Chia sẻ về cái “tưởng”, chuẩn bị cho anh thấy một cách từ từ em Thơ của anh là… một giọt nước cách mạng đi trong dòng sông cách mạng cùng với nhiều người

Trong lá thư dài viết ngày 21.9.1989 viết cho Hoàng Cầm, tôi có nói là nếu một ngày mai thi sĩ Hoàng Cầm gặp tôi anh có thể vỡ mộng, tại vì anh đã xây dựng trong đầu anh một hình ảnh Cần Thơ quá đẹp, và nếu tôi viết lá thư này thật dài là cũng để chuẩn bị cho anh không bị hụt hẫng khi gặp tôi và biết rõ thực tại về tôi. Tôi không phải chỉ là một cô gái biết mê thơ, mà là một cô gái có tinh thần cách mạng, từ năm 16 tuổi đã không chấp nhận được tình trạng bất công và áp bức của xã hội. Có một lần tại Paris, trong một buổi họp với người Việt, tôi mặc áo dài trắng, tóc dài thả phía sau lưng, nhiều người tưởng tôi là một cô gái rất hiền dịu, rất thuỳ mị, nhưng khi nghe tôi phát biểu họ khá… giật mình, thấy vừa kính nể nhưng cũng vừa… ngán và choáng ngợp!

Trong khi đó thi sĩ cũng có một nỗi e ngại tương tự như tôi. Anh cứ nghĩ là nếu một mai tôi về quê hương gặp anh thấy anh vừa già vừa ốm thì tôi sẽ thất vọng. Một mặt thì anh rất muốn tôi về để anh được gặp tận mặt, mặt khác anh lại sợ nếu tôi về thì tôi sẽ không tìm thấy được cái người thơ mà tôi chiêm ngưỡng lâu nay. Anh viết:

Nghe Hùng nói, em cũng muốn xin phép về thăm quê hương phải không? Điều đó anh rất mong… mà cũng rất không mong? Em nhớ câu nào trong “Hương xa” đã nói khá minh bạch về điều đó không?… Nhưng xa là đẹp, anh có tâm trạng giống như một vương phi thuở xưa trong những ngày bệnh, bắt đóng cửa lại không muốn cho quân vương vào thăm, sợ nhan sắc tiều tuỵ của mình sẽ để lại một ấn tượng không đẹp trong óc người say mê mình.

Ngày 21.9.1989, ngồi tại cư xá Tùng Bút, nơi phòng Chuối Ba Hương tại Làng Mai (hồi đó còn gọi là Làng Hồng), tôi đã viết cho anh thật dài. Tôi viết rất nhiều chi tiết và viết rất thật về nếp sống của chúng tôi và những gì chúng tôi đang làm ở Làng Mai trong thời gian ấy. Tôi nghĩ phải cho anh ấy biết sự thật càng nhiều càng tốt về tôi và công việc của tôi. Tôi nói rằng tôi cũng đã có người yêu, cứ giục cưới mãi, và một vài người khác nữa yêu tôi, tôi cũng không đáp ứng lại được, bởi vì tôi đã có lý tưởng mà các anh ấy thì không hiểu và không theo được cái lý tưởng của tôi. Tuy nhiên, sau khi các anh ấy cưới vợ, tôi cũng cảm thấy buồn buồn. Buồn thì buồn nhưng mình đã có con đường thì mình cứ đi. Và con đường này đem cho tôi thật nhiều hạnh phúc. Trong lá thư này tôi kể nhiều về những chuyện mà chúng tôi ưa làm ở Làng Hồng.

Đây là nội dung lá thư do tôi hoàn toàn tự viết vì lúc này Thầy quá bận với những quyển sách của Thầy.

Bùi Thị Cần Thơ gửi từ Làng Hồng, phòng Chuối Ba Hương ngày 21.9.1989

Cư xá Tùng Bút – Meyrac – Loubes Bernac 47120 France

Thưa anh Hoàng Cầm,

Trên đầu thư là địa chỉ đúng nhất của em hiện nay. Hôm đầu tháng này có người nhà bà Hồng Phúc về Hà Nội, em gửi thêm ít quà cho anh nữa. Vừa gửi xong thì được thư anh, em lại sợ anh giận không nhận thì nguy lắm và tủi thân cho em lắm.

Đáng lý anh phải hiểu là lâu nay em không viết thư vì sợ thư không tới được tận tay anh. Địa chỉ Bờ Hồ có còn hữu hiệu không, thưa anh? Em viết về đó, không thấy anh hồi âm cho nên em nản không muốn viết.

Đáng lý ra, anh phải thấy em đã tìm mọi cách để viết cho anh. Em viết ngay trên hộp quà, cứ một dòng giải thích sử dụng thuốc thì bốn dòng thư trò chuyện với anh. Hãng VINA Paris bảo đảm quà tới tay người nhận nên em mới hy vọng những dòng chữ của em tới tay anh. Năm trước, em cũng gửi qua họ 500 Franc mà đâu có tới. Em biết mình là con kiến đi kiện củ khoai không ích lợi gì, nên em bỏ luôn.

Thưa anh, em không viết thư bằng giấy mực nhưng ngày nào em cũng gửi cho thế gian hàng ngàn thông điệp. Thư của em mang nhiều hình thức lắm: Chọn một chai thuốc phù hợp cho anh là một bức thư, tìm người chắc chắn đem quà về tận tay anh cũng là một bức thư… Ngay cả khi em nắm bàn tay một bà mẹ Việt Nam đau khổ xa quê, sống buồn bã giữa những người ngoại quốc, bà cụ bị trúng gió, em có thể chỉ cần cho toa hoặc mang thuốc trụ sinh đến là đủ, nhưng em ngồi xoa dầu và cạo gió thì bà sung sướng đến chảy nước mắt, đó cũng là thư viết cho anh.

