07. Tưới tẩm hạt giống tốt
Chương 7
Tưới tẩm hạt giống tốt
Hôm nay chúng ta học tiếp về nghệ thuật vun trồng và chế tác niềm vui (Hỷ). Bụt đã cống hiến cho chúng ta những phương pháp thực tập để tự nuôi dưỡng mình bằng chất liệu của niềm vui và hạnh phúc trong đời sống hàng ngày để ta có đủ sức mạnh tiến xa trên con đường tu tập. Ngài đã dạy chúng ta phép thực tập buông thư, làm êm dịu cơ thể, chăm sóc, ôm ấp những cảm thọ dễ chịu, chế tác niềm vui và hạnh phúc để đem lại sự nuôi dưỡng và trị liệu thân tâm. Vun trồng niềm vui và hạnh phúc là để bồi đắp thêm chất liệu hạnh phúc và nuôi dưỡng trong đời sống hàng ngày.
Tâm thức ta chứa đựng rất nhiều hạt giống tốt. Nếu ta biết cách tiếp xúc và tưới tẩm thì chúng sẽ biểu hiện lên trên vùng ý thức của ta và thể hiện ra trong đời sống hàng ngày qua cách suy tư, nói năng và hành xử. Tâm thức có thể được chia ra làm hai phần- phần dưới là tàng thức – tức là nơi cất chứa tất cả các loại hạt giống trong đó gồm có những hạt giống tốt và xấu; phần trên là ý thức – tức là nơi những hạt giống biểu hiện thành năng lượng như vui, buồn, giận, thương, ghen ghét mà ta gọi là tâm hành v.v… Ta phải thực tập nhìn sâu để nhận diện những hạt giống tốt, lành mạnh trong ta; chẳng hạn như những hạt giống chánh niệm, giải thoát, hiểu biết, hạnh phúc và thương yêu. Có thể ta nghĩ rằng mình không có khả năng thương yêu người khác, nhưng đó là vì ta chưa biết cách tiếp xúc với hạt giống thương yêu trong ta. Với sự thực tập và yểm trợ của một thầy, một sư cô hoặc một người bạn đồng tu hay của tăng thân, ta có thể tiếp xúc được với những hạt giống thương yêu, tha thứ và an vui trong ta. Có những người bảo rằng: ”Hạnh phúc hả! Tôi không biết thế nào là hạnh phúc. Trong tôi hoàn toàn không có chút hạnh phúc nào cả. Đời chỉ toàn là khổ đau, bất công, dối trá…” Đó là vì người kia chưa được hướng dẫn, chưa biết cách tiếp xúc với những hạt giống an vui, hạnh phúc trong tự thân. Sự thực tập là để giúp ta tiếp xúc và nhận diện những gì lành mạnh, tươi mát và nuôi dưỡng trong ta và chung quanh ta. Đây là sự thực tập chế tác niềm vui và hạnh phúc đích thực.
Ta hãy tổ chức đời sống hàng ngày của ta như thế nào để những hạt giống tốt trong ta được tưới tẩm và nuôi dưỡng mỗi ngày, tránh tưới tẩm những hạt giống tiêu cực. Trong tâm địa của mỗi một chúng ta đều có những hạt giống nghi ngờ, tuyệt vọng, giận hờn, ghen tỵ v.v… Có người mạnh hơn, có người yếu hơn; nhưng người nào cũng có những hạt giống không tốt đó. Ta không nên để cho môi trường và những người chung quanh tưới tẩm những hạt giống tiêu cực trong ta. Mỗi khi hạt giống tiêu cực trong ta bị tưới tẩm thì nó phát khởi và khống chế ta, làm ta đau khổ. Khi những hạt giống tiêu cực như tuyệt vọng, hận thù được tưới tẩm, thì chúng biểu hiện lên trên vùng ý thức của ta trong hình thái của năng lượng và nó có công năng tàn phá niềm vui và hạnh phúc của ta. Vì vậy ta phải tổ chức đời sống tu tập hàng ngày như thế nào để những hạt giống tiêu cực trong ta không bị tưới tẩm. Ta có thể nói với người thương rằng: ”Chị ơi, nếu chị thật sự thương em, xin chị đừng tưới tẩm những hạt giống tiêu cực trong em. Vì nếu chị tưới tẩm những hạt giống ấy trong em, thì em sẽ khổ và em sẽ liên luỵ tới chị. Chị nên tưới tẩm những hạt giống tích cực trong em mà thôi và khi em vui tươi, hạnh phúc thì chị cũng được hạnh phúc lây.” Đó là sự thực tập tưới tẩm hạt giống tốt, tưới tẩm những niềm và hạnh phúc cho nhau. Đó là tình thương đích thực.
Muốn thực tập thành công, ta phải ký một Hiệp ước sống chung an lạc với ta và với những người ta thương. Và đây là văn bản của Hiệp ước sống chung an lạc: ”Chị thương mến của em, em nguyện là em sẽ không tưới tẩm những hạt giống tiêu cực như giận hờn, bối rối, hận thù và bạo động trong chị. Em hứa là em sẽ cẩn trọng và khéo léo hơn trong khi nói năng và hành xử để không làm chị khổ. Em rất muốn sống hạnh phúc, an lạc với chị. Xin chị giúp em. Nếu lỡ trong khi thất niệm, em có nói hoặc làm điều gì có tính cách tưới tẩm những hạt giống tiêu cực nơi chị, xin chị nhẹ nhàng nhắc nhở em để em có thể ngăn chặn kịp thời. Em cần sự giúp đỡ của chị để em tránh tưới tẩm những hạt giống không lành mạnh nơi em và nơi người khác.” Và người chị cũng phát lời nguyện như thế đối với em mình. Sau khi ta đã ký xong hiệp ước sống chung an lạc, thì mỗi khi người kia có nói hoặc làm điều gì có tính cách tưới tẩm những hạt giống khổ đau trong ta, ta có thể nói: ”Xin đừng. Xin đừng nghe chị. Chúng ta đã ký Hiệp ước sống chung an lạc rồi mà. Chị quên rồi sao!” Hoặc ta có thể khéo léo đưa tay lên làm dấu hiệu với sự điềm tĩnh để nhắc nhở người kia về hiệp ước đã được ký giữa mình với người kia. Pháp môn này có thể thực tập trong phạm vi gia đình giữa vợ với chồng, con với cha, anh với em, chị với em và với bạn bè, học đường, người làm việc cùng sở và xã hội. Khi mọi thành phần trong gia đình vui vẻ, hạnh phúc, chịu hợp tác, thì tất cả mọi người ngồi xuống và ký kiệp ước với nhau để thực tập tránh tưới tẩm những hạt giống tiêu cực nơi nhau và nguyện chỉ tưới tẩm những hạt giống tốt cho nhau mà thôi.
