúng vẫn đốt pháo như điên. Có một đôi vợ chồng, vợ bán rau ở chợ, chồng bán nước dừa trên xe ba bánh mà dám đốt hơn 120 đồng bạc pháo (hơn 60 chục ngàn đồng cũ). Tai nạn về pháo cũng đến hàng trăm.

Phương Hương thân mến.

Thôi, Phương Hương ơi, cũng vì uống thuốc bổ 3 vitamin Phương Hương cho, nên nó cương trí, nói nhảm từ nãy đến giờ mà chưa hết chuyện, 9 trang giấy và cái bút Parker Phương Hương tặng vẫn hoạt bát nhưng có hơi dai, hơi dài, hơi dốc. Đó là chủ nghĩa “3D” đang thịnh hành tại nhiều nơi trên toàn cầu và riêng tại quê nhà Phương Hương biết lấy. Tôi đang kết luận bằng cách quay về thực tế như chiếc thuyền về bãi đáp vừa kể, lần này không có gì mà hết hồn cả.”

Thư của Lê Thương viết ngày 9 tháng 3 năm 1980

Anh Lê Thương viết trong lá thư cho bác sĩ Phương Hương ngày 9.3.1980.

Đọc lại thư PH (đến từ 28.2.80), nhìn PH sống và cử động từ Noel sang giao thừa, tôi rất lấy làm lạ là PH giữ được một tâm hồn phụ nữ đơn chuyên, không để lọt vào lòng mình những cám dỗ thông thường của đời vị kỷ. Đó là một Việt Nam tính thuần nhã thường để dành cho những “mẹ hiền dâu thảo”, những người dễ khóc thầm vì bất cứ đau khổ gì vui xướng gì cũng ấp ủ vào lòng hơn là bộc lộ. Tiếng cười PH chắc cũng nhỏ nhẹ, cái nhìn của PH chắc có khá đăm chiêu mà không hề nóng bỏng… ra hiệu lệnh cho ai hoặc bỗng trợn trừng nổi giận. Tôi lại nghĩ PH nhìn hơi xa hơn cái kiếp hiện sinh của nhiều đời trẻ, nhìn thấu đến một thứ “vô cùng” của cõi Siêu Hình nào đó – một Chân Như chăng (chữ tôi đã nghe lỏm mà chưa hiểu biết nghĩa cao siêu của nó).

Kể thư thế là PH đã kiếm thấy từ lâu cái triết lý sống mà bao người đồng tuổi tìm mãi không ra, hoặc vừa tìm ra rồi lại đánh mất. Đã hầu như không mắc phải vòng tục luỵ (tuy là kẹt với cái luỵ nghề bác sĩ đôi khi phải chứng kiến bịnh nhân rên siết, hoặc thở hắt ra một cái rồi đi luôn, rồi phải trực kế bên mà lo cho y nhập cuộc lại với thế trần mà y lắc đầu) nên PH ưa nông trại và ham theo“chế độ rau cỏ” (mặc dầu không hề đau gan) là rất thích hợp.

Trời lạnh đến cái mức teo hết tâm hồn mà tôi thấy trong tưởng tượng PH nằm “túi ngủ” kéo fermeture tới gần mũi, tôi hơi tức mình riêng và dám cho là PH đã hơi đầy đoạ cái thân dài thước 7 của mình sớm quá đó. Tôi sực nghĩ, những người có dấu “chân tu” trên bàn tay (nghe đâu là chữ thập giữa “đường tâm” và “đường đầu”) cũng có lúc ham sống và cần dự trữ sức khoẻ và tăng cường nó đề phòng ngày còn phải xả thân lao lực gì đó nữa chứ…

Nói thế không có ý trách P.H. thật đâu vì từ mấy năm nay gia đình tôi cũng đều nằm trên gạch cả. Có giường nhưng bỏ hoang, bắt con trai lau sạch carreaux mỗi ngày rồi trải chiếu rách nằm lăn ra ngủ dưới quạt máy trần. Trách người chẳng bõ trách ta. Rau cỏ cũng là chế độ hiện sinh của phần đông người dân tộc oai hùng này. Có điều khác với PH là chỗ “chẳng đặng đừng” chứ không phải cố tâm. Và tuy có người khuyên “không nên ăn thịt nhiều” sợ cương máu nhưng lời khuyên ấy hơi thừa vì kiêng thịt cả tháng nên máu chỉ có thể từ từ chảy êm ru không bao giờ doạ lụt. Huyết quản thành ống nylon mềm mại ngoan nguỳ, có bơm đại vài lít máu cho nó, nó cũng không thèm đứt làm gì cho nó tổn thọ.

Tôi đã lạm bàn về tính tình và tư tưởng sống trong P.H thế là bạo miệng quá. Nhưng nếu đó là một chứng cớ của sự thân tình thì cứ nên để cho bộc lộ vì tại nơi xa cách muôn dặm này tuy nhiều bạn, nhưng rất ít có dịp nói những chuyện tâm đầu, mà toàn là chuyện thời thế chuyện làm ăn, chuyện sinh sống. Tất cả những chuyện “sát đất” ấy chỉ đè nén tâm tư bằng những cụm câu hỏi, bằng những thắc mắc vô vàn và vô bổ. Vậy lâu lâu, nếu các bệnh nhân không làm rộn PH quá, xin cứ thả dòng chữ cho các ý nghĩ được tung hoành nhé, P.Hương thân mến.

Lê Thương

TB.

  1. Người bệnh gọi là ông cụ bà cụ đều gửi lời cảm ơn PH, và cầu chúc cho PH mọi sự tốt lành trong ơn đức của Trời Phật.
  2. Người thứ hai trong gia đình tôi mà Phương Hương có thể đề tên là Nguyễn Thị Thoa hoặc cậu con trai tôi Ngô Đình Lê Tuấn.
  3. Có thể một lúc nào đó, PH lãnh được một cuốn t. thuyết đánh máy do một người gửi từ một nơi nào đó tới đấy. Nếu được cuốn đó xin cho biết ngay để còn có thư cắt nghĩa cho PH. Cuốn này hôm nay có lẽ còn lênh đênh trên biển cả vì khởi hành từ 5.3.80. Nếu có kẹt thì nó sẽ không bao giờ tới và sẽ được gửi cho sóng ba đào.
  4. Nhớ bài Papa Noel mà kỳ Giáng Sinh nào cũng muốn nghe lại song không hề được nghe. Bài đó nghe xúc động hơn các bài vui nhộn thường bị nghe ở các đài, nhất là ở VN lễ đó cũng như không có vì 25/12 học trò cũng không được nghỉ thì làm gì có Noel. Tôi có được xem một tờ Paris Match khoảng T6. Tino sống đế vương tại một trại riêng ở đảo Corse. Dáng anh mập mạp, rất trưởng giả. Nếu anh có ở Saigon thì chắc anh sẽ sáng tác “La vie se termine à 60 ans” (Cuộc sống kết thúc năm 60 tuổi).
  5. Thuốc Ampicilline của PH cho rất tốt mà hết rất sớm, cả Optalidon cũng bị uống vèo vèo vì lúc này trời nóng dữ – Báo đăng ở Việt Nam và Kampuchia như Thái Lan có hạn hán đầu nhức búa bổ – cả thêm đau mắt nữa. Thời tiết thật ác liệt. P.H nên săn sóc cho những cái đầu đau ấy cả aspirine nhé. Viết Bic đẹp cũng bị hạn hán lu bù, mực bic không cánh mà bay, nên lại cầu mong cơn mưa khác cùng PH.
  6. Bài hát xin dành cho thư sau. Vì lần này tôi có người đánh máy giùm, cả nốt nhạc cũng đánh máy, vì thú thực với PH tôi có một cái máy music writer từ lâu năm, tính làm xuất bản để sống nhưng từ 75 bị bó gối nên lần này lại có dịp lôi cổ nó ra bắt nó xung phong lao động. Vậy nếu không có gì ngăn trở tôi sẽ tình nguyện gửi một số bài trẻ em xinh xắn kỳ này tặng các cháu của PH và format có lẽ là vuông vuông cho nó vừa tầm bài hát, PH nghĩ sao xin cho biết ý kiến. Nói như thế nhưng mọi việc trình bầy đã trao trọn quyền định đoạt nơi PH. Chữ tôi kể ra hơi xấu đấy.
  7. Cao Thái và TV Trạch thật là bận việc. Tôi có nhận được của anh Cao Thái 1 tấm carte postale mẫu từ Bergerac và tôi đã trả lời rồi, buồn và chị Trạch cũng nhớ ảnh ra phết.
  8. Thư từ Pháp sang Việt Nam lúc này lâu quá từ 3 đến 4 tháng. Tới Hà Nội đợi vô tới Sài Gòn cũng trung bình hai tháng. Thư người nhà ở Hà Nội vô cũng khoảng 1 tháng, ý nghĩ là đời còn dài chẳng đi đâu mà vội nên đợi thư có dài người ra cũng chẳng có làm sao! Chẳng nên yêu cuồng sống vội. Còn vài kiếp sau nữa gặp nhau cũng là sớm chán. Đó cũng là một triết lý Canh Thân, lạt phèo như cơm hến nát ráng nhai cho khoẻ quai hàm và đỡ đau bao tử.

Lê Thương”

Thư tôi viết cho Lê Thương ngày 21 tháng 4 năm 1980

Đây là lá thư của tôi gửi anh Lê Thương từ Phương Vân Am, đề ngày 21.4.1980

“Mùa xuân Phương Vân Am

P.H xin phép đánh máy để anh khỏi phải đọc những dòng chữ nguệch ngoạc viết tay của P.H. Hôm nay chủ nhật, trời nắng, P.H và mấy người bạn mới đi dạo đồi về. Hoa mận nhuộm trắng luôn mấy cánh đồi thoai thoải quanh nhà P.H. Hoa đào (pêchers – có trái rất to nhưng không ngon bằng mận vùng nầy) cũng nhuộm hồng phơn phớt vài vạt đồi. Pêchers hay bị sâu bệnh, nên trồng không dễ như mận. Miếng đất quanh nhà P.H chỉ có mấy nghìn thước nhưng P.H không xây rào như phần đông các nhà ở thành thị nên lúc nào cũng có cảm tưởng là tất cả các ngọn đồi thoai thoải đó thuộc về mình, tất cả những đồi thông phía sau và cả khu rừng Othe đàng xa kia cũng là đất trời của chung.

P.H nhận được thư anh viết hôm 29.2 và thư trước đó là 27.1, thư viết cho Cao Thái P.H cũng được xem. Thư nào của anh cũng được đọc nhiều lần, đọc xong thì phải đi lên đồi, bước thật thong thả, thở và tập đặt mình vào với nếp sống của bạn bè và đất nước thân yêu. Không dễ đâu anh, có nhiều khi đọc xong một bức thư nhà P.H không ngủ cả tuần lễ. Thư từ Việt Nam thì P.H nhận được nhiều lắm nhưng chỉ có thư của anh là khó quên nhất. Anh kể chuyện đời như kể chuyện vui. Mà những câu chuyện vui của anh lại chuyển chở những hình ảnh khiến người đọc phải rơi nước mắt. Nếu P.H là một ông chủ báo, chắc P.H sẽ mời anh viết giùm mục Mỗi ngày một chuyện theo lối Tư Trời Biển (đây là một cột báo trong nhật báo của Sài Gòn trước 1975, một ngày một câu chuyện thật ngắn, khôi hài, ký tên Tư Trời Biển). P.H và các bạn rất chăm chú nghe những gì anh kể về sinh hoạt của các anh, những nhận xét mà P.H ít được đọc trong các thư khác. P.H xa Sài Gòn lâu lắm rồi, cái Sài Gòn mà trong đó hồi xưa anh từng sinh hoạt và sáng tác. Dù bây giờ Sài Gòn có khác xưa nhưng P.H vẫn không bao giờ quên được cái thành phố quen thuộc với những yếu đuối và những oai hùng của nó.

Hồi sáng PH đã trồng 15 cây cà chua, vài chục cây xà lách, 10 cây tía tô, 10 cây canh giới, rau răm, ngò, échalottes (hẹ tây) và ciboullette (hành lá) vì bắt đầu từ hôm nay sẽ không còn sợ bị gelée (sương muối). Trước sân nhà PH có ba cây tilleuls. Mấy chiếc lá con đã bắt đầu xoè cánh xanh mướt. Hoa sắp hé. Hoa tilleul nhỏ xíu, không đẹp nhưng hái phơi khô để uống sẽ giúp ban đêm ngủ ngon. Anh có ưa uống hoa tilleul PH sẽ gửi về tặng anh chị.

PH dịch thơ của anh viết cho vài đứa bạn nghe, tụi nó cười dữ, nhất là khi anh có vẻ thương hại cho tụi này phải nằm trong túi ngủ. Bọn PH sống đơn giản nhưng không bao giờ khổ hạnh, không bao giờ chịu rước cái khổ vào thân đâu anh. Nếp sống này bọn trẻ chúng em áp dụng từ lâu rồi. Sức khoẻ không vì vậy mà giảm bớt, trái lại nữa là khác. Ở đây đứa nào cũng biết cuốc đất trồng rau, đứa nào cũng biết nấu cơm làm bánh mì bằng bột mì lức, đứa nào cũng biết dùng xe đạp thay xe hơi (nhưng PH cũng cảnh cáo cho tụi nó biết ở Việt Nam đi xe đạp khổ hơn một vạn lần vì cái nắng chang chang như thiêu người). Những communautés – cộng đồng nho nhỏ như nông trại Khoai Lang này chỉ riêng ở nước Pháp cũng được ít nhất vài mươi nhóm. Phần đông là những người trẻ chống lại nếp sống tiêu thụ và phí phạm của một xã hội quá thừa thãi, khiến con người sinh lười, sống thiếu ý thức.

Từ bỏ tiêu thụ, phí phạm vô ý thức

Từ bỏ tiêu thụ, phí phạm vô ý thức không có nghĩa là phản ứng xã hội. Đó chỉ là phát xuất từ nhận thức rằng, mình có thể sống hạnh phúc một cách đơn giản, đồng thời có thể tránh góp phần vào việc làm nhiễm ô môi trường sinh hoạt của con người và những sinh vật khác. PH cám ơn anh về những lời khen quá đáng. Nếp sống Phương Đông hoà hợp với thiên nhiên và cái ý hướng trở về tìm lấy nội tâm mình đã đóng góp một phần quan trọng trong việc xây dựng nếp sống ở nông trại nầy. Tụi PH không muốn sống lập dị mà chỉ muốn sống đơn giản, không quá bận rộn, để có thì giờ mà quan sát lòng mình và sự vật quanh mình. Đó là một dịp may mà thực hiện được trên vùng đất này. PH nhắc cho các bạn ý thức là nếu ở tại Việt Nam thì chẳng ai còn thì giờ để sống thảnh thơi như vầy đâu, dù cái thảnh thơi đó, rất nhiều người Pháp và người Việt sống tại Pháp cũng không biết hưởng.

Ca hát, ngồi thiền

Ở đây dù bận rộn thế mấy, sau bữa cơm chiều PH và các bạn cũng nhất định để thì giờ ca hát và sau đó ngồi thiền nữa. Ngồi thiền là ngồi yên để lắng nghe, để nhận diện và quán chiếu những trạng thái nào của tâm đang trồi lên trong đầu mình, nếu là một tâm ý đẹp thì chào nó, mời nó ngự trị lâu lâu trong tâm mình nhưng nếu nó không đẹp thì nhận diện gốc rễ của nó, cười chào, và mời nó đi chơi chỗ khác, như vậy thôi. Sau khi ngồi thiền, mọi người đi ngủ thì PH lại nhè nhẹ vào phòng làm việc tiếp, tâm hồn khoẻ khoắn như là mới ngủ dậy, viết thư cho anh nè, gói quà cho anh chị nè.

Mùa hè

Mùa hè tụi nó từ các nước sẽ tới nông trại Khoai Lang rất đông như chim về tổ. Năm đầu anh A gặp chị B ở đây, hai năm sau về Làng làm lễ. Vài năm sau bồng bế cháu về, vài năm sau lại bồng thêm đứa thứ hai. Người nào cũng phải mang theo túi ngủ, có đứa mang luôn lều cắm trại ngoài đồi vì trong nhà không còn đủ chỗ. Trong thời gian đó các bạn ấy thay phiên nhau nấu cơm đủ các quốc tịch: Cơm Hà Lan, cơm Thuỵ Điển, Anh, Pháp… Chị P (em Cao Thái) và PH ngồi lắng nghe những thắc mắc, những thao thức của những người trẻ các nước không có vấn đề như Việt Nam, nhưng có nhiều những thắc mắc rất vô ích, chỉ cần cho họ sống ở vùng kinh tế mới bên mình vài tuần là hết ngay. Nhưng cũng có những thao thức đáng kính, đáng học hỏi. Nhờ những buổi ca hát chung mà PH biết rất nhiều những bài dân ca cổ truyền của các nước. Có đứa bày cho PH cả cách sửa chiếc guitare thành âm điệu nghe như tiếng chiếc đàn viele của Pháp xưa và hát những bài dân ca cổ truyền hồi thế kỷ thứ 16, 17 của nông dân các vùng quê nước Pháp. Có một hôm tại bệnh viện, một chiều họp mặt vui của nhân viên, PH “trổ tài” trình diễn bài “Pierre de Grenoble” với những âm thanh đàn ghi ta nhái thành giọng đàn viele khiến các bạn Pháp đều trố mắt ngạc nhiên sao cái hiểu biết của PH về tinh tuý của nhạc xưa Pháp trong dân gian “siêu” thế. Có gì đâu, đó chỉ là do cái môi trường đơn giản của nông trại Khoai Lang đã mời về đây những người trẻ có lòng. Càng ngẫm nghĩ PH càng thương Việt Nam. PH đã từng ôm mộng trở về Việt Nam để chia sẻ những học hỏi nho nhỏ này với các bạn thân yêu ở quê nhà, những cái hay nào của Phương tây nên học và những cái dở nào nên tránh. Bâygiờ thì chuyện cơm gạo, thuốc men, đói rét cướp hết thì giờ. Những thứ PH học ở đây chỉ là những xa xỉ phẩm.

Tôi viết tiếp:

Nghe anh nói sẽ gửi bài hát qua viết bằng máy music writer bọn PH mừng lắm. Bọn này sẽ in và sẽ thu tiền nhuận bút cho anh. Chữ viết của anh đẹp lắm. Anh đừng lo. Nếu những bài cho người lớn mà anh viết đẹp, rõ, đúng format như các lần trước thì PH cũng cho in nguyên. Anh chỉ nên nhớ là hễ một loạt bài trên máy music writer thì gắng giữ cùng một format, lớn nhỏ gì tuỳ thích, nhưng phải cùng một format mỗi loại. Có vài đứa bạn PH viết music được nhưng xem xấu quá, không bằng chút xíu nào những bài anh viết tay. Hễ mỗi lần có một sáng tác mới của anh là bọn PH có dịp ăn mừng, bọn PH quý sáng tác của anh như vàng, anh có biết không?

PH nghĩ có lẽ tại thức ăn ở nhà độ rày thiếu iode. Có lẽ tại trong bo bo thiếu iode. PH biết bo bo là một loại thực vật khá bổ tuy rằng thua gạo, nhưng không có dịp phân chất xem nó có thiếu iode không. Thuốc bổ PH gửi về anh nhớ chia cho cả nhà dùng mỗi ngày một viên (nếu là Alvityl) hay 20 giọt nếu là Hydrosol Polyvitaminé. Uống thuốc bổ không phải để thèm ăn mà để có đủ chất cần thiết cho cơ thể, vì thức ăn thiếu nên không có đủ chất, mà dù chỉ thiếu vài chất và chỉ thiếu một lượng ít (như iode chẳng hạn) thì cơ thể hay sinh những bệnh khó lường trước. Đợi tới khi thuốc PH gửi về thì đã trễ mất. Campolon B12 cũng không bổ hơn Alvityl nhưng nó chích vào nghe khoẻ liền nên thiên hạ thích và mua giá cao. PH đã nghiên cứu thấy Alvityl là hay nhất, nhất là cho phụ nữ, nó có phối hợp một số quân bình nào đó mà với những phụ nữ hay bệnh lặt vặt bác sĩ không biết sao mà trị, chỉ cần chohọ uống một ngày một viên vào sáng sớm đều đặn trong vòng 2 tháng là các bệnh biến mất cả. Mới uống 5, 10 viên nó không thấy rõ như Campolon. Ukapen như nhiều trụ sinh khác trị hầu hết các bệnh nhiễm độc nhưng trụ sinh luôn luôn giết vi trùng bệnh mà cũng giết luôn vi trùng hữu ích cho ruột. Uống thứ này ở Pháp luôn luôn phải kèm theo một loại bổ cho vi sinh ở ruột như Ultra Levure hay Lacteol hay ăn yaourt, ở Việt Nam phải nên ăn cơm rượu. Nếu chanh ở nhà không đắt lắm thì nên uống nước chanh đường (đường thẻ, đường đen cũng tốt lắm) mỗi sáng. Anh nhắc bà cụ đau khớp xương nên uống rất tốt. Có một lúc PH cũng bị đau khớp xương (nhẹ thôi) PH cũng chỉ uống chanh trong vòng mười ngày là hết. Chanh có vitamine C nhiều nhưng trong chanh còn có nhiều chất rất ít nhưng rất cần cho cơ thể như Fer, Iode, Zn… những thứ đó cơ thể ta chỉ cần một 1/1000 milligram thôi nhưng nếu thiếu là không được. Trong chanh có những chất đó.

Thôi thư dài rồi, PH hẹn anh thư sau. PH kính lời thăm chị và cám ơn chị đã nuôi anh kỹ lưỡng để anh nuôi thế hệ PH bằng nhạc. PH vẫn sẽ gửi Campolon B12 cho anh, không phải để dùng, mà để đổi những thứ cần dùng khác.

Chưa nhận được cuốn văn đánh máy. PH”

Sinh hoạt Phương Vân Am

Nếu Lê Thương kể chuyện Sài Gòn cho tôi nghe, thì tôi cũng kể chuyện đời sống của chúng tôi tại Phương Vân Am như đã viết trong thư trên cho anh nghe, chỉ không nói rõ tên từng người thôi! Nghe nói tôi và các bạn (không dám nhắc tên Thầy, dĩ nhiên rồi!) sống đơn giản, tối không nằm trên giường nệm êm ấm mà chỉ nằm trong những cái túi ngủ, anh rất ngạc nhiên và tội nghiệp, tưởng là chúng tôi sống khổ hạnh. Đây là sự thực 100% đời sống của thầy trò chúng tôi từ bao nhiêu năm rồi, đơn giản thế nhưng rất hạnh phúc. Ở Paris cũng nằm túi ngủ và ở đây cũng thế. Bây giờ hết chiến tranh thì còn ăn đủ bữa. Chứ hồi chiến tranh cả nhà không ăn cơm một ngày trong tuần, để lòng thanh tịnh, đồng cảm với đồng bào chạy dưới bom đạn và cầu nguyện cho chiến tranh mau chấm dứt. Trong những bức thư viết cho anh Lê Thương tả cảnh Phương Vân Am – Les Patates Douces mà anh Lê Thương gọi là nông trại Khoai Lang, tất cả sinh hoạt đều là sự thật. Chỉ có mỗi một chuyện Phương Hương nữ bác sĩ trẻ là không thật, nhưng nếu không nói thế thì khó có cách gửi thuốc về. Bác sĩ chuyên môn trị bệnh cho không biết bao nhiêu là bệnh nhân trên toàn quốc, từ quý hoà thượng như hoà thượng Hành Trụ, hoà thượng Thiện Hoà, hoà thượng Hiển Chơn Lê Thanh Tòng, hoà thượng Trí Quang, hoà thượng Đức Tâm, hoà thượng Huyền Quang, hoà thượng Chí Niệm, hoà thượng Thiện Giải, hoà thượng Quảng Độ, hoà thượng Từ Nhơn, quý ni sư như ni sư Như Hoa, ni sư Phước Hiển, ni sư Cát Tường, ni sư Tịnh Nguyện, quý sư bà như sư bà Vĩnh Bửu, sư bà Diệu Không, sư bà Diệu Trí, sư bà Thể Thanh, sư bà Thể Quán, sư bà Viên Minh, đến các nhà văn, những học giả, những nghệ sĩ… Khi gửi thuốc cho mỗi tôn đức thì chúng tôi tự chọn một giả danh Phật tử khác nhau, như gửi cho cụ Quảng Độ thế danh Đặng Phúc Tuệ thì người gửi là Đặng Thị Vọng Thư, có khi cụ nhờ cô Vũ Thị Bình nhận thì người gửi trở thành Vũ Thị Chơn.

Chỉ có mỗi một mình ôn Trí Quang thì căn dặn tôi chỉ để tên Loan cho ôn dễ nhận (vì tên tôi là Phượng). Khi gửi quà cho văn nghệ sĩ thì phải thị hiện là nữ bác sĩ Phương Hương, nữ bác sĩ Cần Thơ, nữ bác sĩ Angelina Nguyễn,… nhưng trên thực tế bác sĩ thật sự chỉ là anh rể thứ năm của tôi BS Nguyễn Phước An thôi. Anh có kinh nghiệm trị vi trùng trong cơ thể dân Việt Nam nên khi cần cho uống trụ sinh, anh chỉ dẫn tuỳ bệnh mà nên uống sáu ngày hay mười ngày hay có khi hai tuần. Tuy anh Năm ở Lyon nhưng tôi thường điện thoại cho anh và anh Năm cho toa, hướng dẫn tôi từng chi tiết nhỏ, giải thích cách vận hành của các bệnh, cách điều trị… Tôi đã sẵn có căn bản sinh học và y học nên anh chỉ dẫn cho tôi rất dễ dàng.

Chân Không chơi với các cháu ở Phương Vân Am

Nhà xuất bản Lá Bối hải ngoại

Thầy chúng tôi ở thất vách đá bên ngoài. Trong thất, Thầy có giấy để in sách, có máy in (cái máy in nhỏ hiệu Gestetner của các văn phòng) và máy nướng bản in. Thầy có bàn giấy ngay cửa sổ để viết sách. Tại Phương Vân Am này Thầy đã viết các truyện ngắn Bưởi, Thiều, Hồng (con cá hồng), Tố, Trái tim Mặt trời và Việt Nam Phật giáo sử luận tập 2. Sau này Thầy tiếp tục viết Việt Nam Phật giáo sử luận tập 3, Tùng, Lan,… Trước khi viết xuống truyện ngắn Bưởi, Thầy đã kể chuyện cho các bé Long (con của anh Luke cùng đi cứu trợ với tôi trên chiếc tàu đánh cá năm 1977), bé Minh Tâm và bé Thuỷ nghe và hỏi ý kiến các cháu xem các cháu có thích không. Tụi nhỏ nghe say mê thích thú lắm. Rồi Thầy đặt câu hỏi rất khó cho chúng trả lời: ‘‘Giờ các con tính sao? Chị Bưởi nên trở về mặt trăng với anh Đan hay ở lại dưới đất với anh Ổi. Trên đó tuy có hai con nhưng buồn lắm vì ở trển đâu có các thứ trái cây quen thuộc như ổi, cóc ngâm cam thảo, bưởi, chuối và dừa. Trên đó làm gì có chè sương sa hột lựu nước dừa và đường cát.” Thật ra với người lớn, qua truyện Bưởi Thầy có ý muốn nói người Việt xa xứ nào cũng có hai mối tình: Mối tình với đất nước Việt Nam đã nuôi mình mấy chục năm đầu và mối tình với cuộc sống ở đất mới, tuy có tiện nghi nhiều hơn nhưng còn lạ lùng và xa xôi như trên mặt trăng. Truyện Bưởi phản chiếu tâm trạng những người xa xứ, bên này có gia đình mới nhưng ở quê nhà cũng là một gia đình thân thương, cho nên muốn ‘‘thân này ví xẻ thành hai được’’ để có thể vừa lo cho gia đình của mình ở đất mới, vừa lo cho gia đình của mình ở quê nhà. Ai mà không nhớ những mối tình ở quê hương dù là mối tình đi chân đất trên những con đường làng nhỏ, hay nhớ các thức ăn như một nắm xôi thơm mùi lá dứa nước dừa?

In sách bằng loại chữ nhà in chứ không phải chữ đánh máy Từ câu các chuyện Bưởi, Hồng, Thiều, Lan, nhất là quyển Việt Nam Phật giáo sử luận, thầy trò chúng tôi muốn in thành sách chữ in hẳn hoi chứ không phải chữ đánh máy. Hồi 1976-1980 chưa có máy tính với đủ các thứ mẫu chữ, không có nhà in typo sắp chữ Việt có dấu ă, â, ê, ư, ơ, ô, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. In thành sách theo lối chữ đánh máy thì dễ thôi nhưng xấu. In theo chữ in thì thật khó. Chúng tôi đã thử đem một cuốn ra Nhà in Đoàn Kết ở Paris mướn in, họ từ chối. May quá, các bạn ở Hoa Kỳ trong tổ chức Thân hữu Hoà giải – Fellowship of Reconciliation (FOR) mới mua được chiếc Varityper mới, bèn tặng chúng tôi chiếc máy Varityper cũ này (hiện chúng tôi không còn dùng nữa nhưng còn giữ ở bảo tàng Nội Viện Phương Khê). Máy gọn như máy đánh chữ nhưng đánh ra chữ thanh tú, đẹp giống y như chữ in.

Chân Không bên chiếc Varityper

Với máy này tôi có thể đánh chữ nghiêng, chữ đậm nét, chỉ có điều là không đánh dấu tiếng Việt được. Nhưng như thế cũng quá đủ rồi, Thầy chúng tôi quyết định dùng ngòi bút hoạ sĩ rất mỏng bỏ dấu ă, â, ê, ư, ơ, ô, đ và các dấu sắc, huyền, ngã, hỏi, nặng. Thật là cả một công trình tỉ mỉ và tốn thì giờ, nhưng Thầy vui bảo Thầy vẫn vừa làm vừa tận hưởng từng nét, từng dòng chữ, như là đang vẽ, đang chơi với những dòng những nét ấy mà, có gì mệt đâu?

Đánh dấu xong còn phải chia trang, đánh số trang, tất cả đều làm bằng tay chứ đâu có máy tính như bây giờ. Thế là quyển Việt Nam Phật giáo sử luận tập 2, tất cả 286 trang đã được tôi đánh máy bằng chiếc máy Varityper của hội Thân hữu Hoà giải tặng và chính Thầy đã “chơi”, đã “vẽ” với từng cái dấu, từng dòng chữ và chỉnh sửa cho đúng, chia từng trang, cho số trang đầy đủ luôn.

Tự tay Thầy làm bìa với chữ Letraset

Những bìa sách Lá Bối hải ngoại cũng được Thầy làm càng ngày càng đẹp. Thầy trò tuy mua những mẫu chữ gọi là Letraset màu đen rất đẹp của hoạ sĩ dán trên giấy trắng trong, chỉ cần kê đúng hàng, dán lên để làm bìa như bìa Việt Nam Phật Giáo sử luận tập 3, nhưng xem chừng đẹp hơn chữ các nhà xuất bản lành nghề ở Việt Nam nữa!

Quyển Việt Nam Phật giáo sử luận tập 1 đã ra đời ở Việt Nam năm 1973, dày 466 trang với tên tác giả Nguyễn Lang. Thầy chụp hình lại và làm bìa mới. Từ khi Thầy lên tiếng kêu gọi hoà bình, nhà nước Việt Nam Cộng hoà ở miền Nam cũng dị ứng với tên Thích Nhất Hạnh. Sách nào đề tên Thích Nhất Hạnh thì “bà” kiểm duyệt cũng cấm, nên khi viết xong Việt Nam Phật giáo sử luận tập 1, Thầy chúng tôi đã cho in dưới tên Nguyễn Lang và đã in ra dễ dàng ở Sài Gòn năm 1973. Để giữ sự liên tục của một công trình nghiên cứu lịch sử như Việt Nam Phật giáo sử luận và cũng để tránh chiếc kéo kiểm duyệt khi sách được gửi về Việt Nam, dù là Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, Thầy cũng quyết định để luôn tên Nguyễn Lang trong tập thứ 2 dày 286 trang này, in năm 1978. Sau này chúng tôi đánh máy Varityper và in thêm luôn tập thứ 3 được 492 trang vào năm 1985. Biết đây là một tài liệu quý cho nền văn học sử Phật giáo nên tăng thân Phương Vân Am Lá Bối hải ngoại nhất quyết gửi về nước bằng bưu điện, người gửi tên Nguyễn Lang hẳn hoi. Chúng tôi gửi về cho khoa Sử – Đại học Văn khoa Hà Nội, cũng gửi cho những học giả như Đào Duy Anh, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Giản Chi, thầy Thích Minh Châu, Sư cô Trí Hải (Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh). Mọi người đều hạnh phúc nhưng không đứng vào vai trò chủ động được. Vì quyển Sử luận này là loại sách có tính cách biên khảo và người nhận là những chuyên viên biên khảo nên mọi người đều nhận được ba tập hẳn hoi, không bị kiểm duyệt tịch thu. Sư chị TríHải mừng quýnh nói “đúng là phép lạ” nên chị mới nhận được vì chị đâu phải là học giả, nhờ có cô đệ tử là nhân viên bưu điện đã lượm ngay trước khi đưa qua kiểm duyệt. Khi giáo sư Nguyễn Huệ Chi trưởng khoa Sử học Phật giáo Đại học Văn khoa Hà Nội nhận được tập 1, 2 và 3, ông quý ba quyển sách đó như vàng. Ông đã tìm mọi cách liên lạc với Nguyễn Lang để xin phép in tại Hà Nội bởi Nhà xuất bản Văn Hoá. Ông này điếc không sợ súng(!) vì ông đâu biết Nguyễn Lang là Thiền sư Thích Nhất Hạnh và ông thầy này là nhân vật chưa được chấp nhận. Nhưng than ôi, từ Hà Nội mà tìm Nguyễn Lang, qua Nhà xuất bản Lá Bối ở Paris thì như lên trời tìm chim. Thầy trò nhà này in sách tập 1, tập 2 ở Phương Vân Am và tập 3 ở xóm Phương Khê gần Làng Mai, nhưng để địa chỉ nhà xuất bản ở địa chỉ Văn phòng Phái đoàn Hoà bình , 7 rue du 8 Mai 1945, 92340 Bourg la Reine, ngoại ô Paris.

Lúc sau này nhờ anh Sáu, chị Bảy và Má chúng tôi ở địa chỉ ấy nên cuối cùng mãi đến năm 1989, giáo sư Nguyễn Huệ Chi mới tìm được tác giả Việt Nam Phật giáo sử luận, là Sư Ông Làng Mai, ở Meyrac47120 Loubes Bernac. Được gặp Thầy, ông chỉ xin phép được in lại ba tập Việt Nam Phật giáo sử luận tại Nhà xuất bản Văn Hoá ở Hà Nội, nhưng bỏ bớt những đoạn đụng chạm với chế độ. Ông lại còn năn nỉ xin phép để hình Thầy trên tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận 1, 2 và 3 xuất bản tại Hà Nội nữa, mặc dù tác giả vẫn còn đề là Nguyễn Lang.

.

Hình bìa sách in ở Hà Nội do Giáo Sư Nguyễn Huệ Chi in

Trở lại năm 1977, ngôi nhà chính của Phương Vân Am chỉ có một cửa vào và hai cửa sổ nhưng bên trong rất đẹp và trang nhã. Chiếc bàn nhỏ của tôi được đặt nằm bên cửa sổ để có ánh sáng mặt trời mà đánh máy Varityper. Căn phòng chính rộng bảy mét chiều ngang và mười mét chiều dài. Phía trên lò sưởi có chiếc đà gỗ dày 20 phân sơn nâu để làm bàn Phật, có chuông, mõ, lư hương, hình Bụt xem rất đơn sơ nhưng nghệ thuật. Sàn làm bằng gỗ ván ép có lót thảm moquette dày màu nâu nhạt rất ấm. Ông thợ hồ Dolat đã tráng xi măng và sơn màu vàng nhạt bốn vách thật sáng sủa. Lò sưởi củi lúc nào cũng tí tách lửa hồng, có nhiều than hồng có thể lùi khoai lang, khoai tây, nướng bắp… nhưng không cho đủ sức ấm nên phải làm thêm hệ thống sưởi trung ương bằng radiateurs (máy tản nhiệt) bên trong có nước nóng để dùng vào những ngày đông giá. Phía sau Phật đường về bên trái, băng qua cửa mành trúc, bên sau vách đá có hai sàn bằng gỗ chia làm hai tầng, tầng trên sàn gỗ 3m x 3,5m và cao 30cm là nơi ngủ của má tôi, tôi, Minh Tâm và bé Thuỷ. Sàn gỗ bên dưới 2,5×3,5m là chỗ ngủ của các cô Hương, Mobi và Hằng. Cô Hương là cựu tác viên Thanh niên Phụng sự Xã hội, Mobi tên Hoa Kỳ là Mobi Warren, đã từng là thư ký Văn Phòng Phái đoàn Hoà bình ở Paris, học tiếng Việt với Thầy giỏi cho đến mức đã dịch được quyển Đường xưa mây trắng ra tiếng Anh và cũng đã dịch quyển Nẻo về của Ý rất lưu loát. Hằng là con dâu của giáo sư Trần Văn Khê, mẹ của bé Minh Tâm. Bé Thuỷ là con anh thuyền nhân Nguyễn Minh Triết cùng đến Pháp với hoà thượng Mãn Giác. Bố Triết xin gửi tạm bé Thuỷ trong thời gian anh tìm việc làm ở Paris và lo giấy tờ đoàn tụ với gia đình bên Hoa Kỳ. Khi Hằng từ Paris về thì Minh Tâm xuống sàn dưới nằm cùng mẹ.

Minh Tâm tập đàn trong Nhà Chính Phương Vân Am

Nhạc sĩ Graeme Allwright dạo đàn, bên kia lò sưởi là bé Thuỷ và con gái của Graeme và Claire

Phật đường bên ngoài có chỗ ngồi thiền cho hơn hai mươi người. Bên mặt Phật đường có cửa nhỏ thông ra bếp và phòng khách mới xây sau. Phòng này khá thoáng, phía sau có nhà tắm, lavabo và phòng vệ sinh mới. Sát bên góc trái phòng này là evier bồn rửa chén, chỗ úp chén bát và cái bếp có lò gas nấu ăn cho cả nhà. Phần còn lại của phòng mới xây này rộng 4m bề ngang và 6m bề dài, được kê trên sàn gỗ cao 30cm, trải thảm moquette dày và dùng làm ‘‘phòng khách’’. Cái phòng khách nhỏ này có cửa porte fenêtre rộng 3m cao 2,2m toàn bằng kính trong nên rất sáng sủa. Ngồi uống trà ấm áp trong nhà mà lại có cảm tưởng như đang ngồi ngoài trời, dù bên ngoài tuyết đang rơi. Đó là nơi Thầy trò hay ngồi chung quanh một chiếc bàn gỗ vuông thấp uống trà mỗi sáng sau giờ thiền toạ. Sát vách là một máy sưởi (radiateur) to và nóng hổi. Má tôi ưa ngả lưng trên chiếc ghế xếp nghiêng cạnh radiateur để vừa nghe thầy trò nói chuyện vừa đan áo len, đan mũ hoặc khăn len cho chúng tôi đội và quàng mùa đông. Có khi Thầy ngồi viết văn ngay trên chiếc bàn vuông thấp đó, có khi viết giúp thư cho nhạc sĩ Lê Thương, thi sĩ Hồ Dzếnh, thi sĩ Hoàng Cầm hay các văn nghệ sĩ khác trong khi Hương hoặc Hằng đang nấu món phở chay, mùi quế, đại hồi và gừng nướng bay thơm phức cả nhà! Tôi thì ngồi bên thiền đường mới phía sau, chuẩn bị một số hộp gửi thuốc về Việt Nam với em Nancy (người Singapore).

Hãy gọi đúng tên tôi

Một sáng nọ, sau khi ngồi thiền trên Phật đường, chúng tôi cùng xuống phòng khách + bếp, uống trà với Thầy. Hôm ấy có Jim Forest, Laura Hassler và Linh Mục Berrigan về chơi. Có Nancy và Mobi. Thầy đã đọc cho chúng tôi nghe bài thơ Hãy gọi đúng tên tôi (Please call me by my true names), và giải thích rằng: nếu cách đây hai mươi năm, nếu Thầy lọt lòng từ bụng một cô gái Thái Lan còn quá trẻ, chưa có tinh thần trách nhiệm và chưa biết nuôi con, nếu mẹ Thầy không đủ sức nuôi Thầy, khi đói không ai đủ tình thương để cho Thầy ăn, nếu Thầy chỉ lớn lên trong không khí bạo động, ích kỷ và dữ dằn… như rất nhiều đứa trẻ thất học và đói tình thương khác… thì rất có thể hôm nay Thầy cũng là một tên hải tặc Thái Lan không biết hiểu, không biết thương. Nhưng hôm nay Thầy là Thầy của các con, đó là vì Thầy đã may mắn hơn chú hải tặc, Thầy có mẹ, có cha, có thầy, có tổ, có tăng thân nâng đỡ Thầy khi gặp khó khăn. Thầy có nhiều phước đức hơn chú hải tặc kia vì đi tới đâu Thầy cũng gặp được bạn bè khắp chốn, góp sức cùng Thầy trên con đường phụng sự. Thầy không có gì để tự hào rằng Thầy hơn người hải tặc. Bởi vì chính môi trường đó đã nuôi Thầy nên người thầy này. Và môi trường kia đã đẩy những đứa bé vất vả kia trở thành hải tặc. Nếu có thương quý Thầy thì các con nên cám ơn môi trường và bao nhiêu điều kiện đã nuôi Thầy nên Thầy, và nếu trách chú hải tặc thì chúng ta nên nhớ chúng ta có góp phần trong việc thờ ơ đẩy đứa bé bất hạnh kia lớn lên thành hải tặc. Hiện giờ trong khi chúng ta đang ngồi đây thì trong từng góc nhỏ cùng khắp địa cầu có những đứa trẻ lớn lên trong hoàn cảnh bị hiếp đáp, bị bỏ rơi trong đói và khát. Nếu những người có dịp gần gũi bé mà không giúp gì cho bé thì ta lại tiếp tục có thêm một số cướp biển hay tướng cướp trong tương lai, vì có ai dạy cho các chú bé ấy thế nào là hiểu, thế nào là thương đâu. Nghe vậy chúng tôi ngồi lặng im, cảm động. Lát sau cha Daniel đứng dậy ôm Thầy thật chặt. Cám ơn Thầy.

Hát và ngồi thiền trước khi đi ngủ

Vào giờ ăn cơm chiều, thường thì mười mấy Thầy trò ăn chung trên nhà chính có bếp lửa hồng. Ăn xong thì cùng nhau hát các bản dân ca của các dân tộc khác nhau. Laura là một nghệ sĩ yêu đàn ca, và có tài về âm nhạc thượng thặng. Philippe và Martine cũng thích ca nhạc lắm và lại ưa chơi đàn viele, nhạc khí cổ của Pháp. Có khi Pierre Marchand kéo luôn Graeme Allwright và cô vợ (ngồi lắng nghe tôi chia sẻ trong hình) về tu học cuối tuần nữa. Mãi đến 20 giờ 30 mới đi ngồi thiền.

Mọi người ngồi thiền chung tới 21 giờ tối. Lúc đó Philippe và Martine mới lên xe về.