Bây giờ và ở đây, em thực hiện mộng ước của mình trong từng khoảnh khắc. Và ở một góc nhỏ địa cầu kia, tên là Việt Nam thương yêu, nơi em được nuôi dưỡng, lớn lên bằng những bài ca, những hình ảnh, những luỹ tre làng, những rừng dừa, rừng chuối ngọt ngào, góc nhỏ địa cầu ấy còn có 64 triệu người em thương. Trong đó, vài gương mặt hiện lên làm đại diện, có anh Hoàng Cầm quý mến của em. Dù em chưa biết được đường nét nào trên khuôn mặt anh nhưng em trân quý từng giọt mực, từng giọt máu chảy từ trái tim anh hiện lên thành dòng thơ. Anh như một con chim qua cơn ốm nặng, đã đứng dậy và hót. Tiếng hót đã làm ấm lòng những người mến mộ anh. Điều đó làm em mãn nguyện nhất.

Bây giờ em xin thuật cho anh nghe chuyện này: Thưa anh, buổi hoàng hôn trên mặt hồ khi mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn xuống, diễm lệ, đẹp biết mấy. Ta đứng ngây ngất ngắm nhìn mặt trời đẹp đẽ kia ở trước mắt và đang lặn. Vậy mà, khoa học cho biết là mặt trời đó lặn rồi, lặn 8 phút trước khi hình ảnh đi theo ánh sáng chạy tới và chạm vào võng mô của ta. Mặt trời thực ra không được diễm lệ như ta thấy. Nó chỉ là khối lửa nóng hừng hực. Và phải chăng phần nhiều trên cuộc sống, cái thấy của ta cũng không sát với thực tại và khi chạm vào thực tại thì ta hụt hẫng.

Thưa anh, vì vậy mà rất nhiều lần Thơ tìm mọi cách cố gắng để anh thấy rõ Thơ chứ đừng có nhiều ảo tưởng quá. Nhiều lá thư của anh đoán về Thơ hơi khác thực tế, nên Thơ càng ngại. Thơ không phải là cô gái nhỏ chỉ biết vô tư hay cười như anh tưởng. Thơ có cái máu cách mạng ngay từ năm 16 tuổi nên đã không chấp nhận sự an bày của xã hội. Cũng vì có máu cách mạng mà Thơ yêu thơ Hoàng Cầm. Tuy sống xa Việt Nam, Thơ may mắn có bạn, có Thầy, yêu nước và biết khóc, biết cười với cái vui, cái khổ của 64 triệu dân mình.

Anh là biểu tượng người dân Việt thiết tha yêu quê hương, yêu từng câu hát quan họ, từng viên gạch Bát Tràng, từng vườn ổi, từng ổ rơm, từng lá bài Tam cúc, từng con cá đòng đong… Anh đã thật sự tiếp xúc với những gì sâu thẳm nhất của dân tộc, với những gì đậm đà nhất của phần địa cầu mà em yêu.

Thơ yêu thơ của anh là yêu cả đất nước, cây cỏ, sinh động vật và con người. Thơ có cái nhìn thật đẹp về anh dù Thơ biết rõ có thể thực tại của anh cũng hơi khác như chiếc mặt trời diễm lệ mà Thơ nói ban nãy. Nói như vậy để Thơ chuẩn bị cho anh không bị hụt hẫng khi biết rõ thực tại của Thơ.

Thưa anh, đây là vài dòng tạm về cái thực tại đó: Thơ chưa có gia đình, chưa có một người yêu vì Thơ yêu nhiều thứ và nhiều người quá nên Thơ sợ mất tự do. Năm 16 tuổi, Thơ có yêu một anh chàng và anh chàng cũng yêu lại nhưng ba năm sau Thơ gặp được lời dạy của Bụt, đẹp quá, sâu sắc, lạ lùng quá. Thơ nổi máu cách mạng muốn làm cách mạng xã hội bất bạo động theo những phương cách Bụt dạy cùng với anh chàng, nhưng chàng giận nói hồi xưa Thơ không như thế. Thơ cứ đi xóm nghèo, lập nhà giữ trẻ, dạy trẻ con nhà nghèo học, hát và chơi với chúng… và… quên hẹn với chàng. Thế là chàng lẳng lặng xa em, em âm thầm khổ vài tháng rồi cũng hết.

Đời con gái thì cũng có nhiều người ưa mái tóc dài và đẹp của em nên cũng có năm, bảy anh chàng thương yêu. Nhưng em tránh hết nên không có chuyện nào “lâm ly” cả. Chỉ còn một anh thứ hai là bác sĩ, học trên em một năm, anh cũng đi xóm nghèo và làm tất cả những gì em làm. Em có… hơi cảm động nhưng chàng ham lấy vợ quá, cứ thúc bách em nói “chịu”, nói “ưng” chàng hoài, em đánh lảng câu chuyện. Đôi khi em ỡm ờ nói em đã có người yêu (ý em thầm nói yêu lý tưởng) nhưng chàng không hiểu và vì vậy sau hai năm chàng đi lấy vợ. Ngày cưới của chàng em có buồn vài tuần nhưng rồi cũng thôi.

Em nhớ tới Bụt, vì muốn thực hiện cái lý tưởng cứu khổ của muôn loài mà thái tử Siddhartha rời bỏ gia đình, vợ của ngài là công nương Yasodhara sau đó cũng thành nữ tu sĩ và tu rất giỏi. Em mong chàng cũng vậy nhưng chàng không như vậy. Em buồn vài tuần. Đó là hơi lâu. Bây giờ em hứa với anh, nếu có anh chàng thứ 3 không chịu đi tu như em thì em chỉ buồn 5 phút thôi.