Nhiệm Mầu Ta Nuôi Nhau
Tưới hoa là một pháp môn thực tập có công năng đem lại sự nuôi dưỡng và trị liệu cho nhau. Trong đời sống hàng ngày, ta có thể thực tập tưới tẩm cho nhau những hạt giống tích cực như những hạt giống của niềm vui, hạnh phúc, thương yêu, tha thứ, tài năng v.v… chúng ta tuyệt đối không tưới tẩm cho nhau những hạt giống tiêu cực như buồn giận, khổ đau, trách móc và thù hận v.v… Đó gọi là pháp môn tưới hoa. Trong tâm thức của mỗi người chúng ta đều có sẵn những hạt giống tốt, lành mạnh và hạt giống không lành mạnh. Vì vậy muốn cho người thương của ta được tươi mát, hạnh phúc, ta chỉ nên tưới tẩm những hạt giống tốt cho người đó để những đóa hoa nơi người đó được nở tươi. Khi ta làm cho người kia nở được nụ cười tươi mát, thì ta cũng được hưởng lây. Phép thực tập này không tốn nhiều thì giờ, công sức, nhưng đem lại kết quả rất mau chóng. Ví dụ, ta có một người chị có tài cắm hoa, nghệ thuật cắm hóa của chị rất độc đáo. Nhưng không biết vì lý do gì mà bấy lâu nay chị mình không cắm hoa nữa, trông chị lộ vẻ buồn rầu, mất thăng bằng trong đời sống. Ý thức được tình trạng của chị, ta có thể thực tập pháp môn tưới hoa cho chị, chỉ cần vài câu nói khích lệ là có thể làm sống dậy được niềm vui nơi chị mình và giúp chị mình phục hồi lại được sự thăng bằng của tâm lý. Đôi khi ta chỉ mất vài ngày là có thể giúp chị mình phục hồi lại được toàn vẹn niềm an vui của chị. Ta có thể tới với chị của mình và nói như thế này: ”Chị ơi! Lâu quá em không thấy chị cắm hoa để chưng trên bàn thờ và trong các phòng khách, phòng ăn và nhà vệ sinh. Em nhớ mỗi lần chị cắm hoa và trang trí nơi những chổ ấy thì cả căn nhà tự dưng tươi sáng và đẹp hẳn lên; ai ai trong gia đình cũng thừa hưởng được niềm vui và hạnh phúc với tài cắm hoa của chị. Chị thật khéo tay. Nhưng không hiểu vì sao mà lâu nay em không thấy chị cắm hoa nữa. Chị ơi, sao chị nở làm như vậy! Những bình hoa chị cắm luôn luôn đem lại cho gia đình thật nhiều niềm vui và hạnh phúc. Xin chị cắm cho em vài bình hoa đi chị. Em thích nghệ thuật cắm hoa của chị lắm!” Ngồi bên cạnh chị của mình, nhìn chị, mỉm cười và nói lên những lời khích lệ dễ thương và chân thật như thế, ta sẽ chạm tới được những hạt giống hạnh phúc của chị, bởi vì chị mình thật sự có tài cắm hoa và luôn cảm thấy hạnh phúc mỗi khi cắm hoa. Trong khi tâm hồn đang buồn bã, chán nản, chị mình có thể nói rằng: ”Thôi đi, chị không cần em an ủi chị. Chị không có hứng cắm hoa.” Nhưng có thể sau khi mình đi rồi, chị sẽ đứng dậy, đi lấy kéo và ra vườn cắt hoa vào cắm. Trong lúc cắt hoa, chị có cơ hội ngắm từng nụ hoa cành lá và chất liệu xinh đẹp, tươi mát của hoa sẽ làm cho chị tươi vui ra và niềm vui trong chị được khôi phục trở lại. Sau khi cắt hoa xong, chị đem vào nhà, bỏ ra nửa giờ để cắm những bình hoa thật đẹp. Trong thời gian cắm hoa, hạt giống của hạnh phúc trong lòng chị được tưới tẩm. Cắm hoa cho những người thương của mình là niềm vui rất lớn của chị mà bấy lâu nay bị lấp vùi. Lúc đầu quý vị tưới tẩm hạt giống của niềm vui và hạnh phúc nơi chị, sau đó chị tiếp tục tự tưới hoa cho mình bằng cách cắm hoa. Khi gặp lại chị, ta sẽ thấy chị đã thay đổi. Chị đã có thể mỉm cười và đó là nhờ sự giúp đỡ của ta. Nếu thương người nào, ta nên thực tập tưới hoa nơi người ấy mỗi ngày. Đây là phép thực tập rất dễ làm. Ta nhìn sâu (quán chiếu) vào người thương của ta và nhận diện cho được những hạt giống tốt, tích cực nơi người ấy và tìm cách khéo léo để giúp người ấy thấy và làm cho chúng phát triển, bởi vì trong chúng ta đều sẵn có những hạt giống tốt. Pháp môn tưới hoa phải được thực tập hết lòng, chân thành và phải được căn cứ trên sự thật. Mình không nên tưới hoa một cách máy móc, sống sượng và có tính cách xả giao. Muốn thực tập pháp môn tưới hoa thành công, chúng ta phải thiết lập năng lực Niệm, Định và Tuệ vững vàng. Chúng ta chỉ có thể nói những điều mà chúng ta tin là có thực. Khi thấy người kia có những tài năng, những đức tính tốt, những hạt giống dễ thương nào, thì quý vị công nhận và tưới tẩm: ”Thưa ba, thưa mẹ, thưa anh, thưa chị… con thấy ba, mẹ, anh, chị… có những hạt giống rất đẹp, rất dễ thương. Những hạt giống ấy nếu được phát triển sẽ đem lại nhiều hạnh phúc cho cả gia đình và cho rất nhiều người.” Rồi mình liệt kê ra những cái hay cái đẹp ấy. Nếu không thực tập, người kia sẽ không biết rằng trong mình có những hạt giống tốt đẹp như vậy. Chúng ta có thể giúp cho người thân của mình biết cách tiếp xúc và tự tưới tẩm những hạt giống tốt trong họ. Chúng ta nhận diện hạt giống nơi người kia và nói cho người kia biết rằng những hạt giống ấy rất quý giá và cần được phát triển thường xuyên để tự nuôi dưỡng mình và những người mình thương. Khi người kia hạnh phúc thì mình cũng được hạnh phúc.
Tôi nhớ vào ngày lễ Phật Đản tại Xóm Hạ, Làng Mai, chúng tôi đã mời nhiều gia đình Phật tử từ Bordeaux và Toulouse tới tham dự. Trong bài thuyết giảng ngày hôm đó, khi chia sẻ về phương pháp tưới tẩm hạt giống tốt cho nhau, tôi thấy có một bà khóc sướt mướt. Tôi biết bà ấy và gia đình của bà. Vì vậy, sau khi đi thiền về, tôi đã tới với ông chồng của bà ấy và nói với ông ta rằng: ”Này ông, đóa hoa của ông đang bị héo đấy. Đóa hoa của ông đang cần được chăm sóc, được tưới tẩm.” Ông ta nghe lời khuyên của tôi và trên đường lái xe về Bordeaux, mất khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ- ông ta đã thực tập tưới hoa cho vợ ông. Khi về tới gần nhà, bà vợ đã nở tươi như một bông hoa, niềm vui và hạnh phúc hoàn toàn được phục hồi. Sự thật là ông ta đã biết pháp môn tu tập, nắm vững pháp môn tưới hoa, nhưng bấy lâu nay ông đã quên không thực tập hoặc mắc cỡ không chịu thực tập. Tới tu viện, ông ta được nhắc nhở và đã thực tập trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ và tình trạng được thay đổi. Thật may cho ông đã tới tu viện vào ngày hôm đó.
Pháp môn tưới hoa rất dễ thực tập; ta chỉ cần một chút thành tâm thôi thì kết quả không thể nghĩ lường được. Biết rằng ta chịu trách nhiệm về hạnh phúc và khổ đau của người thương của ta. Người đó có thể là cha ta, mẹ ta, con ta hoặc là anh, chị hay em của ta. Biết rằng hạnh phúc không phải là vấn đề cá nhân. Nếu người thương của ta khô héo, không tươi vui, không hạnh phúc, thì ta cũng không thể hạnh phúc được. Ngược lại ta bị khô héo theo. Vì vậy ta cần phải thực tập để đem lại nụ cười trên khuôn mặt người thương của ta. Điều này ta có thể làm được. Ta đã sống với người ấy (những người ấy) nhiều năm và ta biết những yếu kém, tài năng và những hạt giống tốt nơi người ấy. Ta không nên ngần ngại hoặc hà tiện, nhất là không nên mắc cỡ. Nếu một lời nói của ta có thể đem lại niềm vui, hạnh phúc và sự tươi mát nơi người kia, thì tại sao ta không nói; ta ngần ngại gì nữa. Thương nghĩa là giúp nhau tiếp xúc và tưới tẩm những hạt giống tốt, tránh tưới tẩm những hạt giống tiêu cực cho nhau. Sự vững chãi, thảnh thơi và hạnh phúc của ta đóng vai trò rất thiết yếu cho sự vững chãi, thảnh thơi và hạnh phúc của những người chung quanh. Thỉnh thoảng người thương của ta bị rơi vào trạng thái trầm cảm, buồn phiền, bị cuốn hút vào sự lo lắng, sầu khổ và họ để cho những năng lượng tiêu cực ấy trấn ngự tâm tư. Trong trường hợp như vậy, ta không thể thờ ơ; ta phải giúp họ thoát ra khỏi ngục tù khổ đau và tuyệt vọng của họ. Ta có thể nói như thế này: ”Anh có sao không? Anh đang làm gì đó? Anh đang nghĩ gì vậy? Có phải anh đang tự tưới tẩm những hạt giống tiêu cực nơi anh không? Làm như thế anh sẽ khổ và em cũng sẽ khổ theo. Anh không nên làm như thế. Em có thể giúp gì được cho anh không?” Đôi khi ta không cần hỏi gì cả; ta chỉ cần vài lời dễ thương, ngọt ngào và khích lệ (tưới hoa) là đã có thể giúp người ấy thoát ra khỏi tình huống sầu khổ của người ấy. Nếu ta chăm sóc người thương của ta đàng hoàng, thì người thương của ta sẽ chăm sóc lại ta đàng hoàng. Nếu có lúc nào đó ta bị chìm vào tâm trạng lo âu, sầu khổ và tuyệt vọng, thì người thương của ta sẽ có mặt đó để giúp ta thoát ra khỏi tâm trạng ấy. Thương nghĩa là yểm trợ, nâng đỡ nhau và giúp nhau vượt qua những khó khăn, khổ đau và chúng ta cần vun trồng chất liệu thương yêu mỗi ngày.
Các nhà tâm lý trị liệu nên nắm vững pháp môn tưới hoa mới có khả năng giúp cho các bệnh nhân của mình phục hồi lại được sự thăng bằng về tâm lý. Có như vậy thì sau những giờ trị liệu, các bệnh nhân mới có thể về nhà và tiếp tục sự thực tập với những thành phần khác trong gia đình của họ. Nhưng muốn thành công, các nhà tâm lý trị liệu trước hết phải đem áp dụng pháp môn tưới hoa vào đời sống hàng ngày của chính mình thì mới có thể thực sự giúp được bệnh nhân. Nhà tâm lý trị liệu cũng có thể thực tập trở thành vị giáo thọ – nghĩa là người ấy có khả năng sống và chia sẻ pháp môn tu tập chánh niệm trong lĩnh vực trị liệu của mình.
