Chương 1: Hơi thở ý thức

Bình an trong từng hơi thở.

Thích Nhất Hạnh

Nội dung

  • Khám phá ích lợi của hơi thở ý thức, đưa chúng ta về với giây phút hiện tại, giúp ta xử lý cảm xúc, trở nên bình tĩnh hơn, tập trung hơn và có khả năng tiếp xúc với những gì đang xảy ra trong thân tâm mình.
  • Học những hướng dẫn thực tế, cụ thể từng bước một về phương pháp thực tập căn bản khi tiếp xúc với hơi thở và một số cách thức thực tập khác.
  • Nghe một số ý kiến và đề nghị của các thầy cô giáo đang thực tập về cách nuôi dưỡng hơi thở chánh niệm trong đời sống hằng ngày và trong việc dạy học.

Hơi thở chánh niệm (hay còn gọi là hơi thở ý thức) giúp ta đưa tâm trở về với thân để có thể thiết lập thân tâm trong giây phút hiện tại, bây giờ ở đây, để có mặt trọn vẹn và sống sâu sắc mỗi giây phút của đời sống hằng ngày.

Thầy cô giáo cần nắm vững phương pháp thực tập hơi thở chánh niệm trước khi trao truyền cho học sinh. Thực tập hơi thở chánh niệm rất vui và lý thú. Có khả năng thở những hơi thở chánh niệm mang lại cho ta niềm vui, giúp ta xử lý những cảm thọ khó chịu và những cảm xúc mạnh. Nếu thầy cô giáo có khả năng thở chánh niệm thì sẽ giúp học sinh thực tập theo một cách rất tự nhiên.

Ngay cả những em học sinh nhỏ tuổi cũng có thể là nạn nhân của những cảm thọ khó chịu và cảm xúc mạnh. Nếu không biết xử lý những tâm hành ấy thì các em sẽ rất khổ đau. Là giáo viên, thực tập theo dõi hơi thở và chế tác năng lượng chánh niệm sẽ có khả năng giúp cho học sinh bớt khổ. Điều này rất hay. Nếu hiểu được khổ đau của các em và lắng nghe khổ đau của các em, ta có thể nói với các em rằng: “Thầy (cô) cũng khổ đau nhưng nhờ thầy (cô) đã thực tập nên bây giờ thầy (cô) bớt khổ rồi. Em có muốn học cách này không?” Các em có thể lắng nghe mình. Truyền thông giữa giáo viên và học sinh như thế sẽ biến lớp học thành một tăng thân (một cộng đồng). Khi học sinh hạnh phúc, thư giãn thì công việc giảng dạy và học tập trở nên dễ dàng hơn nhiều.

Đừng đợi đến khi có cảm xúc mạnh mới bắt đầu thực tập. Chúng ta nên bắt đầu thực tập hơi thở chánh niệm ngay. Trong vài tuần ta sẽ quen với sự thực tập này.

Chánh niệm về hơi thở rất thực tế, ai cũng có thể làm được. Thực tập hơi thở chánh niệm không khó nhưng mang lại nhiều sự tĩnh lặng và hạnh phúc ngay lập tức. Bài tập này bắt đầu rất đơn giản: “Thở vào, tôi biết tôi đang thở vào. Thở ra, tôi biết tôi đang thở ra.” Ta nhận diện hơi thở vào là hơi thở vào, hơi thở ra là hơi thở ra. Khi thở vào, ta biết đây là hơi thở vào. Ta ý thức là hơi thở vào đang xảy ra. Khi thở ra, ta biết là hơi thở ra đang xảy ra. Khi ta dùng tâm mình để nhận diện hơi thở vào và hơi thở ra thì ta dừng lại hết những suy nghĩ. “Thở vào, tôi biết đây là hơi thở vào”, đó không phải là suy nghĩ mà là nhận diện những gì đang xảy ra: cái đang xảy ra là hơi thở vào và hơi thở ra. Và ta có thể thưởng thức hơi thở của mình.

Khi thở vào, chúng ta đặt hoàn toàn sự chú ý của mình vào hơi thở. Hơi thở trở thành đối tượng duy nhất của tâm. Nếu thực sự tập trung và có chánh niệm về hơi thở thì ta buông bỏ được những thứ khác như quá khứ, dự án, sợ hãi, giận hờn. Tâm ta lúc đó chỉ có một đối tượng duy nhất là hơi thở. Ta có những tiếc nuối, buồn khổ liên quan đến quá khứ. Ta có những sợ hãi, do dự khi nhìn về tương lai. Chỉ trong vòng một hoặc hai giây thực tập là ta buông bỏ được tất cả những thứ ấy, bởi vì tâm ta chỉ đang tập trung vào hơi thở. Thở vào, chánh niệm làm cho ta có tự do. Có đủ tự do trong tâm rồi, nếu cần quyết định nói hay làm một điều gì, ta sẽ làm hay hơn. Ta không bị ảnh hưởng và chi phối bởi sự giận dữ hoặc sợ hãi.

Sự thực tập này mang lại kết quả rất lớn. Khi chú tâm vào hơi thở vào và trở về với thân thể, ta có thể có cái thấy (tuệ giác):

“A, tôi có một thân thể! Tôi ý thức là tôi có một thân thể”. Khi thân tâm hợp nhất thì ta thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, sẵn sàng sống đời sống của mình một cách trọn vẹn. Nếu biết cách tiếp xúc và kết nối với thân thể, ta sẽ biết cách tiếp xúc và kết nối với đất Mẹ cùng toàn thể vũ trụ.

Xin đừng xem thường bài tập đơn giản và dễ làm này. Cho dù mình đã thực tập hơi thở chánh niệm mười năm, hai mươi năm rồi thì đó vẫn là một bài tập có sức mạnh rất lớn. Ta sẽ tiếp tục thừa hưởng lợi lạc ngày càng nhiều hơn trong quá trình thực tập.

Tiếp đến, ta theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra xuyên suốt chiều dài hơi thở. “Thở vào, tôi theo dõi hơi thở vào của tôi từ đầu cho đến cuối. Thở ra, tôi theo dõi hơi thở ra của tôi từ đầu cho đến cuối”. Trong suốt thời gian thở vào thở ra, chánh niệm của ta không bị gián đoạn. Chú tâm hoàn toàn vào hơi thở, ta nuôi dưỡng được định lực, không một khoảnh khắc nào bị gián đoạn. Ta hoàn toàn có mặt với hơi thở và an trú vững chãi trong hơi thở của mình. Vững chãi và an ổn nghĩa là không bị kẹt vào quá khứ hoặc tương lai. Ta có khả năng có mặt trong cái bây giờ, ở đây.

Trong suốt thời gian thở vào, nhiều cái thấy có thể đi lên trong ta như: “Thở vào, tôi đang còn sống!” Ta có thể ăn mừng phép lạ mình đang còn sống bằng chính hơi thở vào của mình. Điều đó đã là hạnh phúc rồi. Ta không cần đi tìm hạnh phúc ở một nơi nào khác. Ta chỉ ngồi, thở và thưởng thức sự thật là mình đang còn sống.

Nếu thực tập hơi thở chánh niệm trong khi đi, ta có thể nhận ra rằng còn sống là một điều rất mầu nhiệm và ta đang bước đi trên hành tinh xinh đẹp này. Với cái thấy ấy, ta có hạnh phúc ngay lập tức. Hạnh phúc không phải được làm bằng tiền bạc, danh vọng hay quyền hành mà chính bằng hơi thở chánh niệm. Bằng cách theo dõi và thưởng thức hơi thở vào ra của mình từ đầu cho đến cuối, ta có thể vun trồng thêm định lực, bởi vì niệm và định có cùng chung một bản chất như nước và băng đá. Khi thân và tâm tách rời nhau thì ta không thực sự có mặt. Sử dụng máy tính liên tục hai tiếng đồng hồ, ta có thể hoàn toàn quên đi là mình có một thân thể. Khi tâm không có mặt cho thân thì ta không thực sự sống. Ta đánh mất mình trong công việc, trong lo lắng, sợ hãi, trong những dự án, những kế hoạch. Hơi thở chánh niệm có thể giúp ta đưa tâm về đoàn tụ với thân. Làm được điều này thì đó là giây phút mà ta thực sự sống. Khi thân tâm hợp nhất, ta có thể tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong ta và xung quanh ta. Đó là sự sống đích thực.

Có mặt cho thân thể, không những ta tiếp xúc được với những mầu nhiệm của thân thể mà còn đủ khả năng nhận ra được trong thân thể ta có những điều cần quan tâm để chuyển hóa, như căng thẳng và đau nhức. Sống trong quên lãng, ta để cho những căng thẳng và đau nhức tích tụ trong thân thể. Ta có nhiều stress. Cuộc sống hiện đại đã gây nên nhiều căng thẳng trong ta.

Thực tập hơi thở chánh niệm giúp ta buông bỏ những căng thẳng trong thân thể. “Thở vào, tôi buông bỏ căng thẳng trong thân thể tôi”. Khi thở vào và trở về với thân thể, ta nhận ra rằng, sự căng thẳng khiến cho ta không thư giãn, bình an và hạnh phúc. Thấy được điều này, ta có cảm hứng muốn làm một điều gì đó giúp cho thân thể ta bớt khổ. Khi thở vào và thở ra, ta để cho thân thể ta buông bỏ những căng thẳng. Đây là thực tập buông thư. Thực tập nhiều lần ta sẽ thấy rất dễ chịu và thích thú.

Chạy theo những áp lực của cuộc sống hằng ngày, ta thường có cảm giác như ta không có một tí thì giờ nào để thực tập chánh niệm cả. Tuy nhiên, khi thực tập hơi thở chánh niệm, buông bỏ những suy nghĩ và làm cho thân thể vững vàng thì ta chỉ cần mất một hoặc hai phút thôi. Ngồi trên xe buýt, lái xe hơi, tắm rửa hay nấu ăn sáng, ta đều có thể thực tập được. Ta có thể thực tập suốt ngày và thấy ngay được sự lợi lạc. Ta không thể nói: “Tôi không có thời gian để thực tập.” Ta có rất nhiều thời gian nếu ta biết cách. Điều này rất quan trọng. Khi ta thực tập có niềm vui và thư giãn thì học sinh của ta sẽ được lợi lạc. Thực tập hơi thở chánh niệm là một hành động thương yêu. Có bình an, niềm vui, thư giãn ta sẽ trở thành suối nguồn bình an và tươi vui cho người khác.

Hướng dẫn dành cho giáo viên

Tiếp xúc với hơi thở

Tại sao phải thực tập tiếp xúc với hơi thở?

  • Để thấy được hơi thở như một người bạn luôn luôn có mặt đó cho ta, giúp ta trở về với chính mình trong giây phút hiện tại và chế tác những giây phút bình an trong ngày.
    • Để tăng khả năng tĩnh lặng, tập trung và chú ý vào những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây.
    • Để an trú thân tâm, giúp xử lý những vọng động và những cảm xúc khó chịu.
    • Để buông thư và giảm bớt căng thẳng, giảm stress.
    • Để tăng khả năng nhận diện cảm xúc của mình.
    • Để hợp nhất thân tâm.
  • Để giúp ta có mặt hơn cho người khác, cho phép ta lắng nghe sâu hơn và truyền thông dễ dàng hơn.

Chánh niệm luôn luôn là chánh niệm về một điều gì. Hơi thở là một đối tượng luôn có sẵn, dễ dàng cho sự chú tâm của ta. Dù ta đang ở đâu, hơi thở đều đó mặt. Đó là một nguồn suối sâu bền, có sẵn trong giây phút hiện tại, là một nơi an toàn mà ta có thể đến nương tựa để được an ổn và vững chãi hơn. Cho dù thời tiết trong tâm ta như thế nào, những tri giác, cảm xúc và suy tư có thay đổi đi nữa thì hơi thở vẫn luôn có mặt với ta như một người bạn trung thành, kết nối ta với thân thể và với giây phút hiện tại. Hơi thở chánh niệm giúp ta tập trung. Với hơi thở ý thức, ta có thể nhẹ nhàng đưa tâm lang thang trở về với giây phút hiện tại. Bất cứ lúc nào ta nhận thấy bị cảm xúc mạnh chi phối, lôi kéo, trấn ngự hay bị kẹt vào những lo lắng, kế hoạch, ta đều có khả năng trở về với những kinh nghiệm thực tập cụ thể, sử dụng hơi thở chánh niệm để thu nhiếp và đưa tâm về với giây phút hiện tại, bây giờ, ở đây. Như vậy, tâm ta sẽ trở nên vững chãi.

Cuối chương này, chúng ta sẽ khám phá những phương pháp để áp dụng và giảng dạy hơi thở chánh niệm qua các ví dụ của những giáo viên đang thực tập. Họ sẽ chia sẻ lý do cũng như cách thức sử dụng hơi thở, thực tập thở đã giúp gì cho giáo viên và học sinh. Thực tập hơi thở chánh niệm thường được trợ giúp bởi cách nghe chuông hay ngồi yên, vì vậy ta có thể tìm thấy những hướng dẫn và minh họa trong hai chương tiếp theo: “Chuông chánh niệm” và “Ngồi yên”.

Hơi thở chánh niệm không phức tạp như ta nghĩ. Ta không cần phải điều khiển hơi thở. Đơn giản ta chỉ cần tập trung vào luồng không khí đang đi vào và đi ra khỏi cơ thể, ý thức bụng mình đang phồng lên xẹp xuống, hoặc ý thức về hơi thở nơi mũi hay trong lồng ngực ta. Ta chỉ cần tiếp xúc với hơi thở như nó đang là. Có thể cảm nhận sự nhẹ nhàng, tự nhiên, bình an và tĩnh lặng của hơi thở, hay cảm nhận hơi thở mình ngắn, cạn và hổn hển. Chỉ ý thức về hơi thở mà không phán xét hay cố thay đổi sẽ giúp ta nhận biết rõ hơn về tình trạng hiện tại của ta. Tập trung tâm ý vào hơi thở, hơi thở sẽ trở nên chậm hơn, sâu hơn một cách rất tự nhiên và ta cảm thấy bình an hơn, thư giãn hơn. Cho dù chuyện gì xảy ra ta cũng không cần cố gắng thay đổi hay ép buộc, ta cứ tiếp tục nuôi dưỡng ý thức về hơi thở.

Theo thời gian thực tập, chúng ta tiếp xúc với hơi thở nhiều hơn. Hơi thở trở thành sợi chỉ chánh niệm xâu kết tất cả những hoạt động hằng ngày của chúng ta, như mặc áo, đánh răng, rửa chén, trả lời điện thoại, hay nói chuyện với người khác. Hơi thở chánh niệm là một món quà đơn giản nhưng quý báu, có khả năng thay đổi cuộc đời của chúng ta.

Thực tập căn bản

Tiếp xúc với hơi thở

Những hướng dẫn sau đây là những thực tập căn bản, ngắn gọn, sẽ được thực hành trong vài phút. Khi đã nắm vững sự thực tập căn bản này thì sẽ có những đề nghị thực tập khác dài hơn bên dưới. Chúng ta có thể sử dụng để tự thực tập hoặc đọc lớn cho những người khác cùng thực tập.
Chúng ta có thể sử dụng chuông để thực hành bài tập này. Ta nói là “thỉnh chuông” mà không phải là “đánh chuông” hay “gõ chuông”. Chúng ta thỉnh chuông một cách thân ái để nghe được âm thanh vốn đã có sẵn trong nó. Như thầy Thích Nhất Hạnh đã nói: “Chúng ta không bao giờ nói là đánh chuông, bởi vì chuông là một người bạn có khả năng thức tỉnh sự hiểu biết toàn vẹn trong ta.”
Phần tóm tắt của bài thực tập này cũng như tất cả những thực tập cốt lõi khác được nằm ở cuối bộ sách.  

Những hướng dẫn chi tiết về cách sử dụng chuông nằm ở Chương 2: “Tiếng chuông chánh niệm”.
Đồ dùng dạy học và chuẩn bị
– Giáo viên đã có kinh nghiệm trong việc thiền thở.
– Ghế ngồi, gối ngồi (tọa cụ), chiếu ngồi, v.v… tùy thuộc vào cách chúng ta muốn mời mọi người ngồi ở đâu.
– Chuông và dùi thỉnh chuông (không bắt buộc, nhưng nên có).  
Thỉnh chuông đúng lúc. Phần hướng dẫn cách sử dụng chuông nằm ở chương sau.
1. Chuẩn bị
Chọn một tư thế ngồi thật thoải mái, buông thư và an ổn. Có thể ngồi trên ghế, trên gối ngồi, hoặc bất cứ ở đâu mình cảm thấy thoải mái. Chúng ta có thể tưởng tượng mình đang ngồi như một trái núi, rất vững chãi và an ổn.
Cảm nhận sự tiếp xúc của ta với sàn nhà, mặt đất, ghế ngồi hay gối ngồi.
Mời các em học sinh nhắm mắt lại hoặc mở hé mắt, nhìn xuống sàn nhà trước mặt mình một cách nhẹ nhàng.
Nếu hoàn cảnh cho phép, ta có thể thỉnh chuông để bắt đầu. Nếu không, ta nhẹ nhàng bắt đầu bằng những chỉ dẫn dưới đây.
Đối với những người hay lo lắng, còn mắc cỡ, chưa sẵn sàng lắm thì việc mở mắt khi mới bắt đầu thiền tập sẽ thoải mái hơn, vì vậy ta phải để cho họ quyền tự do chọn lựa.  
2. Chú ý là mình đang thở  
Dành vài phút để dần dần ý thức là mình đang thở. Không cần phải thay đổi bất cứ điều gì cả. Chỉ ý thức, chú ý và nhận diện hơi thở như nó đang là.
Thông thường, ban đầu chúng ta thấy thật khó để không can thiệp vào cách thở. Bên cạnh đó, các em học sinh nhỏ cũng có thể làm ồn. Vì vậy, khuyến khích mọi người dùng ý thức để theo dõi hơi thở theo nhịp điệu bình thường.  
3. Theo dõi hơi thở  
Khi thở vào, ta hoàn toàn chú tâm theo dõi suốt chiều dài hơi thở vào: hơi thở đi vào qua mũi hoặc miệng, rồi xuống cổ họng và tràn đầy hai lá phổi. Khi thở ra, ta hoàn toàn chú tâm theo dõi suốt chiều dài hơi thở ra: cảm nhận không khí đang từ buồng phổi đi ra, qua cổ họng rồi đi ra khỏi miệng hoặc mũi. Nếu tâm bị phân tán hay đi lạc trong những suy nghĩ, ta chỉ ghi nhận điều này và nhẹ nhàng đưa ý thức trở về với hơi thở.
Thỉnh thoảng, tự nhắc nhở mình và nhắc nhở học sinh là khi tâm mình đi lang thang (điều này xảy ra rất tự nhiên) thì nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thực tập rồi ta sẽ thấy rõ hơn khi nào ta bị lạc trong suy nghĩ, khi nào ta ý thức trực tiếp về hơi thở.
4. Cảm nhận hơi thở trong bụng  
Đặt tay lên bụng, xem thử mình có ý thức được bụng phồng lên khi thở vào và xẹp xuống khi thở ra không. Không cần phải thay đổi gì cả.
Chỉ chú ý đến hơi thở vào và hơi thở ra, cảm nhận sự chuyển động của bụng và hai tay, cho dù sự chuyển động này rất nhẹ.
Chú ý đến chiều dài hơi thở, sự chuyển tiếp giữa hơi thở vào và hơi thở ra.
Quá trình này không bắt buộc  
Khi cơ thể có nhiều căng thẳng, ta thường có khuynh hướng thở bằng ngực, nên khi thở vào, bụng có thể xẹp xuống thay vì phồng lên. Vì vậy, đừng mặc định bất cứ điều gì khi bạn hay học sinh mới bắt đầu thực tập.
5. Kết thúc  
Chúng ta có thể kết thúc bằng một tiếng chuông. Mời các em học sinh thở ba hơi để kết thúc. Sau đó các em có thể từ từ mở mắt ra, co duỗi tay chân và xoa bóp.
 

NHỮNG THỰC TẬP KHÁC VỀ HƠI THỞ

Ta cũng có thể thực tập hơi thở khi đứng hoặc nằm. Có thể lưu ý sự khác biệt giữa các tư thế của thân thể ảnh hưởng lên hơi thở như thế nào.

Thở theo ngón tay (Finger breathing). Bài tập này có thể giúp chúng ta giữ sự chú tâm bằng cách kết hợp hơi thở với một hành động đơn giản.

Mike Bell[1] mô tả bài thực tập: “Chúng tôi bắt đầu bằng cách đặt ngón tay trỏ của tay này lên cổ tay của tay kia ngay dưới ngón cái.

Thở vào, lướt nhẹ ngón tay trỏ lên ngón tay cái. Thở ra, lướt ngón tay trỏ xuống mặt bên kia của ngón cái. Thở vào, lướt nhẹ ngón tay trỏ lên ngón tay kế tiếp (ngón trỏ của tay kia). Thở ra, lướt nhẹ ngón tay trỏ xuống bên kia của ngón tay kế tiếp. Và cứ tiếp tục như thế.

Đặt ngón tay ngay dưới mũi một lúc xem thử mình có cảm nhận được hơi thở hay không, ý thức về sự khác biệt giữa hơi thở vào và hơi thở ra: nhiệt lượng, độ ẩm, phẩm chất, v.v…

Lưu ý, ngay bây giờ, ở đâu trong thân thể, mình cảm nhận hơi thở rõ ràng nhất. Quán sát hơi thở đi đến các bộ phận khác của cơ thể như ở mũi, đằng sau cổ họng, ở ngực hoặc bụng…

Dùng hơi thở để tập hợp những thông tin hữu ích về trạng thái tâm thức. Nhẹ nhàng lưu ý xem hơi thở mình đang như thế nào và thân tâm mình ngay bây giờ đang ở đâu. Điều gì làm cho mình có những mối bận tâm, cảm thọ như hiện nay. Sau khi thực tập có thay đổi gì không?

Ý thức về chiều dài hơi thở vào và hơi thở ra. Chúng ta nên đếm từng giây (ví dụ: thở vào, đếm bao nhiêu giây; thở ra, đếm bao nhiêu giây). Chú ý xem với những trạng thái tâm thức khác nhau thì chiều dài hơi thở khác nhau như thế nào. Khi thực tập lâu hơn và thường xuyên hơn thì khuynh hướng tự nhiên của hơi thở như thế nào, có dài hơn không.

Kết hợp hơi thở với nụ cười. Với mỗi hơi thở ra, ta có thể thực tập mỉm cười nhiều hơn, cho đến khi ta có một nụ cười nhẹ nhàng trên khuôn mặt và cảm nhận nụ cười thư giãn đang lan tỏa trên khắp thân thể ta

Nhẹ nhàng đếm hơi thở, ví dụ như thở vào thở ra ta đếm “một”, thở vào thở ra tiếp theo đếm “hai”, v.v… cho đến mười. Chú ý: khi tâm mình đi lang thang, ta bắt đầu nhẹ nhàng đếm một trở lại để nhận diện là tâm đang lang thang.

Có một số bài hát về hơi thở của Làng Mai mà giáo viên và học sinh có thể hát. Trong Chương 2, tập 2, Đi như một dòng sông cũng có đề cập đến. Lời và nhạc có thể được tìm thấy trên trang mạng: https:/ langmai.org/dai-may-tim/thien-ca/. Những bài hát tiếng Anh có thể được tìm thấy trên trang: www.wakeupschools.org/songs.

Đọc cho mình hoặc đọc to cho những người khác một trong những bài kệ sau, theo nhịp của hơi thở vào và hơi thở ra.

Thở vào, tôi biết tôi đang thở vào. Thở ra, tôi biết là tôi đang thở ra.

Thở vào, tâm tĩnh lặng. Thở ra, miệng mỉm cười.

Dần dần ta có thể rút gọn một dòng thành một hoặc vài chữ, như “vào” khi ta thở vào và “ra” khi ta thở ra.

Học sinh có thể viết xuống và ghi nhớ những câu trên, hoặc minh họa bằng hình ảnh. Khi làm điều này, thỉnh thoảng nhớ tiếp xúc với hơi thở. Các em cũng có thể tự sáng tác cho mình bài thơ thở vào, thở ra.

* Chú ý: Một số người cảm thấy thực tập cười không thật và không thoải mái, giống như ra lệnh.

Bác sĩ Dzung X. Vo, chuyên khoa Nhi, có giải thích trong cuốn thứ hai của bộ sách Cách bác sĩ dạy thở và cười cho những người trẻ đa nghi.

Nhìn sâu: Những câu hỏi quán chiếu về sự thực tập hơi thở

Sau đây là một số câu hỏi cho giáo viên để tự quán chiếu, hoặc sử dụng cho học sinh sau mỗi lần thực tập. Các em có thể chia sẻ trong lớp học, hoặc đơn giản chỉ để những câu hỏi đi vào tâm thức các em. Ta không cần phải sử dụng hết tất cả các câu hỏi, đây không phải là bài kiểm tra.

  • Bây giờ ta cảm thấy thế nào? Điều gì đang xảy ra trong thân tâm ta ngay bây giờ? (ví dụ: bình tĩnh, sáng suốt, thư giãn, căng thẳng, lo lắng?)
  • Hơi thở ta như thế nào? (sâu, cạn, nhanh, chậm, nhẹ nhàng?)
  • Điều gì xảy ra trong thân, tâm và hơi thở của ta trong suốt thời gian thực tập? Có gì thay đổi không? (Tĩnh lặng hơn, bực bội hơn, có mặt hơn hay sáng suốt hơn?)
  • Chú tâm vào hơi thở có dễ không? Dễ như thế nào?
  • Thấy bài tập này như thế nào? (lạ, hay, thích thú, khó khăn, chán nản?)

Ta có thể thêm vào một số câu hỏi thích hợp khác. Đặt những câu hỏi đơn giản, cởi mở, có tính chất khuyến khích mà không lên án. Chấp nhận tất cả những câu trả lời kể cả những câu trả lời tiêu cực và câu trả lời “Em không biết”. Nếu học sinh lạc vào lý thuyết thì nhẹ nhàng hướng các em về với những gì mà các em đã thực sự kinh nghiệm.

Hơi thở chánh niệm trong đời sống hằng ngày và trong việc giảng dạy

Hầu hết những người có thực tập chánh niệm đều nhanh chóng nhận ra rằng hơi thở là trung tâm để ta trở về, giúp ta hoàn toàn có mặt cho thân và tâm. Tiếp xúc với hơi thở như là sự thực tập chuyển hóa, là nền tảng mà ta có thể trở về một cách rất tự nhiên.

Sau đây là một vài quán chiếu và chia sẻ của các thầy cô giáo về những kinh nghiệm khi sự thực tập hơi thở chánh niệm tác động lên họ.

Điều hữu ích nhất cho tôi là ý thức về hơi thở. Hơi thở như một người bạn. Hơi thở là nơi nương tựa của tôi, giúp tăng trưởng cảm giác vui tươi trong những giây phút hạnh phúc, giúp xoa dịu và làm nhẹ đi sự lo lắng trong những giây phút buồn khổ hay giận dữ. Hơi thở cũng giúp tôi chuẩn bị để đối phó với những tình huống khó khăn. Bằng cách đưa tâm về với thân, tôi cảm thấy vững vàng hơn.

Sally Anne Airey, huấn luyện viên, Pháp.

Chỉ cần có mặt với hơi thở cũng đủ làm thay đổi tâm trạng lo lắng và nhận thức sai lầm của ta rồi.

Tôi thấy những thực tập đơn giản nhất thường mang lại lợi lạc lớn cho tôi. Những lúc lo lắng quá nhiều về công việc, tôi chỉ cần trở về với hơi thở để tâm mình nghỉ ngơi trong vòng 40 phút là đã mang lại cho tôi cảm giác dễ chịu, khinh an, tĩnh lặng và nhẹ nhõm rồi. Nhờ đó nhận thức tôi cũng thay đổi theo, cho phép tôi trở lại với cuộc sống sáng suốt hơn và thương mình hơn.

– Michael Bready, người hướng dẫn chánh niệm, Anh.

Hơi thở và buông thư liên hệ với nhau rất mật thiết.

Điều hữu ích nhất mà tôi học được từ Thầy (Thiền sư Thích Nhất Hạnh) là “Thở vào, tôi biết là tôi đang thở vào. Thở ra, tôi biết là tôi đang thở ra.” Tại sao nó hữu ích như vậy? Bởi vì ngay giây phút nhận diện được hơi thở, tôi cảm nhận được sự căng thẳng đang có mặt, và tôi đi ra được những căng thẳng đó.

– Chau Li Huay, huấn luyện viên trung học, Singapore.

Hơi thở chánh niệm giúp ta giảng dạy tốt hơn

Trong những ngày dạy học khó khăn, đầy thử thách, căng thẳng, bận rộn, nhiều đòi hỏi, nhiều yêu cầu, duy trì hơi thở ý thức giúp ta tập trung hơn. Ta có thể tìm nhiều cách nhẹ nhàng phối hợp hơi thở với những công việc sinh hoạt hằng ngày mà không cần phải thay đổi gì lớn lao, cũng không cần phải có thêm thời gian. Chúng ta có thể tạo thói quen thở chánh niệm mỗi khi ta trở về nơi bảng đen. Một giáo viên đã quan sát và thấy rằng tập trung vào hơi thở khi có khó khăn là một điều rất hữu ích.

Cô Chau, huấn luyện viên trường Trung học ở Singapore, có kể một câu chuyện về những khó khăn thử thách không thể chịu đựng được với vị trí của một giáo viên tự do (giáo viên dạy nhiều trường) hoặc một giáo viên dạy thay, chỉ dạy tạm thời những điều và không có thời gian xây dựng những mối quan hệ truyền thông trong lớp học. Cô Chau thấy rằng, sử dụng phương pháp thở để ổn định lớp hiệu quả hơn phương pháp trừng phạt, la mắng đối với những lớp mà học sinh quá ồn ào, không quản lý được.

Tôi là một giáo viên tự do, dạy trong trường công lập hai năm. Học sinh (có 40 học sinh trong một lớp học) rất ồn ào và không tập trung. Thay vì la mắng, giận dữ, cau có, tôi có thể yên lặng xoay đổi tình thế bằng cách trở về với hơi thở và bước những bước chân chánh niệm trong lớp học. Các em tự động ngồi lại ngay ngắn và chú ý theo dõi bài học.

Dạy hơi thở chánh niệm cho học sinh

Phối hợp liên tục việc dạy thở chánh niệm

Hơi thở chánh niệm là bài tập cốt lõi đầu tiên mà chúng ta giới thiệu trong bộ sách này, bởi vì nó là nền tảng căn bản. Cô Peggy

Rowe Ward và chồng của cô, Larry, ở Mỹ, đều là những người thực tập và hướng dẫn chánh niệm lâu năm. Trong chương trình dạy học ở trường Quốc tế, Thái Lan, họ bắt đầu bằng hơi thở chánh niệm và dạy những điều rất đơn giản hằng ngày liên quan đến năm hơi thở. Bài thực tập ngắn gọn này đã chứng minh được hiệu quả lớn lao, lan rộng đến nhiều hoạt động khác của trường.

Là những người cố vấn làm việc cho trường American (Mỹ) ở Bangkok, chúng tôi đã trình bày cách bắt đầu công việc giảng dạy với bài tập rất đơn giản và ngắn gọn mà chúng tôi gọi là Năm hơi (take five). Năm hơi là năm hơi thở chánh niệm. Chúng tôi chỉ có vài phút trong giờ cả trường tập hợp vào buổi sáng. Chúng tôi thở năm hơi chánh niệm. Với phương pháp này, chúng tôi bắt đầu một ngày ở trường bằng cách dừng lại và làm cho thân tâm lắng dịu. Sau đó bài tập Năm hơi này được lan rộng ra, nhiều hoạt động học tập khác, cũng như vào những hoạt động thể thao và kiểm tra khảo sát.

Cô Christine Petaccia, chuyên gia điều trị, mô tả kết quả lâu dài của việc thực tập chánh niệm mà cô đã áp dụng cho các em học sinh khó tính, dễ tổn thương, có nhiều nhu yếu đặc biệt trong lớp học.

Học sinh của tôi có những nhu yếu đặc biệt, nhưng tôi đã tạo ra một phương pháp phối hợp liên tục thông qua việc phân tích hành động và áp dụng rất hiệu quả cho bất kỳ em nào. Chúng tôi bắt đầu bằng cách chia sẻ phương pháp đưa tâm và thân về lại với nhau, thân thể và lời nói ảnh hướng đến tâm thức như thế nào và ngược lại. Sau đó chúng tôi nằm xuống và lắng nghe vài tiếng chuông hòa âm hoặc chuông nhạc, khoảng mười tiếng chuông. Tiếp đến, theo dõi hơi thở đi vào và đi ra (có thể đặt một món đồ chơi nào đó lên bụng để thấy bụng mình đang chuyển động, hoặc yêu cầu các em quan sát giáo viên). Tôi nhắc nhở các em thở tự nhiên và buông thư. Sau đó, các em thở ba hơi, rồi năm hơi, rồi đếm xem trong mười giây các em thở được bao nhiêu hơi thở, trong hai mươi giây được bao nhiêu hơi thở, và cứ tiếp tục như vậy. Tôi yêu cầu các em liên hệ hơi thở của mình với những con sóng trên mặt đại dương đang đi vào đi ra.

Bước tiếp theo là phối hợp hơi thở trong khi ngồi trên ghế. Trường hợp này cao hơn và khó hơn cho những trẻ em khuyết tật do vấn đề hô hấp (physiological breathing patterns). Tôi chỉ cho các em cảm nhận sự nhẹ nhàng buông thư khi các em phối hợp hơi thở ý thức trong khi nằm, sau đó tôi yêu cầu các em thầm gọi tên cảm giác đó khi thở ra. Tôi hướng dẫn các em cùng thở như vậy khi tôi thỉnh chuông.

Tôi cũng sử dụng hơi thở cho những trẻ em có vấn đề không nói lưu loát được, như nói lắp bắp, khó tập trung. Những em học sinh này thường nói quá nhanh và không suy nghĩ, vì vậy các em cần thở những hơi thở chánh niệm để gom những suy nghĩ của mình trước khi trả lời câu hỏi hoặc phát biểu.

Nhiều cách dạy vui

Hơi thở là cái neo rất đáng tin cậy, bởi vì nó luôn luôn có đó cho chúng ta, nhưng cũng chính vì vậy mà một vài người trẻ thấy bài thực hành này hơi chán. Chúng ta phải làm sao để giữ được sự thực tập hơi thở ý thức luôn tươi mới trong tâm hồn người trẻ. Điều này có thể giúp chúng ta tìm ra những phương pháp hướng dẫn sinh động khác nhau.

Đối với bác sĩ Dzung X. Vo, chuyên khoa Nhi, ở Canada, đang giúp các em thanh thiếu niên có vấn đề về tâm thần, thì bác sĩ bắt đầu chương trình bằng cách dạy về hơi thở chánh niệm. Bác sĩ cũng chú ý đến cách hướng dẫn mỉm cười để nuôi dưỡng tình bạn và lòng nhân ái trong các em.

