Kinh Duyên sinh
Nhân đây, chúng ta phải dùng cơ hội này để học qua hai kinh đã được giới thiệu ở trên là kinh Duyên sinh (kinh 296) và kinh Đại không (kinh 297), thuộc bộ Tạp A hàm.
Trước hết chúng ta đọc kinh Duyên sinh. Thật ra, kinh này gọi là kinh Nhân duyên và Duyên sinh. Bụt nói về giáo lý Mười hai nhân duyên.
Hồi đó Bụt ở tại thành Vương Xá, trong vườn trúc Ca Lan Đà. Bấy giờ đức Thế Tôn nói với các vị tỳ kheo: Hôm nay, tôi sẽ nói về pháp nhân duyên và pháp duyên sinh.
Thế nào là pháp nhân duyên? Nghĩa là: “Vì cái này có nên cái kia có. Vì duyên vô minh nên có hành. Duyên hành cho nên có thức… Và cứ thế mà cả khối khổ đau kết tập lại. Thế nào là pháp duyên sinh? Đó là duyên vô minh có hành, duyên hành có thức. Dù Bụt có xuất hiện hay không xuất hiện trên thế gian này thì pháp này vẫn thường trụ, ở trong pháp giới. Pháp nhân duyên này đã được Như Lai tự mình giác tri, vì vậy Như Lai đã trở thành bậc chánh đẳng chánh giác và đem diễn nói cho những người khác, chỉ dạy cho những người khác. Giảng rằng: vì duyên vô minh mà có hành, vì duyên hành mà có thức… và rốt cuộc có già, có bệnh, có chết; có ưu, bi, khổ não và cả khối khổ đau tụ tập. Dù Thế Tôn có xuất hiện hay không xuất hiện trên thế gian này thì pháp nhân duyên này vẫn thường trụ trong pháp giới. Các pháp này – pháp trụ, pháp không, pháp như, pháp nhĩ – pháp chẳng lìa như, pháp chẳng khác như, xét kỹ chân thật, chẳng điên đảo.
Nếu nhìn cho kỹ vào các pháp thì thấy được tính duyên khởi của các pháp, ví dụ như nhìn vào bông hoa, nhìn vào cái bàn hoặc nhìn vào nỗi khổ niềm đau thì ta sẽ thấy được tính nhân duyên. Tính nhân duyên nói cho rõ là dưới hình thức mười hai yếu tố. Và pháp nhân duyên này, dù Bụt có ra đời hay không ra đời thì vẫn tồn tại ở trong các pháp. Vì đã chứng ngộ nên Bụt thấy rất rõ pháp nhân duyên và đem chỉ bày cho người khác để họ quán chiếu và cũng thấy như Bụt, mà không phải Bụt đặt ra giáo lý nhân duyên. Do đó, nhiều danh từ trong bản kinh này được Phật giáo Đại thừa sử dụng và phát triển vì trong Phật giáo Nam tông, người ta không phát triển đủ về giáo lý thâm sâu mầu nhiệm này.
Thử đẳng chư pháp, pháp trú, pháp không, pháp như, pháp nhĩ, pháp bất ly như, pháp bất dị như.
Thử đẳng chư pháp: những pháp vừa nói
pháp trú: chữ trú này có nghĩa là ở – ở trong lòng thực tại, trong lòng bông hoa, trong lòng cái bàn, trong lòng nỗi khổ niềm đau. Reality as it is. Pháp trú là pháp ở trong chân như của nó, ở trong lĩnh vực không sinh không diệt, không thể nắm bắt bằng khái niệm của ta. Tại vì ta hay dùng trí óc để nắm bắt các pháp mà các pháp thì không thể nắm bắt được, vì các pháp nằm trong bản tính chân như của nó. Trong kinh Pháp hoa có câu “thị pháp trú pháp vị” – các pháp ở trong địa vị của nó, ta không thể lấy ra khỏi địa vị đó được. Địa vị của nó là không sinh, không diệt, không ngã, không ngã sở, nhưng ta cứ nắm bắt nó bằng vợt, như cái vợt ta dùng để bắt chuồn chuồn, bươm bướm. Đầu óc của ta cũng vậy, có nhiều lưới, đó là lưới ta, lưới người, lưới ngã… Nếu đem những cái lưới đó mà bắt các pháp thì không bắt được vì các pháp nằm trong tự thân của nó.