Tiếp Xúc Và Chuyển Hóa Quá Khứ
Có một anh thanh niên người Mỹ tên là Richard đến Làng Mai tu học, . Một hôm, anh ta được khuyến khích làm một bài tập quán chiếu về mẹ và viết xuống giấy tất cả những đức tính tốt của mẹ mình. Các vị khác trong tăng thân cũng được khuyến khích làm như vậy. Ban đầu, Richard không thể tin rằng mình có thể viết được ba hàng kể về những đức tính tốt của mẹ mình. Anh ta nói: ”Viết về những đức tính tốt của bố thì có nhiều lắm, nhưng về mẹ thì không có gì tốt đẹp để viết cả.” Thế nhưng, sau vài ngày thực tập với các bạn khác, mầu nhiệm thay anh ta đã khám phá ra rằng một trang giấy không đủ để kể hết những cái hay cái tốt về mẹ mình.
Tôi nghĩ có một thời gian nào đó trong quá khứ mẹ của Richard đã làm Richard đau khổ, nỗi khổ ấy ngăn cản anh ta khiến anh ta phủ nhận tất cả những đức tính tốt của mẹ mình. Chúng ta hãy quán tưởng lại về hình ảnh của một thân cây đang chết. Khi thấy có một thân cây trong khu vườn đang chết và ta cho rằng tất cả các cây khác trong khu vườn đều như vậy. Nghĩ như vậy là không đúng. Ta thường bị kẹt vào những nhận thức, tri giác của ta và cho đó là đúng. Thái độ đó là thái độ thiếu cái nhìn rộng mở, thiếu tuệ giác. Ta phải tập nhìn với con mắt khách quan mới có thể tiếp xúc được với nhiều khía cạnh khác của thực tại. Không nên để cho cái nhìn hạn hẹp của ta ngăn cản ta, không cho ta thấy được cái toàn diện của thực tại. Với sự nâng đỡ của Tăng thân, anh Richard đã hoàn thành được bài tập của anh. Sau đó anh đã viết cho mẹ một bức thư rất ngọt ngào, đầy tính chất trị liệu. Trong thư, anh đã bày tỏ sự biết ơn và niềm hãnh diện có được một người mẹ tuyệt vời như thế. Vợ của Richard đã chia sẻ với anh rằng sau khi mẹ nhận được bức thư của anh viết cho mẹ, mẹ vô cùng cảm động và hạnh phúc. Trước kia Richard không bao giờ nói chuyện được với mẹ mình bằng những lời lẽ ngọt ngào, dễ thương như thế. Sau khi đọc xong bức thư, mẹ của anh đã khám phá ra một người con trai mới tinh được sinh ra từ giáo Pháp, một người con trai có đầy chất liệu hiểu biết và thương yêu. Richard đã tìm lại được một người mẹ mới tinh khôi. Người mẹ tinh khôi ấy đã được tái sinh trở lại từ sự nhìn sâu của đứa con trai. Khi thực tập nhìn sâu, Richard khám phá ra được một người mẹ chân thực của anh; anh vô cùng hạnh phúc. Mẹ của anh ta đã khóc rất nhiều sau khi đọc bức thư của Richard. Bà nói với con dâu của bà rằng bà mong mẹ của bà còn sống để bà có thể viết cho mẹ bà một bức thư tương tợ như bức thư mà Richard đã viết cho bà. Trong thời gian đó Richard đang còn tu tập tại tu viện Làng Mai. Khi Richard nghe vợ của mình chia sẻ tâm trạng của mẹ như thế, anh ta liền viết một bức thư khác cho mẹ. Anh ta nói: ”Mẹ thương kính, theo tuệ giác của đạo Bụt mà con đã tiếp nhận và thực tập, con đã quán chiếu và thấy bà ngoại của con chưa bao giờ từng chết. Bà ngoại của con vẫn còn sống, vẫn còn có mặt đó trong mẹ và trong con. Con là sự tiếp nối của bà ngoại và của mẹ. Con nghĩ bây giờ mẹ vẫn có thể viết thư cho bà ngoại của con, chưa trễ đâu mẹ ạ. Chắc chắn bà ngoại sẽ nhận được thư của mẹ và sẽ nhận được liền ngay trong giây phút mẹ viết. Điều mầu nhiệm là mẹ không cần gửi đi bằng bưu điện hay bằng bất cứ một đường dây tối tân nào, bởi vì bà ngoại đang có mặt trong mẹ. Vì vậy khi mẹ cảm thấy dễ chịu, trị liệu và chuyển hóa thì bà ngoại cũng cảm thấy dễ chịu, trị liệu và chuyển hóa.” Đây là tuệ giác mà Richard đã đạt được nhờ thực tập giáo pháp Không sinh không diệt, Tương tức và Vô ngã của đạo Bụt.
Tất cả chúng ta đều nên thực tập để đạt cho được cái thấy Vô ngã và Tương tức trong từng giây từng phút của đời sống hàng ngày. Phải nhìn sâu để thấy rằng tất cả các thế hệ ông bà tổ tiên đều đang có mặt trong mình. Họ vẫn còn sống trong mình ngay trong giây phút hiện tại. Mình là sự tiếp nối của họ. Mỗi khi mình mỉm cười thì tất cả thế hệ tổ tiên, con cháu và các thế hệ tương lai trong mình mỉm cười theo. Mình không chỉ thực tập cho riêng mình, mà cho tất cả mọi người; và dòng sinh mệnh của mình vẫn tiếp tục tuôn chảy không bao giờ đứt đoạn.
Nghe lời khuyên của đứa con trai, bà đã viết một bức thư hòa giải và trị liệu cho mẹ của bà. Trong lúc quán chiếu và viết một bức thư như thế, bà đã khóc với những giọt nước mắt hạnh phúc. Trong quá khứ, lúc mẹ của bà còn sống, bà chưa biết nghệ thuật sống chánh niệm, chưa biết nghệ thuật tưới hoa. Hai mẹ con đã gây ra nhiều lầm lỗi và đã tạo nhiều khổ đau cho nhau. Sau này nghĩ lại bà cảm thấy hối hận và niềm hối hận ấy đã trở thành chướng ngại cho đời sống hạnh phúc của bà và đã ảnh hưởng lên con cái của bà. Bức thư bà viết cho mẹ đã lấy đi được cái chướng ngại trong lòng của bà, đã tẩy sạch được dấu vết của sự hối hận mà bà đã mang nặng trong lòng suốt bao nhiêu năm qua.
Nếu trong quá khứ quý vị đã gây ra nhiều lầm lỗi, đã tạo nhiều khổ đau với những người thương của mình và nếu người đó không còn nữa, quý vị chớ nên thất vọng; quý vị vẫn có thể chữa lành được vết thương trong lòng. Theo lời Bụt dạy, người thân mà quý vị nghĩ đã qua đời thật ra vẫn luôn luôn còn sống trong từng tế bào của quý vị. Quý vị có thể làm cho người ấy mỉm cười bất cứ lúc nào quý vị muốn. Giả sử trong thời gian bà nội của quý vị còn sống, vì không có chánh niệm, quý vị đã nói hoặc làm những điều gây tổn thương, khổ đau cho bà nội và tới bây giờ quý vị vẫn mang niềm hối hận trong lòng. Tôi khuyên quý vị nên ngồi thiền, đi thiền, thở vào và thở ra trong chánh niệm, đem thân và tâm trở về một mối và quán tưởng để thấy rằng bà nội của mình đang ngồi với mình và nói với bà nội rằng: ”Bà nội ơi, cháu xin lỗi bà. Cháu hứa là từ nay về sau cháu sẽ không bao giờ nói hoặc làm những điều dại dột như thế nữa đối với bà hoặc đối với bất cứ ai mà cháu nguyện thương yêu và chăm sóc.” Nếu quý vị thành tâm và thốt lên những lời như thế trong chánh niệm, thì sẽ thấy bà nội trong quý vị mỉm cười với nụ cười tha thứ, bao dung và vết thương trong lòng quý vị sẽ được chữa trị. Bao nhiêu lầm lỗi đều do sự thất niệm và thiếu khéo léo gây ra. Bao nhiều lầm lỗi đều do tâm, đều biểu hiện từ tâm. Nhưng tất cả cũng từ tâm mà được trị liệu và chuyển hóa. Đó là lời dạy của đức Thế tôn.
Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm
Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong.
