Giảng kinh

(Phiên tả Pháp thoại năm 2007)

Nghe tiếng chuông, chúng ta trở về với hơi thở, cảm thấy hạnh phúc mỗi khi nghe chuông, không cần phải chắp tay xá. Thở vào, tâm con tĩnh lặng. Thở ra, miệng con mỉm cười

Kính thưa đại chúng, tôi có một ước mơ mà trên 30 năm mới thực hiện được, là viết một bài tụng cho các em thiếu nhi từ năm, sáu tuổi trở lên. Điều này có vẻ như rất dễ nhưng thực ra rất khó. Chúng ta có nhiều bài tụng cho người lớn, có những bài rất hay, như bài Hướng về kính lạy, Quy mạng. Nhưng chưa có bài nào thực sự dành cho các em. Sáu mươi, bảy mươi năm nay, các em thiếu nhi, các em oanh vũ nam và oanh vũ nữ phải tụng một bài mà tôi nghĩ không phải dành cho thiếu nhi. Mới có năm tuổi đầu mà phải tụng những câu như: Đệ tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề… – tội nghiệp cho các em vô cùng. Bài tụng đó rất hay nhưng không dành cho các em năm, sáu tuổi. Vì vậy, tôi thao thức hơn 30 năm muốn làm một bài tụng cho các em. Và bữa đó tôi đã làm được bài Hướng về Tam bảo này.

Tôi đã thảo, đã làm bản nháp nhiều lần nhưng mỗi lần đều không thành công hoàn toàn. Tôi đã làm được nhiều bài tụng cho người lớn, riêng với bài này, tôi phải để trên 30 năm mới có thể thành công được. Đây là một món quà tôi tặng cho các em thiếu nhi Phật tử Việt Nam, trong đó có các em oanh vũ nam và oanh vũ nữ. Những người lớn cũng có thể tụng bài này tại vì em bé năm tuổi trong mỗi chúng ta vẫn còn sống. Khi tụng bài này chúng ta cũng cảm động giống như hồi chúng ta còn năm, sáu tuổi. 

Mỗi khi ngồi trên xe hơi, tôi có thói quen ngắm nhìn cảnh vật bên ngoài. Đi ngang qua những đồi thông hay những ruộng lúa, tôi ưa nhìn những cảnh tượng đó để thực tập hơi thở. Nhưng mỗi khi đi ngang qua thành phố mà kẹt xe thì cảnh tượng ấy không có gì hấp dẫn. Vì vậy, ngồi trên xe, tôi lấy tờ giấy và làm bài tụng cho thiếu nhi. Có khi làm được một câu, có khi làm được hai câu, có khi làm được ba câu rồi đến bốn câu, và giữ lại đó. Cứ như vậy, bài tụng này đã được thai nghén trên xe hơi. Tôi luôn luôn nghĩ tới các cháu, các em năm, sáu tuổi, và muốn cho các em có được một bài tụng thích hợp với độ tuổi của mình để khi tụng lên thì những hạt giống hạnh phúc, những ước nguyện, ước mơ được tưới tẩm và lớn mạnh.

Hôm nay có các anh, các chị lớn trong Gia đình Phật tử, có các bác, các chú, các cô, chúng ta đọc lại bài này để thấy đây là một công trình, một tặng phẩm rất hết lòng trao lại cho các em. Tôi muốn rằng các nhà thơ, nhà văn, các vị huynh trưởng phải tiếp tục công trình này, nghĩa là phải sáng tác ít nhất hai mươi bài tụng cho các em thiếu nhi. Đây chỉ mới là bài đầu. Đây là một bài tụng nhưng cũng là một bài quán chiếu, một bài thực tập chứ không phải là cầu xin, năn nỉ, ỉ ôi. Sư cô Định Nghiêm vừa hướng dẫn thiếu nhi: Khi chắp tay búp sen và tụng bốn chữ Chắp tay búp sen, ta phải quán tưởng hai bàn tay ta trở thành một búp sen. Còn nói ngoài miệng Chắp tay búp sen mà trong trái tim không thực sự chắp tay búp sen thì đó không phải là thực tập. Khi có một búp sen trong tim để cúng Bụt rồi, mà không cần phải đi hái ngoài hồ, thì ta nhìn lên Bụt, đó là sự thực tập. Khi nhìn lên ta thấy gì?

Chắp tay búp sen

Con nhìn lên Bụt

Bụt đang ngồi yên

Dáng Bụt rất hiền.

Thấy Bụt ngồi rất yên thì ta cũng phải ngồi rất yên, dáng dấp ta cũng phải rất hiền. Như vậy là ta tiếp xúc với Bụt và trở thành một người con đích thực của Bụt, một người em đích thực của Bụt, một người bạn đích thực của Bụt, một người đồng hành đích thực của Bụt. 

Có nhiều điều cho ta thực tập trong bốn câu đầu của bài tụng. Ta quán tưởng, hình dung được búp sen làm bằng hai bàn tay xinh đẹp của ta. Ta đang có phẩm vật để cúng dường, ta nhìn lên và thấy Bụt. Bụt đang ngồi yên và ta cũng phải ngồi yên. Ngồi yên là một sự thực tập rất lớn. Ngồi cho thật yên, tiếng Hán Việt là an tọa, 安坐, tức là ngồi thoải mái, có sự an vui. Có nhiều người trong chúng ta không thể ngồi yên được. Chúng ta ngồi, dầu là ngồi trên bộ bàn ghế rất sang nhưng cũng như ngồi trên đống lửa, thấp thỏm, đứng dậy rồi ngồi xuống, đứng dậy rồi ngồi xuống. Như thế là bất an, không yên. Trong khi đó, đức Thế Tôn, thầy của chúng ta là một người có khả năng ngồi yên. Là con của Ngài, là đệ tử của Ngài, là sự tiếp nối của Ngài, chúng ta phải học cho được nghệ thuật, khả năng ngồi yên.

Con nhìn lên Bụt, nhìn lên Bụt ta thấy điều gì? Thấy Bụt đang ngồi yên. Nếu ngồi yên được thì gia đình sẽ yên, thế giới sẽ yên. 

Dáng Bụt rất hiền. Biết bao nhiêu là từ bi, biết bao nhiêu là tình thương tỏa chiếu ra trong dáng ngồi của Bụt. 

Bụt ngồi rất thẳng. Khi thấy Bụt ngồi rất thẳng thì chúng ta cũng ngồi thẳng lại. Các cháu ngồi thẳng đi. Bụt không phải ở bên ngoài, Bụt ở trong tâm ta, và Bụt ngồi rất thẳng. Là con Bụt, ta cũng ngồi rất thẳng, thẳng mà không cứng ngắc, thẳng mà rất thoải mái. 

Đây là quá trình của sự quán tưởng. Quán tưởng là một phép tu rất quan trọng trong đạo Phật. Quán là nhìn sâu, tưởng là hình dung ra, tiếng Pháp là visualiser, tiếng Anh là visualize. Quán tưởng là dùng tâm quán chiếu, hình dung ra, thấy bằng tâm, bằng con mắt tuệ một đối tượng của sự tu tập mà không cần dựa vào một tướng trạng bên ngoài. Nhiều khi không có tượng Bụt nhưng ta vẫn thấy được Ngài, nhờ khả năng dùng tâm hình dung và quán tưởng. 