Pháp không, chữ không này là vượt thoát tất cả mọi ý niệm. Nói có cũng không được, nói không cũng không được, nói sinh cũng không được, nói diệt cũng không được, nói một cũng không được, nói khác cũng không được; bất cứ ý niệm nào của ta đều không thể nắm bắt được. Pháp không là pháp nằm trong tự tánh chân không của nó. Những danh từ này được đạo Bụt Đại thừa khai triển rất rõ ràng về sau. Phật giáo Bộ phái không chú ý lắm về pháp không. Những hạt giống quý giá trong đạo Bụt không được đem ra gieo trồng để biểu hiện thành những cây giáo lý mầu nhiệm, vì vậy rất thiệt thòi và đáng tiếc.
Pháp như: Như là chân như, as it is. Ta không thể nói gì được, nó là nó thôi, ta không thể gọi tên, không thể diễn tả được.
Pháp nhĩ: Nhĩ là tự nhiên – tự nhiên như nhiên, pháp nhĩ tự nhiên.
Pháp bất ly như: Pháp không bao giờ lìa ra khỏi bản tính chân như của nó.
Pháp bất dị như: Pháp không khác bản tánh chân như của nó. Đây là những danh từ rất mầu nhiệm và nằm ngay trong kinh điển nguyên thủy. Ta nên nhớ đây không phải là kinh Đại thừa.
Thẩm đế chân thật bất điên đảo.
Thẩm là quán chiếu cho chín chắn, sâu sắc – reflecting, meditating, experimenting.
Đế là sự thật, chân thật (truly), như Tứ đế.
Bất điên đảo là không nói ngược lại. Điên đảo tiếng Anh là upside down. Ví dụ nó là vô ngã mà ta nói ngã, nó là vô thường mà ta nói thường, người đó là cha ta mà ta nói ta không dính líu gì đến người đó hết.
Như thị tùy thuận duyên khởi, thị danh duyên sinh pháp: Cứ như vậy mà tùy thuận theo lý duyên khởi, cứ như vậy mà biểu hiện và ẩn tàng tùy theo luật duyên khởi thì đó gọi là duyên sinh pháp. Những điều trên cắt nghĩa thế nào là pháp duyên sinh. Ta nhận thức, nhìn sâu trong mười hai nhân duyên thì thấy được bản tính các pháp là pháp trú, pháp không, pháp như, pháp nhĩ, pháp bất ly như, pháp bất dị như. Đức Thế Tôn có nói rằng: “Người nào thấy được duyên khởi tức người đó đã thấy Bụt. Người nào thấy Bụt rồi tức là đã thấy được lý duyên khởi.” Và nhìn vào đó ta không thấy cái gọi là “tôi” (ngã) và “của tôi” (ngã sở).
Cho nên, đa văn thánh đệ tử ư thử nhân duyên pháp, duyên sinh pháp chánh tri thiện kiến. Những người nào có được cái thấy chân chính về duyên sinh thì những người đó không theo đuổi, băn khoăn về quá khứ và đặt ra những câu hỏi: Trong quá khứ có tôi hay không có tôi? Trong quá khứ tôi là cái gì, tôi là ai? Trong quá khứ hình tướng của tôi như thế nào? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức của tôi như thế nào? Chỉ khi nào ta không thấu triệt được tính nhân duyên, chỉ khi nào ta còn kẹt vào ý niệm ngã và ngã sở thì ta mới đi tìm và đặt những câu hỏi như vậy về quá khứ.
Người đó cũng không băn khoăn về tương lai mà hỏi: Trong tương lai tôi có hay không có? Nếu có thì tôi sẽ là cái gì, con gì? Hình thể và tâm tư tôi sẽ như thế nào?
Khi trở về với tự thân trong giây phút hiện tại, người đó cũng không có những băn khoăn mà hỏi rằng: Tôi là ai? Tại sao tôi lại có mặt trong cuộc đời này? Trước kia tôi là ai và sau này tôi sẽ thành cái gì? Hình tướng và nội dung của tôi sẽ như thế nào? Tôi từ đâu tới và tôi sẽ đi về đâu?
