(Phiên tả Pháp thoại ngày 26, 29 tháng 03 & ngày 02 tháng 04 năm 1998, Làng Mai, Pháp)
Kinh Soi gương là kinh không phải do đức Thế Tôn trực tiếp nói mà do thầy Mục Kiền Liên nói. Trong Đại tạng chúng ta thấy rằng ngoài những kinh do Bụt nói, thỉnh thoảng có những kinh do các thầy, các sư cô nói. Điều này làm chúng ta rất hân hoan vì chúng ta thấy rằng ngay trong thời của Bụt đã có sự tiếp nối. Thỉnh thoảng, sau khi các thầy nói xong một kinh thì Bụt lên tiếng khen ngợi và có lúc Bụt dạy: “Nếu tôi nói thì tôi cũng nói hay như vậy thôi chứ tôi cũng không thể nói hay hơn”. Bụt rất dễ thương, Người nói những câu có tính cách nâng đỡ và khuyến khích các học trò của mình.
Kinh này vốn tên là kinh Anumāna Sutta, kinh số 15 trong Trung bộ (Majjhima Nikāya). Kinh này rất cần thiết cho hạnh phúc của những người xuất gia cùng sống chung một tu viện. Trong Hán tạng, ta có bản tương đương là kinh Tỳ kheo khỉnh, kinh 89 của bộ Trung A hàm, kinh số 26 của tạng kinh Đại chánh. Ngoài các thầy như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan Đà, Ca Chiên Diên, còn có các ni sư như Dahammadinnā, Patacara cũng đã từng thuyết pháp và những bài thuyết pháp của các vị cũng được ghi chép và lưu lại trong Tam tạng kinh điển, trong đó có Trưởng lão ni kệ, thuộc kinh Tiểu bộ (Khuddaka Nikāya).
Ðây là những điều tôi được nghe vào một thời mà tôn giả Ðại Mục Kiền Liên đang cư trú giữa những người thuộc bộ tộc Bhagga, ở Vườn Nai. Hôm ấy tôn giả Ðại Mục Kiền Liên gọi các vị khất sĩ: “Này các bạn đồng tu”. Các vị khất sĩ trả lời: “Có chúng tôi đây, đại huynh”. Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên nói:
“Này các bạn đồng tu, giả sử có vị khất sĩ thỉnh cầu các vị khất sĩ khác, nói rằng: ‘Xin các bạn đồng tu hãy chuyện trò với tôi, tôi mong rằng tôi được các bạn đồng tu thương tưởng và chuyện trò với tôi’. Nếu vị khất sĩ ấy là người mà kẻ khác khó nói chuyện với được, nếu vị ấy là người có những tính nết làm cho kẻ khác không nói chuyện với được, nếu vị ấy là người thiếu kiên nhẫn, thiếu cởi mở, không có khả năng tiếp nhận những lời phê bình, những lời khuyên bảo và dạy dỗ của các bạn đồng tu phạm hạnh, thì các vị này xét rằng không thể nói chuyện với vị ấy, không thể dạy bảo vị ấy, không thể đặt niềm tin vào vị ấy. Này các bạn đồng tu, vì những tính nết nào mà một vị khất sĩ bị nhận thức là một người mà kẻ khác khó nói chuyện với được?
Thầy Xá Lợi Phất và thầy Mục Kiền Liên là hai người được Bụt tín cẩn, giao phó trách nhiệm xây dựng tăng thân thành một đoàn thể tu học có hạnh phúc. Ngoài hai thầy, chắc chắn còn những thầy khác có khả năng xây dựng tăng thân, nhưng đây là hai vị huynh trưởng lớn. Thầy Xá Lợi Phất qua đời đã để lại một sự mất mát, một lỗ hổng lớn trong tăng đoàn. Khi nghe tin, thầy A Nan bàng hoàng đến độ hai chân không thể đứng vững.
Đọc kinh Soi gương chúng ta thấy rằng vào thời Bụt, thỉnh thoảng cũng có một thầy hay một sư cô không đi chung được với đại chúng bởi vì người đó có những hành xử khiến cho những người khác trong tăng thân không thể tới gần, không thể giúp đỡ, không thể nói chuyện được. Người đó sống như một giọt dầu trong bát nước. Tự thân người đó đã không tiến bộ mà cũng không tạo được hạnh phúc cho tăng thân. Nhận thức được điều này nên thầy Mục Kiền Liên đã nói kinh Soi gương để mọi người trong chúng đều có cơ hội thực tập.
Khi sống hòa điệu trong tăng thân, ta có thể đến chơi và nói chuyện với bất cứ người nào. Ta sống có hạnh phúc và mang lại hạnh phúc cho những người khác. Nếu ta không thể truyền thông được với những thành phần khác trong tăng thân và không ai muốn tới gần, như vậy là ta đã bị cô lập. Ta không có hạnh phúc và ta khiến cho hạnh phúc của tăng thân cũng bị giảm đi rất nhiều.
Ngày xưa có phương pháp mặc tẫn, tức là tẩy chay, trục xuất ai đó bằng cách im lặng. Phương pháp đó hiện giờ ở nhiều chùa vẫn còn sử dụng khi có một người luôn gây xáo trộn, tạo ra những khổ đau, làm giảm đi hạnh phúc trong đại chúng. Tẩy chay một cách im lặng tức là không chỉ dạy, không trách móc, không trừng phạt, tất cả mọi người trong chúng đều giữ im lặng với người đó, người đó có nói gì cũng không ai đáp lời. Sau một thời gian, người đó chịu không nổi và phải bỏ chúng mà đi.
Ở Làng Mai chưa bao giờ phải dùng tới phương pháp mặc tẫn. Chúng ta có những phương pháp khác. Khi phải áp dụng phương pháp mặc tẫn nghĩa là chúng ta đã hết hy vọng và nghĩ rằng người đó không thể nào giáo dục được nữa. Ban đầu, mọi người cố gắng giúp người đó chuyển hóa, nhưng sau một thời gian, ai nấy đều chịu thua, không còn khả năng can thiệp để giúp người đó và đồng thời giúp tăng thân nữa. Ta thấy rằng người này ở đây không có ích lợi cho bản thân cũng như cho chúng và ta đi tới dùng phương pháp mặc tẫn – im lặng tẩy chay. Như vậy, mặc tẫn là giải pháp cuối cùng, chứng tỏ sự thất bại của tăng thân cũng như sự thất bại của đương sự.
Pháp môn soi sáng đã có từ thời đức Thế Tôn còn tại thế. Trong buổi lễ Tự tứ, các thầy soi sáng cho nhau. Tại Làng Mai, chúng ta áp dụng phương pháp soi sáng không chỉ trong dịp Tự tứ mà còn trong suốt quá trình tu tập, nhiều lần trong một năm: trước khi thọ giới, trước khi làm giáo thọ, trước – giữa và sau khóa tu.
Hãy tưởng tượng có một thành phần của tăng thân rất cứng đầu, không chịu nghe người khác, khó ai có thể tới với người đó, thành ra ai cũng chịu thua. Chúng ta cứ để tình trạng đó kéo dài đến khi mọi người đồng ý mặc tẫn, nghĩa là từ tình trạng đó đến lúc phải áp dụng phương pháp mặc tẫn thì không có những phương pháp khác. Điều này vừa tội nghiệp cho tăng thân vừa tội nghiệp cho đương sự. Một trong những cách mà chúng ta có thể áp dụng để giúp cho đương sự nhìn lại và có cơ hội thay đổi chính là phương pháp soi sáng. Soi sáng nghĩa là chúng ta chưa chịu thua, không chịu thua, chúng ta dùng sức mạnh của tăng thân để can thiệp vào hoàn cảnh của đương sự. Tiếng nói của một cá nhân có khi chưa giúp người đó chuyển hóa, nhưng tiếng nói của tăng thân có thể giúp người đó thay đổi tình trạng. Trong kinh Soi gương, thầy Mục Kiền Liên nêu ra những lý do khiến cho một thành phần trong tăng thân rơi vào tình trạng bị cô lập. Thầy không chỉ đưa ra những phương pháp dành cho phần tử đó mà còn cho tất cả mọi người trong tăng thân áp dụng. Biết đâu ngày mai chính ta trở nên một thành phần như vậy – một phần tử ngoan cố, không có khả năng lắng nghe, bị các tập khí nặng nề kéo đi và luôn lên án những người khác; trong khi đó, bản thân lại không biết rằng mình đang làm khổ những người khác, và khiến không ai dám tới chuyện trò. Khi sống trong một tăng thân, chúng ta nương tựa tăng thân để được khuyên bảo, dạy dỗ và nâng đỡ. Nếu ta tự cô lập, không biết nghe lời, không có khả năng truyền thông tốt với mọi người thì dù những sư anh, sư em, sư chị của ta muốn tới giúp đỡ cũng không thể giúp được. Cuối cùng, ta rời bỏ tăng thân. Như vậy rất tội nghiệp cho ta mà cũng tội nghiệp cho tăng thân.
Khi học kinh này, chúng ta có thể học hỏi và áp dụng những điều thầy Mục Kiền Liên chỉ dạy vào trong cuộc sống tăng đoàn. Đồng thời, chúng ta cũng đóng góp thêm những phương pháp hiện có ở Làng Mai, những phương pháp mà ngày xưa thầy Mục Kiền Liên chưa dạy.
Ở đây, này các bạn đồng tu, nếu một vị khất sĩ bị vướng vào tà dục, bị tà dục lôi kéo, thì đó là một nguyên do khiến các bạn đồng tu khó nói chuyện với vị ấy.
Tà dục, tiếng Anh là wrong desire. Theo bản kinh chữ Hán, tà dục là vướng vào một đam mê nào đó. Thầy Mục Kiền Liên nói đến sự vướng mắc như là nguyên do đầu tiên khiến đại chúng không đến và không nói chuyện được với ta. Khi ta bị vướng mắc, bị kìm hãm và bị lôi kéo bởi tà dục thì đó là một trở ngại rất lớn. Vì vướng vào tà dục, ta trở nên ngoan cố, nhất định không buông bỏ, không nghe lời ai và những người khác cũng không thể tiếp xúc, không thể nói chuyện được với ta… Khi nhận thấy điều đó, nhiều người trong tăng thân đã tới nói với ta, nhưng ta luôn tìm cách làm lơ và không thèm để ý tới những lời khuyến cáo. Ta không muốn người khác nói đến chuyện này. Dần dà, ta trở thành một “cục đá”.
Soi gương là để thấy rằng sư anh đó, sư chị đó đang mắc kẹt vào một đam mê và khiến cho đại chúng không tới giúp đỡ hay nói chuyện được. Ta có đang lâm vào tình trạng bị một tà dục lôi cuốn để rồi cũng tự cô lập như sư anh hay sư chị đó không? Người kia rõ ràng bị cô lập vì đang ôm ấp tà dục, cho dù ai tới nhắc nhở hay khuyên nhủ cũng nhất định không nghe. Đây là trường hợp đầu tiên: vướng vào tà dục. Vướng vào tà dục ở đây là sự vướng mắc không lành mạnh với một người trong tăng thân hay một người khác ngoài tăng thân.
Và đây là những nguyên do khác khiến cho các bạn đồng tu không nói chuyện được với mình: Hoặc vị ấy chỉ biết khen mình và chê người;
Trường hợp thứ hai:
Vị ấy chỉ biết khen mình và chê người.
Có những người như vậy, chỉ muốn cái ngã, cái tự ái của mình được vỗ về, chứ không có khả năng khen bất cứ một người nào khác trong tăng thân. Họ chỉ thấy những khiếm khuyết, những yếu kém của người khác mà không có khả năng thấy và ca ngợi những điểm tích cực. Điều này xảy ra khắp nơi. Có những người chưa bao giờ mở miệng ra khen sư anh, sư chị hay sư em của mình được một câu nào, mà chỉ đợi đến khi sư anh, sư chị, sư em đó có khuyết điểm thì lên tiếng. Mỗi khi ai đó nói đến một ưu điểm của họ, họ rất thích. Họ rất đói chuyện được khen ngợi. Nếu không ai thấy và khen ngợi tài năng của họ thì họ sống không nổi. Họ không có khả năng mở lời khen ngợi hay “tưới hoa” được cho bất cứ một ai. Nói chuyện với người thứ ba, họ cũng không có khả năng khen ngợi người kia. Đó là nguyên do thứ hai khiến họ tự cô lập.