Trong ngành Toán, có một môn học gọi là Hình học xạ ảnh (Projective Geometry). Nếu không có khả năng hình dung, quán chiếu (visualization), ta không thể học được môn đó. Ở đây cũng vậy, dù có tượng Bụt hay không, ta cũng có thể thực tập quán tưởng và hình dung được đức Thế Tôn đang ngồi rất thẳng, rất đẹp. Đây là đoạn quán tưởng về Phật, quán tưởng về thân Phật, về tâm Phật. Và khi hình dung ra được rồi thì hình ảnh đó là đối tượng của sự chiêm ngưỡng, của sự quán chiếu của ta. Chắp tay búp sen, con nhìn lên Bụt. Phía trước này đâu có tượng Bụt nhưng bằng tâm của mình, ta thấy Bụt đang ngồi yên, dáng vẻ của Bụt rất hiền.

Bụt ngồi rất thẳng

Hào quang tỏa chiếu

Trên vầng trán cao. 

Bụt là một người rất thông minh và vì vậy chúng ta có thể tưởng tượng được rằng vầng trán của Bụt rất cao. Buổi sớm mai khi nhìn về phía chân trời phương Đông, chúng ta thấy gì? Mặt trời sắp ló dạng và hào quang tỏa ra, chiếu sáng khắp cả phương Đông. Vầng trán của đức Thế Tôn cũng như vậy, là ánh sáng chiếu soi từ phương Đông, trong một buổi bình minh rất đẹp. 

Bụt ngồi rất thẳng, hào quang tỏa chiếu, trên vầng trán cao. Ta phải thấy được điều đó. Ta thấy gì nữa? 

Hai mắt Bụt sáng

Nhìn thấu lòng con. 

Đôi mắt Bụt rất sáng, Ngài nhìn thấu suốt được hết, không thứ gì có thể ngăn cản cái nhìn của Ngài. Với ba mẹ thì có khi ta còn che giấu được. Nhưng không một điều gì ta có thể che giấu được đức Thế Tôn. Bụt nhìn thấu lòng con và Ngài thấy được gì?

Thấy được niềm vui 

Cũng như nỗi khổ. 

Là đứa trẻ năm, sáu tuổi, ta có rất nhiều thì giờ để chơi, để chạy, để nhảy, để ăn kẹo, để nắm tay người khác mà chạy đua, với rất nhiều niềm vui. Là một đứa trẻ ta phải chơi đùa mới được. Nếu không chơi đùa thì ta không phải là trẻ em. Người lớn, người già cũng còn chơi, huống hồ ta là  trẻ em. Cuộc đời của một đứa trẻ là phải có nhiều niềm vui. Ví dụ khi mẹ đi chợ về, thế nào mẹ cũng mua cho ta cái bánh, đó là niềm vui được mẹ mua quà cho. Hay là sáng nay đi học thế nào cũng gặp được thằng bạn ta thương, đó là niềm vui. Ta có rất nhiều niềm vui. Thế nhưng đứa trẻ mới năm, sáu tuổi cũng bắt đầu có những nỗi khổ rồi. Ba mẹ tưởng rằng ta còn nhỏ, ta đâu có gì mà khổ đau, nhưng kỳ thực ta đã có khổ đau rồi. Có nhiều lúc buồn, muốn khóc, ta đi vào và đóng cửa nhà vệ sinh lại để khóc một mình cho đã. Bụt thấy hết. Bụt thấy rằng ta là đứa trẻ năm, sáu tuổi có nhiều niềm vui nhưng Ngài cũng biết rất rõ tuy đang còn nhỏ nhưng ta đã bắt đầu có những niềm đau, nỗi khổ rồi. Đôi khi ba mới trừng mắt, mới hét lên một tiếng thì tự nhiên ta co rúm lại. Bông hoa đang tươi mà ba hét một tiếng, trừng mắt một cái là héo rũ, ta mất hết cảm hứng, đó cũng là một nỗi khổ. Có những cái ta rất thích mà ba không cho. Rồi thầy giáo hiểu lầm ta, ta không có lỗi đó mà thầy giáo la mắng, đổ lỗi cho ta… Đôi khi ta ganh tị thằng em, ta giành ăn với em, ta muốn má để ý tới ta thôi, đừng cưng em ta quá. Ta có những ganh tị, những giận hờn, những sự cứng đầu,… Ta có những nỗi khổ niềm đau như của người lớn vậy, song nỗi khổ niềm đau của ta nhỏ hơn mà thôi. Cho nên Bụt sáng suốt lắm, Bụt biết được hết. Ngài thấy ta có rất nhiều niềm vui, nhưng Ngài cũng biết rằng ta đã bắt đầu có những nỗi khổ. Bụt thấy rất rõ và Bụt muốn giúp ta. Bụt là thầy của ta mà. 

Miệng Bụt mỉm cười

Nụ cười từ bi

Chứa đầy hiểu biết

Tha thứ, bao dung.

Nụ cười của đức Bụt mầu nhiệm vô cùng. Miệng Bụt mỉm cười và nụ cười đó là nụ cười từ bi, nụ cười đầy thương yêu và chứa đựng trong đó ba yếu tố quan trọng là hiểu biết, tha thứ và bao dung. Ngài nói rằng: “Ô, con đang còn nhỏ quá, thật tội nghiệp! Con chưa có kinh nghiệm, chưa được dạy dỗ, đừng la con, phạt con nhiều quá.” Người lớn bận công việc nhiều quá, không có ai hướng dẫn, chỉ bảo cho nên con có những lầm lỗi như vậy. Đó là sự hiểu biết. Và nhờ hiểu biết cho nên Bụt tha thứ một cách rất dễ dàng. Bụt ôm lấy tất cả, đó là bao dung. Bụt không phân biệt: “Đứa này giỏi thì ta thương, còn đứa kia không giỏi thì đi chỗ khác.” Bụt không loại trừ bất cứ đứa trẻ nào. Những đứa trẻ ngoan thì Bụt cưng đã đành rồi, nhưng những đứa chưa ngoan Bụt vẫn cưng như thường. Những đứa thông minh Bụt đã cưng rồi, mà những đứa không thông minh Bụt cũng vẫn cưng. Những đứa mặt mày sáng sủa Bụt đã thương rồi, mà những đứa mặt mày không được sáng sủa lắm Bụt cũng thương luôn. Bao dung là ôm  hết tất cả, không loại trừ bất cứ một người nào ra khỏi tình thương của ta. Tình thương của Bụt là tình thương không có biên giới, gọi là vô lượng tâm. Bụt mở lòng ra và ôm lấy tất cả mọi người, bất kể da trắng, da đen, da đỏ, da vàng; và mọi loài, từ loài người, loài vật, cầm thú, cỏ cây, đất đá… Bụt ôm lấy và thương yêu tất cả. Trái tim của Bụt như vậy cho nên nụ cười của Bụt phản chiếu trái tim Ngài, đó là trái tim của hiểu biết, tha thứ và bao dung. Khi tiếp xúc được với một bậc thầy như vậy thì ta phải hãnh diện là ta có một bậc thầy tuyệt vời, một bậc thầy có trái tim không biên giới và nụ cười mầu nhiệm, nụ cười của hiểu biết, không trách móc, không hờn oán, nụ cười sẵn sàng tha thứ cho những lầm lỗi, nụ cười bao dung tất cả, không loại trừ bất cứ ai. 