Đó là những câu hỏi của triết học. Đức Thế Tôn nói sở dĩ đặt những câu hỏi như vậy là bởi vì ta kẹt vào ý niệm về ngã và ngã sở. Nếu thấy được nhân duyên và vượt thoát ý niệm tôi và của tôi thì ta sẽ không còn hỏi những câu dại khờ như vậy. Đức Thế Tôn không bao giờ để thì giờ nghiên cứu triết học, dù là triết học phương Đông hay phương Tây. Bụt dành thì giờ quán chiếu, nhìn vào thực tại để thấy được pháp trú, pháp không, pháp như, pháp nhĩ, pháp bất ly như, pháp bất dị như. Khi thấy được bản chất của duyên khởi rồi thì không còn kẹt vào ý niệm về ngã, ý niệm về có, về không và lúc đó sẽ không băn khoăn về những câu hỏi mang tính triết học nữa.
Khi thấy được bản chất của duyên khởi thì ta không còn bị những cái thấy phàm tục ràng buộc.
Khi đã tùy thuận, tùy nhập được lý duyên khởi rồi, ta sẽ vượt thoát những sợi dây ràng buộc gọi là phàm tục kiến, 凡俗見, tức là những cái thấy, những kiến chấp phàm tục. Những phàm tục kiến này trước hết là ngã kiến, 我見, tức là kiến chấp về ngã (the view on self, what belongs to self). Ta không còn bị trói buộc bởi kiến chấp về ngã. Thứ hai là chúng sinh kiến, 衆生見. Ta không bị kẹt vào ý niệm về chúng sinh. Kế đó là ta không bị kẹt vào ý niệm về thọ giả kiến, 夀者見 (thọ mạng). Thứ tư là ta không bị kẹt vào những cái kỵ húy cát khánh, 忌諱吉慶. Kỵ húy cát khánh nghĩa là ta chấp ngày này, giờ kia thì cấm kỵ cái gì, rồi là ngày này tốt, ngày kia xấu… Những thứ này cũng là một biểu hiện cái chấp của ta, tức là ta tin vào bói toán tương lai, như là muốn bói một quẻ để biết tương lai của ta như thế nào. Những điều này ta chỉ làm khi còn mịt mờ về duyên sinh. Một khi đã biết được duyên sinh, biết được sự sống của ta thênh thang không bị ràng buộc vào ý niệm ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả thì lúc đó ta không còn bị ràng buộc bởi sợi dây kỵ húy cát khánh nữa.
Chúng ta đang đọc kinh A hàm mà giống như đang đọc kinh Kim cương vì trong kinh Kim cương Bụt cũng nói rằng ta đừng để kẹt vào ngã tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng. Có phải kinh Kim cương bắt nguồn từ kinh này và chúng ta có thấy những hạt giống của kinh Kim cương nằm sẵn trong kinh A hàm hay không? Trong bản kinh chúng ta không thấy tướng nhân (ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả). Vì vậy, vượt thoát ngã kiến, thọ giả kiến, chúng sinh kiến đúng là giáo lý của kinh Kim cương. Kinh Kim cương nằm trong kinh A hàm cho nên chỉ cần đọc kinh A hàm cho kỹ là thấy kinh Kim cương. Khi ta bị kẹt vào ý niệm ngã, ý niệm chúng sinh, ý niệm thọ giả tức là ta chưa thấy được duyên sinh và ta đặt ra những câu hỏi triết học.
Đức Thế Tôn nói rằng khi đã vượt thoát được những kiến đó rồi thì vọng tưởng điên đảo không thể phát sinh ra được, cũng như một cây kè bị chặt đứt ngọn, không lớn lên được và chết. Sự u mê, vô minh cũng vậy, khi thấy được duyên khởi, vượt thoát các ý niệm về ngã, thọ giả, chúng sinh thì ta không còn bị vướng vào vòng vô minh, khổ đau và luân hồi nữa.