Sinh hoạt trước giờ đi ngủ

Graeme Allwright và vợ ngồi nghe Chân Không kể chuyện

Linh mục Daniel, Pierre Marchand và Chân Không

Thầy Huyền Quang và Thiện Minh đi dự hội thảo Chân Không dịch tiếng Anh ra tiếng Việt ở hội thảo

Thầy Huyền Quang và Thiện Minh sau khi đi dự Conference on Religions and Peace ơ Bruxelles đã ghé ngủ một đêm tại Phương Vân Am, ngay nhà chính trước lò sưởi củi. Còn Pierre, Jean Marie bạn Pierre thì ngủ ở một phòng tầng bên trên gác. Cũng trên tầng còn phòng thứ hai rất lớn, là nhà kho chứa tài liệu trong thời chiến tranh Việt Nam như hình ảnh trẻ em đói, hồ sơ cô nhi các tỉnh giáo hội… Anh Sáu tôi làm đại diện cho một hãng bán đồ trang sức thường phải lái xe đi thăm khách hàng nhiều ngày trong tuần, nên chỉ về ở 3 ngày cuối tuần thôi, để chơi với má và mọi người. Mỗi khi về đây anh ở trong phòng kho thứ hai này, chung với rất nhiều hồ sơ trẻ em mồ côi và trẻ em đói của tôi ngày xưa, để không phiền ai vì anh có tật ngủ ngáy khá lớn! Cuối tuần có các em tị nạn ở Troyes như Antoine, Hiếu, Tâm, chị Rosalie, chị Marianne là các con cụ Lương Trọng Tường, và bác sĩ “nhổ răng” Sơn về để được ăn cơm chay Việt Nam do chúng tôi hay Hằng hay Hương nấu. Từ khi Thầy trò xây được thêm một thiền đường lớn nối dài dưới bếp với cửa kính thật rộng ba bên thì mới có đủ chỗ ngồi ăn trưa và chiều cho tất cả mọi người. Mỗi tháng một lần có khoá tu cuối tuần thứ bảy và chủ nhật. Có Joe, Linda, Tony, anh Hướng, chị Huệ Châu, bé Thanh Bình và Hoài Việt về chơi và tu học nữa. Năm chót của Phương Vân Am còn có nhạc sĩ Chí Tâm, chị Võ Giao Trinh, chị Trương Thị Diễm Thanh và dì Tâm Trân về tu tập cuối tuần và dự luôn trọn một khoá tu Duy Thức học.

Thư của Lê Thương viết ngày 2 tháng 7 năm 1980

Lê Thương viết ngày 2.7.1980 để báo tin đã lãnh quà và Carte Postale được một tháng. Anh hỏi để biết tin cuốn sách đã tới Mã Lai chưa? (có một quyển sách Lê Thương gửi chui đi vượt biên đã tới trại tị nạn Mã Lai). Trong thư này Lê Thương cũng hỏi là anh Năm Thế nhớ mang máng Phương Hương hồi còn nhỏ tên là Lise phải không? Tôi không trả lời cho Lê Thương nhưng thực ra Lise là tên nhỏ của cô Mười, em út của tôi. Theo Lê Thương thì anh Năm Thế đã nói rằng hồi đó anh ấy cũng đã cõng Lise đi đó đây như một vú em cõng trẻ nhỏ.

“Thơ viết nửa chừng, nhiều chuyện lẩm cẩm nên lại bỏ đi rồi gục đầu xuống máy chữ, đập chữ một cách tàn bạo vô nhân đạo cho đến hôm nay mới tạm ngừng. Còn bao nhiêu là chuyện Sài Gòn nhưng vì đang thời bịt tai nghe tiếng lòng hồi hộp và đang “lao động là vinh quang” nên tạm cấm khẩu sau mấy trang tía lia không có gì là thú vị.

Chào bác giùm tôi 

Chào cả gia đình

Chúc lễ Giáng Sinh vui vẻ nên thơ

Chúc Tết Tân Dậu sớm đi cho nó được việc

Lê Thương

TB Các bệnh nhân không ngớt gửi lời tán thán bác sĩ PH là bác sĩ giỏi thực. Phương Hương ơi. Cứ nhận lời ngay đi PH. Bằng cấp của nhân dân còn quý hơn của “đế quốc” đấy. Đó là lời khẳng định của cán bộ y tế mà.”

Thư Lê Thương viết ngày 1 tháng 4 năm 1981

Trong lá thư ngày 1.4.1981 Lê Thương nói về bức hoạ của Minh Đăng Khánh

“Tin thư này có điều lạ là tôi gửi PH và anh Cao Thái hai tấm hoạ vẽ tay của người quá cố Minh Đăng Khánh. Anh đã nhờ gửi từ lâu nhưng vì sắp nhỏ cứ đòi xem, khoe nhau xem, rồi làm lạc mất, nên nay vừa tìm ra, tôi gửi trễ món di vật quý mến với những lời cảm tạ không kịp nói của anh MĐK. Như lời ước mong của anh, gia đình anh đã hoả thiêu sau khi anh mất tại nghĩa trang Phú Thọ và tro anh gửi vào chùa. Mấy đứa con trai vào tuổi nghĩa vụ quân sự đang lén lút đi về và anh còn một đứa con gái út vừa đẹp vừa ngoan. Cháu nói: Ba con buồn quá, ba con về trời với đức Phật rồi nó nhìn khách một cách đằm thắm, không buồn gì lắm vì nét buồn bị che lấp bằng một nụ cười. Cái buồn ấy mà tôi hiểu nhờ lời thổ lộ của MĐK đã tan rồi và cũng là một sự giải thoát. Mong cho anh được siêu linh nhanh chóng.

Hai bức hoạ nói giùm anh như hai cõi lòng:

Tĩnh vật gồm trái cây còn ngon lành nhất là nho như của vùng Gironde, chuối thì ở Long Khánh VN, còn Pommes thì chín cây mà no đầy mặt trời trông ngọt như thơ tình.

Buồm căng thì hình như toàn là những cánh chim bạt gió lao xao chờ cảnh ngút ngàn. Biển thì nước sâu như lòng nhân thế nhưng loáng sáng chân trời còn mở khá nhiều hy vọng xa ngàn.

Hai bức hoạ này nhỏ bé về hình dáng nhưng là hai cảnh đời tĩnh và động, hai cõi âm dương trái ngược nhau mà cứ phải sống quyện vào nhau như bóng và hình.

Tôi cũng thích hai cảnh này và xin gửi cả sự ưa thích này để PH giữ và hiểu thêm. Đó cũng là hai khía cạnh trần luỵ hiện giờ của bao người đang sống.”

Không có ai cho và không có người nhận

Tại Fontvannes Phương Vân Am, Thầy chúng tôi là người chỉ đạo chính về việc làm vườn và về đóng sách. Jean Marie, Gilles chẳng biết gì hết, nhưng cứ làm theo những gì Thầy bảo nên vườn rau tăng thân Phương Vân Am cũng khá thịnh mậu. Tôi thì nhờ vào số tiền Uỷ ban Hà Lan gửi đã tổ chức đều đặn gói từng gói thuốc gửi cho các gia đình đói ở các vùng kinh tế mới, cha bị đi học tập, mẹ bệnh suyễn hay ho lao… không nuôi nổi các con thơ và trợ giúp hết lòng chư tôn đức cũng như các văn sĩ đang quá ngặt nghèo về kinh tế ở Việt Nam.

Cháu nội của chị Bảy của tôi là bé Ton 7 tuổi, thuyền nhân vượt biên với ba nó tới Pháp trước bà nội nó (là chị Bảy của tôi) bảy tháng, cũng được Lâm, ba của cháu, gửi về Phương Vân Am xin tá túc khi ba cháu đi tìm sở làm. Nhóm bé con của Phương Vân Am nay có thêm bé Ton vào càng vui nhộn, cũng hát cho Thầy nghe thêm bài “Ông trăng tròn, tròn như cái mâm con con, ai treo ông cao thế hở ông trăng tròn”.

Phương Vân Am vui quá, đến nỗi khi chị Bảy tôi đã cùng với các cháu Vũ Nga, Lâm, Thuý và Phương dọn về ở với anh Sáu tôi ở 7 rue du 8 Mai 1945 92340 Bourg la Reine gần Paris, chuẩn bị cho má tôi về ở luôn với chị, nhưng bà cụ cứ ở trên đó vài tuần là đòi về nhà quê Phương Vân Am ở với tôi và tăng thân Phương Vân Am để được gói và gửi quà thuốc về cho đồng bào và chư tôn túc bên nhà. Tuy Phương Vân Am khá đông người với từng ấy chỗ ngủ thôi nhưng không gian bên ngoài thênh thang và không khí rất êm ả. Bà cụ mỗi ngày để ra nhiều giờ để niệm Bụt. Thay vì dùng sổ công cứ để ghi đã niệm bao nhiêu biến thì má tôi dùng những que diêm. Cứ niệm được 10 biến là lấy ra một que diêm, cho đến khi đủ số cây diêm mới nghỉ. Sau đó Má rất vui được phụ với Krisana, Nancy, Mobi và Martine giúp tôi sắp thuốc vào hộp theo tờ giấy có danh sách từng thứ thuốc cùng với cách sử dụng đã được photocopy sẵn, trong khi tôi ngồi viết thư cho người nhận, trao gửi chút ân tình vì tôi biết nếu họ chỉ được một danh sách thuốc thôi, dù đổi ra có được nhiều tiền họ cũng sẽ buồn và sẽ tủi thân. Thầy không có thì giờ viết thì trong khi mọi người phụ gói thuốc, tôi phải viết thư cho Lê Thương và các văn nghệ sĩ, những vị nhận thuốc thôi. Giữa hai tờ giấy trắng rất mỏng tôi đặt thêm tờ giấy than, nhờ thế mà nay tôi mới có dịp ghi lại cho các em tôi xem trong tập sách này những gì tôi đã viết cho Lê Thương, Hoàng Cầm, cụ Đào Duy Anh, thi sĩ Hồ Dzếnh… từ những năm 1979-1980 (khi đó nhiều sư em của tôi còn chưa ra đời). Mặc dù tuồng chữ viết tay tôi xấu nhưng tôi không dám đánh máy vì sợ người kiểm duyệt thấy việc gửi thuốc này có vẻ có tổ chức, đáng nghi!

Thành ra mỗi tháng chúng tôi gửi chừng 80 gói thuốc nhỏ đúng 1 ký. Trong mỗi gói thuốc, tuồng chữ khác, tên và địa chỉ người gửi khác và tên người nhận dĩ nhiên cũng khác. Mỗi cuối tuần tôi và Martine lái xe đem ra, khi thì bưu điện Fontvannes, khi thì bưu điện Estissac, khi thì Chennegy, khi thì cả bưu điện Troyes nữa. Tại mỗi bưu điện tôi gửi chừng 10 gói thuốc nhỏ. Gửi cho trẻ em đói các vùng Kinh tế mới thì có các bạn tôi trong Thanh niên Phụng sự Xã hội âm thầm đi phân phối. Tôi cũng gửi cho những vị tăng ni trẻ ở Huế mà tôi chưa hề quen, nhưng nghe các em nói xứng đáng lắm, lúc nào cũng đến với những đồng bào cơ cực như Sư cô Mai Thị An, Trần Thị Tâm Hạnh, Sư cô Phan Thị Châu, Mai Thị… (Minh Tú), thầy Nguyễn Cầm, ni sư Trương Thị Bích Vân (Tịnh Giải), Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh. Có điều vui là khi tôi nhờ chị U ở Việt Nam đi phát quà thì chị nghĩ chỉ có mình chị được tôi nhờ lo âm thầm cho đồng bào thôi, chị Phụng cũng thế, chị Thuần cũng nghĩ mình là người duy nhất, anh Đính, anh Sẽ, anh Hiệp cũng thế. Quý Sư cô Mai Thị An, Trần Thị Tâm Hạnh, Phan Thị Châu và thầy bác sĩ Nguyễn Cầm cũng không biết tôi là ai… Ai cũng tưởng mình là người duy nhất đang âm thầm lo công tác tình thương này mà thôi.

Và nếu quý vị nhận được quà thì quý vị cũng đem chia sẻ cho đồng bào cơ cực chứ có giữ chi cho bản thân quý vị đâu, và tôi cũng chẳng là ai cả. Khi gửi cho thầy Nguyễn Cầm thì tôi là Nguyễn Thị Thiều Chi, khi gửi cho các Sư cô họ Mai thì tôi là Mai Thị Phương, khi lại là Mai Thị Dã Thảo.

Thầy dạy Tiếp xúc

Trong khi tôi ngồi gói thuốc với má tôi và các em Mobi, Krisana, Nancy, Hằng, Hương, cháu Thuý, bé Ton… thì Thầy chúng tôi có bao nhiêu là việc khác để làm như viết tiếp truyện ngắn hay hướng dẫn Gilles, Jean Marie phụ làm vườn, phụ in, đóng, xếp sách cho Nhà xuất bản Lá Bối hải ngoại. Nhưng cũng như ngày xưa ở văn phòng Phái đoàn Hoà bình ở 69 Bd Desgranges 92330 Sceaux gần Paris, mỗi ngày Thầy dành một ít thì giờ tham dự vào những công tác tiếp xúc với khổ đau, Thầy muốn ‘‘tiếp xúc’’ với đồng bào bất hạnh qua những cái gì cụ thể. Khi xưa, lúc Phái đoàn Hoà bình nhận được mỗi ngày 55 hồ sơ cô nhi tỉnh này hay 67 hồ sơ cô nhi tỉnh nọ, anh chị em chúng tôi trong tăng thân phái đoàn có bổn phận tìm người bảo trợ cho các em mồ côi cha mẹ, nhưng trước hết phải dịch hồ sơ ra tiếng Pháp hay tiếng Anh. Văn phòng Phái đoàn Hoà bình có cả chục em sinh viên tới giúp dịch hồ sơ cô nhi nhưng Thầy vẫn xin chừng mười đến hai mươi hồ sơ mỗi ngày để dịch ra Anh hoặc Pháp văn, trong khi Thầy có bao nhiêu là việc khác phải làm. Thầy bảo, trước khi dịch một hồ sơ cô nhi, Thầy đưa hình em bé lên nhìn và quán tưởng để thấy được tình cảnh của em sau khi ba má mất, để cho năng lượng từ bi phát khởi trong trái tim trước khi đặt bút xuống dịch. Chúng tôi học được rất nhiều trong cách vừa làm vừa tu này để không tự đánh mất mình trong công việc, và vì vậy khi gói thuốc, khi gửi thuốc, chúng tôi luôn luôn quán tưởng về tình trạng khó khăn của các vị tôn đức hay từng văn sĩ này, nhạc sĩ kia, hoạ sĩ nọ ở bên nhà, và chúng tôi cũng quán chiếu tính cách vô ngã của tôi và của mọi người. Không có ai cho và không có người nhận, thật ra là vậy!

Tuy chị em chúng tôi vẫn đủ phương tiện tài chánh và nhân lực để gói và gửi đều đặn ba tháng một lần quà về cho văn nghệ sĩ nhưng thư tưới hoa, gây niềm hứng khởi cho các văn sĩ, thi sĩ ở Việt Nam thì năn nỉ Thầy tìm ra thì giờ cũng khó. Tự viết thì không hay, mà nhờ Thầy thì không dám vì thấy Thầy có quá nhiều công việc. Cho đến khi Lê Thương than thở và trách khéo là “P.H còn lo bệnh viện, lo cho bác và các cháu nên chẳng có chút thư nào cả vì đâu còn giờ rảnh nữa, như vậy đến phiên tôi mong đợi cho quen cũng phải.

Thư Lê Thương viết ngày 24 tháng 4 năm 1981

Trong một thư khác anh viết:

“TP Hồ Chí Minh 24.4.81 Mến gửi cô Phương Hương,

Vội vã biên thư này tôi muốn báo tin cho PH yên lòng là đã lãnh được thuốc qua anh Ngô Nhật Thanh và cả một số thuốc qua chị Bé cùng phố BV. Chị là bà con gì đó với một người bạn của PH.

Tấp nập dễ sợ! Quả PH là một bác sĩ chăm sóc hảo hạng mà tôi cảm thấy như là một bệnh nhân viễn xứ hằng được tẩm bổ quá chừng chừng. Không còn biết nói sao với tấm lòng săn sóc ấy, tôi đành nhức đầu suy nghĩ ra cách làm sao để tìm ra một công thức không gian tới chào Phương Hương trước mặt các bệnh nhân thật hiện tại (chắc anh hy vọng được đi chính thức đoàn tụ với con gái ở Hoa Kỳ chăng? Hay là vượt biên) cho họ ngơ ngác một phen.

Công thức ấy đã bị ông cố Einstein đem sang bên kia thế giới nên chờ vậy, phải chờ vậy. Tôi năm ngoái muốn đổi địa chỉ và đã quá tin là sẽ gặp nhà bác học và đã hoãn các tin tức bưu kiện nhưng việc chẳng có ra gì nên lại cứ mọc rễ sâu hơn ở địa chỉ cũ (chắc là tổ chức chuyến vượt biên bị hụt!?). Bây giờ cuộc đời như thả nổi, cắm đầu nghiên cứu âm nhạc, âm nhiệc có lẽ cho đến mãn kiếp phù sinh. Lâu lâu tôi vào thăm ông Ngô Nhật Thanh, bệnh tình ông cũng thả nổi, chân khi sưng vù, khi xẹp. Ông Vĩnh Phan cũng thở hổn hển như thường lệ. Hai ông đều giống như hai trái bong bóng Châu Bá thổi lên cho lơ lửng như phi thuyền không gian, cười héo như hoa chiều, và ít nói như đất sét.

Song coi vậy chứ chưa ai xin chấm dứt cuộc đời đâu, vì nghe chừng còn thấy nợ nhiều mà chưa có trả. Hai ông khác MĐK và ĐBT đã sang kiếp như tôi báo tin hai lần (1 carte postales và 1 thư dày, có hai bức hoạ nhỏ của MĐK kèm cả tuỳ bút của tôi về nhạc trẻ PH lãnh được chưa).

Kinh Phật cầu siêu cho anh Năm, ở nhà có thâu âm, đợi dịp sẽ gửi qua Phương Hương để nghe vì hiếm hoi mới được có đến gần 20 sư nữ cầu siêu rất là hay, rất là cảm động. Tôi tin một tâm hồn như PH cũng thích nghe loại nhạc siêu thoát ấy. Đợi dịp tôi sẽ gửi tặng. Như đã tặng hai tập nhạc“Tuổi thơ“ nhờ bà Tám (bà Ngôn) gửi sang PH chắc đã lãnh được. Xin PH giữ kỹ hai cuốn đó vì là hai cuốn duy nhất còn lại (ở đây tôi cũng không còn nữa).

Còn cuốn“Ngã tư quốc tế“ thì xin đừng bàn gì trong thư bất tiện. Tôi đang xin với gia đình vợ anh 5 để có giấy đồng ý đã. Thư tôi viết trước đây về nó sẽ bàn với con cái ảnh cho an tâm. Mong PH không quá lo nghĩ nhiều với cái vốn vị tha đã là tràn ngập mà ốm nhom thêm tội nghiệp (tôi tội nghiệp cả cho một bác sĩ chắc ít chăm sóc đến mình).

Thư còn dài (nhưng chưa viết) chỉ tạm gửi những lời cảm ơn nồng nhiệt hơn nóng Sài Gòn 36 độ C mà vẫn chưa mưa. Gia đình tôi lúc này vẫn bình yên về sức khoẻ chỉ có cháu Lê Tuấn đã đến tuổi nghĩa vụ quân sự, nó đang lo. Ba nó lo lây phần nào. Sẽ có thư sau mến gửi PH vài truyện ngắn tâm tình cũ mềm như trái đất nhưng là tâm sự gọi là “văn viếc” gửi thêm để đọc cho nó thông qua nhịp chìm nổi của một kiếp phù sinh, kiếp Ltg.

Chào PH thân mến”

Tắm mát ngọn sông Đào

Tại Phương Vân Am, Thầy cũng sáng tác Am mây ngủ và nhà Lá Bối hải ngoại của thầy trò chúng tôi đã in được tuyển tập Tắm mát ngọn sông Đào gồm những tác phẩm sáng tác trong nước sau 1975, gửi ra bên này. Trong quyển này có thơ của Thanh Tâm Tuyền viết trong tù thật cảm động, thơ thầy Quảng Độ dưới tên Thích Cao Đăng, của nhà văn Doãn Quốc Sĩ dưới tên Hồ Khanh, ca dao đồng dao mới của Hoàng Hải Thuỷ mà anh gọi là “phóng dao” thay vì phong dao, lấy tên Con Trai Bà Cả Đọi.

Tôi thích và hạnh phúc quá chừng khi được đánh máy quyển Tắm mát ngọn sông Đào của các văn nghệ sĩ trong nước gửi ra hải ngoại, ít nhất những đoá hoa này phải có dịp nởcho đồng bào hải ngoại thưởng thức. Hoà thượng Mãn Giác và các anh như Bùi Ngọc Đường (không phải Bùi Ngọc Đường em nuôi tôi hồi ở Việt Nam) trong Ban biên tập tờ Phật giáo Việt Nam và tờ Khai phóng ở Los Angeles, quá sức phấn khởi và xin phép in lại ở Hoa Kỳ. Tôi gửi bản thảo cho các anh mà dại dột quên giữ bản photocopy, nay lạc mất địa chỉ anh Đường rồi và tôi nghĩ anh cũng không giữ làm gì, có thể đã quăng mất rồi. Tôi nhớ đã gửi về Việt Nam được một vài quyển Tắm mát ngọn sông Đào của Nhà xuất bản Lá Bối hải ngoại in ở Pháp do tôi đánh máy và Thầy bỏ dấu Việt Nam, nhưng chưa thấy mặt quyển nào in ở Hoa Kỳ. Một hôm, từ Việt Nam, Hoàng Hải Thuỷ mượn được, đọc một lèo, sướng rân, vì trong ấy bí danh anh là Con Trai Bà Cả Đọi mà, và cười ha hả chọc quê thầy trò nhà này: “Ôi! ôi! cô Phương Hương ơi, con em Việt Nam mà về tắm ngọn sông Đào bây giờ thì nó không mát mà sẽ nhiễm độc chết luôn tức khắc!” Ý của thầy chúng tôi là những con em Việt Nam dù là những đoá hoa kỳ diệu mấy, hay là những loài cây có nhiều tàn lá sum suê, nhiều sắc màu ở hải ngoại thì cũng nhớ đừng quên gốc rễ. Gốc rễ người Việt là sông Đào, sông Đuống, là đồng bằng sông Cửu Long, là dãy Trường Sơn uy dũng… Phải về mà tắm mát tận ngọn nguồn của mình. Tắm sông Đào để trải nghiệm được sông Đào giờ ra sao. Khi tôi thưa với thầy Quảng Độ là thiên hạ rất thích những bài thơ của Thầy, dĩ nhiên là tôi nói bóng gió, “con chia sẻ cho các bạn con những cái bánh bao mà bác tặng, họ quá thích”, thầy đã trả lời: “Nghe các cháu thích món bánh bao của bác, bác sướng phồng mũi lên!”

Việt Nam Phật giáo sử luận

Trong tăng thân tuy có dư người có thể đánh máy sách của Thầy nhưng tôi vẫn giành phần đánh máy quyển Việt Nam Phật giáo sử luận, vì trong tác phẩm này Thầy dạy về lịch sử Phật giáo mà không chỉ là lịch sử. Từng bài kệ của từng thiền sư được Thầy chúng tôi chú giải thâm sâu vô cùng. Có khi Thầy cũng khám phá ra bài thơ của một vị thầy này là lấy của một thiền sư bên Trung Quốc. Chúng tôi vừa học lịch sử, vừa học Phật pháp, nhờ thế vừa được tu. Thầy cũng in lại quyển Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục nữa. Quyển Am mây ngủ nói về thâm tình của vị vua Bồ tát Trần Nhân Tông, nhường ngôi cho vua con là Trần Anh Tông nhưng lúc nào cũng nghiêm mắt nhìn về cách trị dân của ông vua con, sao cho đủ tinh tấn và từ bi. Phần quan trọng nhất là ngài đi thăm từng thôn làng, dạy dân giữ năm giới và mười giới thập thiện, bỏ bớt những mê tín dị đoan. Ngài chịu khó đi thăm nước láng giềng, hoá giải những mâu thuẫn giữa hai nước. Có khi tôi đọc cho má tôi nghe từng đoạn của Am mây ngủ. Má tôi nghe và rất thích. Chỉ có điều bà cụ hay quên rằng đây chỉ là chuyện trong sách. Có khi má tôi hồi hộp hỏi: “Sao? có cứu được công chúa Huyền Trân khỏi bị hoả thiêu không con?” Má tôi mừng quýnh khi nghe cuối cùng công chúa Huyền Trân khỏi bị hoả thiêu.

Tôi cũng hay chở má tôi, bé Thuỷ, bé Minh Tâm đi chợ trời ở Troyes và sau này đi chợ Sainte Foy La Grande đông vui như hội chợ ngày xưa. Thiên hạ bán rau bó xôi, bắp cải, nấm, cà rốt, courgettes, khoai tây và những quả dưa melon, dưa hấu, táo, đào, kiwi ngoài trời… bán đủ những loại hoa xinh xinh còn nằm trong chậu và nhiều quầy áo quần giày dép cũ… cũng ở ngoài trời như các chợ quê ở Việt Nam vậy. Rồi chợ cũng có người rao hàng như các người rao bán thuốc ở Việt Nam vậy.

Cứ mỗi khi tôi ra bưu điện là mỗi tay tôi xách chín mười gói hàng. Các cô nhân viên bưu điện rất phục tôi vì tôi dán tem rất đúng tiêu chuẩn cho những hộp 1 ký và theo đúng quy luật khai thuế như thế nào khi phải gửi loại 3 kí, 5 kí. Và mỗi khi họ kiểm soát, thấy không thế nào thêm bớt gì cả, có vị nói: “Cô giỏi quá, cô có muốn làm việc cho bưu điện không?”

Thư Lê Thương viết ngày 2 tháng 6 năm 1981

“Đêm nay, 1 giờ đêm ngày 2.6 tôi phải buộc tôi ngừng mọi việc để biên thư cho PH vì từ mấy tháng cứ say sưa quá đáng về hoàn thành cuốn sách đánh máy mãi chưa xong.

Đã bao lần ngồi dưới vũng sáng của chiếc đèn bàn giấy, tôi nhớ là chưa viết nổi cái thư. Rồi lại có một ý nghĩ về chữ này chữ nọ chưa ổn trong cuốn sách cần phải sửa đi sửa lại, thế là trí óc lại du hành vài dặm cho đến lúc gật lên gật xuống trên tấm giấy mà lăn thẳng 2 chân trên chiếu ngủ. Tội quá, lúc này hứng làm việc cho một công trình biên soạn nó áp chế tâm thần đến cái mức độc tài. Rồi tôi lại tự an ủi bằng ý nghĩ là P.H sẵn lòng từ bi mà bỏ qua sự nín lặng kéo dài ấy.

Thân đã già, trí óc còn khá minh mẫn, nhiều việc làm còn bỏ dở mà không vội vã làm cho xong thì cũng sợ là lúc sút kém tinh thần thì còn gì là thời gian với thời thế. Âu là lại cái câu “gặp thời thế thế thời phải thế” vậy.

P.H còn lo bệnh viện, lo cho bác và các cháu nên chẳng có chút thư nào cả vì đâu còn giờ rảnh nữa, như vậy đến phiên tôi mong đợi cho quen cũng phải, mà từ độ ấy gửi mấy cái hoạ phẩm nhỏ của MĐK và 1 bài tuỳ bút nhan đề “Âm ba gờn gợn sóng” cũng không biết là có tới được Fontvannes hay không mà còn toan gửi tiếp vài ba chuyện đã viết và đánh máy lại, xong thật quả là tôi rất mong PH cho biết là các thứ đó đã tới chứ không bị ngăn lại để tôi chuẩn bị gửi tiếp. Vì không biết tại sao, lúc này thư ở nước ngoài bay lại tôi phải mất khoảng 3 tháng nên tôi rất sợ là thư tôi đi ra còn la đà khoảng 6 tháng thì mới đậu xuống bãi cỏ xanh nào đó.”

Lo thư và các bản nhạc không tới, lo thư bị kiểm duyệt. Trách khéo là vắng thư tôi – thư tưới hoa do Thầy viết giúp (!) Đó là lẽ vui buồn của anh, và gián tiếp xin lỗi không viết nhiều cho tôi được vì sợ bị kiểm duyệt.

Chuyện Sè Goòng thì lúc này có mưa rào đôi khi, nhưng ngày nắng vẫn nóng 33 độ C, chỉ có tới mưa thì mới xuống 28 độ

C. Dân ăn nhậu vẫn khá đều, điện thì có cúp ba ngày (ban ngày mà thôi) và một đêm. Ở phố tôi, bị cúp thứ 6, 7, chủ nhật từ 6 giờ sáng đến khoảng 17 giờ 30 và trọn đêm thứ ba, các quận khác thì cũng tuỳ phố mà thay nhau mua quạt để phe phẩy cho nó dzui. Còn đêm thứ Ba thì tôi bò ra lan can ngủ, được nhìn sao trở lại nhưng nguồn thơ im bặt, dế kêu quá xa nên muỗi tới thăm đôi khi cũng bận rộn.”

Lá thư 2.6.1981 trên rất dài, toàn kể chuyện ma, nhưng cuối lá thư anh bảo là có gửi cho tôi một chuyện anh viết nhan đề Nàng Ngọc Thạch. Anh nói anh biết anh đã lớn tuổi nhưng “vẫn tự gạt mình là vẫn còn trẻ”. Tôi thì thấy anh còn trẻ thật. Anh viết:

“Tôi đã viết từ lâu một chuyện huyền hoặc nhan đề “Nàng Ngọc Thạch” chờ gửi cho PH. Nàng là vị tiên đi cứu khổ. Song xuống cõi trần đã thấy bao nhiêu là biến đổi vì các lẽ sinh tồn chôn chung cùng tiêu diệt. Kể từ bùn lầy nguyên thuỷ cho đến những kỳ sôi sộng phũ phàng của chiến tranh tiêu diệt. Thất chí, nàng đành trở về cõi tiên… và khi bay về trời đã để rớt bao nhiêu là giọt nước mắt thương đời… Nước mắt nàng đọng cứng trên núi đồi trần thế thành đá ngọc thạch nhiễm đủ các mầu ngũ sắc đẹp đẽ trên tay trên cổ trên tai các bà, những “loài làm mẹ” để sinh tồn mặc dầu đâu đâu cũng có tiêu diệt.

Tôi mong “Nàng Ngọc Thạch” có ngày đến tay P.H

(Nếu sự kiểm duyệt cho phép) vì đó chỉ là một truyện cho tâm tưởng thương đời.

Trở về chuyện thư tin, tôi rất thắc mắc là từ khoảng nửa năm nay có gửi 1 bao thư với 2 bức hoạ nhỏ cuối cùng của MĐK mà chưa biết thư đó có tới PH không. Nếu không thì chắc là mất rồi. Vì từ lâu có phòng thông tin văn hoá ở sở Bưu Điện để xét qua những văn phẩm, sách báo… Khi được phép, có đóng dấu thì mới ra được ngoài. Nếu gửi đại mà không có qua phòng đó thì bất cứ thứ gì từ băng nhạc đến sách báo đều tuỳ nghi sử dụng của phòng hoặc bị bỏ đi vì thư tin lúc này bị kiểm soát rất kỹ. Lời nói từ ngoài vào, từ trong ra phải cẩn thận không thì thư không đi được mà cũng không trả lại.”

Khen và cám ơn rất khéo, rất có tư cách và cũng khéo nói muốn thâu băng nhạc mà nghèo mạt rệp.

“Bưu phẩm cuối cùng của PH trong đó có ba cái quần soie làm giới phụ nữ tại nhà tôi “lên mặt quá chừng, bà xã cũng tỏ vẻ muốn kên” các mụ bán rau ở chợ Thái Bình làm cho rau muống, rau dền, rau ngót đem về nấu canh cũng xoa Pháp ăn dại thấy mồ. Bề ngoài tôi lên giọng chê cách may mặc qua loa cho nó có vẻ ông già, chủ sự gia thất nhưng trong bụng càng tấm tắc khen PH khéo chữa cả bệnh tâm lý cho phụ nữ, nhưng cũng có lời can gián PH đừng tốn kém chi nhiều mà khổ cái túi tiền đã cạn lên cạn xuống từ bao lâu vì quà tặng các ông nghệ sĩ.

Tôi bực mình vì lúc này đã nghèo mạt rệp có băng nhạc mà chưa đi thâu nhạc được vì phải làm extrait từ băng lớn ra, mà bài thì ở rải rác chỗ này, chỗ nọ trong nhiều cuốn khác nhau, song chắc từ nay đến hết 1981 cũng phải xong.”

Khen vợ tế nhị và dí dỏm

“Bà nhà tôi lúc này hay tê mỏi và có đi châm cứu cho nó đỡ phần nào. Song bả rất chịu uống Nevriton hơn hết, xin PH cho bả ít nhiều cho đỡ xắp nhỏ đấm bóp bà như đập trống jazz coi mà tan cả nhạc hứng. Biểu bả chích Sandoz bả cho bán phức đi lúc nào không biết, nói là “để mua gạo” làm phẫn uất lòng dân trong nhà, cả dân ông xã, nhưng tất cả đều bất lực vì lý do bất khả kháng mà bả đã long trọng tuyên bố.

Tôi thì vẫn phây phây được bả săn sóc như cái vẻ “ninh ông”. Lắm lúc tôi chợt nghĩ: À hay là bà này ra cái vẻ cho mình ăn uống ngon lành (mặc dầu đã về hưu và lương hưu chưa được vài ngày chợ) là có ý nghĩ cho mình ăn uống như vậy để có tắt lúc nào bất ngờ khỏi ân hận chăng? Nghĩ “đột xuất” như vậy tôi liền phản ứng tinh thần liền “Coi bộ dễ tắt lắm sao? Tôi còn giành nhiệm vụ chôn nhiều người bạn già trước khi được nghỉ cơ mà. Ai cho đi sớm mà đã vội nghĩ đến hành trang qua núi, sắm “sơ mi gỗ” rầm rộ cho nó phiền”.

P.H ơi đời lẩm cẩm có lắm lúc nó như vậy thì năm tháng chạy vùn vụt trong một thế giới đầy khẩn trương, nhớ lại cái câu “Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống đã chầy hay chưa” mà những trái tim già như tôi vẫn thấy phập phồng, 50 phần trăm mong đợi, 50 phần trăm nản lòng… Nhìn cái thế tình sắc sắc không không mà càng nhận chân được cái lẽ thoảng đưa mọi vật mọi loài về một chân lý Phật.”

Bưu thiếp

“Bưu phẩm PH đã tới ngày 29.9.81 như một đám mưa tưới vào mảnh đất khô đang héo hon, làm cho cả bộ lạc Bùi Viện đều hướng phía vườn Khoai Lang mà hô “hết xẩy”. Lá thư tôi viết mãi chưa xong cũng đang chạy từ từ đến hoàn tất để theo bưu ảnh này. Từ sáu, bảy tháng nay tôi lo hoàn tất một cuốn sách và tâm trí đều dồn vào đó hết nên đã vắng tiếng một cách khó hiểu.”

Đốt vàng mã dịp Vu Lan

Thư Lê Thương viết ngày 30.08.1981

“TP Hồ Chí Minh 30.8.81

Ngày 22.8 vừa qua là ngày tôi giỗ mẹ. Gia đình tụ họp khá đông đảo để kỷ niệm, ăn bữa cơm thịnh soạn bất thường và kiểm điểm sức khoẻ của nhau trong nụ cười thân mật. Rằm tháng 7, có vài bạn già cán bộ thân quen từ xưa đem đồ nhậu lại nhà tôi gặp gỡ hàn huyên rất cởi mở. Cuối tháng 7 bà xã và con gái tôi mới cúng cô hồn. Cũng đốt ít giấy tiền vàng bạc, cũng đốt ít đồ mã hình kiếng đeo mắt, đồng hồ vàng, viết máy… cho thằng con trai tôi chết 24 tuổi năm 1977. Tôi không hề tin những thứ đó có thể ích lợi gì người quá cố nhưng cũng thấy nao nao cảm động là thấy “má nó lo cho con” bên kia kiếp, như khi nó còn sống. Thế là quên cả dị đoan mà chỉ nghĩ đến phần tâm linh hệ trọng của lễ Vu Lan.

Lúc cúng cô hồn, con gái tôi có đứa con chết lúc bốn tuổi, nó phát bánh kẹo và tiền cho trẻ em hàng phố, tôi lại cảm thông với phong tục. Không ai bắt buộc gì, nhưng bỗng nhiên nghĩ tới những kẻ vong linh, những “cô hồn” không ai cơm cháo mà thí cho chút cơm cháo, bánh quà tượng trưng gì đó cũng là phương cách cụ thể đã dùng để thể hiện sự từ bi bác ái, chứ còn gì nữa.

Dân gian với tấm lòng đơn giản, không đi đến cao siêu của đại thuyết tôn giáo thì cũng tìm cách thi hành một số điều đạo lý. Ngày 30.8 cả gia đình tôi sẽ lên thăm mộ cậu con trai tuổi Tỵ chết 24 tuổi vào đúng năm Tỵ. Nó có trên tay trái một vết đường đời (ligne de vie) đứt đoạn ở khoảng giữa từ nhỏ, tôi lưu ý đến chỗ đứt và lo cho số phận nó. Lớn lên nó khoẻ mạnh, đô con, làm biếng học nhưng thi đua honda, thể thao và thích máy móc. Lúc đi lính đào ngũ 2 phen, bị tù trốn lính, ở các nơi nguy hiểm bị pháo kích mà vẫn phây phây. Đùng đến năm tuổi của nó, bị sốt xuất huyết, lại vào nhà thương có toàn bác sĩ cách mạng không quen chữa thứ bệnh này. Nó chết, tôi đẩy xác nó ra một nhà xác u ám vào 5 giờ sáng mà nhớ mãi nó không bao giờ quên.

Không tin cũng phải xác định với lương tâm là người ta có số mệnh, một thuyết còn âm u nhưng đối với ai đã trải một cuộc đời dài dặc như tôi thì vẫn đinh ninh là việc đó không tin không được.

Những năm tuổi mà tôi đã gặp từ nhỏ đến nay, đã bao nhiêu tai nạn xảy ra, đã chết dăm bảy lần mà vẫn sống đến nay.

Có người nói vài tai nạn của người trong thân thuộc là họ chịu để thay thế cho chính mình. Điều đó không chắc nhưng tình cảm làm người cũng cảm thấy cảm ơn một sự ngẫu nhiên được chủ quan giải thích có nhã ý và nhân từ từ cõi siêu hình nào đó.

Tại sao đó lại không có thể là những kết tinh của các luồng giao cảm trong trời đất, lựa lọc trong một lúc nào đó những sinh vật có một trong nhãn hiệu của Ngũ Hành mà nhận diện (hay quang tuyến “aura” yếu mạnh không cần thiết) để cho nhập vào tiêu diệt theo một lẽ quân bình nào đó của vũ trụ của xã hội, của mỗi gia đình…

Tôi cảm thấy như thường nói là “những ai còn sống là kẻ còn nhiều nhiệm vụ hữu ích nào đó còn làm chưa xong, còn kẻ mất đi không chừng cõi thọ ngắn ngủi cũng chỉ do một lý do thừa thãi nào đó mà thành sinh linh trong cõi âm cân đối với cõi dương của trần thế”.

Những ý tưởng nói trên chỉ là sự vu vơ của suy nghĩ, nhưng mỗi kỳ lễ Vu Lan tôi thấy tự nhiên phải đào thêm chút nào vào cái lẽ sinh lý tử quy mà góp niềm tâm cảm vào ý nghĩa nhân hoà đối với cả tin tưởng dân gian. Dị đoan đấy nhưng từ linh cảm nhân quần cứu độ giữa âm và dương, nó là một hình thái của từ bi Phật pháp mà dân gian với lòng đơn giản đã hiểu lệch sang một bên, làm lợi ích nhiều cho người làm đồ mã và giấy tiền vàng bạc tràn trề để tạo cả một lạm phát bên kia thế giới.

P.H đừng cười những câu nói có vẻ suy tư mà không có khôi hài vừa nói trên. Tôi nghi P.H đã tìm ra một chân như cao đẹp và nếu tôi không lầm thì cả một sự diệt dục thanh thản làm cho P.H lãnh đạm cả với việc lập gia đình? Chẳng ai nói gì về P. H cho tôi biết mà tôi cũng chẳng cần hỏi làm gì cho nó mất một hư ảo thi vị và đáng quí trên các thứ phàm tục của thế trần hiện tại.”

Đọc những lời chiêm nghiệm về việc đốt đồng hồ, kiếng đeo mắt, bút máy hàng mã, tôi cảm động vì thấy anh có những phán xét tuy khách quan nhưng rất từ bi về tình người và cảm thấy anh thật như những người tri kỷ.

Tôi rất muốn chia sẻ cho anh nghe thao thức của Thầy trò chúng tôi về chuyện phải làm một nơi tu học để gìn giữ lại những giá trị tâm linh đạo đức của đất nước đang mất dần vì chiến tranh và bây giờ càng mất hơn vì những cuộc đổi thay quá lớn cho cả mấy chục triệu người con Việt Nam. Tôi muốn nói ‘‘Anh Lê Thương ơi, ngay từ những năm 1970 khi Thầy trò nhà nông trại Khoai Lang này còn có hàng ngàn bạn bè trẻ ở Việt Nam đang lo cứu trợ, lo công tác phát triển cộng đồng của trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, Thầy chúng em vẫn căn dặn phải có một nơi tu học để giữ cho tâm bình an trong ba đào, để cùng phác hoạ một hướng đi. Năm 1972, Thầy đã viết cho những tác viên xã hội bạn của em ở Việt Nam, con của Thầy, đang quá bận rộn lo công tác cứu trợ mà cũng đồng thời lo những nơi tái thiết phát triển: “Những người rất bận rộn không chỉ cần có một ngày trong mỗi tuần để dừng lại, nghỉ ngơi cho tỉnh táo, họ còn cần có một tháng trong mỗi năm nữa. Chắc Thiều còn nhớ lá thư tôi viết để trả lời thầy Châu Toàn về dự tính lập Làng Hồng. Làng Hồng là một quê hương tâm linh cho người tác viên xã hội, cũng như Phương Bối là quê hương tâm linh cho chúng ta ngày xưa vào những năm 1950 vậy. Chúng ta cần có Làng Hồng để trở về sau những lần đi công tác phương xa. Tại đây ta trồng cây, trồng rau thơm, đi bách bộ với trẻ con trong làng, thực tập quán niệm và thiền toạ. Thầy Châu Toàn trong một lá thư viết cho tôi đã rất phấn khởi với dự tính ấy, và đề nghị gọi khu làng quê hương tâm linh này là Làng Thanh niên Phụng sự Xã hội. Thầy có nói rằng: Khu vực chọn lựa có thể nằm gần miền cao nguyên và như thế có thể hợp nếu trồng cây Hồng. Tôi nói như thế thì đặt tên làng là Làng Hồng nhẹ và đẹp hơn tên kia. Thầy Châu Toàn là một nghệ sĩ cho nên tôi rất tin cậy nơi thầy về khía cạnh tạo dựng vườn cảnh nghệ thuật của làng. Tôi có dặn thầy nên giữ tất cả những tảng đá lớn nhỏ có mặt trong khu đất, dù dưới suối hay trên đồi và cũng dặn thầy đi đánh dấu tất cả cây lớn nhỏ nào có giá trị nghệ thuật để giữ lại. Làng sẽ có công viên, rừng và rất nhiều con đường đi bộ. Tôi ưa trồng rau thơm lắm. Tôi sẽ trồng nhiều thứ rau thơm: ngò, quế, húng, tía tô, kinh giới, tần ô, rau răm, lá lốt. Tôi cũng sẽ trồng cây lá dứa thơm, sả, một giàn mướp đắng, một giàn bầu và mướp ngọt, và có thể có cả một giàn hoa lý trước nhà. Thiều cười tôi đang sống với tương lai phải không? Đúng đó. Nhưng tôi cũng đang sống với hiện tại. Bên này tôi cũng trồng đủ thứ rau thơm. Thiều và các bạn nên xúc tiến việc thành lập Làng Hồng để tu học đi, chúng ta sẽ tổ chức sinh hoạt cho trẻ con và tạo nề nếp sinh hoạt tâm linh cho mọi người. Làm sao để mọi người khi về tới Làng Tu học là cảm thấy thoải mái. Trong một tháng cư trú tại Làng Hồng, ngồi thiền, đi thiền hành, đọc sách, rũ bỏ mọi bụi bặm phiền não, luyện thêm hiểu biết và thương yêu…” Như vậy là vào khoảng năm 1972 ước mơ của những người ưu tư cho nền đạo đức của đất nước đã có, và hiện tại tăng thân Phương Vân Am nơi Phương Hương và các bạn ở và cùng tu học với Thầy chúng em – Thiền sư Thích Nhất Hạnh – đã quyết chí xây dựng một nơi như thế, trên nước Pháp, nhưng sẽ phải khá lớn để có chỗ tu học cho vài trăm người”.