Ngay từ đầu, tôi giới thiệu cho các em cách thực tập chánh niệm mà các em có thể làm được. Tôi có niềm tin lớn nơi tuệ giác của các em thanh thiếu niên. Tôi thấy khi các em có cơ hội trải nghiệm lợi ích của chánh niệm thì tâm trí các em cởi mở hơn, thậm chí còn cởi mở hơn cả người lớn nữa. Trong phần giới thiệu, tôi luôn luôn cho một bài tập hơi thở chánh niệm ngắn gọn có hướng dẫn (khoảng hai hoặc ba phút), sử dụng ngôn ngữ đầy cảm hứng của Làng Mai để mời các em chú ý vào hơi thở và mỉm cười. Tôi giải thích với các em rằng cười không có nghĩa là giả mạo hay giả vờ hạnh phúc khi mình không có hạnh phúc. Các em thanh thiếu niên rất nhạy cảm với những điều không thật. Thay vào đó, tôi giải thích cho các em “Cười nghĩa là đem lòng nhân ái và tình bạn đến với hơi thở ý thức của mình. Chúng ta có thể xây dựng lòng nhân ái và tình thương bất kỳ lúc nào, dù là lúc khó khăn hay vui tươi”.

Cô Alison Mayo, giáo viên mầm non ở Anh, có một phương pháp rất vui tươi lành mạnh, áp dụng cho trẻ:

Dạy các em nhỏ tuổi, tôi thấy các em cần những phương pháp vui tươi để khám phá và cảm nhận được hơi thở của mình, vì vậy cần phải chuẩn bị rất kỹ lưỡng để giới thiệu sự thực tập hơi thở và nghe chuông cho các em. Những phương pháp mà chúng tôi đã làm là thổi nến, thổi bong bóng nước, làm những chiếc thuyền buồm và thổi cho nó đi qua đi lại trên khay nước, đặt tay dưới lỗ mũi, đặt tay lên bụng, nằm ngửa buông thư và đặt đồ chơi lên bụng, làm tiếng ong vo ve và hát, hay chạy quanh và cảm nhận những gì xảy ra khi hết hơi.

Hơi thở chánh niệm có thể làm cho những thứ bình thường trở nên thú vị hơn. Một trong những sinh viên của Jenna Bondel, Mỹ, đã thực tập hơi thở chánh niệm trong công việc quét dọn hằng ngày của mình.

Chúng tôi chia sẻ trong lớp học cách thực tập của mình tiến triển như thế nào. Các em sinh viên chia sẻ là các em khám phá ra cách áp dụng hơi thở trong lớp học ngoài giờ thiền tập. Một sinh viên cơ khí báo cáo rằng em đã nghĩ ra cách đưa chánh niệm vào công việc của mình qua việc quét nhà, em phối hợp hơi thở với việc quét nhà và việc quét nhà trở thành thiền quét nhà của em.

Hơi thở có thể giúp học sinh, sinh viên lắng dịu

Các em sinh viên và học sinh nhận ra rằng, sự tĩnh lặng từ hơi thở chánh niệm có thể là một trợ lực rất lớn giúp các em xử lý căng thẳng. Đặc biệt thấy rõ điều này trong các kỳ thi, như trong bảng báo cáo của bác sĩ Dzung X. Vo, chuyên khoa Nhi.

Tôi nhớ có một em thiếu niên, thỉnh thoảng bị sợ hãi trấn ngự khi làm bài thi. Em nói: “Ngồi trước bài kiểm tra, tự nhiên em thấy sợ hãi, không thể nhớ được bất cứ điều gì đã học.” Sau khi học cách thở, em phát biểu: “Trước khi bắt đầu làm bài kiểm tra, em nhắm mắt lại thở vài hơi. Em có thể cảm nhận được cơn sợ hãi bắt đầu đi lên, tuy nhiên em vẫn duy trì bài tập này. Khi mở mắt ra em suy nghĩ sáng suốt hơn và có khả năng hoàn thành bài thi của mình tốt hơn”.

Thầy Jennifer Wood, giáo viên trung học và cố vấn sinh viên ở Mỹ, cũng giới thiệu thở như là phương pháp giúp giảm sự lo lắng khi làm bài kiểm tra. Thầy thấy rằng “trước và sau khi làm bài kiểm tra, hay khi học sinh đang chuyển tiếp qua môn học khác, áp dụng hơi thở đơn thuần vào ra ba lần rất hiệu quả”.

Hằng ngày, ở trường phổ thông và đại học, sinh viên và học sinh có rất nhiều căng thẳng. Đôi khi, điều mà các em cần được giúp đỡ nhất là thầy cô giáo thở cùng với các em.

Có một học sinh rất đau khổ khi đến văn phòng tư vấn của tôi. Em không thể thở được vì một sự việc bất ngờ xảy ra cho bạn em. Tôi giúp em lắng dịu và vơi bớt khổ đau đơn giản chỉ bằng cách ngồi thở vào và thở ra với em. Từ từ em lắng dịu xuống. Vài phút sau, em nói: “Cám ơn thầy” rồi rời văn phòng bằng nụ cười và sự trầm tĩnh.

– Derek Heffernan, giáo viên trung học, Canada.

Đôi khi cách làm việc, cách giải quyết vấn đề hiệu quả nhất đơn giản chỉ bằng phương pháp là làm những gì mình muốn học sinh làm và khuyến khích, động viên các em cùng làm với mình.

Cô Pascale Dumont, giáo viên tiểu học, ở Pháp, đã giúp một em học sinh có biệt danh là “không thể ngồi yên” buông thư và lắng dịu bằng cách cho em ấy ngồi trên chân của mình rồi cùng nhau thở và thiền tập.

Victor là một cậu bé nhỏ tuổi. Trong lớp học, em không thể ngồi yên được. Thầy giáo phải tách riêng bàn em ra để mình em ngồi bàn đầu. Một ngày nọ, chúng tôi tập hợp tất cả các em học sinh vào hội trường để hợp xướng cho buổi hòa nhạc. Thầy giáo của em giao em cho tôi bởi vì em không thể tự kiểm soát. Thật không thể tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu để em hát chung với các bạn cùng lớp. Thế nên tôi nắm tay em tham gia buổi trình diễn. Chúng tôi ngồi xuống. Để thưởng thức buổi trình diễn tốt hơn, tôi bảo em ngồi trên chân tôi. Em nhúc nhích, cựa quậy hoài. Tôi đặt hai bàn tay tôi chồng lên nhau như khi tôi ngồi thiền, và tay tôi chạm vào bụng em. Buông thư được một lúc, sau đó, một cách tự nhiên, em nhẹ nhàng đặt hai bàn tay nhỏ bé của em vào tay tôi, tựa như em đã tìm ra một nơi ấm cúng bé nhỏ để nương tựa. Tôi để em ngồi yên như vậy và bắt đầu thiền tập. Trong suốt buổi hòa nhạc, tôi thấy cơ thể em từ từ buông lỏng ra, rất thư giãn, trầm tĩnh và bình an. Lưng của em như dính chặt vào người tôi. Và hơi thở của chúng tôi trở thành một.

Cô Christiane Terrier, giáo viên trung học đã nghỉ hưu, dạy chánh niệm ở Pháp, chia sẻ về cách cô thường thở với các em học sinh trường trung học có nhiều sợ hãi, kích động trước giờ học để giúp các em lắng dịu và trầm tĩnh.

Trước khi vào lớp học, lúc các em còn ở ngoài hành lang, tôi đề nghị các em thở với nhau một lúc, như một trò chơi. Những kích động của các em giảm xuống và chúng tôi bắt đầu giờ học rất yên lặng. Bài tập ngắn này khuyến khích các em sẵn sàng cho giờ học mới. Trong lớp học hay trên hành lang, thỉnh thoảng các em học sinh lại bị những cơn sợ hãi, căng thẳng trấn ngự. Cho dù không biết cá nhân các em như thế nào, chúng ta cũng có thể nói với các em rằng chúng ta đang có mặt cho các em và thở với các em. “Tôi thở và tôi trầm tĩnh, tôi thở và tôi mỉm cười.” Thông thường chỉ cần vài hơi thở là thay đổi được tình trạng, các em học sinh trở nên bình tĩnh và mỉm cười được.

Quan tâm chăm sóc khi các em gặp khó khăn trong lúc thực tập hơi thở chánh niệm

Tập trung vào hơi thở có thể đưa tới căng thẳng và những cảm xúc mạnh. Có thể có vài em có vấn đề về hơi thở, ví dụ như với những em hay lo lắng, bị bệnh suyễn, hay có những vấn để khó thở tương tự. Để được an toàn và thận trọng, ta giữ cho sự thực tập nhẹ nhàng như một lời mời. Đề nghị với tất cả các em học sinh rằng nếu các em luôn cảm thấy lo lắng, hay quên theo dõi hơi thở thì các em chỉ cần chuyển sự chú tâm của mình đến một bộ phận khác của cơ thể, như chú tâm đến bàn chân đặt trên mặt đất, để ý đến cảm giác của hai bàn tay, hoặc để ý đến bàn tọa đang ngồi trên ghế. Ý thức và để mắt đến những em học sinh nào mà mình đặc biệt quan tâm, theo dõi những em đang có khó khăn

trong khi mình vẫn thực tập cho mình. Nếu các em học sinh có những phản ứng mạnh hay thậm chí tiêu cực trong buổi thảo luận hoặc quán chiếu, trước hết phải lắng nghe, nhân ái và trầm tĩnh, sau đó mới dùng lời chia sẻ với các em về những điều mình quan tâm. Điều này giúp tránh được những lo lắng căng thẳng có thể xảy ra khi dạy chánh niệm. Chánh niệm không phải lúc nào cũng tập trung cao độ và quá nghiêm túc. Sara Martine Serrano, một chuyên gia phụ tá ngành giáo dục có kinh nghiệm ở Thụy Sỹ, làm việc với những trẻ em khuyết tật, chia sẻ:

Tôi làm việc với những em mười hai tuổi có vấn đề về tâm thần, khả năng của những em này rất đa dạng. Vấn đề đầu tiên tôi gặp là dạy thở cho các em. Tôi thấy rằng thở vào và thở ra tạo nên sự căng thẳng trong nửa phần trên thân thể các em, làm cho các em nín thở. Vì vậy, tôi đã khám phá ra những phương pháp thực tập hơi thở khác.

Trước hết, tôi phát minh ra một phương cách vừa làm vừa chơi. Tôi đưa ra một cái lông chim hay một tờ giấy. Tôi đặt một trong hai thứ này vào tay của một em, rồi mời em thổi nhẹ tờ giấy (hay chiếc lông chim), chỉ đủ nhẹ để cho tờ giấy (hay chiếc lông chim) nâng lên hoặc rung động, sau đó mời em từ từ thổi mạnh hơn để thấy tờ giấy (hay chiếc lông chim) bay đi. Em đó tuy không chú ý nhiều về hơi thở như chú ý về tờ giấy (hoặc chiếc lông chim), nhưng thực ra em cũng đang thực tập hơi thở.


[1] M. Bell, từng là giáo viên, Vương quốc Anh, “The Wisdom of Ordinary Children,” (Trí tuệ của những đứa trẻ bình thường), tạp chí The Mindfulness Bell 54 (2010), 37.

Sự đóng góp của Làng Mai trong lĩnh vực đem chánh niệm vào giáo dục

Tôi có vinh hạnh được làm đồng tác giả của bộ sách này, và đồng thời tôi cũng là một nhà giáo dục. Vì vậy, tôi hy vọng trong phần chia sẻ này, tôi có thể trình bày được cái nhìn của một nhà giáo khi nghiên cứu về lĩnh vực chánh niệm và cách tiếp cận của Làng Mai đối với giáo dục. Từ khi bắt đầu sự nghiệp giảng dạy tại một trường trung học, trong bốn mươi năm qua, tôi luôn chú tâm tới công việc nghiên cứu về những lĩnh vực như sự phát triển lành mạnh, hạnh phúc, sức khỏe tinh thần, việc rèn luyện các kỹ năng về cảm xúc và xã hội trong các trường học (bao gồm cả đại học). Mười lăm năm trước, tôi bắt đầu đưa các chủ đề về chánh niệm, từ bi và quán chiếu vào sự nghiên cứu và thực tập của chính mình. Con đường đi đến chánh niệm của tôi bắt nguồn từ sự cố gắng chống chọi trong thời gian tôi bị bệnh nặng. Tôi đã nhanh chóng nhận ra rằng chánh niệm có thể giúp chuyển hóa mối quan hệ với chính tôi và với những thử thách mà phần lớn là do chính tôi tạo ra trong đời sống chật hẹp, tù túng của mình. Thật là một niềm hạnh phúc khi thấy chánh niệm đang dần được công nhận một cách chính thống, ít nhất là tại một vài nơi trên thế giới.

Bộ sách này được hình thành như thế nào?

Tiếp xúc với tăng thân Làng Mai trong một khóa tu dành cho giáo chức tại Luân Đôn vào năm 2012, tôi thật sự ấn tượng trước cách tiếp cận sâu rộng cùng tính thực tiễn mà phương pháp thực tập của Làng Mai đã đem lại cho toàn bộ lĩnh vực liên quan đến hạnh phúc và sự phát triển lành mạnh của con người. Vì vậy tôi rất hoan hỷ khi được mời tham gia biên soạn bộ sách này. Ở đây tôi muốn phác thảo ra chủ ý của bộ sách và bối cảnh giáo dục có liên quan. Tôi muốn chia sẻ về những điều mà theo tôi cảm nhận là phương pháp thực tập của Làng Mai đang đóng góp vào lĩnh vực liên quan đến sự phát triển lành mạnh của con người, một lĩnh vực đang được nghiên cứu rộng rãi và có nhiều bước tiến nhanh chóng.

Bộ sách này “nảy mầm” từ một hạt giống được gieo trồng khi một nhóm đệ tử của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – cả xuất gia và tại gia – họp lại tại một căn phòng nhỏ trong khóa tu dành cho giáo chức vào tháng Tư năm 2012 tại Luân Đôn. Chúng tôi cùng thảo luận với nhau xem tăng thân cư sĩ cần làm những công việc gì kế tiếp để yểm trợ cho việc đem chánh niệm vào giáo dục như mong ước của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Tất cả chúng tôi lúc ấy đều nhận thấy việc áp dụng chánh niệm và các phương pháp quán niệm (contemplative approaches) trong lĩnh vực giáo dục tại các trường học, đặc biệt là tại các trường đại học, đã tăng theo cấp số nhân trên khắp thế giới. Điều này được phản ánh qua sự gia tăng các cuộc nghiên cứu, các chương trình đào tạo, tập huấn, các ấn phẩm và các cuộc hội thảo về chánh niệm trong giáo dục.

Trước đó, tăng thân Làng Mai đã có nhiều hoạt động đem chánh niệm và đạo đức ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là thông qua những khóa tu dành riêng cho giáo chức. Những hoạt động có tính thực tiễn, tạo cảm hứng và gây ảnh hưởng lớn này đã mang lại danh tiếng vững chắc cho Làng Mai, phần lớn là do sự truyền miệng từ những người đã từng tham dự. Trong các hoạt động này, vẫn chưa có một tài liệu cụ thể nào từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh hay tăng thân Làng Mai để hướng dẫn cho các giáo viên cách thức nuôi dưỡng chánh niệm trong đời sống của họ cũng như trong lớp học và trường học. Vì vậy mà chúng tôi quyết tâm phải làm một điều gì đó để khắc phục tình trạng này.

Ý tưởng ban đầu của chúng tôi về việc biên soạn tài liệu dành cho giáo viên rất là khiêm nhường. Một nhóm nhỏ xuất sĩ và cư sĩ cùng ngồi lại với nhau để xác định những thực tập nào được xem là căn bản, cốt lõi trong các phương pháp thực tập của Làng Mai. Chúng tôi dự định trình bày những phương pháp thực tập này theo dạng “recipe card”, tức là những tờ hướng dẫn cụ thể, chi tiết từng bước một, y như một công thức nấu ăn vậy; sau đó, những tờ hướng dẫn này sẽ được ép plastic và tập hợp lại thành một bộ tài liệu đơn giản để các giáo viên biết cách tự thực tập cho chính mình và chia sẻ sự thực tập cho những người khác. Chúng tôi muốn trình bày những nội dung thực tập sao cho thật ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu đối với những người mới, chưa hề biết đến phương pháp thực tập của Làng Mai. (Cuốn sách này – Cẩm nang hạnh phúc – là những thực tập căn bản, cốt tủy của Làng Mai. Quý vị có thể tìm thấy một bộ tài liệu hướng dẫn tóm tắt những thực tập căn bản ở phần Phụ lục A, tập 2, Đi như một dòng sông). Khi chúng tôi thực sự bắt tay vào làm bộ tài liệu thì các ý tưởng và cảm hứng để làm một bộ sách cứ lớn lên không ngừng, cho đến khi nó trở thành một cuốn cẩm nang vô cùng quan trọng và thiết yếu mà quý vị đang có trong tay.

Chúng tôi đã khai thác nguồn tài liệu quý giá, đó là những lời giảng chuyên chở tuệ giác của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đặc biệt là các bài giảng trong những khóa tu dành cho giáo chức. Những bài giảng đó chưa từng được in thành sách và vì vậy mà chúng tôi rất muốn đưa những nội dung đó vào trong bộ sách này.

Quý vị có thể tìm thấy những lời giảng đó ở phần mở đầu bộ sách và ở đầu của mỗi chương trong cuốn sách này.

Sử dụng những mẩu chuyện, những chia sẻ từ các giáo viên

Để góp sức thực hiện hoài bão của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, chúng tôi mong muốn đáp ứng lại nhu yếu của rất nhiều giáo viên, đó là có được sự chỉ dẫn cụ thể về phương pháp áp dụng chánh niệm trong đời sống của mình, cũng như trong lớp học và trường học. Chúng tôi đã hoàn thành xong bộ tài liệu “recipe cards” với những hướng dẫn chi tiết từng bước một về các phương pháp thực tập, nhưng chúng tôi lại cảm thấy chưa muốn dừng lại ở đó. Tin chắc rằng còn có rất nhiều nguồn tài liệu, kinh ng- hiệm mà chúng tôi có thể tập hợp lại để yểm trợ cho các giáo viên, chúng tôi quyết định tiến hành một cuộc nghiên cứu có hệ thống đối với các giáo viên đang thực tập theo phương pháp của Làng Mai để tìm hiểu xem sự thực tập tác động như thế nào đến đời sống và công việc của họ. Thu thập, góp nhặt những kinh nghiệm này cũng giống như tiến hành một cuộc khám phá, thử nghiệm, và may mắn là kết quả mang lại thật phong phú, quá sức mong đợi đối với chúng tôi. Chính những kinh nghiệm được thu thập này đã góp phần tạp nên thông điệp và nội dung của bộ sách.

Ban đầu, chúng tôi tìm hiểu và tiếp xúc với khoảng 70 giáo viên đã từng có nhiều năm thực tập và áp dụng phương pháp của Làng Mai để xin họ chia sẻ những câu chuyện, kinh nghiệm của họ với chúng tôi. Một vài câu chuyện đã được chia sẻ trên tạp chí The Mindfulness Bell[1] nhưng phần lớn các câu chuyện đều mới được ghi xuống hay kể lại trong các cuộc phỏng vấn do chúng tôi thực hiện. Chúng tôi cũng đồng thời tiến hành một cuộc khảo sát trực tuyến bằng các ngôn ngữ: Anh, Pháp và Tây Ban Nha đối với những người đã đăng ký nhận thông tin cập nhật từ Wake Up Schools. Chúng tôi đã đăng lời mời tham gia cuộc khảo sát này trên mạng lưới Chánh niệm trong Giáo dục (Mindfulness in Education, viết tắt là MiEN) và trên trang mạng của Wake Up Schools. Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm kiếm trong các ấn phẩm của tạp chí The Mindfulness Bell những bài viết liên quan đến sự thực tập chánh niệm trong môi trường giáo dục. Chúng tôi tập hợp những phản hồi từ các giáo viên sau các khóa tu cũng như các khóa tập huấn dành riêng cho giáo chức được tổ chức ở nhiều nơi trên thế giới. Đối với một vài tăng thân như tăng thân ở Ý và ở Ấn Độ, chúng tôi liên lạc bằng điện thoại hoặc bằng e-mail. Nói tóm lại là chúng tôi tìm tới những người trong lĩnh vực giáo dục khắp nơi trên thế giới, mỗi khi có được thông tin liên lạc. Chúng tôi nhận được rất nhiều hồi đáp, và phần chia sẻ của khoảng 150 người đã được trích dẫn trong bộ sách này. Tên của tất cả những vị này đều được ghi lại ở cuối bộ sách, mặc dù có nhiều vị yêu cầu được giấu tên, và chúng tôi cũng không thể sử dụng hết những chia sẻ đã nhận được.

Chúng tôi tìm kiếm những tự thuật, những suy ngẫm của các giáo viên cũng như những ví dụ minh họa cho biết những phương pháp thực tập của Thiền sư Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai đã đánh động đến đời sống và việc giảng dạy của họ như thế nào. Chúng tôi hỏi các giáo viên về ảnh hưởng của chánh niệm lên chính bản thân họ và lên học sinh; cách họ chia sẻ về sự thực tập như thế nào; họ có hợp tác được với các đồng nghiệp ở các trường khác hay không; tiếp cận với phụ huynh học sinh như thế nào, và những tài liệu nào hữu ích đối với họ. Chúng tôi yêu cầu các giáo viên chỉ chia sẻ về những tác động rõ ràng từ phương pháp thực tập của Làng Mai đối với họ, mà không phải là sự thực tập chánh niệm chung chung hay về những phương pháp không phải là của Làng Mai.

Quá trình khảo cứu này kéo dài hai năm. Khi nhận được những lời hồi đáp, chúng tôi phân chia chúng ra thành từng loại căn cứ trên sự phân tích chủ đề và nội dung. Với thời gian, những hồi đáp tự nó đã hình thành nên cấu trúc và nội dung của bộ sách. Vì vậy, bộ sách này không phải là sự suy đoán trừu tượng mà là sự phản chiếu thực tại, được xây dựng trên một nền tảng vững chắc, dựa vào những gì đang xảy ra cho các giáo viên ở các trường học. Nó cho thấy rõ tác động của những phương pháp thực tập gây cảm hứng và có tính thực tiễn cao của Làng Mai.

Phương pháp thực tập của Làng Mai đóng góp được gì trong bối cảnh giáo dục hiện nay?

Vai trò của tôi trong công việc đồng biên soạn bộ sách này là làm thế nào để đặt những triển vọng của chánh niệm trong lĩnh vực giáo dục và những chia sẻ, tự thuật của các giáo viên vào trong khuôn khổ một bộ cẩm nang với những chỉ dẫn thực tiễn, giúp các giáo viên biết cách làm thế nào chế tác được chánh niệm trong đời sống của họ cũng như trong công việc hàng ngày ở trường học. Là một nhà giáo thực tập chánh niệm và cũng là một học giả, tôi có thể giúp tập hợp lại những cái thấy của nhiều người về mối liên hệ giữa những phương pháp thực tập chánh niệm của Làng Mai với những ưu tư, những quan tâm hiện nay trong lĩnh vực giáo dục và những bằng chứng khoa học có liên quan.

Chúng tôi xây dựng nên nội dung cuốn cẩm nang này không phải chỉ dựa trên lý thuyết và sự nghiên cứu, mà còn căn cứ trên những phản hồi thực tế từ các giáo viên mà chúng tôi có cơ hội tiếp xúc.

Trong phần chia sẻ tiếp sau đây, tôi sẽ trình bày theo quan điểm của tôi, những gì mà phương pháp thực tập của Làng Mai đã đóng góp cho bức tranh tổng thể về việc áp dụng chánh niệm trong các trường học và khung cảnh giáo dục xung quanh bức tranh này. Đây là những suy nghĩ rất riêng của cá nhân tôi với tư cách một nhà giáo dục và không đại diện cho bất kỳ một quan điểm chính thống nào của Làng Mai. Tôi chia sẻ những suy nghĩ này với hy vọng giúp chúng ta hiểu được bối cảnh mà trong đó phương pháp thực tập của Làng Mai được biết đến một cách rộng rãi, dễ tiếp cận và vô cùng quý giá đối với các giáo viên trong thế giới ngày nay.

Một sự chuyển dịch theo hướng phát triển lành mạnh và tích cực

Thế giới dường như đang đứng trước một cuộc khủng hoảng về sức khỏe tinh thần, đặc biệt là trong giới trẻ. Các vấn đề về sức khỏe tinh thần đang là nguyên nhân chính của những căn bệnh không gây tử vong nhưng lại chiếm khoảng ¼ tổng gánh nặng ngân sách dành cho bệnh tật trên toàn cầu[2]. Trầm cảm, lo lắng, tự hủy hoại bản thân, tự tử và những hành vi bạo động, hung hãn ngày càng gia tăng. Gắn liền với những căn bệnh này là trạng thái căng thẳng và bất mãn, tuy ít nghiêm trọng hơn nhưng cũng đang lan tràn trong xã hội. Việc xử lý những căn bệnh này càng trở nên khó khăn hơn vì cảm giác xấu hổ và sự kỳ thị đối với các bệnh về tinh thần: người ta cảm thấy khó mà nói ra bệnh tình vì sợ bị chê cười là yếu đuối hoặc bị tẩy chay.

Vậy chúng ta phải làm thế nào để xử lý những đau khổ và căng thẳng của mình, hay nói một cách tích cực hơn là làm thế nào để chúng ta trở nên hạnh phúc hơn? Đó là câu hỏi muôn thuở của con người. Chúng ta đã bỏ ra bao nhiêu thời gian và công sức để giải quyết vấn đề này nhưng tình trạng càng ngày càng trở nên rối ren hơn. Điều này cho thấy đây không phải là một câu hỏi dễ trả lời. Tuy nhiên, những nghiên cứu khoa học về lĩnh vực hạnh phúc và sự phát triển lành mạnh[3] đang mang lại cho chúng ta một vài manh mối. Sự thay đổi trong cách tư duy và những bằng chứng từ các nghiên cứu khoa học có sự cộng hưởng rất lớn với những cái thấy của Thiền sư Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai.

Có một sự đổi mới trong các cách tiếp cận về sự phát triển của con người: những yếu tố tích cực được chú trọng nhiều hơn. Rõ ràng là những từ như “hạnh phúc” (well-being), “tâm lý tích cực”(positive psychology), “sức khỏe tinh thần tích cực” (positive mental health), “phát triển mạnh mẽ” (thriving) và “lớn mạnh, đầy sinh lực” (flourishing) ngày càng trở nên phổ biến. Sở dĩ có sự thay đổi tích cực này là vì người ta nhận ra rằng từ bấy lâu việc nghiên cứu chỉ hoàn toàn tập trung vào những khía cạnh tiêu cực của con người, những khó khăn, khổ đau về tinh thần, thay vì nhận diện những yếu tố tích cực trong ta, trong đó có sức mạnh và tính kiên cường (khả năng phục hồi nhanh) có thể giúp ta giải quyết được những vấn đề về sức khỏe tinh thần.

Những người làm trong lĩnh vực giáo dục ngày càng đề cập nhiều về vai trò mở rộng của các trường học. Thay vì chỉ chú trọng đến mục tiêu hạn hẹp là trao truyền kiến thức, các nhà giáo dục đang có một cái nhìn rộng rãi hơn. Họ chú ý đến những yếu tố giúp con người có thể phát triển một cách lành mạnh và toàn vẹn, dựa vào việc nuôi dưỡng những giá trị sống lành mạnh và một nền đạo đức vững chãi. Những từ mà các nhà giáo dục hiện đang sử dụng ngày càng nhiều là “hành vi tiền xã hội” (pro-sociability) – hành vi tự nguyện mang lại lợi ích cho người khác, “tính kết nối”, “sức khỏe tâm lý, cảm xúc và xã hội”, “những kỹ năng về tâm lý, cảm xúc và xã hội”, “trí thông minh về cảm xúc”, “cá tính”, “giá trị sống”, “đạo đức”, “kỹ năng mềm/kỹ năng cảm xúc xã hội”, “kỹ năng sống”, “sự phát triển lành mạnh” và “hạnh phúc”. Các nghiên cứu đang chứng tỏ rằng có một sự liên kết rõ ràng giữa chủ đề mà các nhà giáo dục đang bàn thảo với kết quả học tập của học sinh.[4]

Chế tác hạnh phúc để làm vơi bớt khổ đau

Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai cống hiến cho chúng ta một cách tiếp cận khéo léo để giải đáp câu hỏi hiện nay về vấn đề tạo dựng hạnh phúc của con người. Như lời chia sẻ của Thiền sư trong lá thư mở đầu bộ sách: “Với năng lượng của niệm, định và tuệ, ta có thể chế tác được niềm vui và hạnh phúc bất cứ lúc nào ta muốn. Năng lượng của chánh niệm còn có thể giúp ta xử lý một cảm xúc đau buồn. Nếu không có năng lượng của chánh niệm thì ta có thể bị tràn ngập bởi khổ đau trong tâm mình.”

Thiền sư có một cái nhìn thực tế về khía cạnh tiêu cực, tối tăm trong mỗi con người. Theo Thiền sư, sự giận dữ và bạo động vốn đã tiềm ẩn trong tàng thức của chúng ta dưới dạng những hạt giống; cũng tương tự như vậy với tính thiện và hạnh phúc trong ta. Kết quả mà ta có được tùy thuộc vào hạt giống mà ta tưới tẩm. Những nghiên cứu về tâm lý học tiến hóa cho rằng loài người, trong quá trình tiến hóa, dường như đã không được hậu đãi tốt nhất. Nhiều người trong chúng ta khi sinh ra đã mang trong mình một vài thiên kiến, chẳng hạn như thiên kiến tiêu cực (“negativity bias”) thường khiến cho chúng ta có khuynh hướng nhai đi nhai lại những kinh nghiệm buồn đau, bi quan, lo lắng, giận dữ, lên kế hoạch quá mức, cảnh giác quá độ. Trong quá trình tiến hóa, những khuynh hướng này có thể đã từng giúp cho ta sống sót an toàn khi ta là những động vật bị săn đuổi trong môi trường đầy hiểm nguy, và tạo điều kiện cho những gen bi quan nhất cũng như bạo động nhất được truyền lại cho các thế hệ sau. Thế nhưng trong bối cảnh ngày nay thì những khuynh hướng đó không giúp cho con người chung sống được với nhau, cũng như đối diện được với những thử thách mới của một thời đại nhiều áp lực cùng với sự truyền thông siêu kết nối[5]. Nếu chúng ta muốn sống một đời sống có hạnh phúc và tình thương thì chúng ta phải hành động một cách tích cực.

Chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc không phải là cái mà ta có thể mua bằng tiền bạc, cũng không thể do cố gắng không ngừng mà có. Trạng thái tinh thần tích cực không thể thật sự đạt được nhờ sự tích lũy, địa vị hay sự thành công, cũng không phải nhờ vào “những may mắn” đến với chúng ta. Một khi những nhu cầu thiết yếu của chúng ta đã được đáp ứng đầy đủ thì việc tích lũy thêm nhiều hơn cũng không thể nào mang lại sự gia tăng tương xứng về hạnh phúc tinh thần.[6]

Chúng ta cần phải chế tác hạnh phúc thật sự từ bên trong, thông điệp cốt lõi đó từ phương pháp thực tập của Làng Mai tỏ ra rất có cơ sở. Các nghiên cứu khoa học cho biết hạnh phúc có thể phát triển một cách vững chắc khi chúng ta làm lớn thêm sự gắn kết giữa mình với người, nuôi dưỡng lòng từ bi, vị tha, trân quý hiện tại, chấp nhận những cái mình không thể thay đổi được với thái độ không kỳ thị và tìm được ý nghĩa, mục đích sống của đời mình. Chánh niệm cũng là một yếu tố quan trọng làm tăng thêm hạnh phúc – chúng ta sẽ tìm hiểu những chứng cứ về điều này trong các chương sau.

Mối quan tâm về việc nuôi dưỡng hạnh phúc và sự phát triển toàn vẹn của một con người thông qua giáo dục thực ra không phải là một điều gì mới mẻ. Nhà triết học Aristotle đã nói một câu rất nổi tiếng: “Giáo dục khối óc mà thiếu giáo dục trái tim thì xem như là không giáo dục gì cả”. Nhưng câu nói này dường như không còn được coi trọng như trước đây, vì trường học phải đặt trọng tâm vào việc rèn luyện trí năng và chạy theo thành tích học tập. Xu hướng này thường bị thúc đẩy bởi chương trình phát triển kinh tế quốc gia trong một nền kinh tế cạnh tranh toàn cầu. Hiện nay trên thế giới, ngày càng nhiều giáo viên của các trường chính quy và đại học bắt đầu nhận thấy khuynh hướng đó đã đi quá xa và họ đang có những hành động để làm lớn rộng thêm sứ mệnh của mình. Các giáo viên đang cố gắng nhiều hơn trong việc bồi dưỡng kỹ năng và sức khỏe tinh thần để có thể giúp cho chính mình và cho học sinh được phát triển như những con người toàn vẹn, biết nhận diện cảm xúc, có kỹ năng xây dựng mối quan hệ trong tinh thần trách nhiệm, với ước muốn phát triển và có hạnh phúc trong hiện tại. Phương pháp thực tập của Làng Mai rất thích hợp để yểm trợ cho sự thay đổi này, giúp cho nền giáo dục đi về hướng tiếp cận một cách toàn diện hơn.

Trong bộ sách này, quý vị sẽ được đọc những chia sẻ của các giáo viên cũng như của một số trường học hiện đang áp dụng chế tác hạnh phúc và sự phát triển lành mạnh vào trong việc giảng dạy, với sự trợ giúp của chánh niệm và lấy cảm hứng từ phương pháp thực tập của Làng Mai. Nhiều người nhận thấy rằng sự thay đổi này giúp cải thiện học tập trong học đường và không hề tạo ra sự xung đột nào cả. Chúng ta sẽ cùng khám phá mối liên hệ giữa chánh niệm và việc học trong Chương 2, tập 2 Đi như một dòng sông.

Sự phát triển của thiền chánh niệm

Lấy cảm hứng từ một truyền thống có sự truyền thừa trực tiếp trong suốt 2.500 năm tu tập tại các quốc gia châu Á, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chế tác ra một phương pháp thực tập rất thực tiễn giúp tạo hạnh phúc cho con người. Thập niên 70 của thế kỷ XX đã chứng kiến một làn sóng thiền tập và chánh niệm được du nhập vào xã hội Tây phương, thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những người có ảnh hưởng lớn đến làn sóng ấy, với công trình tiên phong của Thiền sư ở Mỹ và châu Âu, cùng với sự xuất bản cuốn sách nổi tiếng Phép lạ của sự tỉnh thức vào năm 1975. Điều này đã được tăng thân Làng Mai trình bày trong phần mở đầu về lịch sử của phương pháp thực tập chánh niệm.