Sư em Uy Nghiêm mới tu chưa được nửa năm, đã viết cho thầy một đoạn rất hay. Đây là lá thơ sư em viết hôm 11 tháng Chạp năm 1997: “Bạch Thầy, cách đây một tuần con có thấy được điều này trong buổi thiền tọa sáng. Sáng hôm ấy con ngồi thật vững và thoải mái bên cạnh sư cô Chân Đức. Tiếp theo con quán chiếu và con thấy con cũng như những gì đang được biểu hiện trên cuộc đời là do các pháp hợp lại mà thành, và vì pháp là vô thường cho nên con nghĩ nếu như sau này con không còn mang thân tướng này nữa thì không biết các pháp sẽ hợp lại và đan thành cho con một chiếc áo khác ra sao?” Đúng là một câu hỏi triết học. “Nếu như là người thì con có thể là bất cứ một người nào, còn nếu như là chim, là cá, hay là hoa thì con cũng có thể là bất cứ một con chim, một con cá hay một bông hoa nào.” Sư em bắt đầu phóng tưởng về tương lai và thấy rằng nếu các pháp do duyên sinh thì ta có thể là bất cứ cái gì, là bất cứ người nào, là bất cứ con gì. “Bỗng dưng con thấy được rằng con không sẽ là, mà con đang là.” Tự nhiên sư em không quan tâm đến chuyện ta sẽ là cái gì nữa mà trở về để nhìn lại xem ta đang là cái gì. “Vì giờ đây con không biết được mình sẽ là gì thì trước khi con là con, con cũng đâu có biết được mình sẽ trở thành may mắn như vậy.” – Tức là được làm sư cô. Bây giờ trở về quá khứ, trong quá khứ ta cũng đâu biết được rằng ta sẽ làm sư cô. “Con đang có thể là bất cứ ai hay bất cứ cái gì. Con thấy được con đang là một người nghèo khổ nhất trong đời, có những hành động, suy nghĩ và nỗi lo của con người nghèo khổ và không may mắn đó. Rồi con thấy được con đang là một người cao quý nhất, may mắn nhất. Rồi con thấy con là người này, là người kia. Con thấy con cũng đang là Thầy nữa. Không những vậy, con thấy mình đang là con này rồi con kia, đang là cái này rồi cái kia. Cái thấy này cho con thông cảm hết tất cả, thương yêu hết tất cả và quý trọng hết tất cả. Ngay khi có cảm giác đó con thấy người mình sao thật là nhẹ.” Tức là sư em có được một tia sáng của tuệ giác, thấy ta đang là bất cứ ai, bất cứ con nào, bất cứ cái gì. “Nhưng lạ quá, ngay khi đó con lại có cảm giác như mình muốn buông xuôi cả người để đi mãi vào cái cảm giác nhẹ nhàng và sung sướng đó. Con thấy được rằng lúc ấy con lại vừa cười vừa khóc nữa. Con hạnh phúc quá đi. Tình thương con bây giờ không chừa ra bất cứ một ai. Tiếng chuông xả thiền đã được sư chị Thắng Nghiêm thỉnh lên. Lòng con nhủ thầm thật là tiếc. Tiếp theo đó, con thấy con là một với người sư chị mà con đang nhìn. Con thấy con là một với những gì con đang được tiếp xúc, cả những cành cây, những hạt sỏi trên con đường đi thiền hành mà con được đi cùng sư cô Chân Đức.” Sư em rất thương sư cô Chân Đức, được sư cô Chân Đức cho ở cùng phòng và được đi thiền với sư cô. “Khi về phòng sau buổi thiền hành, con giúp sư cô máng áo, sư cô nhìn con mỉm cười cảm ơn. Lúc đó, con muốn thốt lên một câu hỏi. Con muốn hỏi sư cô rằng: Sư cô ơi, sư cô có biết nụ cười trên môi sư cô là của con đang cười đó không? Đây là những điều làm lòng con nao nao muốn viết thư chia sẻ với Thầy.”
