Hành trình theo bước chân Thầy

(Sư cô Chân Đào Nghiêm)

(Bài viết được dịch từ tiếng Anh)

Con đã học được những gì từ Thầy? Con học dừng lại, có mặt thực sự, nghe mưa, uống một tách trà và tiếp xúc với sự sống một cách sâu sắc. Con học được rằng sự có mặt đích thực cũng là hành động. Con chỉ cần là con thôi mà không cần phải cố gắng trở thành một cái gì khác.

 

 

Những lời dạy của Thầy đã thay đổi cuộc đời con như thế nào? Thầy dạy với những ngôn từ rất giản dị và bằng sự sống của chính Thầy. Thầy đã sống đúng với những gì Thầy dạy và điều đó đánh động tâm con một cách sâu sắc.

Sao Thầy không nhắc gì tới Thượng đế?

Đến Làng Mai lần đầu tiên vào tháng Hai năm 2002, con mong mỏi được gặp vị thầy đã cho bài pháp thoại đầy hùng lực sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 ở Mỹ. Thời gian ấy con bắt đầu đọc một vài cuốn sách của Thầy, như Đường xưa mây trắng, trong đó Thầy nói về Bụt như một con người chứ không phải như một vị thần linh. Những lời dạy của Thầy đã truyền rất nhiều cảm hứng cho con và con bắt đầu áp dụng những lời dạy ấy trong đời sống hằng ngày, thí dụ như con tập mỉm cười.

Hồi đó con đã thực tập thiền tọa được hơn 20 năm nhưng con không bao giờ nghĩ việc nở một nụ cười trên môi lại có thể tác động lớn tới sự thực tập của con đến vậy. Chỉ thực tập đơn giản vậy thôi mà con đã cảm thấy nhẹ nhàng, vui vẻ hơn. Sự thực tập của con trở nên đơn giản hơn, và thân tâm con cũng nhẹ nhàng, lắng dịu hơn.

Hồi đó, con có nhu yếu sâu sắc muốn tìm hiểu về cái chết và lý do vì sao những người mà con thương yêu lại gặp nhiều đau khổ đến vậy. Con cần làm gì để có thể giúp cho họ bớt khổ và có bình an? Con muốn làm cho trái tim mình lớn rộng, tự do và để có thể thương yêu nhiều hơn.

Trong khóa tu đầu tiên của con ở Làng, con được nghe Thầy kể câu chuyện về một nhóm nữ tu Cơ Đốc giáo tới tham dự khóa tu do Thầy hướng dẫn. Sau năm ngày, một vị là mẹ bề trên trong nhóm nữ tu đó thưa với Thầy: “Bạch Thầy, Thầy đã dạy chúng con mọi thứ nhưng sao Thầy không nhắc gì tới Thượng đế?”

Thầy kể lại rằng lúc đó Thầy không trả lời câu hỏi ngay. Thầy đã thở chậm rãi một vài hơi, rồi sau đó Thầy mới nói với vị nữ tu ấy: “Thưa Sơ (Soeur), vậy có điều gì tôi nói trong suốt năm ngày vừa qua mà không phải là nói về Thượng đế?” Và Thầy kể thêm: “Đó là giây phút khiến mọi người trong phòng bừng tỉnh. Ai cũng chợt ngộ ra một điều: Chúng ta bị vướng vào từ ngữ và khái niệm quá nhiều. Sự thực là lúc nào chúng ta cũng có thể trò chuyện và tâm tình được với Thượng đế”.

Con rất thích thú khi được nghe câu chuyện này, nhất là khi thấy một tu sĩ Phật giáo như Thầy có thể nói về Thượng đế một cách thoải mái bằng thứ ngôn từ đẹp đến như vậy.

Trao truyền và tiếp nối

Ngay sau khóa tu đầu tiên này, con đến thăm người cô của con. Lúc ấy, cô của con bị bệnh nặng và trong tình trạng hôn mê đã vài tháng. Con tới hôm trước thì tối ngày hôm sau cô mất. Con cảm nhận một cách sâu sắc những gì con tiếp nhận trong khóa tu, đã giúp con giữ được sự bình thản để có thể ôm ấp nỗi đau của chính mình cũng như nỗi đau của các con, các cháu của cô. Những lời Thầy dạy cứ vang vọng trong con. Cô của con vẫn còn đó. Cô đang có mặt khắp mọi nơi và con có thể cảm nhận được. Con cũng đã giúp những người anh chị em họ của mình nhận diện được những hạt giống tốt đẹp mà cô đã trao truyền cho các con. Chúng con là sự tiếp nối của cô.

Ba của con đã qua đời trước đó nhiều năm. Với niềm tin nơi Thầy, con nỗ lực thực tập những lời Thầy dạy. “Hãy cảm nhận rằng con đang nắm tay ba. Hãy cảm nhận ba đang bước đi bằng hai bàn chân của con”. Từ sự thực tập đó, con đã học được cách kết nối với ba nơi từng bước chân chánh niệm.

Khi mới thực tập, con phải dùng trí tưởng tượng của mình, nhưng càng thực tập thì con càng thấy rõ ba đang bước đi cùng con. Đó là một trải nghiệm vô cùng ấn tượng và sâu sắc. Con mất ba lúc mười chín tuổi. Ngày đó, con nghĩ rằng như thế là hết. Nhưng thực tập thiền hành theo cách Thầy dạy đã gợi lại trong con những kỷ niệm của thời thơ ấu. Hồi còn nhỏ, con thường đứng trên hai bàn chân của ba, rồi hai cha con cùng nhảy múa. Ba vẫn còn sống mãi trong con!

 

 

Kể từ đó, con đường trị liệu được mở ra. Đó là một con đường rất đẹp, con đường chuyển hóa mối liên hệ giữa hai cha con. Con thấu hiểu hơn những gì ba đã trao truyền cho con và đã thiết lập lại được sự truyền thông với ba. Con viết thư để kể cho ba nghe những điều mà con chưa từng có cơ hội.

Pháp môn thiền hành là một trong những món quà lớn nhất mà con tiếp nhận được từ Thầy. Món quà ấy đã giúp nuôi dưỡng niềm vui và xoa dịu nỗi đau trong con. Mỗi khi có một người thân qua đời, mỗi khi thấy cơn giận nổi lên, hay thấy buồn bã, lo âu,… con lại thực tập thiền hành và có mặt hoàn toàn với bước chân, hơi thở, ý thức rõ rệt về từng bước chân và sự di chuyển của cơ thể. Được đặt từng bước chân trên mặt đất quả thật là một phép lạ. Con đi cho những người thân không còn có khả năng tự bước đi được nữa. Con bước đi trong niềm vui là mình đang được bước đi.

Con đang bước cho Thầy

Năm 2020, con may mắn được về Tổ đình Từ Hiếu một tuần để thăm Thầy và có dịp đẩy xe lăn cho Thầy đi dạo xung quanh Tổ đình. Thầy ra hiệu bằng tay để nói chuyện với con, giới thiệu cho con các địa điểm khác nhau trong Tổ đình. Con bước đi cho Thầy, hai bàn chân của Thầy cũng chính là hai bàn chân con.

Con đã có nhiều dịp bước đi theo Thầy trên những nẻo đường khác nhau. Có lúc con đi theo Thầy ở những thành phố lớn, trong những buổi thiền hành với hàng ngàn người. Lại cũng có lúc con đi theo Thầy cùng vài người khác, trên những con đường nhỏ. Bao nhiêu năm bước đi theo Thầy, con cảm được niềm vui và sự nhẹ nhàng trong cách Thầy đi. Con thấy được sự tự do, an lạc của Thầy.

Mỗi khi đi thiền hành, Thầy thường ưa dành một chút thời gian để ngồi yên cùng đại chúng, dầu đó là một đại chúng hàng ngàn người hay chỉ một nhóm nhỏ vài ba người. Thầy chỉ ngồi và tận hưởng việc ngồi yên mà không làm gì cả. Chỉ đơn giản thưởng thức sự có mặt của nhau giữa khung cảnh thiên nhiên, kể cả khi nơi đó là vệ đường ở các thành phố lớn. Con nhớ hồi mới bắt đầu tu tập ở Làng Mai, khi chúng con ngồi với Thầy giữa buổi thiền hành, con cứ chờ đợi Thầy nói hay làm điều gì đó đặc biệt. Nhưng Thầy và đại chúng chỉ ngồi yên, thưởng thức giây phút hiện tại. Và đó là cơ hội để mọi người tiếp xúc sâu sắc với cảnh vật xung quanh, hưởng được sự an lạc và sự có mặt của nhau. Dần dần, con học được cách thưởng thức từng giây phút trong đời sống hằng ngày một cách sâu sắc hơn.

Tình thương của đất Mẹ

Năm 1995, mẹ con qua đời. Con cảm thấy quá đau đớn khi nghĩ đến điều đó và con không muốn nghĩ tới nó. Nên con chỉ biết chôn giấu nỗi đau mất mẹ trong lòng. Nhưng rồi, tình thương và những lời dạy của Thầy về đất Mẹ đã giúp con mở lòng ra để ôm ấp nỗi đau của chính mình và cảm nhận được tình thương của mẹ con qua tình thương của đất Mẹ.

Thực tập có mặt thực sự để cảm nhận vẻ đẹp tuyệt diệu và tình thương của đất Mẹ, con bắt đầu có thể ôm ấp niềm đau trong mình. Nỗi đau của con nhờ đó mà giảm bớt và con biết mẹ vẫn sống trong con. Con có thể hiến tặng cho mẹ niềm vui và cách sống đẹp của con, cũng như có thể hiến tặng cho tất cả tổ tiên của con. Vì con là sự tiếp nối của tổ tiên.

 

Niềm biết ơn tràn dâng

Khi tới xóm Hạ tháng Hai năm 2002, con thật sự xúc động trước sự mộc mạc, đơn sơ của nơi này. Thật cảm động khi thấy bức thư pháp treo trong nhà ăn “The piece of bread in your hand is the body of the cosmos” (Miếng bánh mì trong tay ta chứa đựng cả vũ trụ).

Năm 2005, một ngày sau khi hoàn thành chuyến hoằng pháp tại Mỹ, Thầy tới nghỉ tại tu viện Rừng Phong ở Vermont. Chỉ có một vài người trong chúng con ăn tối cùng Thầy. Thầy hỏi con: “Con không có gì để ăn kìa, vì sao con lại không ăn?”. “Bạch Thầy, tối nay con không muốn ăn. Như thế này con thấy dễ chịu hơn”, con trả lời. Thầy nhìn con mỉm cười, rồi lấy một miếng bánh mì trong đĩa của Thầy đưa cho con. Làm sao con có thể từ chối miếng bánh mì từ Thầy. Con mỉm cười nhận miếng bánh và chậm rãi ăn. Cử chỉ đơn sơ của Thầy đã làm con thực sự xúc động. Con học cách nhìn sâu vào mỗi miếng bánh mì để thấy được sự có mặt của cả vũ trụ trong miếng bánh, bản chất tương tức của miếng bánh. Và con đã ăn miếng bánh trong niềm biết ơn tràn dâng đối với vạn vật xung quanh.

Uống trà với Thầy

Khi mới tới Làng Mai, được uống trà với Thầy là mơ ước của con và con đã viết thư kể cho Thầy về mơ ước đó. Vào ngày kỷ niệm một năm chúng con xuất gia, Thầy gọi gia đình xuất gia nhỏ (chỉ bao gồm bốn quý sư cô) của chúng con tới ngồi chơi với Thầy. Và Thầy mời chúng con chia sẻ về những gì chúng con đã thực tập trong năm vừa qua. Con chia sẻ rằng con thực tập buông bỏ những kỳ vọng của mình. Thầy hỏi: Vậy những kỳ vọng của con là gì, liệu có phải con kỳ vọng Thầy sẽ nhanh chóng thành Bụt không? Con trả lời rằng đối với con thì Thầy đã là Bụt rồi. Thầy lại hỏi: “Vậy có phải kỳ vọng của con là được uống trà với Thầy thật nhiều không?”. Con trả lời “Touché” (Thầy nói trúng phóc rồi đó!). Và Thầy đã cười quá chừng. Đó là một giây phút thật đẹp, thấm đượm tình thầy trò. Từ ngày đó, con đã có nhiều lần được uống trà với Thầy. Một điều thật giản dị như vậy mà đem lại cho con biết bao là hạnh phúc.

Năm đầu tiên sau khi con xuất gia, Thầy thường hay đùa khi gọi tên con là Đào Lakshmi hay Lakshmi Đào. Thầy mỉm cười nhìn con mỗi khi Thầy gọi tên con như vậy. Vì trước khi xuất gia, con đã từng sống tại một tu viện Ấn Độ giáo hai mươi năm và con thường đồng nhất bản thân mình với những trải nghiệm ở nơi đó, nơi người ta gọi con với cái tên là “Lakshmi” – tên một vị nữ thần trong Ấn Độ giáo. Thầy đã giúp con nhận ra rằng con đang bị kẹt vào danh tính này. Con cũng thấy được những hệ lụy khổ đau mà điều đó mang lại: Con không thể mở lòng đón nhận những gì mà giây phút hiện tại hiến tặng cho con.

Con có thấy thoải mái không?

Lần cuối Thầy cho pháp thoại là ngày mở đầu khóa tu dành cho các thầy cô giáo và những người hoạt động trong ngành giáo dục ở Pháp. Sư cô Jina và con ngồi bên Thầy, mỗi người một bên. Thầy quay qua con và hỏi: “Sœur Dao Nghiem, êtes-vous comfortable?” (“Đào Nghiêm, con có thấy thoải mái không con?”). Rất nhẹ nhàng, Thầy đưa con trở về với giây phút hiện tại, giây phút tuyệt vời khi Thầy đang còn sống và con được ngồi bên cạnh Thầy. Lúc đó Thầy đã yếu và phải ngồi trên xe lăn, nên trong con có nhiều lo lắng. Câu hỏi của Thầy là tiếng chuông chánh niệm cho con: “Trở về đi con, con đang ở đâu vậy?”.

Thầy đã dạy cho con thấy cuộc sống này đẹp vô cùng. Thầy giúp con tiếp xúc được những mầu nhiệm của sự sống trong những điều bình dị nhất, cho con thấy bản chất tương tức của vạn vật và hiểu vì sao mọi hành vi từ thân, khẩu, ý của mình đều có tác động lên toàn thế giới.

Những năm đầu khi mới xuất gia, có những lúc con phải đối diện với rất nhiều khó khăn. Nhiều khi con không biết mình phải làm gì. Con tự hỏi mình: “Vì sao mình lại đi xuất gia? Vì sao mình lại chọn gia nhập tăng thân Làng Mai? Vì sao mình lại rời cộng đồng trước đây của mình?”. Mỗi lần như vậy, con thường thầm cầu cứu Thầy trong tâm để Thầy giúp con có được cái nhìn sáng suốt hơn. Rất nhiều lần, khi con đang cầu cứu như vậy thì bỗng nhiên Thầy xuất hiện. Thầy xuất hiện thật sự chứ không phải ở trong tâm tưởng của con. Thời gian đó, con đang ở xóm Mới và có những ngày Thầy đột nhiên có mặt, tham gia thời thiền tọa buổi sáng với chúng con. Có ngày Thầy tới dự lễ tụng giới, lại có lúc con thấy Thầy bỗng nhiên có mặt sau cánh cửa, trong xe ô tô hay đang đi ra từ nhà vệ sinh. Mỗi lần gặp, Thầy đều mỉm cười với con hoặc giơ nhẹ tay chào hay nói với con đôi câu. Mỗi lần xuất hiện ấy của Thầy đã giúp con thấy Thầy luôn có mặt đó cho con. Đến bây giờ, mặc dù Thầy đã buông bỏ báo thân nhưng Thầy vẫn luôn có mặt cho con như vậy.

Tiếp tục đi tới

Năm 2012, Thầy và tăng đoàn tới Paris vài ngày. Thời gian này con đang ở Thiền đường Hơi Thở Nhẹ ở Paris và cùng với một sư cô nữa trong nhóm tổ chức cho sự kiện lớn này. Chúng con đã có một cuộc tranh luận ở ngoài vườn và Thầy ngồi cách đó không xa. Sau cuộc tranh luận, con tới gặp Thầy và chia sẻ với Thầy vì những tri giác sai lầm mà chúng con đang làm khổ nhau như thế nào. Thầy lắng nghe và nói với con: “Rất nhiều người có tri giác sai lầm về Thầy nhưng Thầy chỉ tiếp tục kiên định đi trên con đường của mình, không để cho những tri giác của người khác làm mình nhụt chí. Mỗi chúng ta đều có tri giác sai lầm về người khác, người khác có tri giác sai lầm về chúng ta và chúng ta cũng có tri giác sai lầm về chính mình. Điều chúng ta cần làm là tiếp tục đi, tiếp tục con đường của mình”. Những điều Thầy dạy ngày hôm đó đã giúp con vượt qua rất nhiều thử thách trong đời sống xuất gia của mình.

Từ Thầy, con đã học tiếp xúc với sự sống một cách sâu sắc trong từng giây phút của đời sống hàng ngày. Con chạm được chiều sâu của từng hành động giản đơn như chải răng, rửa chén hay chơi đùa với tuyết. Con học được cách yêu thương đất Mẹ và thưởng thức phép lạ của sự sống.

Thầy đã giúp con dừng lại và mỉm cười. Mỗi giây phút là giây phút hạnh phúc, mỗi giây phút là giây phút huyền thoại.

Đạo Bụt dấn thân và Đạo Bụt ứng dụng

(Sư cô Chân Đức)

(BBT phỏng vấn Sư cô Chân Đức – ngày 6.11.2022)

BBT: Đối với Sư cô, đạo Bụt dấn thân và đạo Bụt ứng dụng có ý nghĩa như thế nào?

Sư cô Chân Đức: Mãi cho đến những năm đầu thiên niên kỷ này, Thầy mới dùng cụm từ đạo Bụt dấn thân. Khi nghĩ về Làng Mai, chúng ta hay nghĩ về đạo Bụt dấn thân. Tên tuổi của Thầy nổi lên ở Tây phương cũng gắn liền với đạo Bụt dấn thân.

Ở Tây phương, truyền thống đạo Bụt Nhật Bản đến nước Mỹ đầu tiên và chú trọng nhiều đến tọa thiền. Tới những năm 1960, khi sang Tây phương để kêu gọi hòa bình cho Việt Nam, Thầy nhận thấy có rất nhiều năng lượng giận dữ và bạo động trong những nhà hoạt động cho hòa bình. Vì vậy, Thầy thấy cần phải đem sự thực tập của đạo Bụt vào phong trào này. Đây là một ý tưởng khá mới mẻ lúc bấy giờ.