Các anh chị huynh trưởng nên thấy rằng ngay trong đoạn đầu của bài tụng đã có nhiều giáo lý rất sâu sắc. Khi các em tụng lên thì ta làm thế nào để giúp các em có thể tiếp xúc được với Pháp bảo mầu nhiệm đó. Em đang tiếp xúc với Phật bảo nhưng kỳ thực em đang tiếp xúc với Pháp bảo. Pháp bảo ở đây tức là từ, bi, hiểu biết, tha thứ, bao dung, là những chất liệu mà thế giới của chúng ta đang rất thiếu và rất cần. Nếu thế giới có thêm được chất liệu từ, bi, hiểu biết, có thêm được tha thứ, bao dung thì chúng ta sẽ bớt khổ hơn rất nhiều. Ta may mắn có được một bậc thầy như vậy và ta đang chiêm ngưỡng bậc thầy của ta. Đây không phải là sự cầu xin, đây là sự thực tập để tiếp xúc với Bụt, với Pháp và với Tăng. 

Chắp tay búp sen

Con nhìn lên Bụt

Bụt đang ngồi yên

Dáng Bụt rất hiền

Bụt ngồi rất thẳng

Hào quang tỏa chiếu 

Trên vầng trán cao

Hai mắt Bụt sáng

Nhìn thấu lòng con

Thấy được niềm vui

Cũng như nỗi khổ 

Miệng Bụt mỉm cười

Nụ cười từ bi

Chứa đầy hiểu biết

Tha thứ, bao dung.

Đạo Bụt có phương pháp Tùy niệm, tiếng Phạn là anusmti, tiếng Pāḷi là anussati, có nghĩa là để tâm ta tiếp xúc với đối tượng. Niệm là nhớ tưởng, hình dung, tiếp xúc. Nhớ tưởng đây là nhớ tưởng Bụt, hình dung đây là hình dung Bụt, tiếp xúc đây là tiếp xúc Bụt. Nhớ tưởng, hình dung, tiếp xúc với Bụt, với Pháp và với Tăng, ba đối tượng của tùy niệm – niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Trong cõi Tịnh độ người ta thực tập như vậy. Mỗi khi nghe tiếng chim hót hay tiếng thông reo thì những người bên Tịnh độ phát khởi tâm niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Ở đây cũng vậy, mỗi khi nghe chuông, hay nghe tiếng đồng hồ reo, chúng ta trở về và thực tập tùy niệm: niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Các em thiếu nhi trong khi tụng bài này là đang thực tập niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. 

Đoạn kế cũng tiếp tục thực tập niệm Bụt. 

Bụt là bậc thầy 

Dạy thương, dạy hiểu. 

Bụt không phải là đấng Thượng đế hay một vị thần linh. Nếu ta nghĩ Bụt là Thượng đế tạo ra muôn loài, là một vị thần linh có quyền ban phước, giáng họa thì ta không phải là Phật tử. Bụt trước hết là một bậc thầy chỉ đường cho ta, gọi là đạo sư. Bụt là giáo sư (professor, teacher), nhưng không phải là giáo sư Toán, giáo sư Sử, giáo sư Việt văn, hay giáo sư Khoa học mà là giáo sư về hai môn rất quan trọng là hiểu và thương. Làm sao để có thể hiểu và thương được. Bụt có hai chất liệu trí và bi, vì vậy, Bụt biết cách giúp đỡ, chỉ dạy ta chế tác nguồn năng lượng của hiểu và thương. 

Hiểu là trí, tiếng Phạn là prajñā, tức là bát nhã, tuệ giác. Bụt có tuệ giác rất lớn, đó là đại trí, Mahā-prajñā. Và thương tức là bi, tiếng Phạn là karuā. Tình thương của Bụt cũng rất lớn, là đại bi, Mahā-karuā. Sở dĩ Bụt trở thành một con người vĩ đại là nhờ lòng thương lớn và hiểu biết lớn, là đại bi và đại trí. Bụt đã chế tác năng lượng hiểu và thương, để cho hai nguồn năng lượng đó trở thành vĩ đại. Vì vậy Bụt biết cách chỉ dạy để ta cũng có thể chế tác được năng lượng hiểu và thương trong trái tim. Cho nên Bụt là bậc thầy dạy về hai môn hiểu và thương. 

Bụt là bậc thầy, dạy thương, dạy hiểu. Là anh, là chị, ta cũng phải biết dạy thương và dạy hiểu, dù ta dạy không hay bằng Bụt. Nhờ thương được các em, muốn các em lớn lên có hạnh phúc, ta phải dạy cho các em cách chế tác chất liệu của hiểu và thương. Đó là phận sự của huynh trưởng.

Bụt đã cho con

Nếp sống tâm linh.

Nếp sống tâm linh là gì? Cha mẹ sinh ra ta, nhờ đó ta có sự sống về hình hài, về thân thể. Nhưng Bụt sinh ra ta trong nếp sống tâm linh. Sự sống của ta có hai khía cạnh, hình hài do cha mẹ sinh ra và tâm linh là do Bụt sinh ra. Nếu đời sống chỉ chú trọng về hình hài thì làm sao đầy đủ và hạnh phúc được. Vì vậy, mỗi người phải có một đời sống tâm linh, tiếng Pháp gọi là la vie spirituelle, tiếng Anh là spiritual life. Tất cả chúng ta, dù mới năm, sáu tuổi, người nào cũng có hai đời sống: một đời sống hình hài vật chất và một đời sống tâm linh. Cha mẹ cho ta hình hài và Bụt cho ta tâm linh. Vì vậy, ta cũng gọi Bụt là cha, là đấng Cha lành, đức Từ phụ (the loving father)

Bụt đã cho con 

Nếp sống tâm linh

Suốt đời con nguyện

Noi theo ánh sáng

Của Bụt mà đi.

Ánh sáng này không phải là ánh sáng của đèn điện mà là ánh sáng của tuệ giác – đại trí. Không có người nào ban phát ánh sáng nhiều bằng đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn soi đường, chỉ lối cho ta và ta đi theo ánh sáng của đức Thế Tôn. Đây là một lời phát nguyện: Nếu con đi theo Thầy, nếu con đi theo đức Thế Tôn thì con sẽ không sa vào những hầm hố của khổ đau, hệ lụy và tuyệt vọng. Nếu con biết đi theo dấu chân của Bụt, đi theo ánh sáng của Bụt thì con sẽ đi tới chỗ an lành, chỗ xây dựng hạnh phúc cho con, cho gia đình con, cho đất nước và xã hội con.

Bụt là bậc thầy

Dạy thương, dạy hiểu

Bụt đã cho con 

Nếp sống tâm linh

Suốt đời con nguyện

Noi theo ánh sáng

Của Bụt mà đi.

Đó là lời phát nguyện của em thiếu nhi. Con đã có con đường rồi. Con đường đó là con đường do đức Thế Tôn chỉ dạy và con đã nhận đức Thế Tôn là thầy của con. Ta đi theo thầy của chúng ta.

Đó là một lời thề nguyện, và nhờ lời thề nguyện đó mà suốt đời ta sẽ không sa vào hầm hố của tội lỗi, của tuyệt vọng. Khi em mới năm tuổi mà em đã có con đường rồi, có hướng đi rồi, có bậc thầy hướng dẫn rồi thì em là một người có phước, và cha mẹ em cũng là những người có phước, gia đình em, dòng họ em là những người có phước. Hạnh phúc rất lớn. Có phải như vậy không? Do đó, trong khi tụng bài này, ta có được hạnh phúc rất lớn. 

Chúng ta đã học xong phần niệm Bụt. Bây giờ ta đi sang đoạn thứ hai là niệm Pháp.