Mặc dù mình biết rằng quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới, nhưng nếu nhìn cho kỹ, mình sẽ thấy thực tại vượt thoát cả hai ý niệm quá khứ và tương lai; thực tại bao la, mầu nhiệm hơn mình tưởng. Quá khứ có mặt trong hiện tại, bởi vì hiện tại được làm bằng quá khứ. Theo lời Bụt dạy, nếu thiết lập thân tâm vững chãi trong hiện tại, tiếp xúc sâu sắc từng giây phút của đời sống hàng ngày, thì mình đồng thời tiếp xúc được sâu sắc với quá khứ và có đủ sức mạnh để chuyển đổi quá khứ. Đó là giáo pháp rất sâu sắc và mầu nhiệm của đức Thế Tôn. Mình không cần phải gánh chịu những niềm đau nỗi khổ của mình suốt đời. Trong quá khứ, vì thiếu chánh niệm mình đã từng gây ra lầm lỗi, đã tạo khổ đau cho mình và cho người mình thương, nhưng điều đó không có nghĩa là mình phải suốt đời gánh chịu những lầm lỗi ấy, những lầm lỗi ấy không phải là không thể chữa trị và chuyển hóa. Bụt có dạy: Nếu tiếp xúc sâu sắc với hiện tại thì đồng thời mình tiếp xúc được với quá khứ. Chăm sóc hiện tại cho hay là mình có thể chuyển đổi quá khứ. Chữ Sám Hối được dịch là Làm Mới, Làm Mới thân và tâm, gọi là Tâm Sám Pháp. Mỗi khi nhận biết được những lầm lỗi mình đã tạo ra trong quá khứ, mình nguyện sẽ không lập lại những lỗi lầm ấy nữa. Ngay từ giây phút đó vết thương của mình tự nhiên được chữa trị. Thật là mầu nhiệm.
Có một cựu chiến binh người Mỹ chia sẻ với tôi rằng trong cuộc chiến tranh Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều người bạn lính của ông bị giết trong một trận bị phục kích. Ông vô cùng căm hận. Vì lòng căm hận tột độ ấy, ông muốn giết một số người trong khu làng nơi mà cuộc phục kích đã xảy ra để trả thù cho những người anh em đồng đội của mình. Ông đã tẩm thuốc nổ vào trong những lát bánh mì sandwich, rồi đặt chúng ở cổng đầu làng và núp ở một nơi gần đấy để chứng kiến cảnh đau đớn của những ai ăn phải những lát bánh mì tẩm thuốc nổ ấy cho hả giận. Có năm đứa trẻ em chạy chơi gần đấy thấy bánh mì thơm ngon, chúng mừng rỡ cầm lấy rồi chia nhau ăn. Sau khi ăn vào, chúng bắt đầu thấy quặn đau, khóc lóc và kêu gào thảm thiết. Dân làng chạy đến và khám phá ra rằng bọn trẻ đã bị ngộ độc. Cha mẹ chúng đã hốt hoảng chạy Đông chạy Tây tìm xe để đưa con mình vào bệnh viên cấp cứu, nhưng bệnh viện gần nhất lại quá xa. Là một chiến binh, ông ta đã biết trước rằng không có hy vọng gì để cứu chữa kịp thời những đứa trẻ này, chúng sẽ chết trong vòng mười mấy phút đồng hồ. Trong cơn căm hận, ông đã giết chết năm đứa trẻ vô tội của ngôi làng ấy.
Sau khi được giải ngũ trở về Mỹ, ngày nào ông ta cũng sống trong cảm giác sợ hãi và trong tâm trạng tội lỗi, lương tâm ông lúc nào cũng bị dày xéo, cắn rứt và ám ảnh. Cái cảm giác tội lỗi đã đè nặng lên trái tim ông trong suốt mười năm. Sau đó ông đã tham dự một khóa tu được tổ chức tại Santa Barbara dành cho các cựu chiến binh Mỹ của chiến tranh Việt Nam. Trong khóa tu ấy, ông được khuyến khích nói ra những khổ đau của ông, mặc dầu đó là chuyện rất khó để cởi mở đối với họ. Trước đây, ông chỉ nói điều này cho một người duy nhất nghe, đó là mẹ của ông, bà đã sống và chia sẻ nỗi khổ với con mình. Bà mẹ nói: ”Con ơi, con không nên ôm mối sầu khổ, tội lỗi hoài như vậy. Trong chiến tranh, vấn đề giết hại hoặc cố ý hay vô tình luôn luôn là vấn đề khó tránh.” Nhưng những lời khuyên như thế của người mẹ không đủ để giúp cho con bà vơi bớt khổ đau. Mỗi lần ngồi chơi với các con của ông ở phòng khách, ông luôn tưởng nhớ lại hình ảnh tàn nhẫn mà ông đã gây ra cho năm đứa trẻ Việt Nam trong quá khứ, ông ta chịu không nổi và thường phải rời bỏ phòng khách để đi ra ngoài. Hôm ấy, với sự yểm trợ hùng hậu của tăng thân trong đó có các thầy, các sư cô và một số các nhà tâm lý trị liệu khác đã tìm cách hữu hiệu để giúp trị liệu những người cựu chiến binh; cuối cùng ông ta đã mở lòng và kể hết câu chuyện bi thương ấy cho một nhóm người gồm có chín vị. Đôi khi các thầy, các sư cô và một số các vị cư sĩ phải ngồi im lặng và thở trong chánh niệm hơn cả giờ để cho ông ta tiếp tục kể hết những gì ông đã mang nặng trong lòng suốt mười năm qua. Có lúc ông chỉ biết ngồi khóc và không thể thốt lên được một lời. Sau khi nghe được sự việc ấy, tôi cho mời ông ta đến; sau khi uống trà, hỏi thăm, tôi nói với ông ta rằng: ”Thưa ông, sự thật là ông đã sát hại năm đứa trẻ vô tội trong cuộc chiến Việt Nam. Nhưng có những việc ông có thể làm để chuộc lại lỗi lầm ấy. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều đứa trẻ đang chết vì thiếu thức ăn, thiếu dinh dưỡng và thuốc men. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, mỗi ngày có khoảng bốn chục ngàn trẻ em trên thế giới chết vì đói và thiếu dinh dưỡng. Sao hôm nay ông không ra tay cứu giúp những đứa trẻ đang chết đói như thế, thay vì ngồi đó mà giam hảm mình trong cái ngục tù ký ức của khổ đau, tội lỗi về hành động sát hại năm đứa trẻ. Ông hãy thực tập làm mới trở lại, đem cuộc đời của mình để làm những điều ngược lại với những hành động thiếu hiểu biết, thiếu tình thương mà ông đã gây ra trong quá khứ. Ông nên phát nguyện tiếp thọ Năm Giới Quý Báu và kể từ giây phút này, ông hãy cố gắng hết khả năng của mình để tìm cách bảo vệ sự sống, cứu giúp những mạng sống của các em bé nghèo ở các nước chậm tiến. Hãy đi vào cuộc đời để cứu giúp những em bé bất hạnh. Vô số các em bé đang cần sự giúp đỡ, đang cần cánh tay từ bi của ông. Ông không nên ngồi đó mà tự giam hãm mình trong cái xiềng xích của tội lỗi, tuyệt vọng trong khi ông có thể sửa đổi được quá khứ.” Sau khi nghe tôi chia sẻ như thế, trái tim của ông ta đã được khai mở, được chuyển hóa và ông bắt đầu trở thành một con người mới hoàn toàn. Chúng ta tiếp nhận năng lực hùng hậu từ sự tu tập của tăng thân và từ sự quyết tâm của ta để vững đi trên con đường tu tập. Con đường ấy có khả năng tẩy sạch được những khổ đau của quá khứ và chuyển hóa lầm lỗi trong ta.