Những người như vậy là những người rất hà tiện – hà tiện lời khen ngợi. Bất cứ ai cũng có những điểm tích cực và một vài điểm tiêu cực. Trong trường hợp này ta sẵn sàng thấy và nói những điểm tiêu cực, nhưng lại rất hà tiện, không thấy và nói được những điểm tích cực. Đây là một sự thiếu sót. Tăng thân phải học tập điều này. Khi ta thấy được người kia có những điểm tiêu cực cần chuyển hóa, cùng lúc đó ta cũng phải có khả năng thấy được những điểm tích cực của họ. Nhiều khi ta chỉ thấy một điểm tiêu cực của người kia thôi và ta lóa mắt bởi điểm tiêu cực đó rồi nên không thấy được rất nhiều điểm tích cực khác nữa. Có những người đã làm ta bực, làm ta khổ một lần, thế là ta chỉ thấy được mỗi điều đó. Còn tất cả những ngọt ngào, những đóng góp của người ấy cho tăng thân thì ta không thấy được và không công nhận. Vì vậy, ta không bao giờ có khả năng mở lời khen ngợi, tán dương những điểm tích cực.
Nên, khi thấy một người “hà tiện” trong tăng thân, ta hãy quay về tự hỏi: “Ta có như vậy không? Ta có phải là người chỉ thấy được lỗi lầm mà không có khả năng thấy được những đóng góp tích cực của người khác hay không? Người đó hành xử như vậy, vì chỉ muốn người khác khen mình, còn mình thì lại chê người khác, từ đó mà bị cô lập. Ta có phải là người như vậy không? Ta có muốn bị cô lập không? Ta có hành xử giống người đó không?”. Đó chính là soi gương.
Nếu ta có thành kiến về một người nào đó thì ta phải thực tập. Ta phải tự hỏi: Ngoài khuyết điểm mà ta đã thấy thì người đó còn có những ưu điểm nào khác? Ta phải liệt kê những ưu điểm đó ra. Và khi ta nói chuyện với một người thứ ba, người thứ tư hay nói chuyện với chính người đó, ta phải có khả năng nói về những ưu điểm. Không có khả năng nhìn thấy ưu điểm của người khác, nghĩa là ta đang từ từ tự cô lập.
Trường hợp thứ ba:
Hoặc vị ấy dễ nổi giận và bị cơn giận chi phối.
Có thể là người đó không có ác tâm, không giận lâu, nhưng thường đùng đùng nổi giận một cách dễ dàng cho nên ai cũng ngán, không dám đến gần. Một người rất dễ nổi giận, không làm chủ được mình, và để cho cơn giận chi phối thì dễ bị cô độc, cô lập và những thành phần khác của tăng thân không muốn tới tâm sự, trao đổi kinh nghiệm, giáo huấn hay giúp đỡ. Ta tự hỏi: Người kia như vậy và bị cô lập , còn ta thì sao? Ta có phải là một người dễ nổi giận và dễ bị cơn giận chi phối hay không?
Khi bị cơn giận chi phối, chúng ta mang một nỗi hiềm hận trong lòng và trở nên cáu kỉnh. Ta có thể bộc lộ sự cáu kỉnh với người khác bằng cách nói năng không có ái ngữ. Sự cáu kỉnh biểu lộ trong ngôn từ của ta, người khác thấy rất rõ, trong khi ta nghĩ rằng ta đang nói năng một cách bình thường, không cáu kỉnh. Nếu có người thâu thanh, thâu hình trong khi ta đang nói, sau đó cho ta xem lại nét mặt, nghe những điều đã nói, ta mới nhận ra rằng lúc đó ta thực sự có cáu kỉnh và bực bội. Đó gọi là soi gương.
Trường hợp thứ tư:
Vì giận mà ôm ấp một nỗi hiềm hận.
Có người giận xong rồi thì hết giận, nhưng có những người giận xong vẫn cứ ôm ấp, giữ hoài nỗi hiềm hận. Nỗi hiềm hận đó trở thành nội kết bên trong và biểu hiện ra nơi ánh mắt, lời nói, cách hành xử của họ. Chẳng hạn, khi còn giữ lòng giận hờn ai đó, thấy người kia ở đâu thì ta tự động tránh xa, xách ghế đi chỗ khác ngồi. Những điều đó biểu hiện ra rất rõ, tại vì trong lòng mình còn giữ sự hiềm hận. Ta tránh né người kia như tránh một người bị bệnh phong cùi và trong đại chúng ai cũng thấy. Tuy rằng ta im lặng, không biểu lộ sự giận hờn, nhưng ta giữ trong lòng nỗi hiềm hận và nỗi hiềm hận đó chi phối thân, khẩu và ý của ta. Đó là một lý do khiến cho ta bị cô lập.
Trường hợp thứ năm:
Hoặc vị ấy vì hiềm hận mà trở nên cáu kỉnh.
Ban đầu, ta chỉ có sự hiềm hận và tìm cách tránh né. Nhưng nếu ta không biết chuyển hóa thì nỗi hiềm hận đó trở thành nội kết lớn và sớm muộn gì cũng được biểu lộ ra bằng sự cáu kỉnh, bực bội. Một khi ta cáu kỉnh, bực bội thì thiên hạ không dám đến gần, không dám đề cập đến vấn đề đó, không dám giáo huấn và ta trở thành cô độc.
Trường hợp thứ sáu:
Hoặc vì hiềm hận mà nói những lời có tính cách cáu kỉnh.
Trong trường hợp thứ năm, nỗi hiềm hận hiện ra ở nét mặt, ai cũng thấy. Trường hợp thứ sáu thì biểu hiện trong lời nói. Khi nói những lời cáu kỉnh, ta sẽ khiến thiên hạ ngán và không dám tới gần nữa.
Trường hợp thứ bảy:
Hoặc vị ấy lên án người bạn đồng tu đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm.
Thay vì cần nói cám ơn sư anh, sư chị đã chỉ cho em thì ta lại dùng thái độ lên án, chỉ trích. Ta nói: “Anh/chị có hơn gì em đâu mà anh/chị làm như vậy, nói như vậy? Em thấy anh/chị cũng quá đáng. Em thấy em đóng cửa không có chánh niệm nhưng anh/chị còn đóng cửa không có chánh niệm nhiều hơn…”. Đó gọi là lên án người đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm. Người kia vì thương, vì muốn xây dựng cho ta mà ta lại lên án, phê phán thì lần sau người kia sẽ không tới khuyên nhủ, không chỉ bảo cho ta nữa. Nếu có hai, ba, bốn, năm người cũng bị đối xử như vậy thì đại chúng sẽ xa lìa dần và ta trở thành cô độc. Ta phải soi gương và tự hỏi: “Người đó bị cô lập là vì thường lên án những người đã chỉ cho họ những yếu kém của họ. Vậy mình có phải là người như vậy hay không?” Thực tập soi gương để ngăn ngừa ta đừng trở thành một thành phần như vậy.
Trường hợp thứ tám:
Hoặc vị ấy miệt thị người bạn đồng tu đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm.
Có người nói: “Anh/chị là ai mà dám dạy tôi điều đó, anh/chị có giỏi hơn tôi chỗ nào đâu. Anh/chị rất dở mà không tự lo phần mình, lại đi lo chuyện người khác.” Đó gọi là miệt thị.
Trường hợp thứ chín:
Hoặc vị ấy chỉ trích trở lại người đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm.
Ta xem việc giúp đỡ của người kia là một sự tấn công và nghĩ rằng người kia tấn công ta thì ta tấn công lại. Ta vạch lá tìm sâu, tìm những khuyết điểm của người kia và chỉ trích trở lại. Thành ra thiện chí của người kia không được tiếp nhận, người kia làm ơn mà mắc oán. Từ đó không ai dám đến giúp ta nữa. Nhiều khi người kia không thực sự chỉ ra lỗi ta đã phạm, người kia quả thực hơi ngán ta và đâu muốn góp ý xây dựng cho ta nữa. Nhưng vì đã có sẵn nội kết là ai cũng chê mình như vậy, nên khi người kia nói những điều khác thì ta lại nghĩ rằng những điều đó là nói quanh, nói quẩn, nói xiên, nói xéo để nói lỗi của ta. Từ đó ta nổi giận và miệt thị người kia.
Trường hợp thứ mười:
Hoặc vị ấy chất vấn trở lại người đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm.
Ta có biện tài và nói rất khéo, thành ra ta chạy tội rất dễ và ta chất vấn người kia. Vì người kia hiền quá, trả lời không được cho nên lần sau người kia không dám tới nữa.
Trường hợp thứ mười một:
Hoặc vị ấy tránh né bằng cách hỏi người đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm những câu hỏi khác.
Có những người như vậy, họ “già hàm” lắm – tránh né vấn đề bằng cách hỏi người đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm những câu hỏi khác.
Trường hợp thứ mười hai:
Trả lời ngoài vấn đề, để lộ sự bực bội, giận dữ và bất mãn của mình.
Trường hợp thứ mười ba:
Hoặc vị ấy không giải thích thỏa đáng hành động của mình cho người đã hỏi mình về lỗi lầm mình đã phạm.
Trường hợp thứ mười bốn:
Hoặc vị ấy thô tháo và có ác ý.
Những người thô tháo và có ác ý thì ít người dám đến gần.
Trường hợp thứ mười lăm:
Hoặc vị ấy ganh ghét và xan tham.
Sự giận dữ làm người ta tránh né mình nhưng sự ganh ghét cũng làm người ta sợ và tránh né mình. Người ganh ghét là người không biết tùy hỷ công đức, không thực tập được vô ngã, thấy người kia có hạnh phúc, được thương, được quý chuộng thì chịu không nổi. Người ganh ghét thường đặt câu hỏi tại sao mình không được thương, không được yêu quý mà người kia lại được thương, được yêu quý? Có phải người kia đã dùng phương pháp nịnh bợ, ngon ngọt để được thương và được yêu quý hay không? Có phải người kia đã nói xấu mình làm mình không được thương và không được yêu quý hay không? Tự đặt ra những câu hỏi như vậy làm cho đương sự rất đau khổ.
Nếu thấy xung quanh ta có những người được thương, được yêu quý thì ta phải hạnh phúc vì người đó là anh, là em, là chị của ta. Ta chia sẻ được với hạnh phúc của người khác và tự nhiên tâm ta trở nên nhẹ nhàng, tươi mát. Khi tâm ta đã nhẹ nhàng, tươi mát thì ta cũng được thương yêu và quý trọng như thường. Ngược lại, nếu có sự ganh ghét tức là ta đã tự đánh mất hết tất cả sự tươi mát và nhẹ nhàng của mình, vì vậy ta không được hưởng hạnh phúc. Ganh ghét là một tâm niệm có thể phá tan hạnh phúc của ta, hạnh phúc của tăng thân và làm cho người khác không thể tới được với ta.
Trường hợp thứ mười sáu:
Hoặc vị ấy mưu mô và lường gạt.
Trường hợp thứ mười bảy:
Hoặc vị ấy cứng đầu và tự kiêu.
Trường hợp thứ mười tám:
Hoặc vị ấy có vẻ thế tục, vướng vào thế tục, không biết buông bỏ…
Tuy đã xuất gia nhưng tính cách của người đó còn nhiều thế tục: không có uy nghi, không có sự nhẹ nhàng, thảnh thơi của người xuất gia. Và đó là nguyên do khiến những người khác không muốn đến gần để tránh bị ảnh hưởng bởi những điều như vậy.