Từ cuối thập niên 70, Jon Kabat-Zinn, với sự yểm trợ của những người đồng sự, đã dẫn đầu công cuộc tìm kiếm, khám phá một nền tảng khoa học cho thiền tập và làm cho thiền chánh niệm được tiếp cận một cách rộng rãi hơn. Cách tiếp cận của Jon Kabat-Zinn đặt trọng tâm vào những khóa học ngắn hạn, trong đó chánh niệm được đưa vào dưới hình thức những “can thiệp” (interventions) – có thể hiểu là những thuật điều trị trong y khoa – dựa trên nền tảng chánh niệm. Và điều này có lợi điểm là những “can thiệp” dựa trên chánh niệm đó có thể dễ dàng được sử dụng để làm đối tượng cho các phương pháp nghiên cứu khoa học Tây phương, đáng chú ý nhất là phương pháp nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (gọi tắt là RCT, thử nghiệm mức độ ảnh hưởng, mức độ hiệu nghiệm của một phương pháp điều trị trong y khoa).[7] Với một nền tảng chứng cứ khoa học ngày càng phát triển, trong hơn 30 năm qua những can thiệp dựa trên chánh niệm, dưới những tên gọi như phương pháp giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (Mindfulness Based Stress Reduction, viết tắt là MBSR), đã được áp dụng một cách rộng rãi trong mọi lĩnh vực, bắt đầu với lĩnh vực sức khỏe và bây giờ thì đi vào trong hầu hết các lĩnh vực xã hội, áp dụng với mọi nghề nghiệp, cá nhân kể cả trong các trường học. Thiền chánh niệm cho trẻ em và người trẻ đã nhanh chóng được lan rộng ở một số nước trên thế giới. Và hiện nay chúng ta đã có được một tài sản quý giá gồm những chương trình thực tập, những phương pháp trị liệu bằng chánh niệm kèm theo những nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, nuôi dạy con cái và xây dựng cộng đồng.

Chánh niệm về hơi thở, về thân thể và những cử động của thân thể, chánh niệm trong khi ăn, khi đi, cũng như khả năng nhìn lại kinh nghiệm của bản thân với một thái độ cởi mở, tò mò và với tình thương là những thực tập hiện đang được giảng dạy một cách rộng rãi. Đó đều là những phương pháp thực tập mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã thừa hưởng từ truyền thống tâm linh của mình, làm cho nó trở nên hoàn thiện và rồi đem giảng dạy trong suốt cuộc đời của Người trước khi chánh niệm trở nên phổ biến như ngày hôm nay. Sự đóng góp của Thiền sư vào sự phát triển của chánh niệm thật lớn. Hiện nay sự thực tập chánh niệm đã thu hút sự chú ý của một số đông các nhà khoa học. Nhờ vậy mà chúng ta có được một nền tảng chứng cứ khoa học ngày càng tăng cho thấy rằng thiền chánh niệm được áp dụng vào đời sống thực tiễn rất hiệu quả.[8]

Tôi sẽ cố gắng trình bày một cái nhìn tổng quát về cơ sở chứng cứ khoa học xác nhận sự hữu hiệu của thiền chánh niệm. Tôi là một học giả nên lối nói thận trọng của tôi có thể tương phản với cách thổi phồng chánh niệm mà thỉnh thoảng quý vị có thể đọc được hiện nay, nhất là trên các phương tiện truyền thông. Theo tinh thần “thảnh thơi, an trú trong hiện tại” của Làng Mai, chúng ta hãy ăn mừng những gì mình đã biết cho đến nay về những lợi ích của thiền chánh niệm và tạm hài lòng rằng những điều mà ta cần khám phá vẫn còn là con đường dài trước mặt.

Những lợi ích của chánh niệm đối với giáo viên

Các chương trình giảng dạy chánh niệm cho giáo viên đang được phát triển một cách nhanh chóng, trong đó một số gắn liền với chương trình học căn bản trong các trường, một số là dành cho việc đào tạo giáo viên.[9] Trong cuốn sách đáng tin cậy Handbook of Mindfulness in Education[10] (Cẩm nang về chánh niệm trong Giáo dục) được phát hành gần đây, gần nửa cuốn sách dành để đề cập tới lợi ích của thực tập chánh niệm dành cho các giáo viên, khi cùng thực tập chánh niệm với học sinh thì bản thân người giáo viên sẽ có hạnh phúc và bình an.

Những nghiên cứu được tiến hành đối với các giáo viên chỉ khẳng định lại những điều mà khoa học đã chứng minh trong hơn 30 năm qua về những tác động của thiền chánh niệm nói chung. Đối với người lớn, thiền chánh niệm có tác động đối với rất nhiều vấn đề về sức khỏe thể chất và tinh thần, đặc biệt là bệnh trầm cảm và lo lắng; ngoài ra còn tác động đến những kỹ năng về cảm xúc và xã hội, nhận thức và học tập, kinh nghiệm sống và nhiều chỉ số về phẩm chất của đời sống và hạnh phúc trong nhiều môi trường khác nhau. Những kết quả nghiên cứu căn bản về tác động của thiền chánh niệm đã được tóm tắt lại trong bài phê bình của Khoury et al[11] mới đây. Mọi nghiên cứu đều cho thấy có một sự liên hệ rõ ràng giữa số lượng những thực tập chánh niệm mà các học sinh/sinh viên thực hiện với mức độ của những lợi ích mà họ nhận được. Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu về tác động của chánh niệm đối với người lớn hiện đã được chấp nhận là có sức thuyết phục. Vì vậy, chúng ta hoàn toàn có thể tin chắc rằng chúng ta đang đứng trên một nền tảng khoa học vững chắc.

Dẫn chứng tiếp theo về những giá trị cụ thể của thiền chánh niệm đối với giáo viên được lấy từ một bài phê bình mới nhất về lĩnh vực này[12]. Đó chỉ là một dẫn chứng nhỏ nên chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu một cách cẩn trọng, tuy nhiên những nghiên cứu về tác động của chánh niệm đối với giáo viên vẫn đang tiếp tục tăng lên một cách nhanh chóng.

Những giáo viên thực tập chánh niệm thường ít có vấn đề hơn về mặt tinh thần như căng thẳng, trầm cảm và lo sợ. Họ có hạnh phúc nhiều hơn, trong đó có sự lắng dịu, niềm vui sống, lòng tự tin và thương yêu bản thân mình. Họ thể hiện nhiều tình thương hơn đối với chính mình và những người khác. Họ đồng cảm hơn, bao dung hơn, dễ tha thứ hơn, kiên nhẫn hơn, ít giận dữ và ít thù hận hơn. Khả năng nhận thức của họ gia tăng, trong đó có khả năng chú ý và tập trung, đưa ra quyết định và đối phó với những thách thức một cách linh động. Họ trở thành những giáo viên giỏi hơn, có trình độ quản lý và tổ chức lớp học cao, có khả năng xác định các ưu tiên trong công việc, nhìn được tổng quát cục diện, chủ động hơn và tự lập hơn. Họ dễ thích ứng với nhu cầu của học sinh, hỗ trợ và có liên hệ tốt hơn với các em. Các giáo viên đó cũng có thể chất tốt hơn, cụ thể như ít bị cao huyết áp, ít có cortisol[13] hơn, ít có vấn đề về sức khỏe và ít nghỉ vì bệnh hơn.

Những tự thuật của các giáo viên trình bày trong bộ sách này đều có nói đến những lợi ích trên, họ biết chăm sóc và yêu thương bản thân nhiều hơn, có sự đồng cảm và quan tâm đến người khác nhiều hơn, phản ứng chậm lại, có khả năng buông bỏ và giữ một quan điểm cân bằng, giảm bớt sự căng thẳng, ít phê phán chính mình hay kẻ khác một cách tiêu cực.

Lợi ích của chánh niệm đối với trẻ em và người trẻ

Nghiên cứu về tác động của chánh niệm đối với trẻ em và người trẻ cũng cho thấy những kết quả đầy hứa hẹn trong một số các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực y tế và giáo dục. Tuy nhiên, cơ sở chứng cứ ở đây cũng còn tương đối ít. Chúng ta vẫn còn có một con đường dài phía trước, nhưng đây đã là một sự khởi đầu tốt đẹp rồi. Những kết quả dưới đây cũng được lấy ra từ một bài phê bình gần đây.[14]

Nếu được giảng dạy một cách khéo léo thì sự thực tập chánh niệm có thể giúp cải thiện tình trạng sức khỏe về mặt thể chất, tinh thần, cảm xúc, xã hội và cũng tác động lên hạnh phúc của người trẻ. Đặc biệt là chánh niệm có hiệu quả rất tốt trong việc làm giảm thiểu những vấn đề về sức khỏe tinh thần, nhất là đối với trẻ em có khó khăn về tinh thần ở mức độ nghiêm trọng.[15] Chánh niệm có thể giúp làm giảm bớt sự trầm cảm, căng thẳng, lo lắng, phản ứng mạnh và cách cư xử khó chịu. Chánh niệm có thể làm tăng thêm hạnh phúc, đem lại sự lắng dịu, thư giãn và giấc ngủ dễ dàng hơn. Ngoài ra, chánh niệm còn giúp nâng cao khả năng quản lý cảm xúc, ý thức về bản thân, lòng tự trọng và sự thấu cảm. Chánh niệm cũng có tác động rõ ràng lên kết quả học tập[16], làm tăng khả năng học hỏi thông qua phát triển kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hiện và chức năng điều hành của não. Dường như chánh niệm hỗ trợ bằng cách giúp cho người trẻ chú ý hơn, tập trung hơn, suy nghĩ sáng tạo hơn, sử dụng kiến thức hiện có một cách hữu hiệu hơn, phát triển trí nhớ, nâng cao khả năng lên kế hoạch, giải quyết khó khăn và khả năng lý luận. Cho đến nay chưa có tác dụng bất lợi nào của chánh niệm (những thí dụ về tai hại) được báo cáo lại.

Trong khi khảo sát cho bộ sách này, chúng tôi chưa có điều kiện phỏng vấn trực tiếp các học sinh – đây sẽ là công việc cho lần sau – nhưng những báo cáo về sự chuyển hóa nơi học sinh trong lời chia sẻ của các giáo viên có kinh nghiệm thực tập theo phương pháp thực tập của Làng Mai đã hỗ trợ rất nhiều cho những nghiên cứu của chúng tôi. Quý vị sẽ được nghe những câu chuyện về các em học sinh trở nên lắng yên hơn, thư giãn hơn, hạnh phúc hơn, ít trầm cảm và lo âu hơn, kiểm soát suy nghĩ và hành vi của mình tốt hơn, đối xử dễ thương hơn với chính mình và với người khác, biết bày tỏ lòng biết ơn và tình thương, có thể làm giảm bớt khổ đau của mình, có thể đối phó với những thử thách trong học tập và thi cử, trong các mối quan hệ với bạn bè cũng như trong đời sống gia đình.

Chứng cứ khoa học về sự tác động của chánh niệm lên não bộ

Có một sự nhảy vọt trong những nghiên cứu của ngành khoa học thần kinh về thiền chánh niệm. Hiện nay chúng ta đều biết rằng cấu trúc và chức năng của não bộ không hề cố định từ thời thơ ấu. Não bộ có tính mềm dẻo, linh hoạt (“neuroplastic”), nghĩa là nó luôn thay đổi trong suốt cuộc đời của chúng ta. Những nghiên cứu ngày càng nhiều về hình ảnh não bộ (sử dụng kỹ thuật chụp cộng hưởng từ, hay MRI) cho biết thiền chánh niệm có khả năng tạo ra sự thay đổi cấu trúc và chức năng của não bộ một cách sâu sắc và bền vững, giúp cho phẩm chất của suy tư và cảm xúc được cải thiện. Lý giải một cách đơn giản vấn đề tương đối phức tạp này, chúng ta có thể hiểu là thiền chánh niệm dường như có tác động đến việc tái cấu trúc một số đường mòn thần kinh (neural pathways) quan trọng, làm gia tăng mật độ và sự phức tạp của những kết nối trong những khu vực não liên quan tới khả năng nhận thức – như là sự chú tâm, ý thức về bản thân, khả năng quan sát nội tâm mình (nội quan) – và những khu vực cảm xúc liên hệ tới tình thương, lòng từ bi và lý trí. Thiền chánh niệm làm giảm sức hoạt động và sự tăng trưởng của những khu vực não liên quan tới lo âu, thù hận, buồn phiền và sự bốc đồng.[17] Những thay đổi nổi bật nhất được nhận thấy nơi những người thực tập thiền trong thời gian dài, tuy nhiên việc thực tập chánh niệm trong một vài tuần cũng đã tác động rõ ràng lên chức năng và hiệu suất của não bộ.[18]

Tương tự như những phát hiện trên, quý vị sẽ được đọc tự thuật của các giáo viên về những ảnh hưởng của các phương pháp thực tập theo truyền thống Làng Mai đối với bản thân họ. Các giáo viên cảm thấy chánh niệm giúp họ hiểu rõ mình hơn, hiểu những thói quen và động lực của chính mình, cảm thấy trong lòng có nhiều từ bi hơn, bớt thù địch và phê phán người khác, có nhiều khả năng giữ sự bình tĩnh và kiên nhẫn, ít bốc đồng hơn, có lý trí hơn trong nhận thức và hành động.

Phương pháp thực tập của Làng Mai và những chứng cứ khoa học

Những phương pháp thiền tập được đem ra nghiên cứu, về căn bản cũng giống như một số phương pháp thực tập cốt lõi của Làng Mai, như là chánh niệm về hơi thở, chánh niệm trong khi ngồi, khi đi, khi ăn, chánh niệm về thân và những cử động của thân, chế tác lòng từ bi đối với người khác và với chính mình.

Như tôi đã đề cập tới, những chi tiết về tác động của chánh niệm được mô tả trong các tài liệu nghiên cứu tương đối giống với những chia sẻ của các giáo viên thực tập theo phương pháp Làng Mai về kinh nghiệm của chính họ và của các học sinh. Vì vậy, tuy chưa có những chứng cứ khoa học được công bố cụ thể từ chính phương pháp thực tập của Làng Mai (dù một số nghiên cứu hiện đang được tiến hành), chúng ta vẫn có cơ sở để tin rằng phương pháp thiền tập của Làng Mai sẽ đem lại những hiệu quả tích cực, nếu chúng ta nuôi dưỡng sự thực tập của mình một cách chậm rãi và đều đặn.

Một nền tảng đạo đức vững chắc

Trong khi thiền chánh niệm ngày càng trở nên phổ biến, chúng ta càng không nên xem nhẹ hoặc quên rằng chánh niệm đã được phát triển trên nền tảng của một hệ thống đạo đức. Hệ thống đạo đức đó có mục đích tối hậu là giúp cho con người sống một đời sống trọn vẹn trong từ bi và tình thương, thoát khỏi sự ám ảnh quá mức của tiền tài và danh lợi. Phương pháp tu tập của Làng Mai là một ví dụ rõ ràng và hữu ích đối với chúng ta. Phương pháp này không những không mang tính tôn giáo, dễ áp dụng với các giáo viên và có tính thực tiễn, mà còn được xây dựng dựa trên một nền tảng đạo đức vững chắc. Phương pháp này đã thu hút hàng ngàn người, không chỉ vì nó giúp cho chúng ta xử lý được những khó khăn, thách thức của thế kỷ này mà còn vì nó có một mục tiêu đạo đức và xã hội sâu sắc khiến cho nhiều người cảm thấy phương pháp này có một sức hút kỳ lạ.

Những thực tập được giới thiệu trong bộ sách này thực sự giúp tất cả chúng ta, cả giáo viên cũng như học sinh, trở nên điềm tĩnh hơn, tập trung vào công việc hơn và học tập có hiệu quả hơn. Nhưng căn bản hơn nữa, sự thực tập này rõ ràng là một con đường chuyển hóa cho tự thân mỗi cá nhân, từ đó góp phần đem lại một xã hội công bằng, bền vững và từ bi hơn. Trong lá thư mở đầu bộ sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ với chúng ta rằng Người xem mục tiêu của giáo dục là “tạo dựng con người, xây dựng nên một giống người xứng đáng và tốt đẹp để chăm sóc cho hành tinh quý báu của chúng ta”. Thực hiện mục tiêu đạo đức đó bằng sự thực tập chánh niệm, bằng đời sống, bằng sự giảng dạy và học tập của chúng ta là chủ đề xuyên suốt bộ sách này; đó cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời giảng dạy của nhiều giáo viên.

Một cách tiếp cận sâu rộng

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã trình bày rõ ràng cách nhìn của mình về chánh niệm trong phần mở đầu “Thư gửi các thầy giáo, cô giáo”. Người đã sử dụng từ chánh niệm một cách sâu sắc và rộng rãi, khác với ý nghĩa hạn hẹp mà chúng ta thường gặp trong bối cảnh hiện nay. Nó gần như là đi song song với thuật ngữ những phương pháp quán niệm (contemplative practices). Những phương pháp quán niệm được định nghĩa như là “những cách thức mà trải qua nhiều nền văn hóa và qua thời gian, con người đã tìm ra được để có thể tập trung, mở rộng và đào sâu ý thức của mình. Những cách thức này được xem như là cửa ngõ để phát triển toàn vẹn tiềm năng của con người và đem lại một đời sống viên mãn hơn”[19]. Người ta chứng minh là phương pháp này đặc biệt có hiệu quả trong lĩnh vực giáo dục cấp đại học. Cách thức và ngôn ngữ của phương pháp quán niệm phù hợp với văn hóa học thuật (hay văn hóa khoa học), giúp phát triển mạnh các lĩnh vực nghiên cứu, các khóa học và việc phát hành các ấn phẩm sách, báo.[20] Ngoài thiền tập và phát triển lòng từ bi, lĩnh vực giáo dục về quán niệm (contemplative education) bao gồm nhiều hoạt động khác như hoạt động thiện nguyện, công tác xã hội, sáng tạo, nghệ thuật, thi ca, những động tác chánh niệm. Lĩnh vực giáo dục này có sự trùng lặp đáng kể với tính chất rộng lớn và “đi vào cuộc đời” (hay tính chất nhập thế) của các phương pháp thực tập theo truyền thống Làng Mai.

Hỗ trợ cho việc giáo dục các kỹ năng cảm xúc – xã hội

Học hỏi về các kỹ năng cảm xúc – xã hội (social and emotional learning – SEL) là một thuật ngữ có liên quan rất nhiều tới chánh niệm. Các nghiên cứu cho thấy SEL có một mối liên hệ mạnh mẽ với kết quả học tập cũng như hạnh phúc của học sinh. Cơ sở khoa học vững chắc này đã khiến cho SEL trở nên nổi tiếng trong các trường học chính quy và các trường đại học. Mục đích của SEL là giúp cho chúng ta học được kỹ năng hiểu và làm chủ bản thân, quản lý được những cảm xúc của mình, và khả năng xây dựng các mối quan hệ với người khác. CASEL[21] một mạng lưới rộng lớn ở Mỹ rất tích cực trong hoạt động này, đã đưa ra năm lĩnh vực phát triển kỹ năng: ý thức về bản thân, làm chủ cảm xúc, ra quyết định có trách nhiệm, kỹ năng xây dựng quan hệ và nhận thức xã hội/ khả năng thấu cảm với người khác.

Người ta đã bàn luận rất nhiều về sự liên hệ giữa SEL và chánh niệm. Xét về mục tiêu và những lĩnh vực phát triển kỹ năng thì SEL có thể là nơi hỗ trợ tự nhiên cho chánh niệm, trong khi bản chất sinh động của chánh niệm thì lại có công năng đưa SEL trở về thực tại để không bị kéo đi bởi khuynh hướng theo đuổi mục tiêu, thiên về ngôn từ và trí năng.[22] Chánh niệm thường được xem như “mảnh ghép còn thiếu” hay “chìa khóa” giúp đảm bảo cho những mục tiêu đầy tham vọng của SEL có thể đạt được, không phải bằng lời nói, suy tư hay bằng những ý định về tương lai mà nó tác động lên trái tim, lên cơ thể và hành động của chúng ta ngay bây giờ và ở đây.

Quý vị sẽ đọc về những giáo viên thực tập theo phương pháp của Làng Mai, những người đã và đang kết hợp thành công phương pháp chánh niệm và SEL. Phương pháp thực tập của Làng Mai, với tính thực tiễn và có thể áp dụng một cách rộng rãi, là một nơi đặc biệt phù hợp để có thể kết hợp SEL và chánh niệm lại thành một sức mạnh tổng hợp. Đặt trọng tâm vào đạo đức, lòng biết ơn và sự tiêu thụ có chánh niệm, phương pháp thực tập của Làng Mai hỗ trợ một cách rõ ràng và trực tiếp việc rèn luyện kỹ năng đưa ra quyết định có trách nhiệm. Những thực tập như chia sẻ, ái ngữ và lắng nghe sâu hỗ trợ trực tiếp cho những kỹ năng cốt lõi để xây dựng các mối quan hệ và nhận thức xã hội. Sự thực tập ý thức về hơi thở, về hình hài, ôm ấp những cảm xúc mạnh làm phát triển khả năng giữ sự điềm tĩnh, an trú, vững chãi và tập trung.

Một phương pháp toàn diện áp dụng cho toàn bộ trường học

Trong “Lá thư dành cho các thầy giáo, cô giáo”, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói về tầm quan trọng của công việc xây dựng một “cộng đồng tu học”. Trong phần dẫn nhập, tăng thân Làng Mai đã nhắc chúng ta về mục đích của giáo dục: “Mục đích của giáo dục là cung cấp một môi trường mà trong đó học sinh và giáo viên có thể phát triển bản thân, học hỏi được những phương pháp để đem lại một đời sống hạnh phúc, lành mạnh, đầy sáng tạo, hài hòa và có ý nghĩa”.

Tầm quan trọng của việc phát triển chánh niệm trong cộng đồng và môi trường làm việc, mà không chỉ trong từng lớp học, được đặc biệt nhấn mạnh. Điều này có liên hệ đến mối quan tâm ngày càng tăng trong lĩnh vực giáo dục về một “phương pháp toàn diện” hay “phương pháp áp dụng cho toàn trường hay toàn đại học”. Người ta sử dụng những thuật ngữ này để nói lên tầm quan trọng của sự cộng sinh, của mối liên hệ cộng tác giữa các trường học trong cùng một hệ thống, xây dựng nền văn hóa và đặc tính chung có tác dụng hỗ trợ nhau, đảm bảo cho mọi thành phần có thể làm việc chung với nhau trong tinh thần phối hợp, gắn kết và hòa điệu.

Quan niệm này đã được áp dụng khá thành công trong những lĩnh vực được coi là phù hợp nhất để toàn bộ trường học có thể phối hợp với nhau như: sức khỏe thể chất và tinh thần, sự an toàn, công bằng và ngăn ngừa bạo hành nơi học đường. Làng Mai đã rất sáng suốt trong cách tiếp cận của mình khi nhấn mạnh đến việc xây dựng một cộng đồng thực tập chánh niệm từ lúc khởi đầu. Trong Chương 3, tập 2, Đi như một dòng sông, chúng ta sẽ thấy

là việc xây dựng một cộng đồng tu tập đang bắt đầu hình thành ở các trường học, nơi mà sự thực tập chánh niệm đang được áp dụng cho toàn trường.

Tôi cảm thấy thật vinh hạnh khi được làm công việc kết nối các yếu tố khác nhau và những tự thuật của các giáo viên lại thành một câu chuyện mạch lạc, với sự giúp đỡ quý báu của các đồng nghiệp. Chúng tôi cố gắng bắc một chiếc cầu giữa những lời giảng dạy gây cảm hứng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những thực tập cốt lõi của Làng Mai với thế giới qua các trường phổ thông và đại học, với những mối ưu tư thường nhật của các giáo viên bận rộn và các học sinh chịu nhiều áp lực, cũng như với bối cảnh xã hội và giáo dục xung quanh.

Với bộ sách này, chúng tôi mong muốn hiến tặng cho quý vị hai viên kim cương lấp lánh, đó là những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những lời tự thuật sinh động từ kinh nghiệm sống của các giáo viên – những đồng nghiệp của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng bộ sách sẽ hữu ích và đem đến cho quý vị nhiều cảm hứng.

Tất cả chúng tôi, những người tham gia vào công trình biên soạn bộ sách này, mến chúc quý độc giả có nhiều niềm vui trong khi đọc, và quan trọng hơn là quý vị có thể áp dụng được những điều chia sẻ trong tác phẩm này vào đời sống của mình.

Katherine Weare Somerset, UK, Tháng 12 năm 2016


[1] Tạp chí The Mindfulness Bell hay “Tiếng chuông chánh niệm” là tạp chí chính thức bằng tiếng Anh của tăng thân Làng Mai.

[2] Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), năm 2011: Gánh nặng toàn cầu về Rối loạn tâm thần và sự cần thiết phải có cách phản ứng toàn diện và đồng bộ từ các cơ quan Y tế và Xã hội ở cấp quốc gia – Báo cáo của Tổng thư ký WHO, http://apps.who.int/gb/ebwha/pdf_files/EB130/ B130_9-en.pdf.

[3] S. David, I. Boniwell, and A. Conley Ayers. Oxford Handbook of Happiness – (Cẩm nang về Hạnh phúc của đại học Oxford) Oxford, UK: Oxford University Press, 2014.

[4] J. A. Durlak, R. P. Weissberg, A. B. Dymnicki, R. D. Taylor, and K. B. Schellinger, “Enhancing Students’ Social and Emotional Development Promotes Success in School: Results of a Meta-Analysis,” Child Development 82 (2011), 474–501. (Thúc đẩy sự phát triển về cảm xúc và xã hội của học sinh/sinh viên giúp cải thiện kết quả học tập trong trường học: Những kết quả từ phương pháp phân tích tổng hợp)

[5] A. Vaish, T. Grossman, and A. Woodward, “Not All Emotions Are Created Equal: The Negativity Bias in Social-Emotional Development,” (“Không phải tất cả các cảm xúc đều được tạo ra như nhau: Thiên kiến tiêu cực trong quá trình phát triển cảm xúc xã hội” – tạp chí Tâm lý học), Psychological Bulletin 134 (3:2008), 383–40, http://www.cbcd.bbk.ac.uk/people/ scientificstaff/tobias/Vaish_PsycBull_2008.

[6] D. Kahneman and A. Deaton, “High Income Improves Evaluation of Life but Not Emotional Well-Being,” Proceedings of the National Academy of Science, USA 107:38 (2010), 16489–93, doi:10.1073/pnas.1011492107. (“Thu nhập cao giúp cải thiện mức sống, mà không phải là cải thiện hạnh phúc tinh thần”, Nghiên cứu của Viện khoa học quốc gia, Hoa Kỳ).

[7] J. Kabat-Zinn, Full Catastrophe Living: Using the Wisdom of Your Body and Mind to Face Stress, Pain and Illness, revised edition (New York: Bantam/Random House, 2011). (Sống một cuộc sống trọn vẹn bất chấp tai ương: Sử dụng trí tuệ của thân và tâm để đối diện với căng thẳng, đau đớn và bệnh tật) .

[8] D. M. Davis and J. A. Hayes, “What Are the Benefits of Mindfulness?” Monitor on Psychology, the American Psychological Association 43:7 (July-August 2012), 64, http://www.apa.org/ monitor/2012/07-08/ce-corner.aspx. (“Những lợi ích của chánh niệm là gì” – Những giám sát về tâm lý học, Hội Tâm lý học Hoa Kỳ)

[9] N. J. Albrecht, P. M. Albrecht, and M. Cohen, “Mindfully Teaching in the Classroom: A Literature Review,” Australian Journal of Teacher Education 37:12 (2012), Article 1. (“Chánh niệm trong giảng dạy: Nghiên cứu tổng quan”, Tạp chí Giáo dục của Australia)

[10] K. A. Schonert-Reichl and R. W. Roeser, Handbook of Mindfulness in Education: Integrating Theory and Research into Practice (New York: Springer, 2016). (Cẩm nang Chánh niệm trong Giáo dục: Lồng ghép lý thuyết và nghiên cứu vào trong sự thực tập)

[11] B. Khoury, T. Lecomte, G. Fortin, M. Masse, P. Therien, V. Bouchard, M. Chapleau, K. Paquin, and S. G. Hofmann, “Mindfulness-Based Therapy: A Comprehensive Meta- Analysis,” Clinical Psychology Review 33:6 (2013), 763–71. (“Phương pháp trị liệu dựa trên nền tảng chánh niệm: Một phân tích tổng hợp toàn diện”, Tạp chí Tâm lý học lâm sàng)

[12] K. Weare, “Evidence for Mindfulness: Impacts on the Well-Being and Performance of School Staff,” 2014, https://mindfulnessinschools.org/wp-content/uploads/2014/10/Evidence-for- Mindfulness-Impact-on-school-staff.pdf. (Chứng cứ về tác động của chánh niệm đối với hạnh phúc và kết quả làm việc của giáo viên và các nhân viên trong trường học)

[13] Nội tiết tố gây căng thẳng.

[14] K. Weare, “Developing Mindfulness with Children and Young People: A Review of the Evidence and Policy Context,” Journal of Children’s Services 8:2 (2013), 141–53, https://mindfulnessinschools.org/wp-content/uploads/2013/09/Developing-mindfulness- children-young-people.pdf.

(“Phát triển sự thực tập chánh niệm với trẻ em và người trẻ: bình luận về chứng cứ và bối cảnh liên quan đến chính sách”, tạp chí của các ngành liên quan đến trẻ em)

[15] S. Zoogman, B. Simon, S. Goldberg, W. Hoyt, and L. Miller, “Mindfulness Interventions with Youth: A Meta-Analysis,” Mindfulness (2014), doi:10.1007/s12671-013-0260-4. (“Liệu pháp dựa trên chánh niệm đối với người trẻ: một phân tích tổng hợp”, tạp chí Mindfulness)

[16] C. Zenner, S. Herrnleben-Kurz, and H. Walach, “Mindfulness-Based Interventions in Schools – a Systematic Review and Meta-Analysis,” Frontiers in Psychology (2014), doi:10.3389/ fpsyg.2014.00603. (“Những can thiệp dựa trên chánh niệm trong trường học – Đánh giá một cách hệ thống và phân tích tổng hợp”, tạp chí Frontiers in Psychology)

[17] R. J. Davidson, J. Kabat-Zinn, and J. Schumacher, “Alterations in Brain and Immune Function Produced by Mindfulness Meditation,” Psychosomatic Medicine 65:4 (2003), 564–70. (“Những thay đổi trong não và chức năng miễn dịch do tác động của thiền chánh niệm”, tạp chí Psychosomatic Medicine)

[18] R. Davidson and A. Lutz, “Buddha’s Brain: Neuroplasticity and Meditation in the Spotlight,” IEEE Signal Processing Magazine 25:1 (2008), 176–74. (“Não của Bụt: nghiên cứu mối liên hệ giữa độ mềm dẻo của não và thiền tập”, tạp chí IEEE Signal Processing Magazine)

[19] B. Hölzel, S. Lazar, T. Gard, Z. Schuman-Olivier, and U. Ott, “How Does Mindfulness Meditation Work? Proposing Mechanisms of Action from a Conceptual and Neural Perspective,” Perspectives on Psychological Science 6 (2011), 537, doi:10.1177/1745691611419671. (“Thiền chánh niệm vận hành như thế nào? Đề xuất những cơ chế hành động từ góc độ thần kinh học và nhận thức”, tạp chí Perspectives on Psychological Science)

[20] H. Roth, “Contemplative Studies: Prospects for a New Field,” Teacher’s College Record 108:6 (2006), 1787–815. (“Những nghiên cứu về phương pháp quán niệm: Triển vọng cho một lĩnh vực mới”, Teacher’s College Record)

[21] CASEL, http://www.casel.org/social-and-emotional-learning/core-competencies, 2016.

[22] M. Lawlor, “Mindfulness and Social and Emotional Learning: A Conceptual Framework,” in K.A. Schonert-Reichl and R. W. Roeser, Handbook of Mindfulness in Education:Integrating Theory and Research into Practice (New York: Springer, 2016). (“Chánh niệm và việc học hỏi các kỹ năng cảm xúc – xã hội: một khuôn khổ khái niệm”, trích từ Cẩm nang chánh niệm trong giáo dục của K. A. Schonert-Reichl và R. W. Roeser)

Một hướng đi mới cho giáo dục

TĂNG THÂN LÀNG MAI

Hạnh phúc là điều có thể có được

Năm 2011, khi Thầy của chúng tôi – Thiền sư Thích Nhất Hạnh – cầm bút lông lên và viết câu thư pháp “Thầy giáo, cô giáo có hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới” trong tịnh thất đơn sơ của Người ở miền Tây Nam nước Pháp thì đó không phải chỉ là một ước mơ suông, mà đó là tuệ giác sâu sắc dựa trên trải nghiệm của một đời giảng dạy và tu tập.

Trong suốt sự nghiệp giảng dạy của mình, Thầy đã áp dụng sức mạnh của chánh niệm một cách sáng tạo để đáp ứng những nhu yếu, những thách thức của thời đại chúng ta. Mục đích của giáo dục là cung cấp một môi trường mà trong đó học sinh và thầy cô giáo có thể phát triển bản thân, học hỏi được những phương pháp để đem lại một đời sống hạnh phúc, lành mạnh, hài hòa, đầy sáng tạo và có ý nghĩa. Nếu thầy cô giáo biết cách chuyển hóa những khó khăn và chế tác hạnh phúc trong đời sống hằng ngày thì gia đình, đồng nghiệp và học sinh cũng hưởng được lợi lạc. Thầy đã từng nói rằng tài năng lớn nhất của một người là “biết sống hạnh phúc”, và “hạnh phúc là một thói quen mà mỗi người trong chúng ta đều cần phải luyện tập”.

Trong bộ sách này, Thầy và tăng thân Làng Mai, tại Pháp cũng như các trung tâm của Làng Mai trên khắp thế giới, mong muốn chia sẻ với các thầy cô giáo ở mọi cấp bậc giáo dục niềm cảm hứng cũng như kinh nghiệm của mình một cách thực tiễn và không mang màu sắc tôn giáo. Ý thức rằng thầy cô giáo có hạnh phúc sẽ đào tạo nên những học sinh có hạnh phúc, nên bộ sách này sẽ giới thiệu những phương pháp thực tập chánh niệm giúp cho thầy cô giáo và học sinh sống hài hòa hơn với chính bản thân, ý thức được thân và tâm, có thể giảm bớt sự căng thẳng, phát triển lòng tự tin, sự sáng suốt, tình thương, sự thoải mái và niềm vui. Thầy cô giáo biết cách chăm sóc thân tâm, chế tác niềm vui và hạnh phúc, làm giảm bớt sự căng thẳng, xử lý những cảm xúc mạnh, là người thể hiện được sức mạnh kiên cường và tình thương lớn. Một nhà giáo như vậy có thể giúp cho học sinh của mình cũng làm được tương tự.

Mục đích của bộ sách này là cống hiến cho các thầy cô giáo, cũng như các nhà giáo dục nói chung, những phương pháp hữu hiệu để có thể áp dụng chánh niệm vào đời sống hàng ngày của chính mình cũng như trong liên hệ với các đồng nghiệp hay học sinh, giúp xây dựng một môi trường học đường đầy bình an, tình thương và sự yểm trợ, một môi trường mà ở đó có sự tin tưởng, sự truyền thông và hiểu nhau trong các lớp học, cũng như giữa các trường với nhau.

