Bài 22 Hộ trì sáu căn bằng chánh niệm
Hôm nay là ngày 06 tháng 02, năm 1994, chúng ta ở tại xóm Hạ và học tiếp về Bát chánh đạo.
Kỳ trước chúng ta đã nói về Mười hai nhân duyên thuộc phạm vi của chủ đề duyên sinh. Có hai loại duyên sinh, gọi là Vọng tâm duyên sinh và Chân tâm duyên sinh. Vọng tâm (deluded mind) là tâm còn chứa sai lầm. Thế giới, xã hội, cũng như con người, vì được duyên sinh tạo thành căn cứ trên vọng tâm đó nên có nhiều đau khổ, nhiều phiền não. Nhưng đứng về mặt tích cực thì chúng ta có Chân tâm duyên sinh. Chân tâm (true mind) là tâm sáng, chân thật, phản chiếu thực tại mầu nhiệm, tâm của Tứ trí. Thế giới, cũng như xã hội loài người, được tạo dựng ra trên Chân tâm duyên sinh sẽ là thế giới hạnh phúc, an lạc.
HỘ TRÌ SÁU CĂN BẰNG CHÁNH NIỆM
Chúng ta hãy tưởng tượng 1.000 người mà tâm trí đầy dẫy những ganh tị, giận hờn và vô minh tụ họp lại để sống chung với nhau. Họ sẽ tạo nên một địa ngục nhỏ. Khung cảnh nơi họ sống có tính cách địa ngục. Cuộc sống hằng ngày của họ, và liên hệ giữa họ với nhau cũng có tính cách địa ngục. Điều đó đã sinh khởi do vọng tâm của 1.000 người. Các vọng tâm tạo thành một cộng nghiệp khổ đau. Hai người hiểu lầm nhau đã có thể tạo ra một địa ngục nhỏ rồi, huống hồ là 1.000 người. Muốn chuyển hóa địa ngục ấy thành ra một thiên đường, chúng ta biết chỉ có một cách là chuyển hóa nội tâm. Nhưng ai có thể chuyển hóa được tâm của 1.000 người đó? Phải có một yếu tố khác như một vị đạo sư, hay một tăng thân lớn. Sự chuyển hóa bắt đầu từ một người, rồi hai người, để cho chất vọng bớt đi, và để cho chất chân bắt đầu có mặt. Bây giờ ta hãy tưởng tượng 1.000 người không có tri giác sai lầm, có hiểu biết, có thương yêu, không giận hờn, không ganh tị đến với nhau. Họ có thể tạo ra một cộng đồng hạnh phúc. Đó gọi là chân tâm duyên sinh. Cho nên vốn liếng của chúng ta là tâm. Nếu tâm còn nhiều vọng, nhiều sự hiểu lầm (wrong perceptions, deluded mind) thì tâm ấy còn gây đau khổ. Khi một người có tâm sáng, tâm không hiểu lầm, thì người ấy đã có một thiên đường nhỏ cho chính mình. Và nếu hai người như vậy đến với nhau thì họ có thể tạo ra một thiên đường nhỏ cho nhau. Và khi người thứ ba đến, với hai chân tâm có sẵn đó hy vọng sẽ chuyển hóa được cái vọng tâm kia một cách từ từ. Có 1.000 người đến với nhau với tâm nhẹ nhàng thanh thoát, không hiểu lầm, không ganh tị, không sầu đau là có Niết bàn hạnh phúc, là có thế giới Hoa nghiêm.
Chúng ta thường học, thường giảng về Mười hai nhân duyên đã chú trọng nhiều về vọng tâm duyên sinh, và đã nói rất ít về chân tâm duyên sinh. Chúng ta than thở, buồn khổ vì tính chất tiêu cực của vọng tâm duyên sinh nhưng chúng ta chưa học, và chưa thực tập đủ về phần tích cực của chân tâm duyên sinh. Cho nên thế hệ của quý vị là phải mở ra một kỷ nguyên mới của sự tu học Phật pháp. Thay vì nói nhiều về Mười hai nhân duyên đưa tới khổ đau thì quý vị phải học nhiều, và phải đưa ra những phương pháp thực tập cụ thể về chân tâm duyên sinh. Chúng ta phải biết căn cứ vào giáo nghĩa Mười hai nhân duyên để tạo dựng một thế giới của hạnh phúc, một thế giới của an lạc.
Chúng ta hãy vẽ lại một đồ hình, phía trong có mười hai chi phần của Thập nhị nhân duyên, gồm có vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Phía ngoài chúng ta vẽ Chân tâm duyên sinh. Vòng duyên sinh ngoài có minh duyên Bồ đề tâm tức là đại nguyện. Bồ đề tâm là một thứ năng lượng rất lớn thường thúc đẩy ta làm việc độ sinh. Bồ đề tâm đưa tới trí.

Trí biểu hiện ra bốn mặt. Mặt thứ nhất gọi là trí hiển hiện để soi sáng, Đại viên cảnh trí. Trí đó phát xuất từ A lại gia thức, hay gọi là Dị thục thức. A lại gia thức thuộc về vọng tâm cho nên biểu hiện ra thế giới thiên nhiên (khí thế gian) và chúng sinh (tình thế gian). Khí thế gian tức là hoàn cảnh trong đó ta sống, còn gọi là y báo. Chính con người ta thì được gọi là chánh báo, tức là danh sắc. Ngoài ra có Diệu quan sát trí (từ thức thứ sáu chuyển thành), Bình đẳng tánh trí (từ thức thứ bảy chuyển thành) và công năng soi chiếu và tạo tác gọi là Thành sở tác trí (từ năm thức đầu chuyển hiện).