Sự ganh ghét khiến ta hành động chưa dễ thương. Có khi ta cứng đầu không biết phục thiện, không có khả năng thấy được những yếu kém của mình, không có khả năng tiếp nhận những lời phê bình và xây dựng của người khác, không có khả năng tự phê bình – autocritic. Có thể chúng ta đã quen nếp sống thế tục. Tuy đã vào chùa rồi nhưng ta vẫn tiếp tục những lề thói suy nghĩ và hành xử của thế tục. Vì vậy ta không được các bạn đồng tu tới gần để soi sáng, nâng đỡ và giáo huấn cho ta.
Này các bạn đồng tu, đó là những thói tật làm cho một vị khất sĩ tự cô lập hóa khiến cho các bạn đồng tu không nói chuyện được với mình.
Khi có cảm tưởng cô đơn, cô độc, các bạn đồng tu không tới được với ta, không chơi với ta, ta nên đem bản danh sách này ra để quán chiếu: “Ta có bị vướng vào một trong 18 điểm này hay không? Nếu ta không bị vướng vào một trong 18 điểm này thì tại sao lại có chuyện ta bị cô lập?”. Đó là phương pháp soi gương.
Nhưng này hỡi các bạn đồng tu, nếu có một vị khất sĩ thỉnh cầu các vị khất sĩ: “Xin các bạn đồng tu hãy chuyện trò với tôi, tôi mong rằng tôi được các bạn đồng tu thương tưởng và chuyện trò với tôi.” Nếu vị khất sĩ này là người mà kẻ khác có thể dễ dàng nói chuyện với được, nếu vị ấy có những đức tính tốt khiến cho kẻ khác có thể dễ dàng nói chuyện với được, nếu vị ấy là người có kiên nhẫn, có cởi mở, có khả năng tiếp nhận những lời phê bình, khuyên bảo và dạy dỗ của các bạn đồng tu phạm hạnh, thì các bạn đồng tu sẽ xét rằng họ có thể nói chuyện với vị ấy, có thể dạy bảo cho vị ấy, có thể đặt niềm tin vào vị ấy.
Này các bạn đồng tu, vì những đức tính, những nguyên do nào mà một vị khất sĩ được nhận thức là một người mà kẻ khác có thể dễ dàng tới và dễ dàng nói chuyện với được?
Ở đây, này các bạn đồng tu, nếu một vị khất sĩ không vướng vào tà dục, không bị tà dục lôi kéo, thì đó là một đức tính khiến các bạn đồng tu có thể dễ dàng tới với vị ấy và nói chuyện với vị ấy. Và đây là những đức tính khác khiến cho các bạn đồng tu có thể dễ dàng tới với mình và nói chuyện với mình: hoặc vị ấy không tự khen mình và chê người; hoặc vị ấy không dễ nổi giận và không bị cơn giận chi phối, rồi vì không giận cho nên không ôm ấp một nỗi hiềm hận; hoặc vị ấy vì không hiềm hận cho nên không cáu kỉnh; hoặc vị ấy vì không hiềm hận cho nên không nói những lời có tính cách cáu kỉnh; hoặc vị ấy không lên án người bạn đồng tu đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm; hoặc vị ấy không miệt thị người bạn đồng tu đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm; hoặc vị ấy không chỉ trích trở lại người đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm; hoặc vị ấy không chất vấn trở lại người đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm; hoặc vị ấy không tránh né bằng cách hỏi người đã chỉ cho mình lỗi mình đã phạm những câu hỏi khác, không trả lời ngoài vấn đề, không để lộ sự bực bội, giận dữ và bất mãn của mình; hoặc vị ấy giải thích được một cách thỏa đáng hành động của mình cho người đã hỏi mình về lỗi lầm mình đã phạm; hoặc vị ấy không thô tháo và không có ác ý; hoặc vị ấy không ganh ghét và xan tham; hoặc vị ấy không mưu mô và lường gạt; hoặc vị ấy không cứng đầu và tự kiêu; hoặc vị ấy không có vẻ thế tục, không vướng vào thế tục và lại có khả năng buông bỏ… Này các bạn đồng tu, đó là những đức tính làm cho một vị khất sĩ được nhận thức là một người mà kẻ khác có thể dễ dàng tới với được và dễ dàng nói chuyện với được.
Chúng ta đã học kinh Soi gương và đã liệt kê 18 nguyên do khiến cho một người trong tăng thân không được nhiều người tới gần, không được nâng đỡ và hướng dẫn. Khi nhìn sâu vào những nguyên do đó, chúng ta thấy có một nguyên do khác, dù không được gọi đích danh ở đây nhưng nó cũng có thể là một nguyên do rất quan trọng, đó là sự sợ hãi. Sự sợ hãi nằm trong mỗi chúng ta, khiến ta có cảm tưởng là ta không có an ninh. Có khi ta không thấy được hạt giống sợ hãi, không gọi được đích danh cho nên nó lẩn tránh như một bóng ma trong chiều sâu tâm thức của ta. Từ đó nỗi sợ hãi và cảm giác bất an âm thầm sai sử, khiến ta suy nghĩ, nói năng và hành động theo cách có thể gây ra những khổ đau cho tự thân và cho những người chung quanh.
Chẳng hạn như khi ta bị lôi kéo, ta có thể nghĩ rằng thủ phạm chính là sự vướng mắc, là tà dục. Đối tượng đó có thể là rượu, ma túy, hay sắc dục và ta nghĩ rằng khi gọi đúng tên sự vướng mắc thì ta đã thấy được bản chất của chúng. Tuy nhiên, khi nhìn sâu, ta sẽ thấy bên trong sự vướng mắc và tà dục còn có nỗi sợ.
Trong lòng ta có một sự trống trải – vacuum và ta rất sợ sự trống trải đó. Vì thế, ta phải mở ti vi lên, chứ không hẳn vì ta ham xem các chương trình truyền hình, ham xem những phim trinh thám, kiếm hiệp hay cao bồi. Cũng có nhiều người bất an đến nỗi phải sử dụng ma túy hay những chất độc khác để khỏa lấp. Đây không hẳn là bản chất của tham dục, mà có thể là do nỗi sợ trống vắng, sợ cô đơn nằm sâu trong chiều sâu tâm thức đã xúi ta đi về hướng đó. Ta đi tìm sự quên lãng, ta che lấp sự sợ hãi của ta bằng ma túy, bằng rượu, bằng những chương trình truyền hình và bằng sắc dục. Ta la cà trong quán rượu không có nghĩa là ta tham đắm trong dục lạc về rượu mà là vì ta sợ. Ta sợ trở về với chính ta, sợ đối diện với nỗi trống vắng mà ta nghĩ là rất kinh khiếp. Ta chạy trốn khỏi khoảng trống ấy. Để thấy rõ và gọi đúng tên những hạt giống đó, chúng ta tìm cách mời những hạt giống của sự trống vắng, cô đơn, niềm lo ngại có mặt để nhìn sâu vào bản chất của chúng.
Chúng ta đã nói tới angoisse – sự ưu tư của con người – nỗi ưu tư đó có trong tất cả chúng ta, nó đưa tới sự sợ hãi. Ta không biết rằng ngày mai sẽ như thế nào? Điều gì sẽ đến với ta? Ta có đủ sức chống cự với sự lẻ loi, cô đơn, với những gì sẽ xảy ra cho chúng ta trong tương lai hay không? Chính năng lượng của sự lo âu, sợ hãi đó dẫn dắt, đưa chúng ta vào những nẻo đường xấu ác, làm ta vướng vào tà dục, làm ta nổi giận, làm ta theo đuổi những dự án, những chương trình… Ta bận rộn và không còn cơ hội để sống một cách sâu sắc đời sống của ta. Tại vì ta muốn trốn chạy sự sợ hãi, trốn chạy cảm giác cô đơn nên ta mới vùi đầu vào công việc, vào sự hành lạc. Vùi đầu vào công việc thì thấy có vẻ tốt hơn, vì sự hành lạc có thể làm tiêu ma thân và tâm ta.
Có khi chúng ta lấy công việc để khỏa lấp sự trống vắng và sự sợ hãi. Mới nhìn vào thì thấy như ta là một người rất tích cực, rất siêng năng. Có khi ta làm việc và người khác nghĩ rằng ta đang lo cho danh và lợi trong tương lai, nhưng điều đó chưa chắc đã đúng. Có thể ta làm như vậy để quên đi hiện tại, để khỏi phải đối diện với sự sợ hãi và cảm giác bấp bênh trong hiện tại. Có khi chúng ta làm những việc được coi là ích nước lợi dân, lo cho xã hội, lo cho sinh môi. Ta làm rất hăng hái, để hết thì giờ vào công việc. Ta có cảm tưởng là ta đang làm điều tốt, hữu ích, nhưng nhìn sâu vào mới thấy rằng ta đang trốn chạy. Trốn chạy bằng công việc, ta trở thành kẻ nghiện công việc (workaholic), hễ ngưng tay là ta không chịu đựng nổi. Ta phải luôn bận rộn. Bận rộn để làm gì? Bận rộn để khỏi phải đối diện với con quái vật kinh khiếp mà ta gọi là sự cô đơn, sự trống trải, sự lo lắng về tương lai.
Nếu ta vướng mắc vào một người, không hẳn vì người kia hấp dẫn, mà chỉ để ta có cảm tưởng là có một nơi nương tựa cho bớt sợ hãi. Nhưng nếu người kia không có sự vững chãi thì khi vướng vào, ta lại càng mất đi chút ít vững chãi còn lại trong ta và càng thêm đau khổ. Trong xã hội có rất nhiều người là cha mẹ đơn thân (single parent). Và khi một mình nuôi con thì ta có cảm tưởng đơn độc, thiếu vững chãi, và muốn tìm một người khác để nương tựa. Ai trong chúng ta cũng cần có một chỗ nương tựa, tại vì ta đau khổ, ta thiếu sự vững chãi (solidity). Ta nghĩ rằng người kia là nơi nương tựa cho ta, nhưng có thể ta lầm vì người đó không có sự vững chãi để tự nương tựa thì làm sao có thể cho ta được sự vững chãi, do đó ta cũng bị lung lay theo. Những bà mẹ nuôi con một mình khi có nhu cầu tìm kiếm một người đàn ông để làm chỗ nương tựa thường vướng vào tình trạng này. Khi họ có cơ hội tới Làng Mai, thầy thường dạy: “Nếu quý vị chỉ có một chút ít vững chãi thì nhớ đừng làm mất đi chút ít vững chãi còn lại đó. Quý vị hãy thực tập nương tựa Tam bảo. Nương tựa vào Bụt, nương tựa vào Pháp, nương tựa vào Tăng thân để chế tác thêm chất liệu vững chãi mà nuôi con. Có thể trong tương lai quý vị sẽ gặp được một người đàn ông có sự vững chãi, có sự thảnh thơi. Nhưng quý vị đừng đi tìm sự vững chãi, thảnh thơi bằng cách đó! Quý vị hãy đi tìm sự vững chãi, thảnh thơi bằng cách nương tựa vào Tam bảo, nương tựa vào sự thực tập. Sự vững chãi của quý vị sẽ làm chỗ nương tựa cho chính mình và đứa con. Còn nếu quý vị gấp gáp đi tìm một người để làm chỗ nương tựa thì quý vị có thể rơi vào trường hợp là người kia không có sự vững chãi gì cả, mà chỉ hứa hẹn suông. Ai cũng sẵn sàng hứa suông như vậy, để rồi sau đó người kia lung lay và sự lung lay của người đó kéo theo sự lung lay hoàn toàn của quý vị. Thế là cả quý vị và đứa con đều sẽ mất hết, không còn một chút ít vững chãi nào nữa cả”.
PHƯƠNG PHÁP THỰC TẬP
Phương pháp mà thầy đề nghị là phương pháp quay về nương tựa vào những gì vững chãi mà đừng nương tựa vào những gì không vững chãi. Cái gì vững chãi (như đất) thì ta mới nương tựa, còn cái gì không vững chãi (như cát, như gió) thì ta không nên nương tựa.