Hồi xưa khi thầy Xá Lợi Phất là đại đệ tử trân quý nhất của Bụt chết, Ngài cũng buồn 5 phút. Bởi vì có cái gì trên cõi đời này mà không biến chuyển không ngừng đâu? Một hạt bắp biến thành cây bắp, cho trái và trở về với đất và lại có những cây bắp mới… Thầy Xá Lợi Phất trở về với đất nhưng lại biểu hiện lại thành nhiều thầy Xá Lợi Phất khác cũng thông tuệ, cũng thuyết giảng sâu sắc những lời Bụt dạy sâu sắc như thầy.

Nếu mai này em chết anh cũng không được buồn quá vài ngày nhé, vì sẽ có vô số cô gái Việt Nam khác hiểu và thương thơ anh như em thương.

Hiện tại em sống chung với một số bạn ở làng Hồng. Phần đông tụi em đều tốt nghiệp đại học nhưng đều có “máu cách mạng” không thích chui vào guồng máy xã hội, làm ra nhiều tiền nhưng phải đóng thuế, đóng bảo hiểm, tiền nhà, tiền này tiền nọ… Thành ra ở xã hội này, bề ngoài có vẻ giàu sang nhưng lãnh số tiền kếch xù ra rồi trả thứ này thứ nọ thì chẳng còn gì hết.

Em đã nghỉ làm việc tại các công sở và chỉ chữa bệnh không lương nhưng bù lại thiên hạ trả em bằng nhiều cách và em vẫn đủ tiền gửi quà cho anh và bạn bè. Tất cả chúng em đều xài tiền cơm, điện nước khoảng 250F mỗi tháng. Trong khi công nhân hạng bét bên này lĩnh 5000F mỗi tháng. Chúng em xài thêm 150F tiền điện nước, xăng xe… vị chi 400F một tháng, ít hơn 1/10 lương công nhân hạng bét nhưng thảnh thơi.

Em đi chơi hoài, đi tới đâu em cũng thực hiện được mộng ước của em, từng ngày. Em giúp đồng bào sống rải rác bên này bớt khổ, vợ sắp ly dị chồng, con sắp bỏ nhà ra đi vì giận cha, người yêu bỏ người yêu, bà lão sắp tự tử vì con cái thành Mỹ, Pháp và hắt hủi, con trai con gái 15, 16 tuổi bỏ nhà đi vì giận bố mẹ… Em trị thân bệnh và tâm bệnh cho họ.

Trong nhóm những đứa bạn cùng tu cũng có một anh là bác sĩ như em, anh khác thì là nhạc sĩ, một chuyên viên châm cứu và vài sinh viên. Có một người Hà Lan, một người Đức, một người Anh, một người Gia Nã Đại gốc Ukraine, một người Hoa Kỳ và hai người Pháp.

Tụi em đứa nào cũng nói được Pháp và Anh ngữ, nhưng đứa nào cũng thèm nói tiếng mẹ đẻ với Thầy. Chỉ ưng nghe Thầy thuyết pháp bằng tiếng Việt mà thôi. Vì vậy Thầy dạy một tuần hai lần, một lần bằng Anh ngữ, một lần bằng Việt ngữ. Thầy có một cái cốc trên núi, cách làng nửa giờ xe.

Mỗi đứa tụi em đều có phòng riêng, ưng làm chi thì làm, chỉ học và ăn cơm chung, làm vài giờ cho làng tuỳ khả năng. Em có chiếc xe hơi nhỏ, bốn ngựa, loại xe hạng bét của thợ thuyền ở Pháp. Em đi thăm bệnh cho đồng bào và giúp họ không công, có bạn thì trồng rau giỏi lắm (em cũng trồng giỏi lắm), có bạn sáng tác nhạc, có bạn dịch kinh sách, có bạn vẽ, làm thơ, và mỗi ngày ăn cơm chung, mỗi tuần gặp nhau trong thiền trà. Chúng em hát cho nhau nghe, em không sáng tác được nhạc nhưng em hát được.

Em sẽ gửi tặng anh một băng nhạc do em hát. Em không dám hát mấy bản nhạc của Phạm Duy phổ thơ Hoàng Cầm vì ca sĩ Thái Hiền, con gái Phạm Duy hát hay quá. Trong các bài hát của Hoàng Cầm mà Phạm Duy phổ nhạc, em rất ưa bài “Con cá Đòng đong” và nhất là bài “Lá Diêu Bông”.

Nhưng em không thích cách diễn tả của Phạm Duy chú giải chưa hay về thơ Hoàng Cầm, vì vậy mà em thu lại một băng nhạc và cắt bỏ hết những lời chú giải của Phạm Duy (hình như anh có được nghe một lần băng này rồi).

Thưa anh, quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa tới, chỉ có phút giây hiện tại mình mới làm chủ được thân và tâm mình, mình mới tiếp xúc được với thực tại, mới nhìn rõ được sâu sắc bản lai diện mục của cây bưởi, cây chanh, tiếp xúc với con trai, con gái mình, với vợ mình, với người thân. Em đã tập nếp sống này từ 20 năm nay nên những buồn đau lớn xảy ra cho em trong cuộc đời (những biến cố lớn của đất nước, sự kiện anh ngã bệnh vô lý…), em nhờ nó mà cứu em ra khỏi cơn buồn chán (quay về sống trong hiện tại) để có thể bình tĩnh nhìn sâu sắc vấn đề mà lo cho đúng cách để giúp anh vượt khỏi cơn bệnh. Chỉ có chị Chín của em, Thầy, và em biết anh bị bệnh, không làm ồn, nhưng ba thầy trò đã làm hết sức và nhờ vậy kết quả mới tới kịp. Khi Phạm Duy biết thì anh đã hết bệnh rồi. Hiện tại chị Chín, vẫn còn làm việc đó cho các bạn bè khác của các bạn khác cầu cứu chị.

