Bài 20 Quán vô tác vô nguyện
Hôm nay là ngày 30 tháng Giêng năm 1994, chúng ta ở tại xóm Hạ và chúng ta học tiếp về Bát chánh đạo.
QUÁN KHÔNG, QUÁN VÔ TƯỚNG
Chúng ta đang học về Tam giải thoát môn, tức là ba cánh cửa đưa tới giải thoát. Cánh cửa thứ nhất là không. Chữ không ở đây không có nghĩa là không đối với có mà nó có nghĩa là tương duyên, tương quan, tương tức và tương sinh. Quán về không ta phải thấy được tính chất tương quan, tương duyên, tương tức và tương sinh trong mọi sự mọi vật. Ví dụ nhìn vào thân mình, ta phải thấy được tất cả những gốc rễ, những nhân và những duyên đưa tới sự có mặt của ta. Ta thấy cha mẹ, tổ tiên, đất nước, không khí, biển, trời, thấy các thế hệ tương lai ở trong mình. Khi thấy như vậy, ta vượt được hàng rào bản ngã, thoát được ngục tù ý niệm về ta và về của ta và mở được cánh cửa giải thoát – không giải thoát môn. Nếu ta chỉ đàm luận như một triết lý thì không bao giờ giải thoát được. Ví dụ, khi ta nhìn vào một người anh, một người chị, một người em của mình ở trong gia đình hay trong tăng thân, ta cũng phải nhìn bằng con mắt quán chiếu về không. Ta thấy ta là người đó và người đó là ta, sự an vui của ta liên hệ tới sự an vui của người đó, sự an vui của người đó có liên hệ tới sự an vui của ta. Và từ từ cái thấy của ta sẽ sâu hơn và đạt tới cái thấy về không giúp ta có năng lượng và công dụng đưa ta tới giải thoát. Cho nên không giải thoát môn là cách nhìn, cách quán, cách tiếp xúc mà ta phải thực tập chứ không phải chỉ là đề tài để đàm luận, nghiên cứu.
Vô tướng cũng vậy. Tất cả mọi sự mọi vật trước hết được biểu hiện qua tướng và chúng ta thường bị cái tướng ấy đánh lừa, cho nên ta mới sợ hãi, giận hờn, căm thù. Tất cả những khổ đau chúng ta thấy xảy ra xung quanh ta và trong ta đều do chúng ta bị kẹt vào tướng. Trong kinh Kim cương có nói về bốn tướng: tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh và tướng thọ giả.
Sở dĩ ta bị kẹt vào tướng ngã vì chúng ta nghĩ rằng có những cái phi ngã. Cái này là ngã vì tất cả những cái khác là phi ngã. Nhưng khi chúng ta tiếp xúc cho sâu sắc, chúng ta thấy trong cái ngã chỉ toàn là những yếu tố phi ngã thì tự nhiên ý niệm về ngã tan biến, và chúng ta thoát ra khỏi ý niệm ngã và chúng ta thoát ra được tướng ngã. Và như vậy, bảo vệ ngã là bảo vệ tất cả những gì là phi ngã.
Tướng thứ hai là tướng nhân. Nhân này không phải là đối với ngã, nhân ở đây là một chủng loại, gọi là người. Người là một ý niệm, một tướng. Cho rằng loài người là một thực tại độc lập, không phải là thú, là cây, là đất đá, chúng ta bị kẹt vào tướng nhân. Chúng ta nói rằng Thượng đế sinh ra những con tôm, con cá, con bò, con heo là để cho loài người ăn. Ta tưởng cây cỏ, đất đá, không khí, trời, sông, rừng và biển là để cho ta sử dụng thả cửa, ta không cần thương tiếc, không cần bảo hộ. Thấy chủng loại người biệt lập ra khỏi tất cả những chủng loại khác, đó là một cái tướng mà ta kẹt vào. Chính vì lo phục vụ tướng người mà ta phá hoại những tướng không phải người: các loài động vật, thực vật và khoáng vật. Đạt tới cái thấy vô tướng về người, ta mở được cánh cửa giải thoát thứ hai, thấy rằng trong người hàm chứa các loài động vật, thực vật và khoáng vật. Nhờ vậy ta có được sự hòa điệu, nhịp nhàng giữa các chủng loại.