Tôi đã định viết chia sẻ với anh Lê Thương như thế, nhưng cũng như anh, sợ bà kiểm duyệt đọc và biết tôi là học trò của Thầy thì sẽ làm hệ luỵ tới anh.

Năm 1971, chính phủ miền Nam vô hiệu hoá hộ chiếu của Thầy của chúng tôi. Không thể trở về Việt Nam được nữa nhưng tình thương thì trước sau vẫn như một, Thầy và những học trò vẫn đi khắp nơi để nói lên tiếng nói thay cho những người dân đang chạy dưới làn bom đạn.

Vào năm 1982, nhiều tổ chức ở Mỹ mời Thầy chúng tôi tham dự ngày diễn hành cho hoà bình chống vũ khí nguyên tử tại New York. Hơn nửa triệu người Hoa Kỳ cùng tham dự cuộc diễn hành đó. Thầy cùng tôi, Chân Ý Nguyễn Anh Hương, Arnie Kotler, Therese Fitzgerald, Allan Badiner cùng một số đệ tử và Phật tử Hoa Kỳ, học trò của thiền sư quá cố Suzuki cùng đi chung. Với tinh thần Reverence for Life (trân quý sự sống), Thầy dạy mọi người phải thật tình có bình an (Being Peace) thì mới đi cho hoà bình được (Walking for Peace). Thầy dạy rằng “Đi cho hoà bình thì mình tập cho tâm mình bình an, đi trong tinh thần bất bạo động, không la ó, không vội vã, mỗi bước chân đi phải chế tác được năng lượng bình an và từ bi, và đó là pháp môn thiền đi”. Ngày diễn hành, đoàn do Thầy và thiền sư Baker Roshi dẫn đầu đi rất thảnh thơi. Nửa triệu người diễn hành phía sau không thích lắm vì đi chậm quá! Họ vượt qua mặt, rồi quay lại định mắng thì thấy đoàn người đi theo Thầy mang tấm băng rôn rất đẹp với dòng chữ “Reverence for Life” và miệng thì cười tươi toả rạng từ bi. Sau đó có nhiều nhóm tập đi chậm lại, thanh thản lại và viết nhiều bài báo rất trân quý về Thầy và nhóm của Thầy. Cũng trong chuyến đi đó Thầy ghé thăm hoà thượng Mãn Giác trong một ngày gặp mặt các vị xuất sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ. Lần đó Thầy đã tâm sự với đông đảo chư tăng ni tại đó rằng: “Người tu mà không có một nơi để tu học mà chỉ biết thờ phụng và cúng vái thì khó mà đi xa được trên con đường thành tựu đạo nghiệp và độ đời.” Hứng khởi từ lời chia sẻ của Thầy mà sau đó thầy Tịnh Từ đi tìm đất và bắt đầu xây dựng tu viện Kim Sơn. Với lời mời của thiền sư Baker Roshi (một vị thiền sư người Mỹ, trưởng tử của cố thiền sư Suzuki người Nhật), một số thiền sinh Hoa Kỳ đã đứng ra tổ chức mời Thầy đi dạy trong nhiều tiểu bang Mỹ. Từ đó, mỗi hai năm một lần Thầy qua Mỹ dạy Thiền Chánh niệm Việt Nam cho người Hoa Kỳ. Lần nào cũng có bảy hay tám khoá tu cho người Mỹ và hai khoá tu tại tu viện Kim Sơn: một khoá cho xuất sĩ và một khoá cho cư sĩ. Sau chuyến đi Mỹ năm đó thì rất đông người muốn theo học với Thầy. Thư thăm hỏi và xin đến học với Thầy gửi về tới tấp. Nhiều nhóm người Hoa Kỳ muốn cúng dường đất, cúng dường trung tâm để Thầy mở trung tâm thực tập chánh niệm bên Hoa Kỳ. Vì am Phương Vân quá nhỏ nên Thầy muốn lập Làng Tu học ngay để nhiều thiền sinh có thể đến tu học.

Vai trò của xóm Phương Khê và làng Tu học

Hồi này thầy chúng tôi nhất định phải di cư về miền Nam tại vì Phương Vân Am không đủ chỗ để tổ chức một khoá tu học cho nhiều hơn năm mươi người (kể cả mười lăm người thầy trò chúng tôi).

Hễ có 35 người bạn mới xin đến tu, thì tối chủ nhật hay sáng thứ hai tuần sau phải chở 35 người cũ ra ga! Thầy trò thấy rõ nhu yếu phải tìm đất ở miền Nam để thiết lập một trung tâm tu học. Công việc càng lớn càng đem lợi lạc cho nhiều người, mà đất Phương Vân Am quá nhỏ. Miền Nam sẽ ấm hơn và có nhiều mặt trời hơn. Và nghe nói vì nông dân bỏ ruộng vườn lên các thành phố lớn làm thợ để có lương bổng nhất định, nên giá một thước đất thổ canh chỉ còn một Franc thôi.

Ban đầu chúng tôi đi xuống miền Đông Nam. Vì nhìn trên bản đồ thấy miền này có trời trong và nắng nhiều. Chiếc xe Diane hai ngựa và bốn chỗ ngồi đi về miền Aix en Provence, Marseille… thì gặp gió Mistral. Mistral là tên một thi sĩ nổi tiếng vùng này, nhưng gió Mistral mạnh quá, có khi muốn thổi bay cả chiếc xe Diane mong manh của thầy trò chúng tôi. Cũng vì lý do đó mà tăng thân đi luôn qua miền Tây Nam. Sau nhiều ngày tìm kiếm, viếng thăm khoảng năm mươi cơ sở bất động sản, chúng tôi mới tìm được Phương Khê ở miền Gironde, sau này trở thành Xóm Phương Khê làm bàn đạp để chúng tôi tìm ra Xóm Thượng và Xóm Hạ Làng Mai sau này.

Phương Khê ngày xưa vốn là một nhà thờ Tin Lành. Vì bên phải khu đất có dòng suối nhỏ nên Thầy đặt cho tên là Phương Khê (Fragrant Creek). Đất của Phương Khê có

11.200 thước vuông, với ba khu nhà cổ nhưng chỉ có khu nhà chính là khá đồ sộ và còn tốt, hai khu kia hoang tàn chỉ có nóc nhà còn tốt thôi. Nhà được xây năm 1887, tuy bên trong có điện nhưng chưa có nước của thành phố, phải lấy nước từ cái giếng bơm tay bên ngoài. Nhà vệ sinh cũng là một nóc nhà nhỏ ngoài vườn cách khu nhà lớn 5 mét, Không có hệ thống sưởi trung ương. Qua nhiều năm xây dựng, Phương Khê đã trở thành nội viện chỉ dành riêng cho chúng xuất sĩ, có đến ba thiền đường, một thư viện, một nhà in, hai cư xá và có chỗ cho quý thầy chơi đá banh. Ở đây có dòng suối Phương Khê, có rừng tre, có lavoir (hồ giặt áo quần trên suối) lấy nước từ dòng suối rất thơ mộng, nhưng mọi người trong tăng thân ai cũng ưa giặt máy cho tiện và sạch hơn nên khi lavoir bị bão làm sập nửa mái hư hao nhiều, chúng tôi dẹp sạch luôn. Quý sư cô thích cắm lều ngủ bên rừng tre và nghe tiếng suối róc rách. Ngày nhận Phương Khê, chúng tôi đã gom được trên 25 cây Thánh giá trong các phòng và đem tặng cho bên nhà thờ.

Phương Khê có đến 13 phòng lớn, tường dán giấy hoa, dù xây cất từ năm 1887 nhưng các phòng khá sạch sẽ, tàng trữ được rất nhiều hồ sơ của Phái đoàn Hoà bình tại Hội đàm Paris từ 1968 đến 1973 mà không phải tốn thêm tiền sửa chữa như ở Phương Vân Am. Thời gian ấy, Thầy làm đại diện cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nên vừa làm việc với Viện Hoá Đạo Giáo hội Trung ương, vừa làm việc trực tiếp với Giáo hội Phật giáo các tỉnh miền Nam từ Quảng Trị cho đến Cà Mau. Rất nhiều thư từ qua lại với Uỷ ban Tái thiết và Phát triển Xã hội của Giáo hội, với 42 Tỉnh Giáo hội sau khi Hiệp ước Hoà bình được ký kết tháng 3 năm 1973. Tuy đã ký kết nhưng hai bên vẫn tiếp tục đánh nhau cho tới tháng 4 năm 1975.

Sau đó là những liên hệ kín đáo với chư tôn đức trong nước. Tài liệu những cuộc họp báo thông tin của Phái đoàn Hoà bình này đều được đem hết về lưu giữ tại đây từ tháng 11năm 1978. Kho tài liệu này của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ 1969 đến 1989 rất quý giá cho sự nghiên cứu Phật giáo hiện đại.

Tuy chuyển được những tài liệu quý giá về Phương Khê, nhưng Thầy và tăng thân vẫn tiếp tục sống ở Phương Vân Am vì các khoá tu hằng tháng vẫn phải tiếp tục ở Phương Vân Am. Mãi cho tới khi mua được đất Làng Hồng Xóm Hạ, Xóm Thượng thì mới dời các khoá tu về Làng. Lo chuyện tu học thì phải tìm nơi có đất thênh thang như Xóm Hạ, Xóm Thượng.

Sau này, ngay khi có hai Xóm Thượng và Hạ, Thầy đã quyết định: Phương Khê là Nội viện, chỉ những người được chọn lọc, có phép mới được đến, còn Làng là nơi mọi người, bất cứ ai có tâm tu học đều có thể đến.

Phương Khê sẽ có nhà in, có vườn rau, có sự tiếp tục chương trình giúp trẻ em mồ côi, trẻ em đói, có sự tiếp tục giúp chư tôn đức ở nhà về tinh thần cũng như về thuốc men và giúp các văn nghệ sĩ trong Nam cũng như ở ngoài Bắc với mục đích là gây niềm hứng khởi lại cho họ, để họ có thể sáng tác. Nhưng những việc này phải làm cho kín đáo, tế nhị. Khi mở cửa ồ ạt cho thiền sinh về Làng thì không cần phải mời họ tham dự vào những công tác này. Họ về tu là để tu thôi, thở và cười và an trú trong phút giây hiện tại, nhìn kỹ người thương, nhìn sâu vào tương lai con cái của họ, không đem chuyện chánh trị phe phái bên này bên kia vào. Nhưng mỗi mùa hè có một ngày tưởng niệm thuyền nhân khiến các cháu Việt Nam sinh tại hải ngoải thương cảm và hiểu cha mẹ nhiều hơn, học hành giỏi hơn cho tới nỗi hễ gia đình nào có con hư thì được các bạn khác khuyên “nên gửi nó về Làng đi, khi đi tu về nó sẽ khác”.

Chiếc máy quay phim đầu tiên

Lúc đó cháu Bích con chị Tám tôi ở Andorre đã gửi đến Thầy chiếc máy quay phim đầu tiên vừa xuất hiện. Như một chú bé vừa khám phá món đồ chơi mới, Thầy rất vui, thu hình những nụ hoa nhỏ xíu bên đường, hiện ra thành những đoá hoành tráng mỹ miều rất xinh. Những mạng nhện mong manh điểm những hạt sương li ti thật diễm ảo Thầy làm phát hình ra như mạng lưới giăng tơ trời. Thầy thu hình dòng suối Phương Khê bên ngoài nhỏ xíu mà lên phim xem như dòng thác. Thầy quay hình các cháu như bé Thơ, bé Sâm và bé Thanh Trang chạy nhảy bên bờ suối Phương Khê. Bé Thơ mới 11 tuổi xinh ơi là xinh, khiến Thầy tốn phim quay cô bé lâu quá. Nguyễn Đình Đức, Anh Hương và bé Anh Chân cũng được Thầy quay phim đứng bên cây đào, cây táo ở Phương Khê. Khi zoom lớn lên, mặt các cháu nào càng trẻ thì càng đẹp. Quay xong vào nhìn lên ti vi ai cũng trầm trồ khen chuyên viên điện ảnh quay phim thượng thặng, mà tài tử ‘‘Trang, Sâm, Thơ, Anh Hương, Đình Đức cũng đẹp thượng thặng’’.

Cũng tại Phương Khê, Nguyễn Anh Hương được thọ 14 Giới Tiếp Hiện với pháp hiệu Chân Ý.

Nhưng tại Phương Khê, Thầy rủi ro bị bệnh hơn bốn tháng trời. Bác sĩ Brock đã điều trị cho Thầy. Hồi đó Thầy đang viết truyện Tùng nói về quốc sư Ngộ Đạt. Viết đến đoạn quốc sư bỏ tất cả công danh phú quý, lên đường đi bộ nhiều ngày nhiều tháng để đến núi Cửu Lũng, dừng chân xin nghỉ đêm tại tam quan chùa Pháp Vân, quốc sư xin sư chú Tâm Thể một chiếc chiếu để đắp, ngủ tạm qua đêm… thì Thầy bị bệnh chóng mặt trầm trọng, bỏ tác phẩm nửa chừng. Thầy hay nói đùa: Ui chà mình bắt quốc sư ngủ dưới mái tam quan chùa Pháp Vân lâu quá rồi… May quá, sau bốn tháng, Thầy hết chóng mặt và bình phục, Thầy mới viết tiếp và hoàn tất câu chuyện và đưa quốc sư lên được tới núi Cửu Lũng. Thầy đã trồng được ba cây tùng lớn, loại Cedrus Deodara – tuyết tùng Himalaya để kỷ niệm cho thời gian viết chuyện Tùng ấy. Thầy còn trồng thêm trúc và thêm ba cây tùng nữa cũng thuộc giống tuyết tùng Himalaya, và một cây tùng bút rất đẹp làm cho vườn cảnh ở am Phương Khê nên thơ, vừa hùng dũng vừa huyền bí.

Phác hoạ lại con đường trước mặt

Tuy Thầy tiếp tục viết sách nhưng lúc nào Thầy cũng dành ra rất nhiều thời giờ cho lao động chân tay như làm vườn, trồng cây, in sách và đóng sách. Với Thầy làm việc lao động cũng là tu, để Thầy có thời gian tĩnh tâm, phác hoạ lại con đường trước mặt. Viễn tượng về lại Việt Nam còn xa xôi nên Thầy muốn mở rộng con đường hoằng pháp tại Tây phương.

Thầy cứ giục chúng tôi, nhất định tìm cơ sở thành lập một trung tâm tu học có tầm vóc quốc tế.

Xóm Thượng và Xóm Hạ có mặt

Thế là Thầy tiếp tục đi tìm đất. Từ Dieulivol Thầy đi về hướng Duras và cuối cùng tìm ra được một quả đồi khá rộng ở thôn Thenac thuộc xã Sigoules, tỉnh Dordogne. Sau này Thầy đặt tên mảnh đất ấy là Thệ Nhật sơn Pháp Vân tự, chữ Thệ Nhật rất gần âm với chữ Thenac. Thầy rất thích miếng đất này vì nó nằm trên một cái đồi cao, buổi sáng thấy được mặt trời mọc và buổi chiều có thể ngắm được cảnh mặt trời lặn, lại có rừng cây bao bọc xung quanh rất kín đáo và yên tĩnh. Trong thời gian này Thầy đã liên lạc được với anh Thiều ở trại tỵ nạn Strasbourg và có ý mời anh về đây cùng Thầy xây dựng Làng Hồng. Có lẽ anh Thiều là một trong những người học trò yêu quý của Thầy nên Thầy đã dành rất nhiều tình thương cho gia đình anh. Trong chuyện Tý – Cây tre triệu đốt, Tý (là con trai đầu của anh Thiều) kể rằng: “Năm ngoái khi nghe tin ba vượt biên, ngày nào Sư Ông cũng niệm Phật để hộ niệm cho gia đình Tý được tai qua nạn khỏi. Sư Ông nói Sư Ông niệm Phật trong lúc cuốc đất, giặt áo, lượm củi, trồng rau và cả khi rửa chén bát nữa. Sư Ông nói nếu ba qua được thì ba sẽ cùng với Sư Ông làm Làng Hồng.” (Lời kể của Tý trang 43 Lá Bối in lần thứ nhất 1984). Vào ngày 28.9.1982 thì Thầy trò Phương Vân Am – nông trại Khoai Lang tìm được Xóm Hạ ở làng Loubès- Bernac, cách Xóm Thượng khoảng bốn cây số. Sau khi ký giấy mua Xóm Hạ thì vào tháng 10 năm 1982, gia đình anh Thiều từ Strasbourg về định cư ở Xóm Hạ. Gia đình anh gồm có hai vợ chồng anh Thiều, cu Tý, em Miêu, và Chó Con tức là bé Tâm mới sinh ở trại Strasbourg chưa đầy một tháng. Em bé đã được đặt tên từ khi còn trong bụng mẹ ở trại tị nạn Palawan, khi anh Thiều đọc xong quyển Trái tim Mặt trời tôi gửi sang trại cho anh – cháu Lê Nhật Tâm, có nghĩa là trái tim mặt trời. Ngoài ra còn có anh Dũng là em nuôi của anh Thiều.

Gia đình anh Lê Nguyên Thiều và một số thanh niên từ trại tị nạn bắt đầu định cư để xây dựng Xóm Hạ. Thiền đường Nến Hồng được thành lập. Chỉ sau đó mấy tháng, Xóm Thượng cũng được thành lập. Tác phẩm Đường xưa mây trắng được khởi thảo và hoàn thành một phần ở Phương Khê và một phần ở Xóm Thượng Làng Mai. Các sách Từng bước nở hoa senChiếc lá ổi non và Tý – Cây tre triệu đốt cũng được viết tại Xóm Thượng.

Phật đường Trúc Lâm Xóm Thượng, bé Phương, bé Trúc áo trắng, Miu, Tý và bé Tâm áo xanh mừng Phật ra đời

Nếu tại Phương Vân Am thầy trò chúng tôi đã đón tiếp những nhân vật như Sulak Sivaraksa, Daniel Berrigan, Nguyễn Hữu Xương, ca sĩ Graeme Allwright thì tại Xóm Thượng, tôi, Carole Melkonian và Dũng cũng được có dịp pha trà và nấu ăn cho Thầy tiếp các thiền sư Baker Roshi và Robert Aiken. Ăn xong thiền sư Baker dành phần rửa chén bát trong chánh niệm. Cái khung vuông phía trên chiếc bồn rửa chén thời xưa bằng đá thấp quá, khiến cho Baker Roshi đụng đầu mấy lần vì ngài cao hơn chú Dũng hơn 30 phân! Cảm động nhất là khi Thầy chúng tôi tiếp ông giám đốc Cơ sở Thiết kế đầu đạn nguyên tử liên lục địa. Ông xin phép chỉ nói chuyện riêng với Thầy, không có người thứ hai. Tôi và Carole lo đi đun nước sôi làm trà tại phòng ngang bếp Xóm Thượng. Lúc này là mùa thu 1983. Làng chưa có lò sưởi trung ương, chưa có ghế bàn đàng hoàng. Thầy ngồi trên băng cây bên này bàn ăn, ông ngồi trên băng cây bên kia, khá khấp khểnh. Bà vợ ông ngồi ghế với tôi, nhưng thấy chỗ ở thầy trò nhà này tồi quá bèn xin phép vào ngồi trên ghế xe hơi mà ông bà mới mướn, cho có tiện nghi hơn! Họ bay từ Hoa Kỳ sang Paris, từ Paris bay tiếp đi Bordeaux và mướn xe hơi lái từ phi trường Bordeaux về đây chỉ để gặp Thầy một giờ mà xin một lời khuyên có tuệ giác cho đỡ khổ khi phải đứng đầu một chương trình mà đầu đạn khi bắn đi xuyên lục địa có thể tàn phá cả một thành phố. Thầy dạy ông phải gắng ở lại tu tập. Chỉ có tu tập mới tạo cho mình thói quen dừng lại và nhìn sâu. Thầy khuyên ông nên ngồi chỗ chức vị đó mà cứ tập dừng lại và nhìn sâu thì ông sẽ tự khám phá ra cách hành xử khác và lời nói khác, nhiều tuệ giác có tính cách thuyết phục. Mà muốn có thói quen nhìn sâu thì phải ở lại tu tập để chế tác thói quen dừng lại mới được. Nếu ông từ chức thì sẽ có người khác thay thế và có thể làm tệ hơn. Nếu không có bà vợ nằng nặc đòi về, có thể ông sẽ ở lâu hơn để tu tập.

Tuy nhà cửa thô sơ nhưng sinh viên từ Paris, Bordeaux và các nơi về tu học khá đông. Ban đầu chỉ có bốn người Pháp là Jean Paul, Géraldine, Elsa, Francis, ba người Hoa Kỳ là Mike Kline, Carole Melkonian, Sylvie; còn anh Amrita và chị Camy người Anh, Evelyne Beulmes người Hà Lan, anh Vinh người Việt. Nhưng mùa hè từ 15 tháng 7 đến 15 tháng 8 thì người về ngày càng đông.

Sau này am Phương Khê được đổi tên là Nội viện Phương Khê, hay còn gọi là Sơn Cốc, là nơi sinh hoạt chỉ dành riêng cho các vị xuất sĩ. Trong khoá an cư Kiết Đông, Thầy trò trở về đây mỗi tuần một ngày để tu học, có mặt cho nhau rất đầm ấm, gọi là ngày xuất sĩ, một ngày sinh hoạt rất thân mật, nuôi dưỡng và làm lớn thêm tình huynh đệ, nghĩa thầy trò. Thầy đã sửa sang lại thêm một số phòng nghỉ để mỗi khi các học trò của Thầy muốn có một hoặc hai tuần tĩnh tu thì có thể về đây. Trong thâm tâm các thầy, các sư chú và các sư cô thì Sơn Cốc là “quê nội” mà họ cảm thấy rất vui, hạnh phúc mỗi khi được trở về, được rong chơi trong không khí quê hương, trong những lời dạy dỗ, khích lệ quý báu đầy tình thương của Thầy.

Hát thiền ca trước giờ pháp thoại

Vì cứ tiếp tục nghe anh tả tình trạng xuống cấp của tuổi trẻ, chúng tôi thấy anh Lê Thương gần như là tri kỷ nên tôi đã nhiều lần đắn đo, không biết làm sao chia sẻ được cho anh nghe những thao thức này của Thầy trò chúng tôi. Về phần anh, Lê Thương cũng ấm ức vì đã không chia sẻ được cho chúng tôi những gì thâm sâu nhất. Thư nào của anh cũng than là đã viết đến lần thứ tư rồi mà vẫn phải xé bỏ vì sợ có người khác đọc giùm, sinh ra rắc rối!

Thư Lê Thương viết ngày 30 tháng 8 năm 1981

Tin mừng

Trong lá thư viết ngày 30.8.1981 anh Lê Thương báo tin là anh cảm thấy thoải mái và khoẻ mạnh hơn vì anh đã có sức để làm việc và nghiên cứu, sáng tác. Những dòng báo tin như thế khiến tôi lên tinh thần hơn, ít ra chúng tôi cũng góp phần làm sống lại nguồn cảm hứng của một bậc nhân tài đàn anh.

“Tôi nghiên cứu âm nhạc dân tộc Việt Nam và đông phương từ hàng chục năm nay trong lúc thấy người ta tranh dành quyền lợi quá nhiều, nên tôi càng thấy cái lẽ sâu nhiệm của triết lý đông phương về các chữ TÂM, HOÀ, ỨNG, ĐỐI trong nhạc cổ. Biết rằng đó là con đường rất xa xưa và nó không đem lại gì nhiều về lợi nhuận vật chất đó, nhưng nó giúp cho phần tư tưởng của tôi rất nhiều, bổ sung vào tình đời, như tình nhân loại. Chung quanh tôi chắc chẳng ai lưu ý lắm đến những thứ “mơ mộng cũ càng” ấy nhưng mà đó chính một nơi trú ngụ cho tâm hồn từ mấy năm đổi đời vừa qua.

Do đó cuộc sống hiện nay của tôi hầu như không sóng gió, không có buồn phiền gì nhiều, trái lại vẫn còn thanh thản gần như vô tư. Có bực mình cũng chỉ vài giờ, vài ngày rồi quên hết mà an phận. Bận rộn luôn hồi đấy, nhưng đêm khuya từ khoảng 23 giờ tôi vẫn viết lách suy tư một mình cho đến khoảng 2 giờ rưỡi sáng mới đi ngủ, một giấc ngủ ít có mộng mị. Như trên đã nói, vào thu năm Dậu này tôi thấy có một sự thoải mái nhẹ nhàng, mặc dầu đối với việc tôi về hưu và tuổi cao vùn vụt, con cái lớn lên đùng đùng và thời thế hầu như không tạo bình tĩnh cho ai lưu tâm tới ngày mai ngày mốt. Sức khoẻ thì quả là dồi dào và sức làm việc bền bỉ. Hiện tôi đang sáng tác cho các đàn dân tộc, tranh, nguyệt, sáo, độc huyền,… để thí nghiệm ít điều hiểu biết của mình. Lại một con đường khô queo ít lá xanh hoa đẹp nhưng là lối đi về nguồn hữu ích cho những năm bế tắc sau đây. Cái lối tiến về tân nhạc hầu như tắc nghẽn đối với số đông nhạc sĩ tiền chiến, tiền cách mạng, nên đó cũng là một lối thoát. Nhớ đến xa xôi, đến bạn bè cũ thì không thể quên là mình đang ở trong xứ sở trao đổi nhau nỗi nhớ quê hương với nỗi nhớ xa vời, nhớ chân trời xa lạ nhưng cũng không thể quên cái thực tế phũ phàng là không phải nơi đâu cũng là thiên đàng cả. Chỉ có đám trẻ là cần nhiều chân trời, còn các lão trượng thì đời cứ dài thêm không chừng đến ngày mai lại sáng, hoặc ngày mốt lại tươi, không thể biết được.

Móc túi tài tình

Nhan đề một cuốn phim cũ Xin nhận nơi này làm quê hương vẫn được nhắc lại từ cửa miệng nhiều người, khi thì bùi ngùi, khi thì chán ngán, lại có khi với cái nhún vai bĩu mỏ có cái dáng tức cười như xẩy ra một lần ngay tại cổng rạp xi nê Đại Nam cách đây khoảng bẩy năm. Lúc đó rạp này chiếu một phim ngoại quốc rất hay. Người ta chen lấn đầy nghẹt để mua vé. Có một ông tá với quân phục long trọng cũng chen lấn mua vé. Đến guichet, ông vỗ túi lục tìm cái bóp tiền tìm mãi không ra, đành phải lui ra ngoài, nhún vai lắc đầu, mắt lườm như dao sắc lên các bộ mặt cà lơ thất thiểu của tụi thanh niên đang chen lấn. Nhưng làm sao được bây chừ. Một trong mấy thằng quỷ đó nó đã cầm nhầm cái bóp tiền quân đội của ổng chứ còn ai. Nhưng thằng nào? Nó đâu? Thì chịu không ai biết. Tụi nó lơ láo chăm lo nhiệm vụ chen lấn hoặc ngó lơ coi ổng như quái vật đang thịnh nộ mà hoàn toàn thất bại thê thảm thất bại. Ông bạn của sĩ quan mất bóp này tới lôi ông ra khỏi rạp mắng yêu ông ta vài câu nho thông dụng: Anh biết tiếng tụi móc túi cầu Ông Lãnh mà không đề phòng“văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình” thì đây là một dịp để rút kinh nghiệm đi nơi khác. Đi nơi khác chứ còn đứng đó ra cái vẻ “bất tri kỳ vị” trông kỳ quá. Thôi, “nên nhận nơi này làm quê hương”! Đó là một mảnh rách nát của cái áo vá trăm mảnh mà văn chương vẫn phải gọi là téc- ni-cô-lo đó thôi.

Cũng chuyện móc túi

Thật là một triết lý sâu xa của một kẻ mất bóp mà đành cắn răng chịu thua. Tôi được biết câu chuyện trên mà đôi khi nghĩ tới nó cũng không ngăn nổi một trận cười nứt nẻ không có gì thắng lại nổi.

P.H và các bạn thì chót đã nhận nơi khác làm quê hương và ít khi gặp tụi móc túi thần tình như truyện nữa sau đây:

Vào khoảng 1976-1977, làn sóng bà con ngoài Bắc vào thăm người thân trong Nam sôi động thì một ông Bắc đem chút tiền dành dụm vào sắm đồ trong Nam lúc đó vẫn còn rẻ. Ông cẩn thận xếp giấy tờ trong cái bóp, còn tiền mấy ngàn ông để vào giữa giấy tờ cẩn thận lắm. Cái bóp ông hơi dày, nên phải xếp ở túi sau. Ông dạo đi tìm hàng vặt ở chợ Bến Thành. Chợ thì lúc nào cũng đông nghẹt và tụi lau nhau móc túi cũng cả đám. Chúng đã chọn ông Bắc này, đang ngơ ngác nhìn hàng hoá có vẻ ham dữ, làm mục tiêu nên chen lấn chung quanh ông không biết cách nào mà một lát sau, móc ví tiền ra mua hàng ông thấy mớ tiền đã mất tiêu mà giấy tờ vẫn còn y nguyên. Cái đặc biệt là về tới nhà bà con, ông cứ “khen”chúng nó giỏi thật! Lấy tiền nhanh như chớp rồi trả lại bóp nhanh như điện. Tụi này (ở chợ Sè Goòng) giỏi hơn tụi ở chợ Đồng Xuân! Lời khen này chắc tụi lưu manh Sài Gòn nghe được phải cười khóc thét và đấm nhau huỳnh huỵch!- Thôi bỏ mấy chuyện rởm, tôi trở về chuyện nghiêm chỉnh.

Gửi quà và nhận quà

Hai bưu phẩm của P.H gửi về cho tôi và bà xã tôi đã lãnh được rồi. Mừng quá, thuốc tốt đã chia cho hai đứa Loan Thu. Chúng chỉ lấy vài thứ còn nhường lại cho ba má nó Vit B1 B6 B12 đem ra uống thấy kiến hiệu ngay nơi hai cổ chân của bà xã, làm cho cái thành kiến (chỉ có névriton) của bả ưa bị tiêu tan chút ít. Khi bộ lạc của nhà tôi tổng hợp để đọc mấy lời phán long trọng của P.H “Ngừng đi… kẻo cho mấy gói quà (mà các con tôi tặng PH, gửi từ Việt Nam) hồi hương ráng chịu” thì mấy đứa “bốn mắt nhìn nhau không nói một câu”. Tôi không cần biết chương trình nó dự tính gì nữa, liền lên giọng áp đảo tinh thần một cách mãnh liệt: Đó là cô P.H không muốn các con tốn tiền đó chứ sao. Một “nhân dân nữ” lên giọng nói “cô P.H khẳng khái quá!” Tôi liền nói “Chứ sao…! vả lại khi ta suy nghĩ lại hình vẽ thì nét không quá tệ nhưng mầu trời thì ảm đạm như đám mây mưa Sè Goòng, mà đàn thì cái nào cũng ra vẻ như làm ở Gò Vấp cả (hơi thiếu cân đối…) chưa chắc cổ đã thèm treo nơi biệt thự “Khoai Lang” của cổ (tôi nhớ mang máng tên ấy, nếu không đúng xin P H hiệu đính) vì nơi đó phải có những hình đơn giản, lựa lọc, ít nét gì đó… Ba sợ mỗi lần nhìn thấy nét vẽ còn non nớt cô lại phải chích cho mỗi cái đàn một mũi vitamine thì mệt cổ quá”. Tụi nó cười câu nói chót và tôi liền quẹo xe sang chuyện khác.

Hôm nay 9.9.81 mới xong lá thư, tôi lại thấy man mác buồn rồi. Thế sự tạo nhiều băn khoăn. Đàn nhỏ nhập học mà chợt thấy phải nghĩ “học để làm gì?” vì nhiều người đỗ đạt khá cao còn đi chạy honda ôm, sửa xe máy, buôn bán vặt, bán cà phê lề đường, chạy đi tìm cơm heo, nghề gì cùng làm miễn là kiếm sống trước đã, không gì bằng cơm gạo mà cứ như vậy trong bao năm mà mình còn sống. Mà lúc chết thì gia đình lại phải chạy để mua sắm một cái “sơ mi gỗ” 4, 5 trăm đồng để những người ở lại vừa méo mặt vừa khóc. Nghĩ đến cái cảnh não ruột đó mà tôi cố sống thêm có đến “lão già chót trong những lão bộc dai như đỉa” xem nó ra sao… Chào P.H với các lời cảm ơn thân thiết.

Lê Thương”

Thư viết cho Lê Thương ngày 19 tháng 10 năm 1981

Đây là lá thư tôi gửi Lê Thương ngày 19.10.1981, viết từ Phương Vân Am.

“Anh Lê Thương.

PH được luôn hai thư tháng 7 và tháng 8, quà cuối cùng MĐK: Tĩnh và Mặc và những lời phê bình của anh cũng đã tới từ lâu. PH xin lỗi đã quên không báo tin cùng với tin mấy bài ngắn anh đánh máy. Hai bức tranh anh Minh Đăng Khánh hiện nằm trong phòng tham thiền của PH, trên chiếc bàn gỗ nhỏ, dưới một tấm phướn dài có chữ “Mây trắng thảnh thơi bay”, viết bằng loại chữ của hoạ sĩ viết thảo. Trước khi tranh Tĩnh và Mặc tới viếng thì dưới tấm phướn này chỉ có một bục gỗ nhỏ trên có một bàn tay bằng đồng đen thật thanh nhã, đang bắt ấn cát tường. Hai bức hoạ nhỏ nằm hai bên bàn tay thanh tú và dũng mãnh trông thật xinh. Hôm nào PH sẽ chụp ảnh góc phòng ấy gửi tặng anh.

PH chia sẻ về việc đốt vàng mã

PH thấy cái nhìn của anh về rằm tháng bảy thật bao dung và thuần hậu. PH tin rằng nhờ cái nhìn ấy mà anh sẽ thấy được những điều mà kẻ khác không thấy, vui được những điều mà kẻ khác không vui. PH ưa đọc thư anh cũng là vì PH ưa cách nhìn ấy của anh. Vàng mã đành là tốn tiền và mê tín thật nhưng nó đã nuôi sống được tình thương giữa người sống và người chết, giữa mọi loài với nhau. Tình thương ấy mà muốn mua thì không thể mua bằng tiền được dù cho là tiền thật, vàng lượng cũng không mua được. Thầy của PH thường nói mình sẽ an lạc hơn nếu mình biết nhìn bằng con mắt từ bi, “Từ nhãn thị chúng sanh” đó là một câu ngắn trong kinh Phổ Môn chắc anh biết rồi. Anh không cần theo đạo Phật, đạo Chúa gì cả, PH thấy nếu hàng ngày anh sử dụng cái nhìn ấy là anh tu rồi, và có thể là tu nhiều hơn cả những ông thầy và những ông cha nữa. Từ bảy tám năm nay PH may mắn được học sống trong chánh niệm nên PH rất biết ơn sự sống, không để một giây phút nào của sự sống trôi qua mà không tập sống cho có ý thức. PH biết hiện giờ anh đang rỗi rảnh với việc đời và có thì giờ sống thoải mái trong hiện tại. Có nhiều người giàu có gấp trăm ngàn lần PH nhưng họ không có thì giờ để sống, để nhìn kỹ, để ăn, để cười như PH. PH tin rằng với cái nhìn bao dung của anh, với khả năng biết cười trong mọi hoàn cảnh như anh, anh có đủ sức để sống an lạc và thường xuyên làm niềm vui cho kẻ khác. Thư của anh cũng là một niềm vui cho PH và cho các bạn PH lắm đó anh biết không? PH hối hận là đã quá làm nghiêm với Loan vì nghe Thu lại sắp sửa gửi quà tặng. Tại hôm đó PH mới biết được là ở Việt Nam, mỗi khi gửi quà phải đi sắp hàng ở bưu điện lúc 4 giờ sáng, chờ cả ngày và đủ thứ khó khăn. Nếu PH có niềm vui nhỏ khi ngồi gói quà gửi tặng anh chị, Loan, Thu thì PH phải biết thấy cái niềm vui lớn khi vợ chồng Loan suy tính sẽ vẽ gì làm thứ quà đặc biệt tặng PH. Điều đó quý hơn một ngàn lần mấy thứ lặt vặt PH gửi tặng anh chị ở nhà nhiều. Đó cũng là một phản ứng ích kỷ của PH lúc ấy, không muốn chịu ân huệ lớn. Có nhiều người chỉ muốn đem niềm vui đến cho người khác nhưng lại không sẵn sàng cho người khác có niềm vui được tặng quà trở lại. Chính vì tranh vẽ công phu quá, với lại khi PH biết được cách đi gửi lại khổ sở hơn nên PH thấy sợ phải chịu ân huệ của Loan nhiều quá, biết bao giờ trả được đây? Lại nghe Loan doạ là Thu sắp gửi gì đó khiến PH hoảng mất khôn, phán ra một lời doạ khá nặng! Chắc là Loan và Thu buồn lắm. Vậy PH nhờ anh xin lỗi giúp bằng cái nhìn từ bi và khả năng chọc cười xuất sắc nhất của anh để PH bớt mặc cảm tội lỗi. Đúng là PH đã phụ một tấm lòng trải rộng của Loan và của Thu. Hai người đã không nhận quà của PH gửi về là đúng lắm. Đáng kiếp cho PH vậy.

Loan và Thu. Cô cám ơn Loan và Thu đã cho cô bài học đích thực bằng cách trao quà cô tặng hết cho ba mẹ mà không lấy gì cả. Thôi như vậy bữa nay làm cô sao nổi nữa. Cô gì mà dở ẹc vậy? May phước là lúc đó có ba ở kế bên khôi hài cho không khí đỡ nặng nề chứ không thôi chắc cô trốn mất. Loan và Thu cười tha lỗi cho cô đi. Tấm block lịch Thu cho vẫn còn nằm trong phòng khách kia, bên dưới có gắn lịch ngày Tây và ngày Ta đầy đủ. Vậy là cả Loan và Thu đều có mặt trong nhà cô hàng ngày rồi. Gửi nhiều quá xẹp túi tiền rồi ai mua bánh bò, bánh da lợn cho các cháu của tôi ăn đây? Cháu của Loan và Thu tên gì? Cô thăm và thương chúng lắm.

Cô PH”

Thư Lê Thương viết ngày 25 tháng 11 năm 1981

Khi lá thư trên chưa nhận được, Lê Thương có viết đề ngày 25.11.1981 rằng đã lâu quá không có tin tức gì của tôi, nghĩ là tôi đã giận vì một điều gì anh nói có vẻ xúc phạm. Sự thực thì hồi đó tôi có quá nhiều công việc nhưng dù sao vào dịp Tết cũng đã viết được một lá thư trên kia và gửi được quà tết cho anh. Nhận được thư và quà anh nói: anh “mắc cỡ” là đã trách tôi quên anh mất rồi.

“Tp Hồ Chí Minh 25.11.81 Mến gửi cô Phương Hương,

Từ lâu quá không được thơ của PH, tôi lo nghĩ và đang tin là đã nói điều gì làm phiền lòng P.H nên không hề có thư phúc đáp mặc dầu 1 carte postale.

Hai bức thư tôi viết những ngày 16.8.81 (16 trang) và ngày 11.9.81 chắc đã vì “đa ngôn đa quá” nên có câu gì xúc phạm hoặc trật chỗ này chỗ nọ nên có thể không được chấp nhận dễ dàng chăng? Hoặc vì thư không hề tới nơi, hoặc bị chặn lại vì một lý do nào đó, nên gây cho người viết những ý nghĩ không an tâm, nên thư này chỉ xin viết ngắn ngủi, tính chuyện thông thường. Nếu có sự yên lặng kéo dài thì chỉ còn lý do P.H bận việc hành nghề tất tưởi, không còn thì giờ nói chuyện con cà con kê với ai. Bệnh nhân bên đó đã chiếm mất bà bác sĩ thân mến của họ, và bệnh nhân xa xôi này chỉ còn đợi ngày đi chậm chạp tới nghĩa trang quên lãng cho nó được việc.

Suy gẫm theo từng giờ phút của ngày dài, thì tâm sự hiện giờ nó có mầu ảm đạm như vậy. Nói theo cái giọng “chiều thu lá bay” của vài nhạc sĩ trẻ đó.

À mà mùa thu đã qua rồi khi lá thư mỏng mảnh này đến tay PH. Lúc đó là vào đông và lá thư mỏng mảnh sẽ tha hồ mà nhiễm lạnh.

Không biết ở Fontvannnes có tuyết không nhưng từ “sang hè đến cuối thu” tuyết lạnh đã phủ đầy lên bãi đồng tiêu cực của yên lặng.

Thôi… tôi ngừng giọng khàn khàn ca sĩ lòi sỉ có thể tạo ra những tơ mành ưu tư cho một tâm hồn tế nhị như không thích những chuyện nói đùa nói giỡn.

Chuyện nghiêm chỉnh là lễ Noel sắp đến và cả Tết Tây cùng đang đến một lượt. Đại diện cho bà xã nhà tôi và cả bộ lạc con cháu, xin gửi lời chúc thân mến cho P.H và bác cùng các cháu được trăm sự vui vẻ. Riêng tôi hơi buồn một mình cho nó quen.

Băng nhạc tôi thâu về nhạc trẻ em chung với bản hợp ca hai bài lịch sử loài người và ba Hòn Vọng Phu chưa được phép gửi đi. Đang vận động để những bản đó sang đến PH như vài kỷ niệm để nhớ ghi.

Lê Thương.

Báo cáo thêm cùng cô PH là quà của PH đã đến 2 lần ngày 22.7.81 và 25.8.81. Cả gia đình đều vui mừng cảm tạ và cầu chúc cho PH được đầy ơn trời Phật và vui vẻ luôn.”

Thư Phương Hương viết cho Lê Thương ngày 25 tháng 11 năm 1981
Thực phổ làm món bí ngô dồn nhân hạt dẻ đút lò thay gà lôi

“Hôm nay là thứ năm tuần lễ chót của tháng 11 năm 1981, ngày Lễ Tạ Ơn của người Hoa Kỳ. Mùa này ở Hoa Kỳ gà lôi bị giết hàng loạt, nhiều lắm, vì thiên hạ có tục lệ ăn gà lôi dồn những gì đặc biệt vào bụng con gà. Nhà nào ở Hoa Kỳ mà không có gà lôi đút lò ngày Tạ Ơn thì “đau khổ lắm”! Chỉ riêng ở Pháp tuy không làm Lễ Tạ Ơn nhưng dân Pháp cũng ăn món gà lôi đút lò vào dịp Noel. Mùi gà lôi dồn hạt dẻ đút lò thơm lừng không khí phòng ăn các gia đình người Hoa Kỳ tối thứ năm chót của tháng 11 hoặc các phòng ăn gia đình Pháp đêm Noel. Trong nông trại Khoai Lang của PH có 14 người mà Mobi là người Hoa Kỳ nên không thể thiếu món đút lò trong bữa ăn tối ngày Tạ Ơn. Vì thế truyền thống Phương Vân Am là cũng phải có một món “đút lò” hẳn hoi. Cũng chuẩn bị hạt dẻ luộc mềm, bóp nhuyễn, nhồi với hành và nấm xắt nhỏ xào, nêm bột quế thơm lừng, nhưng không mua gà lôi, không dồn trong bụng con gà lôi mà dồn trong ruột trái bí ngô. Vườn nhà có tới năm sáu trái bí ngô loại bí thịt bùi như khoai lang hay hạt dẻ luộc. PH biết cách đút lò các quả bí có dồn hạt dẻ. Phải để lửa thấp và phải để bí nằm trong lò ít nhất là ba giờ thì bí mới chín. Phòng ăn của Phương Vân Am ngày Thanksgiving (Lễ Tạ Ơn) cũng thơm lừng NHƯNG không có gà lôi bị giết. Các chị em ở nông trại Khoai Lang lấy ba quả bí ngô, loại poti-marron. Potiron là tên tiếng Pháp của bí rợ màu cam nhưng thịt của trái bí này không ngon bằng thịt loại bí có tên poti-marron (vì hạt dẻ tên là marron). Nhai miếng bí mà bùi như khoai lang mật của Đà Lạt. Rửa sạch bí, moi ruột lấy hết các hạt bí ra rồi mới dồn nhân hạt dẻ xào nấm hành nêm bột quế vào từng quả bí ấy. Khi cả ba trái bí chín thơm lừng mùi hạt dẻ nấm và bột quế, các bạn PH mới đem ra ăn mừng Chúa Giáng Sinh hay ăn Lễ Tạ Ơn. Mùi thơm lừng, thanh tịnh và bình an vô cùng. Không có tiếng khóc đau đớn của những con gà lôi bị chặt đầu moi bụng đút lò. Các bạn PH cũng làm nước xốt trái cranberry và chia mỗi người một phần 6 trái bí với nhân hạt dẻ. Khi ăn dùng muỗng nĩa chấm xốt cranberry, ăn luôn vỏ bí cũng mềm và bùi như thịt bí vậy. Ôi chao là ngon!