Năm 2008, tại Viện Phật học Ứng dụng châu Âu (EIAB), Thầy bắt đầu nói về đạo Bụt ứng dụng nhiều hơn đạo Bụt dấn thân. Có lẽ do ta hơi bị kẹt trong tư duy lưỡng nguyên, phân biệt giữa lúc dấn thân và không dấn thân. Nghĩa là ban ngày, ta ra ngoài làm công tác xã hội hoặc tham gia một hoạt động vì hòa bình và trong khi làm những việc đó ta không tu tập; rồi đến cuối ngày, ta về nhà và ngồi thiền sau. Đó không phải là ý của Thầy khi nói về đạo Bụt dấn thân. Kinh nghiệm của Thầy khi hướng dẫn các khóa tu khắp nơi trên thế giới đã cho thấy: chúng ta cần ứng dụng đạo Bụt vào tất cả các lĩnh vực của đời sống, không chỉ ở lĩnh vực hoạt động xã hội hay trong thời kỳ chiến tranh, mà cả trong các lĩnh vực kinh doanh, chính trị, cảnh sát và đặc biệt là trong ngành giáo dục.

Thầy cũng dùng cụm từ Đạo đức ứng dụng (“Applied Ethics”). Năm 2008, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy muốn đưa trở lại các buổi học về giáo dục công dân để giúp học sinh học cách làm một công dân tốt. Một số nhà chính trị đặt câu hỏi: “Nội dung gì sẽ được dạy trong những lớp học này?”, rồi họ nghĩ đến việc trích dẫn tư tưởng của các nhà triết học.

Khi được thỉnh ý, Thầy đã trả lời rằng đạo đức ứng dụng nên bao hàm bốn yếu tố:

Yếu tố đầu tiên là sự buông thư. Có thể mình không thấy thực tập buông thư là vấn đề đạo đức, nhưng Thầy đã thấy rằng biết cách buông thư là một điều rất quan trọng, đối với mỗi cá nhân cũng như đối với các tổ chức hay đoàn thể.

Yếu tố thứ hai là chăm sóc cảm xúc mạnh, để có thể xử lý khổ đau, nuôi dưỡng niềm vui và hạnh phúc.

Yếu tố thứ ba là truyền thông, là học cách giải quyết các mâu thuẫn, thực tập làm mới trong gia đình,v.v.

Yếu tố cuối cùng là sự thực tập Vô úy, nghĩa là không sợ hãi. Cuối tất cả các khóa tu, Thầy thường cho một bài pháp thoại về Không sinh không diệt để giúp cho mọi người bớt sợ hãi, dù là đối với những người chỉ mới bắt đầu thực tập.

Đạo Bụt ứng dụng có nghĩa là như vậy, là áp dụng đạo Bụt vào trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Trong tất cả các bài giảng và khoá tu, chúng ta cần trình bày bốn yếu tố này và giúp mọi người đem sự thực tập vào trong đời sống của mình.

BBT: Có người hỏi là Làng Mai đã dấn thân đủ hay chưa? Sư cô sẽ trả lời như thế nào?

Sư cô Chân Đức: Chân Đức rất biết ơn Thầy đã dạy về đạo Bụt ứng dụng. Vì khi dùng cụm từ đạo Bụt dấn thân, mình có cảm tưởng người khác mong đợi mình hành động ở một lĩnh vực hay một hướng đi nhất định nào đó. Thực ra, chúng ta đang ứng dụng đạo Bụt khi bước những bước chân đầy bình an trên đất Mẹ, và khi chúng ta tạo dựng được một nơi như Làng Mai để mọi người có thể đến và học cách buông xuống những khổ đau trong mình.

 

 

Hôm qua có một thiền sinh tới gặp Chân Đức, cô vốn làm công việc liên quan đến hòa giải trong các cuộc xung đột. Cô cho biết cô đang hoàn toàn kiệt sức. Khi một người làm trung gian hòa giải không đứng về phía nào trong một cuộc xung đột, người đó sẽ nhận về rất nhiều oán hận. Chân Đức đã khuyên cô nên ở lại Làng Mai cho đến lúc nào cảm thấy sạc đủ năng lượng, vì điều này rất quan trọng. Sư cô Chân Không và các thành viên khác của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội cũng đã cần một nơi như thế để quay về mỗi tuần, để có thể sạc lại năng lượng cho chính mình.

Đối với Chân Đức, chỉ cần hiến tặng một nơi như thế là đủ rồi. Chân Đức không thấy có bất cứ áp lực nào khác hơn việc chăm sóc Làng Mai, để nơi đây luôn là một nơi nương tựa cho những ai cần đến. Tuy vậy, chúng ta cũng cần nhìn lại và tự hỏi chính mình: “Ta đã làm hết những gì có thể làm chưa?”. Và nếu có ai đó nói là chưa, thì ta hãy lắng nghe họ và tự hỏi: “Có điều gì ta có thể làm thêm nữa hay không?”. Hãy thành thật với chính mình! Những gì ta có thể làm được cũng còn tùy thuộc vào sức khỏe của chính ta. Rất nhiều người đã bày tỏ niềm biết ơn rất lớn của họ đối với tăng thân. Chúng ta cũng cần nhắc mình về điều đó!

BBT: Sư cô thấy pháp môn thực tập của Làng Mai có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc khủng hoảng khí hậu hay tình trạng chiến tranh hiện nay?

Sư cô Chân Đức: Sự thực tập không thể có ảnh hưởng và làm thay đổi tình trạng ngay lập tức. Những điều kiện tạo nên chiến tranh và tình trạng biến đổi khí hậu đã tích tụ trong một thời gian dài. Giờ đây, ta phải hết sức cẩn trọng để không làm gì có thể tạo thêm điều kiện cho chiến tranh xảy ra trong tương lai.

Nhớ lại đầu những năm 1980, khi Chân Đức tham gia biểu tình ở khu căn cứ quân sự Greenham Common để phản đối việc triển khai vũ khí hạt nhân của Mỹ. Chân Đức không biết hành động của mình có ảnh hưởng như thế nào, nhưng cuối cùng thì phía Mỹ cũng rút quân. Thật khó có thể nói được những hành động của mình có thể gây ảnh hưởng như thế nào.

Về việc giảm thiểu lượng khí thải carbon, tất nhiên là chúng ta có thể làm hay hơn nữa. Chúng ta cần chia sẻ những ý tưởng cũng như những bước tiến mà chúng ta đã đạt được theo hướng đi này.

BBT: Khi tổ chức các khóa tu và lựa chọn các pháp môn để hiến tặng, chúng ta thường cố gắng đáp ứng các nhu yếu khác nhau của thiền sinh. Nhưng đôi khi việc chọn lựa để hướng năng lượng của mình vào đâu là một điều không đơn giản cho một người tu trẻ. Sư cô thực tập với điều này như thế nào?

Sư cô Chân Đức: Trước tiên, trong tăng thân, ai cũng có khả năng và tài năng khác nhau. Ta thực sự phải tìm cách tận dụng năng lực của mình một cách tối đa. Khi còn ở EIAB, Chân Đức thường tập trung vào các khóa tu cho thầy cô giáo, vì Chân Đức từng là một giáo viên. Chân Đức thấy mình chỉ làm và đóng góp những gì có thể, dựa trên kinh nghiệm và năng lực của mình. Ai cũng có khả năng gì đó để đóng góp, không phải đi ra hướng dẫn khóa tu mới là quan trọng. Mình cũng cần có người chăm sóc Làng Mai, chăm sóc các sư em. Nếu ai cũng đi ra ngoài hướng dẫn khóa tu hết và không ai chăm sóc các con trâu con thì chúng có thể rơi xuống sông và bị nước cuốn trôi, thay vì qua sông một cách an toàn. Vì thế, khi suy ngẫm về những gì ta có thể đóng góp và phụng sự, chúng ta phải tìm cách để giữ được sự cân bằng. Chân Đức vẫn nghĩ việc đào tạo và hướng dẫn là công việc rất quan trọng, giúp chuẩn bị cho thế hệ trẻ đối diện với những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Thầy luôn nói rằng: “Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới”. Người trẻ cần được trang bị những điều cần thiết như đạo đức ứng dụng, đặc biệt là cách buông thư, chăm sóc cảm xúc và cách truyền thông.

BBT: Thầy dạy chúng ta về tâm bồ đề, về nguyện ước lớn, nhưng cũng đồng thời dạy ta về vô nguyện, vô đắc, không tìm cầu gì nữa. Những giáo lý này đi cùng với nhau được không, thưa Sư cô?

Sư cô Chân Đức: Chân Đức thấy rất đúng khi thực tập không trông chờ, kỳ vọng vào tương lai. Chúng ta chỉ làm hết sức trong hiện tại, vì ta không biết được tương lai sẽ ra sao. Đặt ra một mục tiêu và hướng tâm về tương lai chỉ là một ý niệm trên bề mặt lý trí. Đó không phải là thực tại. Có một ước nguyện sâu sắc và tâm bồ đề lớn mạnh là điều cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, đó không phải là đặt ra mục tiêu hay muốn được thành tựu. Ước nguyện đang có trong giờ phút hiện tại. Khi mình quỳ xuống và nói: “Con sẽ làm bất cứ điều gì con có thể”, là mình đang nuôi dưỡng nguyện ước sâu sắc ấy. Đó là một hạt giống trong tàng thức của ta. Hạt giống ấy giúp cho ta làm được những điều ta có thể làm trong đời sống hàng ngày. Nhưng đó không phải là một mục tiêu.

Ai cũng có hạt giống bồ đề trong tâm, nhưng hạt giống ấy có thể không có đủ nhân duyên để biểu hiện. Mỗi ngày chúng ta có thể làm lớn mạnh thêm ước nguyện của mình. Chẳng hạn, mình có thể nguyện cho mọi loài đều đến đi thong dong. Đây không phải là một mục tiêu, mà là một nguyện ước sâu sắc trong hiện tại. Ví dụ, khi rửa tay và thấy được tình trạng khổ đau của đất Mẹ, mình nguyện có đôi bàn tay khéo để giúp đất Mẹ và mình mong ước ai cũng có được đôi bàn tay ấy.

BBT: Có mâu thuẫn gì không giữa việc sống một cuộc đời bình lặng, ẩn dật và một cuộc đời dấn thân, thưa Sư cô?

Sư cô Chân Đức: Đúng là mình phải có bình an, như lời dạy trong Kinh Người biết sống một mình. Có thể mình thích được ở một mình bởi vì cảm thấy dễ chịu và bình an. Nhưng mình cũng cần có bình an ngay trong trong các buổi họp, hay khi cố gắng giải quyết những vấn đề khó khăn trong tăng thân. Quả thật, ta cần nuôi lớn bình an trong lúc ngồi thiền. Nhưng ngồi thiền trong lòng tăng thân không phải chỉ để nuôi dưỡng bản thân ta, mà còn để nuôi dưỡng toàn thể tăng thân. Bình an của ta và của mọi người không thể tách biệt. Có người nói là họ cần thêm sự yên tĩnh, nhưng liệu họ có sự tĩnh lặng trong nội tâm họ hay không? Nếu trong đầu ta vẫn còn ồn ào thì đó không phải là tĩnh lặng đích thực.

Cá nhân Chân Đức không trở thành người tu chỉ để được ngồi thiền hay xa lánh cuộc đời. Được kề cận với Thầy và Sư cô Chân Không, hai vị Bồ tát lớn có đời sống dấn thân và phụng sự, Chân Đức nguyện đi theo những bước chân ấy.

 

BBT: Có mặt trong tăng thân từ những ngày đầu, Sư cô đã thực tập như thế nào trong những tình huống khó khăn, đòi hỏi nhiều về thể chất cũng như tinh thần?

Sư cô Chân Đức: Thời kỳ đầu, Làng chỉ có vỏn vẹn bốn người là Thầy, sư cô Chân Không, sư cô Chân Vị và Chân Đức. Hướng dẫn khóa tu không dễ dàng chút nào, vì thiền sinh còn rất mới. Chẳng hạn, có thiền sinh thắc mắc: “Tại sao tôi phải dừng lại khi nghe chuông? Làm vậy tôi thấy mất hết tự do”. Tuy nhiên, qua năm tháng, năng lượng của sự thực tập trong tăng thân lớn mạnh hơn rất nhiều. Nhiều thiền sinh trở lại Làng và tiếp tục thực tập dài hạn, điều đó giúp ta có thêm niềm tin vào sự thực tập. Hiện nay, chúng ta đang có một tăng thân xuất sĩ và tăng thân cư sĩ lớn mạnh. Các khóa tu diễn ra rất suôn sẻ, dễ dàng. Trước đây thì không được như vậy, sự tổ chức trong tăng thân lúc đó khá lộn xộn. Truyền thông giữa các xóm không phải lúc nào cũng tốt. Thầy thường hay nói: ở Làng, tổ chức không phải là tài năng hay điểm mạnh của chúng ta. Có nhiều cư sĩ tổ chức hay hơn chúng ta nhiều.

BBT: Khi Sư cô cảm thấy mệt mỏi, những pháp môn nào đã giúp Sư cô lấy lại năng lượng và tiếp tục đi tới trong những năm tháng qua?

Sư cô Chân Đức: Đi thiền hành rất quan trọng đối với Chân Đức. Lúc nào không đi ra ngoài trời được, Chân Đức đi lên đi xuống cầu thang trong nhà. Chân Đức đi rất chậm, có thể bước một bước trong hai hơi thở. Ngồi yên và đúng tư thế cũng giúp ích cho Chân Đức rất nhiều. Chân Đức không cố gắng mà chỉ thở và ngắm nhìn cảnh vật qua khung cửa sổ. Những lúc như thế, nếu ép bản thân phải thiền quán về một đối tượng nào đó có thể khiến Chân Đức rất mệt.

Thời điểm Chân Đức có được những cái thấy rất sáng tỏ thường là trong những đêm Chân Đức không ngủ được. Xung quanh hoàn toàn tối đen, Chân Đức nằm đó theo dõi hơi thở và chăm sóc những chỗ đau nhức trên cơ thể mình. Nhưng bất chợt, Chân Đức thấy rõ là thân này không phải là mình. Cái thấy này đến rất tự nhiên, không hề có sự cố gắng để đạt được.

BBT: Khi chứng kiến những khổ đau rất lớn như là nạn phá rừng, chiến tranh hay nạn ô nhiễm môi trường đang diễn ra, Sư cô giữ gìn tâm mình ra sao để có thể hành động dựa trên tình thương?

Sư cô Chân Đức: Điều đầu tiên, nếu cần khóc, Chân Đức sẽ để cho mình khóc. Chân Đức ý thức rất rõ về những tác động tiêu cực của ngành nông nghiệp hiện đại đối với môi trường. Đôi lúc, Chân Đức cảm thấy không vui với những người nông dân. Gần đây, khi thấy họ lái xe đi ngang, chở theo những bình lớn đựng hóa chất độc hại, Chân Đức ý thức họ là những người đầu tiên chịu khổ đau, vì họ tiếp xúc trực tiếp với nó. Chân Đức cũng nhận ra họ buộc phải ở trong vị trí đó. Người nông dân chỉ gánh một phần trách nhiệm mà thôi. Những ai trong chúng ta đã nhìn sâu vào vấn đề này và thấy được những hậu quả đó, hãy ra tay giúp đỡ những người nông dân. Chính phủ phải giúp đỡ những người nông dân để họ có thể có phương tiện sinh sống mà không cần tàn phá hành tinh này.

Điều tồi tệ nhất mà Chân Đức từng chứng kiến xảy ra khi tăng đoàn đang trên đường đi về phía Nam của San Francisco. Khi ấy, xe đi ngang qua những nông trại gia súc với hàng ngàn con bò ủ rũ, không có chút cỏ nào mà chỉ được ăn đậu nành. Mùi hôi kinh khủng bốc lên từ khí metan. Thực sự, Chân Đức rất đau lòng và cảm thấy bất lực. Tất cả những gì Chân Đức có thể làm là gửi tình thương đến những con bò và hy vọng chúng không phải chịu quá nhiều đau đớn. Mong rằng trước khi vào lò mổ, chúng được chết liền mà không phải chịu nhiều vết đạn. Chân Đức có thể làm gì khác đây? Những gì Chân Đức có thể làm được là tiếp tục giữ sự thực tập ăn thuần chay, không trứng và không sữa.

BBT: Khi mình nhìn thấy người khác đang gây hại cho môi trường, có ích lợi gì không khi mình nổi giận với người đó? Theo Sư cô, mình phải đối diện với hoàn cảnh đó như thế nào ?

Sư cô Chân Đức: Mình giận vì mình nghĩ người mà mình giận là người đang gây hại. Đó là vấn đề đầu tiên. Mình xem người kia là người đang gây hại. Nhưng nếu nhìn sâu vào điều người đó đang làm và những nguyên nhân, điều kiện cũng như tất cả những người có liên quan tới hành động gây hại đó, mình sẽ thấy rằng đó không phải là vấn đề cá nhân. Ví dụ, tổng thống Bush hay tổng thống Trump có cả hệ thống chống lưng cho họ, đó là những người dân đã bỏ phiếu hay những người đang cố vấn cho họ. Vì thế lên án hay chỉ trích một cá nhân là khờ dại. Nếu nhìn cho sâu, ta thấy họ cũng là nạn nhân. Chúng ta có thể nói tình trạng hâm nóng địa cầu là do khai thác nhiên liệu hóa thạch hay do ngành nông nghiệp, v.v. Nhưng đằng sau đó là gì? Chính là lòng tham và sự vô minh. Loài người chúng ta có những tâm hành như tham đắm và si mê. Khi không biết cách để chuyển hóa thì chúng sẽ gây cho ta rất nhiều khổ đau. Vậy nên việc chúng ta có khả năng trở về với tự thân và chăm sóc những tâm hành của mình, để không góp phần tạo thêm chiến tranh, hành động tàn phá hay gây hại nào nữa là một điều rất quan trọng.

Giới thiệu sách mới “Bông hoa vàng trong cỏ”


Khi biết cách thương thì càng thương càng hạnh phúc và càng có khả năng làm nhiều người hạnh phúc. Vì vậy, các sư cô mong muốn thông qua nét vẽ hiền hòa của sư cô Trăng Tuyết Hoa và nét chữ uyển chuyển của sư cô Định Nghiêm, cuốn sách Bông Hoa Vàng Trong Cỏ sẽ lan tỏa tình yêu thương của Bụt và Sư Ông dành cho các em thiếu nhi, trao cho các em thái độ sống hiền hòa với thiên nhiên muôn loài và trân trọng mỗi giây phút hiện diện trên đời.