Tháo Gỡ Nội Kết
Bài tập thứ mười một của kinh Quán Niệm Hơi Thở là thu nhiếp tâm ý vào định: ”Ta đang thở vào và thu nhiếp tâm ý ta vào định. Ta đang thở ra và thu nhiếp tâm ý ta vào định.” Đây là nghệ thuật chăm sóc những tâm hành tiêu cực. Nếu ta ôm ấp chúng với niềm vui, an lạc, hạnh phúc và năng lượng chánh niệm, thì ta sẽ vun trồng thêm được nhiều hạt giống tốt, tích cực. Đó là công năng của phép quán niệm hơi thở thứ mười: Làm cho tâm ý trở nên hoan lạc. Phép quán niệm hơi thở thứ mười một là giúp ta đối trị với những năng lượng tiêu cực – danh từ chuyên môn là những tâm hành bất thiện, như niềm đau nỗi khổ, sầu nhớ, ghen tỵ, giận hờn… Trong đời sống hàng ngày, ta cố tình làm ngơ với chúng, bởi vì mỗi khi chúng biểu hiện lên trên bề mặt ý thức thì ta đau khổ, cảm thấy không thoải mái và có khuynh hướng trốn chạy, đè nén hoặc xua đuổi chúng. Ta muốn những khối đau buồn và sợ hãi này nằm yên vĩnh viễn dưới chiều sâu tâm thức cho khỏe, cho yên chuyện. Nhưng trớ trêu thay, chúng không bao giờ chịu nằm yên dưới đó như ta mong muốn; chúng luôn tìm cách trồi lên hoặc trong những giấc mơ của ta hoặc trong những lúc ta không bị xâm chiếm, bận rộn bởi những chương trình truyền hình, đọc sách báo hay chuyện trò v.v… Ta chịu trách nhiệm một phần về những khối khổ đau này bởi vì trong đời sống hàng ngày, ta đã sống như thế nào đó để cho chúng sinh khởi, hình thành. Những người cùng sống với ta và chung quanh ta đều cùng chịu trách nhiệm về những tâm hành nội kết này. Nếu ta không biết cách tháo gỡ những gút thắt này thì chúng sẽ tiếp tục làm cho ta đau khổ. Nội kết hay kiết sử tiếng Phạn là samyojana. Nội kết có khi biểu hiện rất ngọt ngào, gọi là nội kết êm ái và có khi biểu hiện rất cay đắng, mang tính kích động, gọi là nội kết không êm ái. Ví dụ như khi quý vị uống rượu hoặc sử dụng các chất ma túy, quý vị có thể bị nghiện và thói quen ấy lâu ngày trở thành nội kết. Cái tập khí nghiện ngập ma túy ăn sâu vào thân tâm quý vị và trở thành nội kết. Khi muốn thỏa mãn cơn thèm khát đó, quý vị có thể phải đi đánh cướp để có tiền mua thuốc phiện hoặc phải tham gia vào các băng đảng làm tay sai cho các bậc ‘‘đàn anh’’ để kiếm tiền… Những nội kết khó tránh như thế làm quý vị mất hết tự do, gây khổ đau cho gia đình và có khi phải bỏ mạng. Đôi khi ta không có can đảm để buông bỏ nội kết của ta và do đó chuốc lấy khổ đau dài dài. Chương trình Mười Hai Phương Pháp Cai Nghiện (Twelve- Step Programs) là một cách tháo gỡ nội kết nghiện ngập. Tình thương vướng mắc, hệ lụy cũng là một loại nội kết khác có tác dụng tước đoạt tự do và hạnh phúc của ta. Lúc đầu nó cho ta những cảm giác ngọt ngào, dễ chịu, lâng lâng như quên hết mọi sự đời vô vị… nhưng khi ta đam mê, nghiện ngập, vướng vào rồi, thì nó trở thành chướng ngại cho đời sống của ta, nó khống chế ta.
Quán chiếu sâu sắc vào thân tâm, ta nhận diện được những nội kết dù chúng đang ở trong hình thái của năng lượng hay của hạt giống. Tự do và hạnh phúc chân thật không thể có được nếu ta không biết cách tháo gỡ những nội kết trong ta. Khi người thương của ta nói hoặc làm điều gì đó không dễ thương, không có chánh niệm là ta đau khổ và ta có nội kết. Nội kết ấy ban đầu có thể chỉ là một gút nhỏ thôi, nhưng nếu ta không thực tập tháo gỡ ngay lúc đó thì sẽ có tác hại về sau. Lần sau người thương của ta lặp lại lỗi lầm y hệt như lần trước thì cục nội kết trong ta phát triển lớn mạnh hơn. Vì không có chánh niệm, chúng ta tạo ra những nội kết cho nhau; đến một lúc nào đó chúng ta không có khả năng nhìn nhau được nữa và cố tránh né nhau bằng cách này hay cách khác hoặc nhìn về một phía, phía đó là vô tuyến truyền hình hoặc lẩn trốn trong công việc v.v… Vậy muốn tháo gỡ nội kết, ta phải thực tập Làm Mới. Ta tới với người thương của ta, thở vào, thở ra cho thật chánh niệm và nói với người thương như thế này: ”Thưa chị, em không hiểu tại sao hôm nọ chị nói những điều như thế đối với em? Tại sao hôm nọ chị hành xử như thế đối với em? Em rất khổ. Xin chị giải thích cho em hiểu rõ hơn.” Nếu là người thực tập khôn khéo, nhất định ta không để cho nội kết trong ta lớn mạnh, mà tìm cách khéo léo để hóa giải nội kết càng sớm càng tốt.
Chánh niệm giúp ta nhận diện được là ta đang có nội kết hay không. Nếu là người thực tập giỏi, ta sẽ không để cho nó lộng hành một cách vô ý thức. Ta biết rằng ta phải lập tức tháo gỡ nội kết để bảo đảm cho niềm an vui và hạnh phúc lâu dài của ta. Những cặp vợ chồng trẻ mới cưới cần phải thực tập nhìn sâu mỗi ngày để kiểm chứng lại xem tình trạng liên hệ của họ có an toàn không, có đang bị sứt mẻ hay không. Ta không cần phải ngồi yên một mình mới thực tập được điều này. Ta có thể ngồi với người thương của ta và cả hai người cùng thực tập nhìn sâu. Nếu những nội kết đã trở thành quá lớn thì ta phải học cách để tháo gỡ chúng. Nhiều người không thực tập vì họ chưa được học phương pháp tháo gỡ nội kết. Ta rất sợ trở về với quê hương đích thực của ta, đó là năm uẩn của ta, tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Về đó thì phải đối đối diện với những khối khổ đau làm ta cảm thấy không dễ chịu. Vì vậy ta luôn tìm cách trốn chạy khổ đau. Làm như vậy tức là ta đang hành xử không có trách nhiệm đối với chính mình. Các nhà kinh doanh cung cấp vô số phương tiện để ta trốn chạy chính ta như chương trình truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh, trò chơi điện tử, mạng lưới độc hại, sản phẩm tiêu thụ, cờ bạc và quán rượu v.v…
Tiêu Thụ Trong Chánh Niệm
Có một chàng thanh niên tỵ nạn người Việt định cư tại nước Mỹ chia sẻ với tôi rằng anh ta có mang theo một tượng Bụt nhỏ và anh đặt tượng Bụt ấy trên ti vi ở phòng khách. Anh không lập bàn thờ được vì căn nhà quá chật hẹp. Tôi có nói với anh ta: ”Cái ti vi không phải là nơi trang nghiêm để thờ Bụt. Hai cái không thể đi đôi với nhau. Cái ti vi có công năng làm cho con người trốn chạy với chính mình, còn tượng Bụt thì giúp con người trở về với tự thân.” Bụt gọi chúng ta trở về với chính mình để chăm sóc lấy tình trạng bên trong của mình. Vùng ý thức của ta được ví như cái phòng khách và vùng tàng thức được ví như cái nhà kho nơi cất chứa các đồ đạc, nhất là những thứ ta không ưa thích. Tuy ta không thích đối diện với những khối nội kết trong ta, nhưng chúng luôn tìm cách để trồi lên, biểu hiện lên trên phòng khách (vùng ý thức) của ta. Chúng không cần có sự mời mọc, chúng tự động đẩy cửa đi vào, ngồi chễm chệ hoặc tự ý tung hoành tại phòng khách của ta. Khi phòng khách (vùng ý thức) của ta hơi bừa bãi, không được gọn gàng, ngăn nắp thì ta cảm thấy chật hẹp, khó chịu, đau khổ và khuynh hướng của ta là trốn chạy chúng hoặc đàn áp chúng, không muốn dọn dẹp lại cho sạch sẽ, ngăn nắp, ta có khuynh hướng phàn nàn, trách phạt… Ta không muốn cho những nội kết này trồi lên; ta không muốn đối diện với chúng. Ta bỏ mặc chúng hoặc tìm cách để khỏa lấp đời sống của ta bằng nếp sống tiêu khiển các thú vui trần tục như đọc sách, đọc báo, xem phim ảnh, chuyện trò v.v… Ta làm đủ mọi thứ để giữ cho phòng khách của ta trở nên chật hẹp, bận rộn hơn để những tâm hành khó chịu không có cơ hội trồi lên hoặc để khỏi phải đối đầu với chúng. Phần đông chúng ta đều hành xử như vậy. Nếu tiếp tục hành xử theo cách ấy, ta sẽ gặp nhiều điều bất lợi, sẽ không có cơ hội để chuyển hóa và vẫn luôn là nạn nhân của khổ đau.