Tướng thứ ba là tướng chúng sinh. Chúng sinh ở đây là các loài động vật, các loài có sự sống. Chúng ta nghĩ rằng các loài có sinh mạng cần được bảo vệ, cần được nuôi dưỡng nhưng chúng ta không biết rằng các loài có sinh mạng được tạo thành bằng những loài không có sinh mạng tức là loài vô tình. Khi ta tàn hại và làm ô nhiễm những chủng loại vô tình như không khí, sông hồ, biển cả, đại địa thì ta cũng hủy hoại luôn những chủng loại mà ta gọi là chúng sinh. Cho nên nhìn vào chúng sinh ta phải thấy các yếu tố không phải chúng sinh. Nhìn vào các yếu tố vô tình ta phải thấy các chủng loại hữu tình trong đó. Trong đời sống hàng ngày nếu ta biết quán chiếu, tiếp xúc như vậy thì tự nhiên cái tướng chúng sinh rã ra và ta thấy được tính vô tướng của chúng sinh.
Sau cùng là tướng thọ mạng, nghĩa là khoảng thời gian của mạng sống, từ khi sinh ra đến khi chết. Ta giới hạn sự sống của ta trong khoảng thời gian đó và nghĩ rằng ta chỉ sống trong giai đoạn đó thôi. Khi quán chiếu và tiếp xúc sâu sắc, ta thấy rằng ta chưa bao giờ từng sinh và sẽ không bao giờ từng diệt, thấy rằng ta không bắt đầu có từ khi sinh ra, cũng không bắt đầu trở thành không từ khi chết đi. Sự quán chiếu và tiếp xúc đó đưa ta tới cánh cửa giải thoát vô tướng. Nỗi sợ hãi cái chết được dựa trên ý niệm sai lạc về thọ giả sẽ tan biến.
Trong kinh Kim cương, chúng ta chỉ nghe Bụt nói về bốn tướng, ngoài ra còn rất nhiều tướng khác nữa mà ta có thể quán chiếu. Nếu không dùng niệm và định để tiếp xúc và quán chiếu thì ta không thể mở được ba cánh cửa giải thoát là không, vô tướng và vô tác.
QUÁN VÔ TÁC VÔ NGUYỆN
Vô tác có nghĩa là không cần có gì phải làm, không cần có dự án nào để theo đuổi. Người ta thường nghĩ rằng tu tức là theo đuổi dự án “đạt được Niết bàn” hay “chấm dứt được sinh tử.” Đi tu không phải là để lên chức Hòa thượng. Mục đích của sự tu học là thoát khỏi sinh tử và đạt tới giải thoát. Nhưng theo giáo lý Tam Pháp ấn thì chúng ta chưa bao giờ từng bị sinh tử cả. Chúng ta chưa bao giờ bị ràng buộc cả. Chúng ta là vô thường, là vô ngã và cũng là Niết bàn. Cũng như đợt sóng có cao thấp, lớn nhỏ. Đợt sóng này không phải là đợt sóng kia nhưng sóng cũng đồng thời là nước. Nước là bản chất của sóng, bản chất đó không lên xuống, không sinh diệt, không cao thấp, không này kia. Nếu sóng vùng vẫy, tìm kiếm, xua đuổi thì sóng đã làm một công việc rất dại dột, bởi vì sóng vốn là nước rồi. Trở về với bản tánh tự tâm của mình chỉ là một cách nói. Kỳ thực ta luôn luôn an trú trong bản tánh tự tâm của mình, không cần trở về nữa. Mục đích của sự tu học là để bừng tỉnh và thấy rằng ta chưa bao giờ sinh và cũng chưa bao giờ diệt, ta là Niết bàn. Ta đâu cần phải có dự án, đâu cần phải thực hiện gì nữa? Đó gọi là vô tác, hay là vô nguyện.
Mục đích của giáo lý vô nguyện là chỉ cho chúng ta thấy tất cả sẵn có đầy đủ trong bản tính tự tâm của ta, ta không cần đi tìm đâu nữa. Ta đã là cái mà ta muốn trở thành (we are already what we want to become). Và khi đạt tới cái đó, mở được cánh cửa giải thoát thì ta có sự dừng lại đích thực, ta không còn chạy đi tìm nữa, tự nhiên có an lạc, hòa điệu ngay trong giây phút hiện tại, đó gọi là hiện pháp Niết bàn. Buổi sáng nhìn thấy ánh nắng ta mừng, nghe trời mưa ta cũng mừng, thấy trời đầy sương ta cũng mừng. Ánh nắng, cũng như tiếng mưa rơi, cũng như sương mù đều là những hiện tướng của sự sống. Trong một hiện tướng có những hiện tướng khác. Và tất cả các hiện tướng đều mang tính Niết bàn và vô nguyện. Nếu thức dậy mà ta cảm thấy có hòa bình, và an lạc trong thân tâm, thấy ta không còn thiếu thốn gì, không cần đeo đuổi gì nữa, thì lúc đó ta có khả năng tiếp nhận hai mươi bốn giờ đồng hồ mà sự sống hiến tặng.