“Sư Ông Làng Mai (Thiền sư Thích Nhất Hạnh) viết bài thơ này cho các em thiếu nhi vào năm 1992, và ngay sau đó, Sư Ông lại phổ nhạc để cho các em hát.
Em có biết là Bụt thương em không? Em có biết là Sư Ông cũng thương em không?

Khi còn là một thầy tu trẻ ở độ tuổi hơn hai mươi, Sư Ông đã thương yêu, chăm sóc và dạy dỗ các thiếu nhi và thành lập các đoàn thiếu nhi Phật Tử. Sau này sống ở phương Tây, Sư Ông là vị thầy đầu tiên mở các khóa tu dành cho thiếu nhi. Trung tâm tu học Làng Mai mà Sư Ông thành lập ở Pháp cũng là nơi đầu tiên đón nhận đông đảo thiếu nhi về tu học chung với các phụ huynh. Các em đã được Sư Ông giảng cho những bài pháp riêng, được Sư Ông nắm tay đi thiền hành, được ngồi chơi với Sư Ông. Các em hạnh phúc đã đành mà các bậc phụ huynh còn hạnh phúc nhiều hơn nữa khi thấy con em mình được tắm trong tình thương của Sư Ông. Khi biết cách thương thì càng thương càng hạnh phúc và càng có khả năng làm cho nhiều người hạnh phúc. Vì vậy để lan toả tình thương của Sư Ông, hai sư cô Định Nghiêm và Trăng Tuyết Hoa đã chung tay làm nên cuốn sách này chỉ với một mong muốn là các em thiếu nhi vẫn tiếp tục được tiếp nhận tình thương của Bụt và của Sư Ông.

Ngoài ra, Sư Ông từng nói rất thích nét vẽ hiền hòa của sư cô Trăng Tuyết Hoa và đã khuyến khích sư cô vẽ chuyện tranh cho các em thiếu nhi, và với sư cô Định Nghiêm, Sư Ông cũng từng nói rất thích nét chữ đơn giản, rõ ràng của sư cô và thường để sư cô điền điệp hộ giới cho Sư Ông, do đó, hai sư cô có thêm mạnh dạn đi trên con đường viết truyện tranh này.”

– Sư cô Chân Không
Chùa Từ Nghiêm, Xóm Mới, ngày 8 tháng Giêng năm 2024

 

 

Tiếp nối Thầy

(Sư cô Chân Đẳng Nghiêm)

Khi Thầy qua đời, cả thế giới đều hướng về và chứng kiến một Tâm tang hùng tráng. Cùng lúc đó, câu hỏi “Ai sẽ tiếp nối Thầy? Việc gì sẽ xảy ra cho tăng thân Làng Mai? Chúng ta sẽ đi về đâu?” trở nên thực tiễn hơn bao giờ hết.

Con còn nhớ ngày gia đình cây Sứ được xuất gia, sau khi xuống tóc chúng con quây quần bên Thầy để chụp hình. Con quỳ lên, chắp tay và thưa: “Bạch Thầy, con sẽ cố gắng tu học để không phụ lòng Thầy”. Thầy quay lại nhìn con rồi nói: “Thầy tin là con sẽ làm được và con sẽ giúp được nhiều người”.

Những năm đầu làm sadi, con xin phép không chăm sóc chương trình dành cho thiếu nhi và thanh thiếu niên trong khóa tu mùa Hè. Vì hình ảnh của người trẻ làm con nhớ lại tuổi thơ đau buồn của mình. Thầy biết được và nói với con: “Con tu học cho có hạnh phúc rồi con sẽ giúp được cho rất nhiều người trẻ”.

Rồi trong những khóa tu người Việt, con cũng thường né tránh thiền sinh người Việt về đây từ các nước châu Âu và châu Mỹ, vì con và em trai là con lai, đã từng bị kỳ thị khi lớn lên ở Việt Nam. Con không muốn gần người Việt để khỏi chạm vào những vết thương tuổi thơ của mình. Không biết vì sao Thầy cũng biết điều này và một hôm khi con ngồi bên Thầy, Thầy vuốt đầu con rồi nói: “Con tu đi, rồi con sẽ giúp được cho những người Tây phương và con cũng sẽ giúp được cho đồng bào người Việt của mình”.

Những lúc Thầy nói như vậy con chỉ lắng nghe thôi. Nhưng sau khi Thầy qua đời, con hiểu ra đó là những cái thấy của một vị thầy về đệ tử của mình. Không chỉ đối với riêng con mà đối với tất cả những người con tâm linh của mình, Thầy đều thấy được những khổ đau và cả những tiềm năng trong mỗi chúng con. Thầy có niềm tin rằng nếu cố công thực tập thì tất cả chúng con, ai cũng có thể làm được những điều mà mình nghĩ rằng không thể.

 

 

Ngay từ những ngày đầu, Thầy đã hun đúc những điều đó trong tất cả những người đệ tử xuất sĩ và cư sĩ. Thầy đã vạch ra con đường cho chúng con có thể tiếp nối Thầy một cách đơn giản, rõ ràng và cụ thể. Điều đầu tiên là phải học cách chăm sóc được chính mình. Khi học chữ Hán Việt, con khám phá ra chữ “Tri kỷ” nghĩa là nhớ, biết và làm chủ chính mình. Con hạnh phúc vô cùng. Con thấy rõ được cách chăm sóc chính mình, biết làm chủ hình hài, cảm thọ, tư duy, nhận thức và tri giác của mình. Làm tri kỷ của năm uẩn để chuyển hóa, chữa lành những khổ đau của tự thân và của cha mẹ, ông bà tổ tiên đang biểu hiện rất sống động trong cách mình tư duy, nói năng và hành xử. Là sự tiếp nối của Thầy, điều đầu tiên chúng con phải thực tập là làm chủ được bản thân.

Điều thứ hai là giúp đời bớt khổ. Công việc của một người có thực tập là sáng cho người niềm vui, chiều giúp người bớt khổ. Khi đã là tri kỷ của chính mình rồi, ta có thể làm được tri kỷ cho những người khác. Giúp được chính mình là giúp được những người khác.

Thế giới khổ đau vì nhiều người trong chúng ta không hiểu chính mình, không thấy rõ cái gì đã và đang thật sự xảy ra với cuộc đời mình. Chúng ta có thể liệt kê những tai nạn trong cuộc đời, nhưng liệu chúng ta có hiểu được những nguyên nhân sâu xa của những khổ đau đó hay không? Chúng ta có thấy được chính mình cũng đã và đang góp phần nuôi lớn thêm những khổ đau, những tập khí tiêu cực đó hay không?

Hồi còn ấu thơ, khi có những bi kịch xảy ra, chúng ta đã học cách chống lại, trốn chạy hoặc đông cứng cơ thể, đông cứng trái tim mình để có thể sống còn trong những ngày tháng đen tối đó. Từ một đứa bé bất lực không bảo vệ được chính mình, những tập khí sống còn đã trở thành một thói quen hành xử. Theo năm tháng, ta có thể từ một nạn nhân trở thành phạm nhân lúc nào mà ta không hề hay biết.

Sự giết chóc tàn khốc khắp nơi trên thế giới là một biểu hiện của khổ đau từ bên trong bùng phát ra bên ngoài. Điển hình là cuộc chiến tranh đang xảy ra ở Ukraine, cho thấy con người vì chưa hiểu mình, chưa thuần phục được những tâm hành sân hận, tham đắm, si mê nên vẫn tiếp tục gây khổ đau cho nhau.

Lời Thầy dạy về Tương tức giúp chúng con hướng về tình thương và sự cảm thông hơn là phán xét hay ruồng bỏ bất cứ một bên nào. Thấy mình trong người kia, thấy người kia trong mình, biết đặt mình vào hoàn cảnh của người kia, để không còn chỉ thấy đúng hay sai, xấu hay tốt. Con thường tự hỏi: Nếu Thầy trong hoàn cảnh của con, Thầy có nghĩ như vậy không? Thầy có làm như vậy không? Thầy có nói như vậy không? Thầy là tấm gương trong vắt để cho con thấy tâm mình đang biểu hiện sự bao dung hay chỉ là sự kỳ thị, phân biệt.

Thầy từng nói rằng không có ai và không một tổ chức nào hoàn hảo. Tăng thân cũng vậy, nhưng mình luôn có thể thấy được những vẻ đẹp trong mỗi người và trong tăng thân. Từ tấm gương của Thầy, con học ôm ấp những khó khăn, yếu kém, cũng như trân quý cái đẹp và sự nỗ lực của mỗi người trong tăng thân. Nhờ vậy, con có thể sống hài hòa hơn và đồng hành, đồng sự được với các huynh đệ của mình.

Một lần con làm đệ nhị thân cho một sư chị đem thức ăn cúng dường Thầy. Như thường lệ, chúng con được ngồi ăn chung với Thầy. Dùng cơm xong, Thầy bắt đầu cắt một trái táo ra từng miếng nhỏ. Một miếng bị văng xuống đất. Thầy cúi xuống nhặt lên để trên bàn và tiếp tục gọt vỏ những miếng táo khác. Thầy cho con một miếng, cho sư chị của con một miếng rồi Thầy lấy miếng táo bị rớt xuống đất, gọt vỏ đi rồi đưa vào miệng nhai ngon lành. Hình ảnh này đã in sâu trong con.

Là một bậc thầy tâm linh của thế giới nhưng Thầy sống bình dị, gần gũi và làm tri kỷ cho các con của mình. Con người Thầy được biểu hiện qua những hành động rất đẹp và giản đơn. Thầy trung trực với chính mình, tu học chuyển hóa những khó khăn chướng ngại trong từng giai đoạn của cuộc đời, để rồi Thầy trao truyền cho chúng con những miếng táo lành lặn thơm ngon nhất. Đó chính là những pháp môn cụ thể mà chính Thầy đã khám phá và tu tập thành công.

 

 

Giây phút nhận tin Thầy qua đời, chúng con đã ngồi rất yên và thở rất sâu trong thiền đường Sao Trên Biển. Chúng con đi thiền hành với nhau trước khi họp về chi tiết các buổi lễ. Thầy đã cho chúng con thời gian để chuẩn bị tinh thần cũng như mọi chi tiết khác. Vì vậy, chỉ hai tiếng sau, bàn thờ đã được thiết lập. Thời khóa tu tập cho suốt tuần lễ Tâm tang cũng đã sẵn sàng.

Bảy ngày Tâm tang là bảy ngày Pháp hội mà chúng con rất trân quý. Tất cả cơ sở vật chất cũng như các pháp môn đều là di sản Thầy trao truyền. Chúng con thực tập im lặng hùng tráng, ngồi yên, thiền hành, dùng cơm quá đường, tụng giới, chia sẻ những kỷ niệm với Thầy hay sự thực tập để tiếp xúc với Thầy trong mỗi cá nhân chúng con.

Thầy từng dạy, “Nỗi đau không tránh được, nhưng cái khổ là một sự chọn lựa”. Nỗi đau mất Thầy, chúng con không tránh được. Hai năm trước khi Thầy qua đời, chính tay con đã để hình Thầy vào khung rồi che lại, úp xuống trên cái bàn sẽ dùng làm bàn thờ của Thầy. Con sợ rằng khi giây phút đó đến, chúng con sẽ run đến nỗi không thể để di ảnh của Thầy vô khung được. Lần đầu nhìn di ảnh Thầy trên bàn thờ, con vẫn cảm thấy bàng hoàng dù đã chuẩn bị tinh thần nhiều đến mấy đi nữa. Khi đại chúng xếp hàng đứng trước thiền đường Trăng Đầu Non để rước tro cốt của Thầy mang từ chùa tổ Từ Hiếu về, nhìn thầy Pháp Lưu ôm hũ tro bước ra xe, không ai cầm được nước mắt. Trời mưa lất phất, nước mưa nước mắt hòa quyện vào nhau. Trong giây phút đó và kể cả sau này cũng vậy, tâm con chỉ có một ý nghĩ, “Thầy không có trong đó!”.

Trong kinh A Nậu La Độ, có người ngoại đạo hỏi, “Khi Bụt qua đời, Bụt còn hay không còn? Hay vừa còn vừa không còn? Hay vừa không còn vừa không không còn?”. Dù đã nghe kinh rất nhiều lần, con vẫn thấy những mệnh đề đó khó hiểu. Vậy mà khi Thầy qua đời, tự nhiên con thấy rõ, đúng là không thể hỏi Thầy còn hay không còn; hay là vừa còn vừa không còn; hay là vừa không còn vừa không không còn. Thầy không bị kẹt vào những mệnh đề hay khuôn khổ eo hẹp đó. Giờ thì con đã hiểu vì sao Bụt im lặng không trả lời.

Chúng con có quyền buồn nhưng chúng con không cần phải khổ. Thầy đã cho chúng con tất cả, những điều đó vẫn còn rất đẹp và tròn đầy trong mỗi chúng con. Chúng con có thể khóc thật nhiều, nhưng nếu chúng con chỉ đắm chìm trong thương tiếc, hoặc vẫn nói năng, suy nghĩ, hành xử không có chánh niệm và tình thương thì những giọt nước mắt đó không chứa đựng được Thầy. Như thế sự sống của Thầy không được tiếp nối trong xương tủy của chúng con.

Khi nhìn một sự vật hay một người với tình thương, con biết Thầy đã cho con đôi mắt đó. Khi biết lắng nghe những đau nhức trong cơ thể mình hoặc những khổ đau của người khác, con thấy Thầy cho con lỗ tai đó. Khi con biết thiền ôm để an ủi một người hoặc biểu lộ sự trân quý, Thầy cũng dạy cho con điều đó. Sự chữa lành những vết thương trong tâm hồn và cả những đau nhức nơi thân thể cũng là nhờ những linh dược từ Thầy. Sau khi Thầy mất được ba ngày, trong giấc mơ con nghe tin Thầy đã qua đời. Thân tâm con lặng yên mật niệm và tàng thức con đã được tự do với sự ra đi của Thầy! Thức dậy, câu thơ đi lên trong con:

Thầy vừa đi hái thuốc
Nội trong núi này thôi
Mây tan thấy được ngay.

Từ mọi nơi trên thế giới, chúng con đã lắng nghe tiếng gọi và đi theo bước chân của Thầy. Từ đó, cuộc đời của chúng con nhẹ nhàng và đẹp đẽ hơn. Nhờ Thầy mà chúng con đã có hướng đi. Chúng con không còn lo sợ phải lang thang như những bóng ma. Bất chấp mọi thử thách, Thầy đã luôn chọn con đường của tình thương, của sự hiểu biết và tha thứ bao dung.

Chúng con nguyện noi theo gương Thầy, mỗi ngày tập buông bỏ bớt những đam mê, nắm bắt, đòi hỏi, những tư duy phán xét, kỳ thị và giận hờn ganh ghét. Học chọn bình an, chọn hòa giải. Chọn sống đơn giản để có thời gian tu học, giúp xây dựng tăng thân, xây dựng xã hội ngày càng lành mạnh như lời tâm kinh Thầy để lại:

Tăng là đoàn thể đẹp
Cùng đi trên đường vui
Tu tập giải thoát
Làm an lạc cuộc đời.

Bài tụng “Quy nguyện” – Nhật tụng Thiền môn

Tu viện Lộc Uyển hiện đang có khóa tu đón mừng năm 2023. Vì thiếu chỗ nên nhiều gia đình có cháu nhỏ cũng phải cắm trại. Trời đổ mưa nặng hạt đôi khi lạnh cóng, nhưng khuôn mặt ai cũng rạng rỡ. Lều cắm san sát với những màu sắc rực rỡ như nấm mọc lên sau cơn mưa giữa sa mạc. Các sư em con cũng mạnh dạn lên chia sẻ trong buổi hướng dẫn tổng quát dù tiếng Anh không phải là ngôn ngữ mẹ đẻ.

Sáng hôm sau, có một cặp vợ chồng người Mỹ tới gặp con sau khi con cho pháp thoại. Họ chắp tay, tha thiết nói: “Nhiều năm Thầy đã dạy tăng thân sẽ tiếp nối Thầy, nhưng tôi đã không tin điều đó. Từ lúc Thầy qua đời, tôi cảm thấy mất đi niềm cảm hứng. Nhưng trong khóa tu này, khi lắng nghe những lời chia sẻ của quý thầy quý sư cô, tôi thật sự thấy rằng Thầy đang được tăng thân tiếp nối. Bây giờ thì tôi thật sự tin điều đó. Cảm ơn quý thầy, quý sư cô đã cho tôi niềm tin”. Ông vừa nói vừa khóc, nước mắt giàn giụa. Vợ của ông đứng kế bên cũng khóc ròng. Chúng con cùng khóc với nhau những giọt nước mắt tràn đầy hạnh phúc.

Chúng con đi, bước chân Thầy huyền thoại
Chúng con thở, hơi thở Thầy truyền kỳ
Chúng con sống, cuộc đời Thầy kỳ diệu
Hạnh phúc cười, Thầy có mãi trong chúng con.

Xuân từ lòng đất – Tết ở tay người

Nắng ấm dần lên. Khí trời đổi mới. Từ lòng đất, nhựa sống tuôn lên thành chồi non, lộc biếc. Cũng từ lòng đất, những bông thuỷ tiên réo gọi nhau vươn mình thức dậy để cùng hợp tấu khúc ca mùa xuân. Đất trời mừng vui đón chào mùa mới. Con người hân hoan chào đón Tết sang. Từng bàn tay tăng thân góp lại đưa Tết biểu hiện nhiệm mầu.  

Năm nay, Làng có vẻ vắng hơn mọi khi vì quý thầy, quý sư cô về dự Đại tường Sư Ông đã ở lại Việt Nam đón Tết. Tuy vậy, với tinh thần “người vui cảnh sẽ vui”, bài tụng hạnh phúc vẫn được cất lên hùng tráng trong thiền đường Nước Tĩnh vào sáng mồng Một tết. Những quẻ kiều ở xóm Hạ vẫn rất “linh theo tay người bốc, ứng trong lời người giải”. Và ngày Hội chợ ở xóm Mới càng được trời thương, ưu ái tặng cho những tia nắng vàng ươm cho niềm vui thêm đong đầy nơi ánh mắt, nụ cười. Nhạc lên, ngân vang, lân nhảy điệu hoan hỷ, rồng lượn vòng an yên. Trong không khí ấm áp ấy, đại chúng sum họp bên nhau, mời nhau chén trà, chuyện trò đôi câu, cùng thưởng thức vài món ăn dân dã mà giàu tình thương từ tay người nấu, người phụ. Hạnh phúc cứ vậy, đơn sơ mà nhẹ nhàng hóa thành những lời ca, tiếng hát lan tỏa khắp không gian cho hoa thêm sắc, lá thêm xanh.