Chúng ta đừng hiểu trí là trí năng, sự thông minh. Trí ở đây tức là bản chất tạo tác ra một thế giới an lạc. Thức tạo ra hữu, tức là cuộc sống nhiều khổ đau, nhiều đày đọa, ưu sầu. Còn trí tạo ra Tịnh độ, tạo ra Phật độ, ra thế giới của Hoa nghiêm. Thức là vọng tâm, trí là chân tâm. Chân tâm tạo ra thế giới danh sắc của người giác ngộ, của Bụt, của thân thị hiện, gọi là báo thân (là kết quả tốt đẹp của những thiện nghiệp trong quá khứ). Báo thân này vẫn có lục nhập (sáu căn và sáu trần). Nhưng căn và trần này mang lại hạnh phúc, được gọi là thọ dụng thân (Saṃbhogakāya). Thọ dụng là tiếp nhận và sử dụng. Trong khi đó, lục nhập (ở vòng tròn phía trong) thì đầy dẫy những mê mờ vọng tưởng; trái lại, thọ dụng thân lại tràn đầy hạnh phúc và nhẹ nhàng của người giải thoát. Có thọ dụng thân này thì xúc có chánh niệm, xúc thanh tịnh. Xúc này luôn luôn được sáu căn hộ trì.
Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần
Đem ý thức tinh chuyên phòng hộ.
Đó là cách sử dụng sáu căn và sáu trần của người giác ngộ. Xúc thanh tịnh, xúc chánh niệm sẽ tạo tác ra thọ thanh tịnh, thọ chánh niệm. Chìa khóa của sự tu học là ở xúc và thọ. Nếu xúc và thọ không được chánh niệm hộ trì thì sẽ không có sự chuyển hóa. Cho nên bí quyết thành công của sự tu học là trong đời sống hằng ngày ta biết dùng chánh niệm để rọi vào xúc và thọ để sáu căn và sáu trần được tiếp xúc trong chánh niệm, và cảm thọ trong chánh niệm. Đó là cửa ngõ đi vào sự hành trì giải thoát. Nếu ta có tụng kinh mười hay là mười hai giờ đồng hồ một ngày, ngồi thiền mười hay là mười hai giờ đồng hồ một ngày mà không thực tập chánh niệm, không hộ trì sáu căn thì có thể không có kết quả gì cả. Khi ta đã biết hộ trì sáu căn thì khổ thọ được đặt trong chánh niệm, lạc thọ và xả thọ cũng được đặt ở trong chánh niệm. Ái dục lôi kéo hay không là do xúc và thọ có được đặt trong chánh niệm hay không. Ái tức là sự đắm đuối, thèm khát (craving, thirst). Nếu xúc và thọ được hộ trì trong chánh niệm thì không đi tới ái, mà đi tới xả, tức là tự do. Chúng ta phải định nghĩa chữ xả một cách thấu triệt. Xả có nghĩa là tự do, không phe phái, có khả năng buông bỏ không vướng mắc. Xúc và thọ bây giờ không đưa tới ái, mà đưa tới từ, bi, hỷ, và xả.
Ái thuộc về tình cảm, nhưng đó là một thứ tình cảm đam mê, vướng mắc. Từ, bi, hỷ, và xả cũng là tình cảm, nhưng đây là thứ tình cảm giải thoát, nhẹ nhàng. Tình cảm là loại năng lượng có thể thực hiện được nhiều phép lạ. Khi người ta thương, người ta có thể làm được những việc mà người không thương không sao làm được. Tình thương vướng mắc và nặng nề hay tình thương của chân tâm cao quý cũng đầy năng lượng như vậy. Có tình thương, có từ, bi, hỷ, và xả, anh có thể làm được những chuyện mà người không thương không thể nào làm được. Anh có thể chịu đựng được khổ đau, anh có thể hy sinh thân mạng, có thể làm mọi cách để cứu độ chúng sinh, là vì anh có tình thương lớn. Đạo lý từ bi hỷ xả là đạo lý về tình thương trong đạo Bụt để thay thế tình thương vướng mắc và hệ lụy, gọi là khát ái (tṛ́ṣṇā). Biết bao nhiêu người hụp lặn trong biển khổ vì ái, vì tình thương vô minh. Biển ái dìm chết biết bao nhiêu người là do thứ tình này. Từ bi hỷ xả cũng là tình nhưng là tình có thể cứu vớt và giải phóng.
Trong truyền thống tu học có nhiều người sợ không dám nói tới tình. Làm như đi tu là phải bỏ hết tất cả tình. Điều đó không đúng. Tu phải có rất nhiều tình, những thứ tình cao đẹp: tình từ, tình bi, tình hỷ và tình xả. Trong thiền đường chùa Trúc Lâm, Huế ta thấy có hai câu đối. Câu bên phải là: Bất tục tức tiên cốt nghĩa là bản chất của người tiên là không vướng ở cõi tục. Vế kia là Đa tình thị Phật tâm, tâm đa tình, tâm nhiều tình cảm (từ, bi, hỷ, xả) là tâm của Bụt.
Cho nên khi học đạo Bụt mà nặng về tri thức, chúng ta có thể có cảm tưởng là đạo Bụt khô khan. Ta mải nói về giới, về định, về tuệ, về trạch pháp. Cái gì cũng là trí tuệ. Chúng ta đã đi hơi nghiêng về phương diện trí mà lơ là về phương diện bi. Trong khi đó Bụt là trí và bi viên mãn. Phần trí tuệ và phần tình cảm phát triển song song với nhau và có quân bình. Vì vậy đạo lý từ bi hỷ xả cần phải được đề cao, cần phải được phát triển, và áp dụng rất nhiều. Thực tập từ bi hỷ xả thì sự sống có thêm hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Vì vậy bài pháp thoại hôm nay có chủ đề là Tình thương. Thương như thế nào mà ta có hạnh phúc, những người được ta thương cũng có hạnh phúc, và không ai bị chìm đắm trong biển khổ đau của khát ái (tṛṣṇā).