Thức dậy miệng mỉm cười,
Hăm bốn giờ tinh khôi,
Xin nguyện sống trọn vẹn,
Mắt thương nhìn cuộc đời.
Hai mươi bốn giờ tinh khôi như một tặng phẩm lớn của đất trời, của sự sống. Tặng phẩm đó là của ta. Ta chỉ có thể tiếp nhận tặng phẩm này một cách trọn vẹn với tâm vô nguyện. Nếu nghĩ rằng có hăm bốn giờ là để làm cái này, hoặc để làm cái kia, thì hăm bốn giờ đó sẽ trở thành một phương tiện, mà không còn là sự sống nữa. “Ta làm cái này để làm gì?” là một tiếng chuông chánh niệm nhắc ta trở về để thấy rằng mỗi việc chúng ta đang làm là sự sống, và có thể cho ta hạnh phúc ngay trong khi ta làm. Khi ta đi thiền, ngồi thiền, hay uống trà, ăn cơm, hoặc quét nhà, tất cả những giây phút đó đều có thể là những giây phút hạnh phúc. Ta không coi chúng như những phương tiện để đạt tới mục đích nào cả. Trong lúc ta bửa củi, sự sống đã mầu nhiệm rồi, ta thấy không cần phải bửa củi xong mới có hạnh phúc. Không cần nước sôi rồi mới có hạnh phúc. Không cần nấu cơm chín rồi mới có hạnh phúc. Như vậy là ta sống trong tinh thần vô nguyện. Đạt tới cái thấy ấy thì vô nguyện giải thoát môn được mở ra.
Có hôm tôi gặp một phụ nữ người Anh ở một xưởng làm đồ gốm. Bà ta hỏi: “Thầy có lo về tình trạng thế giới không?” Tôi trả lời: “Tôi có lưu tâm, nhưng mối quan tâm của tôi không làm hại tới sự an vui của tôi.” Bà này đang đau khổ, chồng của bà bị bệnh tâm thần. Trong câu hỏi về tình trạng thế giới, bà muốn nói tới những chuyện xảy ra ở Nam Tư (Yougoslavie), hay ở các nơi khác. Nếu ta để cho những lo lắng đó tràn ngập tâm mình thì chẳng bao lâu ta sẽ bị bệnh như chồng của bà. Tôi im lặng, thở năm bảy lần rồi mới nói: “Cái quan trọng nhất, này bà, là dù rất quan tâm đến tình trạng thế giới, bà cũng đừng để cho những nỗi lo lắng đó tràn ngập tâm mình, làm cho mình quá ưu sầu. Nếu tâm mình bị tràn ngập lo âu thì mình sẽ bệnh, và nếu bà bệnh thì ai chăm sóc, và nâng đỡ cho ông nhà bây giờ? Thành ra bà phải tu tập. Tôi biết rõ những gì đang xảy ra ở Nam Tư, tôi thấy cảnh khổ đau rất tội nghiệp, nhưng tôi không để cho những chuyện đó trở thành những yếu tố đe dọa tôi. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng là ta làm được tới mức tối đa những gì ta có thể làm, mà vẫn phải giữ được sự an lạc và bình tâm của mình. Nếu có thời giờ thiền hành, hay thiền tọa thì đừng bỏ qua. Tâm trạng lo lắng không đưa tới đâu. Dầu ta có lo âu gấp mười lần, hoặc gấp trăm lần, thì tình trạng cũng như vậy thôi. Nếu ta bị bệnh thì tình trạng sẽ xấu hơn. Cho nên điểm quan trọng không phải là ta lo, mà ta làm những gì có thể làm được trong giờ phút hiện tại. Nếu bà không giữ được sự an lạc của bà thì bà không thể nào giúp được ông nhà. Bà cũng không thể nào giúp được cho bất cứ ai và bất cứ tình trạng nào trên thế giới. Cho nên hãy làm những gì trong đời sống hàng ngày mình có thể làm được. Đó là chìa khóa. Khi có thái độ đó thì tự nhiên ta sẽ có an lạc.” Tôi đã nói tóm tắt những điều đó cho bà người Anh này trong vòng mấy phút.