Chánh niệm không phải phương tiện một con đường

Thầy đã chứng minh rằng trong sự thực tập chánh niệm chân chính không thể thiếu một chiều hướng tâm linh hay đạo đức. Vì thế, ở Làng Mai, sự thực tập chánh niệm được chia sẻ và giảng dạy không phải như một phương tiện mà là một con đường. Chánh niệm là nếp sống mà chúng ta phải luôn nuôi dưỡng và làm cho lớn mạnh, sâu sắc hơn. Chánh niệm không phải là phương tiện để ta đạt tới một mục tiêu nào đó. Nó cũng không phải là một

công cụ mà chúng ta sử dụng để có được những kết quả tốt đẹp hơn trong tương lai, cho dù đó là để có hạnh phúc lớn hơn hay kết quả học tập cao hơn. Chánh niệm là một con đường mà khi đi trên con đường đó, dù là người mới thực tập, chúng ta cũng có thể tiếp xúc với hạnh phúc, bình an và thoải mái ngay lập tức, trong mỗi giây phút thực tập. Vì vậy, bộ sách này phác họa một căn bản đạo đức làm nền tảng cho sự thực tập chánh niệm, cống hiến cho chúng ta một kim chỉ nam để xây dựng một môi trường hạnh phúc, lành mạnh và từ bi trong các lớp học, các trường học ở mọi cấp bậc.

Trong một khóa tu dành cho thầy cô giáo tại Làng Mai vào tháng Sáu năm 2014, Thầy đã chia sẻ:

Các nhà quản lý giáo dục có thể bị thu hút bởi sự thực tập chánh niệm vì họ nghĩ rằng sự thực tập này có thể giúp nâng cao thành tích học tập và ngăn chặn tình trạng kiệt sức của thầy cô giáo.

Tuy nhiên, sự thực tập chánh niệm có thể mang lại nhiều lợi ích hơn thế. Chánh niệm có thể giúp cho thầy cô giáo và học sinh ít đau khổ hơn; cải thiện sự truyền thông, xây dựng một môi trường học tập có chất liệu hiểu và thương nhiều hơn. Học sinh có thể học được nhiều điều vô cùng quan trọng như cách xử lý những cảm xúc mạnh, cách chăm sóc cơn giận, cách buông thư và làm giảm bớt căng thẳng, cách tái lập truyền thông và hòa giải với người khác. Sự học tập có ích lợi gì nếu nó không đem lại cho chúng ta hạnh phúc? Sự thực tập chánh niệm có thể mang lại một sự thay đổi sâu sắc trong lớp học cũng như trong toàn hệ thống giáo dục, giúp cho mọi người có thể có hạnh phúc thật sự. Và nếu trong khi thực tập chánh niệm mà học sinh có thể học hành dễ dàng hơn, nhanh hơn và thầy cô giáo không bị kiệt sức thì đó là cũng một điều tuyệt vời.

Cả một đời giảng dạy

Thầy được cả thế giới kính ngưỡng nhờ những lời dạy truyền cảm hứng và những cuốn sách viết về nghệ thuật chánh niệm được xếp vào hạng bán chạy nhất ở nhiều nước trên thế giới. Thầy là người đi tiên phong trong việc đem chánh niệm đến Mỹ và châu Âu. Người đã giảng dạy về chánh niệm tại các trường đại học Princeton, Columbia và Cornell vào đầu những năm 1960. Trong suốt sự nghiệp giảng dạy không mệt mỏi của mình trên khắp thế giới cho đến khi bị đột quỵ vào năm 2014, Thầy luôn không ngừng tìm tòi, sáng tạo những phương pháp áp dụng sự thực tập niệm, định và tuệ để đáp ứng những khó khăn, thách thức của thời đại. Điểm then chốt trong lời dạy của Người là với sự thực tập chánh niệm, chúng ta có thể học cách sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại – đây là cách duy nhất để thực sự đem lại bình an và hạnh phúc trong chính tự thân và trên thế giới.

Thầy sinh năm 1926 tại miền Trung Việt Nam và đã xuất gia năm 16 tuổi. Vào những năm 1950, trong bối cảnh hỗn loạn của chiến tranh, Thầy cùng những người bạn đã bắt đầu tìm kiếm những phương pháp có thể áp dụng tinh hoa của giáo lý và sự thực tập mà mình đã được học vào trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục và nhân đạo. Người cùng các bạn xuất bản những tạp chí cấp tiến, tổ chức những khóa học mới và xây một trường thí điểm cho trẻ em trên vùng cao nguyên Đà Lạt. Người còn thành lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, một cơ sở cứu trợ với hàng ngàn sinh viên, lấy sự bất bạo động và hành động từ bi làm nền tảng; cũng như thành lập trường đại học Vạn Hạnh với một chương trình giáo dục đột phá dành cho tăng ni sinh trẻ. Với nỗ lực không ngừng, Thầy quyết tâm tìm ra phương pháp có khả năng nuôi dưỡng tuệ giác, từ bi và xây dựng một cộng đồng thật sự trong lĩnh vực giáo dục và trong xã hội.

Thầy nỗ lực không mệt mỏi để kêu gọi hòa bình. Người chu du rộng rãi khắp Hoa Kỳ và châu Âu, đích thân gặp gỡ các chính khách và dẫn đầu một phái đoàn Phật giáo Việt Nam tại Hội Nghị Hòa Bình Paris. Từ nước ngoài, Người vẫn tiếp tục công việc yểm trợ cho Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội. Người hướng dẫn những chương trình cứu trợ nạn nhân chiến tranh và tài trợ cho những trẻ em tị nạn mồ côi. Năm 1967, Người đã được Mục sư Martin Luther King, Jr. đề cử cho giải Nobel Hòa Bình. Năm 1970, Người lập chương trình cứu vớt thuyền nhân Việt Nam trên biển Đông. Sự thực tập chánh niệm đã hỗ trợ cho những hoạt động dấn thân của Thầy, và vào năm 1975, Thầy đã cho ra đời tác phẩm kinh điển Phép lạ của sự tỉnh thức trong bối cảnh đó.

Chánh niệm và tăng thân

Tị nạn tại nước Pháp, Thầy và Phái đoàn Hòa Bình (đại diện Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất) đặt văn phòng tại một căn hộ nhỏ trong thành phố Paris. Sau đó văn phòng dời về một trang trại nhỏ ở vùng rừng Othe (Forêt d’Othe) trước khi tìm mua được một nông trại đổ nát ở miền Tây Nam nước Pháp. Tại mảnh đất ở miền Tây Nam này, tăng thân Làng Mai bắt đầu hình thành và mở cửa cho những thiền sinh háo hức muốn tìm hiểu về thiền tập và nghệ thuật sống chánh niệm. Cũng tại nơi đây, Thầy bắt đầu cho pháp thoại, tổ chức các khóa tu dành cho gia đình, giáo chức, doanh nhân, các nhà chính trị, các nhà khoa học, các nhà tâm lý trị liệu, các cựu chiến binh, các sĩ quan cảnh sát. Bắt đầu từ năm 2003, Người tổ chức khóa tu cho người Palestine và người Do Thái.

Được thành lập từ năm 1982, đến nay Làng Mai đã trở thành một trung tâm thực tập chánh niệm quốc tế lớn nhất ở Tây phương với hơn 200 vị xuất sĩ thường trú và hàng ngàn thiền sinh đến tu học mỗi năm.

Khi danh tiếng của Thầy được cộng đồng quốc tế biết đến nhiều hơn, Người được mời đi giảng dạy khắp nơi trên thế giới. Người đã đến giảng ở những nơi như Hạ Viện Mỹ, Quốc hội của các nước như Anh, Bắc Ireland và Ấn Độ, UNESCO, Ngân hàng Thế giới (World Bank), và Đại hội Tôn giáo Thế giới (World Parliament of Religions). Trong 15 năm qua, Người đã thành lập những trung tâm tu học (với sự có mặt của xuất sĩ thường trú) ở California, New York, Việt Nam, Paris, Hồng Kông, Thái Lan, Mississipi, Úc và Đức. Hiện nay có hơn 2.000 nhóm tăng thân cư sĩ thực tập chánh niệm theo truyền thống Làng Mai tại nhiều thành phố trên khắp thế giới, trong đó có hơn 60 nhóm là của người trẻ trong phong trào Wake Up. Những người trẻ này đang tích cực dấn thân vào công việc xây dựng một xã hội lành mạnh và từ bi hơn.

Năm 2008, Thầy bắt đầu triển khai một chương trình đào tạo quốc tế dành cho giáo chức, đem chánh niệm vào môi trường giáo dục như các trường học và đại học ở châu Âu, Bắc Mỹ và châu Á. Đây chỉ là sự tiếp nối những nỗ lực mà Thầy đã làm trong cả cuộc đời mình với mong muốn làm cho việc dạy và học trở nên có ý nghĩa, vui tươi và mang lại sự chuyển hóa cho cả thầy cô giáo và học sinh. Với kinh nghiệm của hơn 30 năm giảng dạy, Thầy và tăng thân Làng Mai đã triển khai và chọn lọc một loạt các phương pháp dồi dào, sáng tạo và hữu hiệu để trao truyền sự thực tập chánh niệm cho giáo chức và người trẻ. Trong khi giảng dạy, Thầy sử dụng hình ảnh của một nhà thơ, tuệ giác của một thiền sư và sự tinh nghịch của một đứa trẻ để chế tác ra những phương pháp đầy sáng tạo, giúp chia sẻ giáo lý và sự thực tập chánh niệm với trẻ em, với những người trẻ, với phụ huynh học sinh và thầy cô giáo. Năm 1987, trong một khóa tu ở Santa Barbara, Người đã sáng chế ra phương pháp thiền sỏi nổi tiếng, gồm có bốn phần, cho trẻ em thực tập. Phương pháp được coi là “kinh điển” ngày nay đã trở nên thông dụng khắp nơi trên thế giới. Người đã dùng một hạt bắp để giảng cho trẻ em về tính tương tức; dùng hình ảnh một đám mây để giải thích về tính vô thường, về cái chết, về sự tiếp nối. Người kể câu chuyện về cái búa và hai bàn tay của mình để giải thích cho các em về tính tương tức và vô phân biệt. Người đã chứng minh rằng những trẻ em nhỏ tuổi nhất cũng có thể học cách chế tác tình thương và sự hiểu biết, hai yếu tố cốt lõi của một nền tảng đạo đức.

Wake Up Schools[1] – Chương trình đem chánh niệm vào trường học

Năm 2008, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đưa ra một chính sách mới về “giáo dục đạo đức công dân” trong các trường học của Pháp để góp phần xây dựng một xã hội có đạo đức hơn. Chính sách này là một phần trong những nỗ lực của Tổng thống Sarkozy sau những vụ bạo động xảy ra tại các thành phố lớn khiến cho cả nước Pháp chấn động một vài năm trước đó. Nhưng có một điều mà ai cũng sớm nhận ra là các thầy cô giáo không biết chắc là mình phải dạy những gì trong các tiết học như vậy.

“Chúng tôi có một vài gợi ý”, Thầy nói vào thời điểm đó và Người dạy các đệ tử của mình trình lên Tổng thống một đề xuất về “đạo đức ứng dụng” mà Làng Mai đã chia sẻ với các em thiếu nhi, thiếu niên và các thầy cô giáo từ thập niên 80. Theo Thầy, học cách làm thế nào để thư giãn, để có mặt thật sự và có chánh niệm, làm thế nào để có sự định tâm, để chế tác từ bi, làm thế nào để thực tập ái ngữ và lắng nghe sâu là những phương pháp “đạo đức ứng dụng” cụ thể, có thể giảng dạy được, không những có công năng lấy đi gốc rễ của bạo động và bất công mà còn mang lại hạnh phúc sâu sắc, dài lâu cho cá nhân, học đường, gia đình và xã hội.

Từ khi phong trào Wake Up Schools bắt đầu đi vào hoạt động năm 2011, Thầy và tăng thân Làng Mai đã hướng dẫn những khóa tu dành cho giáo chức và những chương trình tập huấn nhiều lần trong năm tại Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Anh, Bhutan, Canada, Hàn Quốc, Hồng Kông, Thái Lan và Ấn Độ. Chương trình tập huấn cho giáo viên hiện vẫn đang được tiếp tục hoàn thiện. Giai đoạn tập huấn đầu tiên giúp cho thầy cô giáo biết cách thực tập và chuyên chở được sự thực tập chánh niệm trong tự thân. Giai đoạn thứ hai tập trung vào việc hướng dẫn thầy cô giáo cách thức chia sẻ sự thực tập chánh niệm với học sinh cũng như các cộng đồng có liên quan đến giáo dục. (Các bạn có thể đọc chi tiết cách thức liên lạc với Wake Up Schools và các trung tâm thực tập chánh niệm trong chương “Những gì cần làm kế tiếp” ở tập 2, Đi như một dòng sông).

Tháng 9 năm 2008, Thầy và tăng thân Làng Mai đã triển khai ý tưởng đó xa hơn nữa bằng cách tổ chức một khóa tu mang tính đột phá cho hơn 500 giáo chức tại thành phố Dehradun nằm dưới chân núi Himalayas, miền Bắc Ấn Độ. Trong cuộc gặp gỡ diễn ra một vài tuần sau đó tại Delhi giữa Thầy với bà Sonia Gandhi – Chủ tịch Đảng Quốc đại cầm quyền ở Ấn Độ, thì vấn đề giáo dục và đào tạo giáo chức chiếm vị trí hàng đầu trong nội dung đối thoại. Không ngừng phát triển giáo lý về Đạo đức Ứng dụng, vào năm 2011, Người công bố một sáng kiến mới để phát triển và chia sẻ những phương pháp thực tập này của Làng Mai một cách rộng rãi hơn.

Chương trình Wake Up schools tổ chức những khóa đào tạo, tập huấn dành cho các giáo chức, với nội dung có nguồn gốc từ những phương pháp thực tập cũng như tuệ giác của Làng Mai và không mang tính tôn giáo. Hiện đang hoạt động tại Làng Mai, Pháp, chương trình Wake Up Schools tổ chức các khóa tu và chương trình đào tạo, đề ra nội dung bài giảng cho các lớp học và xây dựng một mạng lưới cộng đồng để yểm trợ cho hạnh phúc an lạc, sự phát triển cá nhân của thầy cô giáo, các nhà quản lý giáo dục, học sinh cũng như các bậc phụ huynh. Wake Up Schools được các đệ tử của Thầy hướng dẫn và được sự yểm trợ, giúp đỡ của một cộng đồng quốc tế gồm các giáo chức và tình nguyện viên có quá trình thực tập chánh niệm lâu dài theo truyền thống Làng Mai.

Mục đích của chương trình Wake Up Schools là cung cấp một nền tảng đạo đức cho các thầy cô giáo, giúp tạo nên một không khí học tập có sự tập trung, hỗ trợ cho chương trình rèn luyện những kỹ năng về cảm xúc và xã hội (social-emotinal learning) trong trường học, đồng thời giúp thầy cô giáo có thêm chánh niệm và hạnh phúc. Wake Up Schools nhận thấy rằng môi trường học đường đang trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết, với những đòi hỏi ngày càng nhiều ở thầy cô giáo và các nhà quản lý giáo dục. Trong khi đó thì áp lực kinh tế và xã hội không ngừng tạo ra những thách thức mới cho đời sống gia đình. Vì vậy cho nên chế tác hạnh phúc, chánh niệm và sự phát triển lành mạnh cho chính mình là một công việc rất quan trọng của giáo chức. Làm được như vậy họ mới có thể giúp cho trẻ em và người trẻ phát triển được kỹ năng cần thiết để có thể xử lý được những thách thức và áp lực, tìm được niềm vui trong đời sống hàng ngày ngay trong giây phút hiện tại. Có được niệm, định, niềm vui và bình an trong tự thân thì các thầy cô giáo có thể đem lại hạnh phúc, sự vững chãi và sáng tỏ trong cộng đồng của họ. Với năng lượng của chánh niệm và từ bi thì lớp học hay trường học sẽ trở thành một gia đình, một nơi mà học sinh, đặc biệt là các em học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, sẽ có được một cơ hội thứ hai. Dần dần, những cộng đồng giáo dục có thể trở thành những tác nhân cho sự phát triển của học sinh, của thầy cô giáo – ở cả phương diện cá nhân lẫn phương diện xã hội – và của cả thế giới.

Bộ sách này đều lấy cảm hứng từ hoài bão của Thầy, đó là đem lại bình an, hạnh phúc và sự phát triển lành mạnh cho thầy cô giáo, học sinh và xã hội. Thầy đã giảng dạy trong hàng chục khóa tu dành cho giáo chức trên khắp thế giới. Người đã theo sát quá trình hình thành bộ sách này trong giai đoạn đầu tiên trước khi bị đột quỵ vào năm 2014.

Trong các khóa tu dành cho giáo chức, Thầy đã có nhiều bài giảng và những buổi vấn đáp đem lại nhiều cảm hứng cho hàng ngàn người tham dự. Những lời giảng của Thầy đã được các đệ tử phiên tả và biên soạn lại dưới hình thức những trích đoạn, làm thành cốt lõi của bộ sách này. Các đệ tử của Thầy đã chắt lọc những tinh hoa từ các bài giảng, những kinh nghiệm và tuệ giác mà Thầy đã hết lòng chia sẻ – đây cũng là một phần quan trọng trong di sản mà Thầy để lại cho thế giới.

Tăng thân Làng Mai Làng Mai, Pháp Tháng 10 năm 2016


[1] Tạm dịch là Trường học Tỉnh thức, đây là tên gọi của chương trình đem chánh niệm vào trường học.

Thư gửi các thầy cô giáo

(Pháp thoại của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, ngày 15/6/2014 trong khóa tu 21 ngày tại Làng Mai, Pháp.)

Là một nhà giáo, tôi rất yêu nghề. Là những thầy giáo, cô giáo, chắc hẳn quý vị cũng yêu nghề. Chúng ta đều muốn đào tạo ra những con người lành mạnh, có khả năng tạo dựng hạnh phúc cho tự thân và cho xã hội. Nhiệm vụ của chúng ta không chỉ là trao truyền kiến thức mà còn là xây dựng con người, xây dựng một xã hội nhân bản để có thể chăm sóc hành tinh yêu quý của chúng ta.

Tôi có rất nhiều may mắn vì những người trẻ đến với tôi đều có cùng một ước muốn chuyển hóa tự thân, sống hạnh phúc và giúp cho những người khác cũng sống hạnh phúc như mình. Mỗi khi vào lớp, tôi luôn cảm thấy hạnh phúc vì giữa thầy trò có sự cảm thông, có tình huynh đệ, điều này giúp cho việc trao truyền và tiếp nhận trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Tôi hỏi thăm các học trò của tôi về đời sống của họ và tôi cũng kể cho họ nghe những khó khăn cũng như những ước mong của tôi, vì vậy luôn luôn có sự kết nối giữa thầy và trò.

Những khó khăn trong công tác giáo dục

Chúng ta biết những người trẻ và các bậc phụ huynh trong thời đại chúng ta có rất nhiều nỗi khổ, niềm đau trong lòng. Cha mẹ không truyền thông được với nhau hay giữa cha mẹ và con cái không dễ dàng nói chuyện được với nhau. Trong lòng những người trẻ luôn có sự cô đơn, trống vắng và chúng tìm cách khỏa lấp nỗi cô đơn trống vắng ấy bằng những trò chơi điện tử, phim ảnh, nghiện ngập hay những thú tiêu khiển độc hại.

Khổ đau trong lòng những người trẻ càng nhiều thì công tác giáo dục càng trở nên khó khăn. Là những thầy giáo, cô giáo, chúng ta cũng có những khó khăn. Chúng ta đã luôn cố gắng nhưng môi trường sống và làm việc của chúng ta quá nhiều khó khăn.

Là những thầy giáo, cô giáo, nếu chúng ta không hạnh phúc thì làm sao chúng ta mong đợi con em mình hạnh phúc? Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng. Có phải là do chúng ta chưa có đủ kiên nhẫn, hiểu biết, thương yêu và tươi mát để xử lý những khó khăn này? Có phải là chúng ta đang cần một đường hướng tâm linh cụ thể để giúp chúng ta chuyển hóa tự thân và sau đó giúp chuyển hóa những người thương đang sống quanh mình? Bởi vì khi chúng ta chưa thay đổi được tự thân thì chúng ta khó lòng giúp được những người khác làm vơi bớt khổ đau của họ. Một khi chúng ta đã có được sự thành công trên con đường chuyển hóa, chúng ta sẽ trở nên vui tươi hơn, từ bi hơn và ta sẽ có khả năng giúp cho những người xung quanh cũng làm được như vậy.

Đem tâm về với thân

Điều đầu tiên chúng ta có thể làm là trở về với tự thân chúng ta. Lối ra tùy thuộc đường vào nội tâm. Trở về để chăm sóc chính mình. Chúng ta cần học cách chế tác niềm vui, cách xử lý những cảm thọ khó chịu hay lắng nghe những nỗi khổ, niềm đau trong mình để có thể hiểu được, thương được và nhờ vậy, khổ đau cũng từ đó mà được vơi nhẹ. Có những phương pháp giúp chúng ta làm được điều này.

Bằng hơi thở chánh niệm, ta đem tâm trở về với thân và sẽ nhận ra rằng trong thân của ta đang có sự căng thẳng, đau nhức và ta thở như thế nào để làm lắng dịu sự đau nhức đó. “Thở vào, tôi ý thức rõ rệt về thân thể tôi. Thở ra, tôi buông thư những căng thẳng trong thân thể tôi”. Chỉ cần thực tập thở như thế trong nửa giờ đồng hồ, hay thậm chí là trong năm phút, thì ta cũng đã có thể thay đổi được cảm xúc.

Nếu không có sự bình an trong thân thì cũng sẽ không có bình an trong tâm bởi vì thân và tâm tương tức. Ta có thể thực tập thở như thế trong những tư thế đi, đứng, nằm, ngồi. Ta có thể thực tập khi ngồi trong xe buýt hay trong xe hơi. Ta cũng có thể thực tập khi chuẩn bị bữa ăn sáng hay khi rửa bát. Vì vậy ta có rất nhiều thì giờ để thực tập buông thư.

Nghệ thuật sống

Thực tập chánh niệm là phải vui. Đó là một nghệ thuật sống. Với niệm, định và tuệ, ta có thể chế tác niềm vui bất cứ khi nào ta muốn. Cũng với năng lượng chánh niệm, ta có thể ôm ấp và xử lý những nỗi khổ, niềm đau. Thiếu năng lượng chánh niệm này, ta sẽ cảm thấy sợ hãi mỗi khi đối diện với những nỗi khổ, niềm đau đang tràn ngập trong lòng ta.

Chánh niệm là nguồn năng lượng giúp ta có mặt trọn vẹn ngay bây giờ và ở đây, giúp ta tiếp xúc được với những gì đang xảy ra trong hình hài, cảm thọ, tâm ý và trong vũ trụ này. Từ đó, ta có thể tiếp xúc với những mầu nhiệm của cuộc sống để ta được nuôi dưỡng và trị liệu.

Khi ta thở vào, thở ra có ý thức là ta đang thở chánh niệm. Khi ta đi trong ý thức là ta đang thực tập thiền đi. Khi ăn sáng trong chánh niệm là ta đang thực tập thiền ăn. Ta không cần phải ngồi suốt ngày trong thiền đường mới gọi là thực tập thiền. Chúng ta có thể thực tập mọi nơi, ngay cả khi đang tắm, đang lái xe, hay đang tập trung cho một dự án, một công việc tại công sở, hay trong những mối quan hệ với mọi người xung quanh. Năng lượng chánh niệm được chế tác bằng những hơi thở ý thức hay những bước chân chánh niệm. Chánh niệm giúp ta đem tâm trở về với thân và một khi thân tâm đoàn tụ thì ta đang thực sự an trú trong phút giây hiện tại. Những mầu nhiệm của sự sống chỉ có mặt trong giây phút đó. Quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, sự sống chỉ thật sự có mặt ngay bây giờ và ở đây.

Chánh niệm giúp ta nuôi lớn chánh định. Với niệm và định thì tuệ giác cũng được phát sinh. Thở vào một hơi thở ý thức, ta sẽ khám phá ra những điều vô cùng đơn giản mà thiết yếu, như cái thấy rằng ta đang còn sống và đang có một hình hài. “Ta biết là ta đang có một hình hài”, đó đã là một tuệ giác rồi. “Thở vào, ta biết ta đang còn sống, còn sống là một mầu nhiệm, mầu nhiệm lớn nhất trong tất cả những mầu nhiệm.” Những người đã chết thì đâu có thể thở được nữa. Thở ra, ta có thể ăn mừng sự sống rằng phổi ta còn khỏe để thở vào, chân ta còn mạnh để có thể bước đi, có thể chạm lên đất Mẹ. Duy trì niệm và định, tuệ giác sẽ được lớn lên.

Dừng lại sự rong ruổi

Ta đang có đầy đủ những điều kiện hạnh phúc, ta không cần phải kiếm tìm thêm. Nếu ta ngồi yên và viết xuống những điều kiện hạnh phúc mình đang có thì một trang giấy không đủ, hai trang giấy cũng không đủ, hay thậm chí đến mười trang rồi mà vẫn còn quá nhiều những hạnh phúc chưa được viết xuống. Và ta sẽ nhận ra rằng mình may mắn hơn nhiều người khác, mình may mắn được sống hạnh phúc bây giờ và ở đây. “Hạnh phúc có thể có được ngay bây giờ và ở đây”, đó là lời Bụt dạy.

Nhiều người nhầm lẫn giữa hạnh phúc và sự hưng phấn. Khi ta vui trong chộn rộn, ta không có đủ bình an trong lòng, chính vì vậy hạnh phúc lúc đó không đủ sâu. Chánh niệm giúp ta nhận biết được rằng hạnh phúc chân thật không đến từ danh vọng, quyền hành, giàu sang và dục lạc. Hạnh phúc chân thật đến từ hiểu biết và thương yêu.

Hạnh phúc chân thật có nghĩa là ta không còn phải chạy đi tìm cầu thêm bất cứ điều gì nữa. Ta hài lòng với những gì ta đang có bây giờ và ở đây, ta nhận thấy có quá nhiều những điều kiện hạnh phúc vốn có quanh ta rồi. Cái thấy đó đem lại cho ta niềm vui lớn. Đó là nghệ thuật hạnh phúc, rất dễ dàng và giản dị mà ai cũng có thể làm được.

Ta chế tác niềm vui không những cho chính ta mà còn cho những người xung quanh. Khi ta có chánh niệm, năng lượng đó sẽ được lan truyền đến mọi người. Một khi ta có được niềm vui, hạnh phúc và sự tỉnh thức, ta cũng đang thắp sáng ngọn đèn tỉnh thức ấy trong những người khác. Hạt giống chánh niệm, tỉnh thức ai cũng có, chỉ là chưa được tưới tẩm, chưa được thắp sáng mà thôi. Đây là một nghệ thuật, không có gì quá khó. Một giáo viên cũng vậy, chỉ trong tích tắc bạn có thể biểu diễn những phép mầu đó, chắc chắn học sinh của bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc.

Nhịp cầu cảm thông

Cuộc sống ngày nay tuy có nhiều phương tiện truyền thông như điện thoại thông minh, mạng xã hội… nhưng càng ngày thì sự truyền thông giữa vợ và chồng, bố mẹ và con cái, thầy cô giáo và học sinh… lại càng trở nên khó khăn. Điều đó nói lên rằng phương tiện truyền thông hiện đại không hề giúp ta truyền thông tốt hơn. Nếu ta không trở về tiếp xúc với tự thân để thấy được đâu là nguyên nhân của những sợ hãi, giận hờn và nỗi khổ, niềm đau trong ta, thì làm sao ta có thể truyền thông được với chính mình? Và một khi ta không thể truyền thông với tự thân thì làm sao ta có thể truyền thông được với những người khác?

Tái lập truyền thông và đem lại sự hòa giải là chuyện có thể làm được. Sự thực tập ái ngữ và lắng nghe giúp cho chúng ta thiết lập lại truyền thông và đưa tới sự hòa giải.

Trước tiên, chúng ta cần có mặt và hiểu được hình hài, cảm thọ, tri giác và khổ đau của chính chúng ta. Chánh niệm giúp ta có khả năng đối diện và hiểu thấu những khổ đau trong ta mà không phải trốn chạy hay tìm cách khỏa lấp chúng.

Tiếp đến, thầy cô giáo có thể ngồi lại với học sinh của mình để cùng chia sẻ những khó khăn nằm sâu bên trong mỗi người. Một khi học sinh đã cảm thông được những khó khăn của thầy cô giáo rồi thì các em sẽ không tiếp sức làm cho những khó khăn ấy lớn thêm. Cũng vậy, một khi thầy cô giáo đã lắng nghe được những khó khăn của học sinh, thầy cô giáo sẽ biết cách để giúp cho các em bớt khổ. Khi đó lớp học sẽ trở thành một không gian chia sẻ hạnh phúc cho tất cả mọi người.

Lắng nghe với tình thương và sự cảm thông giúp cho người kia trải hết lòng ra. Đó là thực tập của Bồ tát Quán Thế Âm, chỉ lắng nghe thôi, không phán xét, không phản ứng. Trong vòng nửa giờ đồng hồ lắng nghe, chúng ta đã có thể làm vơi nhẹ khổ đau trong lòng của người kia.

Thực tập nói lời ái ngữ cũng rất quan trọng. Chúng ta dùng ngôn ngữ hòa ái để nói lên sự thật về niềm đau, nỗi khổ trong ta và cũng nhẹ nhàng khuyến khích người kia mở lòng nói ra những khổ đau của họ. Ái ngữ chính là chìa khóa để mở cửa trái tim của nhau.

Chúng ta có thể áp dụng sự thực tập ái ngữ và lắng nghe trong trường học như thế nào? Chúng ta cần tạo ra những cơ hội để thầy cô giáo và học sinh có thể ngồi lại bên nhau, lắng nghe nhau để có thể cảm thông và hiểu thấu được những khó khăn của nhau. Hiểu được thì thương được. Thử tưởng tượng hình ảnh người thầy ngồi yên chăm chú lắng nghe những tâm tư nỗi niềm của những người học trò của mình. Đó là một hình ảnh đẹp và nuôi dưỡng. Ở nhà, ba mẹ các em đã quá bận rộn nên không thể có mặt được cho các em thì làm gì có thời gian để ngồi xuống và lắng nghe các em? Đó là một thiệt thòi lớn. Đến trường, thầy cô giáo cho các em một cơ hội khác để bù đắp, để các em được lắng nghe, được cảm thông và được thấu hiểu. Chỉ cần được thấu hiểu, các em đã bớt khổ nhiều rồi. Khi đó, thầy cô giáo và học sinh có thể nối kết với nhau, xây dựng niềm tin trong nhau và lấy đi những giận hờn và sợ hãi trong nhau. Đây là một sự thực tập rất cần thiết và nên được khuyến khích tổ chức thường xuyên trong nhà trường. Thầy cô giáo và học sinh nhờ sự thực tập này mà có thêm năng lượng để dạy và học, và đặc biệt là khoảng cách giữa hai thế hệ cũng được gần lại với nhau nhờ nhịp cầu cảm thông.

Nghệ thuật khổ đau

Nhiều người trong chúng ta tin rằng ta không thể có được hạnh phúc bây giờ và ở đây. Ông bà tổ tiên ta cũng từng nghĩ như vậy. Điều này lý giải vì sao ta luôn có khuynh hướng chạy về tương lai để kiếm tìm hạnh phúc. Chúng ta có tập khí rong ruổi, tìm cầu và chẳng bao giờ hài lòng với những gì mình đang có. Tập khí này rất mạnh. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân chánh niệm giúp ta dừng lại, nhận diện và mỉm cười.

Xử lý khổ đau là một nghệ thuật. Chúng ta nói tới nghệ thuật hạnh phúc nhưng cũng có thể nói tới nghệ thuật khổ đau. Chúng ta phải học cách khổ đau. Người biết cách khổ đau thì khổ ít hơn những người khác. Sự thật thì khổ đau đóng một vai trò rất quan trọng. Nếu chúng ta biết cách ôm ấp, chăm sóc và nhìn sâu vào bản chất của khổ đau, chúng ta có thể chế tác được rất nhiều hiểu biết và thương yêu, nền tảng của hạnh phúc chân thật.

Hoa là rác – Rác là hoa

Thầy trò chúng tôi vừa hoàn thành xong Năm giới tân tu, có thể được xem là nền tảng của đạo đức mang tính chất toàn cầu. Nó không mang màu sắc tín ngưỡng cục bộ của một tôn giáo hoặc của một chủ thuyết. Tôn giáo nào, văn hóa nào, chủng tộc nào, địa phương nào cũng có thể lấy Năm giới làm cương lĩnh cho một nếp sống có hòa điệu, có thương yêu, có hiểu biết, có sự tương kính và chấp nhận lẫn nhau. Thực tập theo Năm giới (hay còn gọi là những nguyên tắc sống) này, chúng ta có thể xử lý những khổ đau và hạnh phúc, tái lập lại truyền thông và góp phần giúp cho gia đình, cộng đồng và thế giới vơi đi nỗi khổ. Thực tập theo Năm giới chúng ta cũng có thêm nhiều niềm vui, bình an và hạnh phúc. Nền tảng đạo đức này dựa trên tuệ giác tương tức của đạo Bụt.

“Tương tức” có nghĩa là ta không thể tồn tại một cách riêng biệt. Nhìn vào một bông hoa, ta thấy được những yếu tố không- phải-bông-hoa có mặt. Ta thấy được mặt trời, đám mây, đất đai, người làm vườn, vân vân… Cả vũ trụ đều đang có mặt trong một bông hoa.

Hạnh phúc cũng vậy. Hạnh phúc cũng được làm từ những yếu tố không-phải-hạnh-phúc. Nếu chúng ta liệng bỏ hết những gì không hạnh phúc ấy đi thì chúng ta cũng không bao giờ có được hạnh phúc. Chúng ta cần có bùn để nuôi sen. Mọi thứ nương vào nhau để biểu hiện.

Với tuệ giác tương tức này, chúng ta thấy rõ rằng hạnh phúc không còn là vấn đề cá nhân. Nếu chúng ta hiểu được những khổ đau của chúng ta, nếu chúng ta đủ khéo léo để sử dụng những khổ đau ấy thì chúng ta có thể chế tác được hạnh phúc. Khổ đau và hạnh phúc tương tức nhau là vậy.

Không có gì có thể tự mình tồn tại. Tuệ giác tương tức lấy đi ý niệm về một cái ta biệt lập. Mặc cảm hơn người, thua người và bằng người – nền tảng của khổ đau – cũng từ đó mà không còn. Hầu hết những khổ đau xuất hiện cũng chính từ những tri giác sai lầm như vậy.

Ăn cơm có canh, tu hành có bạn

Chúng ta phải nghĩ tới việc xây dựng tăng thân, tức là một đoàn thể trong đó có những đồng nghiệp hay những người làm việc trong trường học, có thể là 3 hay 4 người mà ta truyền thông được dễ dàng nhất. Chúng ta phải đến với nhau để có thể tiếp tục sự thực tập, thực tập không phải với tính chất một cá nhân hay một gia đình mà là với tính chất một đoàn thể. Chúng ta có thể cùng đi thiền, cùng uống trà hay thực tập thiền buông thư với nhau.