Những cánh thủy tiên được đất Mẹ chở che, dưỡng nuôi đã vươn mình thức giấc sau một mùa đông dài ngủ yên. Những hạt giống thiện lành sau một năm chăm sóc, vun trồng giờ đây đã biểu hiện ra những lời chúc tốt đẹp dành tặng nhau trong dịp đầu năm mới. Tết đã trọn vẹn trong những búp sen tay mang theo niềm thương kính, phảng phất hương thơm tình người…

 

 

Tết về rồi, bạn về chưa?

(Thầy Chân Minh Hy)

Khai bút đầu năm Giáp Thìn

Bây giờ đã gần hết ngày mùng Một, khách đã về hết và tăng xá đã yên tĩnh trở lại. Con cảm thấy mình đã xong cái việc cần làm, cái ngày cần rất nhiều sự chuẩn bị và có mặt trọn vẹn.

Ngày mùng Một năm nay con thấy sao mà đầy đủ và trọn vẹn lắm. Đầy đủ không phải vì cách mình đã chuẩn bị chu đáo để đón khách vào thăm phòng; trọn vẹn cũng chưa phải vì mình đã có mặt cho nhau từ trưa đến tối. Hít một hơi thở sâu và cảm nhận cái sự đầy đủ đó đã đến từ đâu? À, đúng rồi! Nó đã đến như thế này …

 

 

Tết năm nay hơi khác lạ. Gió nhiều, mưa nặng hạt từ sáng sớm. Dẫu vậy, đại chúng từ các xóm và những người bạn láng giềng đã về xóm Thượng đông đủ để đảnh lễ Thầy đầu năm. Trời tạnh dần và bắt đầu có chút nắng nhẹ. Hai chú lân, ông địa cũng theo tiếng trống đi vào thiền đường. Không khí trong thiền đường như một vườn xuân. Những bông hoa nở từ từ trên từng khuôn mặt theo sự hóm hỉnh, duyên dáng của ông địa. Những tiếng cười làm lan tỏa sự hoan hỷ đến khắp tất cả những ai có mặt trong thiền đường. Thư giãn và vui tươi vẫn thấy rõ trong màu y vàng của quý thầy, quý sư cô. Lân đến đem niềm vui, địa đến đem hoan hỷ. Thế cho nên con thấy đầy đủ trong khi được ngồi với tăng thân trong ngày mùng Một Tết.

Tiếng trống lân vừa dứt, bốn sư em của Tăng thân, đại diện dâng mâm hoa thơm và quả ngọt lên Thầy. Từng bước chân chánh niệm, những bông hoa xinh xắn, quả ngọt đã được các sư em dâng lên Thầy với rất nhiều niềm thương kính. Đại chúng được mời đứng lên hướng về đảnh lễ Thầy, dâng niềm biết ơn và hiếu thảo lên Thầy. Người đã mở đường chỉ lối cho tất cả chúng con. Thiền đường im lặng như cái tên của nó – Nước Tĩnh. Đó là một giây phút thật xúc động. Hình như ai cũng đang nghĩ đến Thầy. Đã tìm được sự liên hệ mật thiết với Thầy qua từng hơi thở, từng niệm yêu thương. Ba tiếng chuông ngân lên, các con của Thầy năm vóc sát đất. Giây phút ấy thật yên và thật lắng. Lòng biết ơn, đôi khi chỉ cần vậy thôi, không cần quá ồn ào. Chỉ cần có mặt trọn vẹn với lòng thương kính là đủ rồi. Có được giây phút này trong ngày mùng Một Tết, con cảm thấy thật đầy đủ.

Đại chúng an tọa và lời kinh đã được cất lên theo nhịp mõ:

“Chúng con được ngồi đây

Trong phút giây hiện tại

Bao bọc bởi tăng thân

Thấy mình thật may mắn:

Sinh ra được làm người

Con sớm gặp chánh pháp

Hạt Bồ đề tưới tẩm

Lại có duyên được sống

Hòa hợp trong tăng thân.”

 

Từng lời dạy của Thầy trong Bài tụng hạnh phúc như đang tưới mát mảnh vườn tâm của chúng con. Dù đã được tưới mát qua nhiều năm, nhiều tháng, nhưng hôm nay thật đặc biệt, đó là ngày mùng Một Tết, giờ phút tâm hồn chúng con hướng về Thầy thì lại được nghe những lời kinh của Thầy dạy qua từng câu tụng. Sự thư giãn, vui tươi qua từng nhịp múa của lân của địa làm chúng con trở nên thật tươi, thật đẹp để cúng dường sự có mặt hạnh phúc của mình lên Thầy. Và lòng biết ơn, thương kính Thầy đã làm mở rộng trái tim để tiếp nhận những lời dạy của Thầy để nuôi dưỡng những hạt giống an lành, hạnh phúc và chí nguyện trong mỗi chúng con. Con thấy lòng mình quá đổi hạnh phúc với những hạt mưa pháp trong ngày đầu xuân.

Ta hạnh phúc liền giây phút này, là câu hát được các vị xuất sĩ cất lên trước khi thực tập lạy nhau đầu năm. Có những trung tâm của Làng Mai không có đủ hai chúng xuất sĩ thì không có cơ hội thực tập phép lạy nhau đầu năm này. Ở Làng Mai, các vị xuất sĩ thực tập phép này một năm một lần vào ngày mùng Một Tết. Vì chỉ có mặt các vị xuất sĩ thôi nên không khí rất gần gũi, như anh chị em một nhà. Lời quán niệm thật đẹp, được đọc lên trước khi các thầy lạy các sư cô và ngược lại. Lời quán niệm đã đẹp rồi mà cái lạy cũng đẹp. Ba cái lạy là tình thâm, là sự cung kính mà mỗi quý thầy, quý sư cô đã lạy xuống trước đức Bồ tát Quan Âm và Bồ tát Phổ Hiền trong mỗi vị xuất sĩ. “Thương yêu là kính trọng”, đó là tuệ giác của Tổ tiên chúng ta.

 

 

Trong một năm qua, con thấy mình có quá nhiều thiếu sót, nhiều vụng về, nhưng sáng nay được ngồi trong lòng tăng thân, trong không khí của ngày mùng Một Tết con cảm thấy thật trọn vẹn. Chỉ một ngày mà trọn vẹn cho một năm đã qua. Thấy mình thật đầy đủ trong ngày đầu xuân.

Năm mới, thương chúc các ba mẹ, anh chị em có một năm thật đầy. Đó là đầy sự thư giãn, vui tươi. Đó là đầy sự thương kính và biết ơn đến những bậc tiền bối. Đó là có thời gian để tưới mát khu vườn, để tâm ta đầy những hoa thơm, trái ngọt. Và cuối cùng là đầy sự kính trọng khi thương yêu.

Dựng điềm lành – Gói hiếu tâm

Hòa chung với không khí đón Tết với quê nhà, tại Làng Mai các xóm cũng đã có không khí Tết. Vừa qua đại chúng đã trở về xóm Mới để thực tập thiền hành, dựng Nêu và gói bánh.

Dựng điềm lành

Với những bước chân thiền hành thong thả, tăng thân đã gửi những niềm thương yêu và biết ơn đến đất Mẹ, đến Tổ tiên đất đai, đã chở che cho đại chúng được tu học yên ổn trong suốt một năm qua, nhờ vậy mà tăng thân đã làm nơi trở về tu học của biết bao nhiêu người trên khắp năm châu.

Chúng con vẫn luôn ý thức rằng, những gì chúng con thực hiện được trong năm qua đều nhờ ân đức của Bụt tổ, của Thầy, của Tổ tiên và niềm tin vững chắc của Tăng thân khắp chốn. Dựng nêu là một phép thực tập để nhắc nhở chúng con về sự may mắn ấy.

Cây nêu được dựng lên với lá cờ năm màu, tựng trưng cho năm điềm lành – Năm giới quý báu, nhằm nhắc nhở mọi người trong Làng rằng, nếu biết tu học theo năm phép thực tập chánh niệm này thì mình sẽ giữ gìn được mảnh đất của Bụt trong lòng. Và mình sẽ được yên ổn không bị ma giận, ma tham, ma trách móc, … quấy nhiễu. Dựng nêu đích thực là dựng nên một niềm tin, một niệm biết ơn, một điềm lành cho một năm mới.

 

Gói hiếu tâm

Lá cờ năm màu đã tung bay trong gió, đại chúng vào nhà, quây quần bên nhau gói bánh. Bếp lửa hồng lan tỏa hơi ấm khắp không gian. Tết được làm nên từ những điều thật dung dị: một thau nếp trắng tinh ngâm vuốt thật kĩ, khay nhân vàng ươm cắt thành từng khối vuông vức, những lớp lá chuối xanh đã được xếp thành lớp đâu ra đấy. Huynh đệ ngồi gói bánh, trò chuyện đôi câu, thỉnh thoảng tiếng cười lại rộ lên ở góc này góc kia.

Mỗi người mỗi việc, người gói bánh tét, người gói bánh chưng, người cột dây cho những chiếc bánh đã được thành hình từ bàn tay khéo léo của những bạn đồng tu. Vị nào chưa biết gói cũng nhận được sự chỉ dẫn nhiệt thành và cặn kẽ. Ai cũng để tâm chăm chút cho chiếc bánh mình gói, tỉ mỉ trong từng động tác trải nếp, đặt nhân hay bẻ lá.

Từng chiếc bánh, muôn hình vạn trạng nhưng thủy chung đều đẹp ở tâm niệm biết ơn và tấm lòng hiếu kính, gói trọn thương yêu, nhẫn nại của chúng con dâng lên Bụt, Thầy và tổ tiên trong những ngày đầu năm mới.

 

 

 

Tết đã về trong không khí hài hòa, đầm ấm ấy của tăng thân. Ngày Tết, người Việt ta dù ở bất cứ nơi đâu, thấy được cây nêu hay đĩa bánh chưng, bánh tét trên bàn thờ tổ tiên đều cảm thấy ấm lòng, thấy mình có một quê hương, có một ngôi nhà để trở về sum họp. Đón Tết vì vậy cũng là đón sự đoàn viên. Nhà nhà sum vầy bên nồi bánh chưng, bên bữa cơm gia đình để ăn mừng sự có mặt của nhau.

 

 

 

Làng Mai năm qua

Khép lại năm 2021, tứ chúng Làng Mai xin gửi đến quý thân hữu lòng tri ân sâu sắc. Nhờ tình thương và sự yểm trợ hết lòng của quý thân hữu, dù trong cảnh đại dịch đầy khó khăn, các trung tâm tu học của Làng Mai vẫn tiếp tục duy trì sự thực tập và hiến tặng hoa trái của mình đến cho mọi người thông qua những khóa tu và sinh hoạt trực tuyến. Sau đây xin mời quý thân hữu cùng chúng tôi nhìn lại những hoạt động chính tại Làng Mai Pháp trong năm 2021.

Khóa tu trực tuyến về nghệ thuật ngồi yên – “How to Sit” (từ ngày 29.1 đến 31.1)

Mở đầu năm 2021, trong bối cảnh đại dịch Covid vẫn còn khá phức tạp, tăng thân đã quyết định tổ chức khóa tu trực tuyến “How to Sit” với sự tham dự của hơn 400 thiền sinh. Thầy Pháp Hữu, thầy Pháp Linh và sư cô Hội Nghiêm chia sẻ đầy sáng tạo, từ kinh nghiệm thực tập của chính mình về mười sáu phép quán niệm hơi thở. Những bài pháp thoại đã gây cảm hứng cho rất nhiều thiền sinh, giúp họ biết cách trở về với hơi thở và điều phục tâm rong ruổi của mình.

 

 

Khi được hỏi giây phút nào là giây phút đáng nhớ nhất trong khóa tu, nhiều thiền sinh chia sẻ: ngoài những bài pháp thoại thì sự chia sẻ và lắng nghe sâu trong các gia đình pháp đàm đem lại cho họ rất nhiều nuôi dưỡng và trị liệu. Những giây phút được ngồi thiền cùng tăng thân, được thực tập thiền buông thư và tiếp xúc với tổ tiên qua hình hài của mình, cũng như nụ cười tươi mát của các thầy, các sư cô trong lúc hát thiền ca trước pháp thoại đều là những giây phút khó quên trong lòng của nhiều thiền sinh. “Sự bình an, hòa hợp và niềm vui của tăng thân đã giúp tôi chăm sóc niềm cô đơn trong lòng. Tôi trân quý nếp sống của quý thầy, quý sư cô và tôi rất vui được gọi quý thầy, quý sư cô là những người bạn đồng hành của mình”, một thiền sinh chia sẻ.

Khóa tu trực tuyến dành cho các nhà hoạt động xã hội và môi trường
(từ ngày 24.2 đến 28.2)

 

 

Với chủ đề “Action from the Heart” (Hành động từ trái tim), khóa tu đã thu hút gần 1000 thiền sinh đến từ 65 quốc gia, trong đó có nhiều nhà hoạt động xã hội, hoạt động về môi trường và nhiều lĩnh vực khác. Mong muốn tạo cơ hội cho nhiều thiền sinh tại Mỹ tham gia khóa tu, ban tổ chức đã khéo thu xếp để có chương trình theo ba múi giờ khác nhau (giờ châu Âu, giờ của bờ Tây nước Mỹ và giờ của bờ Đông nước Mỹ). Vì vậy, ngoài những sinh hoạt chính được truyền trực tuyến từ Làng Mai Pháp, quý thầy, quý sư cô tại các tu viện của Làng Mai ở Mỹ đã giúp hướng dẫn các buổi ngồi thiền, pháp đàm, chia sẻ theo chuyên đề (workshops) và vấn đáp. Điều này đã giúp đem lại một năng lượng tập thể rất hùng hậu. Thiền sinh dù ở các nước khác nhau vẫn cảm thấy đang thực tập chung với nhau trong khóa tu như một tăng thân.

Ngay trong bài pháp thoại đầu tiên của khóa tu, thầy Pháp Lai đã gieo vào lòng các bạn câu hỏi: “Hành động từ trái tim nghĩa là gì? Hành động nào được gọi là hành động chân chính?” Là những nhà hoạt động xã hội, chúng ta không thể nào thức tỉnh mọi người nếu ta không biết cách điều phục cơn giận và những cảm xúc tiêu cực trong mình khi đối diện với những bất công, những hành động gây tàn hoại đến môi trường. Cái mà ta có thể làm là giúp cho mọi người thấy rõ được thực trạng và thắp lên ý thức sáng tỏ rằng loài người chúng ta liên hệ mật thiết với mọi loài và với đất Mẹ.

Chương trình của khóa tu khá phong phú với các buổi chia sẻ theo chuyên đề (workshops) do các vị giáo thọ xuất sĩ và cư sĩ hướng dẫn: cách nuôi dưỡng lòng từ bi trong hành động; cách trị liệu khi bị căng thẳng và kiệt sức; nghệ thuật truyền thông và tạo sự hòa hợp trong các nhóm hoạt động xã hội; xây dựng các cộng đồng Trì Địa…

 

 

Phần lớn thiền sinh đều là những nhà hoạt động xã hội đầy nhiệt tâm, nên khi đến với nhau ai cũng cảm thấy gắn bó một cách sâu sắc. Đặc biệt trong những buổi pháp đàm, các bạn có cơ hội sẻ chia với nhau niềm vui cũng như những khó khăn, những mệt mỏi, căng thẳng khi ở tuyến đầu của các phong trào xã hội và môi trường. Các bạn được truyền cảm hứng rất lớn từ buổi phỏng vấn trực tuyến Sư cô Chân Không do Jo Confino – một nhà báo và cũng là một vị Tiếp hiện của Làng – thực hiện. Tấm lòng phụng sự, dấn thân không mệt mỏi của Sư cô trong suốt cuộc đời mình là một tấm gương và là nguồn cảm hứng rất lớn cho các bạn trẻ.

Bên cạnh các giáo thọ xuất sĩ, trong khóa tu này còn có sự tham gia tích cực của các vị giáo thọ cư sĩ như Larry Ward (Chân Đại Âm), Valerie Brown (Chân Tăng Lực). Ngoài ra còn có sự tham gia của các vị khách mời đặc biệt như Christiana Figueres, kiến trúc sư trưởng của những vòng đàm phán về biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc, và Tiến sĩ Gail Bradbrook, một nhà khoa học đồng thời là người đồng sáng lập của phong trào Extinction Rebellion (Phong trào nổi dậy chống nguy cơ tuyệt chủng).

Một ngày trước khi khóa tu kết thúc đã diễn ra buổi lễ sám hối với đất Mẹ do sư cô Chân Đức làm chủ lễ. Nhiều thiền sinh đã rất xúc động khi có cơ hội tiếp xúc sâu sắc với đất Mẹ cũng như tiếp xúc với nỗi đau trong mình trước những gì mà loài người đã gây ra cho đất Mẹ, và để cho năng lượng của đất Mẹ, của tăng thân ôm ấp niềm đau ấy. Khóa tu kết thúc với hình ảnh gần 200 thiền sinh cùng tiếp nhận Năm giới để hành trì và thắp sáng năng lượng tỉnh thức trong tự thân, từ đó góp phần đem lại sự tỉnh thức tập thể mà cả thế giới đang cần đến.

Hội nghị Phật giáo Quốc tế trực tuyến
(từ ngày 5.3 đến ngày 6.3)

Mười hai tổ chức Phật giáo quốc tế của nhiều nước trên thế giới (Malaysia, Singapore, Sri Lanka, Úc, Nga, Đài Loan, Indonesia và Hàn Quốc) đã đồng tổ chức Hội nghị Phật giáo quốc tế (Pali-Sanskrit International Buddhist Conference) từ ngày 5 – 6.3.2021. Hội nghị được tổ chức trực tuyến với chủ đề: Tam học (Giới – Định – Tuệ). Đức Đạt Lai Lạt Ma đã có bài phát biểu khai mạc Hội nghị. Là một trong 38 diễn giả được mời chia sẻ tại Hội nghị, thầy Pháp Ấn đã thay mặt Sư Ông và tăng thân có bài phát biểu với thông điệp: Không có con đường đưa đến tuệ giác, tuệ giác chính là con đường. Thầy cũng nhấn mạnh đến sự tương tức, tương nhập của ba yếu tố: Giới, Định và Tuệ. Trong bài phát biểu của mình, thầy chia sẻ:

“Bất cứ ai khi đến một trung tâm tu học của Làng Mai đều được làm quen với phương pháp thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày. Cuối mỗi khóa tu, các thiền sinh được khuyến khích thọ Năm Giới. Đây là Năm Giới truyền thống của Phật giáo được thầy chúng tôi làm mới lại để phù hợp với thực trạng của xã hội hiện đại. Trong truyền thống của chúng tôi, sự thực tập Năm Giới trong đời sống hàng ngày được coi là biểu hiện cụ thể của Giới (sila), Định (samadhi) và Tuệ (prajna).”