Ta có thể có hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, dầu trong thân và trong tâm ta có điều chưa được như ý. Giáo lý Tịnh độ nói: dầu còn khổ đau, dầu còn nghiệp chướng, ta vẫn có thể vãng sinh được tới thế giới cực lạc. Đức Phật A Di Đà sẽ không đóng cửa, sẽ không cấm ta vào cõi cực lạc với một ít nghiệp chướng, một ít tham, giận, và si mê. Đó gọi là đới nghiệp vãng sinh. Đới nghiệp là còn mang nghiệp theo. Nghĩa là tịnh độ hiện tiền, đây là tịnh độ, tịnh độ là đây. Dầu còn một ít lo lắng, sầu khổ, một ít bệnh tật, ta vẫn có thể bước vào được thế giới cực lạc như thường. Cho nên, buổi sáng thức dậy mỉm miệng cười, ta thấy ta có thể có hạnh phúc. Quan trọng là thái độ vô nguyện của ta. Vô nguyện là được như nguyện. Không chờ đợi, không đòi hỏi, ta có thể hạnh phúc trong bất cứ giây phút nào.
ÁP DỤNG BA CỬA GIẢI THOÁT
Theo các nhà xã hội học bên Mỹ, vấn đề số một của Hoa Kỳ là bạo động. Người ta bạo động đối với nhau: cha bạo động với con, con bạo động với cha, học trò bạo động với thầy. Người ta bạo động với chính thân thể và tâm hồn của họ. Tự tử, sử dụng ma túy, nghiện rượu, người ta tự tàn phá cơ thể và tâm hồn. Giống như xã hội đang đi về hướng tự hủy một cách tập thể. Và những người có con mắt nhận xét thấy đó là một vấn đề rất lớn. Căn nguyên của hiện tượng trên là vì con người không có an lạc, con người đang đi tìm quên lãng. Nếu con người có hạnh phúc thì đâu phải đi tìm mấy chất ma túy, và những ông vua ma túy đâu có thể làm ăn được. Sống với bản thân không an lạc, tự ghét bản thân; sống với gia đình không an lạc, hờn oán gia đình; sống với xã hội cũng không an lạc, thù ghét xã hội. Với những đau khổ không biết cách chuyển hóa, người ta trút những đau khổ đó lên cho nhau, làm phát sinh ra bao nhiêu căm thù và bạo động.
Có những thiếu niên mười hai và mười ba tuổi ở Pháp đã bắt đầu giết người. Trong mấy tuần lễ vừa qua lại có những vụ giết người trong xe lửa. Bên Anh cũng vậy. Bạo động là một dấu hiệu của tình trạng thiếu hạnh phúc, thiếu thăng bằng. Người ta khổ đau nhưng không biết thực tập, không có ai hướng dẫn. Có cơ duyên tu học, ta phải biết trách nhiệm. Trước hết phải làm sao cho chính mình có an lạc và hạnh phúc, phải học nghệ thuật sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại, dầu ta còn có những điều bất như ý. Ta bắt buộc phải có hạnh phúc. Nếu không, ta sẽ không thể làm chỗ nương tựa cho bất cứ ai, dầu đó là cha, mẹ, anh, chị, em mình, đồng bào mình hay người trong xã hội quanh mình. Ta cần phải làm thế nào để cho hạt giống an lạc và giác ngộ sinh sôi nảy nở nhiều, cho nhân loại được nhờ. Mỗi ngày hăm bốn giờ đồng hồ của ta là một cơ hội lớn để sống an lạc và hạnh phúc. Nếu ta cần một dự án, thì dự án đó là làm thế nào để đào tạo thật nhiều những người có khả năng hướng dẫn tu học, giúp mọi người biết tu biết thở, biết nói, biết im lặng theo chánh pháp, biết ăn cơm trong chánh niệm, biết làm hạnh phúc cho mọi người. Chúng ta cần nhiều giáo thọ. Trong Đại Giới Đàn sắp tới, Giới Đàn Hương Tích, sẽ có lễ truyền đăng cho mười hai vị giáo thọ mới.