Đã về, đã tới
Lúc gặp Kim Trọng, Thúy Kiều chưa tới tuổi hai mươi. Nhưng theo cụ Nguyễn Du thì Thúy Kiều, một thiếu nữ mới lớn, đầy sức sống nhưng trong lòng đã có sự sợ hãi rất lớn. Hôm đó Thúy Kiều đi chơi với em gái là Thúy Vân và em trai là Vương Quan trong hội thanh minh mùa xuân, giống như đại chúng vừa đi chơi sáng nay trong vườn hoa mai. Đến chiều, trên đường về thì ba chị em gặp một ngôi mộ bỏ hoang, không người hương khói. Thúy Kiều hỏi tại sao hôm nay là thanh minh, lễ tảo mộ mà ngôi mộ này vắng tanh, không có ai tới thắp nhang, tội nghiệp quá? Lúc đó, Vương Quan mới kể chuyện Đạm Tiên, là người nằm trong ngôi mộ. Vương Quan kể rằng: “Ngày xưa, Đạm Tiên là một ca nhi nổi tiếng, nhan sắc rất mặn mà. Nghe tiếng Đạm Tiên, nhiều người trong nước đã tìm tới. Nàng đã sống những năm tháng rất huy hoàng, giàu sang. Nhưng rồi vô thường đến và Đạm Tiên qua đời. Không có bà con thân thuộc bên cạnh, người ta đã chôn nàng một cách đơn giản. Đây là nấm mồ của nàng ca kỹ trẻ đó”. Thúy Kiều nghe vậy rất buồn và hạt giống của sự sợ hãi trong cô bị đánh động và tưới tẩm. Trong Thúy Kiều, cũng như trong bất cứ ai, đều có hạt giống của sự sợ hãi, lo lắng về tương lai bấp bênh. Tối hôm đó, Thúy Kiều mơ một giấc mơ rất hãi hùng. Tỉnh dậy, cô nằm khóc ướt hết cả gối vì lo sợ cho tương lai không biết sẽ nương tựa vào đâu. Trong khi mẹ, cha, em trai, em gái còn sống, nhà cửa còn đó, có cơ hội ăn học, nhưng Thúy Kiều không nhìn ra được những yếu tố như vậy mà bị sự sợ hãi, trống vắng chi phối. Chỉ một câu chuyện thôi cũng đủ tưới tẩm hạt giống của sự sợ hãi, trống vắng trong lòng Thúy Kiều.
Cũng vậy, nếu hằng ngày chúng ta đọc tiểu thuyết, xem những cuốn phim tưới tẩm hạt giống sợ hãi thì trong đêm ta có thể mơ thấy ta là một cánh bèo lưu lạc, không nơi nương tựa.
Đây là những câu cụ Nguyễn Du viết về tâm trạng của Thúy Kiều đêm đó, ta nên đọc lại để thấy rằng sự lo sợ đem tới khổ đau rất lớn:
Một mình lượng lự canh chày
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh
Hoa trôi bèo dạt đã đành
Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.
Chúng ta sẽ nghiên cứu để thấy được tâm tư của Kiều.
Một mình lượng lự canh chày. Canh chày là đêm đã khuya, có thể là canh ba, canh tư, quá nửa đêm một chút. Thúy Kiều thức dậy và một mình suy nghĩ, lo lắng trong khi đêm đã khuya rồi. Lượng lự chứ không phải là lưỡng lự, hesitate. Lượng tức là đo, là suy đi nghĩ lại, toan tính.
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. Thúy Kiều thấy mình không biết gì, không chắc chắn về tương lai. Nghĩ nỗi sau này là nghĩ về tương lai và kinh ở đây là sự sợ hãi. Chúng ta có thể cũng đã từng trải qua tâm trạng này. Ta ngủ không được và một mình thức dậy giữa đêm, không biết tương lai của ta như thế nào.
Hoa trôi bèo dạt đã đành. Kiều không biết tấm thân này sẽ đi về đâu. Nàng không có chỗ nương tựa và rất sợ hãi về tương lai. Thân phận của con người được ví như cánh hoa rơi trên dòng nước hay một cánh bèo nổi trên mặt nước và bị sóng gió xô đẩy, không biết trôi dạt vào bến bờ nào.
Biết duyên mình biết phận mình thế thôi. Duyên là điều kiện, phận là số phận. Kiều nghĩ rằng duyên phận của nàng cũng giống như duyên phận của một cánh hoa, một cánh bèo trôi trên sông.
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi. Nỗi riêng tức là nỗi niềm lo lắng, khổ đau riêng của mình. Nỗi tức là tâm hành. Lớp lớp tức là nó trào lên một lớp rồi lại trào lên một lớp khác nữa. Nghĩa là lo một lớp xong rồi còn sợ thêm một lớp và lo thêm một lớp nữa, gọi là lớp lớp sóng dồi. Những tâm hành liên tục tràn tới xô đẩy, dồi con người ta đi như những con sóng; tấm thân như một chiếc thuyền con, như một cánh bèo bị sóng đẩy. Đó là tâm trạng của Thúy Kiều trong đêm ấy.
Chúng ta biết rằng trong những phiền não có phiền não lo sợ. Tâm hành lo sợ dồi ta như những đợt sóng, dồi một cái, hai cái, ba cái… Nó cứ liên tục dồi mà ta thì lại rất mong manh như một cánh bèo, một cánh hoa giữa sóng gió.
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn. Đòi cơn đây nghĩa là từng cơn. Hễ suy nghĩ đến thân phận, đến nỗi bấp bênh, trống vắng và lo sợ của mình thì lại khóc. Mỗi lần suy nghĩ đến điều đó, mỗi lần tiếp xúc với nỗi sợ, với nỗi cô đơn thì Kiều lại khóc. Sụt sùi ở đây là khóc. Cứ tiếp tục như vậy, khóc xong rồi nghĩ tới thì lại khóc nữa, hết cơn này đến cơn khác, tạo thành từng đợt sóng tâm lý xô tới. Một thiếu nữ mới mười tám, hai mươi tuổi mà lại bị nỗi sợ lung lạc như vậy thì cuộc đời làm sao có hạnh phúc được? Cho nên nếu chúng ta không tu tập, không nhận diện được tâm hành lo sợ để thực tập thì làm sao chúng ta có được sự vững chãi và thảnh thơi? Nếu không có vững chãi và thảnh thơi thì làm sao chúng ta có được an lạc và hạnh phúc?
Sáng nay, trước buổi thiền hành chúng ta có hát bài Đã về đã tới:
Đã về, đã tới
Bây giờ, ở đây
Vững chãi, thảnh thơi
Quay về, nương tựa.
Chỉ từng đó chữ thôi, nhưng bài hát đã biểu lộ được sự thực tập của chúng ta. Đức Thế Tôn dạy rằng đừng tiếc nuối, sầu khổ về quá khứ vì quá khứ đã đi qua rồi; đừng sợ hãi và lo lắng về tương lai vì tương lai chưa tới. Sự thực tập của chúng ta là trở về giây phút hiện tại để có thể xử lý được hiện tại vì sự sống chỉ có mặt trong hiện tại mà thôi. Hiện tại có mưa, có nắng, có hoa mai, có những người sống xung quanh ta, có chim hót, thông reo, hoa nở, và có những nỗi khổ, niềm đau trong lòng cũng như chung quanh cần được ôm ấp, chuyển hóa. Ta phải tiếp xúc với tất cả những mầu nhiệm của sự sống để nuôi dưỡng và trị liệu những vết thương của ta. Ta phải có mặt với tất cả những khó khăn và khổ đau của chính ta và những người chung quanh, những người ta thương để đem trí tuệ cũng như tình thương của ta đến giúp đỡ và giải quyết. Nếu ta cứ để cho tâm bị lôi kéo bởi những sầu khổ, tiếc nuối về quá khứ hoặc những lo sợ về tương lai thì làm sao ta có mặt cho ta và những người xung quanh được.
Quản lý và chăm sóc hiện tại
Chúng ta có mặt để làm hai việc: Thứ nhất là tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống để được nuôi dưỡng và trị liệu; thứ hai là nhận diện những khó khăn, đau khổ đang có mặt để có thể giải quyết và chuyển hóa. Những đau khổ, khó khăn của ta và của những người xung quanh đang cần sự có mặt của ta. Vì vậy chúng ta phải thực tập để thực sự có mặt trong giây phút hiện tại. Vâng theo lời dạy của đức Thế Tôn, tại Làng Mai, chúng ta thực tập đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống và làm việc trong chánh niệm, có nghĩa là an trú trong giây phút hiện tại, không để cho quá khứ và tương lai trở thành những đợt sóng nhồi qua, nhồi lại khiến ta không tu tập được.
Trong khi thực tập trở về an trú trong hiện tại, ta có tăng thân yểm trợ. Tăng thân gồm những người thực tập như ta, người nào cũng cố gắng để trở về với giây phút hiện tại, muốn vượt thoát khuynh hướng chìm đắm trong quá khứ và rong ruổi, lo sợ về tương lai. Nếu biết cách quản lý, chăm sóc và xử lý được hiện tại, chúng ta không cần lo lắng cho tương lai nữa, vì tương lai sẽ do hiện tại quyết định. Nếu hỏi tương lai được làm bằng chất liệu gì thì câu trả lời rất rõ ràng là tương lai được làm bằng chất liệu của hiện tại, cũng như hiện tại được làm bằng chất liệu của quá khứ. Điều duy nhất mà ta có thể làm cho tương lai là quản lý và chăm sóc hiện tại. Nếu hiện tại được quản lý và chăm sóc một cách kỹ lưỡng với tất cả trái tim và khối óc của ta, nghĩa là ta đã làm hết tất cả những gì có thể làm cho tương lai rồi. Đó là giáo lý của đức Thế Tôn.
Tuy nhiên, không phải ai trong chúng ta cũng có khả năng an trú trong hiện tại để chăm sóc cho hiện tại. Chúng ta bị đợt sóng của quá khứ nhồi một cái, bị đợt sóng của tương lai nhồi một cái, ta trở nên bấp bênh như cánh bèo, cánh hoa trên mặt nước.
Duyên mình, phận mình có phải là cánh bèo hay không? Là người tu, ta đừng để cho mình trở thành một cánh bèo hay một cánh hoa trên mặt nước. Ta phải có vững chãi, thảnh thơi. Do đó, sự thực tập hằng ngày của chúng ta chỉ có một mục đích duy nhất là chế tác thêm chất liệu vững chãi và thảnh thơi như là chất liệu duy nhất có thể chấm dứt khổ đau, đưa tới an lạc và hạnh phúc. Chúng ta được dạy rằng phải đứng cho vững, phải ngồi cho yên. Để vững chãi và an trú trong hiện tại, khi đứng ta hãy đứng cho vững như một cây tùng, khi ngồi ta cũng ngồi cho yên như một trái núi.
Bạn có đang là một người tự do?
Khi ăn cơm, ta phải thực sự ăn cơm. Ta nhất định không để cho những đợt sóng của quá khứ và tương lai nhồi dập. Tăng thân đang ngồi ăn cơm với ta, một trăm, hai trăm người và người nào cũng đang thực tập ăn cơm chánh niệm. Ăn cơm như thế nào để có hạnh phúc? Ăn cơm như một con người tự do. Chúng ta thử nghĩ đến một người đang ở tù, đến giờ cơm, người ta mở khóa cánh cửa nhỏ xíu và chuồi vào một đĩa thức ăn. Người tù tiếp nhận thức ăn và ngồi đó ăn. Chúng ta có thể nghĩ là người đó ăn nhưng không có tự do. Chưa chắc như vậy. Cho dù ở trong tù nhưng vẫn có những người đang thực tập chánh niệm. Nhờ thực tập theo những quyển sách, những bài pháp thoại mà chúng ta gửi vào trong tù, họ có thể ăn một cách tự do và có thể an trú trong hiện tại.