Điều bất lợi thứ nhất là các vị ”khách” mà ta cho phép vào phòng khách thường gây nhiều thiệt hại cho lãnh thổ của ta. Ta tiêu thụ độc tố mỗi ngày. Nếu ta đưa vào tâm thức ta những độc tố khoảng một giờ đồng hồ qua sự giải trí như rượu chè, cờ bạc hoặc xem phim ảnh, vào các trang nhà độc hại v.v… thì những tâm hành nội kết trong chiều sâu tâm thức (tàng thức) ta bị tưới tẩm. Một giờ xem TV, hay phim ảnh có thể nuôi dưỡng hạt giống sợ hãi, thèm khát, tuyệt vọng và hận thù trong tâm thức ta. Ta tự làm ô nhiễm, đầu độc chính ta qua cách sống như thế mỗi ngày. Không những ta làm ô nhiễm chính ta, mà còn làm cho con em ta bị ô nhiễm. Ta cho phép con em ta mặc tình xem ti vi, phim ảnh hàng giờ trong ngày và chúng bị đầu độc bởi những độc tố của phim ảnh hoặc những trò chơi điện tử… Ta phó thác con cái của ta cho ti vi, phim ảnh và trò chơi điện tử chăm sóc. Chúng ta cần thực tập tiêu thụ chương trình truyền hình, phim ảnh… trong chánh niệm. Các bộ phim trinh thám luôn luôn có những cảnh giết chóc, ám sát; trong một tập phim trinh thám luôn luôn xảy ra ít nhất là một vụ án mạng. Nếu không như vậy thì không phải là phim trinh thám. Mỗi khi xem một tập phim trinh thám, quý vị chứng kiến ít nhất là một nhân vật bị giết và tâm thức của quý vị luôn sống trong sự hồi hộp, sợ hãi. Những nhân vật đối lập dùng súng ống hoặc dao, kiếm, cung, nỏ… để thủ tiêu những nhân vật họ không ưa thích. Những cảnh tượng đó thấm nhuần vào chiều sâu tâm thức của ta. Sau này khi va chạm với đời sống thực tế, nếu có điều gì ta không ưa thích và làm ta giận giữ, thì ta lập tức muốn loại trừ chúng giống y như những cảnh tượng trong phim. Qua phim ảnh, ta để cho con em ta bị thâm nhập và suy tư theo những khuynh hướng bạo động, hận thù, thèm khát, tuyệt vọng và triệt tiêu những gì mà chúng không ưa thích. Tôi không hiểu tại sao các cơ quan lập pháp của Mỹ không đưa ra những đạo luật để ngăn chặn những sản phẩm giải trí có tính cách phá hoại thân tâm như thế. Xã hội chúng ta hiện đang có căn bệnh dịch bắn giết nhau của lớp trẻ ở tuổi thành niên, thế mà các nhà lập pháp vẫn chưa có những đạo luật ngăn cấm sự sử dụng súng ống. Nhân danh tự do và tự vệ, ta cho phép dân chúng mua bán súng ống một cách vô tội vạ. Tại sao tới bây giờ ta vẫn chưa chịu thức tỉnh? Chánh niệm là khả năng biết được những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Những nhà truyền giáo, các bộ giáo dục, nhà báo, phóng viên, những nhà làm phim v.v… phải có bổn phận gây nên ý thức cộng đồng và giác ngộ nơi tâm thức của mọi người trong xã hội. Là một công nhân của đất nước, quý vị có bổn phận đề đạt cái thấy của mình về thực trạng của xã hội lên các dân biểu và thượng nghị sĩ của quốc hội để mọi người ý thức được sự thật ấy và đưa ra những đạo luật bảo vệ và chuyển hóa tình trạng. Chúng ta không thể để cho tình trạng như thế kéo dài mãi.
Trẻ em ở độ tuổi mười hai hoặc mười ba thời nay đã bắt đầu lâm vào tình trạng thèm khát thỏa mãn tình dục. Các cháu một phần vì sự tò mò, một phần vì muốn thỏa mãn nhu yếu tình dục nên đã tìm tới với nhau và ăn nằm với nhau không cần có cam kết thương yêu lâu dài. Các cháu chưa thật sự biết thế nào là tình yêu đích thực. Sự thèm khát tình dục của thể xác mà các cháu đang lâm vào là thứ tình yêu rỗng tuếch (empty sex). Nếu những người trẻ trở nên quen thuộc với thứ tình yêu rỗng tuếch đó, chúng sẽ mất hết sự hồn nhiên, trong sáng, đánh mất tương lai và cố nhiên là đánh mất giá trị cao đẹp của phẩm chất đạo đức con người. Chúng không còn thấy thế nào là ý nghĩa của tình yêu cao thượng. Chất liệu bạo động có mặt khắp nơi, trong các người trẻ và trong những cặp tình nhân. Chúng ta phải hành động. Chúng ta phải tự mình tỉnh thức và đánh thức mọi người quanh mình về sự thật ấy. Ta phải kêu gọi mọi người suy tư về hướng tự bảo hộ chính bản thân mình và với dân tộc mình. Ta không nên hành xử theo tinh thần cá nhân mà phải thực tập như một tăng thân, một cộng đồng, một dân tộc. Thành phố có thể thực tập như một tăng thân của thành phố, quốc gia có thể thực tập như một tăng thân của quốc gia. Điều này chúng ta có thể làm được.
Sự bất lợi thứ hai khi để cho tâm thức ta bị xâm chiếm bởi những năng lượng tiêu cực là ta tạo ra sự bế tắc cho tinh thần của ta. Tinh thần của ta phải lưu thông tốt giống như những tĩnh mạch của cơ thể. Nếu sự lưu chuyển của tĩnh mạch trong cơ thể ta bị bế tắc, suy yếu, nghèo nàn, thì triệu chứng của bệnh tật sẽ phát sinh. Nếu ta thường xuyên xoa bóp cơ thể, thì các mạch máu trong cơ thể ta sẽ lưu chuyển thông suốt. Phần đau nhức nhất trong cơ thể cần phải được chăm sóc, xoa bóp lâu hơn, bởi vì chỗ ấy tích tụ nhiều độc tố hơn. Cũng vậy, những niềm đau nỗi khổ thuộc về tâm cần được ‘xoa bóp’ để cho tâm thức ta được lưu thông tốt. Tìm sự giải trí để quên đi nỗi khổ niềm đau là ta đang làm điều ngược lại và ngăn chặn sự lưu thông của dòng lưu chuyển tâm thức. Ta không muốn cho những khối khổ đau trong chiều sâu tâm thức biểu hiện trên mặt phẳng ý thức. Khi tâm ta bị bế tắc và không lưu thông tốt thì triệu chứng của bệnh tâm thần sẽ phát sinh. Ta phải làm điều gì đó để phục hồi lại sự lưu thông tốt trong tâm thức ta. Ta phải khai thông tâm thức để cho năng lượng của niềm đau, sợ hãi, bất an, tuyệt vọng trong ta được lưu thông. Vì vậy đức Thế Tôn dạy chúng ta phải thường xuyên chế tác năng lượng chánh niệm trong đời sống hàng ngày để có đủ khả năng ôm ấp niềm đau và nỗi khổ trong ta mỗi khi chúng phát khởi.
Chuyển Hóa Những Hạt Giống Tiêu Cực
Khi những hạt giống giận hờn, bực bội hoặc bạo động biểu hiện lên trên vùng ý thức và trấn ngự vùng ý thức của ta, tức là ta sẳn sàng tiếp xúc với chúng. Sở dĩ ta có đủ can đảm làm như vậy là vì ta biết mời gọi những hạt giống chánh niệm, hiểu biết, giác ngộ và niềm vui trong ta có mặt cùng lúc. Ta mời những năng lượng lành này lên để giúp ta chăm sóc niềm đau. Vì vậy ta phải liên tục chế tác năng lượng chánh niệm trong đời sống hàng ngày để có đủ sức đối phó với những năng lượng có tính cách tàn phá trong tâm thức ta. Nếu năng lượng chánh niệm trong ta chưa đủ mạnh để ôm ấp năng lượng tiêu cực, ta có thể nhờ một người bạn tu tập vững chãi hơn ngồi bên cạnh yểm trợ để ta có đủ sức ôm ấp niềm đau nỗi khổ ấy. Ta cầm tay hoặc ngồi bên cạnh bạn mình, con trai mình, con gái mình, người bạn đời của mình, cùng thở với người đó để chế tác năng lượng chánh niệm. Nếu thực tập giỏi, ta có thể giúp người thân của ta thực tập ôm ấp nỗi đau và niềm tuyệt vọng của họ. Trong suốt quá trình nhận diện và ôm ấp, năng lượng chánh niệm sẽ thấm nhuần vào năng lượng tiêu cực, ôm lấy năng lượng tiêu cực như bà mẹ ôm ấp và nâng niu đứa con thơ của mình. Đây là phép thực tập hết sức mầu nhiệm. Ta chăm sóc khổ đau của ta và giúp người thương biết cách chăm sóc khổ đau của họ. Phép thực tập này phải được thực tập thường xuyên trong phạm vi gia đình. Đó đích thực là thiền. Thiền không phải chỉ thực tập trong phạm vi thiền đường, chánh điện. Bất cứ lúc nào, ở đâu ta cũng thực tập thiền, nghĩa là lúc nào ta cũng an trú trong chánh niệm.
Chánh niệm được ví như ánh sáng mặt trời. Vào lúc sáng sớm, hoa uất kim hương (tulip) vẫn còn úp lại. Khi mặt trời lên, ánh sáng mặt trời được làm bằng những hạt nhỏ gọi là quang tử (photon) chiếu vào nụ hoa, bao trùm lấy nụ hoa và những tia quang tử thâm nhập vào nụ hoa. Nếu ánh sáng mặt trời liên tục chiếu vào nụ hoa thì nụ hoa sẽ từ từ bung ra. Cũng vậy, ta hãy để cho năng lượng chánh niệm ôm lấy cơn giận của ta với tất cả sự ưu ái, như người mẹ ôm lấy đứa con thơ của mình vào lòng khi nó bị ốm đau. Ta có thể nói với cơn giận trong ta: ”Giận ơi, chào em. Chị có mặt cho em đây nè. Chị sẽ chăm sóc em. Đừng lo.” Đây là câu thần chú thứ nhất. Khi ta tiếp tục ôm ấp cơn giận, cơn cảm xúc của ta bằng năng lượng chánh niệm và tình thương yêu, thì năng lượng chánh niệm bắt đầu thâm nhập vào khối phiền não của ta. Như người mẹ khi nghe tiếng con mình kêu khóc thì lập tức ngưng hết mọi việc, đi tới ẵm đứa con vào lòng và nâng niu đứa con với tất cả sự yêu thương của mình; người mẹ chưa cần tìm hiểu lý do tại sao con mình khóc. Người mẹ sẽ nói: ‘‘Con ơi! Mẹ đây con. Tội nghiệp con tôi. Thôi nín đi con. Ầu ơ.’’ Được mẹ ẵm trong tay, đứa bé liền cảm nhận tình thương yêu dịu hiền của mẹ và tự nhiên nó cảm thấy dễ chịu và thôi khóc.