Trong chuyến đi Hoa Kỳ vừa rồi tôi có những buổi thuyết pháp cho công chúng mà số người tới tham dự là bốn ngàn người, có những khóa tu, trong đó bốn trăm hoặc năm trăm người xin quy y để tiếp nhận Năm giới. Đó là hình ảnh cá mẹ sinh cả đàn cá con. Nhưng như thế cũng không thấm thía vào đâu so với một xã hội mà khổ đau và bạo động đang leo thang. Trong chuyến đi Bắc Mỹ đó, số người tới học trực tiếp trong những khóa tu hay những buổi pháp thoại vào khoảng 28.000 người. So với dân số Mỹ cũng không có nghĩa gì. Dầu có những đài phát thanh đã phát nguyên văn các bài pháp thoại liên tiếp trong mười ngày, những tờ báo lớn như The Washington Post, The New York Times hay Los Angeles Times đã viết một số những bài khá hay về phương pháp thực tập. Có thể nói hàng triệu người đã được tiếp xúc với giáo lý của Bụt. Loài người rất khao khát sống an lạc, rất mong biết được cách chuyển hóa tâm hồn và thay đổi xã hội. Nhưng hiện bây giờ số người có thể hướng dẫn được dân chúng tu tập, chuyển hóa còn ít lắm. Và chúng ta phải thực tập như thế nào để làm cho số người đó nhân lên. Điều này chúng ta có thể làm được.
Nếu cứ để thì giờ mà lo lắng và ưu sầu thì chúng ta chỉ làm cho tình trạng đen tối hơn. Chưa cứu được thế giới ta đã đánh mất chính ta rồi. Thành ra câu trả lời cho từng người là phải làm thế nào để mỗi bước chân của mình được thảnh thơi, mỗi giây phút của đời sống hàng ngày có an lạc, hạnh phúc. Cánh cửa giải thoát thứ ba, vô nguyện, rất quan trọng. Chúng ta không cần thành một cái gì hết, thành Phật, Bồ tát, hòa thượng, giáo thọ v.v. chúng ta chỉ cần có hạnh phúc trong giây phút hiện tại, có thể đem lại hạnh phúc cho những người ta thương. Người Pháp có một bài hát “Chúng ta đợi gì mà không hạnh phúc bây giờ?” (Qu’est-ce qu’on attend pour être heureux?) Mỗi sư cô, mỗi sư chú, mỗi Phật tử và thiền sinh của chúng ta hãy tự hỏi câu hỏi đó: Tại sao chúng ta lại không có hạnh phúc ngay bây giờ? Hạnh phúc trong giây phút hiện tại, hạnh phúc có liền như cà phê hòa tan (instant coffee), chỉ cần chế nước sôi vào là có thể uống ngay.
Tôi còn nhớ một thiếu phụ, tại một khóa tu ở Canada, sau buổi thiền hành đầu tiên đã nói: “Thưa thầy, từ khi sang Bắc Mỹ đến giờ, trong suốt bao nhiêu năm con chưa bao giờ được đi những bước thong thả như hôm nay.” Xã hội đã kéo bà chạy theo như một cái chong chóng. Và bà chỉ cần được hướng dẫn thiền hành trong hai mươi phút, là có thể đi vào được trong thế giới của tĩnh lặng, của an lạc. Không cần phải dự một khóa tu ba tháng. Có khi ta chỉ cần một khóa tu ba ngày, hoặc bốn ngày. Và chỉ ngay sau giờ thiền hành đầu tiên là đã có thể nếm được pháp lạc. Sau đó, thiếu phụ hỏi: “Bạch thầy, con có thể về chia sẻ phương pháp thiền hành này cho các bạn con được không?” Tại sao không? Các sư cô sư chú được tu tại Làng Hồng bốn năm là đã có may mắn hơn những người như vậy nhiều. Sau bốn năm đó ta đã có khả năng thiết lập một trung tâm tu học để hướng dẫn người khác. Quý vị cũng sẽ làm như tôi, suốt đời học hỏi thêm, và phải luôn luôn thực tập. Càng học và càng thực tập thì cái thấy, cái hiểu của mình về chánh pháp càng sáng, và càng sâu thêm. Đức Khổng Tử nói: “Học nhi thời tập chi, bất diệc lạc hồ”, học mà thường được thực tập thì há chẳng phải là niềm vui hay sao? Học với thầy được một ngày thì ta đã tiếp nhận được chất liệu của gia đình tâm linh ta để lại từ mấy ngàn năm. Điều quan trọng là khả năng tiếp nhận và tiêu hóa của mỗi người. Phải biến những chất liệu ta tiếp nhận được thành sự sống liền mà đừng chất chứa chúng thành những kho kiến thức không dùng vào việc gì được.