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Tu học đích thực luôn luôn mang tới hạnh phúc, niềm tin và niềm vui. Bụt nói đi nói lại nhiều lần là giáo pháp của Người là để thực tập và có hạnh phúc ngay trong khi thực tập, chứ không phải là thực tập xong rồi năm bảy năm sau mới hạnh phúc. Đó là phương pháp Hiện pháp lạc trú (dṛṣṭa-dharma-sukha-vihāra): lạc trú ngay trong giờ phút hiện tại. Trong đạo lý Thất giác chi, tức là bảy yếu tố giác ngộ, chúng ta có hai yếu tố, khinh an (praśrabdhi) là nhẹ nhàng, và hỷ (prīti) là vui mừng. Thất giác chi, hay Thất bồ đề phần gồm có trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, và xả. Trong bảy yếu tố đưa tới giác ngộ đã có hai giác chi về hạnh phúc, đó là hỷ và khinh an. Điều đó chứng tỏ trong sự tu học hằng ngày, chúng ta phải có hạnh phúc, và niềm vui. Nếu không thì không phải đích thực là pháp môn của Bụt. Chúng ta sẽ phải nhấn mạnh tới điểm này nhiều hơn.

Đạo lý về tình thương trong đạo Bụt là một đề tài rất lớn cần được khai thị cho thế giới bây giờ. Loài người ngụp lặn trong khổ đau vì trong đời sống hằng ngày tình thương của họ còn rất nhiều tính chất hệ lụy và vướng mắc. Cho nên chúng ta phải khơi mở một dòng tình thương từ sự thực tập đạo Bụt.
Giáo lý về tình thương được gọi là Tứ phạm trú, Brahmavihārāḥ (The Four abodes of Brahma). Brahma có nghĩa là Phạm thiên hay là cao quý. Vihārāḥ là chỗ ở, là cư xá, có khi được dịch là tu viện. Đó là nơi cư trú của Bụt và Bồ tát. Nếu ta muốn có hạnh phúc thì ta hãy xin vào ở cư xá đó để sống chung với Bụt, với Bồ tát. Tứ phạm trú tức là từ, bi, hỷ, và xả mà chúng ta gọi là bốn tâm vô lượng. Nếu có ai hỏi: “Địa chỉ của ông ở đâu?” Ta trả lời: “Địa chỉ của tôi là ở cư xá Brahmavihārāḥ, Tứ vô lượng tâm.” Ta có bổn phận phải xây thêm những cư xá như vậy. Vô lượng là không thể đo được, có thể phát triển đến vô cùng. Bốn tâm không có biên giới là tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả.
Trước hết là tâm từ, chữ Phạn là Maitrī, chữ Pāḷi là Mettā. Maitrī là khả năng hiến tặng niềm vui, hiến tặng hạnh phúc. Đức Bụt sắp ra đời để nối tiếp sự nghiệp của Bụt Thích Ca tên là Maitreya, đức Bụt của tình thương.
Thứ hai là bi, Karuṇā, là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt. Trước hết là ý chí muốn làm vơi đi nỗi khổ, muốn chuyển hóa nỗi khổ của người và sau nữa là phương pháp và khả năng chuyển hóa nỗi khổ.
Hỷ tức là Muditā, là niềm vui. Tình thương đích thực, có từ, có bi, đem tới sự nhẹ nhõm, và niềm tươi vui. Tình thương mà chứa chất liệu sầu đau, vướng mắc thì không phải là tình thương trong đạo Bụt. Cho nên Muditā là một yếu tố của tình thương đích thực. Tình thương có thể đem lại cho người thương và người được thương hạnh phúc thì mới đúng là tình thương trong đạo Bụt.
Hỷ là yếu tố thứ ba của tình thương ấy.
Và sau cùng, xả (Upekṣā) là sự nhẹ nhàng, thư thái, tự do và không kỳ thị. Thương như thế nào mà ta còn giữ được tự do cho ta và cho người ta thương thì mới đích thực là tình thương đạo Bụt. Thương như thế nào mà hai người không dìu nhau vào trong ngục tù. Tình cha con, tình thầy trò, tình anh em, tình yêu nam nữ cũng vậy. Nếu trong tình thương mà người thương và người được thương đều mất tự do thì đó là tình thương hệ luỵ, không phải là tình thương trong đạo Bụt.
Từ Maitrī
Bi Karuṇā
Hỷ Muditā
Xả Upekṣā
Trong đạo Bụt có một giáo lý rất đầy đủ và thâm sâu về tình thương. Tình thương này có năng lượng trị liệu. Từ, bi, hỷ, xả không phải là những ước muốn, những mục tiêu xa xôi, mà là sự thực tập. Từ không phải chỉ là ước muốn đem lại hạnh phúc cho người. Từ chính là khả năng, là sự thực tập có thể đem lại hạnh phúc cho người. Có người càng thương thì càng làm cho người kia khổ. Thương như vậy chưa phải là từ. Có ý chí thương nhưng không có khả năng thương. Bi cũng vậy. Bi là ước muốn và cũng là khả năng làm vơi nỗi khổ. Hỷ là ước muốn và khả năng tạo hạnh phúc cho mình và cho người. Xả tức là ước muốn, khả năng hiến tặng tự do và sự không kỳ thị cho người và cho chính mình.