Thu hoạch hoa trái ở Phương Vân Am

Sinh hoạt buổi tối ở phương Vân Am

Vợ của Pierre Marchand

dịch giả cuốn Phép lạ tỉnh thức sang tiếng Pháp

Thư Lê Thương viết ngày 18 tháng 2 năm 1982

“TP Hồ Chí Minh 18.2.1982

Mến gửi cô Phương Hương

Tôi đang sám hối vì cứ theo đà cuối năm ngoái đã từng biên thơ “xin hoãn” này nọ. PH chắc còn nhớ, nên tôi bỏ lửng một dạo các hứng thú giao thiệp thư tín mà đành mang tiếng chây lười và sẵn sàng chịu tội (nếu có ai muốn phạt).

Hiệu quả của việc cạo gió

Bỏ lửng giao thiệp và bỏ lửng cả giao thông nữa mới là quan ngại. Chẳng là: không biết gió độc nào nó táp vào người mà nhè cái đùi bên mặt mà thổi, mà ếm, nên cử động thấy đau đau. Xét kỹ thì tôi thấy đầu xương đùi chỗ lấp vào xương bassin (xương chậu) như bị hăm doạ ankylose (đông cứng) gì đó. Lúc nằm mà muốn lật người bên này sang bên kia, tôi thấy đau nhiều như cái cần bielle xoay bánh xe lửa thiếu dầu mỡ nên kêu kẹt két rất là nghiến răng. Tôi than với bà xã nhà tôi (một loại bà lang vườn rất là không tin gì đến xương cốt hay xụn gân thiếu “dầu mỡ”) nên bả bắt tôi nằm xuống đem dầu gió ra lấy muỗng café cạo đùi, rồi cả bàn toạ, hai đầu vai, cổ ba ngấn, gáy gà đá của tôi. Bà cạo xoạt xoạt như cạo heo, không màng gì tới lời răn dạy nhẹ tay hoặc các tán thán từ “ái ái” của tôi. Ôi một cuộc “ma xát” vô nhân đạo, dã man kéo dài khoảng nửa giờ làm cho tôi khi soi gương nhìn lại da thịt, thấy mình mẩy bốn nơi thành da ngựa vằn (loài zèbre đó) thảm hại.

Phản đối vô ích vì việc đã rồi. Bả chỉ phán một lời: Rồi ông xem cạo gió có bằng mười uống thuốc hay bơm dầu mỡ của ông không! Nói rồi nàng cất muỗng và dầu gió, “cao bước anh hùng” xông lên lầu lo việc khác.

Ấy thế mà chỉ 48 giờ sau tôi thấy bớt 70 phần trăm chỉ tiêu đau nhức. Thật đúng như lời phán của bà lang vườn khoẻ tay của nhà tôi. Ôi! khoa học dân gian của bà xã tôi, quỷ ma nào nghe lý luận nổi mà xét ra có bề đúng thực tiễn. Chịu bả.

Tết Nhâm Tuất 1982

… Tết lúc đó đang nhảy vọt. Pháo và văn hoá phẩm cũng nhảy vọt. Rồi Tết vụt qua còn nghe tiếng pháo mãi. Dân Việt đốt pháo cho đỡ buồn gì đó, nhức tai hại của gì cũng thây kệ.”

Thư Lê Thương viết ngày 4 tháng 6 năm 1982

“Mến gởi Phương Hương

Tôi yên trí là lúc này P.Hương bận rộn thêm nhiều vì dân tộc Tây gốc Lạc Việt di tản sang bên nước Phalangsa càng đông và tất cả không ít thì nhiều cũng thích có bệnh gì đó để được săn sóc kỹ càng, giặt giũ cái thân thể hơi kẹt các thứ bụi bặm và rửa cả bao tử còn ứ đọng vài thứ mắm khó tiêu cũ.”

Lê Thương nghĩ rằng tôi còn bận rộn với dân Lạc Việt vào nước Phalangsa (Pháp), nhưng thật ra tôi “đang bí”, không biết làm sao để trả lời vô số thư từ của dân Lạc Việt tại các trại tị nạn. Bức thư nào cũng thảm thiết tột cùng. Tôi cứ trở về hơi thở và cầu mong một tuệ giác nào giúp tôi thấy sáng ra cách để người trong nước không phải lăn mình vào những cơn ác mộng khủng khiếp ngoài biển và người trong nước biết trân quý những gì còn có trong tầm tay để cải tiến làm tốt hơn cho cuộc đời.

Chắc là nghe tin tức thuyền nhân quá khổ trên đường vượt biên nên ở Sài Gòn thiên hạ phải tìm mọi cách để đi chính thức. Anh Lê Thương viết:

Còn dân Sè Goòng nhất là giới trẻ thì vẫn sùng sục đòi ra đi, giấy tờ xin sum họp chất đống có lẽ cao hàng thước, còn những chuyến đi chui thì hầu như vẫn âm thầm lên đường, kẹt đường bị nhốt, hoặc tới nơi điện tín trở về đã tới rồi, chưa biết chết sống ra sao…

Người Việt Nam tìm cách rời nước bằng đường chính thức (Trước nhất là phải nộp đơn xin xuất ngoại ở Phòng Công tác người nước ngoài trên đường Nguyễn Du. Khi giấy tờ duyệt xong ở Sở Ngoại kiều đường Nguyễn Du thì hồ sơ sẽ chuyển sang sở (Phòng Quản lý xuất nhập cảnh)… ở đường Nguyễn Trãi).

Có những sự căng thẳng tinh thần giấu diếm trong những tròng mắt thanh niên thiếu nữ ngồi trầm ngâm nhấp ly cà phê đắng. Khói thuốc thơm họ phà ra từng tia nhỏ cũng sặc mùi vị viễn du đến nỗi kiểu suy tư thông lệ thường nghe trong câu chuyện hỏi nhau đều na ná như:

“ Anh có đứa nào ở nước ngoài không?” 

“Có, 3 đứa, 1 đứa.”

“Nó ở đâu?”

“(Hồ sơ nằm ở đường) Nguyễn Du (nơi có phòng Phòng Công tác người nước ngoài).”

“Có gọi bổ túc hồ sơ chưa?” 

“Rồi…” “Chưa…”

“Tụi nó tới đâu rồi?”

“Ở Bi Đông.” “Ở Sanh Ga Po…”

Tôi còn quá nặng nợ với các trại tị nạn

Anh Lê Thương, Hoàng Cầm, Hồ Dzếnh và nhiều vị tôn túc ở Việt Nam nữa, ai cũng trách sao tôi vắng thư quá. Chuyện tìm đất làm làng Tu học tuy chiếm nhiều giờ nhưng đối với tôi không khó. Quý vị đâu biết, tôi đang “bí”, tôi đang tìm cách làm sao để trả lời mỗi tuần từ hai trăm đến ba trăm bức thư từ các trại tị nạn ở Thái Lan như Panatnikhom, Chonburi, Leamsing, Songkhla, Trad, và Sikkhiu (Ratchasima Nakhorn), ở Mã Lai như Pulau Bidong, Trennganu, ở Philippines như Palawan. Thư người tị nạn gửi về 7 rue du 8 Mai 92340 Bourg la Reine là địa chỉ của Phái đoàn Hoà bình . Sau đó bưu điện chuyển để tất cả thư tín đều đến hòm thư bưu điện B.P. 20 Les Vignes 47700 Marmande. Mỗi tuần tôi chỉ ra lấy thư một lần để không bị những tin làm khuấy động nhiều quá từng ngày.

Các bức thư từ trại tị nạn gửi tới

Tuy làm việc ở ngoài rất nhiều, đặt mua thuốc tây, tem thư, đi tìm đất cho Thầy lập Làng, dạy người tu học nhưng tâm tôi phải thật sự thiền chỉ. Nếu rời những cử chỉ nhỏ nhặt như làm vườn, chiết từng cây kinh giới, tía tô nhỏ, đặt mua sỉ thuốc tây, tìm những loại hộp gói thuốc, sắp xếp thuốc, thì tâm tôi bị kéo ngay như sắp xông vào địa ngục với bao nhiêu là tin tức báo cáo của đồng bào. Sau những chuyến đi cứu trợ từ năm 1976, 1977 ở Singapore, và nhất là suýt bị cướp và bị hãm hiếp trên chiếc tàu giả vờ đánh cá Shantisuk như được cảnh sát báo tin hôm ở Leam Sing năm 1978 (xem tập 2), tôi đã tới thăm từng trại tị nạn và cố đặt đường dây liên lạc để cho đồng bào có thể viết thư qua và nói lên những gì chúng tôi làm giúp họ được.

Để có thể trả lời cả trăm bức thư an ủi cho người tị nạn hằng tuần, tôi đánh máy phần giới thiệu Phái đoàn Hoà bình của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là ai, địa chỉ ở đâu, thầy trò chúng tôi tu thiền và chấp tác ra sao. Phần này được đánh máy và photocopy, mỗi tuần ba trăm bản. Trên các bản photocopy sẵn đó, tôi chỉ cần điền thêm một vài câu viết tay cùng một tuồng chữ, rất hết lòng, rất chân tình, cho có vẻ riêng tư, như thư riêng cho chính đương sự. Sau đó mới tới phần viết tay thăm hỏi và an ủi là chúng tôi đang cùng khóc với những tin đau buồn mà cô ấy hay anh ấy chia sẻ qua bức thư gửi cho chúng tôi.

Có những trường hợp, đọc xong thư của một hay nhiều thuyền nhân với tình cảnh thê thảm quá, tôi chịu hết nổi, cần phải đi thiền hành thật lâu rồi mới trả lời được. Dĩ nhiên mỗi tuần có ít nhất năm bức thư loại đó và để trả lời, tôi không thể dùng bức thư mẫu dùng để gửi cho cả ngàn người được. Tôi phải tự đặt mình trong từng hoàn cảnh, cùng khóc cùng lắng nghe rồi chia sẻ, chỉ cách cho các em gái bị hãm hiếp cả chục lần mỗi ngày và trong nhiều ngày, sắp chết nhưng cuối cùng được cứu, nên nhiễm độc nặng. Tôi viết thư ôm ấp từng em, ôm ấp từng bà mẹ mất con, khuyên nhủ những người cha mất vợ và mất con gái vì hải tặc… Kèm theo là một chút tịnh tài, của ít tình nhiều, tặng mỗi người tị nạn độc thân 5 dollar, mỗi gia đình bình thường là 20, 30 hay 40 dollar. Với những em gái cần chữa trị thuốc thang tôi có thể cúng dường 100 dollar và lại tiếp tục cúng dường trong quá trình bệnh tình em được điều trị, vì có người đại diện của mình tại trại tị nạn đó theo dõi, không sợ bị gạt.

Bị chú: Khi khởi sự chương trình Máu chảy ruột mềm với Thầy ở Singapore, tôi lạc quyên được 200 ngàn dollar đầu tiên từ những hội đoàn thương quý thầy trò tôi. Thầy là giám đốc Chương trình, tôi là phó giám đốc, không giữ tiền. Anh thủ quỹ của World Conference on Religion and Peace (WCRP) – Willie Tay mới là người giữ 200 ngàn đó. Chương trình bị phá, theo ông đại sứ Pháp ở Singapore thì chính ông Homer Jack báo tin cho cảnh sát Singapore là hội WCRP không bảo trợ Thầy nữa để cảnh sát trục xuất Thầy khỏi Singapore. Một tuần sau tôi cũng bị trục xuất khỏi Singapore. Nhưng Phật Tổ phù hộ, trước đó chỉ vài ngày, tôi lạc quyên được thêm 100.000 dollar từ một hội đoàn ở Hà Lan, đáng lý sẽ nhập vào số 200 ngàn kia để thành 300 ngàn mà mua chiếc tàu Koogara lớn để chở người đi Úc. Nhưng thấy Thầy đã bị đuổi khỏi Singapore, tôi dặn Kirsten ở Hà Lan thay vì gửi cho Willie Tay thì gửi cho anh Luke Forgaty, chủ nhiều chiếc tàu nhỏ, đang giúp chúng tôi tìm tàu lớn. Fogarty không mua tàu Koogara nữa, trả lại tiền, và tôi để luôn 100 ngàn đó bên ngân hàng Bangkok. Nhờ số tiền ấy mà tôi mua chiếc tàu đánh cá Shantisuk, đi cứu trợ suốt năm 1978, suýt chết, suýt bị hải tặc. Khi nghe tin tánh mạng tôi và anh Sáu có thể hiểm nguy, Thầy buộc tôi đóng cửa chương trình và về Phương Vân Am gấp. Nhưng nhờ đó, với số tiền còn lại, tôi có may mắn đủ điều kiện gửi giúp cho người tị nạn ở các trại.

Mỗi tuần, tuỳ theo nhu cầu trong trại nhiều hay ít, tôi yêu cầu ngân hàng Bangkok gửi tiền một lần cho năm người đại diện của mình ở năm trại. Người đại diện trong trại có khi là một vị đại đức mà tôi biết từ ngày xưa như thầy Từ Mẫn, có khi là một huynh trưởng Gia đình Phật tử như anh Lê Quang Dật ở trại Sikkhiu, có khi là bậc đàn anh của Sinh viên Phật tử Huế như anh Hoàng Văn Giàu ở Songkhla…

Tôi chỉ ra bưu điện lấy thư mỗi tuần một lần. Tôi biết cái giới hạn về sự chịu đựng của mình. Sau một ngày đi Marmande mở hòm thư, đem về và đọc vài trăm bức thư từ trại tị nạn, và thư các nơi, tôi mệt nhoài. Tôi để riêng những thư nào đặc biệt của thuyền nhân, của văn nghệ sĩ hay của chư tôn đức. Tôi không bao giờ trả lời ngay. Phải để một hai ngày cho lòng lắng xuống. Trong hai ba ngày ấy tôi tiếp tục làm những chuyện hằng ngày. Ngoài chuyện đi thiền hành, tôi chú tâm lo đánh máy sách phụ Thầy, hay gói những gói thuốc đều đặn, để cho tâm lắng xuống, rồi tới ngày thứ ba tôi mới bỏ ra một ngày trả lời thư, nhờ tăng thân dán tem, tôi ra bưu điện gửi thư cho mấy trăm thuyền nhân đang chờ được an ủi và cứu giúp. Tôi cũng chuyển một số thư người tị nạn cho những cơ quan mà họ nhờ can thiệp.

Tôi và Jean Pierre đang mua thức ăn chuẩn bị xuống thuyền đi cứu trợ

Tăng thân Phương Vân Am và Phương Khê sau này đi thiền hành mỗi ngày ít nhất là hai lần. Có những đêm trăng thật sáng má tôi nói “Má sợ quá con à!” Tôi hỏi: “Dạ sợ chi thưa má?” Má nói: “Sợ Thầy rủ đi thiền hành quá hà! Tuy trăng đẹp mà lạnh quá!” Má tôi quá dễ thương, đúng là một cộng sự viên đắc lực. Má cũng tu học thật tinh chuyên. Má tôi không ưa đi thiền hành ban đêm nhưng sẵn sàng đi thiền hành ban ngày với đại chúng, không bao giờ thoái thoác vì lớn tuổi. Đi chợ trời cũng là dịp má tôi và tôi đi thiền hành, không mua gì nhưng vui lắm. Khi tăng thân ngồi thiền thì má tôi cũng ngồi, nhưng niệm A Di Đà.

Thư tưới hoa, gây niềm hứng khởi cho các văn sĩ, thi sĩ ở Việt Nam thì chỉ có Thầy mới viết được. Tôi viết không nổi, tin tức thuyền nhân bi thảm quá. Tôi bị tràn ngập. Tôi chỉ cho phép tôi nhận thư mỗi tuần một lần thôi, chỉ để một ngày đọc thư, và có được năm ngày vắng tin tức bên ngoài, để tâm mới lắng kịp, để nhìn sâu hơn hầu tìm ra lối thoát.

Quang cảnh Sài Gòn giữa năm 1982

“Trong lúc đó các xe đò vẫn chật ních người như xe tô buýt, xi nê vẫn đầy nhóc thanh thiếu niên nam nữ xếp hàng dài vài chục thước trưa, chiều, tối kháo nhau về phim “dở quá” hay “hết xẩy”.

Ở chợ thì các bà các cô lâu lâu lại lắc đầu bĩu môi một hai lần vì thịt heo mỡ nạc lúc này lên đến 100 đồng một kilo, cá nục hấp cũng lên vùn vụt không báo động cho ai biết trước. Năm chục bạc xách đi chợ chỉ đem về có một món mặn tôm tép hay cá đối hai ngón tay và một món canh cải. Gạo tổ thì chậm độ một tháng, trừ khi tươm tất sớm hơn từ 18 xấp lên, mà không làm việc cho nhà nước là không ăn gạo giá nhà nước, chỉ ăn gạo “giá thương lượng” từ 8 đến 10 đồng một ký (còn khá hơn ngoài Bắc nghe đâu 22 đến 24 đồng 1 kí và rau muống 4 đồng 1 bó, tin do các người ra vào cho hay).

Quán ăn lề đường: Thật là một điều kỳ lạ không ai cắt nghĩa nổi là đời sống như vậy mà sáng chiều tại các hàng lề đường bán cà phê đá chanh, đồ nhậu, cháo huyết, hầm bà lằng vẫn đầy người ngồi coi xe đạp và xe honda chạy ngang chạy dọc, cậu chở cô, ông chở bà đi săn hàng gì đó hay đi ăn nhậu (bia 20 đồng một chai, đuông chiêng bơ 8 đồng một con, một đĩa thịt bò xào cà chua dưa leo 50 đồng một đĩa. Nói gì đến các món lạ như rùa hầm thuốc bắc 300 đồng nửa con to (rùa nước), rang muối dê núi, thịt rắn, rượu tắc kè vân vân…

Các bao tử Sè Goòng từ xưa đến nay vẫn là cái thùng không đáy. Ở Sở Thú vẫn đông người vào coi, dân ở dưới quê hay ngoài Bắc vào xem, trẻ con là đông nhất, nhưng súc vật trong Sở Thú thì ốm nhom, nhiều con đã tạ thế cho nó đỡ tốn cơm gạo (có lẽ chúng để lại những lời di chúc thê lương thảm đạm).

Phương Hương vừa nghe tôi điểm sơ qua một vài khu vực và phố phường mà PH đã muốn tôi nói tới sau một nắp hộp thuốc nào đó. Cũng sau một nắp hộp khác, có lúc tôi nhớ P.H có viết vài chữ: “nếu anh viết văn thì có lẽ… hay”(?). Tôi không dám khen hay nhưng lần này xin tạm gửi P.H 1 chuyện huyền hoặc đề là “Mối thù Hồ Điệp”.

Chuyện huyền hoặc sản phẩm của tưởng tượng thì tôi chuyên viết cho nó xả phì cái bộ óc còn vương vấn nhiều lãng mạn tính trong cái tuổi đáng lẽ phải cổ điển này. Nhưng sợ cổ điển thì kiển đổ nên cứ lãng mạn cho nó đỡ già.

Truyện thì có đến mươi truyện đã xong nhưng viết từ Tết Congo, nay đọc lại tôi thấy thú và quyết định gửi một truyện để PH đọc chơi và duyệt xét qua cho đỡ buồn vào mùa hè nóng nực (à quên bên ấy mát mẻ). Tôi bí-hiểm-hoá cái việc sâu thành bướm của khoa động vật học mà trẻ con cũng biết, nhưng truyện viết tính là cho trẻ con đọc, xong có lẽ người lớn mới hiểu trọn vẹn. Như vậy mới kể là bất tài vô tướng nhưng thây kệ, làm như mình thích là phương sách xả phì có lợi cho sức khoẻ.

Tôi còn tính điều này nữa, xin hỏi trước PH có chịu không đã mới dám làm: Tôi muốn gửi lần hồi từng xắp một, những thành phần của một cuốn sách nói về âm nhạc Đông Phương, tư liệu khá độc đáo, tôi có hai bản, gửi nhờ PH giữ một bản, còn một bản cứ thêm và sửa chữa để PH giữ giùm, có mất một bản thì còn một sau nữa. Lúc này bưu điện cho gửi sách từng 5kg một bằng tàu bể không mắc lắm. Tôi cũng tính gửi đi từ từ khi có tiền gửi vì sách ấy quý và khó mua mà tôi cần có để bổ sung cho các việc còn đang dự tính, xin hỏi PH là có chịu không thì tôi sẽ làm. Chắc PH đoán ra tại sao tôi gửi, không phải để phiền hà P.H nhưng vì chỉ có cỡ người như PH mới quý những giá trị tinh thần gom góp hay biện luận từ lâu năm của một đời người đang vào hoàng hôn như tôi mà cũng tự biết là bất ngờ có thể sẩy ra nhiều biến đổi cho đời mình.

Thư tới tôi sẽ kể lai rai vài chuyện vui về các bà già giết giặc ấy, nhưng nhờ gặp gỡ ở nhà ca sĩ Tâm Vấn mà thấy dung nhan nhà viết kịch Vũ Đức Duy. Tôi thấy anh ta yếu ớt vì mới ở nhà thương ra, vì ở đầu có 1 gân máu nhỏ bị đứt nên đã tê liệt thân thể phải vô bệnh viện ít tuần và nay lại bị tension và đi đứng phải chống gậy. Địa chỉ Vũ Đức Duy:

Vũ Thuỵ Dạ Thảo 457/19 Điện Biên Phủ Tp Hồ Chí Minh.”

Lê Thương cũng đã viết cho tôi về các ca sĩ từng nổi tiếng một thời trong đó có cô Thái Thanh.

Sau đây là một đoạn anh viết năm 1982 về Thái Thanh:

“Tôi và ông Vĩnh Phan lại gặp cô Thái Thanh, cô đang sống với một đứa con gái ở một lầu cao gần Chợ Thái Bình. Cô mời chúng tôi ở lại ăn cơm và câu chuyện sống lại được giở ra từng chương như trang sách album.

Cô và con đã được giấy đảm bảo để sum họp nhưng như hàng ngàn người khác vẫn chờ đợi. Song cô nói: Đi cũng chưa chắc là sướng mà ở lại cũng chưa chắc là khổ.

Đã ngũ tuần nhưng Thái Thanh còn khá đẹp và không chịu “hát chui” nên không thích dự party gì cả. Cô sung sướng nhất trong đời là khi bà cụ má thân yêu của các cô Thái Hằng, Thái Thanh cùng Hoài Bắc mất năm 81 thì bà cụ đã được hoả thiêu và tro của cụ đã được người anh là Hoài Bắc đem sang được Los Angeles và đặt tại chùa bên đó.

Đó là một cuộc “di tản nửa vòng trái đất” để được an nghỉ gần các con. Nghĩ đến chuyện nầy tôi lại nhớ nhiều người khi ra đi theo chương trình O.D.P (Orderly Departure Program) đã lấy một nắm đất ở quê nhà để ngày ra đi đem nó theo. Thật quả càng nghĩ càng não nề, càng đau xót cho dân tộc, cho kiếp người Việt Nam, đã gian truân qua mấy ngàn năm lịch sử mà khi thành tro bụi vẫn còn phải phiêu lưu.

Sóng biển và mênh mông phải kính nể các anh linh này mà đưa thuyền tới bến. Tầu thuyền đã tới được bến.

Cô Thái Thanh có ý nghĩ là bà cụ đã có chỗ an nghỉ vững vàng, thì số kiếp người còn lại mặc dầu có sao cũng được yên lòng.

Ở đầu thư nầy tôi có nói đến party và tâm sự an bình được thấy. Song cũng phải nói là sau mỗi buổi được an bình tâm dạ thì lại có những đêm không ngủ được nhiều. Suy tư lúc đó lại hướng về tương lai còn mờ mịt. Trong sự mờ mịt ấy có cả màn đen u ám có thể đổ xuống bất cứ lúc nào. Nghĩ vẩn vơ như vậy mà thấy cả một nỗi sầu dương thế xâm chiếm tâm hồn.

Cô hồn sống ở các nghĩa trang Sè Goòng

Nhìn đám chúng sinh ở trần thế thì chẳng thấy gì mà cứ tưởng là đời vẫn đẹp.

Nhưng đó chỉ là mặt ngoài. Có lạc bước vào đến vùng Phú Lâm nơi có lò hoả thiêu thì mới thấy sợ. Trên một nghĩa trang lân cận có đến hàng trăm gia đình sống nheo nhóc trên các đám mả. Họ sống, họ ăn uống, tiêu hoá bên trên các mả và trẻ con người lớn từ vùng kinh tế mới đang nheo nhóc vật lộn với cuộc sống nơi đó. Mả vô danh, hồn vô danh chắc đã phiêu bạt nơi nào.

Nghe nói có lần công an vào tính tìm bắt và đã bị tụi ma sống ấy đâm bị thương. Ban ngày vào thăm mà cũng ghê sợ. Vì cứ lác đác lại có vài người từ lùm cây um tùm chui ra, nhìn khách lạ xem tính gì rồi đi mất.

Các mả nào quá thường thì còn được để yên, còn mả nào có vẻ sang và đẹp đều bị gỡ đá gỡ sắt trông mà hoang tàn ghê sợ.

Quả là cảnh đói kém đã xui những con ma sống ấy trở nên phũ phàng mất nhân tính.

Vài mặt trái vừa bầy ra chỉ có ai có dịp đi thăm người nhà người quen, hoặc dự cuộc hoả táng mới thấy được. Mà thấy rồi thì muốn bỏ hết quyến luyến hiện tại để tìm đất lành nào đó để được sống yên và chết yên. Đau khổ thay.

Tôi nói những điều này, không phải để bôi nhọ cuộc sống còn bao nhiêu vẻ đẹp, mà chỉ chợt nghĩ đến vài nét nhân sinh thê thảm mà người suy tư lương thiện bỗng thấy lòng se lại.

Thôi! Nói làm chi nhiều những chuyện buồn thảm đó. Cũng chỉ vì vàng lên giá quá cao kích thích lòng tham quá độ nên mới có nhiều cảnh phũ phàng trái đạo bất nghĩa mà trước đây không ai dám tưởng tượng.

Xin PH cho biết là thư trước có câu chuyện“Mối thù hồ điệp” có đến chưa và PH có đồng ý điều tôi mong mỏi gửi giùm vài tư liệu nghiên cứu hoặc sách vở có thể gửi đi không. Tôi rất cần được biết để yên tâm.”

Những năm đầu, tăng thân gọi làng Tu học là Làng Hồng. Mãi khi có chúng xuất sĩ, Thầy mới đổi tên là Làng Mai cho sát thực tế hơn, vì trên đất Làng có đến 5 mẫu bạch mai mà tên Pháp gọi là Pruniers d’Agen, hoa trắng muốt khi sang xuân và cho quả tím, ngọt đậm đà vào tháng 8. Ngày nhận được bộ Đại Tạng tân tu mà chúng tôi thỉnh được từ Hương Cảng là một ngày rất vui, chỉ tiếc là hồi đó Làng chưa có chuông trống Bát Nhã để thỉnh lên đón mừng Pháp bảo. Cùng với gia đình anh Thiều có nhiều thanh niên Việt Nam cũng đến từ trại tị nạn như anh Nguyễn Văn Ân (sau này chủ trương mạng Phù Sa Online), anh Nhàn… tất cả đều từng là thuyền nhân, có Dũng là con nuôi của anh chị Tư của tôi, có chị Thanh Minh, sau này là Sư cô Chơn Vị. Những sinh hoạt của Làng ở Xóm Thượng và Xóm Hạ trong những năm đầu tiên đã được Thầy ghi lại trong tác phẩm Tý (hai tập, tập 1 – Chiếc lá ổi non, tập hai – Cây tre triệu đốt), một tác phẩm có thể sử dụng để dạy cho các bé, con cháu của các gia đình thuyền nhân.

Thư Lê Thương viết ngày 15 tháng 9 năm 1982

Chơi chữ, câu đối hiện đại

“Một cụ mới sang kể chuyện câu đối hiện đại của một cô bán phở ở Hà Nội hiện giờ. Cô này đẹp và goá chồng, mới khoảng 26, 28 cái xuân xanh nên nhiều ông lớn có vẻ ngấp nghé. Song cô tuy thái bánh phở nhanh tay và cắt thịt bò lại càng thánh thót nhưng miệng lưỡi cũng không phải vừa và văn chương còn có vẻ lỗi lạc (làm cho phở của cô bán rất chạy). Cứ ông nào có vẻ tha thiết đòi cưới cô về làm vợ là cô ra cái câu đối ác hiểm như sau: Nạc mỡ mà chi, em nghĩ chín rồi, xin đừng nói câu tái giá.

Các ông cán bộ ngấp nghé cô chỉ nghe câu đối cô ra cũng đều chạy tét, vừa khen thầm phở của cô thì ngon nhưng câu đối của cô ra thì dai nhách nuốt không dzô.

Có lần một anh cán bộ hạng bét nhưng bao tử lại cao cường đến ăn xong một tô, liền hỏi câu đối ra sao. Nghe xong anh vừa chùi miệng vừa ứng đáp một cách gan dạ “Mờ nác mì cha, anh ăn tái nhiều, xin nấu thêm tô chín nạm”.

Cô bán phở sửng sốt nhưng lưu ý riêng về cái vế sau của câu đối lại. Cô làm ngay một tô phở chín nạm ú ụ, đặt trước mặt ông khách làm ông này trợn trừng đôi mắt. Tôi có kêu tô nữa ăn thêm đâu?

“Có mà, ông nói xin nấu thêm tô chín nạm?”

Cán bộ: “Thưa, tôi đối lại câu đối cô ra chứ đâu có kêu ăn thêm?”

Cô: “Thưa, vì đồng chí đối lại sai bét, vô lý nên câu đối chỉ được coi là câu gọi ăn thêm.”

Cán bộ: “Tôi không có tiền vì thuộc lương hạng 6, văn hoá ở bậc sơ đẳng, nên tôi không thể “nhất trí” là ăn thêm vì không có tiền trả.”

Cô: “Đồng chí nói nhún nhường chứ văn hoá đồng chí mà đối “nạc mỡ mà chi”nói lái lại là “mờ nác mì cha” thì đó là kiểu đùa dai của trí thức tư sản hay dùng. Nó cao cứ không phải thấp!”

Còn lương hạng 6 là làm sao?

Cán bộ: “Cô không biết câu ca dao mới về 7 bậc lương đi đôi với bậc phụ cấp nói từ lâu là:

  1. Hai trăm ngồi mà phán (lương 200 cấp bộ trưởng đó).
  2. Trăm tám ngồi mà nghe (cấp thứ trưởng).
  3. Tranh nhà tranh xe là anh trăm rưởi (cấp cao).
  4. Tất ta tất tưởi là đứa trăm hai (cấp trung cao).
  5. Vừa làm vừa sai là anh chín chục (cấp trung thấp).
  6. Vợ chồng lục đục là thằng sáu mươi (sáu mươi đồng).
  7. Nửa khóc nửa cười là thằng bốn chịch.

Chẳng ta chẳng địch là đứa áp phe Nói chẳng ai nghe là ông nhà nước… à?

Tôi thuộc cấp sáu vợ chồng lục đục nên lâu vợ nó không nấu cơm, tôi đành đi ăn phở nhưng chỉ có tiền trả một tô… Tôi cũng võ vẽ liều đáp lại câu đối, biết đâu “chó ngáp phải ruồi” mà nghe lọt tai người đẹp, biết đâu lại không được ăn phở suốt đời. Nhưng chẳng may…”

Cô: “Đồng chí nói không chính xác. Lương đã được cải gấp đôi từ giữa năm 81 rồi, xin đồng chí xác định lại.”

Cán bộ: “Thưa, lương chưa lên vật giá đã vọt lên tiền đạo từ trước rồi. Vì thế lương cũng như không!

Nước ta cái gì cũng nhất cả. Trong dân gian người ta vẫn xác định cái sự thực vĩ đại ấy.”

Cô: “Người ta nói cái gì mà gọi là xác định vĩ đại?” Cán bộ:…

Cô bán phở nghe lý luận của đồng chí cán bộ hàng 6 liền khen: “Đồng chí lý luận và kể chuyện hay quá đến quên cả tô phở  chín nạm. Nó nguội ngắt, ăn xong xin đồng chí trả tiền đầy đủ cho!”

Mến gửi cô Phương Hương (đoạn chót, xin viết nghiêm chỉnh). Đầu tháng 9 này chị Vũ Đức Duy và con gái anh đến tôi và  nhờ tôi gửi lời cám ơn PH vì đã gửi quà quý báu cho ảnh. Hiện giờ anh nằm ở bệnh viện dân tộc? ở gần Tân Sơn Nhất. Anh chưa tiện biên thư tại đó, song ngày về sẽ không quên đa tạ bằng thơ riêng.

Tôi chỉ làm việc như thư tín về đêm vì ban ngày ở nhà tôi ồn ào và mắc kẹt lao động việc nhà lao động vinh quang. Hụt một vài đêm liền là thơ chậm.

Đời cóc tía nó dzậy. Núi ở chỗ đó mà cũng không chịu quay cái đầu cho đúng lúc. Ỷ vào Phật tính vẫn chan hoà tâm hồn PH, một Phật tính có lẽ không còn biết giận dữ với ai nên tôi mới “mê tín” như vậy.

Lại thêm ý nghĩ là lúc này PH rất bận việc vì bệnh nhân Việt Nam ngày càng đông nên có thể tạm quên các việc đọc thư để khi suy tư cho nó mệt.

Nói lái

Hai thứ ỷ lại đó dầu sao cũng chỉ tạm thời vì cuối cùng vẫn có thư. Thế là “thắng lợi” như cán bộ công nhân viên thường quen viết ở cuối mỗi thư “Chào thắng lợi”. Tuy ba chữ này không gợi được những gì rõ ràng chắc chắn nhưng đó là cách tự kỷ ám thị mang nhiều mê say cho vô khối con người lạc quan bất đắc dĩ.

Họ nói một cách mê say đại khái như “Chúng ta vẫn thắng lợi!’’ Trong bất cứ trường hợp nào, vẫn là thắng lợi! Thí dụ như lúc gặp khó khăn ta “thắng lì”, gặp trở ngại không biết có qua được không ta “thắng lại”, xem xét các khía cạnh vô kế khả thi ta “thắng luôn”. Mà rủi có té để kẻ vật lộn ngồi trên bụng ta, lấy tay đập ình ình vào ngực, ta cũng “thắng hạ”. Thượng hay hạ chỉ là hai vị thế của giai đoạn chiến đấu mà ở hạ ta có điểm tựa là cái lưng nằm chắc trên đất cũng còn thắng, đợi lúc “thắng thượng”. Như đã nói “đấu tranh” thì phải biết “tránh đâu?”. Như kẻ khách chạy giấy tờ bị hỏi anh có biết phải làm gì “đầu tiên” thì người ấy phải hiểu đầu tiên là “tiền đâu”? Cách chơi chữ tuyệt hảo này vẫn có giá trị thời đại như giá trị vĩnh viễn tại cái xứ Đại Cồ Việt – tức Giao Chỉ – nơi đó có các thứ thi nhân, nhạc sỡi mặt méo thuộc các loại cóc tía, cóc lửa, cóc rằn ri, cóc lừ đừ chờ phút quy tiên đều đang quay đầu về núi có tên ngoại ngữ. Núi thì ở bát phương chứ không phải tứ phương.

Bưu thiếp ngày 7 tháng 1 năm 1983

“Bác sĩ Phương Hương

1 route de Troyes, 10190 Fontvannes, Estissac France

Lê Thương khóc?

Mến gửi Phương Hương.

Năm hết Tết đến, thư sợ tới muộn, xin gửi lời chúc Tết trước đến Biệt thự Khoai Lang, chúc Bác, các cháu và Phương Hương một năm Quý Hợi tươi đẹp và đầy vui vẻ thịnh đạt. Không biết đã bao nhiêu Tết gợi nhớ nhung đã qua trong đời mỗi người Việt Nam mà tâm sự Tết mỗi lần vẫn đầy xúc cảm riêng với ai hay một kỷ niệm gì ngoài xa vắng. Các người Việt Nam năm Nhâm Tuất như năm Quý Hợi đều đặm tình xa xứ hai chiều. Kẻ nhớ ra ngoài, kẻ nhớ về trong. Nhiều kẻ bên trong bóng tối cũng nhớ ra ánh sáng cuộc đời. Nhiều tâm niệm câu kinh cũng dâng lên lời khẩn nguyện cho các thân nhạn xa vắng đang chờ xum họp. Tôi bỗng nghĩ đến Phương Hương, một tình bạn không chân dung, tôi bỗng muốn khóc, (đoạn sau này theo tôi đoán là Lê Thương vờ tránh lảng chuyện tủi thân của mình) khóc đây vì một ý nghĩa vô hình, vì số phận muôn vật muôn loài. Trên thế gian có biết bao nhiêu khổ não không đáng một giọt nước mắt hay sao? Xin lúc giao thừa Phương Hương khẩn cầu cho các anh em văn nhạc sĩ chúng tôi. Mới lãnh thêm colis chót có tin về Trọng Nội. Rất cảm động, thơ PH viết sau ngày 5.1.1983.”

Bắt đầu kể cho Lê Thương nghe về sinh hoạt cho thanh thiếu niên và thiếu nhi ở Làng Hồng

Tôi tả cho anh Lê Thương nghe sinh hoạt Làng Hồng mà không dám nói đúng tên Làng Hồng. Nói chị em chúng tôi dạy các cháu về đây 14 môn văn hoá cấp tốc như là:

Sử ký: Những người này là ai? Trưng Trắc, Trưng Nhị, Bà Triệu, Phù Đổng Thiên Vương hay ông Thánh Gióng, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Công Uẩn, Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, vua Quang Trung Nguyễn Huệ, vua Gia Long, vua Duy Tân.

Địa dư: Vịnh Hạ Long ở đâu, sông Hồng, Bạch Đằng Giang, sông Gianh, sông Hiền Lương, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Đồng Nai, sông Cửu Long ở đâu? Việt Nam giáp các nước nào.

Ca dao: Phải thuộc ít nhất năm câu ca dao: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.” “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng.” “Trời mưa bong bóng phập phồng, mẹ đi lấy chồng con ở với ai.” “Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, em lấy chồng anh tiếc lắm thay.”

Tục ngữ: Ít nhất là năm câu tục ngữ. “Con có cha như nhà có nóc,” “Cha ăn mặn con khát nước…”

Truyện cổ tích huyền thoại: Phải biết truyện Lạc Long Quân – Âu Cơ sinh trăm trứng, vài truyện điển hình như Tấm Cám, Trầu cau, Bánh chưng bánh dày, chú Cuội.

Nhạc Việt: Phải biết hát vài bản như Ông trăng xuống chơi cây cau, Tết Trung thu xách đèn đi chơi, em xách đèn đi khắp phố phường, Thằng Cuội (Ánh trăng trắng ngà…), Bà mẹ quê, Ông Ninh ông Nang và Tuổi thơ của Lê Thương.

Sau khi được thư tôi kể về chương trình dạy văn hoá cho thiếu nhi về Làng, anh đã hứng khởi gửi cho tôi một lượt ba tập nhạc thiếu nhi (Thiếu nhi ca và Nhi đồng ca) chứng tỏ anh rất ưu tư lo cho thế hệ trẻ hồi những năm 1970. Những tập này do chính anh sưu tầm nhiều bài hay của các tác giả khác và rất nhiều bài của anh.

Nhưng trong ba tập nhạc cho thiếu nhi ấy không có bài Nhịp võng ru em thủ bút Lê Thương đề: Riêng tặng Phương Hương. Bài này có thể mới viết sau, bằng cái music writer của anh đang có. Bài như vầy: “Búp bê dễ thương, nằm đó yên lành. Nhìn lên trời xanh, ngủ đi chóng ngoan. Búp bê lắng yên, chị nói câu chuyện của một bà tiên ưa thích các em. Mỗi khi bé thơ mà nhắm mắt liền, bà tiên lại hôn vào hai má tròn. Kính keeng kính koong, bà lắc chuông vàng, để em ngủ ngon, giấc mơ hồn nhiên.” Và vài bài khác… dễ thương thật.

Nhưng tôi thì chỉ có tai âm nhạc rất thính còn dốt đặc nhạc lý. Sư em Định Nghiêm của tôi rất giỏi về nhạc lý nhưng hồi đó chưa xuất gia. Laura Hassler cũng rất giỏi về nhạc lý thì đã lấy chồng nên rời nông trại Khoai Lang tháng trước. Mobi thì cũng biết hát như tôi nhưng không đọc được nốt nhạc. Thành ra tôi không biết bài đó hay thế nào?

Sau này khi ba của cháu Ton – anh Bùi Thanh Lâm ghé về Làng thăm tôi, Lâm mới đàn cho tôi nghe và tập cho tôi hát bài Biển sau giống tố và Nhịp võng ru em này. Cảm động vô cùng nhưng hơi trễ vì khi đó anh Lê Thương thân yêu đã ngủ yên.

Làng Tu học – Làng Hồng mở cửa

Vào ngày 15 tháng 7 năm 1983, Làng mở cửa lần đầu. Chúng tôi đã viết thư mời mọi người quy tụ về Làng Hồng lần đầu tiên. Có 117 người về tham dự. Lúc đó Xóm Thượng và Xóm Hạ, mỗi xóm chỉ có ba nhà vệ sinh cho nên các bác và các thanh niên đã giúp đào những hố tiêu khô dùng tạm. Trong số thiền sinh về Làng có nhiều người còn tri giác sai lầm. Họ nghĩ “chắc ông thầy này là Cộng sản nên đặt tên là Làng Hồng. Hồng hồng đỏ đỏ là cờ Cộng sản đó mà(!) Chắc là nơi thân Cộng hay quy tụ Cộng sản gì đây”, cho nên họ chuẩn bị đủ thứ giấy tờ, câu hỏi để chất vấn Thầy.

Tuy nhiên sau khi về tu, thấy người Việt cũng như người Pháp, người Anh, người Hoa Kỳ, ai cũng tập thở, tập đi trong chánh niệm, ngồi nghe pháp thoại và thấy Thầy chẳng đả động gì đến Cộng sản cũng chẳng dính đến quốc gia, nhưng lại dính líu đến gia đình mình mà còn chỉ cho mình cách tháo gỡ những khó khăn với vợ con mình, nên từ từ họ mến Làng, thuyết phục vợ con cùng về Làng và càng ngày càng về đông. Vì vậy mà Làng mở cửa mỗi năm một tháng vào tháng Bảy để người Việt có dịp đưa con cháu họ về Làng học văn hoá. Thiếu nhi vừa học vừa chơi một tuần là có thể nhận “chứng chỉ văn hoá Việt Nam”, biết bà Âu Cơ là ai, vua Hùng Vương là ai, Trưng Trắc Trưng Nhị, bà Triệu, Thánh Gióng, Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Lê Lợi là ai; biết sông Hương ở đâu, sông Hồng, sông Cửu Long, sông Đồng Nai ở đâu; biết mười câu ca dao, biết mười thành ngữ Việt Nam. Tuần nào cũng có thực tập và học hỏi về truyền thống văn hoá Việt Nam: Vì sao phải lạy tổ tiên, phải giỗ tổ tiên? Có lễ Bông hồng cài áo (là ý thức chánh niệm về sự hiện diện của mẹ, của cha), lễ Mừng Trăng lên (dạy ý nghĩa Tết Trung thu).