Học điều gì ta phải đem ra thực tập. Khi ta học về ba cánh cửa giải thoát: không, vô tướng, và vô tác chẳng hạn, thì phải áp dụng liền. Áp dụng thế nào về cánh cửa thứ nhất là cánh cửa không? Có phải là lên thiền đường ngồi thiền để suy tư về không chăng? Không phải như vậy. Mỗi lần nhìn cây cỏ, đất trời, tiếp xúc với người với vật, phải thấy được tính cách tương tức, tương nhập của tất cả. Phải thấy tính cách mầu nhiệm của không ở trong con người của mình.
Tới cánh cửa thứ hai là vô tướng. Tri giác (tưởng) của ta luôn luôn được dựng nên bởi tướng. Phải thấy được tính cách vô tướng trong cái tướng của người, và vật chung quanh mà đừng để cho tướng lừa gạt. Thấy được rồi thì những sợ hãi, lo buồn, hờn giận của mình sẽ tan biến, và vô tướng trở thành sự sống hàng ngày.
Cuối cùng là vô tác, vô tác là không cần tìm kiếm. Vô tác không phải là hết ham muốn mà thôi. Có những người hết ham muốn nhưng lòng rất rầu rĩ: tôi không cần thiết gì nữa! Apraṇihita là không đặt trước mình một đối tượng để chạy theo. Tức là biết dừng lại và hạnh phúc chỉ đạt được khi ta biết dừng lại. Cho nên nếu có người hỏi: “Tu để làm gì?”, có thể ta trả lời: “Tu là để có hạnh phúc.” Người ta hỏi: “Tu tới bao giờ mới có hạnh phúc?” – “Phải có hạnh phúc ngay từ bây giờ. Còn nếu không thì không phải là anh đang tu.”
CÁC CÁCH TRÌNH BÀY KHÁC VỀ PHÁP ẤN
Sau khi đã hiểu cách tu tập Tam pháp ấn chúng ta nên biết thêm về các lối trình bày khác về pháp ấn. Trong văn học Phật giáo cũng có ý niệm Nhị pháp ấn. Khổ là một pháp ấn và Niết bàn là pháp ấn thứ hai. Ngoài ra còn ý niệm về Tứ pháp ấn, là vô thường, khổ, vô ngã và Niết bàn. Và kinh cũng nói tới một pháp ấn, thuộc về truyền thống Đại thừa, gọi là Nhất thật tướng ấn. Sở dĩ có nhiều cách trình bày về pháp ấn là do lối nhìn của những thế hệ thực tập về sau.
Trong lịch sử phân phái, cuộc phân chia hệ phái đầu tiên xảy ra một trăm năm sau khi Bụt nhập diệt, thành Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. Thượng Tọa Bộ là các vị có khuynh hướng bảo thủ, Đại Chúng Bộ là phía các vị có khuynh hướng cải cách. Thượng Tọa Bộ sau này chia ra Hữu Bộ và Phân Biệt Thuyết Bộ, đó là cuộc phân phái thứ hai. Như chúng ta biết, Hữu Bộ truyền lên miền Kashmir, Phân Biệt Thuyết Bộ ở lại, sau đó lại gửi một chi phái là Xích Đồng Diệp Bộ sang Tích Lan, bây giờ ta gọi là Theravāda. Cho nên Hữu Bộ và phái Theravāda có cùng một nguồn gốc và kinh điển rất giống nhau. Trong Tam tạng Pāḷi, những đoạn văn nói về “vô thường cho nên khổ, khổ cho nên vô ngã” được lặp đi lặp lại nhiều lần, cũng giống trong những bộ kinh A hàm bằng chữ Hán thuộc văn hệ Bắc truyền. Điều đó chứng tỏ cách nhìn đó có trước thời phân chia thành hai phái Hữu Bộ và Phân Biệt Thuyết Bộ.
Theo sát các đoạn kinh trên, đạo Bụt Nam truyền giải nghĩa Tam pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Cách nhìn đó có thể đưa tới những hiểu lầm, cũng như lối xếp đặt khổ và Niết bàn vào làm Nhị pháp ấn. Sai lầm căn bản là sự biến đổi vai trò của khổ, từ một cảm thọ cần nhận diện, thành một bản chất của thực tại. Sau khi đã học về ba cánh cửa giải thoát, chúng ta sẽ nhìn lại về vấn đề này trong ánh sáng của tam tam muội.