Em viết những dòng này mong ước là anh cũng có thể sống những ngày còn lại quý báu của anh trong tinh thần ấy, sống thật sâu sắc với đất, với gạch, với cây cỏ, với cầm thú, với con người của đất nước bằng tấm chân tình của anh trong phút giây hiện tại này.

Chị Yến của em không chết đâu, chị còn đó với tất cả những thông điệp của chị quanh anh. Vì anh không nhìn kỹ và nhìn sâu nên không tiếp nhận được những nhắn nhủ thầm thì của chị đó thôi. Nếu anh sống sâu sắc thì anh thấy ngay nụ cười của chị trên mọi nơi và chắc chắn chị không muốn anh buồn phiền. Nếu anh bớt uống rượu thì chắc lá gan anh sẽ vui hơn, và anh sẽ sống lâu hơn để chúng em và đồng bào nhờ.

Em rất vui khi nghe tin quyển “Về Kinh Bắc” sẽ được in. Em sẽ rất sung sướng nếu anh gửi cho em một bản về Meyrac – Loubes Bernac 47120 France, có bút ký của anh thì em vui lắm, em hạnh phúc lắm.

Thơ anh rất đẹp và đậm đà như mắm cà, đọc mà thấm và ngọt lịm, nhưng em chịu thua không dịch ra ngoại ngữ cho các bạn nghe. Nếu có những bài sau này mà anh dùng những hình ảnh phổ biến hơn (universelles) để thơ anh vượt ra khỏi ranh giới của dân tộc thì chúng em có thể dịch ra được ngoại ngữ. “Con cá Đòng đong” và “Vườn ổi Tuổi thơ” làm em cảm động lắm nhưng không có cách nào dịch ra được những hình ảnh ấy để cũng làm cho mọi người không phải là Việt Nam cũng cảm động được như em.

Người ta hay nói, Đức Phật dạy vô thường là buồn, là yếm thế. Thật ra không có vô thường thì làm sao mà cơn bệnh ngặt nghèo như anh được tạm tan biến? Không có vô thường thì làm sao có ngày em cầm được tập thơ “Về Kinh Bắc” trong tay với thủ bút của anh? Xác thân cũng chịu luật vô thường nên khi bệnh khi khoẻ, biết thế nên khi dù lá gan mình còn mạnh, mình cũng nên trân quý không để cho những yếu tố làm hại gan tàn phá. Biết vô thường nên em trân quý từng dòng chữ của anh, em sợ không biết ngày nào thì vô thường sẽ biến anh thành hoa, thành đất, thành gạch Bát Tràng cho nên em nói chuyện với anh hoài, anh có nghe thấy không?

Nếp sống mà em tả cho anh nghe giữa em và những người bạn là nếp sống của Làng Hồng trong mùa thu, mùa đông và mùa xuân. Nói đúng hơn, chỗ này trong ba mùa trên gọi là chùa Mai Thôn vì tụi em đều trường trai, ngồi thiền ngày hai lần lúc 6 giờ sáng và 8 giờ tối và làm việc trong chánh niệm. Nhưng danh từ Làng Hồng chỉ được gọi trong mùa hè từ 15.7 đến 15.8 dương lịch mỗi năm, khi hàng trăm người Việt Nam từ các nơi tề tựu về tu học quanh chùa Mai Thôn và biến chỗ chúng em ở thành hai thôn làng xinh xinh như ở Việt Nam. Hai thôn cách nhau 5 cây số. Thôn nào cũng có rất nhiều tre xanh, hoa vạn thọ, mồng gà, hoa cánh bướm, hoa bìm bìm, hoa hồng và rất nhiều bầu bí, mồng tơi, mướp đắng, rau muống, rau húng, rau mùi, thì là, húng quế… (những thứ này người Việt không tìm ra ở hải ngoại đâu anh, họ chỉ ăn rau cải nhập cảng thôi). Các cô các cậu mặc áo dài, áo bà ba như một thôn làng miền Nam. Họ đội nón lá bài thơ nữa. Con trai cũng mặc áo bà ba và áo dài màu xanh rất đẹp. Họ về để tìm lại gốc rễ của mình.

Mỗi đứa bé sanh đẻ tại Âu châu hay Mỹ châu nói tiếng Âu – Mỹ như người bản xứ nhưng vì da vàng tóc đen như người Việt nên bị người bản xứ hỏi han, thắc mắc, có khi kỳ thị, tụi nó rất khổ. Về đây, các cháu được dạy văn hoá Việt Nam, ca dao, dân ca, lịch sử, địa dư, phong tục tập quán (15 môn tất cả). Các cháu thấy mình có hai nền văn hoá và thấy mình đẹp ra, thấy tự tin nơi cái đẹp của màu da hay mái tóc mình. Em cảm thấy khi em xây dựng được một cháu từ một “ông Tây con” hay “một cô Mỹ con” biến thành một đứa con yêu của nước Việt là em đang làm một cuộc cách mạng nhỏ, trân quý giữ gìn từng viên ngọc của dân tộc đang bị rải rác thất thoát. Qua cơn bĩ cực của đất nước, em sẽ đưa các cháu về để làm nở hoa cho quê hương. Đó, tất cả ruột gan của em đã phơi bày cho anh. Anh đã bằng lòng chưa? Nếu hài lòng thì anh phải có quà cho em. Em đáng làm em gái út của anh chưa?