Con xin lạy Bụt

Đã ban cho con 

Giáo pháp nhiệm mầu

Giúp con nuôi dưỡng

Tình nghĩa, hạnh phúc,

Nụ cười, niềm tin,

Giáo pháp nhiệm mầu tức là Pháp. Bụt là người chỉ đường cho ta, còn Pháp là con đường của ta. Con đường đó là con đường giúp cho ta nuôi lớn tình, nghĩa và hạnh phúc. Cuộc đời không có tình là cuộc đời rất khô khan và đau khổ. Khi thương nhau, ta trở nên trung kiên, gắn bó sắt son, nâng đỡ và bảo hộ nhau suốt đời thì tình sẽ thành nghĩa. Cái tình ban đầu có thể còn ít nhiều sự bồng bột nhưng nếu ta thương cho đúng cách thì ân nghĩa nhờ đó mà được nuôi dưỡng. Ân nghĩa sinh thành, cha mẹ sinh ra ta và nuôi dưỡng ta. Chúng ta thương cha mẹ trong tình thương đó, ta thấy được ân của cha, nghĩa của mẹ. Khi thương thầy, ta thấy được ân của thầy, nghĩa của thầy. Thầy tháo gỡ cho ta những khó khăn, những khổ đau, vì vậy ân của thầy rất lớn, ta gọi là ân sư. Khi thương bạn, ta thấy ân của bạn và nghĩa của bạn. Bạn đã nâng đỡ, đã cứu vớt, đã bảo hộ ta trong những giờ phút nguy nan giữa cuộc đời. Vì vậy đối với bạn, ta cũng biết ơn, gọi là ân bạn. Cũng nhờ vào tất cả các loài chúng sanh như cây cối, hoa trái, hay sông nước, đất đai nên ta có thực phẩm để ăn, có không khí để thở, có chỗ để làm nhà ở. Ta biết ơn tất cả những điều đó. Ta biết ơn đất nước, sông núi, cây cối, đất đai – đây là ân thứ tư. Như vậy, ta sống như một con người có ân và có nghĩa. Có bốn ân, trước hết là ân cha mẹ, thứ hai là ân thầy tổ, thứ ba là ân bằng hữu – bạn bè, thiện tri thức, và thứ tư là ân mọi loài chúng sanh, trong đó có sông núi, cỏ cây, đất đá. Một người sống có tình, có nghĩa, có ân, người ấy không bao giờ đau khổ, hoặc nếu có đau khổ thì cũng rất ít. Còn những người vô ơn, bạc nghĩa, không có tình, họ thường đau khổ rất da diết, rất sâu sắc. 

Giáo pháp của đức Thế Tôn dạy cho ta biết chế tác và nuôi dưỡng ân nghĩa, hạnh phúc, nụ cười, niềm tin và làm cho cuộc đời ta có rất nhiều hạnh phúc. Sở dĩ ta có nụ cười và niềm tin là nhờ ta có giáo pháp của đức Thế Tôn. Ta tin vào con đường thực tập, con đường từ bi, con đường bát chánh đạo, con đường tín, tấn, niệm, định, tuệ. Người nào không biết đường đi là người đó còn bơ vơ, đau khổ. Người có đường đi rồi là người có hạnh phúc. Đã có đường đi rồi, không có lý do gì mà ta phải lo sợ nữa. Tất cả chúng ta người nào đã có Pháp tức là đã có đường đi. Mà đã có đường đi rồi thì ta có niềm tin vững chãi, không bơ vơ, không lạc lõng, không đi loanh quanh như một con ma đói nữa. Người nào có Bụt trong trái tim, có Pháp trong trái tim là người có hạnh phúc rất lớn. Và một em bé tuy mới năm, sáu tuổi, cũng có thể có hạnh phúc rất lớn. Tại vì em bé đã đưa được Bụt và Pháp vào trong trái tim.

Giáo pháp nhiệm mầu của đức Thế Tôn không những giúp ta nuôi dưỡng tình nghĩa, hạnh phúc, nụ cười, niềm tin mà còn làm nhẹ đi những nỗi khổ, niềm đau trong lòng ta. Giáo pháp của đức Thế Tôn dạy cho chúng ta biết trở về với hơi thở, chế tác chánh niệm để ôm lấy những niềm đau như sự buồn tủi, giận hờn, bơ vơ, ganh tị. 

Dạy con biết thở

Ôm lấy niềm đau

Những lúc tâm con

Tham đắm, giận hờn

Si mê, ganh tị.

Em bé năm tuổi nhưng đã có nỗi khổ niềm đau, đó là những lúc em có những phiền não như tham đắm, giận hờn, si mê, ganh tị. Nhưng em bé đã có Pháp rồi, nhờ vậy em biết trở về với hơi thở, em thực tập thở vào, thở ra, chế tác chánh niệm, ôm lấy niềm đau để đừng nói những câu, đừng làm những điều khiến tình nghĩa tan vỡ. Đây là phép tùy niệm thứ hai, gọi là niệm Pháp. 

Các anh chị phải chiêm nghiệm cho sâu sắc đoạn này và thực tập cho thành công. Mỗi khi có nỗi khổ, niềm đau như tham đắm, giận hờn, si mê, ganh tị, các anh chị phải thực tập như thế nào để ôm ấp, để vượt thoát được thì các anh chị mới có kinh nghiệm để dạy cho các em. Đây là tinh hoa của sự thực tập. 

Trước khi học tiếp đoạn tùy niệm thứ ba là niệm Tăng thì quý thầy, quý sư cô Làng Mai sẽ cúng dường đại chúng bài nhạc kinh Tìm nhau. Đây là một phần của sự thực tập niệm Bụt. Tìm nhau tức là ta đi tìm thầy của ta, đi tìm đức Thế Tôn. Thầy đây là đức Thế Tôn. Thầy sẽ thử đọc nguyên văn bài thơ bằng tiếng Huế. Rồi sau đó các thầy, các sư cô sẽ hợp xướng bài Tìm nhau với sự hướng dẫn của sư cô Định Nghiêm. 

Bài này là thơ của Nhất Hạnh và nhạc của Anh Việt. Ngày xưa, nhạc sĩ Anh Việt đã làm bài Bến cũ có câu như: “Bến ấy ngày xưa người đi vấn vương biệt ly”. Bây giờ tu tập rồi nên ông chỉ sáng tác và phổ nhạc những bài về đạo Bụt. Ông là đệ tử của chùa Từ Hiếu. 

Con đã đi tìm Thế Tôn

Từ hồi còn ấu thơ

Con đã nghe tiếng gọi của Thế Tôn

Từ khi mới bắt đầu biết thở.

Con đã ruổi rong

Vạn nẻo đời hiểm trở

Đã từng đau khắc khoải

Với trăm thương ngàn nhớ

Trên bước đường hành hương.

Con đã đi tìm Thế Tôn

Trong tận cùng hoang dã

Ngoài mênh mông biển lạ

Trên tuyệt mù cao sơn

Con đã từng nằm chết quạnh hiu

Trên cánh sa mạc già

Con đã từng cố giấu lại vào tim

Những giòng lệ đá

Con đã từng mơ uống những giọt sương

Lấp lánh hành tinh xa.

Con đã từng ghi dấu chân

Trên non Bồng diễm ảo

Con đã từng cất tiếng kêu gào

Dưới ngục A tỳ mòn mỏi hư hao

Bởi vì con đói lạnh

Bởi vì con khát khao

Bởi vì con muốn tìm được cho ra

Bóng hình ai muôn đời tuyệt hảo.