Không khí Làng trong những ngày khoá tu mùa Hè thật vui, mọi người được nói tiếng Việt, được ăn cơm Việt, được mặc áo dài, áo bà ba, lại được tự tay mình cuốc đất trồng ngò, tía tô, xà lách, rau húng, và làm những giàn su su, bầu, mướp ngọt. Làng cũng là chiếc cầu nối giúp cha mẹ và con cái ngồi xuống để lấy đi những hố ngăn cách. Sự thay đổi môi trường và tuổi tác, mà nhất là văn hoá Tây phương quá khác với văn hoá Việt Nam đã làm cho không khí trong nhiều gia đình ở hải ngoại rất nặng nề và căng thẳng. Nhờ vậy mà pháp môn Làm Mới đã ra đời để giúp tháo gỡ những khó khăn và đổ vỡ ấy.

Trong lần giới thiệu về Làng Tu học, Thầy chúng tôi cũng nói đến ý định trồng mận (pruniers – plum trees) để gây quỹ cho trẻ em đói ở Việt Nam. Chỉ cần dành tiền túi được 15 francs là có thể trồng được một cây mận sống một trăm tuổi. Vậy là các cháu lại dành dụm tiền túi nhờ bố mẹ gửi về Làng để trồng mận. Cháu nào cũng trồng năm sáu cây mận cho quỹ trẻ em đói. Các cháu trồng được tất cả là 1.250 cây mận, loại mận cho trái ngon và ngọt nhất. Không những chỉ có trẻ em Việt mà trẻ em Tây phương cũng rất hăng hái với lời kêu gọi này. Cha mẹ các cháu thì thấy đây là một việc làm có ý nghĩa và cũng là dịp để gieo trồng những hạt giống hiểu biết, thương yêu vào trong lòng các cháu cho nên rất hết lòng yểm trợ.

Thời gian trôi qua thật đẹp và bình yên. Đến đầu mùa xuân năm thứ hai, không biết từ đâu hoa thuỷ tiên mọc lên hàng nghìn, hàng vạn đoá ở mé rừng bên phải Xóm Thượng, Thầy đặt tên cho mé rừng này là Pháp Thân Tạng. Vậy là Thầy lại viết thư mời mọi người về Làng dự Hội Thuỷ Tiên vào đầu tháng 3.

Ba bốn năm sau, những cây mận đã lớn và cho rất nhiều hoa. Vậy là bà con kéo nhau về thăm Làng và thưởng thức hội Hoa Mai. Vào tháng Tư, hoa mận nở hoa trắng xoá nên Thầy dạy đổi tên thành Làng Mai cho hợp với thực tại. Vậy nên từ đó Làng lấy tên là Làng Mai. Bởi vì chữ Hồng có thể hiểu lầm là Làng chỉ trồng hoa hồng, cũng có thể là chỉ trồng hồng trái. (Ở Pháp người ta chỉ trồng hồng trái cho đẹp vườn nhà. Vì thế Làng chỉ trồng năm cây hồng ăn quả ở mỗi xóm cho mình ăn thôi). Xóm Hạ được Thầy đặt tên là Mai Hoa thôn, Cam Lộ tự.

Làng Mai 1983

Chân Không và mẹ dưới giàn su su

Thư Lê Thương viết ngày 11 tháng 4 năm 1983

“TP Hồ Chí Minh 11.4.1983

Mến gửi cô Phương Hương

Bức thư ngắn này đến được biệt thự Khoai Lang thì cũng đang hè, đến để “lượm vỏ khoai lang khô héo” vì phơi sương tuyết từ bốn tháng nay.

Tôi lúc này không biết vì tuổi hoàng hôn khiến tôi lừ đừ vô trách nhiệm hay gì khác mà tâm hồn thấy trống rỗng, ý nghĩ rời rạc như cơm gạo tẻ. Vả lại tôi đâm sợ vì những điều nói trong thư tín dễ bị người đọc đọc khá kỹ cắt nghĩa bậy thì khổ. Đã có một cậu trai vì thư tín với một nhạc sĩ Việt kiều bị công an hỏi han nhiều nên tôi có vẻ chột dạ. Thư thì lắm lúc rất nóng viết vô cùng nhưng để nói chuyện không quan hệ, tẻ ngắt thì quả là không muốn viết. Mà chuyện đáng nói là những điều tai nghe hấp dẫn thì lại dễ mang hoạ, nên tôi đành lười, một thứ bệnh cũng lây từ các bận bịu lăng xăng trong nhà ngoài phố, bạn bè thăm viếng bất chợt làm phân tán thì giờ ra từng mảnh nhỏ, vụn vặt không đâu vào đâu.

Cách đây một tháng từ giã bạn Lê Trọng Nguyễn sang Mỹ (Nhạc sĩ Nguyễn viết bài “Nắng chiều” chắc PH nhớ). Lúc chia tay ôm nhau lần chót cũng thấy não lòng, không nói được gì vì nghẹt thở rồi chùi nát một giọt luỵ quay đi phía khác. Nhiều bạn đã đi mất, và đang sẽ mất một ngày nào đây. Thành ra cứ một bạn ra đi là lại thêm một vệ tinh lọt vào quỹ đạo xa xứ. Đời sẽ quay tròn chung quanh mảnh đất kỳ ảo tên là Việt Nam mà họ vừa vật lộn với thủ tục để được giải thoát…

Văn chương chua lét của nhiều Tú Xương, Tú Mỡ tái sinh nghe vui và thắm thiết nhưng không nên nói nhiều kẻo thành Tú Khổ. Nóng Sài Gòn lúc này giữa trưa 1, 2 giờ thường là 36 độ C trong nhà nên tinh thần dễ căng thẳng. Ngoài đường vào giữa trưa những hôm cúp điện thì nó lên gần 38 độ. Trong nhà trẻ con người lớn đều ăn mặc đồ cụt để lát lát là la hét rầy rà quát tháo như mổ bò. Chỉ có nước đá mới làm dịu được cái thói hung hăng bọ xít dothời tiết tạo nên và đôi khi hay nhiều khi, công việc làm ăn kiếm sống ngày càng khó khăn tạo thêm. Đó là không nói đến các thủ tục mới phải ráng mà theo:

  1. Nào là loa gọi thanh niên từ 17 đến 38 đăng ký “Nghĩa vụ quân sự” gấp để phân biệt người nào vào hạng trừ bị, người nào vào hạng tân binh sắp kề.
  1. Thủ tục đăng ký lại đồng hồ nước mặc dầu ống nước trong nhà đã xài mấy chục năm.
  1. Thủ tục đăng ký lãnh quà hay tiền từ thân nhân nước ngoài gửi về.

Việc này chắc Phương Hương cũng đã nghe: Mỗi hộ khẩu chỉ được lãnh 3 lần 1 năm về quà mà giá trị không quá 2000 đồng Việt Nam. Thuế có tăng theo trị giá mà nhà nước thẩm định theo ý riêng?

Gia đình tôi có đi đăng ký theo thủ tục phải làm, mà có mạn phép đăng ký cả tên Phương Hương trong danh nghĩa là “bạn của gia đình”, không biết Phương Hương có cho phép không vì phòng xa bất ngờ những gì có thể đến (phải khai quà do ai gửi về Việt Nam, liên hệ gia đình thế nào).

May quá, quà chót của Phương Hương mới tới vào 12.4.83 chưa kể như lọt vào thể thức mới nên lãnh được dễ dàng, thuế tăng thêm 10 lần nhưng cũng còn hên quà tới thật là một gáo nước mát uống trong lúc đang khát khô cuống họng, vì từ mấy tháng nay tôi không hề biên thư cho Phương Hương biết là sống hay chết mà linh tính cưu mang của PH đoán đúng là tôi vẫn còn sống nhăn và gửi quà như thông lệ trong hộp. Tôi đọc những giọng nói ôn tồn không nao núng về sự lặng tờ ấy mà tôi bỗng thấy như mát ruột. Vậy tôi vẫn được Phương Hương săn sóc mặc dầu nín thinh. Cái tên Phương Hương (Hương Đẹp) là tiền định.

Có những người như thế, sinh ra để không hưởng hạnh phúc cho mình mà để gây hạnh phúc cho người khác.

Lê Thương “bí”

Tôi lại còn ưa cách giải thích đầy nhã ý của Phương Hương là tôi “Bí”. Đúng quá. Ai cũng phải ăn bí và trái bí (bí đao hay bí rợ) là những thứ nấu canh hay xào ăn lại ngon và mát! Tôi thì “bí thơ” trong cái nghĩa thiếu đề tài hấp dẫn để viết thơ thì cũng đồng nghĩa với bí tắc.

Thế kỷ sau sẽ ra sao?

Chắc tôi sẽ không sống còn để làm nhân chứng cho một thời tao loạn, cho những kiếp người mệnh bạc. Quả thật chúng sinh chưa ra khỏi bể hoạn. Vì thế phải ngước mắt nhìn trời để mưu tìm an ủi trong tin tưởng một lẽ công bình hay một niềm siêu thoát.”

Thư Lê Thương viết tháng 9 năm 1983 “TP Hồ Chí Minh tháng  9.83 Mến gửi P.Hương

Lâu lâu lại có xe Air VN tới chở đôi ba gia đình lên Tân Sơn Nhất sum họp với con cái cha mẹ ở nước ngoài, vài đứa con lai vẫn đợi ngày gọi lên sân bay.

Quà sáng lúc này chỉ còn củ mì, khoai lang, bắp rang, trái cốc chín. Bánh ngọt, bún tầu, bánh canh, phở, hủ tíu đâm ra hiếm vì phải 20, 25 đồng một tô.

Tuy vậy trẻ con vẫn ăn khoẻ và đùa giỡn đều, đánh đáo, chọi tiền ăn tiền và chửi tục. Các tiệm nhậu Thanh Hải, Bùi Viện quán đã đóng cửa từ gần hai năm nay. Trục kinh tế về ăn uống chuyển sang ngã tư với quán ăn mới mở “Sài Gòn Tourist” (Khang trang từ thời chủ cũ người Hoa đã ra nước ngoài) và các sạp ăn uống đủ cỡ cho các hạng khách. Vui vẻ, tấp nập cho đến gần 1 giờ đêm. Sau đó trong các ngõ vẫn còn cháo trắng, cà phê bít tất, rượu đế cá khô.

Cám ơn PH đã chẩn đủ các thứ bệnh không tên từ một quê hương buồn đem đến. (Mà tuy bận quá đầu vẫn không quên gửi cho LT. những gói quà an ủi “bất ngờ”- vì lắm lúc tôi nghĩ PH quên cái tên LT. già cỗi hết xài ấy cũng chẳng sai mà cái tên ấy lại im hơi lặng tiếng như “an dưỡng chi nhân” thì âu cũng là phải phải, nhưng PH vẫn không quên, làm sao cho tôi gần hết mong đợi mà cứ lãnh được quà như thường nên thật là bất ngờ).

À gói quà thứ hai mà PH gửi đã tới và lãnh ngày 11.11.83 đúng ngày kỷ niệm Đình chiến xưa mà quà PH không có Đình mà cứ đủng đỉnh tới (cái gói trước ngày 24.9.83). Cả 2 gói đều thật bất ngờ, vì từ Tết năm 83 mọi gói quà đều khựng lại đồng loạt vì những tin đồn lăng xăng nên cả con gái tôi cũng đình hoãn. Tôi cũng biệt tăm hơi hết cả tiền để gửi thư lúc này hơn 30 đồng một cái, nên có bạn ra nước ngoài tôi phải liệng SOS cho nó cứu tàu ghe đang chìm thì quà PH lại là 2 cái phao tới trước hết.

Không mừng ra nước mắt cũng uổng. Tôi đã im lặng để xúc động và hôn cánh tay xa vời của PH và tự coi mình là một bệnh nhân đa bệnh tật mà bác sĩ PH đã bắt mạch bằng vô tuyến điện tử. Thời tối tân về văn minh vật chất mà vẫn còn một tâm hồn như PH. Ôn tồn giữ những cảm sống nhân ái giản dị vô tư thật là hiếm có.

Sự thương mến của tôi càng lên tột độ vì tôi chỉ biết PH nhờ thư tin cùng xa cách nên tôi quyết chí sống lâu thây kệ thời gian cực lực chống trả cảnh già nua, tập thể thao mỗi ngày và cầu trời được ngày kia ra đi để gặp bạn cũ và riêng PH – ngày đó nếu có tới, tôi sẽ có xin một ân huệ “bất ngờ”. Không nói trước vì là bí mật nguyên tử sẽ mở ở Biệt thự Khoai Lang.

Đáng lẽ tôi gửi thêm một bài hát tâm tình nhưng vì thư đã nặng và sợ hiểu lầm do bà kiểm duyệt nên hẹn thư khác cũng khoảng cuối năm là cùng. Ngày 8.1.84 là sinh nhật của LT. Các bạn tôi đã hẹn có sự long trọng. Xin PH đừng lưu tâm vì đã quá bận nhiều vì tôi.

Xin chúc Bác và các cháu ở biệt thự và các bạn của PH xa gần được khoẻ mạnh và hạnh phúc.

Ltg.

Thư Lê Thương viết ngày 12 tháng 7 năm 1984

“TP Hồ Chí Minh 12.7.84 Cô Phương Hương thân mến,

  1. Tôi đã lãnh xong hai hộp thuốc tây PH gửi tới 4.5.84 và 4.7.84. Thuốc nào cũng thích hợp với nhu cầu gia đình và nhu cầu “trao đổi văn nghệ”. P.H tế nhị và đầy linh tính kịp thời mặc dầu có sự chậm trễ báo tin của tôi. Thời gian qua nhanh ghê gớm. Tôi đã tính báo tin ngay như thường lệ bằng bưu thiếp rồi lần lữa mãi đêm quên lãng đi. Lúc đó bao nhiêu nước đã chảy dưới cầu. Thôi xin nước trôi ấy đem theo mối lo âu của Phương Hương đối với tật chậm rãi của tôi nhé. Cái gì cũng trôi qua, chỉ có thuyền cảm tạ của tôi vẫn đậu bến.
  1. Nỗi buồn của Phương Hương về ở nhà có nhiều người quen vào bệnh viện thì chỉ nên biết qua là chỉ có 6, 7 bệnh nhân bất đắc dĩ đã đi điều trị vì bệnh thời khí chứ không phải chỉ một HHT (Hoàng Hải Thuỷ). Tôi chỉ nhớ vài initiales (chữ đầu của tên) như DQ Sĩ (DoãnQuốc Sĩ), DHC, D Trac, L T Ý, TK Ngan (Tô Kiều Ngân). Đã lâu từ tết Giáp Tý tôi không gặp ai nên không biết thêm gì nhiều. Chỉ cần biết là mùa mưa gió ở vùng gió nồm vẫn làm đổi thời tiết gây cảm cúm khá lu bù mà thuốc uống và chích vẫn chưa biết hiệu quả. Bệnh viện nghe đâu cũng khá nhiều thân chủ.
  1. Nhân hơn một tháng về quê cũ tôi ở miền Bắc, nhận thấy nơi tỉnh nhỏ và làng mạc người dân cần cù vẫn giữ được tình thân thiện đều đều. Tuy nghèo họ vẫn còn cả khí khái đối với bà con quyến thuộc và cả với khách xa mới về. Tất cả đều gắng sức lao động để sống sót. Tất cả tâm trí đều dồn vào miếng ăn áo mặc vì thời tiết ác liệt, thiên nhiên hung dữ và lòng mọi người đều khép lại không mấy ai thấy thoả thê mà chuyện phiếm hay chửi đổng. Nói hay cũng không mấy ai tin vì tai đã chai đá mất rồi, đầu óc đã chật ních những kế hoạch mưu sinh, những mánh lới làm ra tiền mua gạo. Đó là tâm trạng tôi cảm thấy khi về thăm đất Thăng Long và vài tỉnh lớn nhỏ khác.”
Lại trào phúng đen

“Cái dân tộc vui đùa độc này vẫn cứ vui đùa chát chúa như coi đời bằng vung và sống chết là thường. Lâu lâu gặp nhau, các ông lại đùa:

(A) Thế nào giấy tờ đến Nguyễn Du (nơi khởi đầu) hay Nguyễn Trãi (nơi đang tiến triển) rồi anh?Tôi mà đi đâu, có ai bảo lãnh hồi nào. Tôi đã “đăng ký” đi an dưỡng địa từ lâu mà chó chết xe “đòn” nó cứ hỏng máy và thiếu xăng gì đó nên anh còn gặp được cái bộ mặt tôi.

(B) Không, anh còn khoẻ lắm chưa đi toong được, nợ đời anh đã trả hết đâu!

(A) Ông này bĩu môi ra vẻ khinh mạn, buông miệng nói: Ôi anh thấy cái “sắc đẹp hoàng hôn” như thế này mà bảo là khoẻ! Vợ nó cho ăn tưởng là cá hấp Phan Thiết không à. Tôi “khoái ăn sang” (nói lái lại là “sáng ăn khoai”) nhưng bà vợ nó hết cưng tôi rồi nên “sáng ăn cơm sườn! chiều ăn nước tương, tối leo lên giường nhờ vợ gãi lưng.”

(B) Anh nói cái gì? Như vậy anh sướng thấy mồ còn gì mà than.

(A) Anh chưa hiểu cái nghĩa của câu tôi nói. “Cơm sườn” là sườn xe đạp đó ông nội ơi, đạp xe đạp vào chợ lớn mua mấy hũ nước tương sư bán về ăn cơm chiều. Đạp long đanh ốc đầu gối, vẹo bà nó mấy cái xương sườn nên vợ nó đấm lưng cho để ngày mai tái bản, cứ như thế thì anh bảo không đăng ký đi “an dưỡng địa” (nơi này có lò thiêu người chết) cho nó rồi còn chờ gì.”

Tâm sự Lê Thương khi phải xé đi hay đốt hết những kỷ niệm lịch sử vàng son

“May mà tôi còn nhiều sách vở và bài bản cũ nên từ mấy năm nay đem ra xếp lại đóng thành tập, kết thành đề tài chật ních hai tủ cao 2 thước rưỡi, rộng 1 thước hai mà cũng chưa hết, thế là phải xé bớt đi cho nó nhẹ đời. Nhiều tờ giấy vàng khè nó khóc lên vì đã nằm yên vài ba chục năm mà nay bị huỷ bỏ không khác gì những nấm mộ cũ đang được đào lên để hoả táng, bài ca xưa không còn tác dụng. Hình ảnh đã ngả màu vàng của những bạn bè, học trò và của chính mình hồi còn thơ ấu, hồi còn yêu đời, hồi còn tin tưởng. Theo dõi sự tiến triển của phong trào tân nhạc từ hơn 40 năm nay, tôi gom góp chương trình nhạc hội, hình ảnh sân khấu, một số bài báo phê bình khen chê (những kỷ niệm quý giá trước đây) có khi đọc lại và ôn được bao lời vàng ngọc chen lẫn với sỏi đá. Nay không còn nói lên được gì trước phong khí văn nghệ hiện đại, tôi đành xé đi đốt đi vì mang ra ngoài cho cũng không được thì giữ mãi làm gì.

PH ơi, thật là não nề chỉ có những ai có tuổi, đã kinh qua bao giai đoạn lịch sử nước nhà, mới thấu được niềm đau xót khi phải bỏ những mảng dĩ vãng đã từng sống động một thời ấy. Lược sử Phong trào Tân nhạc với bài bản người lớn trẻ con ở miền Đồng Nai yêu quý này. Bao nhiêu ngàn bài hay dở đã trang điểm cho trí óc trẻ thơ xưa, trẻ lớn ngày nay thành bà, thành ông, thành cụ, tất cả đang bị xoá nhoà và chôn vùi vào dĩ vãng không tên tuổi. Tôi muốn gửi đi cho PH hay bạn nào ưa thích giữ giùm mà không có cách nào hết, đành xé bớt xé hoài vì cũng sợ có ngày gây tai hoạ. Cơ sự đáng buồn như thế đấy. Mà nói với nhiều người nước ngoài lắm thì cũng bất tiện: Cánh chim bay xa có tới được tổ ấm? Nỗi lòng dịu vợi có thấm được tâm hồn ai?”

Thư Lê Thương viết ngày 22 tháng 2 năm 1985

1. Bức thư hiền từ và ngắn ngủi này là thư viết lại lần thứ 5. Bốn cái trước viết nửa vời từ cuối năm 84, bỏ dở ít lâu rồi mất thời gian tính, đành phải viết lại. Có cái đi quá trớn, sợ bất tiện hay vô duyên cũng bỏ dở viết lại. Cảm giác từ gần 6 tháng nay của tôi là nhiều thư hay được đọc tại Hà Nội rồi mới được gửi giùm nên nhiều cái để 3 tháng hơn hay 4 tháng mới tới, làm cho lời lẽ trong thơ phải đắn đo hết sức, nói đùa không được, giọng hài hước không được ưa thích, chính vì thế thư của tôi bỗng nhiên vắng bóng, xin lỗi P.H với sự năn nỉ được thông cảm.

Có những tháng thiếu vitamines, tự thấy như thời vận hơi long đong. Vắng tin bạn xa từ 5 đến 6 tháng, tôi cảm thấy bơ vơ như bị bỏ quên. Mới đầu năm Ất Sửu, khi đám trẻ mặc quần áo mới, đi bát phố hàng vạn và trẻ con hàng vạn, triệu vui đùa đón xuân, đòi lì xì, thì tôi ngồi nhà cũng để giữ nhà cho con cháu đi chơi tuỳ thích, lấy album cũ xét lại những xuân qua.

Quà P.H gửi tới đầu tháng 3.85 hai gói đã tới như chiếc máy bay hàng không dân sự 2 ống phản lực sà xuống phi trường, oai nghiêm khẳng khái, trước sự chờ mong của người ra đón thân nhân yêu quý.

Thuốc men không cần bàn đến nhưng đáng nói nhất là tấm lòng săn sóc đến tôi, đến từ ngoài xa cách mặc dầu đáng lẽ không đến cũng chẳng sao cho PH, nhưng vẫn đến mặc dầu sự yên lặng thư tín của tôi suốt 5, 6 tháng trường giống như một giấc ngủ mùa đông của các loài vật có máu lạnh, lâu quá.

Xuân đã đến từ lâu, hai lần mà lòng vẫn chờ hoa chưa nở cho đến lúc có tin máy bay hạ cánh mới thấy xuân ngất sỉu và trỗi dậy thành xuân “Ba đời đã héo lại tươi”.

Tôi nói chuyện với Người Xa Cách là PH mà chỉ muốn siết chặt bàn tay PH như tay của một nàng tiên đi cứu khổ.

Xin Phật Đà ngàn mắt ngàn tay mà hình gửi theo thư này giúp PH trên mọi đường sinh hoạt nghề nghiệp và xã hội đến kết quả ước mong là giúp cho đời thêm đẹp.”

Thiên hạ đồn Lê Thương đã chết

“Ngày 1.4.85 đưa đám tang bà Kiều Hạnh (kịch điện ảnh…) mới có dịp gặp bạn cũ. Một cô luống tuổi gặp tôi với đôi mắt trợn trừng. Hỏi sao, cô nói: Sao con nhỏ… nó quả quyết là anh chết rồi, nó còn nhấn mạnh là “vừa đưa đám anh về”. Trời ơi, chỉ kêu trời và cười tươi lên nhìn đời.

Tính ra Lê Thương đã chết vài lần mà vẫn còn sống nhăn răng cười khô cả răng mỏi cả mép. Ngoài Bắc năm 77 vào thâu âm tiếng nói của tôi để khẳng định là vẫn còn chưa chết. Mấy năm trước cũng thế.

Nói qua vài chuyện vặt của thành phố, tôi nhận thấy cuộc sống hàng ngày nơi đây không còn nhiều hấp dẫn, ai cũng lo gạo nước mắm muối và để vào các vấn đề này quá nhiều thì giờ, các bà nhà nào buổi sáng buổi chiều cũng lo nhặt gạo nào là thóc, là hột cổ, hột đen gì không biết, sạn, rồi các bà xàng xẩy cho hai bữa cơm con nuốt nổi.

Trở về chuyện Biệt thự Khoai Lang, nơi mà PH suy tư thường bữa mà tấm lòng vẫn gửi về muôn hướng, tôi thấy mừng vì sau chuyến thăm cali (và gửi về tôi bưu ảnh thần T.D.) rồi dự trại hè có dạy hát cho thanh thiếu nhi, tôi chắc không gian rộng đã đem vào tâm hồn P.H nhiều hướng sống và nhất là sự yêu đời.

Tôi thích P.H vui cười với bạn mới đang gặp thêm để PH bớt buồn phần nào khi phải săn sóc bệnh nhân ngày càng đông nghẹt.” Trong một hộp quà trước đây, nhân tiện có mấy tấm hình ngày Tết chụp với gia đình anh chị Tám tôi có dâu rể của anh chị Tám, tôi mặc áo dài tím tóc xoã một bên, tôi nghĩ: ‘‘Thôi, bề gì anh cũng là bạn của anh chị Tám và anh Sáu tôi”, nên tôi gửi về cho gia đình Lê Thương tấm hình ấy. Thường thì tôi chẳng muốn gửi hình tôi cho những người mang ơn hay thán phục việc tôi làm, vì tôi đâu có cái ngã, cái ta riêng biệt? Những công tác gây hứng khởi và niềm tin cho mọi người dĩ nhiên là có cái cô ưa làm cách mạng gia đình họ Cao thật, nhưng nếu không có Thầy tôi cầm tay và nhiều nhân duyên, nhiều bàn tay anh chị em khác thì làm sao mà thành được. Nếu không có tiền thuốc men từ Uỷ ban Hà Lan lo cho trẻ em thiếu ăn (và các văn nghệ sĩ cũng thiếu ăn trầm trọng) thì làm sao có những ân nghĩa chằng chịt như kia. Đó cũng do cánh tay từ bi của Bồ tát Quan Âm trong trái tim mọi người mà hình thành.

Cả nhà anh Lê Thương nhận được mấy tấm hình tôi gửi trong đó có tôi. Sau đây là những cảm nghĩ của anh khi xem những tấm hình nhận được và những nhận xét về Làng Việt Nam mà tôi viết khéo cho Lê Thương.

Thư Lê Thương viết ngày 20 tháng 3 năm 1986

“TP Hồ Chí Minh 20.03.1986

Phương Hương thân mến

Bức thư thứ tư này mong sẽ xong, không cần thắc mắc là ngắn hay dài, có chuyện hay hay không. Vì thắc mắc hoài như vậy nên ba lá thư viết từ giữa năm 85 đến Tết vừa qua vì đứt khúc mất thời gian tính nên đã bị xé đi. Mong PH hiểu cho tính dè dặt từ năm ngoái đến nay của tôi. Sự nín thinh khó hiểu và như vô lý ấy, chỉ có PH mới tha bắt lỗi? (P.H gửi cho tôi hai tấm hình rất đẹp làm cho cả gia đình tôi vui mừng và tấm tắc khen mãi niềm hạnh phúc thể hiện trên mỗi nét mặt như một giao hưởng khúc dân tộc đem an ủi cho lòng giữa những giờ đang khó khăn diệu vợi này.)

Tôi sực nhớ bốn câu thơ tức hứng của ông bạn tôi, cư sĩ Hồng Quang nói về P.H như sau:

(Tôi giới thiệu tên một ông mà tôi quen biết chỉ nói là ở Pháp).

Nguyễn Tộc truyền Bưu phúc Đại Hành Thị thành cố quận ẩn tâm tranh PhươngTây hồn Việt hoài thương cảm Hương quả Thiên đường giác Đạo Thanh Lam Sơn cư sĩ, Hữu Trí Hồng Quang.

Hôm đó tôi gặp cư sĩ tại nhà người bạn sắp đi Bỉ và anh mừng rỡ vì chúng tôi đã quen nhau từ mấy chục năm ở Vĩnh Long.

Anh H.Q tên thật là Lê Tấn Lợi, tiến sĩ kinh tế học đã có lúc làm bộ trưởng và rất hay làm thơ tức hứng, viết liền tại chỗ như không cần suy nghĩ mà giọng thơ có vẻ Hán Nôm nghe rất xuôi.

Nay sang là thư chót của P.H có hình P.H chụp chung với gia đình anh Cao Thái, chắc vào dịp xuân Bính Dần 1986. Cả nhà tôi xem hình và rất thích thú khen cái phong độ hạnh phúc đầm ấm toát ra trên nét mặt mọi người. Tôi thì chú ý riêng đến P.H, lần đầu tiên được biết mặt. Người đàn bà trang nhã điềm nhiên mà có thoáng nét suy tư trong hình lại là P.H mà tôi vẫn kêu là thân mến. Thật sự PH trông vừa đáng mến vừa đáng nể trong cái dáng đơn thuần, cái nhìn bình tĩnh mà bao la của người trí thức tha thiết với đời.

Tôi vẫn quan niệm không sai PH là một nhi nữ muốn đứng trên lẽ thường tình, xa lánh cái tục luỵ hiền thê hiền mẫu của bao phụ nữ thông thường để nhìn rộng vào việc xã hội mà tìm đường giúp ích theo phương tiện riêng. Việc giải quyết các vấn đề bao la này chắc gồm nhiều hi sinh.

Vì thế mà có lẽ đời PH bận rộn, lo lắng, không nhàn mà không thích nhàn. Có lẽ vì tính tự phát thêm giàu sáng kiến, PH lo cho làng VN, lo cho các cháu học hành, giữ cho tinh thần đám trẻ như người có tuổi, đừng đánh mất tính dân tộc. Việc tham thiền của PH, một tác động tâm linh mà tôi chỉ biết sơ sài là tạo được sự bình thản tâm hồn và cũng là một cử chỉ cao khiết giữ cả sức khoẻ cho thể xác, đem sự yên vui cho lòng.

Xin trời Phật giúp những người như PH đạt được mọi ý nguyện hiện giờ để có ngày về Việt Nam giúp thêm cho đồng bào như ước mong.

L Thg”

“PH quý mến!

Tôi vẫn khoẻ mạnh và bận rộn không ngừng. Hôm nay tôi phải “bền chí” mà viết cho xong lá thư qua nhiều ngày chấp nối, sửa đi chép lại. Tôi thấy đối với PH phải đắn đo phần nào khi viết dài vì tự thấy dễ buông thả và nói năng nhiều điều mà kiểm duyệt có thể hiểu lầm mà sinh hoạ. Nhiều thơ từ nước ngoài về cho tôi có đóng dấu riêng đằng sau đằng trước bao thư làm cho tôi lo nghĩ.”

Tâm sự Lê Thương

“Trí óc tuy rất minh mẫn, nhưng ngày giờ của tôi hay bị cắt vụn bằng nhiều việc nhà và việc người làm cho tôi chỉ viết thơ từ 24 giờ cho đến 3 giờ sáng từ mươi mười lăm năm nay như vậy. Khi cái chụp đèn chiếu một vũng sáng lên bàn giấy là tôi sống trong một cái đảo suy tư hoặc bắt đầu du lịch trên trang sách, với đám hình sinh hoạt của giới Tân Nhạc hay các trang tem đủ màu của thế giới. Với niềm vui của hồi tưởng, của nhớ nhung.

Lúc đó tâm hồn thanh thản, tôi để lắng xuống các thứ hận mà tai đã nghe ban ngày để nhìn mọi việc, mọi người theo cái “số phận của sinh linh” mà cuộc sống đảo điên vẫn nắn bóp, nhào nặn mỗi ngày. Lắm lúc thoáng ôn lại lịch sử qua hình địa lý, tôi cảm thấy dân tộc ta thật sự là một dân tộc đã sống éo le đau khổ như đám lưu dân lúc nào cũng sẵn sàng hành lý lên đường trước nạn tai, giặc giã, bão tố, lụt lạo, giữa lòng người đổi trắng thay đen mong manh như sợi tóc. Hạnh phúc nào cũng chỉ là thoáng qua khi thấy mình thực hiện một ước mong, một sứ mạng tự đặt cho mình ngay trước mắt. Hạnh phúc của những ngày tháng qua đã trở thành những kỷ niệm mờ dần trước ánh sáng chói lọi của những thực tế hiện nay. Một vài câu than chán chường của mọi người hiện giờ đang bị bối rối trong những thiếu thốn: “Tiền là tiên là Phật, là sức lực của thanh niên, là tình duyên của tuổi trẻ, là sức khoẻ cuả ông già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng của nịnh thần, là cán cân của công lý, đồng tiền là hết ý”.

Sự mất tin tưởng vào những hứa hẹn bùi tai của những năm hồ hởi có vẻ thành ý nghĩ triền miên trong bao bộ óc chán chường, nhất là trong những con người mệt mỏi sau những cuộc hành trình dai dẳng không tới đích.

Điều ái ngại cho tất cả là không được nói lên cái tâm trạng bi đát về cuộc sống ngày càng khó khăn ấy cho ai nghe. Áp xuất nội tâm có lên cao cũng chỉ được xì ra trong vài câu ngạn ngữ, phương dao bóng bẩy, ngạo nghễ truyền miệng, rỉ tai để rồi tạm xếp vào.

Mà thôi, cũng chẳng nên kéo dài nhận xét vì các vấn đề lý tưởng sống đều chung với cái số phận bềnh bồng từ cổ chí kim trên các vĩ tuyến của quả địa cầu lắm chuyện này.

Việc vặt 1

Tôi đã nhận được tất cả các gói quà mà PH gửi theo định kỳ mà tôi đã nín thinh không báo tin là nhận được. Mặc dầu vậy, con người thông minh và rộng lòng hiểu thấu như PH chắc đã đoán là tôi có chuyện gì mắc kẹt nên mới như vậy. Cám ơn PH trăm lần.

Thuốc bổ, thuốc xổ và thuốc kiết. Quả là tôi vẫn còn tốt phước là gặp tinh những sự bao dung giữ cho thân xác luống tuổi và tâm hồn ưa thoải mái của tôi được hai chữ bình yên vô sự. Thấy sức khoẻ là vàng, tôi chăm sóc cho nó được dồi dào và coi sự lạc quan là liều thuốc bổ. Những nỗi buồn cũng đầy cần phải cho nó đi bớt. Đó là liều thuốc xổ. Sè Goòng rất nhiều chuyện vui sôi nổi không nói lên được.

Các ông lang nội như hải ngoại đang bận… Sè Goòng có vẻ khang trang, hàng bán lề đường trước đây bị dẹp hơn ba phần tư. Chợ Bến Thành đã có một hành lang chung quanh khá đẹp. Hàng bách hoá bán chia thành Stand hai bên một lối đi gần 3 thước rộng. Nhà Crystal Palace (Tam Đa) sắp mở thành siêu thị.

Trước rạp Majestic (tức Maxim’s nay là quán ăn có nhạc tên Bạch Đằng), người Nhật đã mở quán trưng bày các máy móc nông nghiệp cả xe cúp (Honda) đẹp mắt, nghe nói thì có lẽ có phong trào du lịch từ nước ngoài vào tấp nập. Các ban nhạc gồm nhiều nhạc sĩ, nhạc thủ cũ, thuộc bài quốc tế đủ loại sẽ có việc làm nhiều nhiều chăng?

Vũng Tàu thứ 7, chủ nhật vẫn đông. Người ta mướn một cái dù ba cái ghế nằm là 400 đồng, mướn ruột bánh xe hơi là 50 đồng, 70 đồng tuỳ lớn nhỏ. Một chuyến đi lấy vé noir (vé chợ đen) phải 250 thì dễ có, còn cách khác thì “hết rồi” rất sớm.

Phim cũ mà đem ra chiếu thì dân Sè Goòng sống chết cũng phải đi, toàn là phim 16 m/m mờ mịt, vàng úa nhưng thây kệ, nhớ quá chen chúc mua vé noir 4,500 đồng một cặp khi giá chính thức chỉ có 70 đồng một vé.

Mấy phim ăn tiền như “Ảo ảnh cuộc đời” (Mirage de la vie), sau tết B. Dần có Samson và Dalila vàng khè mờ mịt và “Thằng ăn trộm thành Bagdad” của Mỹ cũ cũng 16 m/m mờ mịt vàng úa nhưng ăn khách hết chỗ nói. Màn ảnh nhỏ Video Tape chiếu phim vui của Pháp – Louis de Funes họ đi coi quá chừng chừng.

Một bài điều tra của c/b Trần Trọng Đăng dạy trong viện Khoa học và Xã hội TP HCM báo cáo vào đầu năm 86 tại hội nhạc sĩ cho hay là hàng chục ngàn người già trẻ lớn bé được hỏi thích những bài hát xưa hay nay, thì kết quả hùng biện là: 600% thích bài xưa chỉ có 100% thích bài nay. Có lẽ bài nay khó thấm vì chạy trơn tuột trên lá khoai.

Vài vở kịch nói mới có tính cách phê phán chỉ trích những thái độ “tiêu cực” của vài tai to mặt lớn, hoặc những chế độ lương bổng quá thấp kém được khán giả vỗ tay đôm đốp.

Sè Goòng một bao tử khổng lồ, một đô thị có lẽ không dưới ba triệu người vẫn là nơi ăn xài chết bỏ dưới mọi chế độ. Các cao ốc của thành phố này vẫn minh chứng cho cảnh tiền rừng bạc bể của cái thời vàng son quá vãng mà nhiều ký ức còn ghi nhớ mồn một.

Sung sướng quá, thành phố quên lãng các khó khăn vẫn là mặt trái của bức ảnh, phân hoá cực độ về những tư kiến, thành kiến, vị kiến, cãi nhau chửi nhau, thù nhau, đẩy cây nhau rồi để chìm xuồng cho cùng nhau bơi lội.

Cảnh đời đen trắng, xô bồ của Sè Goòng, tuy nó có phần kiên gan phấn đấu để tự tồn để giữ các sắc thái cố hữu của nó là có vẻ đang có sức lôi cuốn cả những ai từ xa lại muốn thay đổi nó thành những kẻ nhập môn từ từ vào cung cách suy nghĩ và tiêu xài và vui sống của nó, cảnh đời đen trắng ấy vẫn diễn đi diễn lại từng ngày trên đường phố, quán ăn, quán nước lề đường, quán cóc xóm chợ chiều.

Việc vặt 2

Tôi quả là nạn nhân của bao nhiêu việc mất thì giờ và phân tán ý nghĩ. Tôi có nhiều bạn già, bạn trẻ khá đông, cả bạn cũ ngoài Bắc vào: Văn Cao, Lê Yên, Tô Vũ, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát và các nghệ nhân giới cổ truyền. Họ lại thăm và mời mọc thăm người già yếu, người mới mất, người sắp ra đi. Những buổi gặp gỡ để mừng thôi nôi, đầy tháng của con cháu họ cũng phải có tôi. Cưới hỏi của các cháu tôi cũng phải đi vì lẽ tôi là trưởng tộc, tù trưởng bộ lạc.

Vì thế có bạn gọi tôi là “Ông Bận trưởng Bộ Ngoại giao, chủ sự ban thư tín (chưa viết)”. Họ còn thêm “tác giả dự thính các tác phẩm (không bao giờ xong)” quá xá tệ, ới chàng Lê ghét! (thay vì Lê Thương). Đành chịu.

Trong lúc đó ngày tháng trôi qua nhanh chóng kinh khủng, bao nhiêu nước chảy dưới cầu cũng đành để cho chảy. Còn chính mình thì đứng sừng sững làm lão già đứng trong trời đất mịt mù khói lửa bếp củi, cay mắt ù tai, nhìn tương lai đen tối… Lấp loé cái sáng hà tiện của thời thắt lưng buộc bụng.

Có chút cởi mở về văn nghệ?

Trong lá thư ấy, anh Lê Thương cũng nói về tình trạng của các văn nghệ sĩ bên nhà, công tác nghiên cứu biên soạn của anh, và một vài giác sắc mới về văn học xuất hiện ở Sài Gòn, như những buổi tổ chức ngâm thơ, chính thức công khai những bài thơ của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… Loại nhạc êm dịu bắt đầu được phép phục hồi.

Giá cả leo thang

Song phải nói thêm là không biết tại sao các văn nghệ sĩ cũ như mới, tương đối đều đồng ý với nhau là cứ sống thọ như thường mặc dầu giá cả leo thang vùn vụt (50 đồng một cái trứng, 1200 một ký mỡ nước, 100 đồng tô phở hạng bét, 800 một ký thịt gà, còn thịt bò thì ôi thôi. Đường ngà đã lên tới 820 đồng một ký.

Công tác nghiên cứu biên soạn

Một trong những lý do chậm chạp thư tín gửi PH là trót dại lăn vào việc nghiên cứu âm nhạc, nhạc sử và các vấn đề liên hệ cả nhạc Việt Nam từ cổ truyền đến hiện tại. Việc này khởi đầu khoảng 20 năm nay. Có những lúc bỏ lửng vài năm, có lúc chạy nước rút tìm tài liệu, đối chiếu, suy luận, nghe ngóng tin tức mới, tham dự các biến thể của vấn đề nhạc giới sinh động, cao trào thoái trào,… Thật là một đề tài vô tận mà muốn hoàn thành chu đáo phải sống lâu khoảng mươi năm nữa.

Muốn tạm ngưng cũng được, cứ hẹn với độc giả là sẽ bổ túc sau cũng xong, nhưng cũng đau xót là nói sự thật theo tài liệu của miền Nam (thí dụ Tân nhạc) thì chỉ sợ các nhà biên soạn (tức người kiểm điểm tư tưởng trong sách xem có đúng đường lối hay không và cho phép hay bỏ bớt, dẹp luôn) không đồng ý thì uổng công. Mà muốn gửi đi thì không biết bằng cách nào. Mà nghe tin là có xuất hiện bên ngoài thì bên trong cũng không hẳn là bình yên mặc dù không có gì chính trị cả. Ba công trình hầu như chỉ cần hoàn thiện bổ túc là:

  • Một cuốn nhạc sử Việt Namcó phần đầu về truyền thống Đông phương và cả bản nhất lãm đối chiếu nhạc kịch sử Đông Tây.
  • Một cuốn Âm nhạc sự điển (sự chứ không phải từ) được khoảng 3400 chữ dài ngắn về nhạc Đông phương (Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên nghĩa là khối văn hoá Khổng, Lão, Phật của Viễn Đông).
  • Một cuốn sơ khảo tổng hợp về phong trào âm nhạc tại Việt Nam.

Phần Hán tự đã có, tốn kém về dịch thuật và hầu như tạm dừng, phần tư liệu Đông Tây vẫn cần bổ sung thêm. Mà tìm biết cho đầy đủ phải tốn thì giờ thêm trong lúc thì giờ và địa vị không có. Tư liệu của nhà nước Việt Nam thì có vấn đề “bảo mật” rất khắt khe.

Cô thân độc mã và đang già, tôi chỉ còn nai lưng ba thước mà kiên trì cho đến đâu thì đến. Có lẽ vì kiên trì mà phải ráng sống lâu và muốn sống lâu nên tốt số mới gặp PH vừa là bác sĩ chữa bệnh tật và bệnh già, vừa là người am hiểu cảnh éo le của tôi đang sống mà chấp nhận sự nín thinh lâu dài của tôi mà vẫn gửi hàng đều đều đến nỗi như là tôi “cám ơn không kịp”.

Đầu óc lắm khi rối bời vì suy tư và họ hàng chữ suy: Suy luận, suy nghĩ, suy thoái, suy sụp… tôi lảo đảo xe đạp cà khổ leo cầu xa lộ ngày 27.04.1986 và tới đỉnh tôi tuột dốc ngon lành. Về đến nhà vừa khoe với bà xã, bà ban cho một lời phê xanh rờn: “Ông liều vừa vừa chứ, không có ai đi hốt xương ông kịp đâu! Cứ đi Thủ Đức là lại làm tàng.”