Cần Thơ”

Lá thư khá dài. Ấy vậy mà nhận được thư, anh vẫn còn trách. Trả lời lá thư, anh viết là lá thư của tôi đã giải đáp rất nhiều thắc mắc cho anh, anh đã hiểu tôi thật nhiều, nhưng anh vẫn còn chưa vừa lòng. Anh nói anh là người thơ, anh biết nghe và biết nhìn qua cái khoảng trống bao la và sâu thẳm ngăn cách của âm dương, của thời gian và không gian, thì làm sao anh chẳng nhận ra được thông điệp của tôi qua những cánh bưu thiếp, qua những vỉ thuốc và những lời dặn dò trên nắp hộp các gói quà. Anh nói:

Kể ra nếu hàng chục năm nữa, cho đến lúc anh từ biệt thế giới thực tại mà chẳng nhận được tin gì của em nữa, chẳng được đọc một dòng, một chữ gì của em nữa, thì anh vẫn cứ nhìn thấy em rất sáng rõ, vẫn cứ nghe thấy tiếng em cười nói ngân nga vang vọng như tiếng chuông chùa lúc rạng đông và anh sẽ vẫn ngửi thấy mùi hương ngọc lan, hương thiên lý bay đến nơi anh từ nơi em ở – nào biết em ở đâu! – “vâng em đây, em ở ngay trong lòng anh từ lâu lắm rồi kia mà anh ơi!

Tuy nhiên anh vẫn viết trong lá thư đề ngày 10.1989:

Em mắc bận nhiều việc đạo, việc đời, việc người, anh biết, nhưng không lẽ em không để dành ra một giờ viết thư cho anh sao? Em chỉ gửi quà phải chăng chỉ là do lòng em thương anh nghèo khổ, còn thì tâm tư suy nghĩ gì về anh, em cất đi đâu? Anh trách nhẹ vậy thôi, chứ có ngày nào anh không nghĩ đến em. Và luôn luôn ở trong trạng huống đợi chờ… Đợi một hình, đợi một trang thư, .. chí ít cũng là một mảnh bưu thiếp.

Từ từ phục hồi

Vào đầu năm 1986, Hoàng Cầm gửi tặng tôi bài thơ sau đây sau mấy năm tù tội, điên loạn:

“Tháng 1.1986

Tình thương cao hơn tình yêu đến nghìn vạn lần!

NHỚ

Ngọn gió chợt bay vào cửa sổ

Cuốn theo mấy lá vàng khô

Anh nhìn ra như chưa từng được thấy bao giờ

Có phải em về từ một thuở nào xưa?

Ánh nắng chợt bừng trong gác tối

Đung đưa bóng lá đan mành

Anh nhìn ra như chưa từng được biết ngày xanh

Có phải em về thoảng chút gần anh?

Đêm trăng sáng một mùi hương mát dịu

Chợt vuốt lên mái tóc rối bời

Anh nhìn lên như chưa từng được biết hương trời

Có phải em về từ một mảnh trăng soi?

Bên kia tường có tiếng ai se sẽ hát

Một lời ca êm ái thuở nào xưa

Anh lắng tai như chưa từng được biết bao giờ

Có phải em về vỗ nhẹ bước đêm mưa?