Chúng ta hãy bắt đầu với một nhóm gồm những thầy giáo, cô giáo có hạnh phúc. “Thầy giáo, cô giáo có hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới”. Với tăng thân nhỏ bé đó ta có thể làm thay đổi cả tập thể của trường. Chúng ta có thể viết một lá thư: “Chúng tôi là một nhóm người, chúng tôi đã thực tập như vậy và đã đạt được nhiều sự chuyển hóa trong đời sống, trong việc làm cũng như trong lớp học. Chúng tôi nghĩ thật là tuyệt vời nếu quý vị cùng thực tập với chúng tôi”. Như vậy những đồng nghiệp khác cũng sẽ bắt đầu nếm được sự bình an, tình huynh đệ và sự buông thư đó.

Chúng ta không thể tiếp tục như hiện nay, tại vì nếu các giáo chức không có hạnh phúc, không có sự bình an và sự hòa hợp với nhau thì làm sao chúng ta giúp được cho những người trẻ bớt khổ và thành công trong sự học hành. Xây dựng tăng thân là một công tác cấp bách và mỗi giáo chức phải là một người dựng tăng. Sau khi giác ngộ, việc đầu tiên Bụt đã làm là xây dựng một tăng thân. Ngài biết rất rõ là nếu không có tăng thân thì Ngài sẽ không hoàn thành được sự nghiệp của một vị Bụt.

Giáo chức là một nghề rất cao quý, rất đẹp, rất đáng được kính trọng. Nhưng nếu không có một tăng thân thì chúng ta cũng không làm được gì nhiều. Vì vậy xây dựng tăng thân là một việc tối cần thiết!

Các bạn thân mến, bộ sách trên tay các bạn là hoa trái của công trình biên tập và làm việc hết lòng của cô Katherine Weare – một nhà giáo dục và cũng là một người hướng dẫn chánh niệm – và những người học trò của tôi. Trong bộ sách này, rất nhiều giáo viên đã chia sẻ kinh nghiệm làm thế nào họ có thể tưới tẩm những hạt giống tỉnh thức trong mình và trong mọi người để tạo ra những thầy giáo, cô giáo hạnh phúc có mặt trong các lớp học tại các trường phổ thông và đại học. Những thực tập và phương pháp trình bày trong này đều đã được chia sẻ trong các khóa tu dành cho giới giáo chức đã được tổ chức tại nhiều nước trên thế giới. Cô Katherine, với tuệ giác và kinh nghiệm giảng dạy lâu năm của mình, đã thu thập và trình bày lại một cách rõ ràng, dễ hiểu để chúng ta có thể áp dụng được vào đời sống của chúng ta cũng như trong các lớp học.

Mong sao tất cả chúng ta có đủ thời gian và cơ hội để cùng nhau thực tập những điều này. Chúc các bạn thưởng thức được sự thực tập của mình.

Thích Nhất Hạnh Làng Mai, Pháp Tháng 10, 2014

Tập 1: Cẩm nang hạnh phúc

Lời tựa

JON KABAT-ZINN

Bộ sách bạn đang cầm trên tay là một món quà đặc biệt quan trọng – hay nói cách khác là một sự trao truyền – từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh trao tặng vào giai đoạn chín muồi của một nhân cách vĩ đại. Bạn sẽ thấy rằng nó là kết tinh tình thương sâu sắc của Thiền sư đối với những người trẻ và sự mong mỏi không ngừng về một nền giáo dục bồi dưỡng tài và đức cho các thế hệ mai sau. Ở mỗi trang, bạn có thể cảm được sự tôn vinh dành cho những con người đang thực hiện sứ mệnh này, thường là âm thầm không ai biết, và khối lượng công việc khổng lồ mà họ gánh vác từng ngày nhằm phục vụ cho công cuộc kiến tạo, chuyển hóa và hàn gắn thế giới của chúng ta từ dưới lên, từ thế hệ này sang thế hệ khác – đó là những người thầy, người cô. Đây cũng đồng thời là tác phẩm được kết tinh từ sự cộng tác đầy cảm hứng với giáo sư Katherine Weare, một nhà giáo dục và cũng là một giáo viên về chánh niệm, người đã có nhiều năm nghiên cứu những tác động của thực tập chánh niệm trong môi trường học đường, và đội ngũ các cây bút cố vấn, những học trò lớn của Thiền sư từ Làng Mai. Cùng nhau họ đã thiết kế một cẩm nang thiền tập mang tính đa diện và rất dễ sử dụng để giúp các thầy cô giáo có thể đem chánh niệm vào lớp học cũng như vào đời sống của chính mình bằng nhiều hình thức.

Thực tập chánh niệm có thể giúp người học ở mọi lứa tuổi điều chỉnh công cụ học tập của mình. Điều đó có nghĩa là toàn bộ con người của họ – cơ thể, tâm trí, trái tim và não bộ cũng như các mối quan hệ giữa họ với tư cách là những người học, vì vậy khía cạnh xã hội/môi trường cũng rất quan trọng để đạt kết quả học hỏi và tìm tòi tốt nhất. Điều cốt yếu là phải nuôi dưỡng chính khả năng tập trung chú ý. Thầy cô cần các em tập trung và tìm tòi với sự sáng suốt để thấy được cái gì là quan trọng nhất. Việc chú trọng phát triển khả năng này trở thành một kỹ năng là điều thật sự hữu ích. Kỹ năng này có thể khơi dậy và duy trì trí tò mò cùng niềm đam mê học hỏi suốt đời, cũng như giúp cho người học nắm bắt một cách hiệu quả và hiểu sâu bất cứ bài học cụ thể nào. Ngày càng có nhiều giáo viên trên khắp thế giới nhận thấy điều này… Vì sao không dạy các em làm thế nào để tập trung và lắng nghe sâu, thay vì chỉ đòi hỏi các em phải tập trung như thường thấy trong lớp học khi bản thân các thầy cô lại bị căng thẳng quá mức? Phương pháp thực tập chánh niệm được đưa ra trong bộ sách này là con đường phát triển khả năng đó một cách tự nhiên.

Điều cốt yếu của sự thực tập chánh niệm là sự chú tâm, nhận diện, tìm tòi, khám phá và làm phát khởi cái thấy sâu sắc bằng sự có mặt cẩn trọng, đầy tình thương. Thực tập lắng nghe và nhìn sâu gắn liền với việc học cách tiếp nhận những tri giác và kinh nghiệm của bản thân. Những hoạt động này khơi dậy trí tưởng tượng và óc sáng tạo, giúp chúng ta lột bỏ những lớp vỏ bên ngoài và làm hiển lộ những gì đang thực sự diễn ra ở bên dưới. Đi đôi với các kỹ năng xã hội thiết yếu được trau dồi trong quá trình thực tập chánh niệm, sự thực tập lắng nghe và nhìn sâu giúp chúng ta có thể mở lòng chia sẻ cả những giây phút đầy tuệ giác cũng như những giây phút khó khăn với các đồng nghiệp hoặc học sinh của mình.

Tỉnh thức (chánh niệm) là một khả năng tự nhiên của con người mà trong môi trường giáo dục có lẽ chưa được chú trọng bằng khả năng tư duy. Song có thể thấy sự kết hợp của hai khả năng này giúp người học phát triển vượt trội so với việc chỉ tập trung rèn luyện tư duy đơn thuần. Sự tỉnh thức lớn hơn nhiều so với suy nghĩ, bởi nó chứa đựng suy nghĩ, nhận ra được đó là suy nghĩ chứ không phải sự thật, và vì vậy giúp ta phân biệt được xem thử điều đó có đúng, có hoàn chỉnh, có chính xác hay chưa và có liên quan tới hay là có vẻ mơ hồ đối với vấn đề đang được bàn đến. Đây là một kỹ năng quan trọng đối với việc phát triển tư duy phản biện. Thú vị hơn nữa, nó giúp ta trau dồi khả năng tư duy về mặt cảm xúc, qua đó có thể điều chỉnh cảm xúc và những phản ứng liên quan một cách hiệu quả hơn. Khi tư duy được bổ sung bởi sự tỉnh thức, tư duy sẽ trở nên lớn mạnh và sắc bén hơn, giúp ta tự tin hơn về điều ta biết cũng như nhận ra được những gì ta chưa biết (hy vọng là như vậy), vốn cũng là lĩnh vực quan trọng không kém trong giáo dục, sáng tạo và đời sống.

Có thể thấy rõ rằng các tác giả đã được thấm nhuần truyền thống Phật giáo quý báu từ ngàn xưa khi chánh niệm được trình bày một cách bài bản và tinh tế, song họ đã đóng góp to lớn vào việc biến sự thực tập này trở nên phổ quát, chính thống và mang tính phi tôn giáo. Việc này cũng không phải quá khó, bởi tự bản chất của chánh niệm đã mang tính phổ quát – như nhiều người trong chúng ta vẫn cảm được và chứng nghiệm nó như là “một lối sống” hay “một nếp sống trong tương quan với hiện hữu xung quanh”, vì lẽ đó mà nó cũng chính là sự nhìn sâu vào bản chất các mối quan hệ trong cuộc sống. Giáo dục phần đa là được phát triển dựa trên việc xây dựng và thu nhận kiến thức. Nhiều sinh viên bị lạc lối khi không nhìn ra được mối tương quan giữa điều mình phải học với cuộc đời của mình. Có một điều nghịch lý là khi việc học tập và sự quan tâm của chúng ta được xây dựng trên nền tảng chỉ cần có mặt, tỉnh thức (“being”), thì việc chúng ta làm (và điều chúng ta học) phát sinh từ cái “không làm” đó lại mạnh mẽ, đa dạng và hiệu quả hơn nhiều. Điều này được chứng thực bởi sự phát triển rầm rộ của phong trào thực tập chánh niệm trong học đường trên toàn thế giới, khi ngày càng có nhiều giáo viên thấy cần phải tổ chức công tác dạy học như thế nào để ngay từ đầu sự có mặt trở thành một sự thực tập, chứ không chỉ đơn thuần là “điểm danh” để biết có bao nhiêu học sinh đến lớp trong khi thân của các em có mặt trong lớp nhưng tâm trí và trái tim của các em có thể không có mặt. Tính phổ quát của cách tiếp cận này đã được minh chứng bằng sự tiếp nhận của nhiều giáo viên không theo Đạo Bụt từ khắp nơi trên thế giới. Họ đã thực tập chánh niệm, đã chia sẻ những câu chuyện và đã góp ý cho bộ sách này dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của mình. Như các tác giả đã chỉ ra và trích dẫn trong bộ sách này, có một nền tảng chứng cứ khoa học ngày càng phát triển mạnh mẽ cho thấy hiệu quả của việc rèn luyện các năng lực căn bản của tâm thức (tất cả các giác quan, và chính sự nhận thức, cũng như các cảm xúc về tình thương, lòng từ bi), thậm chí ngay từ tuổi nhỏ, để chúng có thể vừa thúc đẩy khả năng học tập tối ưu vừa kích thích sự tò mò không ngừng về bản thân cuộc sống.

Nhà trường phổ thông và đại học từ lâu đã nhận ra được tầm quan trọng của giáo dục thể chất, bởi ai cũng biết lợi ích của việc vận động và tập luyện thể lực từ thuở nhỏ cho đến suốt cuộc đời. Tuy nhiên mọi người đều hiểu rằng nếu chỉ có nói và nghĩ về chuyện vận động hay tập luyện thì không đủ. Phải thực sự vận động cơ thể và tập luyện cơ xương khớp hằng ngày thì những lợi ích thực sự mới có thể tích lũy dần và trải nghiệm được. Giáo dục thể chất và thể thao cũng giúp ta giảm căng thẳng khi phải tập trung hoạt động trí óc quá mức trong khoảng thời gian quá dài, và cho phép học sinh, sinh viên có cơ hội phục hồi sự cân bằng giữa thể lực và trí óc. Tương tự như vậy, việc thực tập chánh niệm trong trường học có thể được xem như một hình thức rèn luyện trí óc hay giáo dục trí óc để những “cơ bắp” chánh niệm được thức tỉnh, đào luyện và củng cố thông qua sự thực hành chánh niệm một cách liên tục.

Thế giới đang thay đổi quá nhanh đến nỗi chúng ta không thực sự biết được nền tảng tri thức và kỹ năng nào sẽ là quan trọng nhất mà các thế hệ kế cận cần phải trau dồi. Nhưng điều mà chúng ta có thể biết chắc là muốn sáng tạo, yêu nghề, thích nghi với thời đại kỹ thuật số và học hỏi suốt đời thì người trẻ ở lứa tuổi nào cũng cần phải phát triển kỹ năng sống với giây phút hiện tại. Điều này bao gồm kỹ năng làm bạn với chính mình, tin tưởng những trải nghiệm trong nội tâm và học cách làm chủ môi trường bên trong, gồm thân và tâm của mình, cũng như biết cách thích nghi với môi trường học tập bên ngoài khi tương tác với những người khác. Đánh thức khả năng sáng tạo và trí tưởng tượng của bản thân trong suốt cuộc đời theo cách thức này là một yếu tố quan trọng dẫn tới thành công và hạnh phúc như tiêu đề của bộ sách.

Một trong những nguyên tắc chính ở đây là các thầy cô giáo cần thực tập chánh niệm trong đời sống của chính mình trước khi có thể đưa nó vào lớp học một cách hiệu quả. Nếu bạn làm nghề giáo và mới biết đến phương pháp chánh niệm, bộ sách này sẽ hướng dẫn hết sức chi tiết cách bạn thực tập cho chính mình, cũng như cách bạn có thể đưa nó vào lớp học theo cách riêng của mình để giúp học sinh phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần, biết cách chăm sóc cảm xúc và có niềm vui trong khi học. Cần lưu ý rằng không có một phương pháp nào là phù hợp cho mọi hoàn cảnh. Cái hay của cách nhìn này là cho bạn một loạt các lựa chọn để thử nghiệm và trên hết là nhắc bạn nhớ rằng chính sự sáng tạo của riêng bạn, được nuôi dưỡng bởi sự thực tập chánh niệm, sẽ mang đến muôn vàn những cơ hội mới và đầy thú vị. Nói một cách thực tế thì học trò của bạn sẽ là người giúp khơi mở nguồn tuệ giác đó trong bạn. Các em chính là những người thầy chánh niệm vĩ đại nhất của bạn.

Điểm hay của phương thức tiếp cận này là nó có thể bắt nguồn từ tình yêu nghề và tấm lòng mong mỏi học trò tiến bộ, được ấp ủ và truyền đạt bởi chính trực giác và kinh nghiệm thực tiễn của bạn; tất cả những điều này đều dựa vào công phu thực tập trong từng thời khắc của bạn. Theo như tôi nghiệm thấy, những băn khoăn, học hỏi, quán chiếu cứ lớn lên không ngừng trên mảnh đất nuôi dưỡng ấy.

Một trong những tác phẩm đầu tiên của Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng gây chấn động lớn ở phương Tây là cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức. Ở đây, trong bộ sách này, phép lạ ấy đã biến thành sự thật. Xin được bày tỏ lòng biết ơn của bản thân tôi đối với những đóng góp của Thiền sư đã khơi nguồn cảm hứng để xây dựng thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn với thật nhiều tình thương.

Jon Kabat-Zinn

Berkeley, California Ngày 22 tháng 02 năm 2017

Chú thích

[1] Anh Nho được xuất gia làm đệ tử của Thiền sư Trừng Pháp Chân Không, trú trì chùa Đại Bi. Nhiều thập kỷ sau, vào ngày 12 tháng 09, năm 2008, Sư Ông Làng Mai tổ chức họp báo (press conference) cùng với ông Thị trưởng của thành phố Waldbröl, nước Đức, để công bố về việc thành lập Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu (European Institute of Applied Buddhism – EIAB) tại thành phố này. EIAB có hai cơ sở, một là Viện Vô Ưu với tinh thần của một Học viện phi tôn giáo (non-sectarian) và hai là Lâm Tuyền Địa Đại Bi Tự với tinh thần tôn giáo của một tu viện Phật giáo. Tên chùa Đại Bi được Sư Ông chọn để vinh danh ngôi chùa đầu tiên Người tìm đến với đạo Bụt tại Thanh Hóa.

[2] Thầy đã viết về những tháng ngày hạnh phúc ấy trong “Con nghé nhỏ đuổi chạy mặt trời” – Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt cũng như trong tác phẩm Tình người.

[3] Ngoài ra, chùa Từ Hiếu còn trùng khắc mộc bản và in các kinh văn khác như:

– Phật thuyết báo phụ mẫu ân trọng kinh 

– Phật thuyết Cao vương Quán Thế Âm kinh 

– Đại thừa vô lượng nghĩa kinh   

– Pháp bảo đàn kinh  

– Niệm Phật vãng sanh nghi.

[4] Con nghé nhỏ đuổi chạy mặt trời. 

[5] Trong tác phẩm Tình người, chú đã kể về tình bạn giữa chú và một người lính Pháp trẻ tuổi. Chú đã hiểu ra rằng những người lính Pháp qua Việt Nam bắn giết thời chiến tranh cũng chỉ là những nạn nhân. Gốc rễ của khổ đau trong chiến tranh không nằm ở con người mà nằm ngay trong sự vô minh.

[6] Pháp thoại ngày 17.4.2014 tại xóm Mới, Làng Mai trong khóa tu mùa xuân.

[7] Tác phẩm “Bây giờ mới thấy” – NXB Phương Đông. Đến năm 1970, có 72 trường tiểu học và 65 trường trung học tư thục được xây dựng dựa trên mô hình này. Các trường này có tên là trường Bồ Đề, với 58.000 học sinh. Đến năm 1975, tất cả các trường này đều trở thành trường công, dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục.

[8] Giáo sư âm nhạc Nguyễn Hữu Ba trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn cũng có những nghiên cứu sâu về âm nhạc cổ điển, trong đó có âm nhạc Phật giáo.

[9] 10 bài viết gồm:

Đạo Phật là một triết học hay một tôn giáo?

Phật học với các môn học khác

Vấn đề đức Tin trong đạo Phật

Vấn đề Chân lý trong đạo Phật

Vấn đề Khổ Vui trong đạo Phật

Vấn đề Giải thoát trong đạo Phật

Vấn đề Tâm Vật trong đạo Phật

Vấn đề Linh hồn trong đạo Phật

Vấn đề Nguyên nhân Đầu tiên trong đạo Phật

Vấn đề Nhân vị trong đạo Phật.

[10] Tất cả những ai làm việc cho chính phủ Ngô Đình Diệm đều phải theo thuyết Nhân vị này – một đường lối khác biệt với chủ nghĩa tự do cũng như chủ nghĩa Cộng sản.

[11] Trong thời gian giảng dạy ở chùa Ấn Quang, Thầy đã đọc cuốn sách của tác giả Uông Trí Biểu – một nhà khoa học Trung Hoa – có tên là Nhất cá khoa học giả nghiên cứu Phật Kinh đích báo cáo (Bản báo cáo của một nhà khoa học đã từng nghiên cứu Kinh điển Phật giáo), nói về những điểm tương đồng giữa khoa học và Phật học. Cuốn sách này đã được HT. Thích Tuệ Đăng dịch sang tiếng Việt vào năm 1961 với tên Nhìn Phật giáo qua Khoa học.

[12] Năm 1970 tại Paris, trong quá trình nghiên cứu, Thầy phát hiện được rằng Sơ tổ Việt Nam là thiền sư Tăng Hội, lớn hơn Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi khoảng 300 tuổi.

[13] Trích Nẻo về của ý, chương I: “Năm 1955, chắc Nguyên Hưng còn nhớ, tôi được Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam giao cho chủ bút tờ Phật Giáo Việt Nam. Lúc đó, tôi đã có dịp gây ý thức về một nền Phật giáo nhân bản và dân tộc. Tôi cũng đã thấy rõ tính cách rời rạc phân tán của tổ chức đạo Phật, nên đã cố gắng viết tất cả những gì tôi nghĩ về một nền Phật giáo thống nhất toàn vẹn. Tôi chắc Nguyên Hưng biết rõ những nguyên do gần xa trong ngoài của sự rời rạc. Hơn hai năm sau, tờ báo bị đình bản. Lý do là hết tiền. Nhưng kỳ thực, đó là vì các nhà lãnh đạo Phật giáo miền Trung và miền Nam không chịu đựng được những loạt bài nói về vấn đề thống nhất thực sự. Trong một buổi họp, họ đã lấy cớ hết tiền để kết liễu sinh mệnh của tờ báo. Họ có nói: “Ai lại tờ báo của Tổng hội mà đi dạy Tổng hội về vấn đề thống nhất bao giờ”.

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận III.

[14] Mười ba cây tùng: Nguyễn Thị Thu Hà (sau này xuất gia với Hòa thượng Thanh Từ và trở thành Ni sư Thuần Đức), Huỳnh Bá Huệ Dương, Huỳnh Bá Dương, Cao Ngọc Phượng, Cao Ngọc Thanh, Lê Kim Chi, Trương Thị Nhiên, Tôn Thất Chiểu, Đỗ Tuấn Khanh, Phạm Thị Ngọc Liên, Đặng Ngọc Cương, Nguyễn Ngọc Điệp, Nguyễn Ngọc Bích.

[15] Thầy đã có cảm hứng sáng tác bài thơ Đêm hội trăng rằm. Xem Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt – NXB Hội Nhà Văn.

[16] Xem Sen nở trời phương ngoại – Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp hoa, NXB Lá Bối.

[17] Trích Nẻo về của ý.

[18] Trích từ tác phẩm At Home in the World (2016), tr. 87.

[19] Giáo sư Cerbu hơn Thầy 3 tuổi. Ông đã qua đời sau một cuộc phẫu thuật tim vào tháng 11 năm 1964, chỉ một vài tháng sau khi Thầy về lại Việt Nam. Nghe tin, Thầy sửng sốt và đã viết bài thơ Anh ấy chết sáng nay tặng ông. Xem Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt.

[20] Tổng luận về việc Đối phó với Dân ngoại.

[21] Thông tin từ website của Union Theological Seminary, và tác phẩm Nẻo về của ý.

[22] Thông tin từ Union Theological Seminary, và tác phẩm Nẻo về của ý: “Từ đầu mùa Thu tôi được nhận làm việc tại trường đại học Columbia. Tôi dạy mỗi tuần năm giờ, ngoài ra còn có một số giờ phải ngồi văn phòng để tiếp sinh viên và giúp đỡ cho họ về việc sưu tầm tài liệu. Lương tôi được ba trăm năm chục đồng.”

[23] Nửa thế kỷ sau, vào năm 2017, Chủng viện Thần học trực thuộc trường đại học Columbia đã xây dựng chương trình Thạc sĩ về đạo Bụt dấn thân, “Thich Nhat Hanh Master’s Program for Engaged Buddhism”, để vinh danh Thầy – một cựu sinh viên của trường.

[24] Tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện Thử tìm dấu chân trên cát.

[25] Trích pháp thoại của Thầy ngày 11.02.2002 tại xóm Hạ, Làng Mai

[26] Đó là ngày 31.01.1964, trong buổi họp có các thầy Trí Thủ, Thiện Hoa và Thiên Ân.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được chính thức thành lập vào ngày 31 tháng 12 năm 1963, hợp nhất tất cả các tông phái Phật giáo Việt Nam lại thành một Giáo hội duy nhất. Đây là kết quả từ sự nỗ lực của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam từ 10 năm trước.

[27] Khái quát, Thể thức thu nhận sinh viên, Sinh viên chính thức và bán chính thức, Khóa học, Thể thức ghi tên, Các chứng chỉ, Những liên hệ giữa viện và trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, Bằng cử nhân Phật học, Các chứng chỉ ban cử nhân Phật học, Học phí, Học bổng, Lưu xá, Thư viện và Các bằng cấp cao học và tiến sĩ.

[28] Sinh viên phải thi đậu mười hai chứng chỉ để có bằng cử nhân Phật học. Trong mười hai chứng chỉ ấy có năm chứng chỉ bắt buộc: đó là các chứng chỉ Phật học đại cương (6 giờ mỗi tuần), Pháp tướng duy thức học (5 giờ mỗi tuần), Pháp tánh không tuệ học (5 giờ mỗi tuần), Pháp giới viên giác học (5 giờ mỗi tuần) và Thiền tập và Hóa đạo (4 giờ mỗi tuần). Ngoài ra sinh viên phải thi một chứng chỉ sinh ngữ (Anh, Pháp, Đức, Hoa, Nhật) và một chứng chỉ cổ ngữ (Pali, Sanskrit, Tây Tạng hoặc Hán). (Tài liệu từ Thư viện Nhất Hạnh ở Sơn Cốc, Pháp). Sau này, Viện sẽ cung cấp hai mươi sáu chứng chỉ khác nhau để sinh viên rộng bề chọn lựa, trong đó có bốn chứng chỉ về Phật giáo sử và Tôn giáo Tỷ giáo, tám chứng chỉ về Triết học Phật giáo, mười một chứng chỉ về Văn học Phật giáo, ba chứng chỉ về Thực tập.

[29] Chứng chỉ Phật học Đại cương được đảm nhiệm bởi các thầy Thanh Kiểm, Thiên Ân, Nhất Hạnh, Trí Quang và cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền; chứng chỉ Pháp tướng Duy thức bởi các thầy Nhất Hạnh, Thiện Hoa và Thiên Ân; chứng chỉ Văn hóa Đại cương bởi các giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Thẩm, cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền và thầy Nhất Hạnh; chứng chỉ Hán học bởi các giáo sư Phan Khoang và Cao Hữu Đính; chứng chỉ Pali bởi các thầy Minh Châu và Hộ Giác; chứng chỉ Văn học Bát nhã bởi các thầy Trí Quang và Nhất Hạnh; chứng chỉ Văn học Abhidharma bởi thầy Minh Châu. (Tài liệu từ Thư viện Nhất Hạnh ở Sơn Cốc, Pháp).

[30] Trước đó Thầy đã nhận dạy môn Lý tưởng xã hội của người học tăng mới hàng tuần ở Phật học viện Huệ Nghiêm theo lời yêu cầu của thầy Thanh Từ. Xem Tương lai Thiền học Việt Nam.

[31] Tác phẩm Con đường mở rộng – 60 năm theo Thầy học đạo và phụng sự – Hồi kí của Sư cô Chân Không, chương 8.

[32] Bà bác sĩ Ngô Văn Hiệu đã tặng cho 50.000 đồng để in tác phẩm đầu là Bông Hồng Cài Áo, bìa sách do họa sĩ Hiếu Đệ trình bày.

[33] Nhà văn Dương Nghiễm Mậu vẽ bìa cho tác phẩm Tình Người.

[34] Cày Đáy tức là đi thả lưới bắt cá dưới sông.

[35] Nhà thơ Vũ Hoàng Chương – người phụ trách trang thơ của tuần san Hải Triều Âm – đã nói với thầy Châu Toàn rằng “tuy các anh ở nhóm Sáng Tạo ‘lăng xê’ thơ tự do nhiều như thế, nhưng rốt cuộc theo ông thì những bài thơ ‘hòa bình’ của thầy Nhất Hạnh đăng trong Hải Triều Âm lại là những bài thơ tự do thành công nhất, tuy chưa bao giờ thầy nói thơ thầy là thơ tự do” ( Bây giờ mới thấy, NXB Phương Đông)

[36] I.F. Stone, một nhà báo Hoa Kỳ của tuần báo I.F. Stone Weekly rất thích nghe Thầy nói chuyện về thơ. Ông xin đăng những bài thơ hòa bình của Thầy trên tờ The New York Review of Books, một tờ báo rất được giới trí thức Hoa Kỳ ưa chuộng. Thầy dịch cho ông bốn bài, trong đó có bài này, bài Thông điệp và bài Hòa bình.

[37] Trong số này, có thêm giáo sư Dương Kỵ phụ trách tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh của thi hào Nguyễn Du, có truyện của Sơn Nam (một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa Nam Bộ nổi tiếng) và hồi ký của Thiên Giang, một trong ba nhà văn của nhóm văn học Chân trời mới với nhiều ảnh hưởng và đóng góp.

[38] Giữ thơm quê Mẹ là chữ nhạc sĩ Phạm Duy dùng trong Mẹ Việt Nam: “Chúng con đã về khát khao hơi Mẹ, chúng con xin nguyện giữ thơm quê Mẹ”. Nhà thơ Hoài Khanh đảm trách khoảng mười số đầu của tạp chí này, sau đó là nhà thơ Trụ Vũ.

[39] Các đài phát thanh Bắc Kinh, Hà Nội và Giải Phóng lên án gắt gao những bài thơ phản chiến của Thầy. Nhưng Thầy chưa bao giờ xem những bài thơ của mình là “thơ phản chiến”. Thầy nói rằng những bài thơ đó chẳng “chống” bất cứ cái gì; nó chỉ đơn thuần là “những bài thơ kêu gọi hòa bình” mà thôi.

[40]Kẻ thù của chúng ta là cuồng tín, là bạo tàn

Là tham lam, là vu khống

Kẻ thù chúng ta không phải con người

– dù con người gọi là Việt cộng –

Giết con người đi rồi, chúng ta ở với ai ?” – Trích từ bài thơ Chiến tranh, trong tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện.

[41] Lá thư của Thầy gửi cho Mục sư King: https://plumvillage.org/about/thich-nhat-hanh/letters/in-search-of-the-enemy-of-man/

Bản dịch tiếng Việt: https://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/hoa-sen-trong-bien-lua/phu-luc/

[42] Thành lập bởi Alfred Hassler cùng với một số nhân sĩ ở các nước có chi nhánh FOR, theo lời đề nghị của Thầy.

[43] Để hiểu thêm về hoạt động của trường TNPSXH, xin xem tại đây.

[44] Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng cúng dường miếng đất này, một địa điểm tương lai cho Viện Đại học Vạn Hạnh.

[45] Xin đọc thêm chi tiết trong tác phẩm Sáu mươi năm theo Thầy học đạo, hồi ký Sư cô Chân Không.

[46] Trong số các nữ tác viên có cô Hoàng Thị Ngọ mà sau này được nhắc tới trong bản nhạc Ngày xưa Hoàng Thị của Phạm Duy, và cô Bùi Thị Hương, sau này đã đi Nhật và sang Pháp làm việc trong phái đoàn Phật giáo với Thầy.

[47] Quyết nghị này được đăng trong báo Sinh hoạt của Đại học Vạn Hạnh, số 6 ra đầu tháng 4 năm 1966.

[48] Quyết nghị này được đăng trong báo Sinh Hoạt của Đại học Vạn Hạnh, số 7, ra đầu tháng 5 năm 1966.

[49] Inter-University Committee for the Debate on Foreign Policy có trụ sở tại Thành phố Ithaca, miền bắc tiểu bang New York, gần đại học Cornell.

[50] Chuyến đi của Thầy do Nhóm liên đại học của trường Cornell (Cornell’s Inter-University Team) đài thọ.

[51] Hội làm việc cho hòa bình từ thế chiến thứ nhất và thứ nhì cho đến nay với 46 chi nhánh ở 46 quốc gia trên thế giới.

[52] Là thế ngồi mà bạn cảm thấy thoải mái nhất.

[53] Bài báo có tựa “A Plea For Life” của James A. Wechsler, đăng trên tờ New York Post, ngày 18.5.1966.

[54] Đăng ngày 9.6.1966.

[55] Learning to Love: The Journals of Thomas Merton vol. 6 (1997), tr.76.

[56] “Chúng tôi tin rằng những Phật tử Việt Nam hy sinh trong cuộc tranh đấu cho nhân quyền và cho hòa bình cũng như những người Hoa Kỳ chết vì phong trào tranh đấu dân quyền không ai nhắm tới việc làm hại những kẻ độc tài áp bức mà chỉ nhắm tới việc ép họ thay đổi chính sách. Kẻ thù của cuộc tranh đấu cho tự do và dân chủ không phải là người. Kẻ thù đích thực là kỳ thị độc tài, tham vọng bạo động và căm thù, chúng nằm trong trái tim người. Kẻ thù ta không phải là con người mà là những thứ ấy.

“Chúng tôi cũng tin rằng những cuộc tranh đấu cho tự do và bình đẳng […] không phải là để đánh chiếm địa vị cao thắng của một nhóm người trên một nhóm người khác. Mục đích của các cuộc tranh đấu ấy là quyền tự quyết, sự cải tiến xã hội trong tinh thần bất bạo động và một đời sống dễ thở hơn cho tất cả mọi người. Và chúng tôi tin rằng chỉ khi nào có hòa bình thì ta mới có thể đi tới trên con đường xây dựng một xã hội tốt đẹp…”

[57] Alfred Hassler đại diện tổ chức Fellowship of Reconciliation và Paul Lauter đại diện Southern Christian leadership Conference.

[58] Trích từ tác phẩm Hoa sen trong biển lửa:

1. Hoa Kỳ ngưng oanh tạc ở Bắc cũng như ở Nam.

2. Giới hạn hoạt động quân sự Hoa Kỳ và Việt Nam lại trong phạm vi tự vệ. Nếu Mặt Trận đáp ứng thì tức khắc đó là một cuộc ngưng bắn.

3. Hoa Kỳ long trọng cam kết rút quân khỏi Việt Nam trong một thời gian là bao nhiêu tháng, và bắt đầu thực hiện rút ít toàn quân để chứng minh thiện chí và sự thành thực.

4. Hoa Kỳ tuyên bố rõ rệt ý muốn tôn trọng ý chí người Việt trong việc thành lập một chính quyền đáp ứng được nguyện vọng của dân chúng Việt Nam, và thực hiện những hành động cụ thể để chứng minh lời tuyên bố đó như từ chối không ủng hộ nhóm này để đàn áp nhóm khác.

5.Thành thực giúp Việt Nam tái dựng xứ sở đã bị chiến tranh tàn phá. Sự giúp đỡ này hoàn toàn không có sự liên hệ chính trị và ý thức hệ – những thứ được coi là động chạm đến nền độc lập Việt Nam.

[59] Lời tựa của Võ Văn Ái, Paris, ngày 26.01.1967, Hoa sen trong biển lửa do hội Phật tử Việt kiều Hải ngoại xuất bản.

[60] Cuốn sách được phát hành tại Mỹ và Việt Nam đầu năm 1967.

[61] “Theo các phóng viên của Tòa thánh Vatican, các chuyến thăm miền Nam và miền Bắc Việt Nam sau đó của Tổng Giám mục Pignedoli và Đức Ông Huessler có liên hệ đến lời mời của thầy Nhất Hạnh.”— nguồn: Tài liệu của Hội Thân hữu Hòa Giải được lưu trữ tại Swarthmore, có tựa đề “Thich Nhat Hanh: A Brief Biography,” (Thích Nhất Hạnh: Tiểu sử vắn tắt) – năm 1970.

[62] https://langmai.org/cong-tam-quan/thich-nhat-hanh/moi-tinh-tri-ky/

Martin Luther King Jr., Letter of Martin Luther King Jr. to nominate Thich Nhat Hanh for the Nobel Peace Prize (hartford-hwp.com)

[63] Điển hình như trong cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam vào ngày 25.3.1967 tại Chicago (Los Angeles Sentinel).

[64] Thơ từng ôm và mặt trời từng hạtThử tìm dấu chân trên cát.