Khổ đau phát sinh là do chúng ta bị kẹt vào tướng, cho nên Bụt đã dạy phép quán vô tướng. Phương pháp mà Bụt dạy là dùng giáo lý vô thường và vô ngã. Vô thường là một chiếc chìa khóa để mở cửa thực tại, và dùng quán vô thường chúng ta phá vỡ được các tướng trạng. Vô ngã là một chìa khóa khác. Dùng phương pháp vô ngã, chúng ta cũng đi tới vô tướng. Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, cái gì có tướng là có sự nhầm lẫn. Vô thường mà nghĩ là thường thì khổ, vô ngã mà cho là có ngã thì khổ. Lý luận thường thấy trong các kinh điển từ Nam tông đến Bắc tông: sự vật vì vô thường cho nên khổ, và vì khổ nên không thể cho nó là cái ta – vô ngã.

Trước tiên, khổ ở đây là một cảm thọ. Nhưng nhiều thế hệ Phật tử sau này đã nâng ý niệm khổ lên thành một tính chất phổ biến tất yếu của thực tại. Vì trong giáo lý Tứ diệu đế, khổ đứng đầu. Bản ý của Bụt là: khổ có mặt, chúng ta phải nhận diện khổ như nó đang là. Nhận diện khổ là một chuyện, thái độ giáo điều nói rằng “Tất cả đều là khổ, không có cái gì là không khổ hết” là một chuyện khác. Hai cách nhìn đó khác nhau rất nhiều. Nhưng nhiều thế hệ Phật tử đã đi vào con đường thứ hai. Cho nên có lý thuyết về Tam khổ: Ban đầu khổ như là một cảm thọ: khổ khổ (Duḥkha as an unpleasant feeling). Rồi đến hoại khổ, vì vạn vật sẽ tàn hoại cho nên khổ (Duḥkha as change). Thứ ba hành khổ, mọi hiện tượng vì được tập hợp mà thành nên khổ, khổ vì bản chất là hành (Duḥkha as formation). Thuyết Tam khổ có tính cách giải thích, bênh vực cho chủ trương tất cả đều là khổ. Mục đích của Bụt khi giảng Tứ diệu đế không phải là biện luận về một chủ thuyết. Mục đích của Ngài là dặn dò rằng có những cái khổ chúng ta phải nhận diện. Những thế hệ sau nghĩ rằng sự giải thoát chỉ đạt được khi ta nhắc đi nhắc lại sự thật thứ nhất “đời là khổ, đời là khổ, cái gì cũng là khổ, cái gì cũng là khổ” nếu không thì không đạt được quả vị A La Hán, không giải thoát, không an lạc. Đọc lại những tác phẩm A tỳ Đạt ma, như Tranh luận sự (Points of controversy) ta sẽ thấy. Đó là do ta hiểu và áp dụng sai Tứ diệu đế. Những đau khổ ta gọi chúng là đau khổ đã đành, những cái không đau khổ cũng phải làm cho chúng thành đau khổ luôn!
Đi xa thêm một bước nữa là quan niệm tất cả các hành – những hiện tượng được tập thành như là núi, sông, cây, cỏ, mặt trời, mặt trăng, cha mẹ, anh em, nụ cười, tiếng khóc, tất cả đều là khổ hết! Hệ luận của một quan niệm như vậy là Niết bàn hoàn toàn tách biệt khỏi các hành. Nước mà bỏ hết sóng đi thì đâu còn có nước?
Cách nhìn đó dẫn tới ý tưởng cuộc đời là khổ, năm uẩn là khổ, sáu đại là khổ, tất cả là khổ cho nên ta phải dứt bỏ hết. Nhưng ai là kẻ làm công việc dứt bỏ đó? Có một cái ta biệt lập với năm uẩn, với những cái gọi là hành không? Hay ta chẳng qua cũng chỉ là những hành đó? Cái ta có phải là một thực tại độc lập ngoài những hành này không? Nói có tức là chấp vào hữu ngã, có một cái ngã riêng biệt. Có một cái ngã nằm ngoài các hành, có một cái ngã riêng ở ngoài năm uẩn, đó là một sai lầm căn bản.

Thân này là ta. Ta tức là uẩn. Thân này là của ta. Vậy là có cái ta riêng nữa, ta không phải là thân. Đó là hai khái niệm về ngã mà Bụt đã phá vỡ. Khái niệm thứ ba: Ta là thần ngã. Thần ngã (Ātman) là yếu tố thiêng liêng có thể đồng nhất hóa với Phạm thiên (Brahmā). Brahmā là đại ngã, còn ta là Ātman, tiểu ngã, hai cái đó là một, trở về với nhau gọi là giải thoát. Bụt cũng đã bác bỏ ý niệm đó. Thân không phải là ta, không phải là của ta, không phải là thần ngã. Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý không phải là ta, không phải là của ta, không phải là thần ngã. Đó là ba ý niệm về ngã mà Bụt muốn phá tan.