Ta không thể hiểu được bản chất của tình thương trong đạo Bụt nếu không đặt giáo lý tình thương đó trong Bát chánh đạo. Nếu không thực tập Bát chánh đạo thì ta không thể thực tập được tình thương. Trong đạo Bụt, chánh niệm rất quan trọng. Chánh niệm là khả năng thấy được những gì đang xảy ra trong ta và xung quanh ta. Chánh niệm cho chúng ta thấy được nhu yếu chuyển hóa khổ đau và nhu yếu hiến tặng niềm vui cho người đang khổ. Khi một người làm cho ta khổ thì chính người đó cũng đang bất an; phản ứng của ta có thể làm cho người đó thêm khổ, vì thế lại
làm khổ chính ta hơn. Khả năng giúp ta nhận chân ra sự thật đó là chánh niệm. Lắm khi người đó chính là mình. Từ, bi, hỷ, xả phải thực hiện cho chính mình trước. Nếu ta không có bốn tâm đó trong ta thì ta không thể nào hiến tặng chúng cho người khác. Phải đầu tư, phải gây vốn cho bốn tâm vô lượng. Vốn liếng của ta là công phu thực tập Tứ diệu đế. Đi thiền cho đúng phép, có an lạc trong từng bước chân, nuôi dưỡng từng tế bào của thân thể bằng hơi thở chánh niệm, đó là ta đang tự thương mình. Thương mình đích thực, ta làm cho rã bớt những nỗi sầu khổ, tưới vào bản thân những niềm vui. Truyện Kiều có hai câu nói về lòng tự thương, nhưng hoàn toàn tiêu cực. Đó là hồi Kiều ở lầu Ngưng Bích, đau đớn và thương xót cho thân phận của mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Thương mình ở đây là xót xa tội nghiệp cho thân phận của mình. Niềm xót xa này không có khả năng chữa trị được đau khổ, không đem lại hạnh phúc. Trong khi đó, thương theo phương pháp Bụt dạy phải được thực hiện trong mỗi hành động, mỗi cái nhìn, mỗi nụ cười, mỗi hơi thở, mỗi bước chân. Mỗi động tác hằng ngày đều phải nhắm tới mục đích thương mình và thương những người xung quanh. Buổi sáng nhìn mặt trời lên, nghe chim hót, có chánh niệm, ta mỉm cười, ta thấy những thứ đó đều mầu nhiệm. Xúc và thọ cần nuôi dưỡng và mang tới thân tâm chúng ta chất liệu của từ, bi, hỷ, xả. Nếu thức dậy mà không thấy được giá trị của một tia nắng sớm, không thấy hai mươi bốn giờ tinh khôi hiến tặng cho mình, thì xúc và thọ như vậy là không có chánh niệm và không nuôi dưỡng được tình thương trong con người mình. Nếu ta không tự thương ta được thì ta không có khả năng thương người khác. Tình thương người ta thường nói tới có thể chỉ là sự đắm đuối, vướng mắc, là năng lượng kéo nhau xuống vực thẳm của biển khát ái, chứ không phải là tình thương đích thực.
Nuôi dưỡng mình và nuôi dưỡng người xung quanh bằng tình thương, đó là sự thực tập của chúng ta. Tình thương đó căn cứ trên nhu yếu của thân và của tâm. Nhờ chánh niệm chúng ta mới biết được nhu yếu được thương, được có hạnh phúc, được chuyển hóa, được có thêm tự do, cho nên công phu hằng ngày chúng ta phải hướng đến sự thực tập đó. Và tình thương được nói tới ở đây là tình thương phát xuất từ tuệ. Nếu không hiểu biết thì không thể thương yêu. Bản chất của từ bi là trí tuệ. Thương mà không hiểu thì làm khổ và có thể gây thương tích cho người mình thương. Ví dụ tôi rất sợ mùi sầu riêng. Nếu có sư chú nói: Thầy đang mệt, nếu ta mời thầy ăn sầu riêng thì thầy sẽ khỏe. Bắt tôi ăn sầu riêng sẽ chỉ làm khổ tôi. Đó là thương mà không hiểu. Muốn hiến tặng niềm vui cho người, ta phải hiểu người. Con mắt chánh niệm phải quán sát. Cư xử với con cái cũng vậy, với mẹ cha cũng vậy, cũng cần phải quán chiếu, phải có tuệ để biết được cái đó có thực sự đem lại hạnh phúc hay không. Quán chiếu để thấy được nhu yếu đích thực của người đó để chúng ta hiến tặng những gì mà người đó đang thật sự cần. Chúng ta có thể nói rằng trong đạo Bụt, thương yêu được làm bằng chất liệu hiểu biết. Mà hiểu biết là hoa trái của chánh niệm, của thiền quán.