[65] Viện Hóa đạo GHPGVNTN ấn hành năm 1971, kỷ niệm ngày giỗ thứ tư của Nhất Chi Mai.

[66] Họa sĩ Võ Đình đã dịch vở kịch ra tiếng Anh dưới nhan đề The Path of Return Continues the Journey. Năm 1972, Jim Forest đã in tập sách với NXB Hòa Bình Press thuộc trung tâm Thomas Merton Life Center tại New York, với lời tựa của cha Daniel Berrigan.

[67] Tại Canada, Thầy là người ngoại quốc đầu tiên được mời diễn thuyết trước Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Canada — nguồn: như trên.

[68] Ba điệu là điệu Trí, điệu Hồng và điệu Hải. Điệu Hồng hiện nay là hòa thượng Chí Viên trú trì chùa Linh Phong ở Nha Trang. Điệu Hải là hòa thượng Chí Thắng trú trì chùa Phước Thành ở An Cựu – Huế, còn điệu Trí là cố hòa thượng Chí Mậu.

[69] Thầy đi Portland và Eugene, tiểu ban Oregon; Seattle, tiểu bang Washington; Salem; San Jose, tiểu bang California…

[70] Bà thuộc tổ chức Hội Thân hữu Hòa giải của Anh và hội International Civil Service chuyên xây trường học, mẫu giáo, bệnh xá không công cho các nước nghèo. Bà đã từng giúp Thầy mang tin tức từ Anh về Việt Nam rồi sau đó bà tình nguyện làm việc cho trường TNPSXH về mặt liên lạc đối ngoại.

[71] Đọc thêm Hồi ký của Sư cô Chân Không: 60 năm theo thầy học đạo và phụng sự.

[72] Tên Nhật của cô là Masako Yamanouchi, một thiếu nữ Nhật Bản làm việc thiện nguyện cho Hội American Friends Service Committee (AFSC) của người Quakers, đã qua Việt Nam tình nguyện công tác ở Trường TNPSXH, giúp đỡ về mặt liên lạc quốc tế. Tiếng Anh của cô rất giỏi. Cô nói tiếng Việt cũng khá và hay mặc áo dài như người Việt.

[73] Số 11, đường Goutte d’Or bắt đầu từ tháng 05, năm 1970.

[74] Thích Minh Tâm, Thích Thiện Thắng, Thích Pháp Kiên, Thích Thiện Quả, Thích Thế Tịnh, Thích Chơn Hòa và Thích Trí Quảng.

[75] Người Tây Đức, một nhân vật tiến bộ lúc nào cũng cất cao tiếng kêu gọi hòa bình cho Việt Nam, chủ tịch Hội Hilfe Vietnam.

[76] Một nhà tranh đấu cho quyền sống của trẻ em đói kém vùng Sicilia, rất nổi tiếng vì dám chống lại tập đoàn Mafia ghê gớm của Ý.

[77] Một thành viên của chi nhánh Hội Thân hữu Hoà giải tại Anh và được giải thưởng Nobel Hòa bình.

[78] Học giả thần học người Hà Lan.

[79] Nhà tranh đấu hoà bình lừng danh ở Nam Mỹ.

[80] Nhân dịp đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết phổ biến Thông điệp Hòa bình. Tại Việt Nam Quốc Tự và Tổng vụ Thanh niên, bài tụng đã được đem ra thực tập vào dịp cuối năm dương lịch. Xem bài tụng trong Hồi ký của Sư cô Chân Không: 60 năm theo thầy học đạo và phụng sự, cuốn 2.

[81] Nhóm Third Way in Vietnam tại Anh, Hội Thân hữu Hoà giải tại Hoa Kỳ, và nhóm của tiến sĩ Richard Murray.

[82] Hội Thân hữu Hoà giải tại Hoa Kỳ đã mời Thầy và mục sư Martin Luther King Jr. làm Phó giám đốc. Trước đó hội có khoảng 3.000 hội viên. Sau chuyến du thuyết đầu của Thầy, con số tăng lên trên 20.000 rồi đến 30.000. Hội còn lập thêm một chi nhánh lấy tên là Phật tử thân hữu tranh đấu cho hòa bình (Buddhist Peace Fellowship).

[83] Thầy cư trú với chú Thanh Hương và chú Chơn Hòa tại số 88 Avenue Gambetta, Maisons Alfort, ngoại ô Paris.

[84] Tiến sĩ Pierre Lépine, khoa trưởng Viện Pasteur Paris, tác giả nhiều chương trình khảo cứu về vi trùng học là người phát thảo bản tuyên ngôn.

[85] Thông tin về cuộc gặp gỡ giữa Thầy và ông U Thant, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc ngày 11.05.1971, cũng như sự yểm trợ của ông U Thant được ghi lại và lưu tại kho lưu trữ của Liên Hiệp Quốc. Những thông tin về Hội nghị Đại Đồng được lưu tại Swarthmore Library. Trong thời gian ở Stockholm, chị Cao Ngọc Phượng có một loạt những cuộc gặp gỡ riêng đầy tâm huyết với các bộ trưởng và các cơ quan của Thụy Điển, và cô đã thành công trong việc thuyết phục họ bảo trợ cho chương trình từ thiện xã hội của GHPGVNTN giúp xây dựng lại làng mạc bị dội bom ở Việt Nam. Khoản viện trợ đầu tiên là 300.000 đô-la thông qua Nhà Thờ Tin Lành Thụy Điển (Swedish Lutheran Church). 

[86] Là đệ từ của thầy Bích Nguyên. Hồi nhỏ, điệu được học tại trường Tuệ Quang, Đà Lạt, sau đó sư chú theo học ở Ấn Quang rồi ra ở chùa Từ Hiếu và chùa Ba La Mật một thời gian.

[87] Các hội Third Way in Vietnam, Oxfam, Huddersfield Relief Committee, Christian Aid, Save the Children, Help the Age, Quaker AFSC (American Friend Service Committee) với Richard Murray, Ủy ban Hà Lan với cô Hebe Kohlbrugge và chị Kirsten Roep.

[88] 1 – Việt Nam Cộng hòa, 2 – Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, 3 – Mặt trận Giải phóng Miền Nam và 4 – Phái đoàn. 

[89] Thượng tọa Thích Thiện Hoà làm chủ tịch điều hành, thượng toạ Thích Châu Toàn vừa là Giám đốc Trường TNPSXH, vừa làm Tổng thư ký Uỷ ban, các thượng tọa Thích Thiện Minh và Thích Huyền Quang làm thanh tra điều hành Uỷ ban.

[90] Hồi ký của Châu Văn Thọ, Tổng thư ký trường TNPSXH từ năm 1971 – 1975.

[91] Năm 1970, Thầy tham dự Đại hội Tôn giáo Thế giới và Hòa bình (World Conference on Religion and Peace, WCRP) lần thứ nhất tại Kyoto, Nhật Bản và được đề cử làm Phó chủ tịch Hội đồng.

[92] Năm 1978, thầy Thiện Minh lại bị chính quyền Hà Nội giam giữ trong trại học tập và cuối cùng đã bị bức tử vào ngày 18 tháng 10 ở khám Chí Hoà, Sài Gòn. Tại Phương Vân Am, Thầy và các cộng sự đã làm ngay một bản tin gửi tới các hãng thông tấn quốc tế tại Paris. Ngay tối đó, Thầy viết bài thơ Mây trắng thong dong để tưởng niệm.

[93] Paul Demiéville (1894-1979) là nhà Hán học và Đông Phương học, người Pháp. Ông học văn học Sanskrit với Sylvain Lévi, đọc các văn bản chữ Hán trôi chảy, từng làm việc tại Hà Nội cho l’EFEO (1919-1924). Đến năm 1946, P. Demiéville được bổ nhiệm vào Collège de France, giữ chức giáo sư ngôn ngữ và văn chương Trung Hoa, thừa kế vị tiền nhiệm là Henri Maspero.

[94] Entretiens de Lin Tsi do Fayard ở Paris xuất bản năm 1972 trong loại sách Documents Spirituels.

[95] Trước đó hai năm, Thầy đã viết một tác phẩm với tựa đề là Nẻo vào Thiền học và nhà xuất bản Lá Bối đã phát hành ở Việt Nam. Nay Thầy viết lại bằng tiếng Pháp. Tiếng Anh có tựa Zen Keys: A Guide to Zen Practice, xuất bản năm 1974.

[96] Xem Tương lai thiền học Việt Nam, Cho đất nước đi lên và pháp thoại Thầy ngày 14.11.1991.

[97] Trích Cao Tăng Truyện của Huệ Hạo, Nhất Hạnh dịch.

[98] Căn hộ ở tòa nhà A số 69 đường Desgranges, Sceaux.

[99] Nguồn: Bài viết của Jim Forest với tựa đề “Only the Rice Loves You: a month with Thich Nhat Hanh in Paris,” (“Chỉ có cơm thương mình thôi: Một tháng cùng sống với Thầy Nhất Hạnh”) – 1972.

[100] Thầy viết những trang cuối của lá thư trên gác của giáo sư Thomas Roëp ở Alkmaar tại Hà Lan. Thomas là giáo sư địa chất học. Phu nhân là chị Kirsten, người gốc Đan Mạch, là người có công đầu trong việc vận động thành lập hội Bảo Trợ cho cô nhi chiến tranh ở Việt Nam. Hai anh chị Roëp đã từng qua Phương Vân Am nhiều lần để tu học và làm việc với sư cô Chân Không trong chương trình bảo trợ cô nhi ở Việt Nam. Giáo sư Thomas cũng có giúp Thầy khi Thầy in quyển sách này tại Phương Vân Am với máy offset Gestetner.

[101] Sau khi Mobi dịch xong, Thầy phải sửa lại rất nhiều nhưng Thầy vẫn rất kiên nhẫn. Sửa như vậy mất thì giờ hơn là Thầy tự dịch trực tiếp, nhưng Thầy muốn khuyến khích Mobi tiếp tục dịch những quyển khác. Quyển thứ hai Mobi dịch là Tình người, nhưng bản dịch đã bị thất lạc. Ngoài ra Mobi còn dịch thêm cuốn Am mây ngủ Đường xưa mây trắng.

[102] Đến năm 1987, nhà in Pax Christi ở London xuất bản tác phẩm với tựa đề Be Still and Know: Meditation for Peacemakers. Bản tiếng Pháp đầu tiên lại có tên là Le Miracle est de Marcher sur Terre (Phép lạ là đi trên mặt đất).

[103] Như Hannes de Graaf và Hebe Kolhbrugge ở Hòa Lan, Heinz Kloppenburg và Martin Noemoeller ở Đức, Bertrand Russell và Philip Noel Baker ở Anh, Danilo Dolci và Carlo Levi ở Ý, Andre Trocmé ở Thụy Sĩ, Paul Demiéville và Laurence Schwartz ở Pháp, Thomas Merton, Martin Luther King Jr., Dorothy Day, Arthur Miller, Robert Lowel, A.J. Mustee và Alfred Hessler ở Hoa Kỳ, v.v.

[104] Cùng các bạn, cha Berrigan đã có những hành động bất phục tùng như kêu gọi đốt thẻ trưng binh, lấy sơn đỏ giả máu đi vào những nơi chế tạo hay cất giữ các đầu đạn nguyên tử để trút lên các thứ vũ khí giết người ấy, v.v. Cha hành động theo Thánh kinh dạy là lấy gươm giáo đúc thành lưỡi cày.

[105] Mobi Warren, Pierre Marchand, Neige Achiary, Charles, Raphael, Marie Emmeny, bác sĩ Cao Thị Dung, tiến sĩ Tạ Huệ Châu, tiến sĩ Nguyễn Văn Hướng, Tổng thư ký hội Phật tử Việt Kiều, anh Trần Quang Hải, con trai giáo sư Trần Văn Khê, chị Trần Thị Hằng, anh Thanh Hương, anh Thái Quang Trung, Nguyễn Văn Liêm, Trần Thị Tuyết, Nguyễn Thị Nguyệt, anh Cao Thái, chị Bùi Thị Hương, Thoa và Lợi…

[106] Các tổ chức nhân đạo khác, như: tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International), Friends Quaker House, Christian Aid, Save the Children, Help the Aged, Huddersfield Famine Committee, War Resistance International (WRI), Mouvement Chrétien pour la Paix (MCP), Hilft fur Vietnam (Help for Vietnam in Germany), Oxfam, Huddersfield Relief Committee, Quaker AFSC (American Friend Service Committee) với Richard Murray, nhóm Hà Lan với chị Kirsten Roep.

[107] Xin xem hồi ký của Sư cô Chân Không: 60 năm theo thầy học đạo và phụng sự, cuốn 2.

[108] Thời bấy giờ, bán 1 hộp Campolon đủ mua 30 ký gạo, 1 hộp Aspirin PH8, 15 ký gạo, 1 hộp Becozyme chích, 25 ký gạo, 1 hộp Becozyme viên, 10 ký gạo…

[109] Giới học giả và văn nghệ sĩ mà Thầy đã yểm trợ là: các học giả Nguyễn Đăng Thục, Giản Chi; giáo sư Nguyễn Ngọc Lan; nhà cách mạng uyên bác Đào Duy Anh; các nhà văn Duyên Anh, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Trần Phong Giao, Hoàng Hải Thủy, Nhã Ca, Nguyễn Mạnh Côn, Lê Xuyên, Vĩnh Hảo; các thi sĩ Hoàng Cầm, Hồ Dzếnh, Vũ Hoàng Chương, Trụ Vũ, Nguyễn Đức Sơn; các nhạc sĩ Lê Thương, Vĩnh Phan, Lê Trọng Nguyễn, Nguyễn Đình Toàn, Ngô Nhật Thanh; nhà văn và nhà thơ Thanh Tâm Tuyền; triết gia Nguyễn Sĩ Tế; Nguyễn Cường, Thế Uyên, nhà trào phúng (hề) Khả Năng; nhà thổi sáo Nguyễn Đình Nghĩa; Vũ Đức Duy, các họa sĩ Trọng Nội, Minh Đăng Khánh; bình luận gia Lý Đại Nguyên; …

Xem thêm tác phẩm Phương hương xuôi vạn lý, Sư cô Chân Không.

[110] Giám đốc quản trị là giáo sư Yoshiaki Iisaka, thủ quỹ là ông Willie Tay Kim San và Mahaver Singh, phó giám đốc điều hành Chương trình là giáo sư Cao Ngọc Phượng. Ngoài ra trong Uỷ ban còn có bác sĩ Choy Leng, có Nancy Chug, Mobi Quynh Hoa, Luc Fogarty và Diễm Trang, Bob Allan, Vương Hồ, Kirsten Roep và anh Mừng.

[111] Trích lá thư “Bây giờ rõ mặt đôi ta” viết cho đệ tử ngày 07.03.2010.

[112] “Thầy nhận ra rằng nếu Thầy có thể thuyết phục tòa Đại sứ Pháp thay mặt Thầy can thiệp và thuyết phục chính quyền Singapore cho phép Thầy được ở lại thêm một tuần nữa, Thầy sẽ có đủ thời gian để sắp xếp, bảo đảm an toàn cho hàng trăm thuyền nhân tị nạn đang lênh đênh trên biển không nhiên liệu, không thực phẩm.” – At Home in the World , Thích Nhất Hạnh (2016), tr. 61. ), và lá thư “Bây giờ rõ mặt đôi ta” viết cho đệ tử ngày 7.3.2010.

[113] “Có một thời gian tôi đi học nghề in. Hiện bây giờ tôi in sách và đóng sách khá giỏi. In trong chánh niệm, đóng sách trong chánh niệm. Tôi đã in hàng chục cuốn sách, đóng hàng chục ngàn cuốn sách” – Trích Ngày em hai mươi tuổi, LTLM số 25

[114] Xuất bản năm 1977, những truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, Cung Khanh, Sơn Nam và Võ Hồng. Một năm trước khi có chương trình Máu chảy ruột mềm, ở Sceaux, Thầy cũng đã in một tuyển tập truyện ngắn. Trong đó có truyện Cửa Tùng đôi cánh gài, Ảo tượngGiọt nước cánh chim ký tên Nhất Hạnh và Thiều Chi. 

[115] Xuất bản năm 1981, gồm những bài văn của Trần Kha, Con trai bà Cả Đọi (Hoàng Hải Thủy), Hồ Khanh (Doãn Quốc Sỹ), Linh Thoại, Yên Ba, Hồng Ngọc và Thích Cao Đăng (Thích Quảng Độ).

[116] Tác phẩm này được viết ở Sceaux và xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn, tái bản ở hải ngoại năm 1978.

[117] An Tiêm xuất bản tác phẩm này dưới bút hiệu Nguyễn Lang năm 1974 tại Sài Gòn.

[118] Antoine, Hiếu, Tâm, chị Rosalie, chị Marianne là các con cụ Lương Trọng Tường, và bác sĩ Sơn …

[119] Thầy sang New York để tham dự Hội nghị Tôn trọng Sự sống (Reverence for Life Conference ), một hội nghị liên tôn về vấn đề giải trừ vũ khí hạt nhân được tổ chức song song với một hội nghị thượng đỉnh của các nhà lãnh đạo quốc tế về vấn đề giải trừ vũ khí hạt nhân do Liên Hiệp Quốc tổ chức (“The United Nations Second Special Session on Disarmament”).

[120] Pháp thoại công cộng dành cho các nhà lãnh đạo tôn giáo tại Hàn Quốc ngày 19.3. 2003, được đăng trên báo Mindfulness Bell, số 34, mùa thu 2003.

[121] Để tìm hiểu thêm về lịch sử Làng Mai, xin đọc bài Ngày em hai mươi tuổi (LTLM số 25 – 2002) của Thầy và bài Làng Mai qua năm tháng (LTLM số 35 – 2012) của Sư cô Chân Không trên Trang nhà Làng Mai.

[122] Để tìm hiểu thêm về khóa tu mùa Hè đầu tiên ở Làng, xin đọc thêm Tý Cây tre triệu đốt & Chiếc lá ổi non, NXB Lá Bối châu Âu, NXB San Jose.

[123] Phỏng vấn với Don Latin cho tờ The San Francisco Chronicle, tháng 12 năm 1997.

[124] The 20th Century’s Greatest Hits: A Top 40 List, what works of art should be remembered and why?, Nhà xuất bản Forge/St Martin năm 2000, ISBN 0-312-87391-3.

[125] Những bài giảng cho doanh nhân và các chính trị gia đã được biên tập thành sách The Art of Power (Quyền lực đích thực, 2007); những bài giảng cho tù nhân và các cán bộ trại giam được xuất bản thành sách Be free where you are (Sống tự do ở bất cứ nơi nào ở đâu, 2002); những bài giảng cho người Israel và Palestine được làm thành sách Peace Begins Here: Palestinians and Israelis Listening to Each Other (2001).

[126] Phát biểu của Thầy ở Hàn Quốc, tháng 04 năm 1995, được Daniel J. Adams ghi lại trong “Thich Nhat Hanh Then and Now,”(Thích Nhất Hạnh ngày ấy và bây giờ), Phòng lưu trữ của Trung tâm Thomas Merton Center.

[127] Tại Ấn độ năm 1996, tại Davos năm 2000, tại Nhà trắng tháng 12 năm 2000.

[128] Xem http://www.peace.ca/manifesto2000codeofethics.htm

[129] Xem thêm trong LTLM số 19 năm 1996, LTLM số 23-2000 (bài “Địa thượng thần thông”), LTLM số 25-2002 (bài “Đi như một dòng sông”) và LTLM số 26 – 2003

[130] Trong thư gửi các đệ tử viết tại tu viện Bích Nham ngày 12.10.2007, có tựa đề “Ăn chay để bảo vệ đất Mẹ”, Thầy kêu gọi toàn thể các trung tâm trực thuộc Làng Mai dùng thực phẩm thuần chay để không chỉ làm vơi nhẹ khổ đau cho muôn loài cầm thú mà còn giúp giảm thiểu dấu ấn carbon.

[131] “Spiritual Reflections on War and Peace” (Quán chiếu về hướng đi tâm linh cho vấn đề chiến tranh và hòa bình), in trong Mindfulness Bell số 34, mùa thu 2003.

[132] Xin xem báo cáo chi tiết về chuyến đi này trong LTLM số 29 – năm 2006 trên Trang nhà Làng Mai.

[133] Xin xem LTLM số 31 – năm 2008 về ba Đại trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan và LTLM 32 – năm 2009 về Đại lễ Phật đản (Vesak) tại Hà Nội.

[134] Đọc tác phẩm Cultivating the Mind of Love (1996).

[135] Phỏng vấn của John Malkin, tạp chí Shambhala Sun, ngày 01.07.2003

[136] Phỏng vấn với Melvin McLeod, đăng trên tạp chí Shambhala Sun, ngày 17.2.2017 với tựa đề Love and Liberation: An interview with Thich Nhat Hanh (Tình thương và giải thoát); Xem “Trở về dòng suối nguyên thỉ” – định đề số 37 trong 40 định đề của Làng Mai, tác phẩm Làng Mai nhìn núi Thứu.

[137] This Moment is Full of Wonders: The Zen Calligraphy of Thich Nhat Hanh (2015) & Hương Thơm Quê Mẹ (04.2021).

[138] Bài phỏng vấn Christina Figueres của Jo Confino: “Vị anh hùng ẩn danh đằng sau công cuộc chống biến đổi khí hậu trên thế giới”, đăng trên báo Huffington Post, ngày 22.1.2016.

[139] Bài viết “G. Inarritu trong phim tài liệu về chánh niệm Walk With Me” của Leo Barraclough, đăng trên báo Variety, số ra ngày 9.3.2017.

[140]  Jeff Wilson, Mindful America: The Mutual Transformation of Buddhist Meditation and American Culture (Nước Mỹ chánh niệm: Sự chuyển hóa có tính hỗ tương của thiền tập Phật giáo và văn hóa Mỹ) xuất bản năm 2014, trang 34.

PHỤ LỤC 2: Những tác phẩm của Thầy

1949 – Tiếng địch chiều thu – tập thơ đầu tiên của Thầy, họa sĩ Nguyên Trung vẽ bìa và minh họa, NXB Long Giang

1950 – Ánh xuân vàng dưới bút hiệu Hoàng Hoa, họa sĩ Lê Văn Vinh vẽ phụ bản ba bức, NXB Long Giang

1950 – Thơ ngụ ngôn dưới bút hiệu Hoàng Hoa, Thượng tọa Thích Tố Liên đề tựa, NXB Đuốc Tuệ

1950 – Đông phương luận lý học, họa sĩ Lê Văn Vinh trình bày bìa, NXB Hương Quê

1953 – Gia đình tin Phật, tập hợp những bài viết năm 1948 đã được đăng trọn trên tạp chí Hướng Thiện tại Đà Lạt năm 1951, họa sĩ Lê Văn Vinh vẽ bìa, NXB Đuốc Tuệ (chùa Phước Hòa, đường Audouit Bàn Cờ)

1953 – Là Phật tử, NXB Hương Quê

1955 – Chỉ quán yếu lược, in lại những bài viết của Thầy trên tạp chí Từ Quang, Hội Phật học Nam Việt ấn hành

1957 – Đạo Phật qua nhận thức mới dưới bút hiệu Thạc Đức, tập hợp mười bài viết của Thầy đăng trên báo Dân chủ năm 1955, cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền viết lời giới thiệu, họa sĩ Lữ Hồ trình bày bìa, Hội Phật học Nam Việt ấn hành

1958 – Duy thức học dưới bút hiệu Thạc Ðức, tóm tắt những bài dạy về Duy thức học mà Thầy đã giảng dạy tại lớp Tam niên trung học của Phật học đường Nam Việt, thượng tọa Thích Thiện Hòa viết lời giới thiệu, họa sĩ Tạ Tỵ vẽ bìa, Phật học đường Nam Việt ấn hành

1958 – Cậu Đồng, phóng tác kịch Le Tartuffe của Molière, NXB Sen Vàng

1958 – Đời của Phật, Phật học đường Nam Việt ấn hành

1959 – Để hiểu đạo Phật, dưới bút hiệu Phương Bối, họa sĩ Tạ Tỵ trình bày bìa, Phật học đường Trung Phần ấn hành

1962 – Bông hồng cài áo, NXB Lá Bối Saigon; NXB Hồng Đức (2015); NXB Thế Giới (2019)

1964 Tình người, dưới bút hiệu Tâm Quán, NXB Lá Bối Saigon

1964 – Đạo Phật đi vào cuộc đời, NXB Lá Bối Saigon; NXB Phương Đông (2010); NXB Văn hóa dân tộc (2016)

1964 – Đạo Phật ngày nay, đăng lần đầu tiên trên tạp chí Liên Hoa, Huế và đầu năm 1961, đăng trên báo Tin Tưởng ở Paris cuối năm 1963, xuất bản thành sách ở Paris, NXB Lá Bối Saigon tái bản; NXB Văn hóa dân tộc (2017)

1965 – Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện, tập thơ do họa sĩ Hiếu Đệ trình bày bìa, NXB Lá Bối

1965 – Nói với tuổi hai mươi, NXB Lá Bối Saigon; NXB Văn Hóa Sài Gòn (2007); Phương Đông (2012); NXB Hồng Đức (2016)

1965 – Dialogue (Đối thoại: Cánh cửa hòa bình), tập hợp những lá thư do các nhân sĩ trong nước gửi tới các nhà lãnh đạo tâm linh và nhân quyền của Mỹ cũng như của châu Âu để kêu gọi sự can thiệp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, trong đó có lá thư của Thầy viết cho Mục sư Martin Luther King Jr., NXB Lá Bối Saigon (bản tiếng Việt in chui năm 1968)

1965 – Đừng quên xin đừng vội quên, tập thơ được in chui bởi Hội sinh viên Vạn Hạnh Saigon

1965 – Đạo Phật hiện đại hóa, NXB Lá Bối Saigon; NXB Văn hóa thông tin (2010)

1966 – Phật giáo Việt Nam và hướng đi nhân bản đích thực dưới bút hiệu Trần Thạc Đức, NXB Lá Bối Saigon

1967 – Nẻo về của ý, NXB Lá Bối Saigon; NXB Thời Đại (2011); NXB Hồng Đức (2015)

1967 – Tiếng đập cánh loài chim lớn, họa sĩ Hiếu Đệ trình bày bìa, NXB Lá Bối Saigon

1967 – Vietnam, Lotus in a Sea of Fire (Hoa sen trong biển lửa, in chui và phát hành tại Việt Nam), NXB Hill and Wang, New York, Mỹ

1967 – Nhìn kỹ quê hương, Tổng hội Sinh viên Vạn Hạnh in chui và lấy tên nhà xuất bản là Hội Phật tử Việt kiều Hải ngoại

1967 – Thơ Việt Nam, NXB Unicorn Press, Mỹ

1968 – The cry of Vietnam (Tiếng khóc Việt Nam), tập thơ đầu tiên của Thầy được xuất bản bằng tiếng Anh, NXB Unicorn Press, Mỹ

1969 – Vấn đề nhận thức trong Duy thức học, NXB Lá Bối Saigon

1970 – Đạo Phật ngày mai, dưới bút hiệu B’su Danglu (tên của làng người Thượng ở B’lao, nơi tọa lạc Phương Bối Am), NXB Lá Bối Saigon

1993 Love in action (Thương yêu là hành động), NXB Parallax Press, Mỹ

1971 – Nẻo vào Thiền học, NXB Lá Bối Saigon

1971 – Ảo tượng, tập truyện ngắn viết chung với nhiều tác giả khác. Ký các bút hiệu Thiều Chi (Ảo tượng), Nhất Hạnh (Cửa tùng đôi cánh gài), Tuệ Uyển (Đối diện), NXB Lá Bối Saigon

1972 – Nẻo về tiếp nối đường đi, một vở thoại kịch sáng tác năm 1967

1972 – The path of return continues the Journey (Nẻo về tiếp nối đường đi), NXB Hoa Binh Press, Mỹ

1973 – Đạo Phật áp dụng vào đời sống hàng ngày, viết chung với thầy Huyền Quang, Viện Hóa Đạo ấn hành (NXB Lá Bối Saigon in lần 2 năm 1974); NXB Phương Đông (2012)

1973 – Clefs pour le Zen, NXB Seghers, Paris

1974 – Văn Lang dị sử, dưới bút hiệu Nguyễn Lang, NXB An Tiêm (NXB Lá Bối Paris tái bản năm 1976, NXB Lá Bối Sunnyvale tái bản năm 1982 với tựa đề Hương vị của đất – Văn Lang dị sử); NXB Tôn Giáo (2005); NXB Văn hóa văn nghệ (2015)

1974 – Việt Nam Phật giáo sử luận I, dưới bút hiệu Nguyễn Lang, NXB Lá Bối Saigon

1975 – The Raft is not the Shore (Chiếc bè không phải là bờ bên kia) (được viết chung với cha Daniel Berrigan), NXB Beacon Press ở Boston, Mỹ

1975 – Kinh quán niệm hơi thở, Nhất Hạnh dịch và chú giải, xuất bản 75 cuốn dưới dạng một tập sách phổ biến nội bộ (NXB Lá Bối San Jose in năm 1987)

1976 –Hàm tiếu thiền (Phép lạ của sự tỉnh thức), dưới bút hiệu Thạch Đức, in chui tại Việt Nam. Phép lạ của sự tỉnh thức, NXB Lá Bối Paris tái bản năm 1977; NXB Tôn Giáo (2006); NXB Phương Đông (2015)

1976 – Zen Poems, thơ bằng tiếng Anh và tiếng Việt, họa sĩ Võ Đình minh họa, NXB Unicorn Press, Mỹ

1978 – Kinh người biết sống một mình, NXB Lá Bối châu Âu

1978 – Kinh bát đại nhân giác, NXB Lá Bối Paris

1978 – Việt Nam Phật giáo sử luận II, dưới bút hiệu Nguyễn Lang, NXB Lá Bối châu Âu

1979 – Bưởi, gồm nhiều truyện ngắn là Tùng, Bưởi, Hồng, NXB Lá Bối Paris

1980 – Tương lai thiền học Việt Nam, NXB Lá Bối Paris

1980 – Tố, gồm ba truyện ngắn là Tố (sau này có tên là Thạch Lang), ThiềuLan, NXB Lá Bối châu Âu

1980 – Thử tìm dấu chân trên cát – ghi chép về thơ thầy Nhất Hạnh, NXB Lá Bối châu Âu; NXB Phụ Nữ (2020)

1982 – Tương lai văn hóa Việt Nam, NXB Lá Bối châu Âu, NXB Lá Bối San Jose

1982 – Am mây ngủ – Truyện ngoại sử, NXB Lá Bối Paris ấn hành, NXB Lá Bối San Jose tái bản năm 2009; NXB Phương Đông (2015)

1982 – Trái tim mặt trời, NXB Lá Bối châu Âu ấn hành; NXB Hồng Đức (2019) 

1983 – Thiền hành yếu chỉ, NXB Lá Bối Paris, San Jose; NXB Phương Đông (2016)

1984 – Tý cây tre triệu đốt & Chiếc lá ổi non, NXB Lá Bối châu Âu, NXB San Jose

1985 – Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Lá Bối Paris; NXB Văn Học (2008); Phương Đông (2012); NXB Hồng Đức (2019)

1985 – Từng bước nở hoa sen, NXB Lá Bối châu Âu, NXB San Jose; NXB Văn hóa văn nghệ (2018)

1985 – Giới Tiếp hiện chú giải, NXB Lá Bối Paris

1986 – An trú trong hiện tại, tu viện Kim Sơn ấn hành, NXB Lá Bối San Jose tái bản năm 1990

1987 – Kinh Pháp ấn, NXB Lá Bối Paris

1987 – Being Peace, NXB Parallax Press, Mỹ. Muốn an được an, NXB Lao Động (2014)

1988 – Đường xưa mây trắng, NXB Lá Bối San Jose; NXB Tôn Giáo (2005); NXB Hồng Đức (2014)

1989 – Nghi thức tụng niệm, NXB Lá Bối San Jose

1989 – The Heart of Understanding, NXB Parallax Press, Mỹ

 – Trái tim của hiểu biết, NXB Lá Bối San Jose (1991)

1990 – Con đường chuyển hóa – Kinh Bốn lĩnh vực quán niệm dịch và chú giải, NXB Lá Bối; NXB Tôn Giáo (2006); NXB Hồng Đức (2015)

1991 – Peace is every step, NXB Bantam Books, Mỹ. 