 

Khóa tu xuất sĩ “Về đây tiếp nhận gia tài”
(từ ngày 16.3 đến ngày 23.3)

Khóa tu diễn ra trong tiết trời đầu xuân, thiên nhiên đã ưu đãi các vị xuất sĩ tám ngày thật đẹp. Khắp xóm Thượng ở đâu cũng thấy bóng dáng áo nâu, ở đâu cũng thấy sự thong dong, tự tại, những nét mặt rạng rỡ bình an. Đó thật sự là một món quà tâm linh rất quý trong hoàn cảnh thế giới hiện tại.

Đáng tiếc là do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 nên các thầy, các sư cô Viện Phật học Ứng dụng châu Âu (EIAB) ở Đức, tu viện Suối Tuệ và Thiền đường Hơi Thở Nhẹ ở Paris không về tham dự được. Tuy vậy ở EIAB, quý thầy quý sư cô đã tự tổ chức một khóa tu xuất sĩ song song với khóa tu tại Làng Mai. Dù không tụ họp về một nơi được nhưng tấm lòng của huynh đệ vẫn hướng về nhau.

 

Trong không khí ấm áp của mùa xuân, nhiều chương trình đặc biệt đã được tổ chức ngoài trời như: giải bóng đá PV Cup, lễ hội văn hóa vùng miền. Các thầy các sư cô từ các nước khác nhau có dịp chia sẻ những nét văn hóa đặc trưng của nước mình: từ y phục, ẩm thực, âm nhạc, nếp sinh hoạt,… Tất cả được hòa quyện trong một không gian đầy ắp niềm vui.

Cuối khóa tu là một đêm thơ nhạc với chủ đề: “Tiếp nhận gia tài.” Sự lắng yên nội tâm được nuôi dưỡng bởi những lời thơ tiếng nhạc là một nét rất tươi mới ở Làng trong vài năm trở lại đây, khi thơ và nhạc được trình bày cho đại chúng như một buổi thiền quán. Nguồn thơ và nhạc, vì vậy, được chọn lọc rất kỹ lưỡng trong kho tàng thơ nhạc của Làng Mai. Đó là một buổi ngồi chơi hay một buổi thiền quán? Đó là một bài thơ hay một lời kinh hay? Thật không có chỗ cho ngôn ngữ phân biệt. Nghệ thuật và tâm linh hòa vào nhau, không còn có ranh giới trong khung cảnh ấy.

Khóa tu, vì vậy, là môi trường trong đó mỗi người xuất sĩ được trở về nuôi dưỡng và tiếp nhận cái đẹp của nhau, là nơi giữ gìn những nét đẹp của người xuất gia.

Khóa tu Thiết lập truyền thông và hòa giải – “How to Reconcile” (từ ngày 2.4 đến ngày 4.4)

Sau khóa tu xuất sĩ khoảng mười ngày, đại chúng được tin nước Pháp ban bố lệnh phong tỏa từ ngày 3.4 – 2.5, trước làn sóng thứ ba của Covid-19. Tuy nhiên, các xóm của Làng vẫn được phép duy trì ngày quán niệm giữa ba xóm và không mở ra cho thiền sinh bên ngoài.

Trong thời gian này, quý sư cô xóm Hạ quyết định tổ chức khóa tu trực tuyến với chủ đề thiết lập truyền thông và hòa giải. Gần 650 thiền sinh đã tham gia khóa tu này. Sư cô Hiến Nghiêm, trong bài pháp thoại đầu tiên, đã mời mọi người trở về nhìn lại mối liên hệ với chính mình. Khi nghĩ đến truyền thông và hòa giải, chúng ta thường nghĩ đến một đối tượng ở bên ngoài mà ít khi nghĩ về mối liên hệ với chính mình. Mình có biết cơ thể của mình đang như thế nào không? Mình có đang chăm sóc những căng thẳng trong thân không? Sư cô cũng chia sẻ về sáu câu thần chú của Làng Mai để giúp thiết lập lại truyền thông với chính mình và với những người mà mình thương yêu.

Những bài pháp thoại của sư cô Chân Đức và sư cô Hội Nghiêm cũng đã giúp cho thiền sinh học được cách chăm sóc và chữa lành những vết thương mà mình đã tiếp nhận từ cha mẹ, từ những người thân và từ xã hội, cũng như học cách sửa chữa những lỗi lầm mà mình đã gây ra trong quá khứ bằng sự quán chiếu về vô thường và tương tức.

Buổi chia sẻ về nghệ thuật Làm mới do sư cô Lăng Nghiêm và sư cô Hiến Nghiêm hướng dẫn, cũng như buổi chia sẻ về truyền thông trong liên hệ vợ chồng do hai vị Tiếp hiện Jo Confino và Paz Perlman cũng đem lại rất nhiều lợi lạc cho thiền sinh.

“Hương thơm quê mẹ” – Triển lãm thư pháp và sách của Sư Ông tại Việt Nam

Hơn một thập niên qua, những cuộc triển lãm thư pháp của Sư Ông đã bao lần được tổ chức thành công tại các nước như Pháp, Đức, Canada, Mỹ, Thái Lan, Đài Loan và Hồng Kông. Nhưng mãi đến năm 2021, lần đầu tiên trong lịch sử Làng Mai, sau bao năm tháng ấp ủ, cuộc triển lãm thư pháp và sách của Sư Ông đã được chính thức diễn ra trên quê hương Việt Nam.

Cuộc triển lãm bắt đầu ở thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 27 tháng 3 đến ngày 5 tháng 4 năm 2021, và được tiếp tục ở thủ đô Hà Nội từ ngày 14 tháng 4 đến ngày 26 tháng 4. Cũng nhân dịp này, cuốn sách thư pháp đặc biệt Hương thơm quê mẹ được ra mắt đồng bào cả nước.

Xin đọc thêm bài viết “Quê Mẹ vẫn tỏa ngát hương thơm” của thầy Pháp Nguyện trong số báo này để hiểu thêm về hành trình triển lãm thư pháp và sách của Sư Ông tại Việt Nam.

Khóa tu trực tuyến dành cho cộng đồng Pháp ngữ (từ ngày 23.4 đến ngày 27.4)

Năm ngoái, lần đầu tiên trong hai mươi năm qua, cộng đồng Pháp ngữ không có dịp đoàn tụ bên nhau trong khóa tu tiếng Pháp vào mùa xuân ở Làng, vì đại dịch Covid bùng phát và Làng phải đóng cửa. Nhận thấy tình hình đại dịch sẽ còn kéo dài, năm nay tăng thân quyết định tổ chức khóa tu tiếng Pháp trực tuyến, từ ngày 23 – 27.4, để các bạn trong cộng đồng Pháp ngữ có cơ hội cùng tu tập và kết nối. “Niềm vui bên nhau” (Dans la joie d’être ensemble) là chủ đề của khóa tu. Hơn 400 thiền sinh đã tham dự năm ngày tu tập này. Sư cô Chân Không và sư cô Định Nghiêm, dù đang ở Việt Nam, cũng cố gắng sắp xếp để có mặt cho các bạn trong cộng đồng Pháp ngữ.

 

Trong bài pháp thoại đầu tiên mở đầu khóa tu, sư cô Đào Nghiêm đã chia sẻ cho thiền sinh cách thực tập để có thể tiếp xúc được với niềm vui trong giây phút hiện tại dù đang qua những khó khăn, khổ đau trong lòng. Với bài hát “Le bonheur” (Hạnh phúc), sư cô Định Nghiêm mời mọi người nhìn sâu vào chính mình, xem mình có đang đuổi theo một hạnh phúc xa vời nào trong tương lai hay không. Ý niệm về hạnh phúc đôi khi là một trở ngại, không cho mình tiếp xúc với hạnh phúc thực sự. Buổi thực tập thiền buông thư và thiền lạy do Sư cô Chân Không hướng dẫn khiến cho nhiều thiền sinh rất xúc động. Một thiền sinh chia sẻ:

“Thiền lạy cũng như các bài thiền tập trong khóa tu đã giúp tôi tiếp xúc được với cha mẹ và tổ tiên trong mình. Trong một buổi ngồi thiền và thở bằng hai lá phổi của mẹ, tôi chợt nhận ra rằng hai lá phổi của mẹ tôi rất yếu và thật là khó khăn cho mẹ khi thở với hai lá phổi như vậy. Giờ thì tôi hiểu vì sao mẹ không đủ bình an và dễ cáu kỉnh với mọi người.”

Dù là khóa tu trực tuyến nhưng nhiều thiền sinh chia sẻ họ vẫn cảm thấy kết nối với tăng thân như không hề có sự xa cách về địa lý. “Tôi thực sự cảm nhận mình đã mời được tăng thân về nhà. Đây là một món quà từ Covid”- một thiền sinh chia sẻ. Cuối khóa tu, 70 thiền sinh đã tiếp nhận Năm Giới thông qua lễ truyền giới trực tuyến từ thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng.

Lễ truyền 14 Giới Tiếp hiện trực tuyến đầu tiên trong lịch sử Làng Mai

 

 

Lần đầu tiên trong lịch sử bốn mươi năm Làng Mai, lễ truyền 14 Giới Tiếp hiện được tổ chức trực tuyến vào ngày 2.5.2021. Sư cô Chân Đức đã thay mặt Sư Ông và tăng thân truyền giới Tiếp hiện cho 162 cư sĩ và 23 xuất sĩ. Khoảng 1300 người đã theo dõi trực tuyến để yểm trợ năng lượng cho các giới tử trong suốt buổi lễ.

 

 

Khóa tu trực tuyến dành cho người nói tiếng Ý (từ ngày 5.5 đến ngày 9.5)

Từ ngày 5.5 đến ngày 9.5, gần 250 thiền sinh người Ý đã tham gia khóa tu trực tuyến do quý thầy, quý sư cô ở Làng hướng dẫn. Khóa tu có chủ đề: Trở về kết nối và vun bồi gốc rễ (huyết thống và tâm linh) trong chính mình. Đây là cơ hội để tăng thân người Ý cùng đến tu tập với nhau, nuôi dưỡng năng lượng chánh niệm và bình an trong bối cảnh đại dịch đầy khó khăn, thách thức. Quý thầy, quý sư chú người Ý (thầy Pháp Biểu, thầy Huệ Trực, thầy Trời Đạo Phương, thầy Trời Thiện Ý, sư chú Trời Khiết Anh và sư chú Trời Niệm Xả) đã cùng nhau tổ chức khóa tu này với rất nhiều niềm vui.

Khóa tu trực tuyến “The Art of Inner Healing”- Nghệ thuật trị liệu thân tâm
(từ ngày 14.5 đến 16.5)

Mới bước vào khóa tu, hơn 900 thiền sinh từ nhiều nước trên thế giới được sư cô Định Nghiêm cho đi tham quan một góc của chùa Tổ và ngắm những bông sen đầu mùa “qua màn ảnh nhỏ”. Nhiều người đã rất xúc động và cảm giác tiếp xúc được với Sư Ông dù chỉ qua những giây phút ngắn ngủi như vậy. Những kinh nghiệm thực tập, những câu chuyện rất riêng mà sư cô Định Nghiêm, sư cô Lăng Nghiêm và sư cô Chân Đức chia sẻ trong bài pháp thoại của mình đã giúp thiền sinh trở về với hơi thở và hình hài, tiếp xúc và làm bạn với em bé bị tổn thương trong mình. Một thiền sinh thổ lộ:

“Đã từ lâu tôi không thực sự có mặt cho chính mình. Tôi thường tìm thú vui trên các trang mạng xã hội, Netflix hay ăn uống. Vì vậy đối với tôi, ngày đầu tiên của khóa tu cực kỳ khó khăn. Thật khó để trở về với hơi thở và hình hài của mình. Nhưng đến ngày thứ ba thì tôi bắt đầu nếm được niềm vui của sự tĩnh lặng. Tôi biết ơn các sư cô vô cùng.”

Những khoảnh khắc như thế này đã để lại nhiều dấu ấn đẹp đẽ trong lòng các bạn thiền sinh:

“Đối với tôi, khoảnh khắc đáng nhớ nhất là khi hai sư cô người Indonesia – hai chị em ruột cùng xuất gia – thực tập làm mới với nhau. Những chia sẻ của hai sư cô làm tôi rất cảm động.”

“Tôi sinh ra và lớn lên ở Mỹ. Trong gia đình tôi hiếm khi chúng tôi nhắc đến tổ tiên của mình. Vì vậy thực tập thiền lạy do sư cô Chân Không hướng dẫn khiến tôi chấn động. Tôi bỗng tiếp xúc được với những cái đẹp của tổ tiên mà bấy lâu nay tôi không nhận ra.”

Khóa tu trực tuyến Wake Up Earth dành cho người trẻ (từ ngày 25.5 đến ngày 30.5)

Wake Up Earth: hành trình nuôi dưỡng nội lực, lòng từ bi và khả năng tự trị liệu. Đó là chủ đề thu hút gần 300 bạn trẻ đến với cho khóa tu trực tuyến Wake Up Earth năm nay. Nhiều bạn trẻ bày tỏ rằng khóa tu là cơ hội để các bạn gặp gỡ chính mình và gặp gỡ những người bạn có cùng chí hướng. Những buổi pháp đàm là nơi các bạn có dịp nói ra những khó khăn, khổ đau trong lòng mình và đồng thời nhận ra không chỉ riêng mình đang vấp phải những khó khăn đó.

Là những người trẻ sống trong một thời đại đầy biến động và bất trắc, làm thế nào để giữ được bình an ngay giữa cơn bão? Làm thế nào để nhận diện và trân quý những cái đẹp vẫn đang có mặt đó cho mình? Những gì mình xem, mình nghe, mình suy tư tác động như thế nào đến hạnh phúc và khổ đau của mình? Những tuệ giác nào trong đạo Bụt giúp mình có được cái thấy sáng tỏ và lòng can đảm để hành động, giúp chữa lành những kỳ thị và bạo động trong xã hội hiện nay, cũng như đối diện với cuộc khủng hoảng khí hậu trên toàn cầu? Qua những bài pháp thoại của mình, thầy Pháp Hữu, thầy Pháp Linh và sư cô Hiến Nghiêm đã giúp các bạn cùng nhìn sâu vào những câu hỏi này và tìm ra hướng đi cho chính mình. Ngoài ra các bạn còn có những thảo luận chuyên đề (workshops), và một buổi vấn đáp trực tuyến rất sinh động với thầy Pháp Hữu, thầy Trời Bảo Tạng và sư cô Trai Nghiêm. Khóa tu khép lại với một buổi ngồi chơi bên nhau thật vui tươi cùng nhiều tiết mục văn nghệ đầy sáng tạo của các bạn trẻ, cũng như các thầy, các sư cô. Ai cũng cảm nhận được tình thương, sự ấm áp mà mọi người trong khóa tu dành cho nhau như một đại gia đình tâm linh.

Khóa tu trực tuyến “Touching Reality” – Tiếp xúc thực tại (từ ngày 15.6 đến ngày 20.6)

 

 

Với tinh thần nhà khoa học nắm tay nhà đạo học, khóa tu “Touching Reality” – Tiếp xúc thực tại đã thu hút khoảng 630 thiền sinh đến từ hơn 40 quốc gia, trong đó có nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau về tham dự.

Qua các bài pháp thoại, sư cô Đẳng Nghiêm, sư cô Lăng Nghiêm, thầy Pháp Lai và thầy Pháp Linh mời mọi người nhìn sâu vào những thói quen suy tư, những lối mòn của tâm thức (neural pathway) xem chúng đã ảnh hưởng đến hạnh phúc, khổ đau của mình như thế nào. Tuệ giác của tâm học Phật giáo, trong mối liên hệ với những khám phá mới của khoa học, đã được quý thầy, quý sư cô khéo léo trình bày bằng ngôn ngữ khoa học, tạo cảm hứng cho mọi người trở về chăm sóc thân tâm bằng sự thực tập chánh niệm và tiếp xúc với tự tánh tương tức, bất nhị của thực tại.

Khóa tu còn có những buổi chia sẻ chuyên đề (khoa học lượng tử và đạo Bụt, chánh niệm và khoa học thực dưỡng, sự tiến hoá của tâm thức trên nền tảng khoa học, ý thức về ngã sau sang chấn tâm lý dưới góc nhìn của một nhà sinh học thần kinh) với sự tham dự của những vị khách mời đặc biệt như Giáo sư Diane Gilbert-Diamond, Tiến sĩ Lilian Cheung, Giáo sư David Sloan Wilson, Giáo sư Michel Bitbol và Giáo sư Ruth Lanius.

Khóa tu trực tuyến “How to Grieve”
(từ ngày 29.7 đến ngày 1.8)

Đại dịch Covid khiến bao nhiêu người trên thế giới chịu cảnh mất người thân cũng như đối diện với cảm giác đau buồn, bất an trước những bất trắc khó lường của cuộc sống. Nhận thấy điều đó, quý thầy, quý sư cô ở Làng đã tổ chức khóa tu trực tuyến với chủ đề “How to Grieve” (Làm thế nào để đối diện với nỗi buồn đau, mất mát trong lòng mình). Khoảng 800 thiền sinh từ 48 quốc gia đã tham dự khóa tu này.

Thầy Pháp Ứng (từ chùa Tổ), cùng với sư cô Từ Nghiêm, sư cô Thuần Khánh, sư cô Hội Nghiêm đã hiến tặng những cơn mưa pháp làm lắng dịu niềm đau và tạo ra sự chuyển hóa mầu nhiệm cho rất nhiều thiền sinh. Một thiền sinh chia sẻ: “Khi đến với khóa tu, tôi mới nhận ra rằng nỗi đau khi những người thân của tôi qua đời vẫn còn nằm rất sâu trong tôi. Tôi tưởng là mình đã ổn, nhưng sự thực không phải như vậy. Tôi đã cố chôn vùi niềm đau đó, không dám đối diện với những mất mát ấy. Trong khóa tu này, lần đầu tiên tôi tiếp xúc trở lại với người chồng đã mất. Tôi đã mời anh ấy đi thiền hành cùng tôi, ăn những món ăn mà anh ấy từng ưa thích, dù ban đầu sự thực tập này còn hơi lạ với tôi. Trước đây, tôi chưa bao giờ dám làm điều này, tôi không dám thưởng thức sự sống vì cảm thấy tội lỗi với anh ấy. Nhưng qua sự thực tập, tôi nhận ra là anh ấy muốn tôi nhớ đến và muốn tôi sống hạnh phúc. Cái thấy đó đã giải phóng cho tôi, khiến cho tôi tìm lại được niềm vui sống.”