Theo nghĩa thường, ta biết nhà tù là một nơi không có thảnh thơi. Chúng ta ngồi đây, trong thiền đường này, ăn cơm với nhau nhưng có thật là chúng ta thảnh thơi hay không, hay cũng đang bị nhốt trong một nhà tù nào đó? Tuy nhìn thấy có sự thảnh thơi, ta không bị nhốt sau những chấn song, nhưng kỳ thực ta có thể đang ở trong nhà tù của sợ hãi, lo lắng. Ta cũng lấy những thức ăn như mọi người. Khi đến thiền đường, ta cũng bước đi, ngồi xuống, chắp tay, nghe chuông như mọi người nhưng chưa chắc ta có được thảnh thơi, tự do như những người đó. Ta có thể đang bị giam hãm trong lo lắng, sầu muộn, giận hờn và không được thảnh thơi, có khác gì ta đang ở trong tù? Nhà tù của quá khứ đang giam hãm ta. Bạn có đang bị quá khứ giam giữ không? Quá khứ có phải là một nhà tù của bạn không? Phải can đảm nói thật. Are you a free person? Bạn có đang là một người tự do hay không? Ta phải tự hỏi câu đó và phải tự trả lời. “Dạ không, tôi không có tự do. Tôi đang bị quá khứ giam hãm. Tôi không thoát ra được những đau buồn của quá khứ.” Nếu đúng là vậy thì ta phải làm một cái gì đó mới được, phải đọc lên một câu “phá địa ngục chân ngôn”. Ta phải nương vào tăng, phải cầu cứu tăng, phải cầu cứu Bụt: “Con đang ở tù, xin Bụt đưa cánh tay ân cần đem con ra khỏi nhà tù của quá khứ”. Bụt dạy rằng: “Sự sống đang có mặt trong hiện tại. Con phải thoát ly quá khứ, trở về hiện tại và tiếp xúc những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại.”
Giờ phút thành đạo, đức Thế Tôn đã nói: “Này người thợ xây nhà tù, từ nay về sau anh sẽ không có cơ hội xây một nhà tù nào cho tôi nữa. Tôi đã được tự do giải thoát”. Chúng ta cũng phải làm như vậy, nếu đã từng bị quá khứ nhốt lại và vùng vẫy đến nỗi không thoát ra được thì phải thực tập để thoát ly khỏi nhà tù của quá khứ. Nếu ta không bị nhà tù của quá khứ giam hãm thì có thể ta đang bị nhà tù của tương lai giam hãm. Phải cầu cứu Bụt, thầy, anh, chị, em trong tăng thân giúp mình thoát ra.
Đường dài em bước như dạo chơi
Ai trong chúng ta mà không từng lo lắng cho tương lai? Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh (Truyện Kiều). Trong bài hát thiền hành của Tịnh Thủy, có câu: Đường dài em bước như dạo chơi. The long road turns into joy. Đó là một lời tuyên bố rất hiên ngang. Tuy đường xa, đường dài nhưng nếu biết an trú trong hiện tại thì mỗi bước chân của ta sẽ có an lạc, thảnh thơi như dạo chơi. Chúng ta có làm được như câu hát đó hay không? Đó là sự thực tập. Khi mỗi bước chân có thảnh thơi thì đường không còn dài nữa, ta đập tan sự sợ hãi, phá nát nhà tù của tương lai. Nếu không thực tập như vậy thì những nhà tù của quá khứ, của tương lai sẽ trở thành những đợt sóng lớn, hết đợt này đến đợt khác nhồi lên, khiến ta thất điên bát đảo. Chúng ta đã trải qua những đêm ngày như vậy: luyến tiếc, khổ đau về quá khứ; lo lắng, sợ hãi về tương lai. Cứ thế ta mang theo kiếp của một cánh bèo, cánh hoa trên mặt nước, rồi tìm cách vướng mắc vào một đối tượng nào đó để chạy trốn cảm giác sợ hãi, nhưng càng chìm sâu vào thì cảm giác sợ hãi càng lớn.
Trở về giây phút hiện tại, ta biết rằng sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại. Một bước chân, một hơi thở có chánh niệm, ta tiếp xúc được với sự sống trong giây phút hiện tại. Ta có cơ hội thoát khỏi ngục tù của quá khứ và tương lai. May mắn và mầu nhiệm thay, chung quanh ta có những người chị, người anh, người em cũng đang làm như ta. Chúng ta nương vào nhau, nâng đỡ nhau mà không cần vướng mắc. Chúng ta có mặt để tiếp thêm sức mạnh cho nhau. Thay vì vướng mắc, thay vì làm mất tự do của nhau, ta hiến tặng thêm vững chãi và thảnh thơi cho nhau. Đó là vai trò của tăng thân, là ý nghĩa của tăng thân. Tăng là đoàn thể đẹp. Cùng đi trên đường vui.
Đối tượng của sự nương tựa đích thực
Mỗi người trong tăng thân đều thực tập vững chãi, thảnh thơi. Chúng ta phải trở về và cắm rễ vào trong sự sống hiện tại. Chúng ta phải tìm đối tượng của sự nương tựa đích thực. Nương tựa vào một cái gì vững chãi để ta không đánh mất sự vững chãi và thảnh thơi. Quay về nương tựa là một pháp môn rất mầu nhiệm trong đạo Bụt: Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời. Bụt ở đâu? Bụt ở trên trời hay bên phương Tây? Chúng ta học được rằng Bụt ở ngay trong lòng. Khi nào biết thở, biết trở về giây phút hiện tại, thoát khỏi nhà tù của quá khứ và tương lai thì lúc đó ta có mặt đích thực. Năng lượng chánh niệm có mặt nghĩa là Bụt có mặt. Ta nương tựa nơi Bụt, người đưa đường chỉ lối cho ta trong cuộc đời.
Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Hãy tinh tiến hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp.
(Kinh Người biết sống một mình)
Đó là lời của Bụt, là năng lượng của Bụt. Chúng ta có thể làm được. Đến Làng Mai, chúng ta được học các phương pháp như thiền hành – để bước những bước chân trong hiện tại, thiền ngồi – để ngồi vững như núi trong hiện tại, thiền thở – để trở về giây phút hiện tại. Đó là sự thực tập giải thoát. The practice of liberation. Chúng ta phải đập vỡ hai nhà tù lớn của quá khứ và tương lai bằng phương pháp thở, phương pháp đi, đứng, nằm, ngồi. Đứng cho yên. Ngồi cho vững. Luôn luôn an trú trong hiện tại và nương tựa vào tăng thân, vì tăng thân là đối tượng nương tựa rất tốt. Và tăng thân cũng đang thực tập như vậy.
Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời. Đối tượng của sự nương tựa là Bụt. Bụt ở đây không phải là một nhân vật trừu tượng trong quá khứ, trong tương lai. Bụt là năng lượng chánh niệm, giúp ta an trú trong hiện tại, thấy được bản chất của sự vật, không bị những lo lắng, sợ hãi, tham dục, hận thù kéo đi. Bụt có đủ vững chãi, thảnh thơi, xứng đáng để làm chỗ nương tựa và ta phải quay về nương tựa Bụt là vậy. Hạt giống của vững chãi, thảnh thơi, tỉnh thức, chánh niệm có trong ta, đó là Bụt. Chúng ta cần tưới tẩm những hạt giống này thay vì tưới tẩm những hạt giống của sầu đau, sợ hãi. Ta phải đi tìm một cái gì rất cụ thể. Chánh niệm là luôn luôn có mặt trong giây phút hiện tại. Uống nước mà biết rằng ta đang uống nước, ăn cơm mà biết rằng ta đang ăn cơm, đó là chánh niệm có mặt. Tất cả chúng ta đều có thể làm được. Nếu thực tập riêng thì có thể ta làm chưa giỏi nhưng khi đặt mình trong tăng thân, trong khung cảnh của một đoàn thể tu tập thì ta thực tập dễ dàng hơn. Cho nên ta phải nương tựa vào Bụt và nương tựa vào Tăng. Bụt và Tăng cống hiến cho ta những phương pháp thực tập: tập đi, tập đứng, tập nằm, tập ngồi, tập ăn cơm, tập thở, tập làm việc trong chánh niệm. Những phương pháp đó gọi là Pháp. Ta phải sử dụng những pháp môn đó, gọi là quy y Pháp. Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết. Những phương pháp tu học đã được khám phá, trao truyền lại. Bây giờ ta sống với tăng thân và tiếp nhận những pháp môn, Pháp trở thành đối tượng vững chãi cho ta nương tựa. Muôn đời Pháp vẫn là Pháp, nương tựa và hành trì theo thì ta sẽ có vững chãi, thảnh thơi. Ta hoàn toàn được an ổn, không bị vướng mắc và lung lay.
Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. Tăng gồm những phần tử đang thực tập, đang chuyển hóa, đang đi tới trên con đường vững chãi và thảnh thơi. Tăng không phải là đối tượng của sự vướng mắc nên rất an toàn cho tất cả chúng ta trở về nương tựa. Nương tựa Tăng, ta có thể tiếp tục thực tập để đạt được hoa trái của tự do và vững chãi. Nếu không có Tăng thì dù có Pháp ta cũng không thực tập được lâu dài. Học được những phương pháp tu học rồi, khi trở về nhà, ta thực tập được ba ngày, năm ngày, bảy ngày, mười ngày,… nhưng nếu không tiếp tục có sự nâng đỡ của Tăng thì ta có thể dễ dàng bỏ cuộc.
Quy y Tam bảo là đi tìm đối tượng nương tựa vững chãi, giúp ta có thêm vững chãi và thảnh thơi.
Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời. Sau khi đã nương tựa Bụt, ta thấy ta có con đường sáng và đẹp, tại sao ta phải lo lắng cho tương lai? Người khác không biết đường đi, họ không chắc chắn về tương lai của họ, nhưng ta đã biết đường đi, đã có người chỉ lối, tại sao còn phải lo sợ? Hướng đi sáng đẹp mà Bụt chỉ cho ta chính là chánh niệm.
Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa. Những lúc buồn giận, sợ hãi, bị quá khứ lôi đi, bị tương lai kéo tới, tại sao ta lại lo sợ trong khi ta đã về nương tựa Pháp, đã học được pháp môn?
Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. Ta đã có Tăng, đã nương tựa vào Tăng. Tăng đang soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ cho ta, tại sao ta phải lo sợ và không có niềm tin ở tương lai? Tại sao ta lại mang số phận của một cánh bèo? Người khác không có Tăng để nương tựa, còn ta, tại sao phải lo sợ mà đi tìm những đối tượng vướng mắc?
Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ đề. Ta không đi tìm Bụt ở ngoài. Bụt ở đây là chất liệu của chánh niệm trong ta. Giác tính là khả năng có thể tỉnh thức. Lòng Bồ đề tức là ý chí, là năng lượng giúp ta đi tới để có thêm vững chãi và thảnh thơi.
Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa. Ta đã có đường đi rồi, bây giờ ta thực tập để những người chung quanh cũng có đường đi, cũng có thể nương tựa Bụt, nương tựa Pháp và nương tựa Tăng như ta. Đó là công việc xây dựng tăng thân.
Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. Bốn chúng là: xuất gia nam, xuất gia nữ, tại gia nam và tại gia nữ. Có Tăng, có bốn chúng cùng tu tập như vậy, tại sao ta lại lo sợ cho tương lai? Ta nên vững tâm trở về chăm sóc cho hiện tại, đó là sự thực tập của chúng ta. Nếu hiện tại được chăm sóc đàng hoàng, ta không cần lo lắng cho tương lai nữa. Tương lai chỉ được làm bằng một chất liệu duy nhất, đó là hiện tại.
Nuôi lớn tuệ mạng trong từng phút giây
Chúng ta có cơ hội ngắm những chiếc lá sen trong mùa hè, nhất là những lá sen vào tháng Năm đến tháng Bảy, tươi xanh và rất đẹp. Nhìn thấy những chiếc lá có khả năng sống tươi mát, vững chãi và thảnh thơi trong giây phút hiện tại, ta cảm thấy thoải mái, có đức tin. Trong khi lá sen sống đời sống đẹp đẽ, tươi mát của nó thì đồng thời nó cũng đang xây dựng cho tăng thân của nó. Khi học làm một chiếc lá sen sống mạnh khỏe và tươi mát, không những ta có hạnh phúc được làm một lá sen xanh tươi, mạnh khỏe, mà ta cũng đang nuôi lớn những rễ sen, củ sen ở dưới lòng đất và đồng thời giúp những chiếc lá, những bông hoa là các em của ta ra đời. Nhìn một chiếc lá sen mơn mởn trên mặt nước, có thể chúng ta chưa thấy được hết những công việc, sự đóng góp và tuệ giác của nó. Trong khi chiếc lá sen cười với nắng, khoe màu sắc tươi xanh thì đồng thời nó cũng nuôi dưỡng những thân sen, củ sen dưới bùn và giúp cho những thân sen, ngó sen, búp sen ra đời. Nó là nó nhưng đồng thời nó cũng là em của nó, em của nó cũng chính là nó.