Khi đọc những dòng trên, ta có cảm tưởng rất rõ đây không phải là nói lý, đây không phải là chép lại những điều đã được học trong kinh, mà sư em nói thật cái thấy của sư em. Khi có một chí nguyện tu học, khi tuổi còn trẻ, khi năng lượng còn nhiều, khi có sự khao khát học hỏi thì không hẳn là ta phải học bốn năm, sáu năm, tám năm mới tiếp thu được tinh túy của đạo Bụt. Chỉ cần nghe một vài buổi pháp thoại với trái tim rộng mở thì ta đã có thể thấy được cái tinh túy của giáo pháp và sống với sự thật. Trong thư này sư em cũng nói vài điều tương tự, ví dụ: “Sáng đó con mặc áo đi ra ngoài trước để chờ sư cô cùng ra đi thiền hành với con, con nhìn lên trời thì thấy đám mây hôm qua không còn nữa. Con nghĩ rằng có lẽ đám mây đó ăn chất lạnh hơi nhiều nên nó nặng và nó đã rơi xuống. Bây giờ có thể nó đã nằm trong tuyết hoặc nó chun vào trong những thân cây để đợi mai mốt biểu hiện ra thành những chiếc lá.” Khi sư em có những cái thấy đó chứng tỏ sư em có hạnh phúc trong khi tu tập, quán chiếu. Chỉ khi nào biết sống đời sống hằng ngày với con mắt quán chiếu như vậy thì ta mới mau có tuệ giác và tuệ giác đó đưa ta tới hạnh phúc, vượt thoát các ý niệm về ngã, ta không còn băn khoăn vì các câu hỏi của các nhà triết học.
Ngày xưa, sau một thời gian quán chiếu, thầy có làm bài thơ Người hành khất năm xưa còn ngồi đó. Bài thơ này thai nghén từ năm 1966. Hôm đó, thầy thấy một con sâu đo đang du hành trên một cành hoa hồng.
Từ khoáng, từ khí, từ sương
Từ tâm linh
Từ những giới tử du hành giữa các tinh vân đi mau
bằng ánh sáng
Em đã tới đây, đôi mắt xanh tỏa rạng
Vô thỉ và vô chung đã cùng vạch đường đưa lối em sang.
Trên đường đi em bảo em đã trải qua muôn triệu kiếp
luân hồi sinh diệt
Đã từng làm bão lửa trên không
Đã từng đem thân đo tuổi núi tuổi sông
Làm cỏ, làm cây, làm sinh vật đơn tế bào,
Làm đóa hoa diễm tuyệt
Nhưng đôi mắt em nhìn tôi sáng nay
Lại chứng minh rằng em chưa bao giờ từng chết
Nụ cười kia vẫn mời tôi
Tham dự nữa vào trò chơi đã bày ra từ tiền kiếp:
Trò chơi đi trốn đi tìm.
Hỡi con sâu xanh sáng nay đang uốn mình đo chồi cây
Chồi cây non đã mọc suốt mùa hè năm ngoái
Ai cũng bảo em chỉ mới sinh ra trong mùa xuân năm nay
Thực ra, ngươi đã có mặt từ hồi nào?
Sao mãi đến giây phút này mới chịu hiện nguyên hình,
đem theo nụ cười trầm lặng?
Sâu ơi, mỗi hơi thở của tôi làm tuôn ra hàng vạn tinh cầu
Cái rất lớn kia, ai hay, lại không ngoài cái thân em rất nhỏ
Ở mỗi chấm trên thân em đã thiết lập muôn ngàn cõi Bụt
Và mỗi cái đo của em cần đến thời gian từ vô thỉ
cho tới vô chung.
Người hành khất năm xưa vẫn còn trên Linh Thứu Sơn
Thản nhiên ngồi nhìn mặt trời huy hoàng đang lặn
Gotama! Ô hay! Ai bảo rằng Ưu Bát Đa La
triệu năm mới có một lần nở?
Tiếng hải triều kia, có chiếc tai nào chịu lắng mà lại
không nghe?