Tôi chấp nhận điềm đạm vì nghĩ trong bụng còn khá lép kẹp rằng: “Người đồng thời đã sẵn bất công thì… người đồng thuyền dĩ nhiên bất nhã.” Ôi đều là “bất tri kỳ vị”!

Phong khí thi ca nhạc đang sang đường lối hồi phục?

Mấy tháng đầu năm 86, nhà văn hoá Phú Nhuận có tổ chức ngâm thơ chuyên đề về Xuân Diệu (mới mất), Lưu Trọng Lư (đã 76 tuổi), Nguyễn Bính (tại nhà truyền thống ở ngã tư Yên Đổ Cách Mạng).

Nghe nói sắp đây sẽ có hai đêm nhạc Văn Cao, một đêm toàn bài chiến đấu, một đêm có một số bài tình cảm (Trương Chi, Thiên Thai, Bến xuân, Suối mơ…). Hội nhạc sĩ đang lo chuẩn bị.

Như vậy có lẽ phong khí thi ca nhạc đang sang đường lối hồi phục một số tác phẩm êm dịu, hoà hoãn chứ không triệt để chiến đấu tới cùng. Cũng là dịp thăng hoa những văn nghệ sĩ tiền chiến và đầu chiến để an ủi người đã và đang ra đi chăng?

Trong lúc đó về âm nhạc thì một cuốn sách nhan đề Essai sur la musique vietnammiene của Đào Trọng Từ, Huy Trân và Tú Ngọc xuất bản 1984 tại Hà Nội, trong chương nói chung về phong trào Tân nhạc thì có nhạc sĩ cách mạng và tác phẩm tiêu biểu sự chiến đấu của họ được nêu lên, còn bao nhiêu nhạc sĩ và tác phẩm hầu hết của miền Nam trước đây đều được nín thinh. Cả những nhạc phẩm tình cảm, mỹ thuật, lịch sử của chính nhạc sĩ cách mạng như Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Đỗ Nhuận, Phan Huỳnh Điểu, Nguyễn Văn Thương, Tô Vũ… cũng vẫn chưa được tháo khoán cho hát lại từ 30 năm nay. Đừng ai xao xuyến gì hết vì thời cuộc chưa hẳn là ổn nên có nhạc nhẹ lan tràn nhịp Rock gì cũng chỉ là soupape de sureté cho vơi ít nhiều sầu có áp xuất cao mà thôi chứ khó khăn chưa hết.

Nghe nói có sự chuẩn bị cho phong trào Việt kiều tứ xứ về thăm quê hương cho vơi nỗi nhớ, quả là sẽ vui thì đông người sẽ về nhất là ông già bà lão ngày về sụt sùi chỉ nhớ mồ mả người thân và tìm lại bà con quyến thuộc.

Họ cứ về với lòng thương mến cái gì đang rách nát không vá lại được, cái gì vẫn huy hoàng bên ngoài nhưng bên trong cố gượng tồn tại mặc dầu gió mưa. Nhưng có về thì cũng mau mau, kẻo các cố nhân thân hữu chưa chắc đã kịp gặp lại khách tha hương đã ra đi không hẹn ngày trở lại. Mau lên kẻo cố nhân phải nhắm mắt sớm hơn số phận để khỏi nhìn đời phù vân đen bạc.

Chắc chắn có nhiều người không về kịp, như khách tha phương đã cho ghi hai câu thơ tại nghĩa trang San José (Cali) trên mộ mình:

Xác tục nghìn thu chôn hải ngoại Hồn thiêng vạn dặm gửi quê hương!

Một khúc ly ca ngập tràn nước mắt mà cũng là câu hỏi muôn đời: Tại sao một quê hương mang danh có bốn ngàn năm văn hiến mà là bốn ngàn năm chiến đấu sử để tự tồn mà vào cuối thế kỷ thứ 20 lòng người lại bị phân hoá cực kỳ vụn nát đến nỗi phải nghi kỵ nhau, phải tránh xa nhau khi cùng chung một vòm trời, một bờ sông, một văn phòng, một thính đường âm nhạc?

Nếu khoa học phân chia đi đến chỗ tinh vi tuyệt đỉnh chỉ tạo ra một thế tình như vậy thì có lẽ định mệnh của dân tộc này chỉ là đau khổ.

Cười vui rồi lại cười ra nước mắt. Đặt viễn ảnh một xã hội hạnh phúc thanh bình rồi thấy hiện ra một quang cảnh não nề gì khác. Thôi giấy ngắn tình dài xin kết bằng hai câu kết trong Chinh phụ ngâm: “Dấu binh lửa nước non như cũ. Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương”.

Lá thư này viết lộn xộn, đứt khúc, chắp vá. Tạm cho nó cái tên Hè 86 (Viết nó rất lâu, nhưng may mà cũng xong kịp cuối tháng 5-86).

Chào PH thân mến

L.T”

Xóm Phương Khê trở thành Nội viện Phương Khê

Vì là nơi tĩnh tu cho xuất sĩ khi cần về nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một tuần hay hai tuần. Bốn khóm nóc nhà của Xóm Phương Khê ngày xưa chỉ có nóc thứ hai được sửa chữa xây thêm được mười phòng, nóc nhà thứ ba bên bờ suối đành phải cho dỡ ra, dẹp sạch. Hình dáng cái lavoir cũ không còn nữa và cái nhà sấy mận nhỏ xinh xinh cũng đành phải dẹp luôn. Nóc nhà lớn ở cuối khu nội viện cũng chưa được sử dụng, vẫn còn là nơi hoang phế. Mỗi ngày thứ Ba trong tuần, các vị xuất sĩ từ 6 Xóm khác của Làng Mai (Xóm Thượng, Xóm Tây Hồ, Xóm Sơn Hạ, Xóm Hạ, Xóm Trung và Xóm Mới) tề tựu về Nội viện Phương Khê để tham dự một ngày xuất sĩ – ngày dành cho người xuất gia. Vì thế, Nội viện lại có thêm thiền đường, phòng nghỉ, phòng ngủ cho thị giả. Ngày xuất sĩ có pháp thoại, thiền hành, thọ trai, pháp đàm. Ban đầu thì chỉ một thiền đường cũng đủ chỗ cho 60 vị xuất gia, nhưng khi số lượng những xuất sĩ trở nên đông đảo, hơn 185 xuất sĩ, thì phải sử dụng tới hai thiền đường. Những bài pháp thoại của Thầy ở đây chỉ dành cho giới xuất gia mà thôi. Nội viện Phương Khê có đủ chỗ để cho một số các thầy hay các sư cô thỉnh thoảng về để nhập thất. Có khi năm người, có khi bảy người, có khi hai mươi người cùng về tĩnh tu năm hay bảy hay mười ngày im lặng.

Bưu thiếp 11 tháng 4 năm 1987

Dấu bưu điện TP HCM 11.4.87

“Mến gửi B/s Phương Hương

1 Route de Troyes

Fontvannes 10190 Estissac France, (nhưng lúc này đã có Làng Hồng, Làng Mai rồi. Thư chuyển về theo cách như đã nói trên).

Trước tết năm Mẹo đã lãnh được quà của PH. Nay, mặc dầu sự nín lặng “vô lý” của tôi quà vẫn tới nơi rồi (sẽ lãnh ngày 13.4). Thật là diễm phúc cho một kẻ sống sót của bộ lạc Mohicans. Sức khoẻ và tinh thần của tôi vẫn vững. Đời có sôi nổi đôi khi nhưng cứ ở hiền gặp lành, và giữ sức khoẻ tối đa là có hy vọng màu xanh của bưu thiếp này sẽ chiếu lên đồng ruộng và non sông đất nước đang sôi sục về đổi mới tư duy và bầu cử QH, chống tiêu cực đủ các loại.

Tôi nín lặng vì được “ưu ái” của công an hỏi han trên mười lần. Nay tôi cảm thấy như yên tĩnh mới biên thư ngắn rồi dài để cám ơn PH không quên an ủi giúp đỡ tôi và gia đình tôi mặc dầu gió mưa. Hình ảnh một PH áo tím tóc xoã, mắt nhìn quả quyết mà từ bi đã thành một biểu hiện nhạc cảm tin đời, có ngày tôi sẽ tặng cho các trẻ thơ.

LT”

“Trong tờ riêng kèm đây, theo ý muốn của PH, tôi lại kể lại diễn trình biên soạn 3 bài HVP (Hòn Vọng Phu).

Văn kể có hỗn độn, lối viết có vẻ không được minh bạch như trước đây một đôi năm mà viết 2 mặt giấy cho đỡ nặng thư và mong PH thân mến ráng đọc và bỏ qua cho cảnh luống tuổi trong tôi.

Sự việc hơi chán chường là hoàng hôn của tuổi đời đang lấn vài giác quan, may thay tinh thần vẫn còn minh bạch và lạc quan còn là thói không chừa được mặc dầu mây u ám vẫn lẩn quất chưa tan hẳn ở chân trời.”

Nhạc sĩ Lê Thương và Hòn Vọng Phu

Khám phá ra một nghệ sĩ lớn, một bậc cha chú xuất sắc

Tôi có được địa chỉ của Lê Thương là từ anh chị Tám của tôi. Sau 1975, kinh tế rất khó khăn nên gia đình trung lưu nào ở Sài Gòn cũng đem áo quần, đồ đạc cũ ra chợ trời bán; anh chị tôi bán đồ đạc cũ kế bên anh chị Lê Thương. Và ca sĩ Cao Thái, anh Sáu của tôi, cũng là bạn Lê Thương. Cao Thái hiền như Bồ tát, thiệt thà, có chi nói nấy, không giấu giếm gì được ai. Cao Thái không để ý tới tình hình đất nước, ai lên nắm quyền, ai xuống cũng như nhau. Lê Thương biết tôi là em gái của ca sĩ Cao Thái nhưng không hề biết tôi là phụ tá khá đắc lực của Thầy tôi, thầy Thích Nhất Hạnh, nên Lê Thương cũng thoải mái khoe có cô em gái anh ca sĩ Cao Thái hay gửi quà cho văn nghệ sĩ. Chính anh Lê Thương đã giới thiệu cho tôi các anh Minh Đăng Khánh, Trọng Nội, Lê Trọng Nguyễn (tác giả Nắng chiều), Hoàng Hải Thuỷ, Vĩnh Phan, Ngô Nhật Thanh, Năm Châu,…

Tên thật của Lê Thương là Ngô Đình Hộ, nhà số 55 đường Bùi Viện, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Vậy nên tôi lấy tên Ngô Thị Phương Hương để gửi quà cho Lê Thương. Trước khi liên lạc để gửi thuốc men ủng hộ tinh thần anh, những hiểu biết của tôi về Lê Thương rất nghèo. Lê Thương đối với tôi lúc ấy chỉ là tác giả ba bài Hòn Vọng Phu mà hồi nhỏ lúc năm sáu tuổi ở Bến Tre tôi hay hát bài Hòn Vọng Phu 1:

Lệnh vua hành quân, trống kêu dồn. 

Quan với quân lên đường

Đoàn ngựa xe cuối cùng…

Khi lớn lên, khoảng năm 1960, lúc làm giảng nghiệm viên ở Đại học Khoa học, tôi nghe được bài Hòn Vọng Phu 2 – Ai xuôi vạn lý mà chị Thu Đồng, đồng nghiệp của tôi hay hát mỗi khi Phòng Thực vật chúng tôi có tiệc. Bài này buồn và có cái gì rất sâu thẳm, rất mỏi mòn tuyệt vọng. Trong Hòn Vọng Phu 2 này, âm hưởng và hình ảnh rất là Bắc, như chuyển tải cả những nỗi buồn vạn cổ của miền Bắc đất nước! Tôi không ngờ là chính Lê Thương đã sáng tác Ai xuôi vạn lý ngay tại quê tôi tận miền Nam, giữa rừng dừa nước phù sa bùn lầy kinh Chẹt Xậy, trong lúc chín phần mười có thể bị Tây ruồng bắt và giết. Sau này viết cho tôi, anh nói lúc đó anh không biết sẽ chết phút giây nào, nhưng vì cái tình yêu quê hương vẫn sắt son, không khác gì tình của người vợ trông chồng, thủ tiết chờ chồng cho đến khi hoá đá, mà tự nhiên những nốt nhạc cứ nhảy lên trong đầu. Và anh đã ghi vội vàng những nốt then chốt của bài Ai xuôi vạn lý bằng cây bút máy đã khô mực, phải nhờ nước sông Chẹt Xậy thấm ướt nên mới viết được ra!

Thế rồi sau khi liên lạc với anh Lê Thương tôi mới phát hiện ra anh cũng chính là tác giả những bài hát thiếu nhi rất quen thuộc mà tôi đã từng thích và thuộc làu mà không để ý tên tác giả. Tôi hay dạy các cháu hát các bài như Tuổi thơ:

Trời xanh, xanh mát, 

Hương thơm, thơm ngát. 

Cùng nhau ta múa điệu ca, 

Cùng nhau ta hát đời ta… 

Trẻ con theo tánh

Ưa trái cây ưa bánh

Hàm răng hay sún vì chua! 

Mà ai cho bánh thì ưa.

Dầm mưa, dang nắng, 

Chơi cát dơ mẹ mắng. 

Sống vui trong bầu trời thơ 

Sướng thay cho đời trẻ thơ.

Hay bài Chú Cuội:

Ánh trăng trắng ngà 

Có cây đa to

Có thằng Cuội già 

Ôm một mối mơ…

Thì ra đều là nhạc của Lê Thương.

Từ từ tôi đã khám phá ra một người nghệ sĩ lớn, một bậc cha chú, một bậc đàn anh trong nền văn nghệ Việt Nam. Lê Thương mà mọi người biết là một nhạc sĩ lớn, có nhiều tác phẩm nhạc bất hủ như Hòn Vọng Phu 1, 2, 3. Nhưng ít ai biết được rằng anh có tài viết văn thật dí dỏm, và có một tâm hồn rất đạo đức và từ bi. Anh chụp hình thực tại bằng một ngòi bút rất xác thực, sắc sảo nhưng độ lượng và thật hiền từ. Ôi những bức thư trên giấy pelure mỏng tanh, bị chuột gặm phía góc trên đầu và góc bên dưới mà lần nào đọc lại tôi cũng nghe lòng quặn đau, nhưng rồi lại bật cười khan một mình khi nước mắt đang trực trào ra. Đúng là một phong cách viết văn có một không hai của Lê Thương. Trong tập sách này tôi sẽ giữ nguyên tất cả những bức thư mà Lê Thương viết cho tôi, rất đa dạng, rất dí dỏm nhưng có khi rất não nùng, đứt ruột. Xin các bạn đọc trong phần Phụ lục. Xin bạn đọc ráng đọc Phụ lục cho trọn vẹn, và xin tha lỗi cho tôi đã không trích dẫn nhiều đoạn rất hay, vì Lê Thương có cách trình bày rất tuần tự, nếu chỉ trích một đoạn thôi là làm mất cái mạch lạc anh muốn trình bày.

Thư nào anh viết cho tôi rất cũng rất nghiêm trang mà cũng rất dí dỏm, hào hứng, biết khen đúng mức, nhưng không làm thấp nhân cách của mình. Tôi biết, cũng có thể nhờ nhiều nhân duyên, trong đó có những bức thư rất tha thiết của chúng tôi viết cho anh, những bức thư mà Thầy chúng tôi “cầm tay” – nghĩa là Thầy giúp thảo trước những gì cần tưới tẩm hạnh phúc và niềm tin nơi anh, mà anh mới viết được những bức thư như thế. Phần nói về thuốc men và chỉ cách trị liệu cặn kẽ thì do anh rể thứ Năm của tôi là bác sĩ Nguyễn Phước An cung cấp rất tận tuỵ. Anh tốt nghiệp đại học y khoa Paris, đã có mấy mươi năm kinh nghiệm trị bệnh nhiệt đới tại Việt Nam trước khi quay lại Pháp.

Bác sĩ Nguyễn Phước An là người kê đơn thuốc (từ trái qua phải, người thứ ba)

Nhờ thế, Lê Thương nhận thư chúng tôi như được một món quà bất ngờ. Mỗi lần Lê Thương được thư và quà chúng tôi gửi, anh lên tinh thần và viết không biết bao nhiêu là những dòng tâm sự. Nhưng cái sức mạnh trong anh là ở chỗ: Trước những hoàn cảnh nghiệt ngã, anh không muốn để lòng yếu kém, nên hay đánh quật lại chính mình bằng những câu “dí dỏm rất Lê Thương” như sau: “Tôi đang xé bỏ bao giấy cũ, hình cũ, bài cắt báo cũ gồm thơ văn rải rác vì thấy đời nặng chĩu những kỷ niệm không còn thấy hợp cảnh. Xé mãi mà cũng không phải là không đau lòng. Có lúc muốn xé cả mình mà không biết làm cách nào, đành tức cười mà chui đầu, vùi mặt vào Số Mệnh. Số Mệnh hắt tay ra và mắng: Đừng có ba trợn, phấn đấu tiếp đi ông nội. Thì phấn đấu vậy!

Ngòi bút trào phúng chụp hình Sài Gòn 1979 – 1987

Những bức thư của Lê Thương viết cho tôi rất có giá trị lịch sử vì ngòi bút của anh đã miêu tả tỉ mỉ như chụp hình không khí Sài Gòn những năm đó. Tôi cố ý để nguyên văn, chỉ chia ra từng đoạn với đề tựa nhỏ bằng chữ đậm cho dễ đọc. Những bức thư đó, có những chỗ anh cố ý viết sai chính tả, tôi cũng tôn trọng để nguyên những chỗ sai đó. Có lẽ vì anh muốn châm biếm khôi hài. Ví dụ như chữ “chủ tịch” thì anh cố ý viết “chủ tịt” nhưng không cho vào ngoặc kép chi cả. Với ngòi bút dí dỏm tuyệt vời, anh thuật những chuyện mắt thấy tai nghe vào thời mà… “có khi muốn xé cả mình”, có khi như nói cho các văn nghệ sĩ, có khi nhắc khéo rằng có rất nhiều văn nghệ sĩ đang ở tù và mong được tự do, có khi kể chuyện về những người mà vì nghèo đói nên phải hy vọng trúng số đề, muốn trúng số lại kéo thêm tin ma quỷ, chuyện đồng bào nghèo đói quá vào sống trong nghĩa địa, bật quan tài ra mà cạy từng cái răng vàng của xác chết để bán lấy tiền.

Những bức thư trong đó Lê Thương diễn tả tình trạng Sài Gòn đúng là những bức tranh không tưởng tượng nổi, nhất là đối với những người đã biết Sài Gòn trước 1975 như tôi và các bạn đã rời Việt Nam trước 1975 cũng như những thế hệ con cháu của chính Lê Thương hai mươi năm sau. Tôi sẽ xin phép in ra trong phần Phụ lục tất cả thư của anh, như một món quà của anh để lại cho các thế hệ con cháu, để họ ráng nhìn và ghi nhận cho kỹ, để sau này đừng cho tái diễn những cái gì xấu và cố gắng giữ cho bằng được những nét nào dễ thương của nếp sống đạo đức tổ tiên.

Lá thư đầu tôi viết cho Lê Thương, anh đã nhận trước khi hộp quà thuốc tới. Đó là trước Tết. Tôi đã cho anh biết sự thật tôi là em của anh Cao Thái, nhưng anh chưa biết đích thực Phương Hương là tên con gái hay con trai. Anh có linh cảm tôi là con gái, nhưng anh không loại trừ trường hợp tôi là con trai. Và anh nói cái tên Phương Hương mà anh mới nghe qua cho anh cảm giác thơm ngát và rút ngắn lại cả một khoảng cách địa lý giữa hai vùng sông Aube (con sông gần Phương Vân Am, chỗ tôi đang ở và gửi quà cho anh) và sông Sài Gòn này. Anh nghĩ là tôi nhỏ tuổi, nhỏ tuổi hơn cả mấy bài Hòn Vọng Phu. Nhưng sự thật thì tôi sinh năm 1938, lớn hơn tác phẩm Hòn Vọng Phu 1 (1945) tới bảy tuổi. Tôi viết thư nguệch ngoạc không ngay hàng thẳng lối nhưng anh đã không chê, lại còn khen nét chữ ấy chứng tỏ tôi “có một tâm hồn phong phú tình cảm đến cái mức không còn nghĩ đến hình thức”.

Thư Lê Thương viết ngày 29 tháng 1 năm 1979

TP Hồ Chí Minh 29.1.79 Em Phương Hương

Tôi rất đỗi ngạc nhiên và xúc động khi bắt được thư em trước Tết. Tuy thuốc chưa tới nhưng lời cám ơn của tôi hôm nay đến cùng em với tất cả thiện cảm của thế hệ già đối với thế hệ trẻ còn tỏ một nỗi lòng ưu ái đẹp đẽ theo tình dân tộc mà em đáng làm đại diện nơi xa cách.

Chữ viết của em vội vã, sôi nổi, không cần hàng lối tỏ một tâm hồn phong phú tình cảm đến cái mức không còn nghĩ đến hình thức, là chữ viết để cho tâm dạ được tự do phát biểu theo nhịp bình bồng thiên nhiên trong em.

Tên Phương Hương của em phải là tên con gái hay đàn bà (hoặc con trai cũng chưa biết được) làm thơm ngát lên và ngắn lại cả một khoảng cách địa lý giữa hai vùng sông Aube và sông Saigon này. Tôi có hai cô con gái cùng tên là Hương (Duyên Hương ở Oakland và Lệ Hương còn ở Saigon) và nhiều người đẹp cũ của tôi cũng là Hương, tuy là hương xưa không còn bay được xa ngoài dĩ vãng.

Chắc em còn quá nhỏ tuổi, lại là em của anh Cao Thái, người quen trước đây, có bộ ria nhấp nháy trong nụ cười mở sẵn, đón chào các thứ bạn xa gần, nên tôi lại càng thấy em giầu lòng yêu nghệ thuật.

Đó là đức tính có nhiều trong gia đình em, làm cho em nhắc đến Hòn Vọng Phu, một nhạc phẩm mà tuổi tác có thể lớn hơn em nhưng vẫn có duyên với thời gian nhất là ở nước ngoài. Còn tại đây, bài ấy đã vắng tiếng từ mấy năm nay.

Tôi vừa dài dòng nói về em với cảm tình chan chứa vừa biết ơn vừa thiện cảm.”

Cũng trong lá thư viết cho tôi ngày 29 tháng 1 năm 1979, nhạc sĩ Lê Thương đã tả cho tôi nghe tình trạng sinh sống và hoạt động của giới nghệ sĩ ở Sài Gòn. Anh không chịu viết “Sài Gòn” mà nhất định cứ phát âm là “Sè Goòng”:

“Bây giờ tôi nói qua về giới nghệ sĩ quen biết, trong dịp Tết này, sinh sống ra sao mặc dầu anh Trạch chắc đã từng nói nhiều về họ với em.

Phần đông họ ăn Tết “dậm chân tại chỗ” nghĩa là ít đi thăm ai nữa, thiệp chúc Tết cũng không buồn gửi vì tất cả đang thiếu thốn, chỉ còn biết vùi đầu vào lo lắng sao thực phẩm có đủ cho mấy ngày bất đắc dĩ còn gọi là Tết.

Tuy nhiên năm nay như năm ngoái, pháo vẫn nổ tràn trề khắp thành phố, làm như người ta mong cho pháo nổ để quên sầu, đã giận về trăm chuyện chưa thoải mái từ những năm nảo nào của đời sống.

Con gái con trai vẫn diện và phải nói thực phẩm tuy mắc nhưng bán vẫn hết ở chợ thế mới lạ. Nhà nước thì vẫn cố gắng cung cấp gạo, thịt, xăng nhớt và nhu yếu phẩm cho công nhân viên khá nhiều, còn cờ quạt thì khỏi nói, lại có cả khiêu vũ và nhạc kích động ở đường Duy Tân ngay sau nhà thờ Đức Bà đến công trường Con Rùa nữa. Có lẽ để mừng chào Kampuchia mới. Xe cộ vẫn chạy đông đảo tứ phía, tuy kém xưa nhiều nhưng cũng vội vã tấp nập.

Nhiều nghệ sĩ tuyên bố: Năm nay “ăn Tết bà cả Đọi”, “dậm chân tại chỗ” nghĩa là yếu bạc thất nhưng rượu vẫn có nhiều tuy nó hơi đắng về đủ vị (Rhum vieux) và mai mốt không biết sử xự ra sao cũng thây kệ, miễn là đừng để cho con cái thiếu tiền lì xì và mất thể diện với non sông nếu không đem về chút ít thịt kho, dưa hành trên “bàn mổ” ngày mùng một.

Từ mùng hai, các tiệm chợ đã muốn mở toang ra để buôn bán. Tiệm lớn đã đóng cửa nhiều và tủ hàng chỉ còn nước sơn cũ kỹ lộ ra, nhưng “chợ đứng”, “chợ ngồi” vẫn lác đác với “chợ đi”; râu ria thanh niên áp-phe vẫn lởm chởm như dây thép gai và đôi mắt dòm chừng vẫn long lanh ngang dọc bên các bàn cà phê gỗ tạp mọc tứ phía ở đầu đường.

Cái gì là bản chất lè phè, tiêu xài chết bỏ trong truyền thống Sè Goòng vẫn hầu như bất diệt. Bởi thế phải nói là dân mình giỏi thật. Ai chết cứ chết, ai sống vẫn sống và bao năm chiến tranh đã qua và đang qua, lòng dạ Sè Goòng vẫn hướng về cái gì xa lạ, cao đẹp hơn hiện tại. Khổ cũng mặc, bất quá là chửi đổng cho đã giận rồi lăn xả vào làm ăn chạy chọt, níu kéo, vá víu sao cho được cà phê, cơm tấm, bánh canh, chuối chiên, sò huyết, ba-sĩ-đế mấy “sợi”, la de vài ly là hầu như tạm xong, nhưng lòng Sè Goòng còn âm u không biết bao giờ mới hết.

Chẳng ai nói gì với người lạ, chỉ giương mắt nhìn thiên hạ qua lại, miệng dính điếu thuốc thơm rẻ tiền nhưng mắt còn loé sáng hiên ngang của con người kinh qua thuở nào đó, không nên vội khinh nhờn mặc dầu quần áo đã mòn tới chỉ sợi và túi có rỗng ngày nay nhưng có bắt chuyện là nói tới tiền ngàn tiền vạn như thường. Thế mới lạ và khó hiểu, khó thương khó ghét, khó nghĩ.”

Tôi biết lúc này Lê Thương đã lâm vào tình trạng nản chí, vì anh không thấy được một tương lai. Nhưng anh biết là tình trạng nản chí ấy sẽ đưa tới tình trạng tiêu diệt cho nên anh hết sức phấn đấu. Cái cô đơn của anh càng trở nên sâu đậm khi anh sống giữa một đám đông nhộn nhịp ồn ào. Thầy chúng tôi và anh chị em tôi biết giá trị của một lá thư khuyến khích từ bên này. Nó giúp anh giữ lại được niềm tin nơi tương lai.

Sau 30 tháng 4 năm 1975 thì nhiều người Việt Nam rất “bí”. Thầy chúng tôi nói thầy phải đang tự cứu và cứu các con thầy, rồi phải nghĩ cách cứu các văn nghệ sĩ ở nhà với chút xíu phương tiện thuốc men mình may mắn đủ phước có thể giúp họ. Thầy nói: “Các con phải tự cứu lấy mình thôi, thầy có vững chãi mấy cũng không thể bơi giùm cho các con được. Phải bám lấy hơi thở để giữ cho tâm an định trong giây phút hiện tại và tập nhìn sâu để thấy cái giá trị, cái mầu nhiệm của giây phút ấy trong từng công việc dù là nhỏ nhặt hàng ngày của mình như rửa chén, lau nhà, làm vườn. Không được rời giây phút hiện tại, đừng để mình trở thành nạn nhân của hoàn cảnh. Các con nghe không!” Khi đọc lại Nẻo về của Ý, chúng ta cũng thấy lời dạy ấy của Thầy: “Chúng ta phải có một nơi để quay về để chữa lành những vết thương đang rướm máu, để nuôi dưỡng và bồi đắp lại những gì chúng ta đã phí phạm và để chuẩn bị cho một cuộc hành trình khác. Niềm tin, sự trong sáng của tâm hồn chúng ta đã bị hao tổn quá nhiều. Chúng ta nhận thức được điều đó, và chúng ta quyết định tìm con đường phải đi. Nghĩa là điều trước tiên và căn bản cần phải làm là phải trị liệu, bồi đắp, và nuôi dưỡng tự thân, nếu không thì sẽ đánh mất chính chúng ta.” Do đó, trở về để tự chữa trị và nuôi dưỡng lại thân tâm là sự thực tập rất quan trọng trong những năm Thầy bôn ba làm việc xã hội và vận động hoà bình cho quê hương đất nước. Phương Vân Am là môi trường để cho thầy chúng tôi, tăng thân của Phái đoàn Hoà bình Paris và chúng tôi trở về trị liệu cho chính mình.

Sau 1975, khi hay tin sách của Thầy và một số sách của những nhà văn nhà thơ ở trong nước bị cấm lưu hành, Thầy buồn lắm. Ngay sau đó, Thầy thành lập một nhà in nhỏ xíu ở Phương Vân Am để in sách chuyển đến cho các trại tị nạn như các cuốn Kinh Nhật tụng, Đàm thoại Anh – Việt – Pháp, những chuyện ngắn nhỏ để an ủi đồng bào nạn nhân của hải tặc và cố nhiên là tìm cách gửi về Việt Nam những sáng tác tu tập mới của Thầy. Cùng thời điểm đó, có rất nhiều người đến gặp Thầy để hỏi đạo. Thầy bắt đầu lấy việc tổ chức và hướng dẫn khoá tu làm niềm vui. Nhưng Phương Vân Am thì quá nhỏ mà nhu yếu về Am để tu học của bà con người Việt thì càng ngày càng đông. Am Phương Vân chỉ đủ chỗ ở cho mười lăm người thường trú mùa đông và năm mươi người mùa hè.

Lê Thương viết tiếp:

“Tôi vừa bầy cho em vài nét sống của Sè Goòng xứ nhà mà chắc em không mường tượng từ lâu.

Tôi không muốn nói đến những lúc khóc thầm trong đêm tối một mình, cả đến những u buồn diệu vợi khi chợt nghĩ đến tương lai còn mù mịt vì tôi vẫn giữ được lòng tin vào sức sống bền vững trong tinh thần không muốn tự tiêu diệt bằng nản chí. Khi thấy lòng càng ngày càng cô đơn giữa đám đông nhộn nhịp thì chỉ cần một lá thư nhỏ như lá thư của em là đủ làm sống dậy bao nhiêu hi vọng đẹp ngổn ngang và thấy ngày mai vẫn đáng sống.”

Đọc thư tôi, anh đã có cảm hứng viết tặng tôi một phiên khúc mới – phiên khúc 4 – của bài Lòng mẹ Việt Nam (Bà tư bán hàng có bốn người con). Phiên khúc ấy như sau:

Nguyện dâng các lòng mẹ vẫn chờ mong 

Để đàn nhỏ bé mãi sau nhớ rằng

Đợi con đó là văn hoá tình thương 

Sau ngày lìa nôi đến tấm mồ hoang 

Đã sinh con rồi là thương suốt đời 

Mà thương đến cả lầm lỗi của con

Qua bao nhiêu thời đa đoan ngóng đợi 

Từng thằng con đi qua mùa chinh chiến 

Khi con trở về phong ba đã nguội

Chỉ còn con người sống sót mà thôi 

Thương về Việt Nam từng ngàn thằng con

Đã hi sinh đời qua bao chiến thời

Mẹ dâng mấy lời tưởng nhớ từng con.

Phiên khúc này chưa viết trước 1975, chỉ mới viết khi được thư tôi.

Thư viết cho Lê Thương ngày 4 tháng 3 năm 1979

Đây là nguyên văn lá thư tôi viết cho Lê Thương ngày 4.3.1979 sau khi nhận được lá thư đề ngày 29. 1.1979:

“Thật là món quà tinh thần mà em không ngờ được khi đọc thư anh. Em nâng niu và tập hát phiên khúc 4. Thưa anh tên Phương Hương là tên con gái. Em xa nhà năm 1968, lúc đó Sài Gòn tang thương sau hai trận đánh lớn (Tết Mậu Thân và tháng 5 năm 68). Em thấy thây người và xác chết nằm ngổn ngang, nghĩa địa cũng bị bom bật tung hòm, người chết hai lần… Em buồn đứt ruột và nghĩ ngày nào đất nước có hoà bình là em leo lên phi cơ về nước liền để được ăn rau húng, rau ngò, để được đi chân không trên những con đường làng phủ lá tre, để được ngửi mùi phân bò phân trâu, mùi lúa chín, mùi cỏ dại thơm thơm bên đường, nhưng mà em không được về. Em thì không có tiền để về Việt Nam ba tuần lễ và khen cách mạng như vầy như kia. Đó là số phận chung của rất đông những người con yêu Việt Nam, vừa tốt nghiệp xong, không biết làm gì với những gì đã học với thao thức đem về phục vụ đất nước. Cuối cùng em quyết định đi về miền Nam nước Pháp. Với mươi người bạn, em lập khu vườn nhỏ trồng rau húng, rau ngò, cải bẹ, hẹ, tần ô, tía tô… Thưa anh đất vùng này chẳng có chất sắt nên trồng gì cũng được, chỉ riêng rau muống là không mọc. Em nghĩ sáng tác văn nghệ cũng như thế. Có những tác phẩm được nẩy nở ở môi trường nầy, lại có những tác phẩm chỉ có thể nuôi dưỡng ở môi trường khác. Chúng em không những trồng rau mà trồng cả những tác phẩm nói lên được tình người, không phân biệt chủng tộc, ý hệ. Nếu anh có hoa thơm cỏ giống mới, không hợp với khí hậu của nước ta lúc này thì anh gửi cho chúng em xin. Chúng em sẽ nâng niu vun xới trồng cho nó thành công. Có hoa lá em sẽ gửi về biếu anh. Hoa lá mới để tên mới hay tên cũ tuỳ người sáng tác. Nếu anh muốn, chúng em cũng có thể in lại một tập nhạc chọn lọc cũ của anh và chúng em sẽ nói là chúng em làm. Có điều là anh phải chọn giùm và gửi qua đây từng bài vì bên này không có đủ. Em chỉ có ba bài Hòn Vọng Phu thôi. Ngay như bài Tuổi thơ là bài em rất thích lúc 18 tuổi mà nay em cũng không còn. Nếu anh chép tay được trên giấy mỏng gửi theo thư thì rất quý (cả lời lẫn nốt) vì em thấy chữ anh đẹp lắm. Nhưng gửi một cái thư đi ngoại quốc là mất hết một buổi cơm cho gia đình nên em sẽ tìm cách trả bớt tiền tem trước nhất. Thưa anh, lời nhắn nhủ của tác giả phiên khúc 4 đã thấm sâu vào lòng bọn trẻ chúng em thật đó. Thực thế, chúng em tin tưởng là con đường văn hoá tương lai sẽ là con đường của bao dung độ lượng và tình thương, không bị hạn hẹp bởi ý hệ…”

Đoạn chót lá thư sở dĩ tôi viết được đơn giản và dễ thương như trên là nhờ có Thầy chúng tôi “cầm tay”. Thầy nói với chúng tôi: Nghệ sĩ trong nước bây giờ rất “bí” vì tác phẩm bị cấm đoán, mình phải viết cho khéo để tưới tẩm niềm tin nơi họ, để họ thấy họ còn có thể sáng tác. Phải cho họ biết là cho dù tác phẩm mới chưa được phổ biến trong nước thì cũng có thể phổ biến cho con em ở hải ngoại, như thế họ mới hứng khởi và sáng tác trở lại. Bức thư trên lại còn hứa nếu bán được sẽ trả tác quyền cho nghệ sĩ nữa, như thế người nghệ sĩ tự trọng sẽ cảm thấy không bị mắc nợ vì những món quà họ nhận.

Thư Lê Thương viết ngày 11 tháng 5 năm 1979

Chúng tôi cảm nhận liền là những lá thư Lê Thương viết sau đó có vẻ khoẻ hơn, có tinh thần hơn. Anh gọi tôi là “con gái của mẹ Việt Nam” và viết “đọc thư em là uống một liều thuốc khoẻ!” Đây là lá thư anh viết ngày 11.5.1979, có tính yêu đời nhiều hơn lá thư trước:

“Em Phương Hương, con gái của mẹ Việt Nam, đọc thư em là uống một liều thuốc khoẻ, cả cho tinh thần và thân thể. Mà gói thuốc em gửi đã tới mới đây, gói khá to. Phần thuốc suyễn của hai “nhược sĩ” VP (Vĩnh Phan) và NNT (Ngô Nhật Thanh) đã được đưa ngay. Vừa nhìn thấy bó thuốc, bệnh suyễn của hai ông hết liền, muốn chạy trốn, thế là bất cứ lúc nào bệnh muốn ho he, hai ông sẽ vác đồ trang bị tối tân ra mà áp đảo chúng một cách có hiệu lực. Sẽ có thư và địa chỉ của hai anh nhược sĩ cho em. Còn phần ô. Lê Thương thì nào sâm, nào vitamin uống hết sẽ chắc phải sống trăm tuổi, phải sống để còn mong có ngày được đi xem em trồng ngò, húng, hẹ và khổ qua chứ. Còn việc em mong trồng cỏ hoa LT thì quá dễ. Hạt giống có sẵn cứ đem trồng (ý muốn nói các tác phẩm cũ của anh) và những hạt giống cây lạ sẽ lần lượt gởi sang em để tuỳ tiện em trồng theo ý muốn và không điều kiện gì hơn là khí hậu tốt cho cây mọc nhiều và được bà con thưởng thức trái ngon quả ngọt xứ nhà. Theo anh, nên cứ bắt đầu ăn trái quen thuộc hoặc quen vị để tiện việc giải thích gốc nguồn nếu có khách hỏi lai lịch thảo mộc bất ngờ. Những trái cây ngon cho trẻ em ăn chóng lớn sẽ được bày ra nhiều hơn phần nào. Vì anh đang thích đám trẻ, những tâm hồn vô ngã, khăng khăng hơn đời mà không hề bận tâm đến một thứ buồn thế kỷ nào. Thấy đôi mắt chúng sáng lên niềm tin ấy cũng làm cho lòng sỏi đá của người đời tìm lại được vài mảnh ấu thời, sống lại được ít nhiều cái tuổi không bao giờ còn lại.

Thư Lê Thương viết ngày 25 tháng 5 năm 1979

Trong lá thư đề ngày 25.5.1979, anh hỏi tôi đã có những tác phẩm nào của anh rồi, để anh khỏi gởi sang. Và anh sẽ từ từ chép gửi cho tôi tất cả những gì anh sáng tác đủ loại, kể cả kịch khúc là những loại tiểu ca kịch tân nhạc.

“Kể ra thì quá rườm rà nhưng cứ từ từ gửi sang để em hoàn toàn định liệu vì Phương Hương, tôi chắc, là một người sành sỏi về văn nghệ vì tâm hồn còn giữ được chất man mác, phiêu diêu ở trên mặt vật chất ở ngoài các cay đắng mùi đời nên tâm hồn ấy còn xúc động bén nhạy. Quý lắm đấy, các cô gái Việt Nam xa nhà, xa nước mà không ngớt quay nhìn về quê cũ với mối tình xa xứ nặng trĩu thương yêu và thêm cả gia công gửi về cho người không quen thuộc những gói quà nặng trĩu săn sóc.

Tôi đang thấy Phương Hương trở thành ân nhân của tôi, một con chim không còn bạt gió, tuổi đời cứ vụt lên cao, tuy tóc còn khá xanh và khát vọng tồn tại chưa muốn hao mòn mặc dầu các sóng gió. Từ bao năm cụt hứng sáng tác nhưng có lẽ không bao lâu sẽ khơi nguồn lại.

Thư viết cho Lê Thương ngày 15 tháng 7 năm 1979

Ngày 15.7.1979, tôi viết cho anh lá thư sau đây:

“Anh Lê Thương!

Em đã gửi thuốc trị đau bao tử cho anh Trần Tử Thông và Bửu Lộc và thuốc trị ghẻ cho con anh Lê Trọng Nguyễn. Em không có thư trực tiếp của bệnh nhân nên chỉ dựa vào dữ kiện anh cho. Em nghĩ đó là một thứ mycoses (nấm ký sinh nhỏ xíu trên da) nên tétracycline không trị được. Em gửi thuốc thoa Mycilan để thoa ngày 2 hay 3 lần. Thuốc uống Fulcine có chất Griséfuline vốn là trụ sinh chỉ chuyên trị mycoses mà thôi. Tuỳ cháu lớn hay nhỏ mà uống 1 hay 2 viên mỗi ngày và uống luôn một tháng. Có crème Beneval Neomycine kèm theo đây, chuyên trị lác. PH sẽ gửi colis thứ hai khi em mua được giấy viết nhạc để gửi anh luôn thể. Em đặt mua ở thành phố lớn để tụi bạn đem về chứ chỗ em ở không có, chỉ có loại tập viết nhạc của trẻ con. Em cám ơn anh đã cho biết nhu cầu thuốc men của các anh ấy bởi vì như thế là anh cho em một dịp giúp đỡ được các bạn của anh. Mấy thuở mà em giúp được chút xíu cho anh và các bạn anh. Vì vậy xin anh đừng có ngại ngùng chi hết. Hễ gia đình anh cần thuốc gì, có bệnh gì cần thuốc thì cũng phải nói cho em biết. Và nếu các bạn của anh (dù nhạc sĩ hay không nhạc sĩ) cần thuốc thì anh cũng phải nói cho em biết. Bây giờ chính là lúc em có phương tiện gửi thuốc men cho quý anh và em lấy đó làm một niềm vui lớn. Nếu anh không cho em cơ hội đó thì em sẽ trách anh lắm.

Thư anh viết em đọc nhiều lần cho các bạn đọc chung, coi như là gia bảo và giữ gìn rất cẩn trọng. Những đoạn anh nói về thuốc men, em cũng đọc rất kỹ và quan tâm không khác gì những đoạn khác. Vì vậy về thuốc men và bệnh anh càng viết nhiều chi tiết càng quý. Vì nhờ vậy em mới trị đúng bệnh hơn. Em trị bệnh qua thư từ thế mà cũng“mát” tay lắm. Xin anh đừng ngần ngại kể hết những nhu cầu thuốc men của các bạn và đừng cho rằng ở nhà “đòi hỏi” nhiều quá. Điều quan trọng về phía anh là kể đủ những nhu cầu. Còn đủ sức hay không đủ sức gửi là thuộc về phần em. Nếu đủ sức thì em gửi đủ, nếu không gửi được hết, thì em cũng sẽ nói thật cho anh biết.”