Nguyên tắc thực tập Tứ diệu đế phải được áp dụng ở đây. Trước hết ta nhìn vào để thấy những nỗi khổ. Sau khi nhận diện được sự thật thứ nhất về khổ, ta mới tìm ra được những nguồn gốc xa gần của khổ, tức là ta quán chiếu tập. Và chỉ khi nắm được hai sự thật đầu ta mới biết con đường nào giúp người vượt qua những khổ đau, biết được diệt và đạo. Thực tập Tứ diệu đế là thực tập tình thương. Bụt là một bậc trí và bi viên mãn. Nếu bi viên mãn thì trí cũng viên mãn, và nếu trí viên mãn thì bi cũng viên mãn. Hai là một, một là hai. Nếu hiểu được thân phận của người hải tặc thì ta cũng sẽ thương được người hải tặc. Trong kinh Bát đại nhân giác, Bụt nói rằng một vị Bồ tát không đem tâm ghét những người đã làm điều ác. Những điều kiện xã hội, kinh tế, chính trị, những vô minh, căm thù đã được chứa chất từ lâu, đã đưa tới hành vi ác độc của người hải tặc kia. Thấy được nguyên do đó, ta có thể khởi được lòng từ bi, thương được người đã làm ác. “Bất tắng ác nhân” là bốn chữ trong kinh Bát đại nhân giác. Làm sao ta hiểu được bốn chữ “không ghét người ác” nếu ta quên tình thương, nếu ta chỉ dùng trí năng khô khan để học Bụt? Trí năng khô khan gọi là càn tuệ, dried knowledge. Tình thương chỉ có thể làm bằng hiểu biết, bằng tuệ giác chân thật, chữ Phạn là Prajñā, phiên âm là Bát nhã. Bát nhã là hoa trái của sự quán chiếu. Nhìn vào mình, vào người kia, thấy được những niềm đau, và nguồn gốc của những niềm đau, ta chấp nhận chính mình, chấp nhận người kia, ta không giận mình, không ghét người. Vì thấy được những nguyên do sâu xa của mọi hành động nên ta thấy thương mình và thương người. Ta chấp nhận những yếu kém, những khổ đau của mình và ta chấp nhận những yếu kém, khổ đau của người kia. Chất liệu của từ phát xuất từ trái tim, và tưới trở lại cho trái tim. Thực tập từ và bi trên căn bản hiểu biết thì không bao giờ vướng mắc vào tình thương chiếm hữu (possessive love). Thương mà không hiểu thì chỉ giam nhau vào ngục tù, tự giam mình vào ngục tù và làm khổ lẫn nhau. Người này lập ra nhà tù nhốt người kia vào cũng chỉ vì có thiện chí, họ nói rằng mình chỉ có hạnh phúc khi ở trong nhà tù đó. Họ muốn mình phải làm cái này cái này, và không được làm cái này cái này. Chồng với vợ, cha mẹ với con, bạn bè với nhau, khi thương nhau chúng ta thường vẫn giam nhau vào ngục tù, mới nhìn thì rất êm ái. Sở dĩ ta giam nhau vào ngục tù vì ta không biết được nhu yếu sâu xa đích thực của chính bản thân ta và của những người ta thương.
Bụt dạy rằng: tình thương được làm bằng hiểu biết. Nhưng vì hiểu rõ tâm của chúng sinh nên Bụt còn đi xa hơn nữa. Ngài nói rằng trong tình thương chân thật phải có niềm vui. Nếu không có niềm vui thì ta biết đó chưa phải là từ, chưa phải là bi. Đây là một phương pháp khác nữa để nhận diện tình thương chân thật: sự có mặt của niềm vui vô cầu, không vị lợi. Tu không phải là từ bỏ niềm vui. Niềm vui của người tu không phải chỉ phát sinh khi thấy người khác thành đạt và có hạnh phúc, mà cả khi thấy mình nhẹ nhàng, thảnh thơi và có hạnh phúc. Tại sao ta lại tự kỳ thị mình? Khi tôi bước những bước thiền hành thảnh thơi, tôi tiếp xúc với nắng, với tiếng chim, với tăng thân, tôi được nuôi dưỡng, thư thái, đó là niềm vui. Bụt dạy chúng ta phải nuôi dưỡng thân tâm bằng niềm vui và sự nhẹ nhàng. Làm như vậy cũng là thực tập thương yêu.
Để tôi ngưng một vài phút và đọc cho quý vị nghe một bài thơ tình của Vũ Hoàng Chương. Đọc để thấy tình yêu vướng mắc, và tình yêu chiếm hữu có thể tạo nên khổ nghiệp thế nào. Những năm trước khi tịch, Vũ Hoàng Chương có nhiều bài thơ về đạo rất hay, rất đạt. Nhưng thời còn trẻ ông đau khổ lắm, ông viết những tập Thơ Say, Thơ Điên, Mây. Đây là một bài viết năm 1940, trong tập Thơ Say, trong đó thi sĩ nhớ tiếc người yêu mà ông gọi là “Tố của Hoàng”:
Trăng của nhà ai, trăng một phương
Nơi đây rượu đắng, mưa đêm trường.
Nghe hai câu đầu, ta đã thấy khổ. Ở đây chỉ có trời mưa suốt đêm, và một mình uống rượu say mèm, trong lòng đầy khổ đau tâm sự. Ở đây không có trăng. Rượu thì có chất cay đắng. Rượu cay đắng hay tình cay đắng?
Ừ đêm tháng sáu, mười hai nhỉ?
Tố của Hoàng ơi! Hỡi nhớ thương!
Mười hai tháng sáu là ngày tan nát, ngày cô nàng bỏ đi lấy chồng.
Là thế, là thôi, là thế đó
Mười năm, thôi thế mộng tan tành!
Mười năm trăng cũ ai nguyền ước?
Tố của Hoàng ơi! Tố của anh!
Chúng ta thấy ngã và ngã sở. Yêu thương một người, người đó phải thuộc về mình, đó là ngã sở. Tố của Hoàng ơi! Tố của anh. You are mine! Mười năm chỉ sống trong mộng cho nên khi mộng tan tành mới khổ.
Tháng sáu, mười hai từ đấy nhé
Chung đôi, từ đấy nhé lìa đôi.
Em xa lạ quá, đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi.
Bây giờ anh đi thất thểu bên bờ hồ Hoàn Kiếm; có gặp anh, cô ta cũng không thèm nhìn. Ngày xưa, Tố là của Hoàng. Nhưng bây giờ, đời là vô thường mà, Tố đâu còn phải là ngã sở của Hoàng nữa?
Hoàng xưa và Tố xưa là một Hoàng khác và một Tố khác. Hoàng bây giờ là Hoàng khác, mà Tố cũng là Tố khác rồi. Vô thường và vô ngã. Mình của phút này đã không còn là mình của phút trước, huống hồ là từ ngày mười hai tháng sáu cho tới bây giờ.