Giới tử có nghĩa là meson, là danh từ Triết học, chứ không phải là người sắp thọ giới. Tất cả chúng ta đều là những chất khoáng, chất khí, chất sương, đều là những điện tử, những giới tử, những hạt bụi và chúng ta đã du hành từ lâu. Ta với con sâu, đã từ lâu, tham gia vào trò chơi trốn tìm, khi thì ta biến hiện thành thế này, khi thì thành thế kia. Ta nói rằng đức Thế Tôn ngồi trên đỉnh núi Thứu 2.600 năm về trước và bây giờ ta leo lên đó thì không thấy Ngài nữa. Nhưng kỳ thực, Người hành khất năm xưa vẫn còn trên Linh Thứu Sơn. Thản nhiên ngồi nhìn mặt trời huy hoàng đang lặn. Nếu ta không bị kẹt vào tướng ngã, tướng chúng sinh, tướng thọ giả thì tại sao ta không thấy được đức Thế Tôn trong giờ phút hiện tại? Hễ có mắt là ta có thể nhìn thấy, hễ có tai là ta có thể nghe và đóa hoa Ưu Bát kia vẫn đang nở. Tiếng hải triều kia, có chiếc tai nào chịu lắng mà lại không nghe?
Chúng ta hãy xem lại kinh Duyên sinh. Đó là kinh 296 trong Tạp A hàm. Chữ tạp ở đây người ta thường hiểu là linh tinh (miscellaneous), vụn vặt, do đó gây ra ấn tượng hơi tiêu cực. Nhưng thực sự, Tạp A hàm là bộ kinh chứa đựng những tinh túy của kinh điển. Nhìn vào Tạp A hàm, ta thấy tính nguyên chất của Phật pháp hơn những bộ A hàm khác như Trường A hàm, Trung A hàm hay Tăng nhất A hàm, vì những bộ này có sự sắp xếp, còn Tạp A hàm thì rất tự nhiên và rất nguyên chất. Do đó, nếu muốn đi gần tới giáo lý nguyên thủy của đức Thế Tôn càng nhiều càng tốt thì thầy khuyên quý vị hãy tới với Tạp A hàm. Đây là một tập hợp các kinh nhỏ nhưng chứa đựng rất nhiều những giáo lý thuần khiết của Phật pháp.
Kinh Trung đạo nhân duyên, kinh Duyên sinh và kinh Đại không ở trong Tạp A hàm. Kinh Duyên sinh, thực ra phải gọi là kinh Nhân duyên và Duyên sinh, nhưng ý nghĩa của nhân duyên và duyên sinh cũng gần như nhau nên chúng ta gọi tắt là kinh Duyên sinh. Chữ nhân duyên là những điều kiện tất yếu. Chữ nhân (因, the principal cause/condition) có nghĩa là hạt giống, là nguyên do chính. Chữ nhân (因) có chữ đại (大) ở giữa. Đại là một cái gì đó rất lớn, nhưng hiện tại nó đang bị cầm tù trong một khuôn khổ rất nhỏ; nếu cho nó những điều kiện thì những giới hạn đó sẽ tiêu tan và nó sẽ trở thành lớn. Chữ duyên là những điều kiện nhưng không gọi là những điều kiện chính. Vì vậy, khi ta nghĩ về một hạt cải, ta thấy hạt cải là một cái nhân, nó nhỏ như vậy vì chưa có những điều kiện khác. Ta đem gieo hạt cải xuống đất ướt và tưới nước thì nó bung ra, thành một cây cải rất lớn. Những điều kiện như đất, nước, sức nóng, phân bón gọi là duyên. Duyên tức là một nhân và nhân tức là một duyên. Nhân là duyên chính, và duyên là những nhân phụ thuộc vào. Ta có thể dịch nhân duyên là những điều kiện tương quan tương duyên (inter-dependent origins hoặc là dependent co-arising; dependent là nương vào nhau, không thể đứng một cách độc lập được; co- là cùng nhau, cùng một lúc, chung với nhau; arising tức là phát khởi, 發起). Nền độc lập gọi là Independence. Ở Mỹ, có những Phật tử hiểu lý duyên khởi, họ nói rằng nước Mỹ không thể nào đứng vững được nếu không có những nước khác. Cho nên thay vì mừng Ngày độc lập thì họ đổi thành mừng Ngày liên lập (Celebrating the Independence Day – Celebrating the Interdependence Day). Interdependence là cái này nương vào cái kia mà có mặt.