Sở dĩ tôi dám hứa có thể gửi thuốc cho các văn nghệ sĩ nào cần là vì chúng tôi tại Phái đoàn Hoà bình còn một ngân khoản còn lại từ công tác giúp cô nhi có thể sử dụng vào công tác này. Khi các bạn tại Hà Lan đóng cửa Uỷ ban Hà Lan giúp cô nhi Việt Nam, theo tinh thần buổi họp chót năm 1977 thì Uỷ ban này sẽ gửi cho Đức Hồng Y Helda Camara 200.000 Florins để cứu trẻ em đói bên Brazil, 100.000 Florins cho các trẻ em mồ côi ở Bangladesh và số còn lại 287.000 Florins là để chúng tôi tìm cách gửi từ từ về Việt Nam cho các cháu mồ côi, những gia đình neo đơn khổ cực, mà hiện giờ tiền bị chặn không gửi về được. Nhờ ngân khoản ấy mà chúng tôi có đủ tiền để mua thuốc và gửi về Việt Nam. Chỉ cần giữ đủ biên nhận đã mua bao nhiêu thuốc, bao nhiêu tem, gửi bao nhiêu tiền, rồi gửi qua Hà Lan để chứng minh cho các bạn. Mỗi tuần tôi gửi về Việt Nam rất nhiều gói thuốc 1 kilogam, mỗi gói trị giá khoảng 80 Franc, nhưng bên nhà có thể chuyển ra số tiền Việt Nam tương đương có khi cả 250 Franc. Như đã kể trong Tập 2 hồi ký 60 năm theo Thầy học đạo và phụng sự, chúng tôi lập được 38 nhóm người trẻ đứng lên cùng lo gói quà và gửi quà với chúng tôi. Tôi cung cấp thuốc, các cháu thì chịu trách nhiệm viết thư an ủi. Có hai nhóm làm việc ở Hoa Kỳ là nhóm Nguyễn Anh Hương ở Audubon, New Jersey và nhóm Nguyễn Thị Bích Thuỷ ở San Jose, Cali. Còn ở bên Pháp chúng tôi sử dụng địa chỉ của 36 người trẻ đã lập ra 36 nhóm nhỏ tại nhiều nơi trên đất Pháp như Bùi Ngọc Thuý ở Bourg la Reine; Nguyễn Thị Ngọc Bích ở Bordeaux; Trương Diễm Thanh và Võ Giao Trinh ở Paris; Võ Thị Tri Thuỷ, Bùi Thanh Vũ ở Champigny/Marne; Bùi Cao Thanh Trang ở Lyon, Trần Thị Hằng ở Chennegy,… Ở Phương Vân Am tôi mời má tôi và các em Hằng, Hương, Pierre, Neige, Linda, Mobi, Philippe, Martine, Krisana… cùng làm việc chung để gửi quà thuốc về Việt Nam. Làm việc vui quá nên thầy chúng tôi cũng đến tham dự. “Các con để thầy cột dây cho!” Thầy mà cột dây thì đẹp lắm, đẹp như những chiếc bánh chưng mà Thầy và tăng thân Phái đoàn Hoà bình tại Paris gói gửi tặng các gia đình thân hữu vào mỗi dịp Tết.

Tôi viết tiếp cho Lê Thương:

“Trong thư anh có nói một câu làm em mừng“hết lớn”. Đó là câu nói anh đã bắt đầu sáng tác trở lại, vì anh đang có những nguồn hứng mới. Anh Lê Thương, em biết rằng thiên tài của anh, tâm của anh, cái nhìn của anh về cuộc đời và con người, tất cả những thứ ấy đã vững chắc và chín muồi nơi anh. Em nghĩ những sáng tác mới của anh chắc chắn sẽ vượt thoát được những buồn vui, mừng giận tầm thường và sẽ thanh thoát như mây bay, hùng vĩ như những cây đại thọ. Ngay từ trong Hòn Vọng Phu, em đã cảm thấy chất lượng thời gian của anh khác thường rồi. Anh đã từng sống qua nhiều giai đoạn của lịch sử cận đại, anh đã chứng kiến bao nhiêu biến thiên, chắc chắn anh sẽ không chịu để cho cái ngục tù thời gian giam hãm anh.

Tác phẩm của anh không bị thời gian và không gian giam hãm.

Tác phẩm của anh sẽ như một con chim lớn, vỗ cánh bay cao, bởi vì vùng trời tâm linh của anh không có bờ bến, không bị thời gian và không gian giam hãm. Có một lần em thấy một cây tùng hùng vĩ xanh tươi mọc cheo leo trên một sườn núi đá khô cằn. Em thấy cây tùng đó đã rút sinh lực không phải chỉ ở phần đất cát và đá khô cằn ở sườn núi mà còn từ những dòng nước đi sâu hàng trăm thước trong lòng đất, và nhất là ở mặt trời cùng các ngôi sao lớn khác trong vũ trụ bao la. Anh là một nghệ sĩ có kích thước lớn như vậy đó. Anh không cần những chất liệu bổ dưỡng tầm thường của những loại cây cỏ tầm thường. Đó là lý do khiến cho anh lâu nay không tranh chấp với các người khác trên đài phát thanh và đài truyền hình những năm chót của Sài Gòn như trong thư anh viết.

Đợi con đó là văn hoá tình thương

Em không đề cao anh như trong thư anh nói đâu. Nội một câu “để đàn nhỏ bé mãi sau nhớ rằng: Đợi con đó là văn hoá tình thương” trong phiên khúc 4 bài Lòng mẹ Việt Nam cũng đủ cho người ta thấy cái tính chất khoan dung, chín chắn và từ bi trong chất liệu văn nghệ anh. Tâm sự ca nhân cũng nói lên ước vọng đó. Em nghe mà thấy ấm cả lòng. Em cũng đã từng trải qua sự nghèo khổ, và em biết rằng “đói uống nước lạnh và ôm nhau mà ngủ” để quên đói còn sung sướng hơn giàu thịnh mà chia cách nhau như những hòn đảo lạnh. Đối với anh, em chỉ như một ngôi sao xa mờ nhạt, cách xa anh có tới ba trăm triệu năm ánh sáng. Em không có đủ ánh sáng bằng một con đom đóm để cho anh đọc sách, nhưng em hy vọng em có thể nhắc cho anh nhớ rằng, vũ trụ và thời gian thật bao la. Và anh thuộc về vũ trụ ấy chứ không phải chỉ thuộc về một mảnh thời gian, không gian nhỏ bé nào.

Anh ca hát đi

Anh Lê Thương, dòng chữ nào trong những lá thư của anh cũng đều chứng tỏ anh là một nhạc sĩ lớn. Em tin rằng bất cứ lời nào của anh, bất luận đối với cỏ cây, trẻ em, biển cả, trái núi, cây chanh, cây ổi đều là những nhạc khúc tự nhiên phát xuất từ một cái nhìn rất chín. Anh ca hát đi, ca hát về cái gì cũng được, miễn là anh ca hát. Anh đứng trên mảnh đất Việt thân yêu nhưng anh không phải chỉ là của một không gian nhất định. Anh còn là của nhiều thế hệ Việt Nam…”

Thầy chúng tôi cầm tay dạy viết như thế thì không tưới tẩm nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ sao được. Mình nhắc cho anh nhớ anh không bị giam hãm bởi thời gian và không gian Việt Nam. Mình ca tụng anh như cây tùng mọc trên đá cheo leo mà vẫn xanh tươi nhờ hút được dưỡng chất từ sâu trong lòng đất mẹ, nên anh lên tinh thần và vui lại nhiều. Nghe ở Việt Nam đói kém thiếu thịt cá nên tôi khéo léo chia sẻ cách nấu ăn chay của Phương Vân Am, tôi kể đã lâu rồi chúng tôi không còn ăn thịt nữa. Ở Phương Vân Am (mà với Lê Thương tôi trình diện tên Pháp là nông trại Les Patates Douces, Lê Thương hay gọi đùa là nông trại khoai lang rơi loảng xoảng), tôi thường làm xà lách rau bồ công anh (pissenlit) trộn dầu hành phi, ngon lắm và rất bổ gan và trị nhiều bệnh, hay món xà lách khoai tây trộn với trái bơ và dầu hành phi cũng rất ngon. Chúng tôi cũng ăn cải bó xôi (epinard – spinach) có nhiều chất sắt, bổ máu, rất ngon. Rau này có thể làm mấy món: luộc sơ chấm xì dầu ớt, có thể xào hành và tương hột, có thể để món xào đó trải lên từng khuôn nhỏ bột mì nhồi cán mỏng rồi đút lò chừng nửa giờ sẽ rất dòn và thơm.

Chút lịch sử về Phương Vân Am

Thầy chúng tôi tìm mua được am Phương Vân vào tháng 8 năm 1971. Đó là một ngôi nhà bỏ hoang nằm giữa con đường liên tỉnh nối liền thành phố Troyes và Sens ở miền Trung nước Pháp, cách Paris khoảng 150 cây số về phía đông nam. Am Phương Vân nằm tựa trên một sườn đồi và sau ngọn đồi ấy còn nối tiếp những ngọn đồi khác, rất đẹp. Trước mặt am về phía bên kia liên tỉnh lộ 60 là những cánh đồi và cánh rừng thuộc vùng Othe. Sau lưng am là ruộng lúa mì và phía bên phải cách đó 500 mét là đồng cỏ của một nông trại nuôi bò. Trên đỉnh đồi trái phía sau am là một khóm rừng lớn, ở đó có một cây thông rất lớn, cành lá rất sum suê, Thầy đặt tên là cây thông Thanh Từ. Ngoài ngôi nhà chính thì cốc của Thầy là cái chuồng bò cũ kế bên, vách đá giống như nhà chính. Vì là chuồng bò, hai bên vách không thông nhau nên rất tiện làm thất cho riêng Thầy, để không ai làm phiền khi Thầy cần không gian yên tĩnh để viết lách hay dịch kinh. Phía trước sân am có một cái giếng nước cũ, thành giếng do Thầy xây lại, cạnh giếng có một cây mận rất ngon và xung quanh giếng có treo nhiều võng. Gần đó cũng có một cây táo (pommier) rất sai trái, loại táo có trái khá lớn nhưng chua; các em thiếu nhi và cả người lớn thường cắt táo thành nhiều lát mỏng rồi giã muối ớt để ăn với táo, ăn như ăn xoài chua, rất thú vị.

Mặc dù đã có Phương Vân Am từ năm 1971, nhưng Thầy chưa về ở hẳn vì còn nhiều công tác cần phải làm ở Paris như vận động cho hoà bình, cho nhân quyền cho Việt Nam, dạy học ở Sorbonne mỗi tuần ba giờ. Thầy chỉ về am vào những ngày cuối tuần hay vào những lúc rảnh rỗi khác. Cũng vào năm đó, tức là năm 1971, trong khi đi Canada trình bày với quốc hội Canada về tình hình Việt Nam thì Thầy bị chính quyền vô hiệu hoá hộ chiếu, không cho Thầy trở về nước nữa. Thầy liền về Pháp và tổ chức họp báo ngay tại phi trường Charles de Gaulle Paris, và cuối cùng chính quyền Pháp đã cho Thầy tỵ nạn tại Pháp. Cuối năm 1975, sau khi gặp nhiều khó khăn trong việc gửi tiền và gạo về Việt Nam, Thầy quyết định đóng cửa Văn phòng Phái đoàn Hoà bình ở Paris và về ở luôn tại Phương Vân Am để nuôi dưỡng và tĩnh tu, và cũng để giúp cho những người đồng sự của Thầy chữa lành những vết thương.

Thư Lê Thương viết ngày 10 tháng 8 năm 1979

“Em Phương Hương

Tôi viết cho Phương Hương bức thơ thứ hai này vì thư trước đã xé bỏ. Thư trước viết từ 22.7 để đáp thư aérogramme của PH nhưng vì con trai nhỏ của tôi nó quên gửi nên may quá! đọc nó lại thấy nó quá thời (cắt nghĩa thư trước gửi từ khoảng tháng 4 hay 5 có cả 8 bài hát gửi recommandé và có nói là đã lãnh cả 2 colis rồi…).

Nên nay 10.8 mới lãnh colis 3, có thuốc loét bao tử, loét đỏ chân tay và 10 thuốc lá hảo hạng cùng campolon tôi vội tin cho PH biết mà yên dạ.

Lục tìm thư aérogramme đọc để đáp ứng những thắc mắc hỏi han của PH tôi ráng trả lời từng chuyện theo trật tự để PH yên dạ mà nhai pissenlit trừ cơm, gớm, con người ăn rau mà không biết ngán. Tôi đang đối chiếu bằng tưởng tượng anh Cao Thái, một giang san thịt còn cô PH nhà “thảo mộc kia” ốm nhom như đầu đũa vì nghiên cứu và nghiền ngấu các thứ thảo dã trên mặt đất âu sầu này. Nếu là sai bét thì tôi mừng nếu là đúng thì đau quá. Mong là quá sai đấy P. Hương.

Đây, trật tự (việc hiếm có)

  1. Thư anh Cao Thái và Ba Trạch chưa hề nhận được cho đến 10.8.79 này: lại vì sức tàn phá của vi trùng làm biếng. Hai ảnh bị em thúc nên hứa cuối cùng rồi cười hè đó chứ sức mấy mà cầm được cây viết và kiếm ra tờ giấy. Anh Ba Trạch chữ xấu tệ quá nên không ưa viết cho ai bao giờ, tôi biết rõ điều tai hại đó mà anh vuốt tóc cười khè thì tươi như nước lã. Làm biếng nhất Việt Nam.
  2. Colis 3 đã tới TP HCM hôm nay 10.8 vậy PH đã lãnh được chiếc thư recommandé (gửi bảo đảm) có 8 bài hát rồi chắc, vì nó là cái đinh đuổi cái colis loét bao tử tới đích. Bài “Biển sau giông tố” nay tôi xin bổ túc cả mấy câu đầu. “Xa xôi muôn hướng/ Nước xanh Thái Bình Dương/ Mở nghìn muôn lối đường/ Dẫn ra tới ngàn phương.” Về thuốc colis 2 đã lãnh xong chắc PH đã nhận thư của nhạc sĩ Ngô Nhật Thanh vì anh nói đã viết rồi. Còn anh Vĩnh Phan (hai suyễn sĩ) thì nói còn làm bài thơ hay rồi mới gửi một thể. Chắc thơ còn thiếu vần nên chưa gửi.
  3. Thư dài hai trang giấy lớn của P Hg chưa hề tới. Ở Paris có đình công ở bưu điện mà đến đây được thì có lẽ còn lâu. Một thí dụ ngoạn mục: Thư con gái tôi ở Mỹ gửi một tháng tới Hà Nội ngày 7.4, và vào đến Sài Gòn là 27.7.79. Bước đi không gấp gáp ấy chỉ có 3 tháng 20 ngày chẵn. Thư PH mà theo vận tốc ấy thì may ra vào Noel tôi sẽ được đọc. Tôi đang tức là muốn nghe P.H nói chuyện này nọ mà thư từng bước làm tôi cụt hứng thêm.

Xem xong thư recommandé chắc đã lãnh, PH cho biết ý kiến về bài hát. Cứ sử dụng tuỳ ý, lần sau sẽ thêm vài bài tình cảm và trẻ em.”

Từ mấy năm nay, vì Lê Thương không có cảm hứng sáng tác cho nên khi tôi hỏi về những tác phẩm mới nhất của anh, anh nói là “thiếu đề tài”. Anh không muốn sáng tác để than trách. Anh tự cho là “người bị cột xích vào dĩ vãng”. Và những mộng ước cho quê hương cho nhân loại đã bị “những trận bão phũ phàng xé tan tành”. Anh viết:

“4. Sáng tác mới mà PH hỏi thì chưa có vì hứng nhạc đang biến mất từ mấy năm nay. Duyên do cũng gần như thiếu đề tài. Tình cảm thì vẫn phong phú nhưng chẳng lẽ già rồi mà còn vơ vẩn trong “tình yêu tà áo xanh, áo tím, người em nhỏ”, mà nói về đất nước thì những chuyện rách nát chưa nên bàn. Cả một quan niệm sống hiện đang giao thoa với chuyện cơm gạo hàng ngày, chuyện học tập lai rai, lương phạn chưa làm cho 2 đầu thắt lưng nối được nhau. Còn sự thèm khát không rộng cũng chưa tiện bầy ra nên cảm hứng có chiều hướng về đắng cay ngậm ngùi gì đó. Mà cứ than mãi thì thành 6 câu vọng cổ bù loong P.H nghe mãi nhai rau không đành nhất là giữa cảnh núi non có vẻ cô quạnh.

Những người bị cột xích vào dĩ vãng như Lê Thương, một kẻ si tình từ niên thiếu muốn mở cõi lòng nhìn vào hứng nhạc thì xin cứ để tâm hồn khơi lại vài mảnh tình xưa đã mất và may ra từ đống lửa chưa tàn ấy, nhóm lên được sức nóng sức ấm làm bốc cháy được những cảm hoài xa vắng, âm u. Tình cảm sẽ chỉ nói lên được với sự e dè trước cái kéo (les ciseaux). Nhưng mộng ước cho non sông cho nhân loại hầu như đã bị những trận bão phũ phàng xé tan tành đi mất. Vậy P. Hương ơi, đừng đề cao Lê Thương này quá như tôi đã nói, nhưng cũng đừng vội nản chí, vì chắc ai đã nắm được lòng mình khi hoàn cảnh chưa đem đến nhiều thuận tiện.

  1. Sang chuyện khác P. H nói đến Paris bày món ăn xứ sở nghe mà cũng thèm. Người mình đi đâu cũng mang theo xứ sở và cả cõi lòng hướng về quê nhà. P.H và anh Thái đang thực hiện hướng chiều thương mến ấy bằng những món quà thực tiễn rất cảm động. Các con tôi thấy tên Ngô Thị Phương Hương hỏi cô ấy có bà con gì không ba? Tôi nói họ Ngô thì cũng không ít nhưng chắc đây cũng là họ hàng từ kiếp nào không biết mà họ Ngô này có nhiều kẻ thương người, hay giúp đỡ kẻ khác, gây hạnh phúc cho người mà chưa chắc đã hưởng được hạnh phúc cho mình. Chúng nó bùi ngùi nghĩ đến P.Hương với lòng cảm mến man mác mà chân thật chia vui cùng ba của chúng. Đó P.H nghĩ xem cảm tình đồng đội ấy đã có từ những bức thư đầu của P.H và có lẽ tôi sẽ mượn chuyện này để nói lên bằng nhạc, bằng giao cảm.
  1. Bệnh tật kết thúc một người mẹ nghệ sĩ đã già, trên 50 tuổi mắc bệnh gọi là “bệnh sưng đầu voi”, hai đầu gối bóng láng mà nhức không đi được. Bà đã tốn rất nhiều tiền thuốc, châm cứu, chích thuốc từ tết năm ngoái đến giờ mà vẫn chưa khỏi. Nghe nói nếu mà chỗ đau nó làm niệng (lủng da thịt thành plaie vết lở) thì chết. Thuốc ở đây đã không kiến hiệu. P.H hỏi giùm các bà xem có thuốc nào chữa bệnh đó xin cho biết gấp. Ngoài ra thuốc P.H gửi về bao tử và loét đỏ sẽ trao cho các bệnh nhân gấp. Nhớ lần sau, khỏi gửi giấy viết nhạc mà gửi nhiều viết bic.

P.H cũng gửi lời cảm ơn anh Thái, và cảm ơn P.H về những sự giúp đỡ nhiệt tình cho anh em nghệ sĩ. Các ông bị suyễn vẫn dùng cái bơm cấp cứu rất hữu dụng. Giấy ngắn, chuyện còn dài. Xin hẹn thư sau sẽ có thêm bài hát. Lần này gửi gấp để xác định colis 3 đã nhận.

Chào PH mến

Lê Thương

Thư Lê Thương viết ngày 7 tháng 11 năm 1979

Tuy anh Lê Thương nói cạn nguồn cảm hứng, để nếu bị kiểm duyệt thì không để ý thư anh, nhưng sau khi tới tấp nhận được thư khuyến khích của Thầy trò nhà Les Patates Douces, Fontvannes 10190 Estissac thì anh đã đặt lời mới cho những bài nhạc cũ như bài Lòng mẹ Việt Nam. Anh đã viết lời mới của phiên khúc ấy trong những tập nhạc “cũ” anh gửi cho chúng tôi.

Lê Thương viết:

“Thành phố Hô Chi Minh 7.11.79

Mến gửi Phương Hương

Chiếc thư này tới PH thì đã quá lễ Noel và Tết Dương lịch rồi có thể cả Tết Canh Thân 1980.

Thời gian sống động của những cuối năm đều là những lúc lòng dễ bùi ngùi và đôi khi sửng sốt trước cảnh gặp gỡ nhau, hội họp nhau sau những tháng ngày ly tán. Những lúc ngồi lại một mình sau những cuộc vui vừa tan người ta lại gửi niềm thương nhớ về những kẻ xa xôi, người lưu lạc hoặc người đã khuất.

Giá lúc đó có ai hát một bài ca kỷ niệm thì cả dĩ vãng bỗng sống lại và gây một sự phấn khởi nào đó hoặc một u uất khó tả về một cảnh sống trôi nhanh, một tình xa xứ hay nỗi nhớ bâng quơ về cảnh và người xa lạ.

Tôi nhớ đến PH như hằng nhớ trong thắc mắc là mãi chưa biên thư cho PH. Kỳ hết sức – mãi hơn ba tháng mà chưa biên thư cho một người không ngớt ưu ái đến các nghệ sĩ bên nhà và riêng đối với tôi, đã bao lần tìm dịp giúp đỡ một cách tế nhị. Vậy mà khi không có sự lặng tờ vô lý không cách gì cắt nghĩa được cả. Nhưng tôi thì cắt nghĩa được sự lặng tờ bên trời Tây (khi đông đã đến) của PH. Có lẽ PH thấy hơi khoẻ vì khỏi biên thơ lòng vòng làm chi cho bận tâm và nay chắc đang sửa soạn một lễ Noel vui nhộn với các bạn bè và một kỳ tết Tây không kém phần nhộn nhịp.

Từ chốn lặng lẽ của tôi, nay đã ra khỏi cơn khủng hoảng tinh thần của 2 đám tang trong dòng họ gia đình nên tôi xin phép phá vỡ tấm hàng rào ám khói trong linh hồn để biên bức thư cuối năm mà cũng là cuối thu như một chiếc là vàng rơi đến đâu thì đến.

Kèm theo bức thư có bài hát Hồi chuông nửa đêm kể một tâm sự riêng tư mà cũng là nỗi lòng của một số người dậm chân tại chỗ khi tiếng nhớ những Noel dộn dịp trong lòng mà tai không được nghe chuông Carillon ròn tiếng…

HỒI CHUÔNG NỬA ĐÊM

Nhớ các Noel âm u diệu huyền không hề quên 

Tôi nhớ đêm đông xưa kia lạnh lẽo

Mang áo len đan, đầu quàng vải khăn 

Mộng lòng bừng cháy lên như lửa nến 

Nghe tiếng tim non nao nao đập nhanh

Như tiếng yêu thương của ai gọi mình 

Mở lòng đầy vơi trong suốt bài kinh 

Nghe tiếng chuông xa như nghe lòng ta 

Ao ước miên man hạnh phúc vô vàn 

Toả đầy lòng ta như muôn ánh sáng 

Nghe gió đông sang tôi mơ đầm ấm 

Chim chóc vui ca ầm vang dạ lòng 

Nặng một tình thâm

Bài ca nửa đêm, nhớ các No-En xa xôi dịu hiền 

Không hề quên.

(Lời ca 2 của bài Hồi chuông nửa đêm)

Những Noel ấy, đối với tuổi muộn màng như tôi sẽ không bao giờ trở lại. Mà chỉ vì nó đã có, nên nó gây bao nhiêu là nhớ nhung mến tiếc…

Song nghĩ lại, phải nghĩ đi nữa mới cân đối phải không Phương Hương?

Tôi nghĩ đến các bạn xa, Trần Văn Trạch, Cao Thái,… Bữa gặp anh Trần Văn Khê mới đây, tôi có nghe nói qua về anh Trạch và chỉ mong anh được một kỳ Noel và Tết 80 vui vẻ. Lúc còn hoạt động chung Tân Nhạc tâm hồn ấy chắc đáng mến vô cùng. Nhưng đến đây tôi cảm thấy có một hàng rào ngăn cách mặc dầu âm nhạc được coi là không biên giới. Thôi tạm gửi “hương theo gió” để Nhạc tìm mãi muôn trùng cho đến lúc không bao giờ gặp. Tâm sự ca nhân cũng thế… Ca nhân nắn tơ lòng huyền bí ra thành cung hát ái ân reo trong khắp phương trời một khúc yêu đời để sống…

Đế sống… mà cuộc sống vẫn càng đẹp vì xa cách, một xa cách được nối liền bằng tâm sự, những sợi tình cảm ly ty chằng chịt như mớ tóc biếng chải tuôn xuống gương mặt thư nhàn lúc nào cũng mặc thây cho việc đời đến đâu thì đến.

Tôi mường tượng hơi nhiều, nhưng còn mường tượng nữa để an ủi mình có một tâm hồn bạn… chưa biết là ai nhưng càng ngày càng hiển hiện thêm trong trí óc.

Chiếc thư này đến tay PH thì xuân sắp tới sát kề vườn rau Fontvannes còn phủ tuyết. Mà PH thì có lẽ thấy trời lạnh giá nhưng mong mấy giòng chữ nhiệt đới làm bớt được phần nào nỗi cô đơn của lòng người xa xứ nhớ đến quê nhà.

Lê Thương”

Qua thư này tôi thấy Lê Thương dù có gặp ông Trần Văn Khê nhưng vẫn có điều gì đó không thoải mái cho lắm. Ngày xưa lúc còn hoạt động chung trong giới tân nhạc, các tâm hồn ấy chắc đáng mến hơn bây giờ, do đó ngày nay, dù gặp nhạc sĩ Trần Văn Khê, Lê Thương vẫn cảm thấy có một hàng rào ngăn cách.

Thư Lê Thương viết ngày 30 tháng 11 năm 1979

“Cuộc bay lượn của cánh nhạn dài bốn tháng rưỡi. Đồng thời với thơ Phương Hương cũng có thư của người quen ở Pháp gửi cùng ngày từ Basses Pyrenées xứ Pháp và cùng tới, thế là biết trong thời gian bay lượn ấy có thể cánh nhạn đã ghé nơi nào và xìa cánh, bày lông cho người tìm vết.

Vì thế số phận mấy bài hát lần này và về sau không biết ra sao, chắc Phương Hương hiểu điều tôi nói.

Đã nói 3 đề tài hồi hộp: 1. bệnh hoạn thuốc men cho bá tánh; 2. sáng tác âm nhạc đang tìm lối hồi sinh; 3. linh tinh, Cao Thái và phức tạp của dư luận này nọ. Hai đề tài 2 và 3 xin tạm xếp dành cho thư sau nay tôi chỉ bàn với Phương Hương về đề tài khô khan phi mỹ thuật là bệnh hoạn. Cũng có nhiều nhưng cấp bách thì chỉ có 3 thí sinh cỡ mập chờ tại hành lang xin yết kiến Phương Hương đậu hay rớt tuỳ giám khảo định đoạt.

Ông già bạn, trên 60 thích hút thuốc uống rượu (lai rai thôi) bị bệnh về thận loại Néphrite hay gì đó. Ăn cơm xong nước tiểu ông thường đục. Hôm nào ăn chất mỡ nhất là ăn đồ biển, ốc sò hay củ mì là thấy nhiều chất trắng (có phải là Albumine không?) và đôi khi tiểu khó khăn. Lúc cố gắng thì nó ra một chất trắng như mủ đặc trông khốn khiếp dã man vô nhân đạo. Ông sợ và giấu người khác. Tôi khuyên nhịn các thứ độc, ông nói thèm quá, mấy khi được ăn nên xực chết bỏ.”

Tôi viết về Lê Thương

I. Khám phá ra một nghệ sĩ lớn, một bậc cha chú xuất sắc

II. Chia sẻ nếp sống an trú hiện tại (Hiện pháp lạc trú)

III. Hòn vọng phu

IV. Đất bằng nổi sóng

Lê Thương

Bài giảng tại Tu viện Lộc Uyển của Thầy chúng tôi – Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Biển sau giông tố

Kính mời quý vị, chúng ta cùng thở. Thở vào tôi biết là tôi đang còn sống, thở ra tôi trân quý sự sống nhiệm màu. Sở dĩ tôi mời quý vị cùng thở và trân quý sự sống vì hôm nay tôi muốn mời quý vị “gặp gỡ” cố nhạc sĩ Lê Thương và tác phẩm Biển sau giông tố của ông. Biển sau giông tố là một sáng tác của Lê Thương mà ở Việt Nam chưa có ai biết đến. Đây là lần đầu tiên chúng ta được biết tới bài hát này. Bài hát nói về những cảm xúc của nhạc sĩ Lê Thương đối với đồng bào đã tử nạn dưới biển khơi. Con số các thuyền nhân gặp nạn, chết chìm dưới đáy biển có thể lên tới hơn bảy mươi lăm ngàn (75.000) người. Câu chuyện thảm kịch của thuyền nhân chưa có một tác phẩm nào có thể nói lên được. Hôm nay cũng là ngày chúng ta tưởng niệm những thuyền nhân chết dưới biển, các vị ấy cũng đang có mặt với chúng ta tại tu viện Lộc Uyển. Lát nữa, chúng ta sẽ thắp một nén nhang để tưởng niệm những đồng bào đã không may mắn vượt qua được bờ bên này như chúng ta và đã chết tăm tối, khổ đau, tuyệt vọng dưới lòng đại dương.

Hôm nay cũng là ngày của cố nhạc sĩ Lê Thương nên mình phải để cho Lê Thương “nói trước”. Riêng tôi thì thấy Lê Thương đang có mặt với chúng ta một cách rất thiết thực. Mấy ngày hôm nay, các thầy, các sư cô đã tập bài hát Biển sau giông tố. Và chúng ta cũng may mắn có chị Ngô Thị Liễu Thu con gái của cố nhạc sĩ Lê Thương hiện cũng đang có mặt ở đây.

Chúng tôi nhận được bài nhạc Biển sau giông tố của nhạc sĩ Lê Thương vào đầu năm 1980. Lê Thương sợ bị kiểm duyệt nên phải gửi riêng từng tờ một. Cứ một trang nhạc Lòng mẹ Việt Nam (Bà Tư bán hàng có bốn người con…) lại một trang Biển sau giông tố, rồi lại một trang nhạc và ba bốn trang thơ nói chuyện không dính gì đến thuyền nhân cũng như giông tố nhận chìm bao nhiêu đồng bào trên biển. Nhưng chúng tôi đã nhận thư nhiều lần và ráp được đầy đủ cả. Trên bản đính kèm là dòng chữ viết nhạc và lời của Lê Thương.

Đây là một trang nhạc Biển sau giông tố viết cho thuyền nhân mà Lê Thương phải chép kẹp giữa bài Lòng mẹ Việt Nam, đang nửa bài Lòng mẹ Việt Nam thì chen vào Biển sau giông tố rồi lại tiếp tục bài Lòng mẹ Việt Nam.

Niềm tuyệt vọng là kẻ thù lớn nhất của con người. Khi chúng ta lâm vào tình thế tuyệt vọng rồi thì không thiết sống nữa. Một bài hát của Trịnh Công Sơn có câu: “có điều gì gần như niềm tuyệt vọng”. Gần như niềm tuyệt vọng thôi, nghĩa là Trịnh Công Sơn cũng đang mấp mé tới cái hố của sự tuyệt vọng rồi. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng đã từng bước tới cái bờ mé của niềm tuyệt vọng, nhưng nhờ phúc đức của Tổ tiên nên chúng ta đã vượt thoát được.

Trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ biết bao nhiêu người cảm thấy mình đang ở trong niềm tuyệt vọng, cho nên cố mở một con đường để thoát thân. Và rất nhiều người đã nghĩ con đường đó là đại dương. Tại vì đại dương hứa hẹn tự do, hứa hẹn tương lai. Cho nên Lê Thương viết: “Xa xôi muôn hướng nước xanh Thái Bình Dương. Mở nghìn muôn lối đường dẫn ra tới ngàn phương.” Đó là niềm hy vọng mới. Niềm hy vọng đó do biển cống hiến vì vậy mà nhiều người đã bỏ nhà, bỏ quê hương, bỏ đất nước, bỏ mồ mả tổ tiên để ra đi. Nhưng khi ra đi chúng ta gặp cái gì? Chúng ta gặp bão tố. Có những gia đình chết trọn dưới đáy biển.

Lê Thương đã được nghe nói rất nhiều về những thảm trạng xảy ra ngoài biển. Lê Thương có một trái tim đầy xúc cảm và ông đã nói được thay cho đồng bào, nói được thay cho tất cả những nạn nhân của biển trong bài hát Biển sau giông tố. Theo tôi, đây là một tác phẩm lớn, một tác phẩm có thể nói lên được niềm đau của cả một dân tộc. Biến cố thuyền nhân chết trên biển là một biến cố rất lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bảy mươi lăm ngàn người chết dưới đáy biển là một niềm đau rất lớn, là một vết thương còn mãi mãi với dân tộc. Chúng ta phải làm thế nào để có thể học được những bài học từ những đau thương ấy. Các thầy, các Sư cô Làng Mai đã hát bài hát này không phải như những ca sĩ chuyên nghiệp nhưng bằng trái tim biết cảm thông. Lê Thương là một người có trái tim rất lớn nên đã cảm được, nói lên được những niềm đau, nỗi khổ đó thay cho tất cả chúng ta. Tôi nghĩ đây là một tác phẩm lớn, so với Hòn Vọng Phu có thể nó quan trọng hơn nhiều.

Xa xôi muôn hướng

Nước xanh Thái Bình Dương 

Mở nghìn muôn lối đường 

Dẫn ra tới ngàn phương.

Đó là niềm hy vọng. Niềm hy vọng để cứu mình ra khỏi niềm tuyệt vọng. Tại vì trong tình trạng đó, hàng triệu người không thấy được con đường tương lai cho mình và con cháu mình. Nhưng khi mình nghe theo tiếng gọi hấp dẫn của trùng dương thì mình sẽ gặp những khó khăn nào?

Mênh mông biển cả, gió cắn xé ngàn.

Gió nó cắn, gió nó xé mình.

Xa xôi nghìn ngả đang trôi phũ phàng. 

Mênh mông chìm nổi xa xôi mệt mỏi 

Mây sâu giông tố đang biến tan 

Thương ba quằn quại

Như con vật dại

Chưa nguôi cơn giận dữ xa ngàn.

Thương ba tức là sóng màu xanh. Những đợt sóng xanh quằn quại như là con quái vật hoang dại bị người ta lấy ra khỏi núi rừng của nó.

Biển là quán gió 

Chiêu hồn tha hương.

Đây là một chiêu hồn ca, đây là một bài kinh cầu nguyện gọi hồn. Phải thấy bài này như vậy mới được.

Biển còn chứa chan 

Ước vọng kinh hoàng 

Lạnh lùng thấu đáy.

Biển rất lạnh lùng. Lạnh lùng tới tận đáy biển.

Biển cười chua cay 

Theo bao duyên ba đào 

Biển còn sóng gió

Biển còn xa xôi.

Nơi thăm thẳm vừa mênh mông 

Vừa sóng gió, vừa bão tố

Tâm can biển vừa thâm u, 

Vừa tối ám ngàn thu

Mỗi lớp cồn đợt sóng 

Đem theo một hoài mong

Của mỗi một sinh kiếp đã bị vực sâu chôn vùi.

Nơi nham hiểm mà uy nghi 

Mà du dương mà quyến luyến.

Biển rất nham hiểm, biển rất độc ác, nhưng biển rất khêu gợi và quyến rũ vì vậy cho nên ta đã nghe lời của biển để rồi chết dưới đáy biển.

Ai nuôi mộng biệt ly 

Đứng bến chờ làm chi.

Ai quyết định bỏ quê hương, đất nước, bỏ mồ mả ông bà mà đi? (ai nuôi mộng biệt ly). Còn những người kia, đứng bến chờ làm chi? Biết người ta có tới được hay không, hay là người ta chết ở giữa đường, ở dưới biển.

Xa xăm vời vợi xa xăm 

Tàu vượt đi không về.

Lênh đênh bào ảnh 

Xé xác cuối ngàn.

Thân mình bị xé ra thành từng mảnh, chiếc thuyền của mình bị đập tan thành từng mảnh.

Văng trôi mỏng mảnh 

Tràn lan đuối tàn 

Lênh đênh bọt nổi 

Văng trôi mệt mỏi 

Lạc loài vô cố

Trên sóng nâu. 

Thương ba mệt lả 

Thân xanh mềm ngả

Như không gian thần nữ khẩn cầu

Lựa từng tiếng sóng 

Cho người mê ly

Biển dòng dã theo số phận ly kỳ.

Mình không biết số phận mình rồi sẽ về đâu. Mình không biết cái trụ điểm của mình.

Giận hờn chán ngán 

Đem lời kêu van 

Trong dã tâm ba đào 

Còn nhiều sóng gió 

Còn nhiều gian nguy.

Nơi thăm thẳm 

Vừa mênh mông 

Vừa sóng gió 

Vừa bão tố

Tâm can biển vừa thâm u 

Vừa tối ám ngàn thu

Mỗi lớp cồn đợt sóng 

Đem theo một hoài mong

Của mỗi một sinh kiếp 

Đã bị vực sâu chôn vùi.

Nơi nham hiểm 

Mà uy nghi

Mà du dương 

Mà quyến luyến

Ai nuôi mộng biệt ly 

Đứng bến chờ làm chi 

Xa xăm vời vợi xa xăm 

Tàu vượt đi không về.

Năm 1968 tôi được đức tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất là hoà thượng Thích Tịnh Khiết uỷ nhiệm cho thành lập một phái đoàn Phật giáo Việt Nam để có mặt tại Hội nghị Hoà bình ở Paris. Tại vì trong Hội nghị Hoà bình Paris có các phe lâm chiến tham dự, nhưng không có tiếng nói của người dân. Giáo hội muốn nói được tiếng nói của người dân, vì vậy Phái đoàn Hoà bình của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Phái đoàn Hoà bình ) được thành lập tại Paris năm 1968, ban đầu đặt trụ sở ở Maisons Alfort, ngoại ô Đông Nam Paris, sau chuyển về Paris số 11 Rue de la goutte d’or, Paris 18. Chúng tôi cung cấp cho các giới nhân bản, các giới tôn giáo, các giới báo chí, các giới chính trị những tin tức mà hai phe lâm chiến không cung cấp. Đó là những đau khổ, những áp bức, tuyệt vọng của người dân. Đường lối của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là không muốn đất nước bị tan tành bởi một cuộc tranh chấp giữa hai phía. Không muốn có chuyện anh em một nhà bôi mặt đá nhau. Đó là đường hướng mà đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết ban bố. Chúng tôi làm việc từ năm 1968 cho đến năm 1974-1975. Trong quá trình hoạt động đó, chúng tôi đã kết thân được với rất nhiều người bạn ở Tây phương, châu Mỹ, châu Âu, châu Úc. Họ đã yểm trợ cho chúng tôi trong công tác vận động để làm vơi bớt những đau khổ ở bên nhà.

Chúng tôi nhớ là trong thời gian đó, chúng tôi đã tìm được người bảo trợ cho trên tám ngàn (8.892) em bé mồ côi ở Việt Nam. Chúng tôi không thiết lập những cô nhi viện, cũng không gửi tiền về các cô nhi viện vì nhiều nhà hảo tâm trong và ngoài nước vẫn ghé và giúp đỡ. Chúng tôi biết còn rất nhiều những trẻ mất hết mẹ cha nhưng may mắn còn được sống với bà hay với người cậu, người dì… Năm 1973 sau khi Hoà ước chấm dứt chiến tranh Việt Nam được ký kết, quý hoà thượng trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (hoà thượng Thiện Hoà, hoà thượng Thiện Minh và hoà thượng Huyền Quang) thành lập Uỷ ban Tái thiết và Phát triển Xã hội và kêu gọi tăng ni trẻ đứng ra lo cho trẻ em cô nhi bất hạnh nên quý sư, Sư cô đã tự đứng ra lập trên 57 nhà giữ các trẻ từ 20 tháng đến 5 tuổi từ sáng tới chiều bằng sự đóng góp của Phật tử trong nước. Quý Sư cô cho các cháu tập vẽ, tập hát, học chữ hay tập đọc. 11 giờ rưỡi cho các cháu ăn trưa, chiều chơi hát và học vài chữ rồi về lại nhà, vì gia đình quá nghèo phải đi bán buôn suốt ngày không chăm sóc được các em. Trong các cháu ấy cơ cực nhất là các cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ đang ở với bà nội hay bà ngoại già nua mà phải đi bán khoai bán chuối nuôi cháu. Qua các tác viên xã hội khắp nơi trong đất nước và qua những nhà giữ trẻ ấy, chúng tôi tìm tới nhà một người thân của các bé mồ côi như ông chú, bà cô, người cậu hay dì và khuyến khích gia đình nuôi cháu mồ côi ấy, cho bé ăn uống đủ chất bổ hơn. Chúng tôi sẽ trao cho họ số tiền của ân nhân bên này bảo trợ cho bé để bé sẽ tiếp tục được sống với người thân trong một không khí gia đình mà không là gánh nặng của chú thím hay dì cậu. Mỗi em mồ côi như vậy được cung cấp khoảng 5 dollar mỗi tháng để có đủ tiền ăn học. Những tác viên của chúng tôi tới thăm những gia đình ấy mỗi ba tháng một lần, phát tiền của người bảo trợ bên này và xem em bé mồ côi kia có được nuôi ăn học đàng hoàng hay không. Nếu em bé không được đối xử tốt thì chúng tôi sẽ tìm cho em bé một gia đình khác khá hơn.

Phái đoàn của chúng tôi ở Paris có rất nhiều người trẻ tới từ nhiều nước khác nhau: Hà Lan, Anh, Mỹ, Úc, Thuỵ Sĩ,… Họ ở và làm việc với chúng tôi mà không nhận lương. Chúng tôi đã làm việc với nhau trong tinh thần thân ái như vậy. Chúng tôi dịch những hồ sơ cô nhi nhận được từ các tỉnh, các quận, rồi chúng tôi đi tìm những nhà bảo trợ. Những ngày cuối cùng tháng 4 năm 1975, chúng tôi đã tìm ra thêm nguồn để có thể bảo trợ được gần 14.000 em bé mồ côi. Có rất nhiều trường hợp trong đó 5 dollar không phải chỉ dành riêng cho các cô nhi được bảo trợ. Tại vì gia đình đó nghèo khổ, những đứa trẻ con ruột của họ cũng gặp khó khăn, cho nên 5 dollar ấy được chia ra cho cả những đứa trẻ khác trong gia đình. Như vậy là 5 dollar đó không chỉ giúp cho em bé mồ côi mà còn giúp cho cả gia đình nhận nuôi em bé ấy.

Trong quá trình vận động đó, chúng tôi đã tiếp thân với rất nhiều người trong giới tôn giáo, trong giới nhân bản, trong giới trí thức. Nhưng sau năm 1975, tất cả những công tác giúp đỡ cho quê nhà của chúng tôi bị chấm dứt hết. Lúc bấy giờ ở Việt Nam, tất cả các cơ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như trường đại học, trường trung học, tiểu học, bệnh xá, các cô nhi viện bị đóng cửa 100%. Bên này chúng tôi đành bó tay, không có cách nào giúp được cho bên nhà. Bên nhà bị lâm vào tình trạng tuyệt vọng nhưng bên này chúng tôi cũng tuyệt vọng. Mình có hai tay mà mình không làm được gì để giúp đồng bào mình ở bên nhà. Trong hoàn cảnh đó chúng tôi không biết phải làm sao. Sau đó, chúng tôi ngồi thiền, đi thiền hành và cuối cùng tìm ra được một vài công tác để có thể tiếp tục giúp đỡ đồng bào trong nước và những công việc ấy cũng giúp chúng tôi trấn áp được niềm tuyệt vọng cứ muốn kéo chúng tôi đi.

Tìm con đường mới

Lúc ấy ở bên nhà, các văn nghệ sĩ, các nhà trí thức, các nhà nhân bản, tu sĩ và doanh thương cũng lâm vào tình trạng bế tắc. Không tìm được lối thoát nên nhiều người đã đi tìm niềm hy vọng bằng cách vượt biên. Trong giai đoạn đó, tại một buổi sinh hoạt giữa các anh chị em, chúng tôi nhận thấy rằng trong lúc tuyệt vọng chúng tôi phải trở về tu tập để tìm ra một con đường mới. Vì vậy chúng tôi đã từ giã Paris để trở về trung tâm tu học của chúng tôi tại một miền quê cách Paris chừng 150 km. Trung tâm đó có tên là Phương Vân Am (các bạn Tây phương thường gọi là Les Patates Douces – The Sweet Potatoes). Chúng tôi trở về quyết tâm tu tập, để chữa lành vết thương trong mình và để tìm ra một con đường mới.