Khi ta chế tác ra năng lượng chánh niệm và ôm lấy cơn giận của ta, mặc dầu cơn giận vẫn còn đó, nhưng ta đã cảm thấy dễ chịu phần nào rồi. Nguồn năng lượng thứ hai tức là chánh niệm đã bắt đầu đi tới và bao trùm lấy nguồn năng lượng thứ nhất là cơn giận. Nếu người mẹ tiếp tục ốm ấp đứa con thơ của mình lâu hơn, bà sẽ khám phá ra nguyên do tại sao con mình khóc. Bà mẹ rất khéo và am tường về việc này. Bằng kinh nghiệm, bà mẹ có thể giải quyết tình trạng một cách mau chóng và dễ dàng. Nếu đứa bé đói bụng, bà mẹ cho nó uống sữa; nếu đứa bé bị sốt, bà mẹ cho uống thuốc aspirin pha đường; nếu cái tả của nó chặt quá, bà mẹ sẽ nới lỏng ra. An lạc và hạnh phúc là những kết quả được phát sinh từ sự hiểu biết, thương yêu và sự khéo chăm sóc của ta.
Trong khi ôm ấp khối khổ đau thì ta đã bắt đầu cảm thấy vơi nhẹ rồi. Và với sự thực tập nhìn sâu, ta sẽ thấy được bản chất của cơn giận và phiền não trong ta. Cái thấy ấy có công năng cởi trói và giúp ta thoát khỏi gông cùm của khổ đau. Có thể sự chuyển hóa chưa đạt được một trăm phần trăm, nhưng cũng đã thành công tới một mức độ nào đó rồi. Sau một thời gian ôm ấp đứa bé khổ đau trong ta, tâm ta sẽ được nhẹ nhõm phần nào và nỗi khổ niềm đau ấy sẽ lui lại hậu trường và ẩn tàng dưới hình thức của hạt giống trong chiều sâu tâm thức. Khi điều kiện thuận lợi, nó sẽ biểu hiện trở lại. Và mỗi khi biểu hiện trở lại, ta cũng thực tập giống như lần trước. Mỗi lần ta tiếp xử với niềm đau nỗi khổ của ta như thế, thì chúng sẽ yếu và nhỏ dần, nhỏ dần và sẽ trở về với căn cứ địa của chúng. Thực tập như thế lâu ngày, chúng sẽ được chuyển hóa hoàn toàn thành chất liệu của hiểu biết, thương yêu và tự do. Tuy nhiên muốn làm được điều này, ta phải chế tác năng lượng chánh niệm thật hùng hậu. Từ đó niềm tin nơi sự thực tập của ta càng ngày càng vững bền, vì biết rằng ta có khả năng ôm ấp và chăm sóc niềm đau nỗi khổ của ta mỗi khi chúng phát khởi.
Năm Điều Tâm Niệm
Chúng ta có rất nhiều cách để đối diện với sự sợ hãi trong ta. Năm điều tâm niệm là những điều giúp ta thực tập nhận diện, nhìn sâu và chuyển hóa tâm hành sợ hãi và đạt tới trạng thái vô úy.
. Điều tâm niệm thứ nhất: ‘
‘Tôi thế nào cũng phải già. Tôi không thể nào tránh thoát được sự già nua.” Ta thở cho thật chánh niệm và thầm niệm: ”Thở vào, tôi biết tôi thế nào cũng phải già. Thở ra, tôi biết tôi không thể nào tránh thoát được sự già nua.” Ta rất sợ già. Ta nói rằng: ”Già hả! Già là để giành cho người khác. Còn tôi, tôi không thể già được, tôi còn trẻ và sẽ trẻ mãi. Tôi không muốn nghĩ về nó.” Ấy vậy mà sự sợ hãi vẫn luôn luôn rình rập trong ta, trấn ngự ta, làm cho ta ăn ngủ không yên. Và ta giành nhiều thì giờ, tiền của để làm đẹp, để bôi son, đánh phấn, chải chuốt… làm đủ cách để phủ lấp cái già của ta.
. Điều tâm niệm thứ hai:
”Thở vào, tôi thế nào cũng phải chết. Thở ra, tôi biết tôi không thể nào tránh thoát được cái chết.”
. Điều tâm niệm thứ ba:
”Thở vào, tôi thế nào cũng bệnh. Thở ra, tôi không thể nào tránh thoát được cái bệnh.”
. Điều tâm niệm thứ tư:
”Thở vào, tôi biết những gì tôi trân quý hôm nay trong đó có những người tôi thương, một ngày kia tôi sẽ phải xa lìa. Thở ra, tôi biết tôi không thể mang bất cứ cái gì theo mình khi ra đi. Tôi đã đến bằng hai bàn tay không và tôi sẽ ra đi bằng hay bàn tay trắng.”
. Điều tâm niệm thứ năm:
”Thở vào, tôi biết tôi là người thừa kế tất cả những hành động mà tôi đã tạo ra trong những kiếp quá khứ và hiện tại. Thở ra, khi lìa bỏ thân này, tôi chỉ mang theo với tôi kết quả của những hành động mà tôi đã tạo ra.”
Nghiệp nghĩa là Hành động, tiếng Phạn là Karma. Ta đã gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Đó gọi là nghiệp nhân dẫn đến nghiệp quả. Khi ra đi, cái duy nhất ta sẽ mang theo là hoa trái của tất cả những hành động mà ta đã tạo tác trong đời sống hành ngày.
Già, bệnh, chết, xa lìa người thương và những điều ta đang trân quý hôm nay là năm điều luôn âm thầm chi phối ta. Khi chết ta không thể mang theo bất cứ cái gì ngoại trừ hoa trái của tất cả những hành động (nghiệp lực) của chính mình. Đó là những sự thật hiển nhiên và khó đối diện. Trên bình diện lý trí, ta có thể hiểu rất rạch ròi về những sự thật ấy, nhưng trên bình diện cảm xúc, ta luôn có khuynh hướng trốn chạy, không muốn nhớ nghĩ về chúng. Hạt giống sợ hãi luôn nằm đó trong chiều sâu tâm thức ta, gọi là Căn bản thức hay Tàng thức hoặc Nhất thiết chủng thức. Bụt dạy chúng ta phải thường xuyên nhớ nghĩ tới những sự thật ấy và cho phép những hạt giống sợ hãi ấy biểu hiện. Bụt dạy các thầy và các sư cô mỗi buổi sáng thức dậy, hãy thở vào, thở ra và nhớ nghĩ tới năm điều tâm niệm, thực tập đối diện với sự sợ hãi trong ta. Cho dù sự sợ hãi không trồi lên, nhưng ta cũng mời chúng lên để nhận diện, làm quen và quán chiếu vào bản chất của chúng để chuyển hóa. Ta thầm niệm: ”Tôi thế nào cũng phải chết. Tôi không thể nào tránh thoát được cái chết. Sợ hãi ơi! chào em. Tôi biết em có đó.” Sau khi hạt giống sợ hãi được mời lên trên vùng ý thức, được nhận diện, chăm sóc rồi để cho nó trở về nơi y cứ của nó. Đây là sự thực tập lưu thông rất tốt cho tâm thức. Trong thời gian đó, niềm sợ hãi của ta được tắm trong dòng sông chánh niệm. Ta tạo dựng hồ bơi của chánh niệm để cho những tâm hành nội kết trong ta được bơi lội thỏa thích. Ta ôm ấp những tâm hành phiền não vài ba phút; mỗi lần mời gọi chúng lên và ôm ấp như thế, chúng sẽ yếu dần và sau đó chúng sẻ trở về ngủ yên dưới chiều sâu của tàng thức hoặc sẽ được chuyển hóa hoàn toàn ngay ở tàng thức. Đó gọi là chuyển y (transformation at the base).
Nếu mỗi ngày ta thực tập như vậy thì sự sợ hãi trong ta sẽ suy giảm từ từ. Đây là phương pháp trị liệu của Bụt – trị liệu tận gốc, chuyển hóa tận gốc. Phép thực tập này không phải chỉ để đối trị với sự sợ hãi trong ta, mà nó có thể đối trị với tất cả các loại phiền não căn bản khác đang nằm trong chiều sâu tâm thức. Khi Tâm thức ta vận hành theo chiều hướng tốt, có sự lưu thông, thì những triệu chứng tâm thần sẽ tan biến rất mau chóng hoặc không có cơ hội phát triển.