Trong khóa tu còn có một buổi lễ cầu siêu cho người thân đã mất do Sư cô Chân Đức làm chủ lễ. Buổi lễ diễn ra rất trang nghiêm và xúc động. Quý thầy, quý sư cô từ các xóm đã vân tập về thiền đường Trăng Rằm, xóm Mới để hộ niệm cho buổi lễ này.

“Dù là khóa tu trực tuyến nhưng tôi cảm nhận được sự có mặt đầy tình thương của tăng thân. Tôi đã để cho mình được khóc thỏa thuê trong sự ôm ấp của cả tăng thân, của những người bạn đến từ khắp nơi trên thế giới. Những giọt nước mắt đầy trị liệu. Tôi biết ơn tăng thân thật nhiều!” – một thiền sinh chia sẻ sau khóa tu.

An cư kiết thu (từ ngày 9.9 đến ngày 7.12)

 

 

Đầu tháng Chín, khi cây lá bắt đầu chuyển màu, đại chúng ở Làng cũng bước vào mùa an cư (nhiều người thích gọi đó là “mùa yên”). Năm nay, ở Làng có 158 xuất sĩ (27 tỳ kheo, 73 tỳ kheo ni, 15 Thức xoa ma na, 27 sadi, 6 sadi nữ) và 32 cư sĩ cùng tu tập chung với nhau trong chín mươi ngày an cư. Chủ đề của mùa an cư năm nay là “Những châu báu trong truyền thống Làng Mai” (Gems of the Plum Village tradition).

 

 

Điều đặc biệt trong mùa an cư năm nay là có gần 1500 thiền sinh cùng “tùng hạ an cư” với quý thầy, quý sư cô thông qua ngôi chùa điện tử. Chương trình tu học dành cho các bạn trong ba tháng được chuẩn bị khá công phu với rất nhiều tình thương.

Trong mùa an cư, đại chúng còn có những ngày làm việc chung ba xóm với nhau, dọn dẹp Sơn Cốc, làm việc ở Happy Farm, trồng cây ở xóm Mới (hơn 200 cây con đã được trồng trên đồi mận và những khu đất còn bỏ trống của xóm Mới)… Dù làm bao nhiêu việc nhưng không ai thấy mệt. Đó là những giây phút tràn đầy niềm vui và tiếng cười!

Đại Giới Đàn “Qua Bờ”
(từ ngày 1.10 đến ngày 4.10)

Một điều thật mầu nhiệm, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người là dù trong bối cảnh đại dịch, tăng thân đã tổ chức được Đại Giới Đàn “Qua Bờ”, diễn ra từ ngày 1 – 4.10. Đại Giới Đàn được tổ chức tại tu viện Lộc Uyển (California, Mỹ) và được truyền trực tuyến đến năm trung tâm thuộc Làng Mai tại Pháp, Thái Lan và Việt Nam. 123 giới tử đã tiếp nhận giới Khất sĩ nam (42 vị) và Khất sĩ nữ (81 vị) trong Đại Giới Đàn lần này.

 

Đại Giới Đàn đã cung thỉnh được Chư Tôn Đức từ Bắc Mỹ (HT. Thích Tịnh Từ, HT. Thích Tịnh Diệu, HT. Thích Nguyên Hạnh, HT. Thích Phước Tịnh, HT. Thích Từ Lực, Ni trưởng Thích Nữ Nguyên Thanh, Ni trưởng Thích Nữ Như Hương, Ni sư Thích Nữ Như Bảo…) tham gia Hội đồng truyền giới. Sự có mặt của Chư Tôn Đức trong Đại Giới Đàn là một duyên lành lớn cho tăng thân.

Nhờ ơn Tam Bảo gia hộ, hai buổi lễ truyền giới Khất sĩ nam và Khất sĩ nữ đã diễn ra rất suôn sẻ. Đại chúng đều cảm nhận rõ cả sáu trung tâm ở ba châu lục Mỹ – Âu – Á đang thở cùng một nhịp và chế tác ra một năng lượng vô cùng hùng hậu trong giờ phút huyền thoại đó. Mỗi trung tâm đều phản chiếu hình ảnh của các trung tâm khác như màn lưới đế châu lấp lánh. Hình ảnh hai trăm xuất sĩ trong thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng – Làng Mai Pháp – hòa nhịp với đại chúng ở Thiền đường Thái Bình Dương của tu viện Lộc Uyển cùng tụng Tâm kinh Tuệ giác Qua bờ khiến cho nhiều người trong đại chúng rất xúc động.

Từ Diệu Trạm, quý sư cô chia sẻ “Chúng con có cảm giác như Hội đồng truyền Giới đang ngồi ngay trong thiền đường Hương Cau. Toàn thể đại chúng ở đây cảm và tiếp nhận được năng lượng hùng hậu một cách rõ ràng từ ba châu lục hội tụ lại thành một. Trên màn hình, chúng con thấy sáu trung tâm cùng hoạt động như một cơ thể. Một điều không thể tưởng tượng được. Đúng như Sư Ông thường dạy về tính chất “phi cục bộ” (non-locality) trong khoa học lượng tử. Rất nhiều các sư em xúc động và khóc trong các buổi lễ truyền giới.”

Đại Giới Đàn Qua Bờ 2021 là công trình của cả tăng thân với hơn một năm nung nấu nguyện vọng và lên chương trình thực hiện. Trong thời buổi đại dịch với nhiều khó khăn, thật may khi có sự hỗ trợ của công nghệ, mọi ước nguyện đã được hiện thực dễ dàng hơn. Sự phối hợp hòa điệu giữa các trung tâm trong việc tổ chức Đại Giới Đàn đã đem lại cho Sư Ông và tăng thân nhiều niềm vui cũng như nhiều năng lượng để tiếp tục đi tới. Sư Ông đã theo dõi và yểm trợ năng lượng cho Đại Giới Đàn với rất nhiều tình thương.

Cũng trong dịp này, hơn 20 sư cô được tiếp nhận giới Thức Xoa Ma Na, 54 vị tiếp nhận giới Tiếp Hiện. Ngoài ra còn có lễ truyền đăng cho ba mươi chín vị tân giáo thọ (cả xuất sĩ và cư sĩ) được tổ chức tại các trung tâm của Làng. Đây là một niềm hạnh phúc lớn cho cả tăng thân.

 

Kệ truyền đăng trong năm 2021

Dưới đây là những bài kệ truyền đăng đã được trao cho 41 vị tân giáo thọ (cả xuất sĩ và cư sĩ) trong năm 2021:

Kệ truyền đăng tại tu viện Lộc Uyển
(31.1.2021)

Ngày 31.1.2021, trong khóa an cư kiết đông với chủ đề “Vô phân biệt trí” tại tu viện Lộc Uyển, Hòa thượng Phước Tịnh đã thay mặt Sư Ông và tăng thân truyền đăng cho hai thầy Pháp Giới và Trời Ngộ Không. Dưới đây là kệ truyền đăng mà Sư Ông và tăng thân đã trao cho hai thầy:

Thầy Thích Chân Pháp Giới (Lê Anh Tuấn; Pháp danh: Tâm An Định)

Pháp mầu Như Lai người đã tỏ
Giới châu tâm ấn liễu vô sinh
Kế thế truyền đăng dòng sư tử
Thừa tiếp tâm tông đạo quả thành.

Thầy Thích Chân Trời Ngộ Không (Michael Becka; Pháp danh: Tâm An Trú)

Ngộ tâm chẳng thủ thời gian
Không môn nào phải rộn ràng đến đi
Đá mòn mưa pháp khắc ghi
Thiên nhiên nở đóa tường vi cho đời.

Kệ truyền đăng trong Đại Giới Đàn “Qua Bờ”
(1 – 4.10.2021)

Thầy Thích Mãn Thức (Phan Văn Tư; Pháp danh: Tâm Duy)

Trí màu hoa tạng đã mãn khai
Thức tỉnh hồn say thoát mộng dài
Nắm giữ luật nghi trì mật hạnh
Bồ đề ngự trị giữa trần ai.

Thầy Thích Chân Pháp Thắng (Đào Hoàng Long; Pháp danh: Tâm Giác Thanh)

An nơi hiện pháp công phu
Nghĩa trả ơn đền tối thắng tu
Đã thấy quê nhà khương kiện bước
Rừng xanh mây bạc cảnh nhàn cư.

Thầy Thích Chân Pháp Nhiếp (Hồ Bửu Đại; Pháp danh: Tâm Thọ Bấu)

Pháp mầu truyền lại còn nguyên
Bao môn nhiếp phục tinh chuyên thở cười
Tới về từng bước thảnh thơi
Trăng thu sáng tỏ chân trời lặng thinh.

Thầy Thích Chân Trời An Lạc (Nguyễn Tiếu; Pháp danh: Tâm Phương Lâm)

Mây tan sấm lặng thấy chân trời 
Ra vào an lạc chốn thảnh thơi 
Thương yêu nuôi lớn thời thơ ấu 
Thở cười sâu lắng mới tinh khôi.

Thầy Thích Chân Trời Sáng Tỏ (Lê Minh Cường; Pháp danh: Tâm Nguyên Phước)

Chân trời sáng tỏ đèn tâm
Thở đi nhận diện báo ân hai dòng
Sát na ẩn hiện trùng trùng
Nhìn sâu tự tánh duyên nhân như là.

Thầy Thích Chân Trời Tinh Khôi (Mai Văn Khẩn; Pháp danh: Tâm Thiện Phát)

Chân trời chứa cả thân tâm
Tinh khôi phụng hiến Từ ân trọn đời
Bước chân hơi thở thảnh thơi
Nhìn sâu hiện pháp sáng lời dấn thân.

Thầy Thích Chân Trời Tĩnh Lặng (Nguyễn Văn Sơn; Pháp danh: Tâm Quảng Thái)

Trời khuya vang vọng tiếng chuông ngân
Tĩnh lặng sáu căn gột sáu trần
Đi vào thiền định không vô tướng
Dứt trừ vọng kiến trở về chân.

Thầy Thích Chân Trời Bao Dung (Mai Văn Cường; Pháp danh: Tâm Quảng Hội)

Chân trời thương hiểu bao dung 
Đệ huynh hôm sớm thủy chung một dòng 
Bước chân địa xúc rỗng không 
Đóa hoa hàm tiếu mây hồng có nhau.

 

 

Thầy Thích Chân Trời Tuệ Chiếu (Phạm Thế Thành; Pháp danh: Tâm Thanh Trung)

Chí trai cân cả đất trời
Sẵn gươm trí tuệ vào đời độ sinh
Chớ quên soi chiếu lại mình
Chứng nên Phật quả hoàn thành nguyện xưa.

Sư cô Thích Nữ Chân Quán Nghiêm (Phan Thị Ngọc Hải; Pháp danh: Tâm Diệu Ngọc)

Chân tướng mài trong ánh lửa hồng
Quán giới nghiêm lòng mãi sáng trong
Ngày đêm an trú trên thánh địa
Tự tại rong chơi đến thỏa lòng.

Sư cô Thích Nữ Chân Tiếp Nghiêm (Phạm Thị Ngoan; Pháp danh: Tâm Quảng Lê)

Tay Bụt trao truyền nguyền tiếp nhận
Chân pháp an ban giữ nghiêm thân
Rừng thiêng bến cũ cùng quay gót
Ngàn thông khe suối vẫn reo mừng.

Sư cô Thích Nữ Chân Vũ Nghiêm (Lê Thị Kim Phương; Pháp danh: Tâm Diệu Hảo)

trụ phô bày muôn sắc thắm
Lăng già ảnh chiếu cảnh trang nghiêm
Vạn Pháp ẩn hiện tùng duyên khởi
Đất trời hòa tấu khúc tịch nhiên.

Sư cô Thích Nữ Chân Điều Nghiêm (Lê Thị Hương; Pháp danh: Tâm Diệu Huệ)

Chân thân có mặt tại phàm thân
Điều phục tâm ta hiện rõ dần
Nghiêm tịnh một đời tam tuệ học
Hoàn thành bổn nguyện đáp bốn ân.

Sư cô Thích Nữ Chân Dự Nghiêm (Nguyễn Thị Cẩm Vân; Pháp danh: Tâm Quảng Ngọc)

Hội vui về tới dự trang nghiêm
Bến đỗ tâm linh mãn thệ nguyền
Thân giáo diễn bày pho kinh sử
Đạo tình nuôi lớn đóa bạch liên.

Sư cô Thích Nữ Chân Cương Nghiêm (Dư Thị Thủy; Pháp danh: Tâm Nhuận Ngọc)

Cương lữ người tu em nắm được
Nghiêm thân vui bước mặc đường xa
Hoa sen vẫn nở hồn tươi thắm
Cát bụi trần gian chẳng bỏ lòng.

Sư cô Thích Nữ Chân Ân Nghiêm (Trần Thị Hồng Phấn; Pháp danh: Tâm Diệu Quỳnh)

Chân vững chãi giữa miền đất tịnh 
Ân luôn là chất liệu chuyển tâm
Nghiêm trang nuôi Đại nguyện nơi lòng
Sống viên mãn, trăm năm hiện tiền.

 

 

Sư cô Thích Nữ Chân Trừng Nghiêm (Phạm Thị Hoa; Pháp danh: Tâm Thục Huệ)

Tâm trừng thanh ý sáng
Niệm định giữ nghiêm minh
Đất trời nuôi chí lớn
Hoa tuệ hé môi cười.

Sư cô Thích Nữ Chân Thương Nghiêm (Lê Thị Hạnh; Pháp danh: Tâm Liên Hoa)

Chân trời sáng rỡ bước chân thiền
Lòng thương nuôi trí rộng vô biên
Nghiêm trang dâng Bụt tròn cuộc sống
Liên hoa một nụ, nở hồn nhiên.

Sư cô Thích Nữ Chân Hiệp Nghiêm (Bùi Ngọc Hân; Pháp danh: Tâm Huyền Vi)

協女出釋女 Hiệp nữ xuất thích nữ
嚴身現戒身 Nghiêm thân hiện giới thân
功夫乘法寶 Công phu thừa pháp bảo
處處潤洪恩 Xứ xứ nhuận hồng ân.

Sư cô Thích Nữ Chân Tu Nghiêm (Lee Hau Wan Phime; Pháp danh: Tâm Thanh Phong –Soft Breeze of the Heart)

海衆同修終一味 Chân tu nhất một niệm
莊嚴實地所歸依 Nghiêm hạnh đạo từ tâm
常行一向如持地 Ưu đàm hoa vẫn nở
建立安般絕是非 Lục độ ngát hương trầm.

Sư cô Thích Nữ Chân Her Xuan (Tan Lay Kuang; Pháp danh: Guan He 觀和)

六和爲禪杖 Lục hòa thường quán chiếu
遇義玄無憂 Ái ngữ là huyền âm
舉足登聖地 Dựng xây tình huynh đệ
含笑視春秋 Hợp xướng cùng tăng thân.

Sư cô Thích Nữ Chân Trăng Thanh Lương (Phan Thị Hạnh; Pháp danh: Tâm Giác Chúng)

Chân Trăng tỏa chiếu Thanh Lương
Nhìn sâu mặc cảm tỏ tường nẻo ra
Thở đi pháp trở về nhà
Đầu kia sen nở ngát tòa hương thơm.

Sư cô Thích Nữ Chân Trăng Huyền Diệu (Huỳnh Thị Kim Thân; Pháp danh: Tâm Nhật Thuyên)

Thanh lương cổ nguyệt minh hòan lộ 
Gia cơ tông chỉ kiến huyền quan 
Vô sanh pháp nhẫn an thường trụ 
Diệu khúc hòa âm cử xướng tu.

Sư cô Thích Nữ Chân Trăng Bích Nham (Cao Thị Cẩm Tú; Pháp danh: Tâm Liên Tú)

Chân Trăng tỏa chiếu Bích Nham
Non sông cẩm tú chim ngàn về chơi
Lắng nghe ái ngữ không lơi
Khổ đau vượt thoát vào đời có nhau.

Sư cô Thích Nữ Chân Trăng Phổ Đà (Pui Wah Camilla Law; Pháp danh: Peaceful Direction of the Heart)

誓日普陀靈鷲山
法音處處利天人
家歸一步千方月
一步同名報衆恩
Trăng treo trên núi Phổ Đà
Vững thân thiền định tâm hòa cùng trăng
Ta bà tịnh độ đồng thanh
Chân Tăng, chân Bụt đồng hành dạo chơi.

Chân Minh Hiện (Trương Thị Anh Phương)

Tâm an rạng ánh trăng rằm
Thủy mưa cam lộ rã vành lưới mê
Minh vương hạt giống Bồ-đề
Hiện pháp lạc trú đường về bổn môn.

True Emerald Ocean (Juliete Hwang)

When spirit shines with emerald-pure light
Containing rivers, the vast ocean swells
The Bodhi tree is here, right in plain sight
Each bow we heal with the ancestral bell

Chân Chánh Uyển  (Trần Hoàng Phương)

Tâm Bụt tâm con vốn không hai
Quang rạng chơn như tọa liên đài
Chánh kiến ba thân vươn trời rộng
Uyển vườn tuệ giác đã đơm bông.

Chân Lưu Phong (True Flowing Tradition) (Lê Chân Tâm)

Tâm cẩn trọng tư duy chánh ngữ
Nụ hoa cười khởi niệm vô tư
Sống chết một đời không hệ lụy
Chân lưu phong rỗng thể thái hư.

Chân Lương Uyển (Phan Thị Thương Châu)

Chân Lương Uyển chân không thường tại
Tâm Bảo Ngọc diệu thể bất sinh
Niệm, định công phu mặt trời tuệ
Vượt ái sông mê lộ chơn hình.