Con biết nằm trong trái tim con

Là niềm tin diệu kỳ

Thâm sâu và uyên áo

Là Thế Tôn có mặt đó

Dù con chưa biết đích xác Thế Tôn đâu

Con linh cảm rằng từ muôn kiếp xa xưa

Thế Tôn với con đã từng là một

Rằng khoảng cách giữa hai ta

Không thể dài hơn quá một nhịp tâm đầu.

Chiều hôm qua bước đi một mình

Con thấy lá thu rơi đầy lối cũ

Và vầng trăng treo trước ngõ

Đã xuất hiện bất thần

Như bóng hình người cũ

Rồi tinh đẩu xôn xao báo tin

Là Thế Tôn đã có mặt nơi này.

Suốt đêm qua trời giáng mưa cam lộ

Chớp lòe qua cửa sổ

Trời lên cơn bão tố

Đất trời như giận dữ

Nhưng cuối cùng trong con

Mưa cũng tạnh mây cũng tan

Nhìn ra cửa sổ

Con thấy vầng trăng khuya đã hiện

Và đất trời đã thực sự bình an

Tự soi mình trong gương nguyệt

Con thấy con

Và con bỗng thấy Thế Tôn.

Thế Tôn đang mỉm cười

Ô hay

Vầng trăng thảnh thơi vừa trả lại cho con

Tất cả những gì con ngỡ rằng đã mất

Từ khoảnh khắc ấy

Từng phút giây miên mật

Con thấy không có gì đã qua

Không có gì cần hồi phục

Bông hoa nào

Hạt sỏi nào

Ngọn lá nào

Cũng nhìn con, nhận mặt

Nhìn đâu con cũng thấy nụ cười Thế Tôn

Nụ cười của không sinh không diệt

Đã nhận được tự gương nga.

Con đã nhìn thấy Thế Tôn

Thế Tôn ngồi đó

Vững như núi Tu Di

Bình an như hơi thở

Thế Tôn ngồi đó

Như chưa bao giờ từng vắng mặt

Như chưa bao giờ trên thế gian

Đã từng có cơn bão lửa

Thế Tôn ngồi đó

Yên lặng và thảnh thơi.

Con đã tìm ra Thế Tôn

Con đã tìm ra con

Nước mắt con không cầm nổi

Con ngồi đó

Im lặng trời xanh cao

Núi tuyết in nền trời

Và nắng reo phơi phới.

Thế Tôn là tình yêu đầu

Thế Tôn là tình yêu tinh khôi

Nghĩa là không bao giờ

Sẽ cần tình yêu cuối

Người là dòng sông tâm linh

Tuy đã từng chảy qua

Hàng triệu kiếp luân hồi

Nhưng luôn luôn còn mới.

Con đã đi tìm Thế Tôn

Từ hồi còn ấu thơ

Con đã nghe tiếng gọi của Thế Tôn

Từ khi mới bắt đầu biết thở

Thế Tôn là Bình an

Thế Tôn là Vững chãi

Thế Tôn là Thảnh thơi

Người là Bụt Như Lai.

Con nguyện một lòng nuôi dưỡng

Chất liệu thảnh thơi

Chất liệu vững chãi

Và truyền đạt tới mọi loài

Hôm nay và ngày mai.

Bài nhạc kinh Tìm nhau và bài tụng Hướng về Tam bảo đều có trong cuốn Plum Village chanting and recitation book. Đây là tập sách gồm những bài hát và bài tụng của Làng Mai. Các huynh trưởng Gia đình Phật tử có thể in lại để mọi người cùng thực tập. Trong sách có trình bày nốt nhạc, có thể giúp ta không hát sai. Bây giờ chúng ta ôn lại đoạn niệm Pháp. Bài tụng này rất dễ hiểu nhưng nghĩa lý lại rất sâu xa, vì vậy không những các em oanh vũ nam hay nữ có thể hiểu và thực tập được mà những người lớn ba mươi, bốn mươi hay năm mươi, sáu mươi tuổi cũng có thể học hỏi để hiểu sâu hơn. 

Con xin lạy Bụt

Đã ban cho con 

Giáo pháp nhiệm mầu

Giúp con nuôi dưỡng

Tình nghĩa, hạnh phúc,

Nụ cười, niềm tin,

Dạy con biết thở

Ôm lấy niềm đau

Những lúc tâm con

Tham đắm, giận hờn,

Si mê, ganh tị,

Để con có thể

Làm chủ thân tâm

Vượt thắng cơn buồn

Làm vơi nỗi khổ.

Nếu biết phương pháp thở trong chánh niệm, đi trong chánh niệm để chế tác năng lượng chánh niệm, ta sẽ làm chủ được thân tâm, nhờ đó ta ôm ấp và chuyển hóa được niềm đau, ta không nói những câu, không làm những điều làm tan vỡ tình nghĩa. Làm chủ được thân tâm của mình là điều quan trọng nhất.

Dù mới năm, sáu tuổi nhưng em bé đã biết thở, biết ôm lấy niềm đau, biết làm chủ thân và tâm, không nói và không làm những điều gây đổ vỡ thì em bé đã xứng đáng là Phật tử, học trò của đức Thế Tôn rồi. Điều đó tùy thuộc vào các anh chị trong tổ chức. Các anh chị phải học thế nào để làm chủ thân tâm những lúc có tham đắm, giận hờn, si mê, ganh tị. Nhờ đó, các anh chị mới có bản lĩnh, mới làm gương được cho các em, có thể dạy cho các em làm chủ thân và tâm. Các anh chị không làm được thì làm sao dạy các em. Vì vậy, nội dung tu học của các anh chị trong Gia đình Phật tử phải thật sâu sắc. Nếu chúng ta không học hỏi, không thực tập, thì danh nghĩa Phật tử chỉ có cái vỏ mà không có ruột. Cái danh đó, nếu không có nội dung của sự thực tập, sẽ già cỗi và mai một dần, không gây được niềm tin và Gia đình Phật tử chỉ còn là một tổ chức chơi cho vui, không phải là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên theo tinh thần đạo Bụt. 

Trong tinh thần Phật giáo, nơi đó phải có trí (hiểu), có bi (thương), có sự tha thứ, bao dung, có sự thực tập hơi thở, bước chân để có thể nắm vững và làm chủ được thân tâm. Vì vậy mỗi khi sinh hoạt, họp Đoàn, phải biết rằng quan trọng nhất không phải là tụ lại một vòng mà múa hát, chơi đùa. Chúng ta đến với nhau là để học hỏi, trao truyền cho nhau những giáo lý nhiệm mầu, sau đó đem ra áp dụng vào cuộc sống hằng ngày để nuôi dưỡng tình nghĩa, hạnh phúc, nụ cười, niềm tin, và để có thể ôm lấy niềm đau, vượt thắng cơn buồn, làm vơi nỗi khổ. Chúng ta phải đem vào trong tổ chức sinh hoạt của ta một nội dung tu học phong phú. 

Bây giờ chúng ta học đến phép tùy niệm thứ ba là niệm Tăng.

Con xin trở về

Nương tựa Tăng thân

Đoàn thể những người

Thực tập theo Bụt.

Mỗi người chúng ta phải gia nhập vào một đoàn thể tu học. Gia đình Phật tử là một tăng thân. Ta có Phật thân, Pháp thân và Tăng thân. Tăng thân gồm tất cả mọi thành phần trong đoàn thể tu học của ta. Tăng thân đầy đủ cần có bốn thành phần: xuất gia nam, xuất gia nữ, tại gia nam, tại gia nữ. Tăng thân không phải chỉ có người xuất gia, tăng thân phải có người tại gia, như thế mới đầy đủ, gọi là tứ chúng (fourfold community). Là người xuất gia hay tại gia, ta đều thuộc về một tăng thân. Nếu không có tăng thân, ta sẽ mồ côi, bơ vơ và chưa có đời sống tâm linh. 