  • An lạc từng bước chân, NXB Lá Bối, 1995; NXB Tổng hợp TP.HCM (2009)

1992 – Kim cang – Gươm báu chặt đứt phiền não, NXB Lá Bối; NXB Thời Đại (2011); NXB Văn hóa văn nghệ (2015) 

1992 – Touching Peace (Tiếp xúc bình an), NXB Parallax Press, Mỹ

1993 – Im lặng sấm sét – Kinh người bắt rắn (Alagaddupama Sutta) dịch và chú giải, NXB Lá Bối San Jose

1993 – Love in Action (Thương yêu là hành động), NXB Parallax Press, Mỹ

1993 – For a Future to be Possible, NXB Parallax Press, Mỹ. Để có một tương lai, NXB Lá Bối (2007); NXB Thế Giới (2019)

1994 – Sen búp từng cánh hé – những bài thiền tập hướng dẫn có công năng chuyển hóa và trị liệu, NXB Lá Bối

1993 – Kinh người áo trắng, NXB Lá Bối San Jose

1994 – Kiều và văn nghệ đứt ruột – cùng năm bài thuyết giảng khác và nhiều tài liệu ghi chép sinh hoạt chùa Làng Mai, NXB Lá Bối San Jose

1994 – A Joyful Path (Con đường vui), NXB Parallax Press, Mỹ

1995 – Living Buddha, Living Christ (Bụt ngàn đời, Chúa ngàn đời), best seller, NXB Riverhead, Mỹ

1995 – Thương yêu theo phương pháp Bụt dạy, NXB Lá Bối San Jose; NXB Phương Đông (2015); NXB Hồng Đức (2019)

1995 – Be Still and Know (Lặng yên thấy rõ), NXB Riverhead, Mỹ

1996 – Nói với người xuất gia trẻ tuổi, NXB Lá Bối

1996 – Bước tới thảnh thơi – Giới luật và uy nghi của các vị sa di (dùng chung cho nam và nữ), NXB Lá Bối; NXB Hồng Đức (2014)

1998– The Long Road Turns to Joy (Đường dài em bước như dạo chơi), NXB Parallax Press, Mỹ

1996 – Cultivating the Mind of love (Chế tác tâm thương yêu), NXB Parallax Press, Mỹ

1996 – Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt – Tuyển tập thơ Nhất Hạnh, NXB Lá Bối; NXB Hội Nhà Văn (2015)

1997 – Nhật tụng thiền môn năm 2000 – toàn bằng quốc văn, NXB Lá Bối; NXB Hồng Đức (2012)

1997 – Trái tim của Bụt, NXB Lá Bối; NXB Tôn Giáo (2005); NXB Tổng hợp TPHCM (2009)

1998 – Schritte der Achtsamkeit (hình ảnh và pháp thoại Thầy trong chuyến hoằng pháp Ấn Độ năm 1997 do Thomas Luchinger thực hiện), NXB Herder, Đức

1997 – Những giọt không – tuyển tập nhạc Làng Mai, nhạc sĩ Anh Việt sưu tập và hiệu đính, NXB Lá Bối

1997 – Sự tích Quan Âm Thị Kính, NXB Lá Bối

1997 – Sự tích Quan Âm Hương Tích – The Bodhisattva on the Fragrant Mountain, NXB Lá Bối

1997 – Leo đồi thế kỷ và nhiều pháp thoại khác, NXB Lá Bối

1997 – Vivre en Pleine Conscience (Sống chánh niệm), NXB Terre du Ciel, Pháp

1999 – Đi gặp mùa Xuân – và nhiều pháp thoại khác cùng với tin tức sinh hoạt chùa Làng Mai (trích từ những Lá thư Làng Mai), NXB Lá Bối

1998 – Thiền sư Tăng Hội, NXB An Tiêm, Paris; NXB Lao Động (2015)

1999 – Tuổi Trẻ, Lý Tưởng Và Hạnh Phúc (Kinh Samiddhi bình giải), NXB Lá Bối

1999 – Nghi thức Tụng niệm Đại toàn, NXB Lá Bối San Jose

1999 – Nhạc kinh, NXB Lá Bối San Jose

1999 – Call Me by My True Names (Hãy gọi đúng tên tôi), NXB Parallax Press, Mỹ

1999 – Going Home: Jesus and Buddha As Brothers (Về nhà: Chúa và Bụt là anh em), NXB Riverhead, Mỹ

2000 – Thiết lập Tịnh độ Kinh A di đà thiền giải, NXB Lá Bối; NXB Tôn Giáo (2005); NXB Hà Nội (2020)

2000 – Thả một bè lau – Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán, NXB Lá Bối, NXB Tôn Giáo (2005); NXB Hồng Đức (2015)

2000 – Giếng nước thơm trong – và nhiều bài pháp thoại khác cùng với tin tức sinh hoạt các chùa Làng Mai, NXB Lá Bối

2000 – Năm cánh tỏa kỳ hương, NXB Lá Bối

2000 – Das Erbluhen des Lotos (gồm bài giảng về từ, bi, hỷ, xả), NXB Theseus, Đức

2000 – The Path of Emancipation , NXB Parallax Press, Mỹ

  • Hơi thở nuôi dưỡng hơi thở trị liệu – Kinh Quán Niệm Hơi Thở Áp Dụng Vào Đời Sống Hằng Ngày, NXB Hồng Đức (2010)

2001 – Hạnh phúc mộng và thực – Kinh Tam Di Đề bình giải (Samiddhi Sutta), NXB Lá Bối; NXB Phương Đông (2015) – NXB Hồng Đức (2019)

2001 – Sen nở trời phương ngoại – thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp hoa, NXB Lá Bối; NXB Văn hóa văn nghệ (2019)

2001 – Thiền – Chất Liệu Nuôi dưỡng, Trị Liệu và Chuyển Hóa, NXB Lá Bối

2001 – Anger, NXB Riverhead, Mỹ

  • Giận, NXB Lá Bối; NXB Văn Hóa Sài Gòn (2006); NXB Phương Đông (2009); NXB Hồng Đức (2020)

2001 – A Pebble for Your Pocket (Viên sỏi trong túi áo), NXB Parallax Press, Mỹ

2001 – Understanding Our Mind – Transformation at the Base (Hiểu thấu tâm ta – Chuyển hóa tận gốc), NXB Parallax Press, Mỹ

2001 –Transformation at the Base – Fifty Verses on the Nature of Consciousness (Chuyển hóa tận gốc – Năm mươi bài kệ Duy Biểu), NXB Parallax Press, Mỹ

2001 – Toucher la Vie (Tiếp xúc với sự sống), NXB Dangles, Pháp

2002 – Bồ tát tại gia – Bồ tát xuất gia – kinh Duy Ma Cật giảng luận, NXB Lá Bối; NXB Thế Giới (2020)

2002 – Sống chung an lạc – nghệ thuật xây dựng Tăng thân, NXB Lá Bối

  – Joyfully Together, NXB Parallax Press, Mỹ (2003)

2002 – Truyện Kiều văn xuôi – dành cho người trẻ, NXB Lá Bối; NXB Văn Hóa Sài Gòn (2006); NXB Phương Đông (2016); NXB Hồng Đức (2018)

2002 – Under the Rose Apple Tree (Dưới cây Hồng táo), NXB Parallax Press, Mỹ

2002 – Friends on the Path (Bạn đạo), NXB Parallax Press, Mỹ

2002 – Discorsi ai Bambini e al bambino interiore (Pháp thoại dành cho thiếu nhi), NXB Ubaldini, Ý

2002 – Eschenk der Achtsamkeit (trích từ sách và lời giảng của Thầy), NXB Herder, Đức

2002 – Be Free Where You Are , NXB Parallax, Mỹ

  • Sống tự do bất cứ nơi nào và ở đâu, NXB Lá Bối

2002 – No Death, no Fear , NXB Riverhead, Mỹ

  • Không diệt không sinh đừng sợ hãi, NXB Lá Bối; NXB Hội nhà văn (2018)

2002 – Each Breath a Smile, NXB Parallax Press, Mỹ

  •  Mỗi hơi thở một nụ cười, NXB Văn Hóa Văn Nghệ (2019)

2003 – Hiệu lực cầu nguyện, NXB Lá Bối; NXB Tổng hợp Tp. HCM (2009)

2003 – The Hermit and the Well (Ông Đạo và Giếng Nước), NXB Parallax Press, Mỹ

2003 – Sám Pháp Địa Xúc (Bhūmisparsha), NXB Lá Bối; NXB Thế Giới (2018)

2003 – Creating True Peace (Chế tác chánh bình an), NXB Free Press, Mỹ

2003 – I have arrived, I am home (Đã về, đã tới), NXB Parallax Press, Mỹ

2003 – Finding our True Home (Tìm thấy quê hương đích thực), NXB Parallax Press, Mỹ

2003 – Peaceful Action, Open Heart (Hành động bình an, trái tim rộng mở), NXB Parallax Press, Mỹ

2004 – Mẹ – biểu hiện của Tình thương, NXB Tôn Giáo (2004); NXB Hồng Đức (2009)

2004 – Peace Begins Here (Bình an bắt đầu từ đây), NXB Parallax Press, Mỹ

2005 – Tuổi trẻ Tình yêu Lý tưởng, NXB Lá Bối; NXB Văn Hóa Sài Gòn (2007), NXB Phương Đông (2011), NXB Hồng Đức (2018)

2005 – Calming the Fearful Mind (An tịnh tâm sợ hãi), NXB Parallax Press, Mỹ

2005 – Keeping the Peace (Giữ lấy hòa bình), NXB Parallax Press, Mỹ

2005 – Taming the Tiger Within (Điều phục mãnh hổ trong tâm), NXB Riverhead, Mỹ

2006 – The Coconut Monk (Ông Đạo dừa), NXB Parallax Press, Mỹ

2006 – Two Treasures (Hai kho báu), NXB Parallax Press, Mỹ

2007 – The Art of Power, NXB HarperCollins, Mỹ

  • Quyền lực đích thực, NXB Phương Đông (2009); NXB Hồng Đức (2020)

2007 – Buddha Mind, Buddha Body , NXB Parallax Press, Mỹ

  • Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức, NXB Lao Động (2018)

2007 – Nowhere To Go, Nothing To Do (Không đi đâu nữa, có chi để làm), NXB Parallax Press, Mỹ

2008 – Mindful movements (Động tác chánh niệm), NXB Parallax Press, Mỹ

2008 – The World We Have , NXB Parallax Press, Mỹ

  • Hướng đi của Đạo Bụt cho hòa bình và môi sinh, NXB Phương Đông (2010); NXB Lao Động (2017)

2009 – Chỉ Nam Thiền Tập dành cho người trẻ, NXB Lá Bối; NXB Phương Đông (2016)

2009 – Người vô sự, NXB Hồng Đức 

2009 – Trái tim của Trúc Lâm Đại Sĩ, NXB Phương Đông

2009 – Con sư tử vàng của Thầy Pháp Tạng, NXB  Hồng Đức

2009 – Answers from the Heart , NXB Parallax Press, Mỹ

  • Hỏi đáp từ trái tim, NXB Lao Động  (2018)

2009 – Beyond the Self: Teachings on the Middle Way (Vượt ngoài cái tôi: Những giảng giải về giáo lý Trung đạo), NXB Parallax Press, Mỹ

2009 – Savor (Thưởng Thức), NXB HarperCollins, Mỹ

2009 – Happiness, Parallax Press, Mỹ 

  • Gieo trồng hạnh phúc, NXB Lao Động (2014)

2009– Bàn tay cũng là hoa, NXB Phương Đông

2010 – Thiền tập cho người bận rộn, NXB Thanh niên; NXB Hồng Đức (2020)

2010 – Con đã có đường đi, NXB Phương Đông; NXB Lao Động (2018)

2010 – Đạo Phật của tuổi trẻ, NXB Đồng Nai; NXB Thế Giới (2015)

2010 – Fear, NXB Harper Collins, Mỹ

  • Sợ hãi, NXB Thế Giới (2021)

2010 – One Buddha is not Enough (Một vị Bụt không đủ), NXB Parallax, Mỹ

2010 – The Pocket Thich Nhat Hanh, NXB Shambala, Mỹ

  • Hạnh phúc cầm tay, NXB Lao động (2016)

2010 – Reconciliation, NXB Parallax Press, Mỹ

  •  Thiền sư và em bé 5 tuổi, NXB Dân Trí, 2020

2010 – Together We Are One (Cùng nhau, chúng ta chỉ là một), NXB Parallax Press, Mỹ

2010 – Your True Home (Quê hương đích thực), NXB Shambala, Mỹ 

2011 – Awakening of the Heart (Đánh thức trái tim- Bình giảng những Thiền kinh căn bản), NXB Parallax Press, Mỹ

2011 – Fidelity (Trung kiên), NXB Parallax Press, Mỹ

2011 – Making Space (Chế tác không gian), NXB Parallax Press, Mỹ

2011 – Planting Seeds , NXB Parallax Press, Mỹ

  • Trồng một nụ cười, NXB Hà Nội (2021)

2012 – Tâm tình với đất Mẹ, NXB Nắng Mới; NXB Hồng Đức (2013); NXB Văn Hóa Văn Nghệ (2019)

2012 – Đập vỡ vỏ hồ đào, NXB Phương Đông

2012 – A Handful of Quiet (Một vốc tĩnh lặng), NXB Parallax Press, Mỹ

2012 – The Art of Communicating, NXB HarperCollins, Mỹ

  • Nghệ thuật thiết lập truyền thông, NXB Thế Giới (2018)

2012 – Path of Compassion (Con đường từ bi), NXB Parallax Press, Mỹ

2012 – No Mud, No Lotus (Không bùn thì cũng không sen), NXB Parallax Press, Mỹ

2012 – Silence, NXB HarperCollins, Mỹ

  • Tĩnh Lặng, NXB Thế Giới (2017)

2012 – Work (Làm việc), NXB Parallax Press, Mỹ

2013 – Rong chơi trời Phương Ngoại, NXB Hồng Đức

2013 – Giọt nước cành dương, NXB Hồng Đức

2013 – Những con đường đưa về núi Thứu, NXB Hồng Đức

2013 – Peace of Mind (Tâm An), NXB Parallax Press, Mỹ

2014 – Cho đất nước đi lên, NXB Hồng Đức

2014 – Bây giờ mới thấy, NXB Nắng Mới, NXB Phương Đông

2014 – Làng Mai nhìn núi Thứu, NXB Phương Đông

2014 – Kết một tràng hoa, NXB Phương Đông

2014 – Muốn an được an, NXB Lao Động  

2014 – Tri kỷ của Bụt, NXB Hồng Đức

2014 – Is nothing something? – Kids’ questions and Zen Answers, Plum Blossom, Mỹ

  • Trong cái không có gì không? – Thiền sư Thích Nhất Hạnh trả lời cho trẻ em những thắc mắc về ý nghĩa cuộc sống, về cái chết, về gia đình, bạn bè và nhiều câu hỏi khác, NXB Kim Đồng (2020)

2015 – Tay Thầy trong tay con, NXB Lao Động 

2015 – Đạo Bụt nguyên chất, NXB Phương Đông, NXB Hồng Đức (2017) 

2015 – The Art of Living (Nghệ thuật sống), NXB HarperCollins, Mỹ

2015 – This Moment is Full of Wonders: The Zen Calligraphy of Thich Nhat Hanh (Giây phút tràn đầy sự mầu nhiệm: Thiền thư pháp của Thích Nhất Hạnh), NXB Chronicle Books, Anh

2017 – Tìm bình yên trong gia đình, NXB Thế Giới

2017 – Happy Teachers change the world, Parallax Press, Mỹ

  • Thầy cô giáo hạnh phúc làm thay đổi thế giới, NXB Hà Nội (2019)

2018 – Con gà đẻ trứng vàng, NXB Văn Hóa – Văn Nghệ

2019 – Bồ Tát ngàn tay ngàn mắt, NXB Phụ Nữ Việt Nam

2019 – Mẹ con sư tử, NXB Phụ Nữ Việt Nam 

2019 – Người thầy của tỉnh thức và thương yêu, NXB Hồng Đức 

2020 – Interbeing (Tiếp Hiện), NXB Parallax Press, Mỹ

2021 – Hương Thơm Quê Mẹ – Thể hiện nếp sống tâm linh qua nghệ thuật thư pháp,  NXB Phụ Nữ Việt Nam

PHỤ LỤC 1: Các khóa giảng của Thầy

(từ năm 1988 đến năm 2014)

An cư kiết đông 1988-1989: Duy thức tam thập tụng của thầy Thế Thân (Vasubandhu’s Thirty Verses on Manifestation Only; Triṃśikā-vijñaptimātratā, 唯識三十頌). 

An cư kiết đông 1989-1990: Đại tạng Nam truyền liên hệ tới A Hàm (Southern Transmission: The Five Nikāyas of the Sutta Piṭaka in the Pāli Canon, a comparative study with texts in the Chinese Canon)

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 1990: Kinh Tứ niệm xứ và Tâm lý học Phật giáo – Giành lại tự do (The Satipatthana Sutta and Consciousness Only – Buddhist psychology – Reclaiming our True freedom); so sánh kinh Tứ niệm xứ trong tạng Pali và trong Hán tạng. Những bài giảng – bằng tiếng Anh – trong khóa tu này đã được biên tập và xuất bản thành sách Transformation and Healing: Sutra on the Four Establishments of Mindfulness (1990).

An cư kiết đông 1990-1991, và 1991-1992: Đại tạng Bắc truyền, trong đó có các kinh: Bát thiên tụng Bát nhã (Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra), Phật mẫu bảo đức tạng Bát nhã ba la mật kinh (Prajñāpāramitā Ratnaguṇasaṁcayagāthā), kinh Đại Bảo tích (the Ratnakūṭa Sūtra collection), kinh Duy Ma Cật (Vimalakīrti Sūtra), kinh Pháp hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), kinh Hoa nghiêm (Avataṃsaka Sūtra), và kinh Kim cương (Vajracchedikā Prajñāpāramitā Sūtra).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 1992: Cultivating the Mind of Love: Vipassanā in the Mahāyāna tradition (Nuôi lớn Tâm bồ đề: thiền Minh sát trong truyền thống Đại thừa). Những bài giảng của khóa tu này được làm thành sách Cultivating the Mind of Love (1996).

An cư kiết đông 1992-1993: 50 Bài tụng Duy biểu.

An cư kiết đông 1993-1994: Phật Pháp căn bản với chủ đề “Trái tim của Bụt”. Những bài giảng trong khóa tu này đã được làm thành sách với tựa đề Trái tim của Bụt (1997).

Mùa thu 1994: Kinh Tam di đề (Samiddhi sutta); được xuất bản thành sách với tựa đề Thương yêu theo phương pháp Bụt dạyHạnh phúc mộng và thực.

An cư kiết đông 1994-1995, 1995-1996, 1996-1997: Truyền thống sinh động của thiền tập; một phần bài giảng được xuất bản thành sách Thiền sư Khương Tăng Hội.

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 1996: The Heart of the Buddha (Trái tim của Bụt), đi sâu vào Phật Pháp căn bản. Những bài giảng của khóa này đã được phiên tả thành sách và được nhà Parallax ấn hành dưới nhan đề The Heart of the Buddha’s Teaching.

Tháng 11 năm 1997: Khóa học về Tâm lý học Phật giáo (tại Key West, Florida, Mỹ). Được in thành sách Transformation at the base

Tháng 10 năm 1997 – tháng 3 năm 1999: Công phu nở đóa sen ngàn cánh (chú giảng về các kinh trong Nhật tụng thiền môn)

Khóa tu 21 ngày – tháng 5 năm 1998: The Path of Emancipation (Con đường giải thoát), đi sâu vào sự nghiên cứu Kinh An ban thủ ý (Ānāpānasati Sutta) tụng bản Pali. Những bài giảng của khóa tu này cũng đã được nhà xuất bản Parallax in lại thành sách dưới nhan đề The Path of Emancipation (2000).

An cư kiết đông 1999-2000, 2000-2001: Nhiếp Đại thừa luận của thầy Vô Trước (Asanga’s Mahāyānasaṃgraha 攝大乘論).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2000: The Eye of the Buddha (Con mắt của Bụt) 

An cư kiết đông 2001-2002 và 2002-2003: Trung quán luận của thầy Long Thọ (Nāgārjuna’s Mādhyamaka SastraCommentary on the Middle Way: 中觀論). Những bài giảng trong khóa tu đã được biên tập thành sách Đập vỡ vỏ hồ đào (2014).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2002: The Hand of the Buddha (Bàn tay của Bụt), đi sâu vào kinh Pháp hoa (Saddharma puṇḍarīka sūtra). Những bài giảng trong khóa tu được biên tập thành sách Opening the Heart of the Cosmos: Insights on the Lotus sutra (2003).

Mùa xuân 2003 và An cư kiết đông 2003-2004: Lâm Tế lục, 14 Bài kệ Chỉ quán, và Cương lĩnh Giới luật. Những bài giảng về Lâm Tế lục đã được làm thành sách Người vô sự (Bình giảng Lâm Tế ngữ lục), và được xuất bản bằng tiếng Anh với tựa đề Zen battles: Modern commentary on the teachings of Master Linji (2009).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2004: The feet of the Buddha (Bàn chân của Bụt)

An cư kiết đông 2004-2005, 2005-2006: Dị bộ tông luân luận (Samaya bhedavyūhocakra by Vasumitra) của thầy Thế Hữu (Commentary on “The tenets of the different Buddhist schools” by Vasumitra; also known as the Treatise on the wheel of propositions of different schools). Những bài giảng trong khóa tu đã được biên tập và xuất bản thành sách Những con đường đưa về núi Thứu (2014).

An cư kiết đông 2005-2006, 2006-2007: Định đề giáo lý Làng Mai (The forty tenets of Plum Village Buddhism), được biên tập và xuất bản thành sách Làng Mai nhìn núi Thứu. Ấn bản tiếng Anh dự kiến sẽ được NXB Parallax phát hành vào năm 2021 với tựa đề The heart of Plum Village teachings.

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2006: The breath of the Buddha (Hơi thở của Bụt), đi sâu tìm hiểu về kinh Quán niệm hơi thở (Ānāpānasati sutta Discourse on the full awareness of breathing).

Tháng 8 năm 2006: Khóa tu dành cho các nhà khoa học thần kinh, với chủ đề “The brain of the Buddha” (Não bộ của Bụt). Nội dung của khóa tu này đã được biên tập và sẽ được phát hành trong thời gian tới.

An cư kiết đông 2007-2008: Hoa nghiêm Kim sư tử chương (Fa Tsang’s treatise on the golden lion – 金獅子章). Những bài giảng trong khóa tu đã được biên tập và làm thành sách Con sư tử vàng của thầy Pháp Tạng (2009).

An cư kiết đông 2008-2009: Con đường của Bụt – Đóng góp của đạo Bụt cho một nền đạo đức toàn cầu (trong khóa tu này, Thầy và tăng thân đã làm mới Năm giới, thể hiện cái thấy của đạo Bụt về một nền tâm linh và đạo đức toàn cầu). Những bài giảng của khóa tu này đã được biên tập và làm thành sách Con đã có đường đi (2010).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2009: The path of the Buddha (Con đường của Bụt). Những bài giảng của khóa tu này đã được biên tập và làm thành sách Good citizens: Creating enlightened society (2012), và The Mindfulness survival kit: Five essential practices (2013).

An cư kiết đông 2009-2010: Nghệ thuật Hạnh phúc, đi sâu học hỏi về kinh Nghĩa túc (Arthapada sutra 義足經). Những bài giảng của khóa tu này đã được biên tập và làm thành sách Đạo Bụt nguyên chất (2017).

An cư kiết đông 2010-2011: Pháp cú Hán tạng (Chinese Dhammapada法句經), trong đó có Nê hoàn phẩm. Những bài giảng của khóa tu này đã được biên tập và làm thành sách Kết một tràng hoa (2016) và Rong chơi trời phương ngoại (2017).

An cư kiết đông 2011-2012: Du già sư địa luận của thầy Vô Trước và Quán sở duyên duyên luận của thầy Trần Na (Asanga’s Yogācārabhūmi-śāstra 瑜伽師地論and Dignāga’s Ālambanaparīkṣāvṛtti 觀所緣論).

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2012: The science of the Buddha (Nhà khoa học nắm tay nhà Phật học). Những bài giảng trong khóa tu này hiện đang được biên tập và sẽ được xuất bản trong thời gian tới.

An cư kiết đông 2012-2013: Tri kỷ của Bụt (Good friend of the Buddha). Trong khóa tu này, chúng ta cùng tìm hiểu xem quan điểm của chúng ta về những giáo lý căn bản của Bụt như khổ, Niết bàn, luân hồi, nghiệp báo, về Mười hai nhân duyên v.v… để có thể không hiểu sai ý của Bụt. Những bài giảng trong khóa tu đã được biên tập và làm thành sách Tri kỷ của Bụt (2017). Bản tiếng Anh sẽ được Palm Leaves Press xuất bản trong thời gian tới.

An cư kiết đông 2013-2014: Duy biểu học (xem lại những giáo lý của Duy thức tông – Yogacāra, trong đó có giáo lý về thực tại tối hậu hay bản môn, đồng thời so sánh với những học thuyết về tâm lý học của Freud)

Khóa tu 21 ngày – tháng 6 năm 2014: What happens when we die? (Cái gì xảy ra khi ta chết?). What happens when we’re alive? (Cái gì xảy ra khi ta đang còn sống?) Những bài giảng trong khóa tu đã được biên tập và làm thành sách The Art of Living: Peace and Freedom in the Here and Now (2017).

XV. Đám mây không bao giờ chết

1. Sáu mươi lăm năm hoằng pháp

Jeff Wilson, một giáo sư về Tôn giáo và châu Á của trường đại học Renison và đại học Waterloo ở Canada đã mô tả Thầy như là “nhân vật quan trọng bậc nhất trong đạo Bụt phương Tây… xét từ phương diện số lượng thiền sinh mà Thầy có ảnh hưởng trực tiếp, cũng như mức độ ảnh hưởng của các từ ngữ mà Thầy tạo ra hoặc nhấn mạnh (như: “engaged Buddhism” – đạo Bụt dấn thân; “interbeing” – tương tức, “mindfulness” – chánh niệm, v.v.) đến ngôn ngữ đương đại của đạo Bụt ở phương Tây[343]

Trong một nghiên cứu hàn lâm gần đây của John Powers với tựa đề The Buddhist World (Thế giới Phật giáo, xuất bản năm 2016), Thầy được chọn là một trong 10 nhà lãnh đạo tâm linh có tầm ảnh hưởng lớn lao, nổi bật nhất trong lịch sử đạo Bụt, dựa trên tầm ảnh hưởng của Thầy đối với nền Phật giáo đương đại trên toàn cầu. Các pháp môn thực tập chánh niệm cùng với mô hình khóa tu của Thầy – được phát triển dựa trên chính kinh nghiệm trực tiếp và tuệ giác của Thầy – đã được hàng trăm ngàn người từ khắp các châu lục, từ mọi tầng lớp trong xã hội học hỏi và thực tập. Chỉ trên nước Mỹ, sách của Thầy đã được bán trên 3 triệu quyển, và 10 triệu quyển trên toàn thế giới.

Trong chặng đường hoằng pháp bền bỉ suốt 65 năm, Thầy đã góp phần quan trọng vào công trình làm mới đạo Bụt cho thế kỷ 21; chuyển hóa đạo Bụt tín mộ, hay đạo Bụt có tính học thuật thành một đạo Bụt của tuệ giác, của kinh nghiệm tâm linh thực nghiệm, rất linh động và luôn tự mình làm mới. Thầy đã sống qua các thời kỳ hỗn loạn, suy vong của chế độ thuộc địa, chiến tranh, rồi toàn cầu hóa. Dù trong thời kỳ nào, Người cũng luôn cống hiến một hướng đi của Phật giáo phù hợp với thời đại. Thầy đã đem những tuệ giác trong kho tàng của đạo Bụt truyền thống kết hợp với những yếu tố tâm lý học, khoa học, sinh thái học, đạo đức học và giáo dục của phương Tây để giải quyết tận gốc rễ những nguyên nhân gây sợ hãi, bạo động, đàn áp, bất công và tàn hoại môi trường; đồng thời chỉ ra một hướng đi cho gia đình nhân loại để có thể tiếp xúc với bình an, hòa giải và hạnh phúc đích thực. Năm 2017, Hội Chủng viện Thần học Hoa Kỳ (Union Theological Seminary – UTS) tại New York đã khai giảng để đưa Chương trình Thích Nhất Hạnh với Đạo Bụt dấn thân (Thich Nhat Hanh Program for Engaged Buddhism) vào chương trình Thạc sỹ Thần học về đạo Bụt và Tinh thần Dấn thân Liên tôn giáo (Master of Divinity in Buddhism and Interreligious Engagement). Chương trình đã thu hút nhiều sinh viên theo học.

2. Mây nước về nguồn

“Chuyện gì xảy ra khi ta chết?” là chủ đề của khóa tu 21 ngày cuối cùng (tháng 06 năm 2014) mà Thầy hướng dẫn định kỳ mỗi hai năm. Từ cuối khóa tu mùa hè năm 2014, sức khỏe Thầy bắt đầu đi xuống. Chuyến hoằng pháp ở Đức ngay sau đó khiến Thầy đuối sức. Về lại Làng, Thầy vẫn gắng sức có mặt hướng dẫn cho khóa tu người Ý được ba hôm. Tuổi đã lớn, làm việc nhiều, lại không ăn uống và không ngủ được nên sức khỏe Thầy suy giảm trầm trọng. Mỗi khi có chút năng lượng, ngay cả vào nửa đêm, Thầy tranh thủ từng giây, từng phút để thâu âm những lời bình giảng cho Tâm kinh Tuệ giác qua bờ mà Thầy mới dịch lại bên Đức, hay ý của Thầy về một cuốn sách mới để xuất bản, v.v. Đến khóa tu tiếng Pháp cho ngành giáo dục, các giáo thọ chia phiên nhau nói pháp thoại và thiền sinh cũng hoan hỷ vì biết Thầy đang bệnh. Vậy mà vừa hơi khỏe lại, Thầy đã bảo thị giả đưa Thầy ra giảng đường để thuyết pháp cho mọi người an tâm. Rất đông thiền sinh cảm động đã bật khóc. Đó là bài thuyết pháp cuối cùng của Thầy.

Vào ngày 11 tháng 11 năm 2014, một tháng sau ngày sinh nhật thứ 89, Thầy bị một cơn tai biến mạch máu não trầm trọng. Bác sĩ tiên đoán là Thầy chỉ sống thêm được trong vài giờ tới vài ngày thôi, nhưng sau đó Thầy đã hồi phục như một phép lạ. Sau thời gian chữa trị ở Pháp và ở San Francisco, Mỹ, sức khỏe của Thầy đã tiến triển rất khả quan. Sau đó Thầy trở về Pháp và ở tại Làng Mai đến cuối năm 2016, trước khi bay qua Trung tâm quốc tế Làng Mai Thái Lan để sống cùng các đệ tử xuất sĩ trẻ của Thầy ở đây. Tháng 10 năm 2018, Thầy quyết định trở về sống những năm tháng cuối đời tại Tổ đình Từ Hiếu, Huế.

Điệu Hồng, thị giả đi theo hầu Sư Ông Thanh Quý năm xưa vào những buổi chiều lúc Người chống gậy đứng nhìn về hướng cổng tam quan hỏi nhỏ: “Thầy về chưa?”, nay đã trở thành Hòa thượng Chí Viên. Hơn nửa thế kỷ sau, Hòa thượng đã bạch lên Sư Ông: “Bạch Cố, Thầy đã về rồi!”

Những năm tháng còn lại là những chuỗi ngày bình an vô hành. Mỗi khi thấy khỏe trong người, Thầy đều đi thăm liêu Sư Cố. Vào trong liêu, với ánh mắt rất sáng và nét mặt rất tươi, Thầy luôn thành khẩn chắp tay xá bức chân dung Sư Cố, đắp bằng lụa nổi mà Thầy đã cúng dường Sư Cố năm 1955. Rồi trăm lần như một, Thầy quán sát từng đồ vật trong liêu với tất cả sự chăm chú và kính cẩn, không khác gì với lần đầu tiên khi Thầy được trở về lại thăm căn phòng này vào năm 2005.

Sự có mặt của Thầy nơi đây, tuy thầm lặng, nhưng đã làm cho cả triệu đệ tử của Thầy từ khắp năm châu hướng về cội nguồn và duy trì sự kết nối sâu sắc, không gián đoạn với gốc rễ tâm linh của mình ở Việt Nam. Tháng 04 năm 2019, chín thượng nghị sĩ của Mỹ đã đến Huế trong một chuyến viếng thăm chính thức để bày tỏ sự kính trọng và lòng tri ân đối với Thầy. Thầy tiếp phái đoàn hơn một tiếng đồng hồ. Phái đoàn bao gồm các thượng nghị sĩ Leahy, Murkowski, Stabenow, Whitehouse, Udall, Portman, Baldwin, Hirono, Kaine cùng với các tháp tùng viên. Một số vị đã từng tham dự pháp thoại của Thầy tại Quốc hội Mỹ năm 2003 và 2011; có người thậm chí đã tham gia khóa tu của Thầy. Họ nói rằng Thầy đã dạy họ cách chế tác bình an, cách mỉm cười, cách thưởng thức từng bước chân khi họ đi đến phòng bỏ phiếu. Bằng chính cuộc đời mình, Thầy đã dạy chúng ta rằng ta có thể ôm ấp được cả những nghịch cảnh lớn lao nhất bằng lòng can đảm và tâm từ bi, rằng sự có mặt đích thực chính là món quà quý nhất mà ta có thể hiến tặng cho những người mà ta yêu thương.

Tiếp tục công trình trị liệu, chuyển hóa và hòa giải của Thầy, các đệ tử của Thầy đã và đang xây dựng tăng thân khắp nơi trên thế giới. Số lượng người phương Tây đến xuất gia ở Làng Mai ngày càng tăng. Làng Mai từ một nông trại nhỏ tại miền quê nước Pháp đã biến thành một tu viện Phật giáo lớn nhất châu Âu.

Thầy trong bản môn

Tuy Thầy không còn nói pháp thoại hay tham dự các sinh hoạt với chúng, con số thiền sinh về Làng tu học vẫn ngày càng đông. Các trung tâm thuộc Làng Mai trên thế giới vẫn tiếp tục vận hành không gián đoạn. Các đợt xuất gia vẫn tiếp tục đều đặn mỗi năm. Đặc biệt trong đợt xuất gia vào năm 2020, có 18 người trẻ được xuất gia ngay tại chốn Tổ đình Từ Hiếu, nơi Thầy đang tĩnh dưỡng. Các đệ tử của Thầy vẫn tiếp tục tổ chức các Đại giới đàn và cung thỉnh Thầy làm Hòa thượng đường đầu. Tăng thân xuất sĩ Làng Mai đã đến những nơi mà Thầy chưa có dịp đến như Uganda và cả một số nước lân cận như Nam Sudan, Burundi và Rwanda, để dạy chánh niệm cho các giáo viên tiểu học ở đất nước này, cũng như cho một số tu sĩ Cơ Đốc và quần chúng. 

Tăng thân vẫn tiếp tục sự nghiệp của Thầy để yểm trợ cộng đồng người da màu. Sự ra đời của tăng thân Trì Địa (Earth Holder), cộng đồng đang phát triển phương thức bảo hộ đất Mẹ, cống hiến những pháp môn thực tập để đối trị nỗi sợ hãi, cô đơn và tuyệt vọng khi mọi người phải đối diện với tình trạng khủng hoảng khí hậu. Tháng 06 năm 2019, các nhà hoạt động vì hòa bình từ khắp nơi trên thế giới đã tập trung tại tòa nhà Quốc hội châu Âu ở Luxembourg để tham dự Lễ trao giải Hòa bình cho Thầy. Các đệ tử xuất gia đã đại diện Thầy và tăng thân tới Luxembourg để nhận giải thưởng này. Một tháng sau tại New Delhi, Ấn Độ, Quỹ Gandhi Mandela đã trao giải đầu tiên về Hòa bình của Quỹ này (Gandhi – Mandela Peace Award) cho Thầy, nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Thánh Gandhi và 100 năm ngày sinh của cựu Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela. Ban tổ chức phát biểu trong bài diễn văn rằng giải thưởng được trao cho Thầy vì sự nghiệp giảng dạy và ảnh hưởng tâm linh của Thầy đã làm thay đổi cuộc đời của hàng triệu người trên toàn thế giới.