Rồi một trang thư từ nơi xa

Rồi một bưu thiếp từ nơi xa

Lại một đêm trăng, một đêm trắng

Lại một ngày qua, một tháng qua

Không anh không nằm mê

Đúng là em đã về

Dòng thư còn in dáng

Người phương trời nhớ quê

Ngọn gió vẫn bay vào

Nắng mai còn xôn xao

Lời ca còn văng vẳng

Trong hương xa ngọt ngào

Nhớ người em xa lắm

Chưa biết mặt bao giờ

Mà thương anh đằm thắm

Cả khi em nằm mơ…

Anh bắt đầu viết thư lại cho tôi, nhưng sau bao năm tù anh khá ngại ngùng và gọi tôi bằng tên Cô Chơn (vì có lần gửi quà để tên người nhận là vợ anh – chị Lê Hoàng Yến – nên tôi đổi tên thành Lê Thị Chơn (để tránh tên Cần Thơ) và đổi luôn địa chỉ, lấy địa chỉ chị Tám của tôi ở 26 rue Cornac, 33.000 Bordeaux, báo tin là tôi đã về miền Nam nước Pháp). Thật ra từ năm 1979, Phương Vân Am, nơi mọi người xin về tu tập dưới sự hướng dẫn của Thầy, đã trở nên quá chật hẹp, chỉ đủ chỗ cho 50 người, trong đó đã có 15 người thường trú. Thầy trò nghe nói ở miền Nam đất Pháp, nông dân bỏ ruộng lên thành thị rất nhiều nên nông trại rất rẻ. Lúc ấy anh Lê Nguyên Thiều, vốn là tổng thư ký Thanh niên phụng sự xã hội Việt Nam những năm 1972 – 1975, mới vừa từ trại tị nạn Palawan Phi Luật Tân qua được Pháp và tình nguyện về đứng ra làm anh Cả chăm sóc cho Làng Hồng. Sau nhiều tháng tìm kiếm, cuối cùng chúng tôi tìm ra được một nông trại nằm trên đồi cao ở làng Thenac thuộc tỉnh Dordogne. Thầy thích quá. Tôi cũng không hiểu sao mà Thầy lại thích, vì khi mới nhìn qua thì chúng tôi chỉ thấy có một cái nhà đá cũ kỹ còn ở được, còn lại ba cái nhà kho vách đá chứa rơm rạ, chuồng bò, chuồng cừu… Không có cây ăn trái chi cả. Đất nơi đây chỉ toàn là đá. Nhưng khi đó ông chủ nhà còn do dự không chịu bán vì ông còn lưu luyến mảnh đất này quá, chỉ vì bà vợ thúc ông phải bán đất này để có tiền cho đứa con trai làm vốn. Chúng tôi đành phải mua cái nông trại thứ hai chỉ cách đó có bốn – năm cây số thôi, nhưng lại thuộc về tỉnh Lot-et-Garonne, tên làng là Loubes Bernac. Đất gồm 21 mẫu với 4 căn nhà đá và một nóc nhà hình chữ nhật không có vách mà nông dân dùng để phơi thuốc lá, hẹp bề ngang nhưng lại khá dài. Sở đất này sau này trở thành Xóm Hạ. Gia đình anh Lê Nguyên Thiều dọn vào ở Loubes Bernac từ tháng 10 năm 1982 mà đến tháng 4 năm 1983 ông chủ nhà trên Thenac mới chịu bán sở đất bên Dordogne mà Thầy thích. Chúng tôi sửa căn nhà đá lại và bắt đầu tiếp đón thiền sinh từ tháng 7 tháng 8 năm 1983. Xóm Thượng ra đời từ đó. Thầy ở trên Xóm Thượng chung với một số nam thiền sinh và viết tác phẩm Đường xưa mây trắng. Vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 dương lịch năm 1984, một buổi sáng đi thiền hành, Thầy chợt bắt gặp từ đất đá trồi lên hàng ngàn hàng triệu đoá hoa thuỷ tiên vàng rực rỡ cả một cánh rừng. Thầy bảo Jean Paul điện thoại xuống Xóm Hạ mời mọi người đi thăm một kho châu báu của Xóm Thượng. Chúng tôi choáng váng, rùng mình đứng trước hàng triệu đoá hoa thuỷ tiên cánh vàng rung rung trong nắng giống như trong kinh Pháp Hoa diễn tả “tùng địa dõng xuất”. Tôi viết ngay một bài hát:

Từ đất đá trồi lên, từ sỏi đá trồi lên, từ mùa đông lạnh lẽo nhô lên… nhô lên… hàng ngàn rồi hàng vạn lá xanh, hàng ngàn rồi hàng triệu nụ vàng, hàng ngàn rồi hàng triệu cánh vàng rung rung trong gió.

Bồ tát lên nghe kinh hay là Bồ tát đang thuyết pháp?

Người thuyết pháp và người nghe là một, người thuyết pháp và người nghe đồng sinh…

Bởi vì có các bạn (thuỷ tiên) đó

Nên có chúng tôi đây.

Thầy viết ngay đôi câu đối:

Qua vườn trúc thôn trên, xuống Pháp Thân Tạng – Hội Thuỷ Tiên – Ngàn tiên hé cánh

Băng đồi Mai thôn dưới, qua Tham Vấn Đường ngày thả cá, đàn cá tung tăng.”

Pháp Thân Tạng là tên mà Thầy chúng tôi đặt cho cái triền núi đá nơi hàng vạn bông thuỷ tiên chen chúc “tùng địa dõng xuất”. Còn Tham Vấn Đường nay đã trở thành Quán Trúc – La Bambouseraie. Ngày xưa khi Làng vừa mở cửa, các thiền sinh có thể ghi tên xin tham vấn với Thầy trong ngôi nhà đá nhỏ, có tên Tham Vấn Đường ấy. Mỗi trưa trong khi các thiền sinh khác tham dự thiền trà do chị Chân Không hướng dẫn thì bên Tham Vấn Đường bác Trang Thoại Quốc sắp xếp để từng thiền sinh được lần lượt vào tham vấn Sư Ông, mỗi người được nửa giờ. Trong khi Sư Ông tiếp thiền sinh, bác làm giám niệm đi thiền hành quanh Tham Vấn Đường để giữ sự thanh tịnh cho các cuộc tham vấn.

Từ đó về sau, Làng Mai có hai ngày hội: mùa xuân vào tháng 3, hội Hoa Thuỷ Tiên ở Xóm Thượng và mùa hè ngày Peace Day thế nào ở Xóm Hạ cũng có ngày thả cá, đàn cá tung tăng dưới dòng suối trong khu rừng mà Thầy hay dắt tăng thân đi thiền hành và ngồi chơi ngắm suối. Suối sẽ đưa cá đi ra sông lớn…

Hèn chi mà khi đi ngang đây, người thường thì thấy nông trại này cũng tầm thường, có chi là hấp dẫn đâu? Nhưng Thầy chúng tôi cứ đứng tần ngần, tha thiết đòi mua cho được nông trại này. Tôi tự hỏi phải chăng khi thấy Thầy đi qua, hằng triệu Bồ tát thuỷ tiên núp dưới các khe đá đã thầm réo gọi: Thầy ơi! Thầy ơi! Các con đây nè, các con đây nè. Thầy ơi! Thầy ơi! Các con đây nè. Thầy ở lại với chúng con đi!