Men khói đêm nay sầu vũng mộ
Bia đề tháng sáu, ghi mười hai
Tình ta tha thiết, cuồng, ta khóc
Tố của Hoàng, nay, Tố của ai?
Giờ đây anh chàng khóc như điên. Tình thương mà đưa tới cuồng điên là tình thương mù quáng, không thấy được bản chất vô thường và vô ngã. Xưa Tố của Hoàng, nay Tố của ai?
Bốn câu tiếp nhắc sự tích Trang Tử khi vợ chết không khóc, ông gõ trên thành chậu mà hát một bài gọi là Cổ Bồn Ca:
Tay gõ vào bia, mười ngón dập
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ Bồn Ca, gõ hát chơi.
Kiều Thu hề Tố em ơi!
Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây.
Mái Tây tức là Tây Sương, tên một vở tuồng kể lại một chuyện tình nổi tiếng. Khi tình thương gây đau khổ, gây lửa cháy trong lòng như vậy, thì tình thương đó là tình thương gây tàn phá, tạo khổ đau.
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hồ, xừ, xang, xế, bàn tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp thương!
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ, xang, xế, xự, xang, hồ
Bàn tay nhịp gõ, điên rồ khói lên
Kiều Thu, hề! Tố hỡi em!
Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng
Xế, hồ, xang,… khói mờ rung
Nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn.
Đây là một bài thơ tình rất hay, vì đọc xong người ta sẽ thấy nát gan nẫu ruột, và bị cuốn vào trong cơn đau khổ cuồng si của thi sĩ. Dùng chánh niệm để quán chiếu ta sẽ thấy tình yêu ở đời thường dẫn đến tình trạng đó. Vì tình yêu vô minh có rất nhiều ái thủ trói buộc, đưa đến giận hờn, tan vỡ, tạo ra khổ đau cho cả hai người – thơ tình cũng có thể làm hại cả độc giả nữa nếu độc giả cũng chìm đắm trong “thú đau thương”, quên thực tập chánh niệm.
Chúng ta cần phân biệt tình thương trong sáng khỏe mạnh và tình thương mê đắm vướng mắc. Phải quán chiếu để nhận diện xem trong tình thương có chất liệu của từ, của bi, và của hỷ hay không. Nếu hoàn toàn trong ấy không có chất liệu nào của từ, bi và hỷ thì tình thương đó chắc chắn đang và sẽ tạo đau khổ. Nếu chất liệu của từ, bi và hỷ còn quá ít thì người ta vẫn còn đang đi theo con đường của vướng mắc, của sầu hận, của khổ đau và đày đọa. Cho nên ta phải thực tập mỗi ngày để chuyển hóa các yếu tố tiêu cực của tình thương, và nuôi dưỡng chất liệu từ, bi, hỷ, xả càng ngày càng lớn.
Bây giờ chúng ta nói tới yếu tố thứ tư là xả. Thường thường chúng ta dịch xả là buông bỏ, là không vướng mắc. Có khi chúng ta dịch là không phân biệt, không kỳ thị. Bản chất của xả là bất nhị. Định nghĩa hay nhất của xả là tự do. Một tình thương chân thật là một tình thương có chất liệu tự do. Người thương có tự do, và người được thương vẫn không mất tự do. Người đó không cần phải hội đủ những điều kiện nào đó mới được thương. Tôi thương anh không phải vì anh là người đồng bào máu mủ của tôi hay vì anh đã theo cùng một tôn giáo với tôi mà tôi thương. Tình thương không phân biệt như vậy là tình thương có xả. Trong tình thương đích thực này, người gọi là kẻ thù cũng được thương. Người ấy cũng đau khổ, cũng cần chuyển hóa khổ đau, cũng cần có hạnh phúc. Khi nhìn thấy được nhu yếu đó, ta thương được kẻ thù của ta. Khi đã thương được rồi thì ta đâu còn gọi người đó là kẻ thù nữa. Cho nên trong tình thương đích thực không có kẻ thù. Có những chủ thuyết nói rằng ta phải phân biệt bạn với thù, ta không được thương kẻ thù, chỉ được thương bạn thôi. Trong giáo lý đạo Bụt thì người nào khổ là mình thương, vì người đó cần tới tình thương.
Cách đây ba tuần, một sư cô ở Huế viết thư kể chuyện hiện giờ các nhà thờ chiêu dụ được con nít rất nhiều, chỉ tại vì các em đói. Trẻ em không có thức ăn, không có trường học thì tới nhà thờ để học đọc, học viết buổi sáng, rồi được ăn cơm trưa, và ở lại học đọc và học viết nữa. Đó đích thực là một công tác từ bi. Nhưng một số phụ huynh hơi lo, sư cô cũng hơi lo. Họ kể rằng các cháu về nhà, trong bữa cơm chiều, làm dấu thánh giá trước khi ăn, và đọc kinh “Con lạy chúa trên trời.” Và họ hoảng sợ. Sư cô đó đề nghị Phật tử phải làm thế nào để cho con cháu mình đừng đi đến nhà thờ, phải làm thế nào để đưa hết những trẻ em đói đó về chùa. Để thay vì làm dấu thánh giá, và đọc kinh “Con lạy chúa trên trời” thì chắp tay đọc “Con về nương tựa Bụt.”