Chân Lạc Độ (True Land of Happiness)  (David Hughes)

Grass roots in land twice-blessed by damp and sun
True happiness finds root right here right now
Its voice invites us to no longer run
Our gentle step on earth imprints our vow

Chân Phật Sơn (True Buddha Mountain) (Alex Cline)

The bliss of silence is the Buddha jewel
The wind through pines reveals the mountain’s call
Transcending ebb and flow, all passions cooled
In praise or blame the moon’s still free to soar

Chân Châu Hải (True Ocean of Jewels) (Natascha Bruckner)

In oceans lie the rivers, clouds and rain
True jewels refracting light that wakes the deep
Compassion heals by embracing pain
Good friends reveal the path beneath our feet

Chân Hỷ Độ (True Land of Joy) (Theodate Lawlor)

Gardens of joy bloom from Earth’s living crust
Across the land people eat, laugh and play
To harvest fruit we sow patience and trust
And sing to stars that turn to light of day

Chân Ân Hải (True Ocean of Grace) (Joseph Reilly)

The sound of grace bends the wind of the mind
Oceans bring rain to quench the flames of fear
The roots that dig down deep know what they find
Earth penetrates them all with love right here

Chân Hạnh Độ (True Land of Fortunes) (John Wadsworth)

Fortunes beginningless and without end
When we maintain virtue within this land
The wooden fish drum’s even beat now blends
With rising tide that floods the shifting sand

 

 

Chân Liên Định (True Lotus Concentration) (Brian Otto Kimmel)

The beaded drop on lotus leaf now glides
In concentration learning how to fall
Not long nor short in motion it arrives
And chants in silence water’s native call

Chân Linh Sơn (True Mountain of Spirituality) (Susan Glogovac)

Fresh mountain–flanking flowers fetch dawn dew
spirit–breath now heals across the land
Each solid step arrives at life still new
Our boundless heart love’s refuge here expands

True Source of Treasure (Chân Bảo Nguyên) (Joseph Spaeder)

The stream’s high source continues clouds and snow
True nature’s treasure lies within its flow
The ground of mind is clear and free as is
It has no net or view, just letting go

 

Làng Mai tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc (COP-26)

Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu (COP-26) đã diễn ra tại Glasgow, Scotland từ ngày 31.10 – 12.11. Sau gần hai tuần đàm phán căng thẳng, 197 quốc gia đã thông qua Hiệp ước khí hậu Glasgow (Glasgow Climate Pact), trong đó tái khẳng định duy trì mục tiêu hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở ngưỡng 1,5 độ C.

 

Photo: Gilberto Tadday

 

Trước thềm Hội nghị, từ ngày 12 – 15.10, tăng thân Làng Mai đã được mời tham dự sự kiện TED Countdown Summit, được tổ chức lần đầu tiên tại Edinburgh, Scotland. Đây là một sáng kiến toàn cầu nhằm vận động các giải pháp để đối phó với khủng hoảng khí hậu, biến ý tưởng thành hành động với mục tiêu là xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, cắt giảm một nửa lượng phát thải khí carbon vào cuối thập kỷ này trong cuộc đua tới mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0.

1000 diễn giả từ nhiều quốc gia và nhiều lĩnh vực khác nhau (chính trị gia, lãnh đạo doanh nghiệp, các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học, nghệ sĩ, các nhà hoạt động xã hội trẻ tuổi…) đã được mời tới diễn đàn. Thầy Pháp Hữu, thầy Pháp Linh, sư cô Lăng Nghiêm và sư cô Hiến Nghiêm đã đại diện tăng thân tham dự sự kiện này. Quý thầy, quý sư cô đã hướng dẫn những buổi thiền tập và chia sẻ về nghệ thuật lắng nghe cũng như có một buổi chia sẻ đặc biệt về chủ đề “How to Be a Good Ancestor” (tạm dịch: Làm thế nào để sống xứng đáng và có trách nhiệm với thế hệ đi sau mình), cùng với Roman Krznaric – tác giả của cuốn sách “The Good Ancestor” và Mục sư Yearwood.

Sự có mặt của các xuất sĩ Làng Mai, cũng như bài diễn thuyết “TED talk” đầy cảm hứng của sư cô Hiến Nghiêm, đã tạo một ấn tượng sâu sắc trong lòng những người tham dự. Vì vậy, ban tổ chức đã mời tăng thân tiếp tục có mặt tại Glasgow để hỗ trợ cho Hội nghị COP-26. Thầy Pháp Dung và thầy Pháp Linh đã thay mặt tăng thân tham dự Hội nghị lịch sử này.

(Xin đọc thêm những chia sẻ của thầy Pháp Linh trong bài viết “Hai chiếc lá đầu cành” trong số báo này để hiểu thêm về sự tham gia của tăng thân tại TED Countdown Summit và COP-26)

Khóa tu trực tuyến “The Gift of a Quiet Mind” (từ ngày 29.12.2021 đến ngày 2.1.2022)

Năm 2021 khép lại với khóa tu cuối năm “Món quà của tâm tĩnh lặng” (“The Gift of a Quiet Mind”), do quý sư cô xóm Hạ tổ chức. Gần 600 thiền sinh từ nhiều nước trên thế giới đã đến với nhau để nhìn lại một năm đầy thử thách đã qua, những gì mình đã học hỏi được và những gì mình mong ước thực hiện trong năm tới. Ai trong chúng ta cũng mong ước được bình an, nhưng liệu chúng ta có thể nuôi dưỡng được sự bình an giữa những đổi thay và bất trắc? Làm thế nào để chúng ta có thể thực sự cảm thấy thoải mái và hòa hợp trong liên hệ với những người mình thương yêu? Với sự hướng dẫn của quý sư cô xóm Hạ, các bạn thiền sinh được học cách trở về để kết nối với chính mình, nuôi dưỡng sự bình an trong nội tâm, cũng như cách kết nối với những người xung quanh và với thiên nhiên.

Bước vào năm mới Nhâm Dần, với lòng tri ân sâu sắc, tứ chúng Làng Mai xin nguyện tiếp nối công hạnh của chư Bụt, chư Tổ, của Sư Ông để mang ngọn đèn chánh pháp đi về tương lai và để đáp lại ân nghĩa của tất cả quý vị đã luôn hiến tặng cho chúng con.

Chúng con nguyện cầu chư Bụt và chư liệt vị Tổ sư luôn hộ trì cho quý vị thân hữu và toàn thể gia quyến một năm mới Nhâm Dần 2022 được nhiều sức khỏe và an vui.

Ngày xuân trên hòa dưới thuận Bốn mùa trong ấm ngoài êm.

Chúng con xin thành kính tri ân.

Hành trình đến với Làng Mai qua những cuốn sách

(Hisae Matsuda & Terry Barber)

Năm 1986, sau bốn năm thành lập Làng Mai, Thầy cùng một số học trò ở Bắc Mỹ đã cho xuất bản tác phẩm Being Peace (Muốn an được an) tại Berkeley, bang California. Từ đó, Thầy trở thành người đồng sáng lập Parallax Press – nhà xuất bản của Làng Mai tại Hoa Kỳ. Parallax Press ra đời với sứ mệnh “góp phần đem lại sự tỉnh thức và tuệ giác tập thể, làm cho xã hội thêm tươi vui, lành mạnh và giàu tình thương” đồng thời đưa những pháp môn thực tập của Làng Mai đến với độc giả trên toàn cầu. Giám đốc xuất bản Hisae Matsuda và Terry Barber – tổng biên tập, một giáo thọ cư sĩ của Làng và cũng là thành viên có thâm niên nhất của Parallax – đã trò chuyện với nhau về hành trình đến với Làng Mai và về sự giàu có mà công việc biên tập, xuất bản sách của Thầy đã đem lại cho cuộc sống tinh thần của họ.

Hisae: Chị đến Làng Mai lần đầu tiên như thế nào?
Terry: Chị đã đọc sách về đạo Bụt trong nhiều năm liền. Chị rất muốn được sống trong tu viện hoặc trong một trung tâm tu học nào đó. Do vậy, sau khi kết thúc công việc và chương trình học tập vào năm 1991, chị ở trong tâm thế sẵn sàng thay đổi. Chị nhận thấy nếu muốn đi tới trong cuộc sống của mình, chị cần một cộng đồng tu học và một chương trình tu học hàng ngày. Một người bạn đã tặng chị quyển Being Peace (Muốn an được an) và nói rằng “mình đoán là cậu sẽ thích quyển này đấy”, thế là chị được biết đến Thầy. Chị nghĩ bụng “nếu được đến trung tâm của Thầy thì mình sẽ đi ngay”. Không lâu sau, chị có cơ hội nghe bài giảng của Thầy trong buổi pháp thoại công cộng ở Los Angeles và tham dự ngày quán niệm cho các nhà hoạt động vì môi trường tại Malibu. Cách Thầy chia sẻ về các vấn đề bất công xã hội đã thật sự chạm vào trái tim chị. Tại thời điểm đó, sự việc Rodney King bị cảnh sát bạo hành vẫn còn đang sôi sục trên các trang tin tức. Chị đến Làng vào tháng 4 năm 1992 và muốn sống luôn ở đó.

Còn Hisae thì sao, em gặp Thầy vào dịp nào, đến Làng như thế nào?
Hisae: Em biết đến Thầy vào những năm 90, nhờ vào sách của Thầy. Quyển đầu tiên em đọc cũng là Being Peace (Muốn an được an), tiếp theo là quyển The Miracle of Mindfulness (Phép lạ của sự tỉnh thức). Những quyển sách này đã thắp lên trong lòng em một ngọn lửa. Em biết ơn các biên tập viên đã làm những quyển sách tiếng Anh đầu tiên của Thầy. Hồi đó em sống ở Anh, và Judith Kendra của nhà xuất bản Rider Books là người có công đưa sách của Thầy đến nước Anh. Nhưng phải 25 năm sau, từ lúc đọc quyển Being Peace, em mới đặt chân đến Làng Mai.

 

 

Năm 1993, em sống ở Luân Đôn cùng ông xã và hai đứa con nhỏ, một bé ba tuổi, một bé hai tuổi. Lúc đó, em muốn tìm đến một trung tâm tu học để tìm chút bình an cho cuộc sống. Nhưng hồi ấy không có khóa tu Phật giáo nào cho phép thiếu nhi tham dự. Hầu hết các sinh hoạt ở đó đều không phù hợp cho trẻ em. Đến một ngày, em nghe nói Thầy sẽ hướng dẫn khóa tu ở ngoại ô Luân Đôn. Thật bất ngờ, trẻ em không những được phép tham dự mà còn được chào đón thực sự. Em liền đăng ký cho ba mẹ con. Đó là lần đầu tiên em và hai cháu trải nghiệm cảm giác được thiền hành bên cạnh một thiền sư. Sư cô Chân Đức làm chủ tọa nhóm pháp đàm của em. Em còn nhớ như in những gì sư cô đã chia sẻ. Chính Thầy và sư cô Chân Đức đã gây ấn tượng rất sâu đậm trong lòng em, nhưng dường như lúc ấy em cảm thấy mình chưa chạm tới được nếp sống thanh tịnh của các vị. Con đường em đi khúc khuỷu quanh co, lắm những ngã rẽ bất ngờ. Mãi đến năm 2018, sau khi tham gia vào nhà xuất bản Parallax, em mới đặt chân đến Làng. Vẻ đẹp của tu viện hệt như những gì em tưởng tượng, thậm chí còn đẹp hơn.

Ấn tượng đầu tiên và trải nghiệm đầu tiên của chị khi ở Làng như thế nào?
Terry: Chị yêu năng lượng bình an và vẻ đẹp của mảnh đất ấy, cũng như những thanh âm của đời sống tu viện. Hồi đó, tăng thân thường trú chỉ có mười hai đến mười lăm xuất sĩ và năm, sáu thiền sinh cư sĩ. Vào những bữa ăn ở xóm Hạ, tất cả mọi người ngồi vừa vặn một cái bàn vuông lớn. Thỉnh thoảng Thầy ở lại dùng bữa với mọi người. Sự có mặt của Thầy mang lại bầu không khí thật nhẹ nhàng, ấm áp như một gia đình. Ngày đầu tiên tới Làng, chị được biết chỉ có thể ở lại Làng một tuần thôi vì sắp có khóa tu 21 ngày. Nhưng cuối cùng thì chị cũng được ở lại lâu hơn, có lẽ là do chị rất nhiệt tình trong đội rửa nồi nên được mời ở lại để giúp quý sư cô chuẩn bị phòng cho thiền sinh và làm tình nguyện viên trong khóa tu đó. Được nghe những bài pháp thoại của Thầy trong khóa tu, trái tim chị hoàn toàn mở ra, cứ như thể chị đã chờ đợi cả cuộc đời mình để được nghe những lời dạy ấy.

Sau khóa 21 ngày, chị lại tiếp tục làm tình nguyện viên trong khóa tu mùa Hè. May mắn là chị được ở cùng tăng thân người Việt tại xóm Hạ (thiền sinh ngoại quốc khi ấy ở xóm Thượng). Chị sinh hoạt, ăn uống và giao lưu với người Việt rất thoải mái. Chỉ cần ngồi lại với nhau là thấy vui rồi. Sau bữa ăn tối, mọi người sẽ cùng hát vài bài, nhiều bài trong số đó là do Thầy sáng tác. Những bài hát tiếng Việt rất hay, đã thấm sâu vào tâm hồn chị nhưng chị cũng không biết dùng từ ngữ như thế nào để diễn tả.

Khóa tu mùa Hè vừa kết thúc là đến mùa hái mận. Nhóm tụi chị gồm bốn, năm thiền sinh ở lại sau khóa tu. Một nông dân trong vùng đến hướng dẫn mọi người thu hái mận. Bác nông dân này chuyên trồng nho, không giỏi chăm sóc mận nhưng bác rất tốt bụng. Làm việc mệt mà vui. Rung cây cho mận chín rơi xuống đất, rồi nhặt mận cho vào sọt, mang vào nhà bếp cho quý sư cô làm mứt. Thỉnh thoảng mình ăn vài trái mận chín cây và được thưởng thức ánh mặt trời ấm áp căng tràn trong trái mận ngọt lịm.

Muốn làm thiền sinh dài hạn cho khóa tu mùa Đông, chị phải viết thư xin phép Thầy và tăng thân. May mắn sao, chị được chấp thuận và cứ thế chị sống ở Làng hẳn sáu năm. Rồi kế đến là sống ba năm ở tu viện Thanh Sơn tại Vermont.

Chị luôn cảm động khi thấy Thầy dành hết tâm huyết của mình để tạo dựng một môi trường nơi mọi người được sống trong bình an; tiếp xúc với thiên nhiên và tu học cùng tăng thân để được trị liệu, có cơ hội nhìn sâu, học cách chuyển hóa khổ đau, và tiếp xúc với những hạt giống an lành, hạnh phúc.

Cơ duyên nào đã đưa chị đến với Parallax?
Terry: Trong thời gian sống tại Làng và tu viện Thanh Sơn, thỉnh thoảng chị về thăm gia đình ở California. Chị có ghé qua văn phòng của nhà xuất bản Parallax vài lần để tiếp tục làm phần phiên tả pháp thoại của Thầy. Mùa xuân năm 2001, cha của chị ốm nặng nên chị về nhà để chăm sóc cha. Cha mất cuối năm đó. Chị cũng phải tìm việc làm. Lúc đó, làm việc cho Parallax có vẻ là lựa chọn hợp lý nhất. Vài tháng sau, chị vào làm việc ở Parallax, bắt đầu bằng công việc đóng gói và chuyển sách theo đơn đặt hàng.

Còn em thì sao, Hisae, điều gì đã đưa em đến Parallax?
Hisae: Năm 2016, em cũng đang làm việc cho một nhà xuất bản ở Berkeley, gần Parallax. Khi có cơ hội tham dự vào đội ngũ biên tập viên của Parallax, em đã không thể từ chối. Dù cho việc rời bỏ vị trí cũ để làm việc cho Parallax là một bước nhảy của niềm tin và ý thức là mình sẽ phải đối mặt với nhiều thử thách, em vẫn không thể cưỡng lại cơ hội mà Parallax mang lại cho em. Đó là cơ hội để được sống và làm việc đúng với giá trị sống và đường hướng tâm linh của mình.

Một tháng sau khi em bắt đầu công việc mới, con trai em, Leo, đã tự tử, sau ngày bầu cử của Mỹ năm 2016. Trái tim em tan nát. Em phải sống chật vật một thời gian, không thể làm gì được nữa. Trong khoảng dừng ấy, em đã đăng ký tham dự khóa tu tại Làng Mai. Cuối cùng thì em cũng đã đặt chân đến Làng. Chính nơi này giúp em trị liệu và bắt đầu tìm lại niềm vui sống.

Em biết ơn chị nhiều lắm chị Terry ạ. Chị và các anh chị em ở Parallax đã giữ gìn một nơi như vậy để em được quay về. Không phải ở đâu cũng cho mình cảm giác tăng thân, không phải chỗ làm nào cũng đem lại cho mình cảm giác được chấp nhận và nâng đỡ nhiều đến vậy.

Chị Terry thấy Parallax đã thay đổi ra sao qua từng ấy năm tháng? Chị có nguyện vọng gì cho tương lai của Parallax?
Terry: Chị thấy ấm lòng vì Làng Mai và Parallax đã trưởng thành hơn theo năm tháng. Hơn nữa, thế hệ giáo thọ mới của Làng đã cùng hòa vào sự nghiệp làm sách, thậm chí trở thành tác giả. Parallax đã thay đổi đáng kể nhờ vào sự có mặt của em. Parallax rất cần một người phụ trách xuất bản như em, vừa giỏi chuyên môn vừa thấu hiểu được những lời dạy của Thầy và của tăng thân Làng Mai. Ngay từ khi tham gia, em đã giúp thắt chặt sự gắn kết giữa Làng Mai và ban làm sách của Parallax. Nhà xuất bản của chúng ta càng ngày càng hoạt động chuyên nghiệp và minh bạch hơn. Các thành viên hạnh phúc hơn, biết quan tâm nhau và có tinh thần hỗ trợ lẫn nhau trong công việc. Em có khả năng cảm nhận sâu sắc, hiểu được sách nào nên xuất bản, sách nào không. Em đã tìm ra và biên tập nhiều quyển sách hay. Em đã giữ vững được công việc xuất bản định kì những quyển sách có tính học thuật của Thầy. Chị rất mong nhà xuất bản chúng ta tiếp tục đường hướng này, bảo tồn được gia tài quý báu của Thầy, hợp tác với Làng Mai và phụng sự tăng thân khắp chốn bằng những quyển sách có giá trị.

 

 

Chị đã tìm thấy ở Làng Mai một truyền thống mà chị có thể gắn bó lâu dài. Nhiều người đã biết đến Thầy nhờ đọc sách và chị đã tìm thấy ở Parallax một vị trí mà trong đó chị có thể đóng góp một phần bé nhỏ của mình để lan tỏa tuệ giác của Thầy và tăng thân Làng Mai đến với nhiều người, nhiều cộng đồng trên khắp thế giới, giúp cho mọi người tìm được hướng đi trong bối cảnh đầy biến động hiện nay.