Bất cứ ai trong chúng ta, dầu trẻ bao nhiêu cũng phải nương tựa vào một tăng thân. Tăng thân này có thể là Gia đình Phật tử, có thể là học chúng của một ngôi chùa. Gia đình Phật tử luôn luôn thuộc về một tổ chức tu học trong đó có các thầy, các sư cô, các bác, các cô chú, anh chị em. Ta phải hãnh diện là ta có một tăng thân. Tất cả mọi người trong tăng thân đều học hỏi và áp dụng giáo pháp nhiệm mầu, biết thở, biết đi trong chánh niệm để có thể nuôi dưỡng tình nghĩa, hạnh phúc, nụ cười và niềm tin; để có khả năng ôm lấy niềm đau những khi trong tâm có tham đắm, giận hờn, si mê, ganh tị. Khi tăng thân có những thầy, những sư cô, những chú bác, anh chị em làm được như vậy thì đoàn thể đó mới thực sự xứng đáng là một viên ngọc quý, là Tăng bảo. 

Ta có Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Ta không chỉ nương tựa vào Phật, vào Pháp mà còn phải nương tựa vào Tăng. Tăng là đoàn thể tu học theo giáo pháp nhiệm mầu. Nhìn kỹ thì chúng ta thấy trong Tăng có Phật và có Pháp. Nếu trong đoàn thể tu học có sự chia rẽ, tranh giành quyền lợi, muốn loại trừ nhau thì đoàn thể đó chưa phải là chân Tăng. Đoàn thể đó là giả Tăng. Một đoàn thể nhìn bên ngoài có vẻ như có tu học, có quy y, nhưng kỳ thực bên trong có rất nhiều sự chia rẽ, cạnh tranh, ganh tị, ước muốn loại trừ người khác để đứng vào địa vị trung ương thì đó không phải là chân Tăng. Trong trường hợp này, phải làm sao cho giả Tăng trở thành chân Tăng thì chúng ta mới nương tựa được. Vì vậy, mỗi người phải đóng góp xây dựng tăng thân bằng chính sự tu học của mình chứ không phải bằng tài tổ chức. Ta phải biết thực tập hơi thở có ý thức, biết đi trong chánh niệm, biết tha thứ, biết bao dung thì mới có thể đóng góp xây dựng tăng thân. Nếu chỉ có khả năng cầm còi điều khiển vòng tròn, tổ chức, lái xe hay sử dụng máy vi tính thì vẫn chưa đủ để có thể xây dựng tăng thân. Mỗi người Phật tử chân chính phải là một yếu tố xây dựng tăng thân. Công trình dựng tăng đem lại hòa hợp, tin yêu cho tổ chức. Sự thực tập xây dựng tăng thân tạo ra công đức rất lớn. Như thế, chúng ta mới thực sự có Tăng bảo, là chân Tăng. Con xin trở về, nương tựa Tăng thân, đoàn thể những người, thực tập theo Bụt. Thực tập theo Bụt một cách chân chính mới gọi là Tăng. 

Để được nâng đỡ 

Để được soi sáng

Trên đường học hỏi

Đạo lý nhiệm mầu.

Nương tựa Tăng thì ta được che chở và được soi sáng. Ta được soi sáng để xem có đi đúng đường không, có đi tìm chánh pháp, có học hỏi và thực tập theo đúng lời Bụt dạy không hay là đang đi tìm danh, tìm lợi, tìm quyền hành trong tổ chức. Ta phải cầu các bậc xuất gia, các bậc tại gia lớn hơn ta, những người tu học giỏi soi sáng cho ta. Tăng thân giúp soi sáng và bảo hộ để ta không đi lầm đường lạc lối, không bị sa vào hầm hố của tội lỗi, khổ đau.

Con xin lạy Bụt, con xin trở về nương tựa tăng thân, đó là quy y Tăng. Con xin trở về, nương tựa tăng thân, đoàn thể những người, thực tập theo Bụt, để được nâng đỡ, để được soi sáng, trên đường học hỏi, đạo lý nhiệm mầu. Nhờ có Tăng, ta bước đi được trên con đường Pháp một cách vững chãi. 

Bụt là thầy chỉ đạo

Bậc tỉnh thức vẹn toàn,

Tướng tốt đoan trang

Trí và bi viên mãn.

Pháp là con đường sáng

Dẫn người thoát cõi mê

Đưa con trở về

Sống cuộc đời tỉnh thức.

Tăng là đoàn thể đẹp

Cùng đi trên đường vui

Tu tập giải thoát

Làm an lạc cuộc đời.

(Quy nguyện, Nhật tụng Thiền môn)

Đó là định nghĩa mới của Tăng. Hễ đi vào con đường tu học là ta có rất nhiều niềm vui, không có sự giận hờn, ganh tị và khóc than. Tăng là đoàn thể đẹp, cùng đi trên đường vui, vì vậy dầu còn trẻ ta cũng có bổn phận phải xây dựng tăng thân, để mỗi khi nghĩ tới tăng thân là niềm vui dâng lên. Và mỗi khi xa tăng thân là muốn trở về càng sớm càng tốt.

Con xin trở về, nương tựa Tăng thân, đoàn thể những người, thực tập theo Bụt, để được nâng đỡ, để được soi sáng, trên đường học hỏi, đạo lý nhiệm mầu. Đó là đoạn quán chiếu, quán tưởng về Tăng. Và đoạn chót là để kết thúc.

Trầm đã đốt lên

Đèn đã thắp sáng

Con xin một lòng

Hướng về Tam bảo

Cung kính biết ơn

Quay về nương tựa.

Quay về nương tựa tức là quy y. Bài này là bài quy y Tam bảo. Quy y bằng sự thực tập chứ không phải bằng một lời tuyên bố. Sự thực tập quy y này phải được diễn ra trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày. Và trong mỗi giây phút ấy, lúc nào ta cũng nhận được sự che chở, bảo hộ của Tam bảo. Đi ra chợ cũng được Tam bảo che chở, đi về Nhà dây thép (bưu điện) cũng được Tam bảo che chở, đi vào trường học cũng được Tam bảo che chở, vào nhà bếp để nấu ăn hoặc lái xe cũng được Tam bảo che chở. Vì vậy, sự thực tập quy y phải được diễn ra liên tục 24 giờ mỗi ngày, chứ không phải cứ 15 ngày mới đến chùa và đọc Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng là xong. Quy y Tam bảo là một sự thực tập chứ không phải là một lời tuyên bố suông. 

Các thầy, các sư cô sẽ xướng tụng bằng tiếng Việt bài Bốn phép tùy niệm cho chúng ta nghe. Bốn phép tùy niệm là niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới. Tất cả những người tự nhận là Phật tử đều đã tiếp nhận Ba sự quay về nương tựa (nương tựa Phật, nương tựa Pháp, nương tựa Tăng) và Năm giới quý báu (bảo hộ sự sống, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không sử dụng rượu cùng các chất ma túy và những sản phẩm có độc tố). 

Tôi xin đọc cho quý vị nghe Bốn phép tùy niệm bằng tiếng Việt. Nguyên văn bài này bằng tiếng Phạn và đã được dịch ra tiếng Việt. 

Bốn phép tùy niệm

Kính lạy đức Thế Tôn, bậc thầy lãnh đạo của chúng con

Người là bậc xứng đáng nhất để được tôn kính và cúng dường

Người là bậc có trí giác chân thực và toàn vẹn.