Đó là tâm trạng chung của rất nhiều người. Phật tử và không Phật tử. Chúng ta làm việc thiện do tình thương, nhưng trong tình thương vẫn có phân biệt. Nếu chúng ta chỉ làm việc thiện vì sợ các con em Phật tử đi theo đạo Cơ đốc, thì chất liệu của từ bi sẽ không trọn vẹn. Nếu ta làm việc thiện vì thấy có rất nhiều trẻ em cần phải được nuôi ăn trưa, cần phải học đọc, học viết, thì đó là chân tinh thần của từ, bi, hỷ, và xả. Làm việc thiện vì sợ tôn giáo khác đang dụ con em mình, là đã để cho một áng mây mờ bay vào trong tình thương của mình. Điều này là do quán chiếu mà thấy. Cho trẻ con ăn cơm trưa, và cho các em học đọc, học viết là tại vì chúng cần những thứ đó. Còn sử dụng hành động đó để làm cho con nít theo đạo (hoặc là đạo Chúa, hoặc là đạo Phật) thì tình thương đó đã bị che ám bởi đám mây của kỳ thị. Như thế là trái với tinh thần xả. Nếu học Tứ vô lượng tâm mà nghĩ rằng chỉ có từ và bi mới là tình thương thôi, còn hỷ và xả là chuyện khác, đó là chúng ta lầm.
Trong lịch sử của giáo đoàn có rất nhiều sự hiểu lầm về giáo lý Tứ Phạm trú, Tứ vô lượng tâm. Ngay trong Đại trí độ luận (Mahāprajñāpāramitāśāstra) của thầy Long Thọ (Nāgārjuna), chúng ta cũng thấy có một vài hiểu lầm. Đại trí độ luận được soạn sớm hơn những tác phẩm khác được coi là của thầy Long Thọ như Trung quán luận. Sự hiểu lầm trong này phản ảnh sự hiểu lầm của những tông phái đang diễn giảng và thực tập Tứ vô lượng tâm trong thời kỳ ấy.
Hiểu lầm thứ nhất là cho rằng tâm từ, hay tâm bi đều còn bị vướng mắc. Thương yêu là bị ràng buộc vào những người được thương và mất đi một phần tự do. Đến tâm hỷ thì sự vui mừng cũng còn làm xáo động tâm. Vì vậy phải tu xả, nghĩa là phải buông bỏ. Ban đầu thì tu từ, tu bi và tu hỷ. Về sau ta phải tu xả để buông bỏ từ, bi, và hỷ đó để cho tâm thanh tịnh.
Hiểu như vậy là rất sai với tinh thần đạo Bụt, chưa thấy được rằng xả là một chất liệu trong tình thương. Sự sai lầm đó ta thấy nhan nhản trong các bộ luận từ ngày xưa cho tới bây giờ. Đại trí độ luận cũng phản ảnh tình trạng đó. Về sau, khi nói đến nhân cách của Bụt, các bộ phái mới nêu thêm ý niệm đại từ và đại bi, vượt lên trên từ và bi. Đại từ và đại bi chỉ được dùng cho Bụt và Bồ tát, còn trong trường hợp chúng ta thì chỉ dùng từ và bi. Hiểu như vậy cũng sai. Nếu đại từ, đại bi là lòng từ bi không giới hạn, thì Tứ vô lượng tâm cũng có nghĩa là bốn tâm không giới hạn. Tại sao cần phân biệt từ bi với đại từ, đại bi? Chỉ vì người ta hiểu rằng thực tập Tứ vô lượng tâm chỉ đem lại phước báo, giúp ta sinh lên cõi trời Phạm thiên và sống hạnh phúc một thời gian. Hết phước rồi chúng ta sẽ đọa lại trong kiếp người. Và không khéo có thể xuống cả địa ngục, trừ khi chúng ta có tu Tứ diệu đế và Bát chánh đạo. Đó là cách hiểu của nhiều luận giả trong các bộ phái Phật giáo. Ý niệm đó chứng tỏ rằng người ta có thể tu từ, bi, hỷ, xả riêng mà không cần Tứ diệu đế và Bát chánh đạo. Đó là sai lầm căn bản. Chúng ta biết rằng nếu không có Tứ diệu đế và Bát chánh đạo thì từ, bi, hỷ, xả không thực sự là từ, bi, hỷ và xả. Phân biệt tu từ, bi, hỷ, xả riêng, khác với cách tu từ, bi, hỷ, xả chung với Tứ đế và Bát chánh đạo, đó là một quan niệm sai lầm chúng ta phải chỉnh lại.
Sai lầm lớn thứ hai là nói rằng tu từ, bi, hỷ, xả chỉ chuyển hóa được tâm của người tu thôi, chứ không ảnh hưởng trực tiếp tới mọi loài chúng sinh. Những người diễn giảng và thực tập bốn tâm đó đã hiểu lầm lời của Bụt dạy. Họ nghĩ rằng tu từ, bi, hỷ, xả là những ức tưởng, những tưởng tượng ở trong đầu người tu. Có một đoạn kinh nói về phương pháp tu từ, bi, hỷ, xả (đoạn kinh này được lặp lại rất nhiều trong tạng Hán cũng như là tạng Pāḷi). Đoạn kinh đó như sau:
“Tâm dữ Từ câu, biến mãn nhất phương thành tựu du. Như thị nhị tam tứ phương tứ duy thượng hạ phổ châu nhất thiết. Tâm dữ Từ câu, vô kết, vô oán, vô nhuế, vô tranh, cực quảng thậm đại, vô lượng thiện tu, biến mãn nhất thiết thế gian thành tựu du. Như thị bi, hỷ tâm dữ xả câu, vô kết, vô oán, vô nhuế, vô tranh, cực quảng thậm đại, vô lượng thiện tu, biến mãn nhất thiết thế gian thành tựu du”. Dịch nghĩa: Tâm ta với chất liệu từ, đi về một phương, tiếp xúc với tất cả phương đó một cách rất sâu sắc, trở thành một với phương đó. Cũng như vậy, tâm ta với chất liệu từ đi vào phương thứ hai, đi vào phương thứ ba, đi vào phương thứ tư, đi lên phương Thượng, đi xuống phương Hạ, đồng nhất mình với từng phương, làm cho chất từ thấm nhuận vào phương đó. Không có nội kết, không có oán hờn, không có giận dữ, không có tranh chấp, rất lớn, rất rộng cho tới vô cùng. Và điều này cũng được thực hiện với bi, với hỷ, và với xả.