Vậy thì cái ta này là cái gì, có thể thoát ra ngoài năm uẩn và các hành được chăng? Có phải sau khi tôi đã buông bỏ tất cả năm uẩn và các hành rồi thì tôi sẽ bước sang một thế giới khác gọi là Niết bàn chăng? Vậy Niết bàn là một thực thể hoàn toàn biệt lập với các hành chăng? Phải chăng bỏ cái thế giới khổ này, đi tìm tới một thực thể hoàn toàn khác với khổ, đó là nhập Niết bàn? Nghĩ như vậy thì hai pháp ấn, khổ và Niết bàn, trở thành một giáo lý nhị nguyên. Không phải Bụt dạy khổ và Niết bàn là nhị nguyên, mà cách nhìn của người ta bị kẹt vào quan điểm nhị nguyên. Chúng ta thấy rất là mầu nhiệm khi phá vỡ được tư tưởng nhị nguyên. Cũng như khi học về xả, ta cũng phải phá đổ quan điểm nhị nguyên. Tiếng Anh dịch xả là equanimity, tức là không đứng về một phe, đối lập với phe khác. Nếu nói hành là khổ, rồi ta bỏ các hành, đi tìm về Niết bàn hoàn toàn khác biệt với hành, đó là nhị nguyên, không phải là xả. Niết bàn nằm trong các hành, Niết bàn chính là hành.
Bàn luận như trên không phải là để biện giải lý thuyết xem giải thích Tam pháp ấn cách nào là đúng, hay Nhị pháp ấn cách nào là đúng. Câu hỏi thích đáng phải nêu lên là chúng ta có thực tập Tam giải thoát môn không? Các Tổ, các Thầy nói tới Ba cánh cửa giải thoát nhưng đã dạy ta phương pháp thực tập. Làm sao để thực tập Không, làm sao để thực tập Vô tướng, và làm sao thực tập Vô tác? Chúng ta phải tránh việc học một mớ lý thuyết rồi không bao giờ đem chúng áp dụng trong đời sống hằng ngày. Pháp ấn có thể là ba, Vô thường, Khổ, Vô ngã cũng được hoặc Vô thường, Vô ngã, Niết bàn cũng được; có thể là hai, Khổ với Niết bàn cũng được. Hay chỉ là một, Nhất thiết thực tướng ấn cũng được. Điều quan trọng là những giáo lý ấy có thể thực tập được, có thể đem lại giải thoát cho ta được hay không? Điều kỳ diệu là trong Tam pháp ấn có Vô thường, Vô ngã, Niết bàn, thì Niết bàn thuộc về phạm vi thể, và hai phần kia thuộc về phạm vi tướng. Chính nhờ tiếp xúc với tướng một cách sâu sắc mà đi tới thể của các tướng. Đó là nguyên tắc tùng tướng nhập tánh.
Tam giải thoát môn đã được trình bày như là những phương pháp thực tập và chúng ta có thể thực tập được. Sống như thế nào gọi là có cái nhìn Không? Cách nhìn đó chúng ta thực tập khi thức dậy, khi ăn cơm, khi uống nước, khi tiếp xử với bạn bè. Sống như thế nào, thấy như thế nào, tiếp xử như thế nào có thể gọi là Vô tướng? Và sống thế nào có thể gọi là Vô tác? Chúng ta an trú được trong giờ phút hiện tại, có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, dầu còn đeo theo một ít nghiệp chướng bên mình. Nếu quý vị nói về Không, Vô tướng, Vô tác, đọc một cuốn sách ba ngàn trang về Không, Vô tướng, Vô tác mà cuối cùng không áp dụng được trong đời sống thì ba ngàn trang sách đó sẽ không có một ích lợi nào.
Sự hiểu sai và truyền thừa sai xảy ra khắp nơi, trong đạo Bụt Nam truyền cũng như trong đạo Bụt Bắc truyền. Chúng ta phải rất cẩn thận, phải dùng trí thông minh và căn cứ trên kinh nghiệm tu tập, trên những thành công, những thất bại của chúng ta để có thể tiếp xúc với giáo lý đích thực của đạo Bụt.