Tôi xin nói thêm về tâm hành giận. Một số các nhà tâm lý trị liệu hướng dẫn các bệnh nhân của họ như thế này: ”Quý vị phải tiếp xúc với cơn giận của mình, nhận diện sự có mặt của nó, rồi xua đuổi nó ra khỏi lãnh thổ của thân tâm mình.” Các đương sự đó trong khi giận, họ có thể đóng cửa phòng lại và thực tập trút bỏ cơn giận bằng cách giộng vào cái gối hay vào bức tường v.v… để cho hả giận. Đó là phương pháp trút bỏ cơn giận theo phương cách trị liệu của ngành tâm lý trị liệu Tây phương. Cách đối trị đó, tôi nghĩ một mặt nó cũng có phần lợi ích. Cái lợi là vì các nhà tâm lý trị liệu khuyến khích các bệnh nhân của họ tiếp xúc và thực tập nhận diện cơn giận; nhưng mặt khác lại nguy hiểm vì nó có tính cách dồn nén cơn giận, tập dợt cơn giận. Theo phương pháp của Bụt, các bệnh nhân không nên dồn nén, ức chế cơn giận. Điều quan trọng là thực tập tiếp xúc và nhận diện cơn giận của ta với năng lượng chánh niệm. Tôi thấy phương pháp ‘trút bỏ cơn giận’ của ngành tâm lý trị liệu Tây phương có điều gì đó không ổn. Một số nhà tâm lý trị liệu khuyên bệnh nhân của họ trút bỏ cơn giận bằng cách biểu lộ ra. Theo tôi, biểu lộ cơn giận không phải là giải pháp an toàn. Một số nhà tâm lý trị liệu khuyên bệnh nhân của họ mỗi khi có sự bực tức nên đi vào phòng của mình, khóa cửa lại và đánh vào cái gối ngủ cho hả giận. Họ bảo với bệnh nhân rằng: ”Hãy lấy một cái gối thật lớn, chắc và dùng hết toàn lực của mình để giộng vào nó.” Đó gọi là phương pháp trút bỏ cơn giận. Cố nhiên quý vị sẽ cảm thấy hả giận một chút sau nửa giờ đánh vào cái gối, vì sau khi làm như vậy quý vị hết năng lượng, kiệt sức. Rồi vì mệt quá, quý vị nằm đó co ro như con tôm và ngủ quên. Vài giờ sau thức dậy thấy đói bụng, quý vị đi kiếm thức ăn, ăn xong rồi cảm thấy bình thường trở lại. Nếu có một người nào đó bất chợt tưới đúng vào hạt giống giận của quý vị, quý vị sẽ giận giữ giống hệt như trước hoặc có thể giận hơn trước gấp mấy lần. Kỳ thực trong khi thực tập phương pháp trút bỏ cơn giận bằng cách đánh vào cái gối ngủ, quý vị đang tập dợt, tưới tẩm cơn giận và làm cho hạt giống giận trong tâm thức của quý vị lớn mạnh thêm. Phương cách này theo tôi không an toàn, không lành mạnh lắm.
Tôi thấy phương pháp trút bỏ cơn giận như thế không giúp ích nhiều để chuyển hóa tận gốc cơn giận. Một số các nhà tâm lý trị liệu, sau khi khuyên bệnh nhân của họ thực tập theo phương pháp đó, đã nói với tôi rằng họ nhận thấy phương pháp này thật nguy hiểm. Trút bỏ cơn giận bằng cách đánh vào cái gối có thể trở thành thói quen của bệnh nhân. Nếu trong khi giận dữ mà gặp một người trên đường phố thì họ có thể trút cơn giận vào người kia một cách vô cớ; và như vậy thì rất nguy hiểm. Họ có thể bị bắt vào khám chỉ vì thói quen trút bỏ cơn giận của họ. Trong trường hợp này, đối tượng của sự trút bỏ cơn giận không phải là cái gối như họ thường làm ở tại phòng ngủ, mà chính là một người lạ trên đường phố. Tôi thấy phương pháp trút bỏ cơn giận bằng cách đánh vào chiếc gối ngủ hoặc bằng phương tiện bạo động khác không thật sự là phương pháp tiếp xúc với cơn giận. Quý vị chỉ dùng năng lượng giận để tiếp xúc với giận mà thôi. Vậy quý vị phải sử dụng loại năng lượng nào để tiếp xúc với cơn giận mỗi khi nó phát khởi? Theo tôi, đó là năng lượng chánh niệm. Nếu không có chánh niệm, làm sao quý vị có thể tiếp xúc với cơn giận của quý vị? Quý vị chỉ để cho cơn giận lấn áp và khống chế mà thôi; đó không phải là sự thực tập nhận diện và tiếp xúc đích thực. Đừng nói chi tới cơn giận, cả cái gối quý vị cũng không tiếp xúc được. Bởi vì nếu quý vị thật sự tiếp xúc với cái gối, thì biết rằng nó chỉ là một cái gối và quý vị sẽ không dại đến nỗi phải đánh vào cái gối một cách mạnh bạo như vậy. Vì vậy phương pháp an toàn và hữu hiệu nhất là chúng ta thực tập trở về với hơi thở chánh niệm để ôm ấp, nhận diện sự có mặt của cơn giận trong mình và gọi đúng tên của nó, rồi sau đó nhìn sâu vào bản chất của nó để hiểu.
Bụt dạy rằng trong khi giận, mình không nên nói hoặc làm bất cứ điều gì, vì nếu nói hoặc làm điều gì trong lúc đó sẽ rất nguy hiểm. Khi giận, ta lập tức trở về với hơi thở chánh niệm để chăm sóc cơn giận trong ta. Khi giận, ta thường có khuynh hướng để ý tới những điều mà người kia đã nói hoặc đã làm, ta không chú ý gì tới cảm xúc của ta cả. Càng chú ý tới người kia ta càng giận. Vì vậy tốt nhất là đừng chú ý tới những gì người kia đã nói hoặc đã làm, mà nên trở về chăm sóc lấy cơn giận của ta. Khi căn nhà của ta đang bốc cháy, điều trước tiên ta cần làm là tìm cách dập tắt ngọn lửa, chứ không phải chạy theo người ta nghi là đã châm lửa đốt nhà.
Mỗi khi giận, quý vị nên thực tập đi trong chánh niệm, thở trong chánh niệm để chăm sóc, ôm ấp và làm lắng dịu cơn giận. Trong khi làm như vậy, quý vị sẽ có cơ hội nhìn sâu và khám phá ra những nguyên do của cơn giận. Thực tập như thế một lúc thì tuệ giác sẽ phát sinh. Trước hết quý vị sẽ thấy rằng nguyên do chính của khổ đau thực ra không phải do người kia, mà do mình, vì hạt giống giận trong mình còn quá lớn. Chỉ cần có người bấm đúng nút là nó nổi tam bành lục tặc như vũ bão và gây khổ đau cho mình và mọi người chung quanh. Cũng nghe như vậy, thấy như vậy, và bị xúc phạm như vậy, nhưng đối với người khác thì không can gì, họ không tỏ vẻ giận dữ như mình, vì hạt giống giận trong họ quá nhỏ bé. Trước hết tuệ giác sẽ cho quý vị thấy rằng có lẽ vì tâm hành giận trong mình lớn quá và đó là nguyên do chính của sự giận dữ của mình. Người kia chỉ là nguyên nhân phụ.
Trong khi tiếp tục đi thiền, làm lắng dịu thân tâm, quý vị có thể làm phát sinh thêm cái thấy rằng: ”A! bây giờ ta cảm thấy khỏe quá.” Quý vị biết cách ôm ấp và làm vơi nhẹ sự bực tức, giận dữ trong quý vị. Nhưng người kia có thể vẫn còn sống trong địa ngục. Người kia chưa biết cách thực tập chăm sóc cơn giận như quý vị. Khi khổ, họ luôn luôn trút nỗi khổ niềm đau của họ ra và những người chung quanh họ đều lãnh đủ. Nếu người thương của quý vị đang gặp khó khăn, đang đau khổ cùng cực, thì quý vị phải lập tức tìm cách giúp đỡ họ. Nếu quý vị không giúp họ, thì ai sẽ giúp?
Bây giờ cơn giận của quý vị đã được chuyển hóa thành tình thương. Bằng phương pháp thở trong chánh niệm, đi trong chánh niệm và phương pháp ôm ấp những phiền não bằng năng lượng chánh niệm, quý vị đã chuyển rác thành hoa. Tu là quá trình của sự tập luyện. Trước hết, ta thực tập chung với những người đã có nhiều kinh nghiệm trong sự thực tập, sau đó ta có thể thực tập một mình. Ta làm gương cho mọi người trong gia đình. Ta gây cảm hứng cho những người thương của ta. Khi mọi người thấy cách ta đối trị cơn giận như thế, họ sẽ rất kính phục và muốn học hỏi nơi ta để có thể thực tập mỗi khi họ bị cơn giận chi phối.