Còn em, Hisae, em có nguyện vọng gì cho Parallax?
Hisae: Khi trở thành người phụ trách xuất bản của Parallax, em mong ước là trong chương trình xuất bản sách, mình luôn thấy rõ vai trò đặc biệt của Parallax trong việc phổ biến những giáo lý của Thầy và tăng thân Làng Mai. Những giáo lý ấy rất cần thiết cho thế giới hiện nay và hiện đang được các học trò của Thầy tiếp tục lan tỏa trên nhiều phương diện. Đọc một cuốn sách là một trải nghiệm cá nhân, nó có thể tạo ảnh hưởng sâu sắc lên chúng ta trong vài ngày hoặc thậm chí thay đổi cuộc đời chúng ta. Những quyển sách do các vị xuất sĩ cũng như cư sĩ viết ra, có thể giúp ta đối diện, ôm ấp và chuyển hóa những khổ đau của thời đại chúng ta, từ những sang chấn tâm lý của mỗi cá nhân, gia đình đến tình trạng cô lập xã hội, đến chiến tranh hay sự tàn phá môi trường. Đây cũng là lúc chúng ta cần cho mọi người thấy cách tiếp cận của Thầy về hòa bình – sự thực tập bao dung, không kỳ thị – đang thay đổi thế giới ngày hôm nay theo nhiều cấp độ lớn nhỏ khác nhau.

Em muốn tiếp tục tiến trình chúng ta đang làm và xây dựng một xương sống vững chắc (nhưng uyển chuyển) mà một nhà xuất bản nhỏ như chúng ta cần có để có thể tiếp tục thành công. Khi mình có niềm tin thì dù công việc khó khăn đến chừng nào chúng ta vẫn có thể vượt qua. Không có niềm tin thì điều đơn giản nhất cũng trở thành chướng ngại. Để xây dựng được niềm tin, chúng ta cần phải thực tập.

Em mong Parallax trở thành một công ty xuất bản đúng như những gì Thầy đã trao truyền trong một buổi gặp mặt với các thành viên từ hồi trước khi em gia nhập Parallax. Đó là làm việc trong tinh thần hòa hợp như những chú ong và đưa sự thực tập chánh niệm đích thực đến với độc giả khắp nơi thông qua những cuốn sách. Ban làm sách của Làng Mai đã hỗ trợ và đóng góp cho Parallax rất nhiều tuệ giác. Em rất vui khi sư cô Chân Đức cùng nhiều quý thầy, quý sư cô trong ban làm sách đã nỗ lực giúp Palm Leaves Press (một nhánh của NXB Parallax) xuất bản những tác phẩm chưa được phát hành của Thầy. Quả thật, độc giả luôn thích những quyển sách mới và có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn về sự thực tập chánh niệm.

Hiện nay có nhiều người tu học theo Làng Mai nhưng chưa hề được gặp Thầy. Họ thẩm thấu giáo lý thông qua những phương tiện truyền thông khác nhau của Làng Mai. Các vị giáo thọ xuất sĩ và cư sĩ cũng đang tiếp tục trao truyền nguồn tuệ giác với tất cả tình thương, lòng can đảm của mình. Em thấy rất vui khi chị em mình được là một phần của tăng thân và được ăn mừng kỉ niệm 40 năm thành lập Làng Mai trong năm 2022 này.

Con đường tình thương

(Thầy Chân Trời Đạo Bi)

Thầy Chân Trời Đạo Bi, người Indonesia, thọ giới lớn với Sư Ông Làng Mai trong Đại giới đàn “Bây giờ – Ở đây” tháng 2 năm 2019 và hiện đang tu tập tại xóm Thượng, Làng Mai. Bài viết được BBT chuyển ngữ từ tiếng Anh.

Khi còn trẻ, tôi không biết mình thật sự muốn làm gì cho cuộc đời mình. Tôi không có một hướng đi. Năm 2010, khi biết Thầy sẽ đến Indonesia mở khóa tu, tôi không hề do dự, lập tức ghi danh tham dự. Sau vài ngày tu học, tôi nhận ra rằng tôi muốn bước đi trên con đường của một người xuất sĩ. Lúc đầu ba mẹ tôi không tán thành, nhưng thấy đời sống của tôi có nhiều thay đổi tích cực nên ba mẹ cũng dần nhận ra con đường này sẽ mang lại hạnh phúc cho con trai mình. Ba mẹ khuyên tôi nên hoàn tất việc học dang dở ở trường rồi hãy tính tiếp. Cũng hay, tôi có thời gian nhìn lại rõ hơn tâm nguyện của mình và hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa của con đường xuất gia.

Chúng tôi thành lập nhóm Wake Up Indonesia sau khóa tu 2010. Nhờ chương trình này mà rất nhiều bạn trẻ tìm lại được chính mình. Năm 2013, tôi cùng vài người bạn đến Thái Lan tham dự khóa tu Wake Up do chính Thầy hướng dẫn. Trong buổi sinh hoạt cuối cùng, tôi thấy trên màn hình máy chiếu có dòng thư pháp “Đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ” lướt qua. Tôi như nghe được lời Thầy đang khích lệ, vỗ về: không phải thấy Thầy trong hình hài này đâu, quan trọng là con phải thấy được con đường. Có lẽ tôi đã sợ một ngày nào đó Thầy sẽ không còn bên tôi nữa. Thông điệp trong bức thư pháp đã làm tôi rúng động và hai dòng nước mắt cứ thế lăn dài trên má.

Con đường của tình thương

Thầy đặt cho tôi pháp tự Chân Trời Đạo Bi. Bi trong chữ từ bi, nghĩa là tình thương sâu. Pháp tự này nhắc cho tôi nhớ thực tập để giúp mình thấy được con đường của tình thương sâu. Trong tác phẩm Đường xưa mây trắng có một chương như thế. Tôi đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần và nó trở thành chương yêu thích nhất của tôi. Chuyện kể về Siddharta và Yasodhara khi còn làm công tác xã hội. Yasodhara đã tận tình chăm sóc cho em bé bị ốm hơn một tuần mà đứa trẻ vẫn không qua khỏi, nàng đau xót vô hạn. Những lời an ủi của Siddharta cũng không thể nào xoa dịu được nỗi buồn trong lòng nàng. Cả hai người dù có giúp được dân chúng phần nào về vật chất, nhưng nỗi khổ niềm đau trong trái tim họ không vì thế mà nguôi ngoai. Không có ai chỉ cho họ cách vượt qua những cảm xúc đang giằng xé trong lòng. Siddharta chưa tìm ra con đường thoát khổ. Chỉ đến khi trở thành một bậc giác ngộ thì chàng mới giúp được người khác thoát khỏi những khổ đau trong tâm hồn.

 

 

Trước khi xuất gia, tôi cũng là một tác viên xã hội, cũng chất chứa trong lòng khá nhiều thương tích. Những thương tích ấy đang trên đường được trị liệu. Thầy đã dạy khổ đau là chất liệu làm nên hạnh phúc. Nhờ đó, tôi đã thấy được chính những tổn thương trong quá khứ đang nuôi dưỡng hiểu biết và thương yêu trong tôi ngày một lớn hơn. Chỉ cần ý thức mình đang bước đi trên con đường ấy, ngay lập tức tôi cảm thấy mình thật may mắn. Khi tình thương có mặt thì hạnh phúc có mặt và mình sẽ không còn sợ hãi nữa. Câu thần chú của tôi là: “Thở vào, đã có đường đi rồi. Thở ra, con không còn lo sợ”.

Nhìn Thầy bằng con mắt vô tướng

Tôi cứ tiếc sao mình không đến Làng sớm hơn, sao mình không xuất gia lúc Thầy còn khỏe để được nghe những lời khuyên nhủ, sách tấn trực tiếp từ Thầy. Khi tôi đến Làng, Thầy không còn dùng lời nói mà chỉ dùng thân giáo. Trên chiếc xe lăn, Thầy vẫn tham dự thiền hành cùng tăng thân. Thầy chỉ tay lên trời, chỉ vào một thân cây, một nụ hoa ven đường – những nhiệm mầu của sự sống quanh đây. Thầy nâng một chiếc lá với cử chỉ tinh nghịch, khiến cho mọi người cười vang. Thầy xoa mái đầu của một đệ tử rồi ôm đệ tử vào lòng. Chúng tôi đứng nhìn hình ảnh ấy mà cảm thấy như Thầy đang xoa mái đầu mình, thấy ấm áp trong vòng tay Thầy. Thầy không còn dùng ngôn từ thế gian nữa, nhưng chỉ cần Thầy có mặt ở đó là đủ để chúng tôi hạnh phúc. Thỉnh thoảng, trong giấc mơ, tôi còn được thưa chuyện với Thầy. Được làm đệ tử của Thầy, được sinh ra trong đại gia đình tâm linh Làng Mai là một diễm phúc quá lớn.

Trong một buổi thiền hành tại xóm Hạ, Thầy ngồi bên kia hồ sen còn tôi ở phía bên này. Cành cây che mất Thầy, tôi bước qua bên trái rồi nhích sang bên phải cũng không nhìn rõ được Thầy. Ủa, Thầy đâu rồi? A, hóa ra tôi vẫn kẹt vào hình tướng mà chưa thấy Thầy ngoài hình hài này.

Thầy đã viết rất nhiều thư cho đệ tử. Trong một lá thư Thầy có nói: “Thầy trò chúng ta ngày nào mà không có Bụt cùng ngồi, cùng ăn cơm và cùng đi thiền hành? Bụt của chúng ta không phải là một hình ảnh xa xôi mà là một thực tại linh động. Có con mắt vô tướng là thấy được”. Tôi cũng thấy điều tương tự. Mỗi khi tôi quay về với hơi thở, thì Thầy vẫn đang có mặt ở Làng, vẫn thiền hành, ngồi thiền, ăn cơm cùng đại chúng. Khi tôi không có mặt thì Thầy sẽ ở một nơi thật xa.

“Mình thấy được con đường chưa?” là một công án vẫn theo tôi trên suốt chặng đường. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi bản thân nhưng cũng không chắc câu trả lời. Tôi biết mình còn lắm niềm đau, buồn phiền và sợ hãi. Tuy vậy, mỗi khi tiếng chuông vang lên, tôi thầm niệm “nghe chuông phiền não tan mây khói”, tôi biết nỗi sợ cùng niềm đau trong tôi đang dần được chuyển hóa.

Ban chăm sóc nhóm Wake Up châu Âu

Năm 2018, khóa tu Đại sứ Wake Up (Wake Up Ambassadors retreat) đầu tiên được tổ chức tại Làng Mai. Trong khóa này, để được vui chơi, gắn kết và học hỏi lẫn nhau, chúng tôi đã thành lập nhóm nòng cốt cho Wake Up châu Âu với tên gọi mới là ‘Oomph” (viết tắt của Organism for Optimising Many People’s Happiness, nghĩa là một cơ thể có nhiệm vụ làm cho nhiều người hạnh phúc).

Oomph không phải là một tổ chức mà là một cơ thể. Khi các thành viên nòng cốt của tăng thân Wake Up (Wake Up Ambassadors – các vị đại sứ của tăng thân Wake Up) có một nơi để trở về nương tựa, các bạn sẽ có cơ hội nuôi dưỡng hạnh phúc trong tự thân. Và khi có đủ hạnh phúc, các bạn mới có thể giúp các thành viên khác trong tăng thân cũng như giúp cho mọi người được hạnh phúc.

 

 

Hiện tại Oomph có các thành viên: Annica Bauer, Verena Böttcher, Toos Vergote, Arlind Reuter, Fransisco Vogel, Jan-Jitze Hees, quý sư cô Tảo Nghiêm, Xương Nghiêm, Trăng Lộc Uyển, thầy Trời Đức Niệm và tôi. Hằng tháng, các thành viên gặp nhau một lần qua Zoom. Đến cuối năm 2019 chúng tôi thành lập nhóm điều phối quốc tế của Wake Up (Wake Up International Co-ordinators). Mỗi nhóm Wake Up trên thế giới sẽ cử một liên lạc viên, trong đó có bạn Jazz đại diện nhóm châu Úc, bạn Lewis đại diện nhóm Bắc Mỹ và bạn Annica đại diện nhóm châu Âu.

Ba tháng một lần, vào tối thứ Năm hoặc Chủ nhật, chúng tôi gặp trực tuyến với đại diện của các nhóm Wake Up tại châu Âu. Các anh chị em xuất sĩ tại Làng Mai sử dụng tối làm biếng của mình để sinh hoạt với các bạn. Có khi tôi hơi mệt sau một ngày quán niệm nhưng khi tham gia cùng mọi người tôi lại cảm thấy như mình đang trở về nhà, gặp người thân trong phòng khách rồi thăm hỏi lẫn nhau “Chị khỏe không? Em vui không? Công việc ổn định không?” Các bạn chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống và ngược lại, quý thầy, quý sư cô cũng cởi mở sẻ chia những trở ngại mà xuất sĩ gặp phải trong môi trường tu viện. Có khi chúng tôi còn ngẫu hứng cùng hát múa, nghe đàn hoặc bày ra vài trò chơi nho nhỏ để thay đổi không khí. Cứ như vậy, tình anh chị em giữa chúng tôi ngày thêm gắn bó, bền chặt.

Nhóm Wake Up Trì Địa (Wake Up Earth Holder)

Tháng 5 năm 2020, Làng Mai tổ chức khóa tu Wake Up trực tuyến. Đề tài bảo vệ môi trường trở thành mối quan tâm chính của 250 bạn trẻ tham dự khóa tu. Ý thức được nhu yếu đó, quý thầy, quý sư cô đã thành lập tăng thân Trì Địa cho các bạn sống tại châu Âu. Khởi đầu, nhóm nòng cốt có sự góp mặt của thầy Trời Đức Niệm, quý sư cô Tảo Nghiêm, Trăng Lộc Uyển, Trăng Giác Hòa, Trăng Khương Định cùng các bạn Simona Coayla-Duba, Aoise, Gijs, Alex và tôi. Các thành viên gặp nhau trực tuyến mỗi tháng một lần. Dần dà còn có thêm các bạn trẻ trong các nhóm Wake Up châu Âu, châu Mỹ, châu Á cùng tham gia. Mỗi lần gặp mặt là mỗi lần niềm vui và nước mắt được sẻ chia, cũng từ đó mà chúng tôi tìm ra cách nâng đỡ nhau trong khả năng có thể. Cứ thế, tình thương dành cho đất Mẹ trở nên sâu đậm hơn trong trái tim mỗi người.

Xây dựng Wake Up là xây dựng tình huynh đệ

Những anh chị em xuất sĩ phụ trách nhóm Wake Up vẫn thường nhắc nhở nhau rằng dù chúng tôi có làm gì cho Wake Up hay phụ trách công việc nào trong tăng thân thì việc đó cũng chỉ nhằm xây dựng tình huynh đệ. Sư cô Trăng Lộc Uyển có lần chia sẻ: nếu các thành viên trong nhóm thương mến nhau như anh chị em một nhà, có khả năng làm việc hài hòa với nhau thì việc gì mình cũng làm được. Các bạn trẻ sẽ có cảm hứng và niềm tin để thực tập theo mình.

Tôi chưa tới 35 tuổi nên vẫn còn được sinh hoạt với nhóm Wake Up. Tuy vậy có những xuất sĩ hoặc thiền sinh đã trên 35 rồi mà vẫn thích tu học cùng nhóm Wake Up. Trái tim họ không già, tâm hồn họ tươi trẻ. Tôi đã được học hỏi từ những con người tràn đầy nhiệt huyết ấy. Sư em Trời Thiện Ý có tặng tôi câu thư pháp tiếng Anh “The path of compassion is endless, but together it’s a lot of fun!” (Con đường của tình thương dài vô tận, nhưng cùng đi với nhau ta sẽ có nhiều niềm vui). Tôi thích lắm!

Trong bài kệ chúc tán, tôi vô cùng tâm đắc câu:

Hiện tiền đại chúng
Tu tập tinh chuyên
Biết thương yêu nhau như ruột thịt…

Mỗi lần đọc tụng đến câu này thì lòng tôi lại xúc động. Bởi đó cũng chính là tâm nguyện của tôi khi bước trên con đường này – tu học thật hạnh phúc cùng với người trẻ, hết lòng thương yêu và nâng đỡ mọi người xung quanh. Tôi muốn các bạn trẻ thấy rằng sự thực tập có thể rất vui, chứ không cần phải quá nghiêm túc như các bạn vẫn nghĩ. Tu học khá là vui!

Bụt và Thầy đã chỉ cho ta một con đường

Thầy và tăng thân đã làm mới đạo Bụt, làm cho đạo Bụt gần gũi hơn với người trẻ. Phong trào Wake Up là một phần của cuộc cách mạng ấy. Wake Up đã trở thành nơi nương tựa tinh thần, là sân chơi tâm linh, thu hút rất nhiều người trẻ khắp nơi trên thế giới. Wake Up là viên ngọc của truyền thống Làng Mai. Những buổi pháp đàm với các bạn trẻ trong nhóm Wake Up là những giây phút hết sức quý báu. Tôi được lắng nghe những kinh nghiệm của mọi người, học cách các bạn áp dụng sự thực tập vào đời sống hàng ngày, được chia sẻ sự tu tập của mình. Và đó cũng là cơ hội cho những cái thấy mới nảy mầm.

 

 

Trong tác phẩm Đường xưa mây trắng, có đoạn nói về tôn giả Ananda. Tôn giả vẫn chưa giác ngộ mà Bụt thì không còn trụ thế được bao lâu nữa. Thấy Anada sụt sùi, Bụt ân cần căn dặn: “Ananda, đừng buồn khổ nữa, Như Lai đã từng nhắc thầy là vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt, có thành thì có hoại, có hợp thì có tan. Làm sao có sinh mà không có diệt cho được? Làm sao có thành mà không có hoại cho được? Làm sao có hợp mà không có tan cho được? Ananda, mấy mươi năm nay thầy đã thân cận Như Lai, săn sóc Như Lai với tất cả tấm lòng thương mến của thầy. Thầy đã đem hết lòng hết sức để giúp đỡ Như Lai, Như Lai rất cám ơn thầy, công đức của thầy rất lớn nhưng Ananda, thầy có thể đi xa hơn, nếu thầy cố gắng thêm chút nữa thì thầy sẽ thoát được sinh tử, đạt tới tự do, vượt thoát mọi sầu khổ, bi ai”.

Đọc những dòng này, tôi càng vững tâm, rằng chúng ta vẫn có thể đạt được giải thoát dù không được các bậc đạo sư giác ngộ trực tiếp dìu dắt. Tôn giả Ananda đạt ngộ sau khi Bụt nhập Niết Bàn thì có lẽ chúng ta cũng có thể vượt thoát sinh tử dù Thầy không còn ở đây trong hình hài này nữa. Thầy đã chỉ cho chúng ta con đường hiểu và thương, đã khai mở tâm trí cho biết bao nhiêu người trên khắp năm châu. Tôi đã nguyện với lòng sẽ tiếp tục bước đi trên con đường này và giúp cho người khác nếm được an vui. Tôi biết hạnh phúc lớn nhất của Thầy là thấy đệ tử của mình thực hiện được mong mỏi ấy. Thầy đã đặt niềm tin vào tất cả chúng ta.