Nhân duyên là một danh từ và duyên sinh là một danh từ khác. Nhân duyên là interdependent origins và duyên sinh là dependent co-arising. Định nghĩa trong kinh Duyên sinh cũng như trong kinh Đại không là thử hữu cố bỉ hữu, thử khởi cố bỉ khởi; 此有故彼有, 此起故彼起; This is because that is, this arises because that arises; Cái này có mặt cho nên cái kia có mặt. Định nghĩa này trong kinh A hàm được lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Ta có thể nói: “thử sinh cố bỉ sinh”, nhưng chữ khởi hay hơn chữ sinh, khởi tức là dấy lên, biểu hiện ra. Đó là định nghĩa chính thức của Duyên khởi, Duyên sinh trong kinh điển, có thể nói là định nghĩa hay nhất. Hay nhất một phần vì nó đơn giản, không thể đơn giản hơn. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt. Ở Làng Mai, ta có thêm một câu nữa là: Cái này như thế này vì cái kia như thế kia. Tại vì ta nhăn mặt nên tấm kính cũng nhăn mặt lại, tại ta mỉm cười nên tấm kính cũng mỉm cười lại, tại ta dễ thương nên sư anh dễ thương…
Trong đạo Bụt chúng ta có nhiều thuyết về nhân duyên. Có thuyết nói về bốn duyên, có thuyết nói về mười hai duyên, hai mươi duyên, hai mươi hai duyên. Duyên ở đây có nghĩa là điều kiện, những điều kiện liên hệ nhau để làm biểu hiện ra cái mà ta gọi là có; khi những điều kiện đó không giao tiếp với nhau đầy đủ, cái đó không biểu hiện thì ta thường gọi cái đó là không có. Khi những điều kiện giao nhau, liên hệ với nhau thì ta nhận thức được các pháp, có tri giác về các pháp và đạo lý nhân duyên – sự vận hành của các pháp, dù các đức Thế Tôn ra đời hay không thì nó vẫn là nền tảng của thực tại. Quy luật đó, sự thật đó luôn luôn có mặt và tồn tại trong lĩnh vực của các pháp, cho nên trong kinh này có câu Thử pháp thường trụ, pháp trụ pháp giới; 此法常住, 法住法界. Sự thật này/các pháp này luôn luôn có mặt trong pháp giới. Chữ pháp giới (dharmadhātu) thường được dùng kèm với danh từ thế giới (lokadhātu). Thế giới là danh từ chỉ cõi mà trong đó người ta thấy rằng sự vật có sinh có diệt, cái này độc lập với cái kia. Ví dụ như cây bưởi nằm ngoài cây chanh, hồ sen nằm ngoài thiền đường. Còn pháp giới là chiều sâu của thực tại, trong đó mọi hiện tượng đan vào nhau, không thể tách rời, hồ sen không thể nằm ngoài thiền đường, thiền đường không thể nằm ngoài hồ sen, sư anh không thể nằm ngoài sư em được. Pháp giới là thế giới trong đó các pháp nương vào nhau mà thành, trong cái một có cái tất cả. Do đó, ta cần phân biệt hai danh từ pháp giới và thế giới. Pháp trú pháp giới tức là các pháp an trú trong pháp giới, nếu ta tiếp xúc được với chúng một cách sâu sắc thì ta có thể thực chứng được tính vô sinh bất diệt của các pháp; còn nếu ta nhận thức cạn cợt thì ta chỉ đi trong thế giới, thấy các pháp có sinh có diệt, đứng riêng một mình, không dính líu gì tới các pháp khác. Vì vậy trong kinh Duyên sinh ta phải để ý tới danh từ pháp trú pháp giới. Thật ra, theo chân lý nhân duyên này thì các pháp đều đang an trú trong pháp giới tính của nó. Ta có pháp giới tính của ta, bông hoa có pháp giới tính của bông hoa. Nếu ta tiếp xúc được pháp giới tính của ta thì ta vượt khỏi ý niệm sinh diệt, có không, còn mất. Nếu ta tiếp xúc được pháp giới tính của bông hoa thì ta không thấy bông hoa vô thường, sinh diệt, có không nữa. Vì vậy, ý niệm “pháp trú pháp giới” rất quan trọng. Ta có thể tìm thấy tinh hoa của Phật giáo Đại thừa trong những kinh nguyên thủy như kinh Duyên sinh này.