Mỗi thành viên trong đại chúng đều là một chiếc lá sen. Phải sống đời sống lá sen sao cho thật đẹp và trong khi sống một cách đẹp đẽ như thế là ta đang nuôi các em ta lớn lên. Các em ta là ai? Các em ta cũng chính là ta. Vì một ngày nào đó, màu vàng úa sẽ hiện ra trên lưng ta. Những chiếc lá sen vào khoảng cuối tháng Chín thì không còn xanh mơn mởn nữa mà bắt đầu chuyển sang màu vàng úa và già đi. Thế nhưng lá sen không đau khổ vì biết rằng nó đang xuất hiện dưới nhiều hình thức khác: đã trở thành những lá sen, những bông sen khác và hiện giờ nó đang có mặt rất vững chãi trong những củ sen, rễ sen. Tháng Chạp, tháng Giêng tới, trời rất lạnh, ta không còn thấy những chiếc lá sen trên mặt hồ nữa. Nhưng đến tháng Tư, tháng Năm, chúng lại xuất hiện mà chiếc lá sen kia cũng sẽ lại xuất hiện, dưới hình thức của ngó sen, lá sen, hay bông sen. Chiếc lá sen không sợ hãi, nó thấy được tự thân dưới nhiều hình thức. Đó là tuệ giác có được nhờ sự tu tập.
Khi thực tập trong tăng thân, ta phải thấy rằng ta cũng là thầy ta, thầy ta đã truyền cho ta tất cả những tinh hoa mà thầy có, cũng như thầy đã tiếp nhận những tinh hoa của Bụt, của Tổ và của Sư Ông. Bổn phận của thầy là trao truyền cho ta tất cả những tinh hoa mà thầy đã tiếp nhận từ Bụt, từ Tổ và từ Sư Ông. Ta phải thấy rằng ta cũng là Bụt, là Tổ, là thầy ta. Trong khi sống cuộc đời của mình, ta biết rằng ta phải chế tác sự vững chãi, thảnh thơi, hạnh phúc và phải truyền được những chất liệu đó cho các em ta, vì các em ta cũng chính là ta. Bổn phận và sự thực tập của ta là như vậy. Phải thương yêu các em ta, phải truyền cho các em những tinh hoa của đời ta.
Trong đạo Bụt, chúng ta có danh từ đệ tử. Đệ có nghĩa là em và tử là con. Người kia là con, là em của ta và ta sống là để trao truyền những tinh hoa của giống nòi tâm linh cho họ. Như vậy, ta cũng làm được như chiếc lá sen. Trong khi sống cuộc đời đẹp đẽ, tươi mát của lá sen, ta đồng thời cũng trao truyền được tinh hoa của ta cho những hình thái sau này, tức là những lá sen, đóa sen sắp ra đời. Không giây phút nào mà ta không nuôi lớn tuệ mạng (sinh mạng tuệ giác) của ta. Nếu nắm được sự thực tập của ta, nếu quản lý được hiện tại thì có lý do gì để ta phải lo lắng, sợ hãi cho tương lai? Ta sẽ có mặt trong em ta, con ta, cháu ta và điều ta có thể làm được trong giây phút hiện tại là trao truyền tất cả những tinh ba mà ta đang có để rồi em ta, con ta, cháu ta cũng có thể làm được như ta.
Chiếc lá sen trở nên vàng úa không phải là dấu hiệu của sự tàn tạ, tan rã mà đó là dấu hiệu của tình thương. Lá sen đó đã làm tất cả những gì có thể làm được để đầu tư vào sự sống tương lai. Bằng con mắt chánh niệm, ta thấy nó đang có mặt trong những rễ sen, củ sen, lá sen và bông sen sẽ ra đời vào mùa xuân tới.
Khi sinh hoạt trong một đoàn thể, tăng thân hay trong một gia đình, nếu muốn có hạnh phúc thì chúng ta phải tìm đủ mọi cách để biến gia đình thành một tăng thân và tăng thân cũng phải là một gia đình, trong đó người nào cũng là chị, là anh, là em của nhau.
Thực tập vượt thắng sợ hãi và vướng mắc
Ví dụ có một thành phần của tăng thân tên là A. Sự thực tập của A làm cho A lớn lên, làm cho A hạnh phúc và đồng thời cũng nuôi dưỡng tất cả những thành phần khác của tăng thân. Phải thấy rằng ta có thể chế tác được chất liệu để nuôi dưỡng, trị liệu cho ta và chất liệu đó đồng thời cũng nuôi dưỡng và trị liệu được cho những thành phần khác trong tăng thân.
Hãy bắt chước một chiếc lá sen, vươn lên, tiếp thu ánh sáng mặt trời và những chất khoáng dưới nước. Lá sen chế tác ra chất liệu tự nuôi dưỡng mình khỏe mạnh và tươi mát, đồng thời cũng nuôi dưỡng củ sen, rễ sen, ngó sen và những lá sen lớn nhỏ, những bông sen khác đang có mặt trong hồ. Tăng thân là một hồ sen và mỗi chúng ta là một lá sen hay một bông sen. Ta thực tập như thế nào để tự chế tác được những chất nuôi dưỡng, trị liệu cho bản thân, đồng thời cũng nuôi dưỡng, trị liệu cho những thành phần khác của tăng thân.
Chẳng hạn bản thân A có chất liệu của khổ đau trong quá khứ và chất liệu của sợ hãi khi nghĩ về tương lai. A phải thực tập như thế nào để có thể tự chữa lành được những thương tích, để có thêm vững chãi và thảnh thơi. A phải nương tựa vào những thành phần khác của tăng thân vì tất cả những thành phần khác của tăng thân cũng có cùng nhu yếu. Ta hãy tưởng tượng có một thành phần B, có nhiều sợ hãi, hoang mang, không có đức tin nơi mình, từ đó, thay vì nương tựa vào Bụt, Pháp, Tăng, nương tựa vào tất cả tăng thân thì B đi tìm C để nương tựa. Tăng thân nhận thấy rằng B và C trở thành một khối hơi khác thường, hơi đặc biệt, không giống sự liên hệ giữa B với A. A có thể nhìn vào B, vào C và thấy rằng B vì có sự sợ hãi, vì không đủ vững chãi nên phải đi tìm, nương tựa vào C. Tăng thân – D, E, F, G, H, I, J, K,… nhận thấy mối liên hệ giữa B với C hơi bất thường, nhưng nhờ có sự thực tập, tăng thân biết rằng có lẽ trong thời gian này B đang rất cần C và tăng thân chờ đợi, hy vọng sau một thời gian thì B có thể đứng vững được như A, nghĩa là không cần phải quá gần gũi C. Tăng thân có ý thức rằng thực tập trong tăng thân thì hành giả phải chế tác sự vững chãi và thảnh thơi. Nếu có được một ít chất liệu của vững chãi và thảnh thơi thì B không cần phải tiếp xúc với C tới mức đó và liên hệ của B với C sẽ bình thường trở lại, nghĩa là B cũng có thể thiết lập mối liên hệ với A, với D, với H… một cách rất bình thường.
Có thể mai kia, tăng thân thấy một nhóm khác là E, F và G có liên hệ tương tợ như B – C, thì tăng thân cũng ý thức điều đó và mong ước là E sẽ liên hệ với A giống như E có liên hệ với F; tăng thân cũng mong mỏi là F có liên hệ với A giống như liên hệ của F với E, với Z… Tăng thân gồm những người đang thực tập để chế tác chất liệu vững chãi, thảnh thơi, hiểu biết và bao dung. Cho nên tuy có ý thức về những liên hệ không bình thường giữa B và C, hoặc giữa E và F, nhưng nhờ thực tập bao dung và hiểu biết, tăng thân biết rằng trong lúc này B đang cần tới C, E đang cần tới F, nên vẫn cho những nhóm đó một cơ hội, một không gian, thời gian để họ có thể lớn lên, đồng thời tăng thân luôn khuyến cáo rằng những nhóm B – C, E – F phải thực tập như thế nào để sau này họ có thể như A, như Z, như R… Nghĩa là họ có thể có những liên hệ bình thường với tất cả những thành phần khác của tăng thân.
Người nào trong chúng ta cũng có hạt giống của sự lo sợ hoặc hạt giống của sự thiếu vững chãi, thảnh thơi, nhưng khi quy y Bụt, Pháp, và Tăng thì ta thực tập để chế tác thêm chất liệu vững chãi, thảnh thơi, hiểu biết, bao dung và vô úy (không sợ hãi). Thực tập như vậy một thời gian, ta có thể có sự liên hệ bình thường với những thành phần khác trong tăng thân. Khi có chất liệu của vững chãi, thảnh thơi, ta vượt thắng được sợ hãi và vướng mắc.
Sự thực tập có thể được tóm tắt như thế này: Khi có chất liệu của sự sợ hãi, sự thiếu vững chãi thì chúng ta phải ý thức được những hạt giống đó chứ đừng mặc cảm. Có thể vì sợ hãi và thiếu vững chãi mà ta phải dựa vào một thành phần khác của tăng thân một cách hơi bất thường. Trong khi đó, theo đường lối tu tập là ta phải cắm rễ vào tất cả các thành phần khác của tăng thân mà không nên chỉ cắm rễ vào một thành phần nào đó của tăng thân. Nếu có hạt giống của cô đơn, sợ hãi, lo lắng cho tương lai, ta phải nhận diện hạt giống đó và thực tập như thế nào để chuyển hóa. Ta phải thực tập để chất liệu của vững chãi và thảnh thơi ngày càng tăng tiến trong đời sống hằng ngày. Ta biết rằng tăng thân đang mong mỏi ta làm được điều đó. Tăng thân có thể thấy được điểm yếu đó của ta, nhưng nhờ có tình thương, hiểu biết và bao dung mà tăng thân cho ta đủ thời gian và không gian để thực tập. Chỉ cần biết tăng thân muốn như vậy và ta cũng muốn như vậy là đủ rồi. Ta đừng tự lên án mình, đừng mặc cảm. Dựa trên ý thức đó, ta thực tập thiền hành, thiền tọa, thở, ăn cơm, làm việc như thế nào để có thể an trú trong hiện tại, có thể chuyển hóa được hạt giống của cảm giác bất an, sợ hãi trong ta. Thực tập được như vậy mỗi ngày, dần dần sẽ đưa tới sự chuyển hóa. Chúng ta không nên để cho tình trạng lo sợ kéo dài mà không can thiệp. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở, mỗi nụ cười, mỗi miếng cơm ta nhai,… đều có thể ảnh hưởng đến sự chuyển hóa của hạt giống sợ hãi, bất an trong ta. Chúng ta phải thực tập một cách thông minh. Thực tập như vậy được một tuần cũng đã có thể ảnh hưởng tốt lên tình trạng.
Phần thứ hai của sự thực tập là chúng ta phải nuôi dưỡng năng lượng bồ đề tâm trong ta, tức là năng lượng của một vị Bồ tát, năng lượng của ước muốn giúp người, cứu đời. Ta biết rằng khi đi xuất gia, có một năng lượng đẩy ta đi tới. Xuất gia không phải chỉ để giải quyết vấn đề khó khăn và khổ đau của riêng mình mà ta còn có chí hướng muốn độ người, giúp đời khi thấy rất nhiều những khổ đau xung quanh. Lá sen không phải chỉ sống cho cá nhân mà nó còn sống cho cả hồ sen. Chúng ta phải phát nguyện, phải phát bồ đề tâm, phải thực tập để năng lượng của bồ đề tâm càng ngày càng lớn. Khi có năng lượng đó, ta đi tới một cách rất hùng dũng, đi trong thế kiện hành – Lăng nghiêm – Śūraṅgama.