Niệm Bụt

Tự thân của đức Như Lai, người từ chân như tới, thầy của chúng con 

Là bậc xứng đáng nhất để được cúng dường

Là bậc có trí giác chân thực và toàn diện 

Là bậc có đầy đủ công hạnh và tuệ giác

Là bậc đã qua tới một cách nhiệm mầu

Là bậc hiểu thấu thế gian 

Là bậc nhân sĩ cao tột có khả năng điều phục con người

Là bậc thầy của cả hai giới thiên và nhân

Là bậc tỉnh thức toàn vẹn

Là bậc được tôn sùng quý trọng nhất trên đời.

Người là bậc có trí giác chân thực và toàn vẹn – câu này dịch từ câu Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammā Sabuddhassa. Toàn đoạn Niệm Bụt, tiếng Hán Việt là Nam mô Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Câu này rất khó hiểu. Dịch ra tiếng Việt thì rất dễ hiểu. Là bậc xứng đáng nhất để được cúng dường tức là Ứng cúng. Là bậc có trí giác chân thực và toàn diện là Chánh biến tri. Là bậc có đầy đủ công hạnh và tuệ giác là Minh hạnh túc. Là bậc đã qua tới một cách nhiệm mầu tức là Thiện thệ. Là bậc hiểu thấu thế gian là Thế gian giải. Là bậc nhân sĩ cao tột có khả năng điều phục con người tức là Vô thượng sĩ Điều ngự trượng phu. Là bậc thầy của cả hai giới thiên và nhân tức là Thiên nhân sư. Là bậc tỉnh thức toàn vẹn là Phật. Là bậc được tôn sùng quý trọng nhất trên đời là Thế Tôn.

Niệm Pháp

Diệu pháp của đức Thế Tôn 

Con đường mà chúng con đang nguyện đi theo 

Là giáo pháp đã được nhiệm mầu tuyên thuyết

Là giáo pháp có thể chứng nghiệm ngay trong giờ phút hiện tại

Là giáo pháp có giá trị vượt thoát thời gian

Là giáo pháp mọi người có thể đến mà tự thấy

Là giáo pháp có công năng dẫn đạo đi lên

Là giáo pháp có công năng dập tắt phiền não

Là giáo pháp người trí nào cũng có thể tự mình thông đạt.

Niệm Tăng

Tăng thân của đức Thế Tôn 

Là đoàn thể mà chúng con đang quay về nương tựa

Là đoàn thể đang đi trên đường sáng ngời

Là đoàn thể đang đi trên đường chính trực

Là đoàn thể đang đi trên đường ứng hợp chân lý

Là đoàn thể đang đi trên đường thánh thiện

Là đoàn thể gồm thâu bốn đôi và tám bậc thánh quả

Là đoàn thể xứng đáng được cúng dường

Là đoàn thể xứng đáng được quy kính

Là đoàn thế xứng đáng được tôn sùng

Là đoàn thể xứng đáng được ngưỡng mộ

Là ruộng phước quý hóa nhất trên đời. 

Niệm Giới

Giới pháp của đức Thế Tôn 

Luật nghi chánh niệm mà chúng con đang hành trì 

Là giới thân nguyên vẹn

Là giới thân không bao giờ bị sứt mẻ

Là giới thân không bao giờ bị nhiễm ô

Là giới thân không bao giờ bị tỳ vết

Là giới thân không bao giờ bị hỗn tạp

Là giới thân được người thức giả ngợi khen và hâm mộ

Là giới thân có công năng bảo vệ tự do

Là giới thân đưa tới sự không sợ hãi

Là giới thân đưa tới chánh định

Là giới thân đưa tới tuệ giác

Là giới thân đưa tới giải thoát và hạnh phúc đời đời. 

Bài Bốn phép tùy niệm này cũng phải học hỏi nhiều tuần lễ mới có thể hiểu được một cách sâu sắc. Rất mong các anh chị trong tổ chức Gia đình Phật tử nghiên cứu, học hỏi, thực tập và trao truyền lại cho các em Bốn phép tùy niệm.  

Các Phật tử đến nghe thầy thuyết pháp, có thể có người nghĩ rằng chỉ thầy Nhất Hạnh mới thuyết pháp về những vấn đề thực tế trong đời sống hằng ngày, đưa ra những pháp môn thực tập hữu hiệu để có thể tháo gỡ và chuyển hóa những khó khăn. Nên biết rằng các thầy, các sư cô, các vị giáo thọ cư sĩ Làng Mai đều thuyết pháp như vậy, có nhiều khi còn giảng hay hơn thầy. Ở phương Tây, chúng tôi có 250 vị xuất gia, đào tạo theo phương pháp tu tập này, tìm cách đối diện và giải quyết những vấn đề khó khăn trong đời sống xã hội hiện đại. Từ nghi lễ cho đến cách hành trì học hỏi đều phải đổi mới, làm mới, hiện đại hóa, như vậy mới thích hợp với thế giới phương Tây. 

Hiện nay chúng tôi đã thiết lập được hơn một ngàn tăng thân trên toàn thế giới. Đã có gần năm trăm tăng thân ở Hoa Kỳ. Thành phố Luân Đôn cũng có mười tăng thân. Tuần nào các tăng thân cũng tới với nhau để thực tập ngồi thiền, đi thiền, tụng giới, nghe pháp thoại, pháp đàm. Ngoài các vị giáo thọ xuất gia, chúng tôi còn đào tạo nhiều vị giáo thọ cư sĩ. Những vị giáo thọ cư sĩ không những giảng dạy cho giới Phật tử mà còn giảng dạy trong các nhà thờ, bệnh viện, trường đại học và họ giảng dạy rất hay. 

Nhưng nhu yếu tu học của thế giới quá lớn, vì vậy chúng tôi cần thêm nhiều giáo thọ, xuất gia và tại gia. Nếu có ai muốn đi trên con đường sáng ngời này, con đường tăng thân đang đi để đào tạo những vị xuất gia có khả năng hướng dẫn tu tập thì nên biết rằng đây là con đường đem tới cho ta rất nhiều hạnh phúc và giúp được cho rất nhiều người. Chúng tôi đi vào trong các nhà tù để giúp các tù nhân và các vị quản giáo tu học. Chúng tôi tổ chức những khóa tu cho công an, cảnh sát, cho dân biểu quốc hội, cho bác sĩ, y tá, cho cựu chiến binh, cho đủ hạng người. Bất cứ người nào, từ gốc Do Thái cho đến Cơ Đốc, Tin Lành hay Hồi giáo đều tiếp nhận và thực tập được một cách rất thành công mà không cần phải bỏ đạo gốc của họ. Nhu cầu được hướng dẫn tu học tại phương Tây ngày càng lớn mà chúng tôi không đủ nhân lực, không đủ giáo thọ xuất gia và tại gia. Chúng tôi cần ít nhất là ba ngàn vị xuất sĩ nữa. Ngay trong năm đầu, năm thứ hai được xuất gia, những sư cô, sư chú ấy đã có thể đi phụ tá cho các thầy, các sư cô, các vị giáo thọ và đến năm thứ năm, thứ sáu thì có thể trở thành giáo thọ tập sự. 