Trong kinh, ta thấy danh từ thử đẳng chư pháp – “các pháp đó”. Các pháp đó tức là các pháp duyên sinh. Đó là pháp trú, pháp như, pháp không, pháp nhĩ, pháp bất ly như, pháp bất dị như. Cái này ta đã học kỳ trước.
Khi ta quán sát cho thật kỹ lưỡng – thẩm sát chân thật bất điên đảo và không nhìn một cách lộn ngược đầu thì ta có thể đi vào trong duyên khởi. Tùy thuận ở đây là đi theo, thể nhập, hòa làm một vào dòng của duyên khởi. Lúc đó, ta thực chứng được pháp gọi là duyên sinh pháp. Nhờ đó ta có được hiểu biết chính xác và tuyệt đối về nó. Đó là chứng nhập. Tùy thuận ở đây nghĩa là chứng nhập. Đi theo và thể nhập được thì ta biết rõ thế nào là duyên sinh pháp.
Khi đã thấy được rồi thì ta không còn băn khoăn, hướng về quá khứ để hỏi rằng trong quá khứ ta đã có mặt hay không, ta có hay ta không có, nếu ta có mặt trong quá khứ thì ta là con gì, là người nào, hình thái và nội dung của ta ra sao. Và ta cũng không băn khoăn về tương lai, đặt câu hỏi là trong tương lai ta sẽ có hay là ta sẽ không có. Nếu có thì ta làm loại gì và hình tướng ra sao. Và khi trở về nội thân hiện tại, ta cũng không cần đặt những câu hỏi vô ích như ta là ai, ta có hay ta không có. “Ai bảo dùm: ta có, có ta không.” Đó là một câu thơ của Chế Lan Viên. Ta có hay là ta không có, ta từ đâu tới, ta sẽ đi về đâu. Đó là những câu hỏi ta đặt ra khi ta chưa tùy thuận được vào lý duyên khởi.
Khi ta đã tùy thuận, tùy nhập vào lý duyên khởi rồi thì ta vượt thoát được những sợi dây ràng buộc. Trước hết là tà kiến, rồi tới chúng sinh kiến, thọ mạng kiến, húy kỵ cát khánh kiến. Húy kỵ cát khánh kiến tức là ta tin vào bói toán, thích hỏi về số phận tương lai của ta ngày mai như thế nào? Biết ra sao ngày sau? Nhưng khi bói Kiều thì khác, bói Kiều không phải để biết ngày mai ra sao, mà để hỏi chư vị Tổ tiên, con phải làm sao cho đúng, học hành xử thế cách nào cho hay? Cụ Nguyễn Du luôn luôn nói con phải làm cái này thì con mới được cái kia… Cụ Nguyễn Du thường dạy về lý nhân quả.
Khi đã vượt thoát những cái tương đương với Tứ tướng trong kinh Kim cương thì ta sẽ đạt tới trạng thái vô sinh bất diệt, gọi là bất sinh pháp. Có khi ta cũng gọi bất sinh pháp là vô sinh: Cửa vô sinh mở rồi. Vô sinh là bất sinh bất diệt, đó là pháp giới, là bản chất của niết bàn.
Phải tu tập cho khéo léo thì mới tùy thuận được lý duyên khởi. Cho nên chúng ta thấy những danh từ trong câu: ư nhân duyên pháp, duyên sinh pháp, như thật chánh tri, thiện kiến, thiện giác, thiện tu, thiện nhập. Đối với pháp duyên sinh ta có “tri kiến như thật”. “Như thật” tức là không bóp méo. Thiện kiến là khéo thấy, thiện giác là khéo thức tỉnh, thiện tu là khéo thực tập, thiện nhập là khéo đi vào. Tức là đòi hỏi ta phải có sự khéo léo trong khi tu học. Tu học là phải khéo léo chứ không phải lao động cực nhọc. Không phải vì lao động cực nhọc nhiều mà ta thành đạo được. Khéo léo ở đây là thiện, thiện kiến, thiện giác, thiện tu, thiện nhập. Phải đem sự thông minh của ta ra thực tập.