Bản dịch tiếng Anh như sau: He dwells suffusing, first, one direction with the heart linked to friendliness, then the second, then the third, then the fourth, then above, below, around and everywhere. And so he dwells recognizing himself in all, suffusing the entire world with the heart linked to friendliness, far reaching, gone great, unlimited, free from enmity and malice.
Tiếng Pháp, dịch từ Pāḷi: Ayant englobé la première région par une pensée associée à la bienveillance, il demeure. Ayant englobé de la même manière la deuxième, la troisième et la quatrième région, le zénith, le nadir, les quatres régions intermédiaires. Ayant englobé partout et de toute manière le monde entier par une pensée associée à la bienveillance, pensée étendue, agrandie, immense, exempte d’ennimité, exempte de méchanceté, il demeure. Il en fait de même avec la pensée associée à la compassion, avec la pensée associée à la joie, avec la pensée associée à l’equanimité.
Một số các vị dạy như thế này: Trong khi ngồi thiền mình rải tâm từ của mình về phương Đông, bao trùm tất cả các loài đang ở bên phương Đông; rồi sau đó rải tâm từ của mình qua phương Tây, bao phủ tất cả các loài ở phương Tây; rồi phương Bắc, rồi phương Nam, rồi phương Thượng, rồi phương Hạ, rồi Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam; và cứ như vậy chúng ta tiếp tục với bi, với hỷ, và với xả.
Có thầy giải thích rằng ta tưởng tượng lòng từ của mình như là một đám mây trắng, từ trái tim của ta đi ra, bao trùm một phương, bao trùm hai phương, ba phương, bốn phương, tám phương, mười phương; và đó là thực tập Tứ vô lượng tâm. Vì vậy trong Đại trí độ luận có dùng một chữ là “ức tưởng”. Đại trí độ luận nói rằng Thanh văn tu từ, bi, hỷ, xả chẳng qua là những ức tưởng bên trong, để chuyển hóa tâm sân hận của mình bên trong, chứ không có ảnh hưởng trực tiếp và thực tế tới mọi loài chúng sinh. Vì vậy muốn tu từ, bi, hỷ, xả thật đàng hoàng là phải phát nguyện thành Phật, phải thực tập Sáu phép Ba la mật, tức là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ.
Cách hiểu về Tứ vô lượng tâm đó vẫn còn nông cạn. Từ là năng lượng làm cho người vui, bi là năng lượng làm cho tiêu tan nỗi khổ. Ta chỉ có thể thực hiện được từ và bi khi quán chiếu. Từ hiểu biết mà đi tới thương yêu, rồi biến thành hành động. Tình thương biến thành hành động, chứ không phải là chỉ là ức tưởng. Vì vậy cách hiểu về Tứ vô lượng tâm nói trên không đủ sâu sắc.
Tôi hy vọng quý vị đã nắm được những ý chính. Tránh sự hiểu lầm và phân biệt giữa từ, bi, hỷ, xả với sự thực tập Tứ đế và Bát chánh đạo. Tránh sự hiểu lầm rằng tu từ, bi, và hỷ có thể bị vướng mắc cho nên ta phải tu xả để bỏ từ, bỏ bi và hỷ. Đó là những cách hiểu rất nông cạn. Và nhất là hiểu lầm rằng tu từ, tu bi, tu hỷ, tu xả chỉ là chuyện ức tưởng bên trong đầu người tu, không ảnh hưởng gì tới thế giới bên ngoài. Đó là những sai lầm căn bản mà chúng ta phải sửa ngay trong Đại trí độ luận. Thầy Long Thọ nói rằng vì cách tu từ, bi, hỷ, xả của những bậc Thanh văn chỉ là ức tưởng thôi, cho nên bây giờ người tu Đại thừa phải tiến lên thực tập Sáu Ba la mật. Câu đó cũng chứng tỏ rằng người đương thời chưa hiểu đúng phương pháp tu tập từ, bi, hỷ, xả. Tại vì tu từ, bi, hỷ, xả rất cần Bát nhã Ba la mật. Có Bát nhã Ba la mật thì sẽ có Bố thí Ba la mật, có Trì giới Ba la mật. Khi trì giới tức là ta thương yêu.
Các vị Tổ đã dạy dỗ chúng ta rất nhiều. Tôi rất biết ơn các vị. Ngày xưa có lúc tôi từng nghĩ là điều gì các Tổ nói đều đúng hết. Bây giờ lớn rồi, thành ra tôi thấy được những điều thất truyền, và những ý trên đây là những đóng góp của tôi. Cũng là một cách để đền đáp công ơn các Tổ. Bồi đắp những chỗ còn bị trống, bị thiếu, và tiếp tục khai triển sự nghiệp của Tổ. Tôi không nói rằng các vị đã làm sai, hay làm thiếu. Cố nhiên là học trò của tôi, và học trò những thế hệ sau cũng phải tiếp tục làm như vậy. Bồi đắp cho cây Phật pháp mỗi ngày mỗi lớn, mỗi ngày mỗi mạnh. Và ta phải có con mắt tuệ của chính ta mới được. Chứ còn học với tinh thần nô lệ, chấp nhận bất cứ một chữ nào, một câu nào ở trong các sách để lại, thì ta sẽ không đi xa được, và chỉ làm cho Phật pháp mỗi ngày mỗi héo mòn đi mà thôi.