Tôi đã học được nhiều điều trong thời gian liên lạc và giúp đỡ các văn nghệ sĩ bên nhà. Các anh tuy rất dễ thương nhưng cũng dễ giận. Giận không phải vì tôi đã làm một điều gì hoặc nói một điều gì khiến các anh phật ý. Giận chỉ vì tôi không viết thư được thường cho các anh. Nhất là đối với các anh Lê Thương và Hoàng Cầm. Tôi nhận ra rằng các anh không những chỉ cần thuốc men, và một chút điều kiện vật chất để cho cuộc sống bớt bức xúc, mà các anh rất cần những lá thư thăm hỏi tâm tình. Cái lỗi của chúng tôi là có khi thì viết cho các anh những lá thư dài ca ngợi tài năng của các anh với rất nhiều cảm phục, nhưng lại không thể viết được liên tục những lá thư thế. Anh nào hình như cũng nghĩ mình là người duy nhất được chăm sóc và mến mộ, trong khi ấy chúng tôi cũng phải chăm sóc nhiều văn nghệ sĩ và nhiều học giả khác bên nhà. Cho nên các anh cứ đòi hỏi những lá thư như thế, những lá thư mà các anh gọi là “những liều thuốc bổ” cho tinh thần các anh. Sự thực là ngoài công việc giúp cho các chùa và các văn nghệ sĩ ở bên nhà, chúng tôi còn có bao nhiêu công việc ở bên này. Có khi phải đi ra biển để cứu trợ thuyền nhân, nhiều lúc suýt chết. Có khi lặn lội đến thăm thuyền nhân ở tận các cù lao xa như Heiling Chau, Chimawan… ngoài biển, nơi mà chính quyền Hồng Kông nhốt người tị nạn. Có khi phải tìm cách phổ biến những tin tức về các vị tôn đức trong Giáo hội. Có khi phải vận động cho các hoà thượng để các ngài không còn bị quản thúc, như hoà thượng Quảng Độ, hoà thượng Huyền Quang, thầy Tuệ Sĩ, thầy Trí Siêu. Ngoài ra trong thời gian ấy chúng tôi cũng đang xây dựng Làng Hồng để sau này trở thành Đạo tràng Mai Thôn, một trung tâm tu học quốc tế mà ngày nay rất nhiều nước biết đến. Nào là lo tiền mua đất, nào xin phép, nào thiết kế việc xây cất cư xá, thiền đường, nào xây dựng một chúng thường trú, có cả người xuất gia và tại gia… Nhưng tuy bận rộn như thế, chúng tôi cũng đã cố gắng gửi quà đều đặn cho các văn nghệ sĩ. Gửi quà thì tạm có đủ thời giờ, nhưng viết thư và gửi thư thì khó hơn. Thấy chúng tôi làm việc vui Thầy cũng đòi tham dự. Thầy dành phần gói những colis thuốc cho đẹp. Có khi tôi viết những dòng giải thích cách sử dụng thuốc và photocopy ra nhiều bản dán trên mỗi hộp. Thấy nhiều hộp mà vẫn chỉ một tuồng chữ, khi thì chữ đứng, khi thì chữ nghiêng nên Thầy tình nguyện viết dùm lời chỉ dẫn với nét chữ của Thầy và photocopy ra làm vài mươi bản. Có vài đệ tử thân cận ở Việt Nam nhận ra nét chữ Thầy trên hộp thuốc đã cảm động rơi nước mắt, nghĩ là chính Thầy chép riêng cho mình cách sử dụng. Thật ra Thầy chỉ viết một lần và bản chính đó được copy ra nhiều bản. Cho nên mỗi khi gửi quà, ngoài những lời chỉ dẫn về giá trị và cách sử dụng các loại thuốc men trên nắp hộp của gói quà, tôi cũng có viết vài câu thăm hỏi, nhưng các anh văn nghệ sĩ thấy như thế là không đủ. Các anh giận và các anh còn nói là nếu tôi không chịu viết thư thì các anh sẽ “nghỉ chơi” luôn.

Trong lá thư viết hôm 4.4.1985, Hoàng Cầm, thay vì gọi tôi là em Cần Thơ hay là em Thơ thân yêu như trong các thư khác, đã gọi tôi là cô Cần Thơ.

Anh Hoàng Cầm viết năm 1988:

Còn phần cô từ khi được về địa chỉ mới ở Bordeaux cuộc sống ra sao? Tại sao khi gửi cho tôi hộp quà đầu năm nay, cô không viết thư. Rất mong cô cho tôi biết về đời sống hiện nay của cô ở một tỉnh miền nam nước Pháp, nơi ở theo như địa chỉ chắc là không có vườn rộng như ở Les Magnolias phải không? Hiện cô đang làm việc ở bệnh viện nào? Gia đình có cùng ở một nơi với cô không, hay cô sống ở Bordeaux một mình? Cách đây 3 năm, có một lần tôi nghe anh Mạnh Hùng nói, cô có ý định xin về thăm quê nhà và nếu tôi nhớ không lầm thì trong một bức thư cô viết vào bìa hộp thuốc tặng tôi năm 1983 cô cũng đã nói đến vấn đề ấy. Tôi nghĩ rằng một người còn nghĩ đến quê hương, còn yêu đất nước như cô thì thế nào cũng có ngày trở lại thăm quê. Ở nơi ở mới, sinh hoạt hằng ngày của cô ra sao? Có như Ngọc Lan Thảo Trang hay không? Những sách báo của Việt Nam gần đây cô có thì giờ đọc nhiều không? Tôi mong được biết nhiều về sinh hoạt của cô hiện nay, nhất là về sinh hoạt tinh thần.

Cô Thơ thân mến, cũng xin cô cho tôi nói một chút tâm sự riêng. Thư trước cũng như thư này tôi gọi cô là cô, như lạnh lùng quá, khác hẳn với những thư 1981 lại quá thân mật. Mong cô hiểu cho rằng sau một thời gian đau khổ, tôi không dám sỗ sàng tự mình hình dung ra cô Cần Thơ như một người yêu nữa (Xin cô thứ lỗi cho) và viết thư như một kẻ si tình. Bây giờ cô cho phép tôi được coi cô như một người bạn đáng kính, đáng quý mến dù ít tuổi hay nhiều tuổi, nên cô vui lòng cho tôi được xưng hô như thế, còn tình cảm của tôi thì vẫn giữ được như trước, sau khi đã tước bỏ cái sỗ sàng ích kỷ ban đầu.