Như khi ta đạp xe đạp, chiếc xe sẽ đi tới. Khi xe đạp đi tới thì không bao giờ nó ngã sang một bên, chỉ khi nào xe đạp dừng thì chúng ta mới ngã sang trái hay phải. Cũng vậy, khi sống với thật nhiều năng lượng của bồ đề tâm, với niềm thao thức muốn giúp đời, cứu người thì tự nhiên ta sẽ không vướng mắc vào những cái nhất thời. Thực tập như thế nào để ta có thể đi tới được mỗi ngày, không rơi vào tình trạng đứng yên. Nhìn vào, người khác có thể thấy rằng ta đang đi tới hay đứng yên tại chỗ, cũng như nhìn vào một chiếc xe đạp, ta có thể biết được chiếc xe đang đi tới hay đang đứng tại chỗ, nghĩa là ta có năng lượng của bồ đề tâm hay không. Nếu có năng lượng của bồ đề tâm thì người khác sẽ thấy rất rõ. Ta đang giúp những người tới với ta chính ngay hôm nay mà không cần phải chờ đợi đến hai năm hay ba năm sau mới có khả năng đó.
Hạnh phúc của ta và những người chung quanh tùy thuộc rất nhiều vào mức độ vững chãi và thảnh thơi của ta. Vì vậy, sự thực tập hằng ngày của ta là phải chế tác thêm được chất liệu vững chãi và thảnh thơi. Có thể ngày hôm nay ta chưa đủ vững chãi và thảnh thơi nên còn phải nương tựa hơi nhiều vào một thành phần khác của tăng thân mà chưa thể nương tựa vào toàn thể tăng thân. Nhưng ta biết rằng ngày mai ta có thể làm được điều đó, nghĩa là ta có gốc rễ nơi tất cả các thành phần khác của tăng thân chứ không chỉ có gốc rễ nơi một thành phần của tăng thân.
Một cái cây có nhiều rễ bám vào đất, sẽ rất vững chãi. Nếu cây đó chỉ có một rễ thôi thì tình trạng khá nguy hiểm. Vì vậy, sự thực tập của tăng thân là làm thế nào để ta được cắm rễ vào tất cả các thành phần của tăng thân thay vì chỉ một thành phần của tăng thân mà thôi. Ta thực tập có mặt trong giây phút hiện tại để thấy được những khổ đau và khó khăn của ta, đồng thời thấy được những khó khăn và khổ đau của những người chung quanh. Nếu thực sự có mặt, ta có thể làm được một cái gì đó ngay lập tức để giải quyết những khó khăn, chuyển hóa những khổ đau. Hiện giờ ta có thể làm công việc đó với người mà ta cảm thấy gần gũi nhất. Ngay trong ngày hôm nay ta phải bàn với người ấy rằng hiện giờ có một người anh, chị, hay em mình đang có vấn đề hoặc có người thiền sinh kia đang khổ đau, ta có thể làm gì để giúp người đó chuyển hóa và bớt khổ ngay trong giờ phút hiện tại. Làm được như vậy, ta cho nhau thêm nhiều năng lượng, ta có thể thoát ra khỏi tình trạng đặc biệt của ta, để khôi phục lại tình trạng bình thường mà hầu hết mọi thành phần của tăng thân đang có.
Như vậy, có thể tóm tắt lại là:
Sự thực tập thứ nhất là ta biết rằng vì có tâm hành sợ hãi, lo lắng cho tương lai mà ta tạm thời phải nương nhờ hơi nhiều vào một thành phần khác của tăng thân. Ý thức được điều đó, ta thực tập để một ngày mai ta có thêm chất liệu của vững chãi, thảnh thơi mà không còn bất cứ một mặc cảm nào cả, và biết rằng tăng thân đang trông cậy vào ta.
Điều thứ hai là ta phải thực tập như thế nào để có năng lượng của bồ đề tâm, để cuộc đời ta được xây dựng và thúc đẩy bởi năng lượng của bồ đề tâm và người khác cũng như chính ta thấy rõ là ta đang đi tới. Khi có năng lượng của bồ đề tâm thì chất liệu vững chãi và thảnh thơi sẽ tăng tiến, ta biết nương tựa vào đối tượng nương tựa chính thức của ta là Bụt, Pháp và Tăng mà không phải tìm cách nương tựa vào một đối tượng còn bấp bênh và mơ hồ nào khác.
Này các bạn đồng tu, vị khất sĩ cần phải đối chiếu tự ngã với tự ngã mà tư lượng như sau: “Người ấy vì có tà dục và bị tà dục lôi kéo, cho nên ta thấy người ấy không dễ chịu và ta không ưa thích người ấy. Cũng như thế, nếu ta có tà dục và bị tà dục lôi kéo, thì kẻ khác sẽ thấy ta không dễ chịu và họ sẽ không ưa thích ta”. Này các bạn đồng tu, sau khi biết rõ điều này, ta cần phải phát tâm như sau: “Tôi quyết định không ôm ấp tà dục, và không để cho tà dục lôi kéo”. Ðiều này cũng đúng và cũng cần được thực tập trong các trường hợp khác, như khen mình chê người, nổi giận và bị cơn giận chi phối,…
Đây là phương pháp mà thầy Mục Kiền Liên đề nghị chúng ta thực tập. Trước hết, nếu trong đoàn thể của chúng ta có một người bị vướng vào tà dục, con mắt Tăng thấy rõ người ấy bị vướng mắc, không được tự do. Mỗi khi đụng tới điểm yếu này thì người đó giận. Vì vậy, không ai muốn tới gần, muốn giáo huấn, soi sáng cho người đó. Ta thấy người đó không dễ chịu và không có ai ưa tới gần. Ta hãy so sánh người đó với chính mình. Nếu muốn đại chúng dễ chịu, đến chơi với ta, hướng dẫn và giáo huấn cho ta thì ta phải buông bỏ sự vướng mắc, buông bỏ tà dục. Đây là thầy Mục Kiền Liên nói về một trong 18 trường hợp. Những trường hợp còn lại ta cũng phải thực tập như vậy.
Có một điều mà ta không đọc thấy trong kinh là tất cả chúng ta đều có hạt giống của những yếu kém. Nơi người kia, hạt giống yếu kém quá mạnh nên nó biểu hiện ra, còn trong ta có thể hạt giống đó rất yếu, không biểu hiện ra nhưng nó cũng tồn tại. Nếu không tu tập chánh niệm, nếu để cho hạt giống yếu kém đó được tưới tẩm, nó sẽ lớn dần lên và ta cũng sẽ vướng vào khó khăn như người kia. Do đó, ta đừng nên nói rằng: Người đó đang ôm ấp tà dục, người đó đang vướng mắc, còn tôi không ôm ấp tà dục và tôi không vướng mắc. Nói như vậy là hơi chủ quan. Có thể người khác nhìn vào ta và thấy ta đang không có sự vướng mắc, không ôm ấp tà dục nhưng hạt giống của vướng mắc, của tà dục cũng có trong ta và vì may mắn nên hạt giống của tà dục, của vướng mắc nơi ta không bị tưới tẩm nên nó không biểu hiện. Nếu không đề cao cảnh giác, nếu không có chánh niệm thì một mai, hạt giống tà dục và vướng mắc trong ta cũng được tưới tẩm và ta trở thành nạn nhân của sự cô lập như người đó bây giờ.
Trong kinh chỉ dạy tầng thực tập thứ nhất là nên đối chiếu tự ngã với tự ngã. Thấy rằng người đó đang bị cô lập vì có vướng mắc, có tà dục, vậy ta nên làm thế nào để đừng lâm vào tình trạng đó. Chúng ta có thể thực tập sâu hơn chút nữa, nói rằng: Bây giờ ta đang không có tà dục, không ôm ấp tà dục, không có sự vướng mắc, nhưng hạt giống của vướng mắc và tà dục vẫn còn tiềm tàng trong ta, vì vậy ta phải hết sức cẩn thận, đừng để hạt giống đó bị tưới tẩm. Ta đừng cho là ta hoàn toàn có an ninh. Ta may mắn hơn người kia là vì hạt giống đó đang còn nhỏ và không bị tưới tẩm. Ta đừng nên khinh khi mà hãy khởi lòng thương người kia, vì hạt giống đó đã bị tưới tẩm nên người kia rơi vào tà dục và đang bị vướng mắc. Ta không nên tiếp tục giữ thái độ né tránh hay cô lập người kia, mà hãy tìm cách tới với người kia, có thể làm bất cứ điều gì để giúp người kia cởi bỏ sự vướng mắc và tà dục. Đây là tầng thứ hai của sự thực tập, the second layer of practice, chưa được nói đến trong kinh.
Chúng ta có thể soi gương, đi qua tất cả 18 điểm trong kinh. Có thể trong chúng có người chỉ muốn được khen và luôn sẵn sàng chê người khác. Ta có phải là người như thế không? Ta hãy nhìn người kia – người khao khát được gặt hái những lời khen mà không có khả năng mở miệng để khen ngợi hay “tưới hoa” bất cứ ai. Nếu trong đại chúng có một người như vậy thì ta phải nhận diện, nhìn vào người đó và tự hỏi: Ta có đến nỗi như người đó hay không? Ta chỉ muốn được khen mà không có khả năng tiếp nhận những lời xây dựng, phê bình của người bạn đồng tu hay không? Ta có hà tiện đến nỗi suốt trong bao nhiêu năm qua, ta chưa từng mở miệng khen ai một lời nào hay không? Có thể ta là người anh em sinh đôi hay chị em sinh đôi với người đó, ta giống hệt người đó và khi nhìn vào người đó ta thấy ta. Nếu ta thấy mình như vậy thì phải lấy làm hổ thẹn và phải lập tức thực tập lau chùi, cải hóa để thoát ra khỏi tình trạng đó. Có khi không ai nói với ta những điều đó vì ta không có khả năng tiếp nhận, nhưng có thể ta là một người như thế. Đó là sự thực tập soi gương.
Điểm khởi hành là sự giác ngộ. Một khi ta nhìn ra sự yếu kém của mình và chấp nhận nó, đó là biểu hiện của sự giác ngộ. Tất cả sự thực tập và những thành công của sự thực tập đều nằm ở giây phút giác ngộ. “Tôi có sự yếu kém và tôi chấp nhận rằng tôi có sự yếu kém.” Đó là giây phút của sự giác ngộ.
Ta tự hỏi rằng có phải ta là người chỉ ưa gặt hái những lời khen ngợi hay không, là người rất sợ nghe nói sự thật về mình hay không? Trong chúng có một người như vậy và có phải ta là người thứ hai hay không? Trong chúng có người chưa có khả năng mở miệng nói một điều tốt về người khác, khen ngợi người khác với một người thứ ba, ta có phải là người như vậy hay không? Đó là một câu hỏi, một tiếng sét, một tia sáng chiếu tới để ta nhận diện hạt giống trong ta.
Chúng ta chắc chắn có hạt giống đó, nhưng hạt giống lớn hay bé là tùy theo điều kiện nhân duyên và sự may mắn của ta. Nếu ta có hạt giống đó và nó đã trở nên rất lớn thì ta phải chấp nhận rằng: Tôi có những hạt giống đó, nó đã trở nên rất lớn nơi tôi, tôi đã soi gương, tôi đã thấy và tôi quyết tâm thực tập. Còn những người khác, tuy thích được khen nhưng cũng có khả năng tiếp nhận sự phê bình và xây dựng; tuy không nói lời khen ngợi ai nhiều nhưng thỉnh thoảng cũng có khả năng nói về những điểm tích cực của các bạn đồng tu. Do đó, tuy hạt giống xấu không lớn, nhưng người đó cũng biết rằng hạt giống xấu có trong tự thân để đừng ngã mạn, đừng tự kiêu; phải thấy rằng: Nếu không thực tập thì một ngày kia hạt giống xấu như khen mình chê người, không có khả năng tiếp nhận sự xây dựng,… sẽ lớn lên và người đó sẽ dần bị cô lập. Đó là hành động soi gương.