Từ năm 2009, Thầy đã dạy các đệ tử cách làm Trang nhà Làng Mai theo mô thức một ngôi chùa điện tử, có cổng tam quan, Phật đường, thiền đường, trai đường, lầu chuông, tàng kinh các, … Lúc ấy chỉ mỗi pháp thoại của Thầy vào các ngày quán niệm được phát trực tuyến. Đến khi đại dịch Covid-19 bùng phát trên toàn cầu, khi cửa chùa bên ngoài bị đóng lại thì cổng chùa trên mạng được mở rộng hơn. Có lẽ Thầy đã thấy được tất cả những điều này từ trước. Khi chưa có đại dịch, Thầy đã tạo cơ hội để mở những khóa tu quanh năm tại tu viện và đi hướng dẫn khóa tu ở khắp các nước không mỏi mệt. Giờ đây, xây dựng “ngôi chùa điện tử” để mọi người dù bất cứ lúc nào, ở đâu cũng có thể “đến chùa” tu học. Đây là lĩnh vực quá mới mẻ cho phần lớn các thầy, các sư cô Làng Mai. Tuy vậy, với tinh thần vừa làm vừa học, các thầy, các sư cô đã can đảm dấn thân vào lĩnh vực công nghệ và cùng nhau vượt qua những giây phút khó khăn để tổ chức thành công nhiều khóa tu trực tuyến. Tại Làng Mai Pháp, ngoài các khóa tu định kỳ hằng năm vẫn được duy trì như khóa tu mùa Hè, khóa tu lớn nhất trong năm; khóa tu 21 ngày; khóa tu dành cho người Pháp; khóa tu dành cho người Ý…, tăng thân Làng Mai khắp nơi còn tổ chức những khóa tu trực tuyến như khóa tu dành cho các nhà hoạt động xã hội (Mindful Action Retreat for Activists); khóa tu dành cho thành viên nòng cốt (hay đại diện) của các tăng thân trẻ, còn được gọi là tăng thân Wake Up trên khắp thế giới (Wake Up Ambassadors Retreat); khóa tu dành cho người trẻ và Tiếp hiện Indonesia (Wake Up and OI Indonesia Retreat); khóa tu gia đình; khóa tu cuối năm với đề tại Nghị lực, Thương yêu và Hy vọng (Courage, Love and Hope Retreat for 2021) … Khóa tu do mỗi xóm ở Làng Mai Pháp tổ chức, những khóa tu lớn thì các xóm làm chung, hoặc kết hợp chung giữa các tu viện Làng Mai Pháp, châu Á (AIAB), hay các tu viện ở Mỹ. Năm ngày quán niệm và hội thảo trực tuyến Theo dấu chân Thầy (In the Footsteps of Thich Nhat Hanh) do tạp chí Lion’s Roar và Quỹ Thích Nhất Hạnh (Thich Nhat Hanh Foundation) đồng tổ chức tại Mỹ với hơn 90 ngàn người đăng ký tham dự. Dù các sinh hoạt diễn ra qua mạng nhưng các thiền sinh vẫn thấy có sự gắn kết rất rõ ràng.

Đại dịch Covid đã tạo ra những thói quen thực tập trực tuyến các thời khóa như ngồi thiền, tụng kinh, tụng giới, truyền Năm giới, Mười bốn giới, vấn đáp, đêm thơ nhạc, lễ bông hồng cài áo, be-in, v.v. Buổi lễ Đối thú an cư cũng đã được truyền trực tuyến qua mạng cho hơn 1000 thiền sinh đăng ký tham dự khóa tu An cư ba tháng cùng tăng thân ngay tại nhà. Một thiền sinh chia sẻ: “Con chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể cảm nhận được năng lượng của Làng Mai ngay trong phòng khách nhà mình. Nhìn những nụ cười của quý thầy, quý sư cô qua Zoom làm cho con cảm giác như mình đang có mặt ở Làng vậy.” Có nhiều người đã từng đọc sách, biết đến Thầy qua mấy chục năm nhưng chưa từng đủ điều kiện để về Làng hay tham dự một khóa tu do Làng Mai tổ chức. Nhờ các khóa tu trực tuyến mà rất nhiều “tri kỷ” của Thầy có cơ hội tham dự tu học với tăng thân.

Có thể nói sức mạnh, sự đa dạng và sức sống của tăng thân quốc tế mà Thầy đã dày công tạo dựng chính là di sản vĩ đại nhất mà Thầy để lại cho cuộc đời. Hạnh nguyện và niềm hy vọng của Thầy vẫn đang được tiếp nối bởi tăng thân mà Người luôn tin cậy – một tăng thân quốc tế đang không ngừng lớn mạnh gồm mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi quốc gia, mọi tầng lớp trong xã hội. Tăng thân ấy vẫn đang tiếp tục công trình làm mới đạo Bụt, đem đạo Bụt đi vào cuộc đời trong mọi hoàn cảnh mà Thầy đã trao truyền. Sự sáng tạo và phát triển những pháp môn mới ngày càng thích ứng với thời đại của chúng ta.

Trong những khóa tu, ngoài cho pháp thoại, Thầy luôn có mặt trong các thời khóa cùng đại chúng như ngồi thiền, đi thiền, truyền giới,… Sự có mặt qua thân giáo của Thầy chính là sự trao truyền trực tiếp những pháp môn căn bản đến học trò của Người. Trong những năm cuối, thấy các thiền sinh quyến luyến khi khóa tu sắp chấm dứt, thậm chí có nhiều người còn khóc khi sắp xa Thầy, Thầy hay an ủi mọi người rằng mỗi khi thở một hơi thở hay bước đi có ý thức là người ấy đang có Thầy bên cạnh. Do đó, tùy vào sự tu tập của mỗi người để Thầy có hay không có mặt trong mình.

Sau gần ba năm và ba tháng an dưỡng tại Tổ đình Từ Hiếu, vào lúc 1:30 ngày 22 tháng 01 năm 2022 (nhằm ngày 20 tháng Chạp năm Tân Sửu), Thầy viên tịch tại Tổ đình, nơi Người đã xuất gia cách đây tám mươi năm, trụ thế 97 tuổi và 72 hạ lạp.

Sáng hôm ấy, khi người dân Việt Nam thức dậy, những tờ báo lớn như New York Times, New York Post, CNN, BBC News, Le Monde, National Geographic, National Catholic Reporter, v.v. đã truyền tin Thầy viên tịch đi khắp nơi thế giới từ nhiều giờ trước. 

Tiếp nối hình ảnh Sư Ông Thanh Quý được sư anh của mình là thiền sư Huệ Minh làm lễ thế độ vào năm 1899 trước kim quan của Bổn sư, các đệ tử của Thầy đã tổ chức lễ xuất gia cho 34 em từ Việt Nam, tu viện Bích Nham (Mỹ), tu viện Vườn Ươm (Thái Lan) và Làng Mai Pháp, để các em được làm những đệ tử út của Thầy ngay trong thời gian diễn ra Tâm Tang. 

Một năng lượng chánh niệm tập thể hùng hậu làm cho nhiều người thật sự cảm nhận được rằng Thầy đang có mặt khắp nơi: ở ánh mắt sáng bao dung đầy trí tuệ; ở nụ cười nhẹ, hiền từ; ở dáng dấp những bước thiền hành chậm rãi, thong dong của các thầy, các sư cô, các cư sĩ; hay ở những dòng chữ chia sẻ của một người nào đó đã thay đổi cuộc đời nhờ đọc được một cuốn sách, nghe một bài pháp thoại hay dự được một khoá tu của Thầy, v.v. Năng lượng giác ngộ cá nhân đã tạo nên một năng lượng giác ngộ tập thể. 

Sự sợ hãi về cái chết không còn nữa. Ta không còn là một giọt nước nhỏ nhoi, lạc lõng nữa. Ta là một giọt nước trong dòng sông đang thanh thản về chơi biển lớn.

Vầng trăng ấy chưa bao giờ ngừng chiếu sáng. Hôm nay, chúng ta có thể cùng nhau mỉm cười chào Thầy và chắp tay tiếp nhận những gia tài tâm linh mà Thầy đã truyền trao:

“Ta vẫn còn đến đi thong dong

Có không, còn mất, chẳng băn khoăn

Bước chân con hãy về thanh thản

Không tròn không khuyết một vầng trăng”

(Đến đi thong dong, thơ Thầy)

XIV. Làng Mai – Một giai đoạn mới

1. Ba chuyến trở về Việt Nam

Năm 2005, sau một năm thương thuyết – đúng dịp Việt Nam nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Chính phủ Việt Nam cuối cùng đã cho phép Thầy trở về quê hương, cùng một phái đoàn với hơn 200 đệ tử sau 39 năm lưu vong.

Công án mà Thầy thực tập trong những năm hành đạo ở phương Tây là “Một đạo Bụt nào cho quê hương Việt Nam?”. Đạo Bụt Việt Nam ngay từ lúc đầu với thiền tổ Tăng Hội đã có những nét độc lập của mình. Thiền phái Trúc Lâm được thiết lập ở đời Trần rất có tính cách đại chúng và dân tộc, một nền Phật học nhập thế mà ngày nay Thầy gọi là đạo Bụt ứng dụng. Vào đời Lý và đời Trần, từ vua quan trở đi đã có công thanh lọc được đạo Bụt. Đạo Bụt qua các triều đại ấy có tính thực tập thiền, chứ không phải là một con đường tín mộ đầy mê tín dị đoan. Nếu tổ tiên ta đã thanh lọc được đạo Bụt trong quá khứ thì chúng ta, hàng con cháu cũng có thể làm được việc ấy ngay trong thời hiện tại. Một đạo Bụt của đức Thế Tôn có thể giúp ta chế tác hỷ lạc để nuôi dưỡng ta và những người ta thương ngay trong giây phút hiện tại; một đạo Bụt có thể giúp ta biết cách xử lý niềm đau nỗi khổ và giúp người bớt khổ ngay trong giây phút hiện tại; một đạo Bụt giúp ta biết cách sử dụng ái ngữ và lắng nghe để tái lập truyền thông và hòa giải với nhau ngay trong ngày hôm nay; một đạo Bụt hướng con người trở về bảo hộ cho thân tâm, cho gia đình, xã hội và hành tinh xinh đẹp bằng cách tiêu thụ có chánh niệm. Một đạo Bụt như thế chính là một đạo Bụt của Bụt, cần thiết cho đất nước Việt Nam.

Thầy đã cho pháp thoại công cộng, hướng dẫn các khóa tu, thực tập để chuyển hóa khổ đau, đem tới hỷ lạc ngay trong kiếp sống này mà không phát tâm nhàm chán cõi ta bà để cầu sinh qua tịnh độ. Trên căn bản nhận thức là tâm tịnh thì độ tịnh, Tịnh độ phải có mặt bây giờ và ở đây. Mỗi bước chân đi là đi vào tịnh độ. Một khi thân khẩu ý hợp nhất một cách toàn hảo thì những câu gì nói ra đều là những câu linh chú. Những câu linh chú sử dụng trong ánh sáng của sự thực tập chánh niệm như câu “Mẹ ơi, con biết là Mẹ đang khổ nên con có mặt cho Mẹ đây” có hiệu quả tức thời, ngay trong giây phút hiện tại. Các thiền sinh chuyển hóa được những khó khăn nội tâm, hòa giải được với nhau ngay trong khóa tu và nét mặt họ rạng rỡ. Điều này đã cho Thầy rất nhiều hạnh phúc và niềm tin. Một số sách của Thầy  cũng được phép chính thức xuất bản tại Việt Nam.

Ở phương Tây, Thầy đã truyền giới Tiếp Hiện cho cả ngàn người, truyền Năm giới tân tu cho cả hàng trăm ngàn người, và giới pháp đã chuyển đổi cả cuộc đời của họ. Nếu trên đất nước Việt Nam mà ai cũng biết thực tập Năm giới tân tu ấy và những phép chế tác hỷ lạc, xử lý niềm đau và hoà giải ấy thì chắc chắn đất nước sẽ thơm lừng hương đạo đức và trở nên giàu mạnh. 

Dù chương trình sinh hoạt của tăng đoàn không được phép quảng bá trên các phương tiện truyền thông và nằm dưới sự kiểm soát rất chặt chẽ của chính quyền, những ngày quán niệm và các khóa tu do Thầy hướng dẫn vẫn có hàng ngàn người tham dự. Hàng trăm người trẻ muốn xuất gia với Thầy được chào đón tại Bát Nhã, một tu viện mới được thành lập tại cao nguyên Lâm Đồng, không xa Phương Bối[321].

Năm 2007, Thầy trở lại Việt Nam để chủ trì ba Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan, cầu nguyện cho hàng triệu người đã thiệt mạng trong chiến tranh. Ngày 18.07.2007, trong lá thư Thầy viết cho Thượng tọa Thích Lệ Trang, sám chủ Đại Trai đàn Chẩn tế bình đẳng Giải oan tại chùa Vĩnh Nghiêm có đoạn: “Các Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan được tổ chức tại quê hương đầu năm nay đã làm ấm lòng bao nhiêu đồng bào và giúp cho không biết bao nhiêu người bớt khổ. Tuy trở ngại khá nhiều, khó khăn cũng không ít, nhất là ở miền Trung và miền Bắc, nhưng tình huynh đệ đã tạo ra được phép lạ giúp chúng ta vượt thoát những trở ngại và khó khăn kia, trong đó kể cả những kỳ thị, lo lắng, thờ ơ, sợ hãi và nghi ngờ. Trong khi thiết lập trai đàn, anh em chúng ta cũng đã xây lên được một Bảo tháp của Tình huynh đệ, một bảo tháp tuy không có hình tướng, nhưng rất hiện thực và không có một ai có khả năng phá đổ. Chúng ta, từ giới xuất gia cho đến giới tại gia, đã tìm tới với nhau để kiến lập các trai đàn với một trái tim thuần khiết, một tình thương không phân biệt không kỳ thị, không hề vướng một chút lợi hoặc một chút danh.”

Năm 2008, Thầy trở về Việt Nam một lần nữa để cho một bài phát biểu quan trọng nhân dịp đại lễ Phật Đản quốc tế (Vesak) do Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Hà Nội[322]. Trong ba lần về thăm quê hương, Thầy đều có các cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo của Nhà nước Việt Nam. Trong những cuộc gặp này, cũng như trong những lần Thầy gặp gỡ các nhà lãnh đạo của Quốc hội Hoa Kỳ, Quốc hội Ấn Độ, Quốc hội Anh hay Quốc hội Bắc Ireland, Thầy đều đưa ra những lời khuyến nghị để giúp đem lại một nền đạo đức, thịnh vượng và tiến bộ trên các lĩnh vực như xã hội dân sự, giáo dục và quan hệ quốc tế.

Thầy đã nhận Trái đất này làm quê hương. Quyết định về lại Việt Nam, điều đó không có nghĩa là Thầy quá nhớ một nơi chốn cụ thể. Thầy biết ơn liệt vị Tổ sư Việt Nam và biết ơn thiền sư Thanh Quý Chân Thật, vị Bổn sư khả kính của Thầy, vì vậy Thầy muốn giới thiệu một nếp sống tỉnh thức để chỉ cho người Việt Nam biết quay về khám phá gia tài tâm linh quý báu vốn có sẵn trong lòng dân tộc.

Thế nhưng những điều kiện thuận lợi đó không kéo dài được bao lâu. Vào ngày 27 tháng 09 năm 2009, tất cả các vị xuất gia đã phải rời khỏi Bát Nhã. Các thầy và các sư cô Bát Nhã ngày ấy nay đã trở thành những giáo thọ trẻ đang phụng sự trong các tu viện của Làng Mai tại châu Âu, châu Mỹ, châu Úc và châu Á.

 

2. Nhà lãnh đạo tâm linh toàn cầu và “người cha của chánh niệm”

Kể từ năm 2007, một loạt các tu viện mới được thành lập ở khắp nơi trên thế giới, bao gồm tu viện Bích Nham ở phía Bắc ngoại ô New York (Hoa Kỳ), Viện Phật học Ứng dụng châu Âu tại Waldbrol (Đức), Làng Mai Hồng Kông, Ni xá Diệu Trạm (Việt Nam), Làng Mai Thái Lan, Ni xá Trạm Tịch (Việt Nam), Tu viện Nhập Lưu (Úc), Tu viện Mộc Lan (Hoa Kỳ), Viện Phật học Ứng dụng châu Á (Hồng Kông), Tu viện Suối Tuệ (Pháp), Tu viện Sơn Tuyền (Úc), Tu viện Trạm Nhiên (Việt Nam).

Năm 2008 và 2009 ghi dấu một làn sóng mới – một bước phát triển khá mạnh mẽ trong hoạt động của Thầy và tăng thân Làng Mai ở phương Tây và châu Á. Có nhiều điểm khá tương đồng với các hoạt động của Thầy trong những năm 1964 – 1966 về các lĩnh vực đạo đức (giới luật), giáo dục, và hoạt động dấn thân.Thầy đã mở ra cánh cửa con đường đạo Bụt ứng dụng để diễn tả chính xác hơn sự thực tập áp dụng chánh niệm một cách đích thực trong mọi lĩnh vực của đời sống. Đối với Thầy, giáo lý đạo Bụt, nếu muốn thực sự linh động, cần phải được ứng dụng vào đời sống hàng ngày, trong các mối quan hệ, cách tư duy, nói năng và hành động của chúng ta. Đạo Bụt ứng dụng là nền tảng tâm linh và căn bản thực tập cho đạo Bụt dấn thân. Nhân dịp UNESCO mời Thầy đến thuyết trình ở Paris, Thầy đã mở rộng và làm mới nguyên tắc của một nền đạo đức toàn cầu (dựa trên Năm giới tân tu) để nó thực sự trở thành một nguyên tắc đạo đức có tính phổ quát, có thể giải quyết tận gốc rễ những bất công xã hội, bạo động, sợ hãi, lo lắng, thèm khát, cô đơn và tuyệt vọng.

Thầy đã thành lập Viện Phật học Ứng dụng Châu Âu (EIAB) ở Đức; và khởi xướng một chương trình đào tạo thầy giáo, cô giáo trong việc đem chánh niệm vào trường học – chương trình có tên là Wake Up Schools. Thầy cho rằng chương trình Wake Up Schools có thể hiến tặng cho các em học sinh “một cơ hội thứ hai” để học những điều mà các em không được tiếp nhận từ gia đình như: cách xử lý căng thẳng và cảm xúc mạnh; cách lắng nghe sâu và nói năng bằng lời từ ái; cách chế tác một giây phút hạnh phúc cho chính mình và cho những người khác; cách nhận diện và biến ước mơ sâu sắc nhất của mình thành hiện thực. Thầy luôn tìm tòi những cách thức không mang tính tôn giáo để chia sẻ “nghệ thuật sống hạnh phúc” và “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” với những người trẻ trên khắp thế giới. Với trên ba mươi năm kinh nghiệm trong việc chia sẻ sự thực tập chánh niệm với gia đình và trẻ em, Thầy thấy được sự cần thiết phải gìn giữ bản chất đích thực của chánh niệm khi nó được đem vào trong lớp học và môi trường giáo dục. Quyển sách Thầy cô giáo hạnh phúc làm thay đổi thế giới đã phác họa phương hướng đem chánh niệm vào trường học dựa trên nền tảng xây dựng những cộng đồng tu học có thực chất. Những đoàn thể các giáo chức và các người trẻ được thành lập khắp nơi, kể cả Việt Nam, lấy tinh thần đạo Bụt ứng dụng làm lý tưởng sống và độ đời.

Ngoài ra Thầy còn khởi xướng phong trào Wake Up (dành cho giới trẻ Phật tử và không Phật tử cho một xã hội lành mạnh và từ bi). Rất nhanh chóng, phong trào này đã phát triển mạnh mẽ thành một mạng lưới gồm hơn 100 tăng thân địa phương hoạt động ở châu Âu, châu Mỹ và châu Á. Các bạn trẻ cùng nhau sinh hoạt định kỳ hàng tuần, tổ chức các buổi ngồi thiền công cộng, đi bộ trong chánh niệm, các khóa tu cuối tuần và các hoạt động dấn thân khác. Những chia sẻ chân thành của Thầy về cách thực tập xử lý khổ đau và cảm xúc mạnh, chuyển hóa những vướng mắc trong tình cảm cũng như ước nguyện phụng sự và giúp thế giới này tốt đẹp hơn đã chạm đến trái tim và tạo cảm hứng cho rất nhiều người trẻ[328]. Khi những người trẻ tổ chức một buổi ngồi thiền công cộng với Thầy tại quảng trường Trafalgar, London, đã có hơn 3000 người tham dự, làm cho sự kiện này trở thành sinh hoạt thiền tập lớn nhất trong lịch sử của thành phố London.

Năm 2011, Thống đốc Jerry Brown mời Thầy và tăng đoàn Làng Mai đến xem tượng đài của 25 vị quán quân về nhân quyền (Champions of Humanity) tại công viên thành phố Oakland, Hoa Kỳ, trong đó có mẹ Teresa, thánh Gandhi, Thầy,…

 

3.Trên bình diện toàn cầu

Thầy nhận ra rằng quan niệm sai lầm về hạnh phúc chính là gốc rễ của khổ đau: rất nhiều người cho rằng khi chạy theo tiền tài, danh vọng, quyền hành và dục lạc, họ sẽ có hạnh phúc. Thế nhưng những cái đó chỉ làm tăng thêm sự xa cách, thèm khát, bất an cũng như dẫn đến sự bất công và tàn hoại các tài nguyên thiên nhiên quý báu. Khi được hỏi điều gì làm Thầy ấn tượng nhất trong những năm đầu tiên ở tại phương Tây, Thầy nói: “điều đầu tiên tôi nhận ra rằng thậm chí khi người ta có rất nhiều tiền, quyền lực và danh vọng, người ta vẫn có thể cực kỳ đau khổ. Nếu ta không có đủ bình an và từ bi ở trong lòng, thì không có cách gì ta có thể hạnh phúc được”[330]. Giáo lý của Thầy nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tiếp xúc cái mà Thầy gọi là hạnh phúc đích thực ngay trong giờ phút hiện tại. Thầy khẳng định rằng giúp cho mọi người tiếp xúc với hạnh phúc đích thực là cách tối ưu để giải quyết tận gốc rễ tình trạng bất công, bất bình đẳng và tình trạng chạy trốn khổ đau bằng tiêu thụ hiện đang xảy ra trong xã hội. Thầy nói khi chúng ta biết hạnh phúc đích thực là gì, ta sẽ dễ dàng sống một cuộc sống giản dị, và ta sẽ biết cách chăm sóc chính mình, chăm sóc các mối quan hệ cũng như chăm sóc đất Mẹ.

Thầy luôn can đảm lên tiếng về một số vấn đề hóc búa nhất của xã hội, đồng thời hiến tặng những giải pháp thực tiễn qua các pháp môn thực tập chánh niệm. Thầy đã đóng góp nhiều tuệ giác cho xã hội phương Tây. Năm 2006, Tạp chí Time bầu chọn Thầy trong danh sách 60 vị anh hùng châu Á. Năm 2008, Thầy được mời sang Ấn Độ trong một chuyến thăm chính thức với tư cách là một vị khách quý của chính phủ. Thầy đã thuyết pháp và hướng dẫn khóa tu cũng như có một bài diễn văn tại Quốc hội, gặp gỡ bà Sonia Gandhi – Chủ tịch đảng Quốc đại, và được mời làm tổng biên tập danh dự cho tờ Thời báo Ấn Độ (The Times of India) trong ngày kỷ niệm Thánh Gandhi. Thầy đã được mời phát biểu tại Hội nghị Tôn giáo Thế giới (2009) và tại trường đại học Mahidol, Bangkok cho các chính trị gia Thái lan (2010). Năm 2011, Thầy được mời nói chuyện tại Quốc hội Mỹ lần thứ hai, và năm 2012 nói chuyện cho Quốc hội Anh tại điện Westminster, cho Quốc hội Bắc Ireland tại Stormont, và Thượng viện Pháp tại Paris. Sau buổi pháp thoại công cộng tại Dublin, thời báo của Ireland The Irish Times (số ra ngày 10.04.2012) đã gọi Thầy là “người cha của chánh niệm”.

Năm 2014, Tòa thánh Vatican đã gửi một phái đoàn chính thức đến Làng Mai mời Thầy đại diện cho Phật giáo tham gia Hội nghị các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới tại Rome để cùng ra một tuyên cáo toàn cầu phản đối chế độ nô lệ hiện đại và nạn buôn người. Khi Tổng thống Obama đến thăm Việt Nam, ông đã trích dẫn lời dạy của Thầy về hòa giải trong bài diễn văn chính thức tại Hà Nội vào ngày 24.05.2016: “Hai nước đã học được bài học như Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng nói: đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi… Theo cách đó, cuộc chiến vốn chia rẽ chúng ta nay lại là cội nguồn của sự hàn gắn”.

Thầy còn có những buổi cho tham vấn với từng cá nhân và giúp từng người nhìn thấy được con đường tâm linh để vững chãi bước tới.

 

4. Phát triển ở phương Đông 

Không muốn bị đóng khung bởi “nhãn hiệu” một vị thầy theo Thiền tông, Tịnh Độ tông hay Nam tông nên Thầy, trung thành với tinh thần thiền được truyền thừa từ Thiền sư Khương Tăng Hội, thường nói rằng Thầy chỉ “trình bày giáo lý của đạo Bụt nguyên thủy theo tinh thần Đại thừa”, hay “đem đạo Bụt Đại thừa về tắm lại trong dòng suối đạo Bụt nguyên thủy”[333]. Tại các trung tâm thực tập thuộc Làng Mai, các nghi lễ đã được Thầy giản lược đi rất nhiều để phục hồi sự tinh yếu sống động của Thiền Phật giáo. Làm như thế, Thầy đã đi xa hơn việc chỉ đơn thuần giảng dạy “thiền Đại thừa”. Trên thực tế Thầy đã truyền dạy một đạo Bụt hiện đại, cách tân nhưng vẫn giữ được gốc rễ của giáo lý nguyên thủy. Đây là một sự kết hợp giữa giáo lý nguyên thủy và tinh thần Đại thừa.

Thầy thấy được rằng công phu thực tập không phải là một cái gì lao nhọc, làm đầy đọa thân tâm. Thiền Làng Mai buông bỏ được các phép hành trì công án, thoại đầu và mặc chiếu, chấm dứt được mong cầu, dù là mong cầu đạt đạo, và trở nên một loại thiền tập ai cũng có thể áp dụng được trong đời sống hàng ngày. Trong nhận thức mới, thiền công án, thoại đầu và mặc chiếu đã trở thành xơ cứng, có tính cách hình thức, không có khả năng chế tác sức sống tâm linh như ngày xưa nữa. Thay vào những động tác có tính nghi lễ, pháp môn Làng Mai áp dụng hơi thở chánh niệm và các bài thi kệ thực tập chánh niệm. Giới xuất sĩ cũng như giới cư sĩ đều được chỉ dẫn cặn kẽ về cách sử dụng những bài tập thở trong kinh An ban thủ ý và những bài thi kệ thực tập chánh niệm, trong bốn tư thế của cơ thể, trong mọi động tác như chải răng, tắm gội, mặc áo, ôm bát, lái xe, v.v. Ngoài các khóa tu cũng phải thực tập như trong các khóa tu, và thực tập có nội dung, không bị kẹt vào hình thức. Nhìn cách đi, đứng, nói, cười, làm việc và tiếp xử, người khác nhận diện được mình và pháp môn của mình thực tập. Nhận diện cảm thọ, cảm xúc và làm lắng dịu chúng, ta cũng sử dụng hơi thở và bước chân. Thiền Làng Mai đã trở về suối nguồn nguyên thuỷ, và do đó tận dụng những kinh thiền nguyên thuỷ. Thầy thấy thiền công án và mặc chiếu không còn hợp thời nữa, không phải vì Thầy không theo truyền thống của Bụt mà tại Thầy thực sự muốn trở về truyền thống của Bụt.

Phần lớn các chùa ở Việt Nam đều thuộc về truyền thống thiền, Lâm Tế hay Tào Động, nhưng hiện giờ các chùa trong nước không thực tập thiền mà chỉ thực tập Mật và Tịnh độ. Pháp tu căn bản của phần lớn các chùa hiện giờ là hai thời công phu. Công phu sáng đầy đà la ni. Tâm Kinh vì được nhận thức như một linh chú (thị đại thần chú, thị đại minh chú) cho nên mới được đưa vào công phu sáng. Công phu chiều là tịnh độ. Phần lớn các chùa đều không còn ngồi thiền. Trong các buổi công phu, ta còn giữ được phép kinh hành, nhưng đó chỉ là đi để niệm Bụt, chứ không phải là thiền đi, như sự thực tập ngày xưa lúc đi khất thực. Thầy và tăng thân đã xuất bản Nhật tụng thiền môn bằng quốc văn, giúp cho việc thực tập trở nên cụ thể và sinh động.

Trong những chuyến về Việt Nam, Thầy đều ghé Thái Lan, Hồng Kông, và các nước Đông Nam Á khác để mở các khóa  tu. Vì vậy từ năm 2008 trở đi, tầm ảnh hưởng của Thầy ở châu Á tăng lên nhanh chóng, nhất là đối với giới trẻ. Những người trẻ thực sự ấn tượng bởi một đạo Bụt mới qua những lời giảng của Thầy, một đạo Bụt không bị ràng buộc bởi giáo điều, nghi lễ và sự mê tín. Năm 2013, hơn 10 ngàn người đã tham dự buổi pháp thoại công cộng của Thầy ở Busan, Hàn Quốc và 11 ngàn người tại buổi pháp thoại công cộng ở Hồng Kông, nơi Thầy cũng hướng dẫn những buổi huấn luyện đặc biệt cho thầy cô giáo và nhân viên y tế. Là một trung tâm của Làng Mai ở châu Á, trung tâm Làng Mai quốc tế Thái Lan với  gần 200 vị xuất gia, đã và đang hướng dẫn các khóa tu ở Nhật, Indonesia, Philippines và Đài Loan,… Ở Thái Lan, Thầy đã giảng dạy và hướng dẫn khóa tu tại trường đại học hoàng gia Mahachulalongkorn (MCU), trường đại học Phật giáo lớn nhất thế giới, quê hương của rất nhiều vị học giả nổi tiếng trong truyền thống Phật giáo Nam Tông. Ngày 26 tháng 03 năm 2011, Làng Mai và trường đại học MCU đã ký kết văn bản Hiệp ước đối tác, một sự cộng tác giữa hai bên trong việc chia sẻ các khóa tu và ngày quán niệm, yểm trợ cho phong trào Wake Up ở Thái Lan (chia sẻ giáo lý đạo Bụt ứng dụng và đạo đức học ứng dụng với thế hệ trẻ), và phát triển một chương trình Thạc sĩ về đạo Bụt ứng dụng tại MCU. Tại Trung Quốc, những kinh văn cổ bằng chữ Hán được Thầy dịch ra ngôn ngữ hiện đại đã được dịch ngược lại sang tiếng Trung Quốc đương đại và được chào đón bởi một số đông độc giả. Nhờ sự kết hợp giữa giáo lý nguyên thủy và tinh thần đại thừa, các khóa tu Thầy giảng dạy ở đâu cũng được hưởng ứng, các nước Phật giáo Nam tông cũng như Bắc tông, ở Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Đại Hàn, Nhật Bổn, hay Thái Lan, Ấn Độ.

Cũng tại châu Á, các tác phẩm thư pháp với những thiền ngữ giản dị mà sâu sắc, với nét bút rõ ràng thanh thoát chuyên chở năng lượng chánh niệm của Thầy được rất nhiều người yêu thích. Thư pháp của Thầy đã được triển lãm một cách quy mô tại Bảo tàng mỹ thuật của Đại học Hồng Kông vào tháng 11 năm 2010. Buổi triển làm này đã gây nguồn cảm hứng cho những buổi triển lãm kế tiếp ở Pháp, Đức, Canada, Hoa Kỳ, Thái Lan, Đài Loan và Việt Nam. Hai buổi triển lãm cuối cùng vào năm 2021 tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã gây tiếng vang lớn. Qua thư pháp, Thầy nhắc nhở các học trò thực tập chánh niệm qua những câu thiền ngữ như: Thở đi con, Mỉm cười, An lạc từng bước chân, Con đã về con đã tới,… Ngày nay, những bức thư pháp của Thầy đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật được nhiều người yêu thích trên khắp thế giới, và đã được xuất bản dưới dạng sách[335].  

Trong các khóa tu, các đệ tử cư sĩ và thiền sinh cũng muốn thỉnh Thầy về nhà qua những tấm thư pháp để nhớ duy trì sự thực tập. Thầy đã viết hơn 10.000 tấm thư pháp.

5. Vị tu sĩ có ảnh hưởng lớn

Trong chuyến hoằng pháp cuối cùng của Thầy tại Bắc Mỹ vào năm 2013, Thầy đã hướng dẫn một khóa tu cho hơn 1500 nhà giáo dục ở Toronto, Canada; khai mạc triển lãm thư pháp của Thầy tại Broadway, New York; cho pháp thoại tại trường đại học Y khoa Harvard; hướng dẫn các buổi sinh hoạt chuyên đề về chánh niệm tại trụ sở Ngân hàng Thế giới ở Washington; nói chuyện tại trường đại học Stanford; hướng dẫn một ngày tu chánh niệm cho hơn 700 nhân viên của Google; và hướng dẫn một buổi chiều chánh niệm cho một số Giám đốc điều hành (CEO) hàng đầu của Thung lũng Silicon, trong đó có Marc Benioff, CEO của Salesforce. Marc Benioff đã trở thành một hộ pháp rất đắc lực của Thầy. “Anh muốn trở thành số một hay anh muốn được hạnh phúc?”, Thầy đã hỏi các CEO. “Nếu anh hạnh phúc, anh không thể nào là nạn nhân của hạnh phúc. Nhưng nếu anh thành công, anh có thể trở thành nạn nhân của sự thành công”, Thầy nói.

Mùa xuân năm 2014, Thầy đã làm hậu thuẫn cho Christiana Figueres, đệ tử của Thầy, khi bà chuẩn bị lãnh đạo các cuộc đàm phán về khí hậu (COP-21) tại Paris. Các cuộc đàm phán đã dẫn đến Hiệp ước Paris nổi tiếng. Sau này bà Christiana Figueres đã chia sẻ rằng nhờ sự hướng dẫn và những lời dạy của Thầy mà bà đã thành công[339]. Ảnh hưởng của Thầy cũng lan đến cả Hollywood. Hai đạo diễn từng đoạt giải Oscar là Alejandro G. Inarritu và Alfonso Cuarón đã đến dự các khóa tu và thực tập theo giáo pháp của Thầy. Cố nghệ sĩ hài Garry Shandling cũng là một người hết lòng thực tập theo Thầy. Ông là người nói lời giới thiệu Thầy trước khi Thầy phát biểu tại Quốc hội Mỹ[340].

 

6. Chánh niệm là con đường, không phải là một công cụ

Khi thiền chánh niệm trở thành một phong trào, các đệ tử giáo thọ cư sĩ của Thầy đặt câu hỏi là có nên giảng dạy chánh niệm cho các doanh nghiệp để giúp họ làm giàu nhiều hơn nữa, có nên huấn luyện chánh niệm cho quân đội để họ có thêm định mà giết người giỏi hơn không. Chánh niệm có thể làm lợi lạc cho tất cả mọi người hay chỉ nên làm lợi lạc cho một  người nào đó thôi. Thầy giải thích sự khác biệt giữa chánh niệm và tà niệm, giữa chánh kiến và tà kiến. Bất cứ khi nào một đệ tử của Thầy giảng dạy chánh niệm, họ nên cống hiến một giáo pháp hoàn chỉnh, bao gồm cả đạo đức, và không bao giờ nên pha loãng hay làm biến chất sự thực tập, hoặc sử dụng nó cho một mục đích phi đạo đức. Thầy nói, chánh niệm là con đường, mà không phải là một phương tiên hay một công cụ. Lấy chánh niệm ra khỏi bối cảnh của chánh đạo thì đây không còn là chánh niệm nữa.Tháng 09 năm 2014, Thầy hoàn tất bản dịch mới của Tâm Kinh Tuệ giác Qua bờ, trong đó làm rõ ý nghĩa của chữ “không” trong bản kinh. Thầy giải thích “không” không có nghĩa là “không có gì”, mà có nghĩa là “không có một cái ngã riêng biệt”. Thầy đã biến những giáo lý thâm sâu của Tâm kinh Bát nhã – một trong những bản kinh thiêng liêng nhất của đạo Bụt Đại thừa – trở thành một sự thực tập hết sức linh động.