Quý vị hãy suy nghĩ thêm, vì con đường này rất sáng, rất đẹp, có thể đem lại rất nhiều hạnh phúc cho đất nước, cho dân tộc và cho thế giới. Ở Việt Nam và phương Tây, chúng ta rất cần các vị giáo thọ như vậy. Nếu quý vị muốn biết thêm về cách thức tu học và giúp người, giúp đời thì ngày hôm nay, quý vị hãy tiếp xúc, nói chuyện để hiểu hơn về nếp sống tu học và hành đạo đã được làm mới cho thích hợp với hoàn cảnh hiện tại. Ở đây, có thể có vị kiếp xưa đã từng là đệ tử của tôi, kiếp này không biết tại sao cứ chần chờ mãi mà không tới trình diện, để tiếp thu giáo pháp, thực tập và trở thành pháp khí để giúp đời, giúp người.

Bên mé rừng đã nở rộ hoa mai là bài thơ nói về một người thầy đang đi tìm đệ tử và một người đệ tử đang đi tìm thầy, nhưng vì chưa có cơ duyên nên hai bên chưa gặp nhau. Tôi sẽ đọc bài thơ để chấm dứt phần chia sẻ của tôi và sẽ đọc bằng giọng Huế. Sau đó, các thầy, các sư cô và Phật tử của phái đoàn Làng Mai sẽ tiếp tục sinh hoạt với đại chúng. 

Bên mé rừng đã nở rộ hoa mai 

Thầy đi tìm con

Từ lúc non sông còn tăm tối

Thầy đi tìm con

Khi mọi loài còn chờ đợi ánh dương lên.

Thầy đi tìm con

Khi con còn đắm chìm trong một giấc ngủ triền miên

Dù tiếng tù và đã vọng lên từng hồi giục giã

Không rời non xưa

Thầy đưa mắt nhìn về phương trời lạ 

Và nhận ra được trên vạn nẻo đường 

Từng dấu chân của con.

Con đi đâu

Có khi sương mù đã về giăng mắc chốn cô thôn

Mà trên bước phiêu linh con vẫn còn miệt mài nơi viễn xứ

Thầy đã gọi tên con trong từng hơi thở

Tin rằng dù con đang lạc loài đi về bên nớ

Con cũng sẽ cuối cùng tìm ra được lối trở về bên ni

Có khi Thầy xuất hiện ngay giữa đường con đi

Nhưng mắt con vẫn nhìn Thầy như nhìn một người xa lạ

Không thấy được mối túc duyên

Không nhớ được lời nguyền xưa vàng đá

Con đã không nhận ra được Thầy

Vì tâm con còn vướng bận những hình bóng xa xôi.

Trong kiếp xưa con đã từng nhiều lần 

Nắm tay Thầy rong chơi

Thầy trò ta đã ngồi thật lâu 

Cạnh những gốc thông già trăm tuổi

Đã từng đứng yên 

Cùng lắng nghe tiếng gió thì thào mời gọi 

Và ngắm nhìn những cụm mây trắng bay

Con đã từng nhặt đưa Thầy 

Những chiếc lá ngô đồng đầu thu đỏ thắm

Thầy đã từng đưa con vượt qua 

Những khu rừng tuyết phủ giá băng

Nhưng đi đâu Thầy trò ta cũng luôn luôn trở về

Nơi non xưa chốn cũ, để được gần gũi sao trăng

Để được mỗi khuya gióng tiếng chuông đại hồng 

Cho mọi loài tỉnh thức.

Thầy trò ta đã từng ngồi yên trên An Tử Sơn 

Cùng đại sĩ Trúc Lâm 

Bên những cây đại già nở hoa thơm ngát

Đã từng đưa tàu ra khơi vớt người thuyền nhân phiêu dạt

Đã từng giúp thiền sư Vạn Hạnh thiết kế thành Thăng Long

Đã từng cùng nhau đánh tranh dựng chiếc thảo am bên sông

Và giăng lưới vớt Trạc Tuyền 

Khi Tiền Đường đang đùng đùng dậy sóng.

Thầy trò ta đã mở lối bước lên trời ngoại phương lồng lộng

Sau bao tháng ngày công phu chọc thủng lưới thời gian

Đã từng cất giữ được ánh sáng của những vì sao băng

Làm đuốc soi đường cho những ai muốn trở về 

Sau những tháng ngày rong ruổi

Nhưng cũng có khi 

Hạt giống lãng tử trong con bừng sống dậy

Con đã rời bỏ Thầy, rời bỏ huynh đệ 

Một mình thất thểu ra đi…

Thầy nhìn con xót thương

Tuy biết rằng đây không thực sự là một cuộc phân kỳ

Bởi vì con đang có Thầy nơi từng tế bào trong cơ thể

Biết con còn phải thêm một lần đóng vai người cùng tử

Nên Thầy đã nguyện sẽ có mặt đó cho con 

Mỗi lần con gặp bước gian nguy.

Có khi con nằm thiếp đi 

Trên cát nóng sa mạc chốn biên thùy

Thầy đã hóa thân làm đám bạch vân đem cho con bóng mát

Đến giữa khuya đám mây đọng lại thành sương, 

Cam lộ rơi từng hạt để con uống lấy trong cơn mê

Có khi con ngồi dưới vực sâu tăm tối, 

Hoàn toàn cách biệt trời quê

Thầy đã hóa thân thành chiếc thang dài 

Và nhẹ nhàng bắc xuống

Cho con leo lên vùng chan hòa ánh sáng

Để tìm lại được màu trời xanh và tiếng suối tiếng chim.

Có lúc Thầy nhận ra được con ở Birmingham

Ở quận Do Linh hay miền Tân Anh Cát Lợi

Có lúc Thầy gặp con ở Hàng Châu, Hạ Môn hay Thượng Hải

Có khi Thầy tìm được con ở Saint Petersburg, 

Hoặc ở Tây Bá Linh

Có khi mới lên năm mà thấy con, 

Thầy cũng nhận được chân hình

Thấy được hạt giống bồ đề nơi con, 

Mang trong trái tim còn niên thiếu

Thấy con, Thầy đã luôn luôn đưa tay lên làm dấu hiệu

Dù nơi gặp con là ở miền Kinh Bắc, vùng Bến Nghé 

Hay cửa biển Thuận An

Có khi con là trái trăng vàng ửng chín 

Lơ lửng treo trên đỉnh Kim Sơn

Hay là con chim con chiêm chiếp kêu đêm đông 

Bay qua rừng Đại Lão

Rất nhiều khi Thầy thấy được con 

Nhưng con không thấy được Thầy,

Dù trên nẻo con đi sương chiều đã thấm vào ướt áo

Vậy mà cuối cùng con cũng đã trở về.

Con trở về ngồi dưới chân Thầy nơi chốn non xưa

Để rồi tiếng chim kêu tiếng vượn hú 

Lại cùng hòa với tiếng công phu sớm trưa

Con đã về bên Thầy, 

Thực sự muốn chấm dứt cuộc đời lãng tử.

Sáng nay chim chóc ca mừng vầng ô lên rạng rỡ

Con có hay

Trên bầu xanh mây trắng vẫn còn bay?

Con ở đâu? Cảnh núi xưa còn đó nơi hiện pháp chốn này

Dù đợt sóng bạc đầu 

Vẫn còn đang muốn vươn mình đi về phương lạ

Nhìn lại đi, Thầy đang ở trong con, 

Và trong từng nụ hoa, chiếc lá

Nếu gọi tên Thầy, con sẽ tự khắc thấy Thầy ngay

Con đi đâu? Cây mộc già đã nở hoa, thơm nức sáng nay

Thầy trò ta thật chưa bao giờ từng cách biệt

Xuân đã về, các cội thông đã ra chồi óng biếc 

Và bên mé rừng đã nở rộ hoa mai.