Hoặc ta quán chiếu về trường hợp nổi giận và bị cơn giận chi phối. Trong chúng có một người rất dễ nổi giận và dễ bị cơn giận kéo đi. Tất cả mọi người đều thấy và ai cũng lấy làm tội nghiệp cho người đó, ai cũng tránh né, sợ người đó nổi giận thì mình lãnh đủ. Ta nhìn người đó và soi gương. “Anh ơi, cho tôi soi thử một cái, xem tôi có hạt giống đó của anh không? Tôi có phải là người rất dễ nổi giận và dễ bị cơn giận kéo đi hay không?” Nếu có thì đó là lúc ta phải hạ thủ công phu thực tập để thoát ra khỏi tình trạng dễ nổi giận và dễ bị cơn giận lôi kéo.
Hoặc cũng trường hợp nổi giận, tuy không bị cơn giận lôi kéo, nhưng lại giận rất dai; tuy không đỏ mặt tía tai, nói những lời nặng nề, nhưng không buông bỏ được cơn giận mà giữ cơn giận đó ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác. Có người nổi giận và bị cơn giận lôi kéo, nhưng sau 24 giờ đồng hồ thì người đó bình thường trở lại, đến bên cạnh người kia xin lỗi. Người đó đôi khi còn dễ chơi hơn người tuy không đỏ mặt tía tai, nhưng giữ cơn giận tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác rồi làm ung thối cái tâm của họ. Trong chúng ta có ai như vậy hay không? Có người nào giữ cơn giận lâu dài từ năm này sang năm khác không? Nếu có một người như vậy, ta phải tới trước người đó mà soi gương: “Anh cho tôi soi thử xem tôi có như vậy hay không? Tôi có giữ niềm hiềm hận, nội kết lâu dài hay không, hay tôi có khả năng buông bỏ sau 24 giờ đồng hồ?”
Sách Thiền uyển tập anh nói về lịch sử các vị thiền sư Việt Nam. Có một vị thiền sư tuyên bố rằng: Khi ông thầy tu nổi giận thì đừng nên giữ cái giận đó quá một đêm (Tăng hận bất cách túc). Giận một đêm là hơi nhiều rồi. Nếu anh giận quá một đêm là anh dở lắm! Ở Việt Nam, những đứa bé ngoài đường hay nói: “Buồn năm phút!” – Giận năm phút thôi. Rất hay! Ta có quyền buồn, có quyền giận nhưng năm phút thôi là hay lắm. Trong sách Thiền uyển tập anh cho phép tới một đêm. Thành ra, nếu ta buồn giận thì trước khi ngủ, phải làm sao cho sáng mai hết giận thì mới xứng đáng là ông thầy tu. A monk does not keep his anger more than one night, a nun also. Ở xóm Thượng và xóm Mới nên viết câu Tăng hận bất cách túc bằng chữ Nho (僧恨不隔宿), rồi treo lên tường.
Có khi ta giữ sự hiềm hận nên nó biểu hiện ra trong lời nói và hành động. Do không biết chuyển hóa nên nó còn hoài và biểu hiện ra một cách rất vi tế, đôi khi lộ liễu trong lời nói của ta. Có những người nói một cách rất cáu kỉnh, lời nói không ngọt ngào, nhưng người đó không biết. Người đó chỉ thấy người khác nói cáu kỉnh và không ngọt ngào. Lạ kỳ như vậy đó! Nếu có ai ghi âm lại cho người đó nghe thì may ra họ mới biết được, chứ chính họ không bao giờ nghĩ rằng mình nói cáu kỉnh và không ngọt ngào. “Mình nói bình thường thôi mà họ nói là mình la, mình rầy, mình cáu kỉnh.” Kỳ thực là có cáu kỉnh, có la, có rầy. Nếu ai đó góp ý rằng ta dùng ngôn từ không ngọt ngào, ta tỏ vẻ cáu kỉnh trong khi nói thì ta giận. Thật ra là ta giận oan, bởi vì giọng nói của ta thực sự có chất liệu của sự bực bội, cáu kỉnh. Điều này cũng khiến ta bị cô lập.
Kinh Soi gương là một kinh rất thực tế. Chúng ta nên viết ra 18 điểm này để tự đọc riêng và quán chiếu, soi gương.
Này các bạn đồng tu, vị khất sĩ cần phải đối chiếu tự ngã với tự ngã mà tư lượng như sau: “Trong giờ phút này, ta có đang ôm ấp tà dục và ta có đang bị tà dục lôi kéo hay không?”
Tự ngã tức là người kia, tự ngã cũng tức là mình. Đối chiếu tự ngã với tự ngã là đối chiếu mình với người kia. Chữ tư lượng ta có thể đọc là tư lương, tức là quán chiếu, nhìn cho kỹ. Nhưng sở dĩ ta không đọc tư lương vì chữ tư lương còn có một nghĩa khác là những vốn liếng, lương thực ta đem theo để ăn dọc đường. Tư lương (思量), chữ 量 là lượng, nhưng các thầy thường đọc là lương.
Thiền phái Tào Động có một câu châm ngôn nổi tiếng có chữ tư lương: Tư lương cá bất tư lương để, bất tư lương để như hà tư lương, 思量箇不思量底, 不思量底如何思量, nghĩa là: Tư lượng về cái không thể tư lượng, cái không thể tư lượng thì làm sao ta có thể tư lượng được? To think about what is not thinkable, how can you think about something that is not thinkable? To conceive what is not conceivable, how can you conceive about something that is not conceivable?
Và nếu trong khi tư lượng mà vị khất sĩ thấy được rằng: “Trong giờ phút này, ta đang có ôm ấp tà dục và ta đang bị tà dục lôi kéo” thì vị khất sĩ ấy phải tinh tiến để đoạn trừ tâm hành bất thiện đó.
Ta có hạt giống của tất cả 18 trường hợp trên nhưng có thể ta đang bị kẹt vào ba, bốn trường hợp. Nếu thấy mình đang kẹt vào một hoặc hơn một trong 18 điều đó, ta phải tư lượng để giác ngộ, để thấy được ta đang bị kẹt vào một, hai, ba hay bốn trường hợp… Kẹt vào một trường hợp là đã vất vả rồi, huống hồ còn kẹt vào nhiều trường hợp.
Và nếu trong khi tư lượng mà vị khất sĩ thấy được rằng: “Trong giờ phút này, ta không đang ôm ấp tà dục và ta đang không bị tà dục lôi kéo” thì vị khất sĩ ấy hãy sống với tâm niệm hân hoan, và biết mình cần tu học tinh tiến để nuôi dưỡng thêm những tâm hành tốt đẹp như thế.
Thầy Mục Kiền Liên thấy được tầng lớp thứ hai của sự thực tập, nhận diện sự có mặt của hạt giống đó trong ta. Tuy thấy rằng ta không bị kẹt vào những điểm đó nhưng ta phải biết tu tập nhiều hơn để không bao giờ bị vướng mắc, nghĩa là ta phải chuyển hóa thêm hạt giống của điểm đó, tuy nó đang còn nhỏ nhưng vẫn có trong ta. Ta không đang ôm ấp tà dục và ta đang không bị tà dục lôi kéo thì vị khất sĩ ấy hãy sống với tâm niệm hân hoan, tuy hân hoan mà không tự mãn, không khinh thường. Và biết mình cần tu học tinh tiến để nuôi dưỡng thêm những tâm hành tốt đẹp như thế, có nghĩa là cần tinh tiến để mạnh mẽ hơn, để hạt giống của tà dục không có cơ hội biểu hiện. Bây giờ nó không biểu hiện nhưng chưa chắc, biết đâu ngày mai nó biểu hiện. Vì vậy ta phải tu hành tinh tấn. Cũng như ta đào hào, xây thành để ngừa giặc. Ta có hào, có thành để ngừa giặc rồi nhưng biết đâu hào chưa đủ sâu, thành chưa đủ cao để ngăn giặc, nên ta vẫn tiếp tục đào hào cho sâu thêm và xây thành cho cao hơn.
Ðiều này cũng đúng và cũng cần được thực tập trong các trường hợp khác, như trong trường hợp không khen mình chê người, không nổi giận và vì vậy không bị cơn giận chi phối,…
Kinh này rất dài nhưng khi dịch thì chúng ta không lặp lại tất cả mà để dấu “…” cho gọn.
Này các bạn đồng tu, nếu trong khi quán chiếu, vị khất sĩ thấy rõ rằng trong tâm mình các tâm hành bất thiện chưa được đoạn trừ, thì vị ấy phải nỗ lực tinh tiến để đoạn trừ.
Nếu thấy ta có một trong 18 trường hợp đó thì phải hạ thủ công phu để thực tập.
Còn nếu trong khi quán chiếu, vị khất sĩ thấy rõ ràng trong tâm mình các tâm hành bất thiện đã được đoạn trừ, thì vị ấy hãy sống với tâm niệm hân hoan, và biết mình cần tu học tinh tiến để nuôi dưỡng thêm các tâm hành tốt đẹp như thế.
Thấy rằng ta mắc kẹt thì phải tu học tinh tiến là đã đành rồi, mà thấy ta không mắc kẹt cũng phải tu học tinh tiến. Ta đừng tự mãn về tình trạng hiện giờ của chính ta: Ta không bị cô lập, không đau khổ vì sự vướng mắc, vì sự khen mình chê người, vì sự nổi giận và bị cơn giận chi phối, vì sự nói năng đầy những chất liệu của bực bội… Nhưng biết đâu ngày mai ta sẽ vướng vào những trường hợp đó, cho nên hôm nay ta phải thực tập thật sâu sắc.
Đoạn kinh này tuy không nói đến danh từ Tứ chánh cần nhưng kỳ thực nội dung là Tứ chánh cần, right energy, right diligence. Đó là khi những tâm niệm bất thiện chưa sinh thì đừng để nó phát sinh; những tâm niệm bất thiện phát sinh rồi thì phải làm thế nào để nó chuyển hóa, trở về nguyên quán; những tâm niệm thiện chưa phát sinh thì phải làm đủ cách cho nó phát sinh; những tâm niệm thiện phát sinh rồi thì phải tìm cách nuôi dưỡng, chăm sóc để nó phát triển.
Hình ảnh thầy Mục Kiền Liên đưa ra là hình ảnh của một người soi gương, và cũng chính vì vậy mà chúng ta đã chọn đặt tên cho kinh này là kinh Soi gương.
Này các bạn đồng tu, cũng như một người thanh niên hay một cô thiếu nữ tuổi còn thanh xuân, còn ưa trang điểm, thường ưa nhìn mặt mình trong một tấm gương thật trong thật sáng hoặc trong một bát nước thật trong thật sáng. Nếu thấy một vết dơ nào trên mặt, người ấy sẽ lau rửa vết dơ ấy đi. Còn nếu không thấy một vết dơ nào trên mặt, người ấy sẽ lấy làm bằng lòng và sẽ tự bảo: “Tốt lắm, mặt ta rất sạch”. Cũng như thế, này các bạn đồng tu, trong khi tư lượng, thấy các tâm hành bất thiện còn chưa được đoạn trừ, vị khất sĩ sẽ tinh tiến đoạn trừ chúng. Còn nếu trong khi tư lượng, thấy các tâm hành bất thiện đã được đoạn trừ, vị khất sĩ sẽ được sống trong tâm niệm hân hoan, và biết mình cần tu học tinh tiến để nuôi dưỡng thêm các tâm hành tốt đẹp như thế.
Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên nói như thế. Các vị khất sĩ hân hoan tin tưởng và tiếp nhận những lời nói ấy của Thầy.
Theo tinh thần kinh này thì sự thực tập hằng ngày của chúng ta là thực tập soi gương. Người nào trong chúng ta cũng ưa đẹp, vì vậy mỗi người phải sắm một cái gương. Cái gương này không phải mua ở siêu thị mà chính là gương chánh niệm của chúng ta.