Trong khi tu tập, quán chiếu, chúng tôi quyết định là tuy chúng tôi không giúp đỡ được cho hàng chục ngàn trẻ mồ côi, cho người già, cho các trường học và hàng trăm dự án giúp cho đồng bào tỵ nạn chiến tranh, nhưng chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có khả năng giúp cho giới học giả và văn nghệ sĩ ở quê nhà. Tại vì giới văn nghệ sĩ và học giả có thể nói lên được tiếng nói của trái tim, của dân tộc. Và chúng tôi đã tìm ra một phương pháp. Cách của chúng tôi là gửi quà cho mỗi văn nghệ sĩ một năm ba hoặc bốn lần. Những gói quà đó có thể giúp họ vượt qua khó khăn để tiếp tục đi tới. Để tránh bị theo dõi, chúng tôi quyết định chỉ gửi từng gói quà nhỏ 1 kg về Việt Nam thôi. Chúng tôi biết rằng cái quý nhất ở Việt Nam lúc đó là thuốc tây. Vì vậy chúng tôi đã mua những loại thuốc tây đắt tiền để gửi về.

Thứ nhất, thuốc này có thể chữa bệnh cho những người trong gia đình của những văn nghệ sĩ đó. Thứ hai, thuốc ấy cũng có thể bán đi lấy tiền mua gạo, mua thức ăn. Đây không phải là công việc xã hội. Đây là một công việc có nhiều mặt, tại vì nhân cách của giới văn nghệ sĩ rất cao. Họ không muốn nhận bố thí từ người khác. Vì vậy, chúng tôi đã đóng vai là những độc giả ngưỡng mộ họ. Khi chúng tôi gửi một món quà như vậy thì chúng tôi phải gửi thêm một lá thư, lá thư đó chứng tỏ là người viết rất trân quý, rất thán phục những tác phẩm của họ và nói rằng nhờ họ mà người viết lớn lên được. Họ đã nói ra được bằng trái tim của họ những cái hay, cái đẹp, nói lên được những nỗi niềm của dân tộc, của tổ tiên. Chúng tôi cũng nói rằng, món quà này chẳng qua chỉ là sự chứng tỏ lòng biết ơn của chúng tôi với nhà văn, nhà nghệ sĩ đó mà thôi. Chúng tôi muốn viết những bức thư ấy như thế nào để nghệ sĩ kia cảm thấy là họ có người hiểu, họ có người thương, điều ấy khiến cho họ có ý chí muốn sáng tác trở lại. Tại vì có thể nói tới 99% văn nghệ sĩ trong môi trường đó, trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ hoàn toàn tê liệt, không thể sáng tác được một cái gì hết. Họ hoàn toàn bị niềm tuyệt vọng trấn ngự. Họ không thấy tương lai đâu hết cho nên họ không thể sáng tác được.

Hồi đó tôi làm cố vấn cho các cô, các chú trẻ viết thư. Trung tâm tu tập của chúng tôi tại Phương Vân Am có rất nhiều người trẻ, trong đó có cả Sư cô Chân Không. Hồi ấy Sư cô Chân Không mới chỉ khoảng ba mươi hai tuổi thôi. Chúng tôi cùng ngồi thiền, cùng làm việc với nhau trong chánh niệm. Tôi cố vấn cho các bạn trẻ cách viết thư vì tôi biết được những tác phẩm của những nhà văn nghệ sĩ kia. Tôi hướng dẫn cho họ cách viết làm sao để cho người nhân sĩ đó thấy được rằng: Chà, cái bọn trẻ này nó hiểu mình khá sâu sắc, mình có người hiểu ở ngoại quốc thì tại sao mình phải tuyệt vọng. Rốt cuộc, những người trẻ trong cộng đồng của tôi đã gây được cảm hứng cho một số đáng kể trong những văn nghệ sĩ ấy. Nhiều người trong số họ đã bắt đầu sáng tác trở lại.

Hồ Dzếnh là một thi sĩ đã sáng tác trở lại sau khi nhận được thư và quà của chúng tôi. Lê Thương cũng là một người như vậy. Lê Thương cũng là nạn nhân của sự tuyệt vọng. Trong những lá thư gửi cho chúng tôi, Lê Thương đã tả rõ hoàn cảnh xã hội thời đó và tình trạng của các anh chị em văn nghệ sĩ khó khăn như thế nào. Lê Thương viết cho chúng tôi nhiều lắm, có thể in thành một tập sách dày ít nhất một trăm năm mươi trang. Đó là những tư liệu về văn học rất quý giá, khi điều kiện thuận lợi, chúng tôi sẽ công bố.

Giống như các thi sĩ, văn sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ khác, Lê Thương cũng phải phấn đấu để vượt thoát niềm tuyệt vọng của mình. Đây là một đoạn mà Lê Thương viết cho Phương Hương, một em gái hậu phương nâng đỡ tinh thần cho người chiến sĩ tiền tuyến trong mặt trận văn nghệ: “Tôi không muốn nói tới những lúc khóc thầm trong đêm tối một mình, cả đến những u buồn diệu vợi khi chợt nghĩ đến tương lai còn mờ mịt, vì tôi vẫn còn giữ vững được niềm tin và sức sống bền bỉ trong đêm, hằng không muốn tự tiêu diệt bằng nản chí. Khi thấy lòng càng ngày càng cô đơn giữa đám đông nhộn nhịp thì chỉ cần lá thơ nhỏ như lá thư của em là đủ làm sống dậy bao nhiêu hy vọng đẹp ngổn ngang và thấy ngày mai vẫn còn đáng sống.”

Đó là những tâm sự ông viết sau khi đã đọc một lá thư của Phương Hương. Phương Hương là một người trẻ trong cộng đồng của chúng tôi và tôi là cố vấn cho Phương Hương. Thành ra Lê Thương đâu có biết rằng trong Phương Hương có thầy Nhất Hạnh.

Đây là bức hình biển và trời và những cành khô trụi lá Lê Thương gửi cho chúng tôi. Lê Thương viết bên sau bức bưu thiếp:

“Hình này tôi chụp ở Vũng Tàu từ gần hai mươi năm nay, lúc máy Contaflex còn tốt. Thấy nó hạp với tâm sự khá ảm đạm, nên xin tặng Phương Hương với cảm đề đột ngột. Mong nó nói được tâm sự không quá tệ:

Lòng tôi u ám như mây đó 

Phủ kín miền xa lấp chân trời 

Biển lặng trầm tư chờ giông gió 

Cành héo xác xơ vẫn chờ tươi”

(Chữ ký Lê Thương)

Lê Thương viết tiếp: “Tôi đang xé bỏ bao giấy cũ, hình cũ, bài cắt báo cũ gồm thơ văn rải rác vì thấy đời nặng chĩu những kỷ niệm không còn thấy hợp cảnh. Xé mãi mà cũng không phải là không đau lòng. Có lúc muốn xé cả mình mà không biết làm cách nào, đành tức cười mà chui đầu, vùi mặt vào Số Mệnh. Số Mệnh hắt tay ra và mắng: Đừng có ba trợn, phấn đấu tiếp đi ông nội. Thì phấn đấu vậy.”

Thư của Lê Thương

Đối với Doãn Quốc Sĩ thì người đi tới với Doãn Quốc Sĩ là cô Chín và dì Năm. Và quý vị có biết dì Năm là ai không? Là thầy Nhất Hạnh. Sau này, khi biết dì Năm là thầy Nhất Hạnh thì Doãn Quốc Sĩ đề nghị dì Năm đổi tên thành cô Năm.

Nhà học giả Đào Duy Anh rất cô đơn. Trong tình trạng đó có một người tự xưng là cháu, tên là Đào Thị Mây gửi quà qua cùng với những bức thư nói lên niềm khát vọng và kính ngưỡng của mình đối với bậc học giả đó. Đào Thị Mây lại là một hoá thân khác của đức Quan Thế Âm.

Thành ra Đào Thị Mây, cũng như cô Chín, dì Năm, Angelina hay Phương Hương đều là những hoá thân của đức Bồ tát Quan Âm. Chúng tôi cũng đã nhận được rất nhiều thư của các văn nghệ sĩ bên nhà. Có nhiều người cho chúng tôi biết rằng họ đã có thể bắt đầu sáng tác trở lại. Niềm vui đó không phải chỉ để cho họ mà còn cho tất cả chúng tôi. Tại vì khi mình gây được cảm hứng cho một nhà văn, nhà thơ, nhà học giả làm việc trở lại thì việc đó đem lại cho mình quá nhiều hạnh phúc.

Có một lần, Nhà xuất bản Lá Bối của chúng tôi ở hải ngoại xuất bản một tập sách trong đó có những sáng tác của các văn nghệ sĩ quốc nội gửi ra. Đó là tập Tắm mát ngọn sông Đào, gồm những bài văn của các nhà văn như Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Hải Thuỷ… Hôm qua tôi ngồi nhớ lại xem những người nào đã được Phương Hương, Đào Thị Mây… tiếp xúc thì tôi tìm ra được một cái danh sách, danh sách này không đủ, nó mới chỉ có:

Nhà cách mạng uyên bác Đào Duy Anh, thi sĩ Hoàng Cầm, thi sĩ Hồ Dzếnh, nhạc sĩ Lê Thương, Vũ Đức Duy (qua con gái Vũ Thị Dạ Thảo), nhà văn Bình Nguyên Lộc, nhà văn Võ Hồng, hoạ sĩ Trọng Nội, nhà văn Duyên Anh, thi sĩ Vũ Hoàng Chương, nhạc sĩ Vĩnh Phan, hoạ sĩ Minh Đăng Khánh (mất ngày 25 tháng 2 năm 1981), nhà văn Trần Phong Giao, học giả Nguyễn Đăng Thục (hồi cụ chưa được con gái bảo lãnh sang Pháp), học giả Giản Chi, nhà văn và nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, triết gia Nguyễn Sĩ Tế, nhà văn Hoàng Hải Thuỷ, nhà văn Nhã Ca, nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, thi sĩ Trụ Vũ, nhà trào phúng (hề) Khả Năng, nhà thổi sáo tuyệt vời Nguyễn Đình Nghĩa, nhà bình luận gia Lý Đại Nguyên, giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn (gửi qua bà Đỗ Thị Hải), nhà văn Lê Xuyên, thi sĩ Nguyễn Đức Sơn, nhà văn Vĩnh Hảo (tác giả Thiên thần quét lá), Nguyễn Cường, Thế Uyên, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, nhạc sĩ Ngô Nhật Thanh.

Ở tại Phương Vân Am chúng tôi làm việc như một tăng thân, chúng tôi yểm trợ các văn nghệ sĩ đó không phải bằng vật chất mà bằng trái tim của chúng tôi. Cố nhiên là chúng tôi có phương tiện, có bạn bè để giúp chúng tôi gửi thuốc men cho các vị đó. Nhưng chúng tôi biết cái đó không đủ nên chúng tôi đã đem trái tim của chúng tôi ra để nuôi những trái tim của các văn nghệ sĩ bên nhà. Dù sao thì họ cũng đại diện cho tiếng nói của dân tộc. Đây là một đoạn thư của Phương Hương viết cho Lê Thương:

“Anh Lê Thương, trong thư anh có một câu làm cho em mừng hết lớn, đó là câu nói anh bắt đầu sáng tác trở lại vì anh đang có những nguồn cảm hứng mới. Anh Lê Thương, em biết rằng thiên tài của anh, tâm tư của anh, cái nhìn của anh về cuộc đời và con người, tất cả những thứ ấy đã vững chắc và chín muồi nơi anh. Em nghĩ những sáng tác mới của anh chắc chắn sẽ vượt thoát được những buồn vui, mừng giận tầm thường và sẽ thanh thoát như mây bay, hùng vĩ như những cây đại thụ.

Ngay từ trong Hòn Vọng Phu em đã cảm thấy chất liệu thời gian của anh khác thường rồi. Anh đã từng sống qua nhiều giai đoạn của lịch sử cận đại, anh đã chứng kiến bao nhiêu biến thiên, chắc chắn anh sẽ không chịu để cho cái ngục tù thời gian giam hãm anh đâu. Tác phẩm của anh sẽ như một con chim lớn vỗ cánh bay cao tại vì vùng trời tâm linh của anh không có bờ bến, không bị thời gian và không gian giam hãm.

Có một lần em thấy một cây tùng hùng vĩ xanh tươi mọc cheo leo trên một sườn núi đá khô cằn. Em thấy cây tùng đó rút sinh lực không phải chỉ ở phần đất cát và đá khô cằn ở sườn núi, mà còn ở những dòng nước đi sâu hàng trăm thước trong lòng đất và nhất là ở mặt trời và các ngôi sao lớn khác trong vũ trụ bao la. Anh Lê Thương, anh là một nghệ sĩ có kích thước lớn như vậy đó. Anh không cần những chất liệu bổ dưỡng tầm thường của những loài cây cỏ tầm thường. Em đã đọc phiên khúc bốn của bài Lòng mẹ Việt Nam, Tâm sự ca nhân em cũng đã đọc. Em nghe những bài nhạc đó mà cảm thấy ấm cả lòng. Em cũng từng trải qua sự nghèo khổ, và em cũng biết rằng đói uống nước lạnh mà ôm nhau ngủ để quên còn sung sướng hơn là giàu thịnh mà chia cắt nhau như những hòn đảo lạnh. Đối với anh, em chỉ như một ngôi sao xa mờ nhạt cách anh có tới ba trăm triệu năm ánh sáng. Em không có đủ ánh sáng bằng một con đom đóm để cho anh đọc sách nhưng em hy vọng em có thể nhắc anh nhớ rằng vũ trụ và thời gian thật bao la và anh thuộc về vũ trụ ấy chứ không phải chỉ thuộc về một mảnh thời gian và không gian bé nhỏ.”

Đó là những lời viết cho Lê Thương, và những lời viết cho các văn nghệ sĩ khác cũng tương tự như thế để cho những người nghệ sĩ có niềm tin nơi tài năng của họ, để họ có niềm hy vọng mà vượt thoát niềm tuyệt vọng kia. Đoạn văn này chứng tỏ là Phương Hương hiểu được Lê Thương và mong Lê Thương sống và sáng tác mạnh để cho thế hệ trẻ được nhờ. Những lời ấy làm cho người nghệ sĩ vươn tới một chân trời cao rộng hơn, mà không bị tù túng trong cái chế độ kinh tế chính trị của xã hội thời đó.

Nhà văn Duyên Anh đang sống tuyệt vọng trong một trại học tập cải tạo thì một ngày nọ, bà Duyên Anh cùng con tới thăm và kể chuyện rằng bỗng đâu trong đời mình xuất hiện một bà tiên gửi quà, gửi thư an ủi, khuyến khích. Trong trại học tập cải tạo, vào lúc tâm hồn đang trĩu nặng, xâm chiếm bởi niềm tuyệt vọng thì nhà văn Duyên Anh nghe được tin đó. Nhà văn Duyên Anh biết được rằng, trong lúc mình bị tù đầy thì có một người phụ nữ tên là Angelina Nguyễn đã xuất hiện và chăm sóc cho gia đình mình. Đó là một phân thân khác của tăng thân. Phương Hương là một cái tên, Angelina là một cái tên khác vì đây là hạnh nguyện của đức Bồ tát Quan Thế Âm hiển hiện ra muôn ngàn thân để với tới muôn ngàn tình thương.

Đây lại là một đoạn thư của nhà văn Duyên Anh viết cho Angelina:

“Tôi được hân hạnh biết cô từ dạo Giáng Sinh năm 1977 (chương trình gửi quà của chúng tôi bắt đầu từ năm 1976). Hồi đó tôi ở T20, nhà tôi và các cháu đến thăm hoan hỉ báo tin mừng là được cô tận tình giúp đỡ. Rồi tôi được chuyển qua T30, lưu đầy khá nhiều nơi và nơi nào tôi cũng nghĩ tới cô. Nghĩ đến cô cơ hồ đứa trẻ côi cút nghĩ tới những người đã dành phần cơm chờ mình ngang qua cửa. Cuộc đời không bao giờ có cảnh tượng cảm động đó nhưng mà rốt cuộc nó vẫn có. Thưa cô Angelina, cô là ông Bụt trong chuyện cổ tích Tấm Cám, cô là Phật Bà Quan Âm. Nước mắt của người vợ thương chồng, của những đứa con nhớ cha đã làm sống dậy cổ tích, đã đắp lên gia đình đơn lạnh của tôi một tấm chăn ấm áp tình người. Tôi chẳng thể nào quên tấm lòng tốt của cô, xin cô ghi nhớ.”

Duyên Anh đã nói rằng trong cuộc đời của Duyên Anh thì Angelina hiện ra như Bụt trong truyện Tấm Cám. Đó không phải là truyện cổ tích. Đó là chuyện có thật. Duyên Anh không phải là Phật tử nhưng trong trại học tập cải tạo Duyên Anh đã lấy một cái dùi sắt và một tấm ván để khắc một tượng Phật nhỏ xíu chờ dịp gửi qua cho Angelina.

Tượng Phật bằng gỗ mun do Duyên Anh khắc

Nghệ sĩ hề Khả Năng cũng vậy, Khả Năng đã lấy một mảnh bom trong rừng và khắc thành một chiếc lược để gửi cho Phương Hương.

Mở hộp ra là một chiếc lược làm từ mảnh bom, trên có khắc chữ:

mến tặng Phương Hương

Mở hộp ra là một chiếc lược làm từ mảnh bom, trên có khắc chữ: mến tặng Phương Hương

Hoạ sĩ Minh Đăng Khánh cũng gửi cho chúng tôi những tác phẩm của mình. Tài liệu của những văn nghệ sĩ, những tác phẩm của họ chúng tôi còn cất giữ nhiều lắm, có dịp chúng tôi sẽ công bố những tài liệu ấy để đồng bào biết được sự sống, tài năng và quyết tâm vượt thoát niềm tuyệt vọng của họ.

Tại Phương Vân Am chúng tôi chăm lo cho rất nhiều văn nghệ sĩ ở quê nhà, nhưng những văn nghệ sĩ kia thì cứ nghĩ rằng chúng tôi chỉ lo cho một mình họ. Vì vậy họ chờ đợi những lá thư như lá thư chúng tôi viết kèm theo hộp quà. Theo Lê Thương, mỗi lần Phương Hương gửi cho Lê Thương một lá thư thì đó là một liều thuốc bổ. Những người nghệ sĩ cần nguồn thuốc bổ đó. Cố nhiên là gói quà cũng cần thiết, nhưng lá thư cũng rất cần thiết. Và lỗi của chúng tôi là đã không viết được nhiều những bức thư như vậy, tại vì số văn nghệ sĩ mà chúng tôi liên lạc đông quá. Vì vậy mà có lần anh Lê Thương đã giận vì lâu ngày chúng tôi chỉ gửi quà mà không gửi thư. Đã hơn ba lần trong lá thư của mình Lê Thương chứng tỏ rằng mình giận. Tại vì mỗi lần gửi quà chúng tôi đều viết những lời chỉ dẫn rất cặn kẽ về cách sử dụng những gói quà này và giá trị của từng món trong gói quà để khi đem bán đừng bị người ta lừa, nhưng lại không có những lá thư khích lệ như trước. Trong khi ấy người nghệ sĩ thì lại rất cần những lá thư kia và họ đòi ít nhất ba tháng một lần phải có một lá thư như thế. Nhưng mà chúng tôi không có đủ sức để làm chuyện ấy cho nên có người đã giận và một số văn nghệ sĩ khác đã hờn. Chúng tôi cũng đành chịu thôi. Quà thì gửi rất đều, chuyện đó không khó, nhưng viết những lá thư như vậy thì phải có thời gian và nhất là phải có “cố vấn” mới làm được.

Nhạc sĩ Lê Thương có một nhân cách rất cao, một người có kiến thức rất vững chãi về âm nhạc Đông Phương. Trong những năm đó Lê Thương đã bắt đầu biên tập một tác phẩm vĩ đại gọi là Âm nhạc sự điển. Lê Thương đã nghiên cứu về âm nhạc châu Á trong vòng ba mươi năm và đã muốn làm tác phẩm đó để nói về tinh thần và kĩ thuật âm nhạc châu Á. Tác phẩm đó gồm khoảng ba ngàn mục. Mỗi mục như vậy có thể dài khoảng từ bảy tới mười lăm hàng. Lê Thương đã làm việc mỗi ngày, có khi thức tới hai giờ rưỡi sáng để đánh máy. Lê Thương đã ngỏ ý là sẽ gửi công trình đó qua cho chúng tôi cất giữ và xuất bản. Hy vọng một ngày nào đó chúng tôi sẽ làm được điều mà Lê Thương muốn chúng tôi làm.

Lê Thương sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914 tại Nam Định, vào Nam năm 1941 và sáng tác Hòn Vọng Phu 1 năm 1945. Hòn Vọng Phu 2 và Hòn Vọng Phu 3 được sáng tác từ năm 1945 đến 1947. Nhạc sĩ Lê Thương suýt chết ở gần quận Bình Đại Bến Tre vì bị Tây ruồng. Hồi đó Lê Thương đã sáng tác Hòn Vọng Phu 1 rồi. Đi theo Lê Thương có rất nhiều học sinh của trường Petrus, đi đâu mấy anh chị em họ cũng hát ca để làm sống dậy tinh thần yêu nước của đồng bào. Họ đi từ làng này sang làng khác, từ quận này sang quận khác. Lần đó Lê Thương bị một anh chàng tây lai tên là Leroy đuổi bắt và suýt chết vào tay của anh chàng tây đó. Sau nhờ một người giúp đỡ, Lê Thương trở về Mỹ Tho được và ngồi tù một thời gian thì được tại ngoại và tiếp tục sáng tác.

Máu chảy ruột mềm

Lê Thương hoàn toàn không biết rằng trong khi Lê Thương sáng tác bài Biển sau giông tố thì ở bên này chúng tôi đã tổ chức chiến dịch cứu trợ cho những người vượt biển có tên là Máu Chảy Ruột Mềm. Hồi đó tôi (thầy Nhất Hạnh) đi Bangladesh để hoằng đạo. Sau Bangladesh tôi về lại Singapore để dự Hội nghị Tôn giáo và Hoà bình Á châu vào cuối tháng 11 năm 1976. Trong thời gian ở tại Singapore dự hội nghị đó, tôi phát hiện ra được các thuyền nhân (trên thế giới lúc ấy chưa ai biết đến những người thuyền nhân boat people). Tôi đã đề nghị Đại hội yểm trợ cho tôi trong công việc tổ chức một chiến dịch cứu người trên biển và Đại hội đã đồng ý. Vì vậy tôi đã đặt trụ sở tại Singapore, mời một số các bạn từ Pháp, Hà Lan và các nước châu Âu qua để yểm trợ. Chúng tôi đã thuê bốn chiếc tàu để đi vớt người trên biển, chiếc đầu tiên tên là Roland, chiếc thứ hai là Leapdal, chiếc thứ ba là Saigon 200 và chiếc thứ tư lớn nhất có tên là Koojara. Theo kế hoạch, hai chiếc Roland và Leapdal có nhiệm vụ đi vớt người trên biển, khi được nhiều rồi thì chuyển lên chiếc Koojara vì chiếc này lớn nhất có thể chứa tới sáu trăm người. Còn chiếc Saigon 200 thì đi tới đi lui để cung cấp nước và thực phẩm.

Cái khó của chúng tôi là phải cứu người một cách âm thầm, làm thế nào để chính quyền Singapore không biết, nghĩa là phải làm “chui”. Lúc ấy Singapore có một chính sách rất khắc nghiệt lạnh lùng đối với thuyền nhân. Khi có thuyền nhân ghé bến thì quốc gia đó không cho đi vào, họ ra lệnh phải đẩy những người thuyền nhân trở ra biển cho chết. Cư dân nào dám cả gan vớt một thuyền nhân sẽ bị phạt rất nặng, nên không ai dám vớt thuyền nhân. Có một chiếc tàu hàng Nhật Bản lỡ vớt chín mươi tám (98) thuyền nhân ghé vào Singapore, Singapore không cho cập bến. Toà đại sứ Nhật Bản can thiệp để cho chiếc tàu đó cập bến thì Singapore yêu cầu phải đặt tiền thế chân một triệu USD, nếu chín mươi tám người ấy không bước chân xuống đất liền thì khi thuyền nhổ neo họ sẽ trả lại một triệu USD, tại vì Singapore không muốn một thuyền nhân nào được lên bờ hết. Chính sách của Singapore đối với thuyền nhân là như thế mà các nước lân cận cũng gần như thế.

Thường thường, khi có một chiếc thuyền chở thuyền nhân cập bến thì cảnh sát được lệnh phải đẩy ra ngoài. Nếu mình nói thuyền mình đã hỏng rồi thì cảnh sát cho tối đa một ít ván, một ít gỗ để đóng lại, sau đó họ đẩy trở ra khơi. Có lần ở bờ biển Mã Lai có hai chiếc thuyền chở đầy thuyền nhân bị đẩy ra ngoài biển, một chiếc bị chìm, những người trên thuyền bị chết hết. Mọi người trên chiếc thuyền còn lại hoảng sợ quá, họ vừa chứng kiến đồng bào của mình chết ngay trước mắt thì nhất định không đi ra nữa, họ cứ đi vào thôi. Trước khi cảnh sát tới can thiệp thì họ tự đập vỡ chiếc tàu của mình để đừng bị đẩy ra lại. Người của chúng tôi đã tới, đã lắng nghe và đã quay phim những người đó. Nếu những người còn lại bị bắt vào ở tù thì họ sẽ có cơ hội nhiều hơn, nếu không thì họ sẽ bị cho lên một chiếc tàu và bị đẩy trở về biển cả và họ sẽ chết như những người đồng bào của họ.

Chúng tôi đã tổ chức chương trình cứu trợ Máu chảy ruột mềm trong hoàn cảnh như vậy và chúng tôi phải làm chui, mà làm chui thì rất khó.

Với chiếc Roland chúng tôi vớt được 281 người và chúng tôi thuê một viên thuyền trưởng người Mỹ phụ trách – ông Mac Mahon. Ngày hôm ấy, ngay trên chiếc thuyền cứu nạn có một người phụ nữ trở dạ và sinh ra một bé gái. Để kỷ niệm, những người trên thuyền muốn đặt tên cho bé là Nguyễn Thị Roland. Tôi nói Roland là tên con trai mà, thành ra chúng tôi quyết định sửa lại thành Nguyễn Thị Rolanda. Tôi đã làm một bài thơ tặng cho Nguyễn Thị Rolanda. Em bé này nếu còn ở đâu đó thì năm nay đã 28 tuổi rồi.

Một bông sen nở trên đại dương

Bé sinh ra giữa muôn trùng sóng nước 

Giữa khuya này, đêm ba mươi tháng Giêng

Hai trăm tám mươi mốt người trên thuyền lặng im 

Nghe sóng đêm cầu nguyện

Tám người thuỷ thủ

Yên lặng cho thuyền hướng về phương nam 

Nước uống đã cạn rồi

Tàu chạy về gần cù lao Tiamen Cầu cứu

Biển đêm

Sóng vỗ mạn thuyền 

Trăng lặn lâu rồi

Ánh sao soi đường cho bé vào đời 

Dưới kia nhấp nhô đầu sóng bạc 

Một bà mẹ nằm trên boong tàu 

Chuẩn bị cho bé vào đời

Cả thuyền không có một phòng riêng 

Người bác sĩ

Cũng là giới lênh đênh bèo nước 

Tiếng khóc chào đời của bé

Bị át đi trong tiếng gió

Người mẹ mỉm nụ cười yếu ớt

Bác sĩ đứng lên loan báo tin mừng 

Hai trăm tám mươi mốt người vỗ tay 

Vị thuyền trưởng hô to:

Chúng ta đi về phương nam

Dân số chúng ta trở thành hai trăm tám hai 

Xin mọi người cám ơn Trời Phật.

Chiếc máy điện thoại nối liền 

Chuyển niềm vui lên lục địa

Khuya nay trên đất liền có người hay tin bé đã chào đời 

Bé Rolanda Nguyễn Thị

Bé từ đâu tới nhỉ?

Và bé đang đi về đâu?

Tại sao lại chọn nơi ra đời giữa đại dương

trên chiếc thuyền lưu lạc?

Bé không hỏi

Nhưng chúng ta hãy trả lời 

Ai nỡ để bông sen nở nửa đêm 

Chìm sâu lòng đại dương

Bạn ơi hãy trả lời cho chúng tôi

Chúng ta phải đem bé đi về hướng nào? 

Tôi cần bàn tay bạn.

Đó là bài thơ tôi viết cho bé Rolanda. Tôi dùng một chiếc điện thoại để liên lạc với chiếc tàu Roland nên tôi biết giờ sinh của bé và đã làm bài thơ này cho bé. Chúng tôi âm thầm chuẩn bị chở số đồng bào thuyền nhân đó tới Perth hay tới đảo Guam. Khi tàu sắp tới nơi chúng tôi sẽ đánh điện cho báo chí ra đón, để cho người ta đừng đẩy những chiếc thuyền đó ra ngoài biển.

Tàu Roland

Sư cô (ở giữa) đang giải thích cho thuyền nhân trên tàu Leapdal

Có một lần gặp khó khăn, chúng tôi nghĩ rằng không thể nào chờ được chiếc Koojara (chiếc này sắp mua, tiền có đủ nhưng chưa sea-worthy – nghĩa là chưa xuống nước được vì còn phải đợi ban an ninh chìm tàu duyệt lại từng khâu, từng phần trên tàu, e xuống nước tàu chìm thì họ bị trách nhiệm), vì vậy chúng tôi quyết định cho chiếc Leapdal đi trước. Hôm đó chỉ trước Tết Nguyên Đán có một ngày. Chiếc Leapdal do Vương Hồ làm thuyền trưởng. Trên đó chúng tôi đã vớt được trên ba trăm thuyền nhân rồi và đã chuẩn bị cho chiếc đó đi về Úc. Chúng tôi tới lì xì cho mỗi người một bao giấy đỏ trong có một dollar Úc mới tinh. Hôm ấy tôi đã đích thân ra biển để nói chuyện với đồng bào trước khi đồng bào lên đường. Tối ấy là tối Ba Mươi, tôi leo lên chiếc Saigon 200 để đi ra biển. Tôi đã dùng điện thoại để nói chuyện với đồng bào ở trên thuyền bên kia. Tôi chúc đồng bào thượng lộ bình an (nhất phàm phong thuận). Và tôi đã đưa cho mỗi người một bài thơ đã dịch ra tiếng Anh để khi tới bến, họ trao cho các nhà báo:

Lênh đênh ngoài sóng gió 

Thuyền nhỏ giữa đại dương 

Quyết tâm tìm đất sống 

Đói lạnh bao ngày đường. 

Chúng tôi là bọt biển

Trôi dạt giữa mênh mông 

Chúng tôi là hạt bụi 

Trong không gian vô cùng

Tiếng chúng tôi lạc mất 

Trong gió rít từng không 

Trên thuyền không nước uống 

Trên thuyền hết thức ăn

Con chúng tôi kiệt sức 

Khóc rã và lịm dần 

Chúng tôi khao khát Đất 

Nhưng chẳng được tới gần 

Mặc sức mà kêu cứu

Tàu bè vẫn dửng dưng 

Bao nhiêu thuyền đã lật 

Vì sóng gió bất thần 

Bao nhiêu là mạng sống 

Đã chìm lòng đại dương 

Chúa Ki Tô có nghe

Lời nguyện cầu rướm máu? 

Phật Quan Âm có nghe 

Lời kêu cứu không ngừng? 

Loài người ơi có nghe 

Tiếng gọi từ hố thẳm

Đất liền ơi có biết 

Tâm sự này hay không 

Xin loài người có mặt! 

Xin đất liền dang tay!

Cho chúng tôi tìm thấy 

Hy vọng trên đất này!

(Lời Nguyện cầu tìm đất sống trong tập Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt)

Tôi nhớ là sau khi dặn dò đồng bào, tôi trở về thì trời bỗng nổi gió và một đợt sóng đen ngòm chồm lên và vồ lấy tôi. Người tôi ướt hết và dường như đợt sóng muốn kéo tôi xuống biển. Giống như một năng lực ma quái nào đó đang nói rằng: “Ông là ai mà dám can thiệp vào chuyện của chúng tôi? Số phận của những người này là phải chết trên biển cả, tại sao ông có quyền can thiệp?”, như là một sự trả thù của nghiệp lực.

Chương trình Máu chảy ruột mềm cứu thuyền nhân trên biển là một chương trình rất thánh thiện. Sáng nào chúng tôi cũng thức sớm để ngồi thiền, đi thiền hành, chúng tôi thực tập hết lòng bởi vì chúng tôi biết rằng cần phải hướng dẫn chương trình này với năng lượng của tâm linh thì mới có thể thành công được. Đáng tiếc là chiếc Leapdal đã không đi qua Úc được vì chỉ sau đó mấy giờ đồng hồ thì có bão. Chính quyền Singapore khám phá ra được rằng chúng tôi đang hoạt động bí mật tại Singapore. Vì vậy họ bắt giữ chiếc Saigon 200 lại, không cho ra biển để tiếp tế và họ cũng không cho chiếc Leapdal đi vào đất liền. Rất có thể 300 người trên thuyền sẽ chết trên biển nếu không được vào trong vùng vịnh để tránh gió. Chúng tôi ở trên đất liền mà tâm trạng chúng tôi cũng bấp bênh như là thuyền nhân vậy. Đồng bào trên hai chiếc thuyền không có thức ăn, không có nước uống, không được tới gần bờ biển để tránh bão thì rất có thể họ sẽ chết trên biển. Nếu 600 người trên hai chiếc thuyền ấy chết trên biển thì chúng tôi cũng chết theo thôi. Làm sao mà sống nổi! Mình chịu chung số phận của nhau. Lúc ấy chúng tôi chỉ biết đi thiền hành, ngồi thiền và cầu nguyện. Chương trình của chúng tôi bị bại lộ là vì những người trong Hội nghị Tôn giáo và Hoà bình đã không giữ kín được. Từ Tokyo, New York,… họ đã tiết lộ tin tức với báo chí, và phóng viên đã tới tìm chúng tôi tại Singapore. Do đó chúng tôi bị phát hiện.

Vào lúc nửa đêm hôm ấy, cảnh sát Singapore ập tới bao vây văn phòng của chúng tôi. Họ chặn cửa trước, chặn cửa sau và các cửa hông nên chúng tôi không ai thoát được. Họ tịch thu hộ chiếu và ra lệnh cho chúng tôi phải rời khỏi lãnh thổ Singapore trong vòng 48 tiếng đồng hồ, tới sân bay họ sẽ trả lại hộ chiếu. Rời Singapore trong vòng 48 tiếng đồng hồ, trong khi mình còn trên 600 đồng bào lênh đênh ngoài biển không có thuốc men, không có nước uống, không có thức ăn, thì làm sao mình chịu nổi?

Trong hoàn cảnh nguy kịch, hoang mang đó, chúng tôi thực tập thở. Tôi nói rằng trong hoàn cảnh này nếu mà mình giữ được tâm an thì mình mới thật là người tu và chúng tôi đã ngồi thiền, đi thiền hành. Trong khi ngồi thiền chúng tôi tìm ra được một giải pháp: Nếu chúng tôi tìm tới cầu cứu với vị đại sứ Pháp tại Singapore nhờ ông can thiệp thì biết đâu chúng tôi có thể được ở thêm mươi ngày nữa để mà thu vén chương trình lại. Chúng tôi tiếp tục ngồi thiền, đi thiền hành, chờ tới sáng rồi thuê taxi tới toà đại sứ Pháp. Thật may là ông Jacques Gasseau đại sứ Pháp đã yểm trợ cho chúng tôi và can thiệp với chính quyền Singapore nên chính quyền Singapore gia hạn cho chúng tôi thêm mười ngày. Tôi giao quyền lại cho Sư cô Chân Không và các bạn khác. Sư cô Chân Không hồi đó có hộ chiếu Pháp, còn hộ chiếu của tôi không có nơi về. Nhưng chỉ 24 giờ đồng hồ sau khi tôi đi thì Sư cô Chân Không cũng bị buộc phải rời Singapore. Tình thế rất cam go. Rốt cuộc, sáu trăm thuyền nhân đó được trao lại cho Liên Hiệp Quốc. Trước đó, trên cù lao Tiamen cũng có mười mấy người thuyền nhân do Cao uỷ Tị nạn Liên Hiệp Quốc bảo trợ. Khi mười mấy người thuyền nhân này cũng muốn lên chiếc Leapdal để được đi Úc thì ông Sampat Kumar – đại diện cho Cao uỷ Tị nạn phản đối, ông nói: “Đó là những người tị nạn của chúng tôi, tại sao quý vị lại rước đi?” Tôi mới hỏi: “Quý vị đã tới thăm những người đó chưa? Quý vị có biết mặt những người ấy không? Quý vị đã từng tới giúp đỡ những người ấy chưa?” Ông đáp: “Chúng tôi chưa tới, chúng tôi chưa biết, chúng tôi chưa giúp gì nhưng mà chúng tôi có tên những người đó.” Tôi mới nói đùa: “Nếu ông có tên tất cả những ngôi sao trên trời thì tất cả những ngôi sao đó đều thuộc về ông hết sao?”

Sau đó, nhờ báo chí lên tiếng rất nhiều cho nên số mạng của thuyền nhân đã được bảo đảm. Ông đại sứ Pháp Jacques Gasseau rất từ bi đã âm thầm yểm trợ cho chúng tôi, cho phép những thuyền nhân lọt vào toà đại sứ vào ban đêm, được ở lại trong khuôn viên toà đại sứ cho đến khi cảnh sát tới làm biên bản. Chúng tôi cũng bí mật giao kết với ngư dân là khi nào họ cứu được một, hai, ba thuyền nhân thì lập tức báo cho chúng tôi dù đó là hai giờ khuya hay ba giờ sáng. Chúng tôi lấy taxi chở những người đó tới toà đại sứ Pháp rồi cho họ leo rào vào trong khuôn viên toà đại sứ. Chúng tôi biết rằng vào buổi sáng khi nhân viên toà đại sứ mở cửa đi vào và phát hiện ra những người thuyền nhân vừa chui rào đêm qua, họ sẽ báo cáo cho cảnh sát. Lập tức chính quyền Singapore sẽ tới bắt và bỏ tù những thuyền nhân ấy, nhờ đó mà họ được an ninh. Còn nếu họ không được vào tù, không có tên trong sổ sách thì họ sẽ bị đẩy ra biển và chết trên biển. Hồi ấy tôi đã làm một bài thơ ca ngợi tấm lòng nhân hậu của ông đại sứ Pháp:

Có cây ngô đồng cho chim phượng đậu 

Có người đứng đó cho tình thương sâu 

Luật lệ nhiều khi như màn lưới sắt

Giam người trong kiếp trầm luân thương đau 

Nhưng lòng nhân ái như bàn tay Phật

Phá tan địa ngục, đập nát u sầu 

Thành phố sáng nay nắng lên bát ngát 

Có chim bồ câu bay liệng trời cao

Tôi nhớ tới người tấm lòng cương trực 

Nụ cười mát dịu như nước nhiệm mầu 

Trẻ thơ nhớ người như hoa nhớ nắng 

Như nước nhớ nguồn, như trăng nhớ sao 

Tâm đã quyết rồi hiềm gì bạo lực

Thân đi vào đời cưỡi trên ba đào 

Bắc một cây cầu từ hang địa ngục 

Lên tới cõi trời, mở hội ngàn sao.

Lê Thương không biết rằng chúng tôi đã làm những công việc đó, nhưng Lê Thương cũng đi cùng chiều hướng tâm linh với chúng tôi. Lê Thương đã để cho trái tim mình mở ra, đã khóc, đã nói lên được nỗi khổ niềm đau của đồng bào vượt biển.

Sứ mạng

Tôi rời bỏ đất nước năm 1966 cho đến nay là 38 năm, chưa có cơ hội trở về nước. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta qua tới bên này chắc hẳn phải có một sứ mạng nào đó. Tổ tiên chúng ta gửi chúng ta qua đây, chắc là tổ tiên chúng ta muốn trao cho chúng ta một sứ mạng. Nói một cách rõ ràng hơn là chúng ta sang bên này có thể có hai mục đích. Mục đích thứ nhất là học hỏi những cái hay cái đẹp của thế giới bên ngoài để đem về làm đẹp thêm cho quê hương, cho Tổ quốc. Mục đích thứ hai là đem chia sẻ với bạn bè ngoại quốc những cái hay, cái đẹp của nền văn hoá Việt Nam. Đó là lý do chúng ta đang có mặt tại Tây phương. Nếu chúng ta nhớ được điều đó thì chúng ta sẽ biết thương yêu nhau, chấp nhận nhau để chúng ta, những người lớn, những người trẻ có thể thâu thập được những cái hay, cái đẹp nhất của các nền văn hoá Tây phương mà truyền về nhà. Và chúng ta cũng có thể chia sẻ với người Tây phương những gì hay, đẹp của nền văn hoá dân tộc. Ở trong đại chúng này thế nào cũng có người đang làm chuyện đó và đã làm được chuyện đó. Nếu chúng ta không thương yêu nhau, nếu cha không chấp nhận con, con không chấp nhận cha, vợ không chấp nhận chồng thì chúng ta không tài nào làm được chuyện đó. Chúng ta đã được tổ tiên chúng ta giao phó một sứ mạng, chúng phải nhìn lại, chúng ta phải biết rằng hơn 75 ngàn đồng bào ta đã phải chết dưới đáy biển. Chúng ta phải để cho niềm cảm thương đó được sống mãi trong lòng. Chúng ta phải nghe bài Biển sau giông tố của Lê Thương để thấy được sứ mạng của chúng ta. Trong sự sống hàng ngày chúng ta phải ý thức rằng chúng ta có một sứ mạng. Chúng ta phải làm thế nào để cho vợ hiểu được chồng, cha hiểu được con, chúng ta không thể nào sống ơ thờ, vô trách nhiệm được.

Hôm nay, nhân dịp đầu năm, chúng ta đã tập họp ở đây, có mặt của nhạc sĩ lớn Lê Thương và có mặt của anh linh các đồng bào đã tử nạn trong các chuyến vượt biên. Chúng ta phải hứa với lòng mình, phải hứa với đất nước, phải hứa với tổ tiên, hứa với người đã khuất là chúng ta sẽ sống như thế nào cho xứng đáng, sống như thế nào để niềm tin và tình thương mỗi ngày được sáng thêm, để chúng ta có thể làm trọn được phận sự mà tổ tiên của chúng ta đã giao phó khi gửi chúng ta sang bên này. Tôi đã làm hết sức của tôi, quý vị đã làm hết sức của quý vị, nhưng mà chúng ta còn có thể làm hay hơn nữa, chúng ta phải nắm tay nhau. Nắm tay nhau thì có thể làm được nhiều hơn, làm được lớn hơn.

Bây giờ tôi xin mời chị Liễu Thu thắp hương và dâng lên trên bàn thờ. Chúng ta sẽ thắp hương cho nhạc sĩ Lê Thương, chúng ta sẽ thắp hương cho đồng bào tử nạn trong chuyến vượt biên. Và chúng ta sẽ nghe lại một lần nữa bài Biển sau giông tố. Khi nghe bài này, quý vị phải nghe trong tinh thần của sự cầu nguyện, để cho trái tim của chúng ta mở ra, để cho chúng ta có thể cảm thông, có thể thấu hiểu được nỗi khổ đau, niềm tuyệt vọng, phải tiếp xúc được với thảm kịch của dân tộc và thấy được sứ mạng của mình. Theo tôi thấy, bài hát này là một bài cầu nguyện, một bài kinh.

Theo Lê Thương, trong một lá thư gửi cho chúng tôi, thì nhân sinh quan của Người Việt rất sâu đậm nghĩa tình. Nhân sinh quan đó đầy tình và đầy nghĩa, nó được biểu hiện qua một hình ảnh rất cảm động, là hình ảnh của một bà mẹ ôm con đợi chồng cho đến khi hoá đá. Theo Lê Thương, đó là một hình ảnh tuyệt đẹp và vì vậy cho nên chàng trai 31 tuổi khi đó muốn diễn tả cái đẹp ấy của nền văn hoá dân tộc qua bài Hòn Vọng Phu.