May quá, trong lá thư ngày 15.8.1989 anh đã gọi tôi là “em” trở lại. Trong thư này anh viết muốn biết rõ hơn về chuyện tôi làm biếng không chịu viết thư cho anh.

Đã có dấu hiệu đổi mới cởi mở hơn với văn nghệ sĩ

Hoàng Cầm viết 15.08.1989

Em Thơ thân yêu,

Lần này viết thư gửi em, anh đã gần như hoàn toàn được hồi phục sau những trận ốm đau dai dẳng, nhất là sau cơn bệnh nặng năm ấy mà em đã biết.

Quả tình sau khi ở bệnh viện ra năm 1984, anh vẫn còn chưa hết bệnh, nên những thư anh gửi em từ đó đều còn ngơ ngác, đểnh đoảng. Hơn nữa cũng vì em, có lẽ do bận bịu nhiều việc đã không chịu viết gì cho anh biết rõ về đời sống, về tâm tư của em ngoài những cánh bưu thiếp lẻ tẻ.

Nhưng anh biết là tuy vậy, lòng em lúc nào cũng đến bên anh, em vẫn chăm nom săn sóc sức khoẻ của anh từ xa, anh vẫn nhận được tấm lòng ưu ái ấy qua những người quen biết của em chuyển tới. Lần nào, nhận được quà của em gửi tặng, anh đều không quên

báo tin ngay để em yên tâm. Vừa rồi tháng 4.1989 bà Bảo Từ về thăm gia đình cũng đã chuyển tới anh một chút quà của em. Anh rất cảm động vì lúc nào cũng thấy em như ở gần bên, luôn luôn thương anh. Em ơi, anh mới thật sự được phục hồi sức khoẻ từ năm 1988. Anh đã lấy lại được sức yêu đời và làm việc. Chỉ trong một năm anh đã sáng tác được một tập thơ lấy tên là “Mưa Thuận Thành” (Thuận Thành là tên huyện nguyên quán của anh, thuộc tỉnh Bắc Ninh trước, nay là tỉnh Hà Bắc, đời vua Lê chúa Trịnh xưa gọi là Trấn Kinh Bắc) một nhà xuất bản đang chuẩn bị ấn hành… nhưng do tình hình vật chất (tiền vốn, nhà in, giấy in…) còn khó khăn nên vẫn chưa xuất bản. Trong tập thơ ấy – phần lớn là thơ về tuổi trẻ, tình yêu nam nữ, tình yêu quê hương xứ sở – đương nhiên là có hình ảnh người đàn bà ở rất xa anh mà rất thương anh…

Từ đầu năm 1988 anh đã được trở lại sinh hoạt và làm việc ở Hội Nhà văn Việt Nam. Đó là một động lực thúc đẩy anh viết, cùng với những động lực mà anh vốn có từ xưa, tức là tình yêu nhà, yêu nước, yêu con người… Có thể nói càng ngày, vào những giờ phút đang phấn chấn của đời anh, anh càng nhớ đến em. Nhưng dẫu đôi khi vẫn nhận được bưu thiếp của em, anh vẫn không xoá được nỗi buồn cứ thỉnh thoảng lại xâm nhập vào tâm hồn mình: Đó là nỗi buồn vì em, do em và chính ở nơi em. Em chỉ gửi quà mà từ năm 1984 không hề có một bức thư nào tâm tình của em cả. Quà em gửi chẳng lẽ anh không nhận, vì anh biết nó vượt ra ngoài giá trị vật chất, nó là lòng em, đức từ bi cứu khổ của Phật. Nhưng mỗi lần nhận quà của em là mỗi lần anh buồn, vì em thật gần mà thật xa, vì sao em không cho anh được biết tâm tư, hoàn cảnh, ý nguyện và những nét của cuộc sống hằng ngày của em, trong khi, chắc em không quên, trước năm 83, anh thường viết gửi em hàng chục trang giấy chất nặng tất cả lòng anh, tất cả tâm tư ý nguyện của một thi sĩ – đa tình và đa… nạn như anh. Vậy nên lần này, anh viết thư với lòng mong mỏi mãnh liệt là nhận được thư em (chứ không phải mấy dòng trên bưu thiếp ngắn gọn).

Nếu cứ chỉ có đôi tháng một lần nhắn tin ngắn ngủi thế thôi, thì… (đến đây anh phải xin em tha lỗi trước) thì… có lẽ… anh không còn dám nhận gì của em gửi về nữa… Và có lẽ… là chúng ta vĩnh biệt nhau chăng? Nhưng sao lại như thế được? Bây giờ anh đã khoẻ khoắn trở lại, tình hình văn nghệ trong nước có nhiều cái mới, rất nhiều triển vọng, anh còn sức làm việc cho một nền văn hoá dân tộc, còn sức đóng góp (dù rất nhỏ vào việc xây dựng tâm hồn Việt Nam của muôn đời), thì em ơi, tại sao em thương anh, quý mến, tôn trọng anh là thế mà không viết nổi cho anh một bức thư dài, tất yếu phải nhiều trang giấy mới nói được một phần nhỏ về sự cảm thông giữa hai tâm hồn, mà lại ở hai đầu của trái đất, mà lại có một khoảng cách rất mông lung, rất khó hiểu. Còn anh, trước sau anh chỉ là một nhà thơ. Mà các nhà thơ thường là kẻ dại khờ… vậy em ơi, em thương anh thì phải nói chuyện, kể chuyện lòng em, hồn em, đời em cho anh biết với chứ! Anh đã có tuổi, biết còn sống được bao nhiêu? Nhờ Trời nhờ Phật anh đã khoẻ lại như những năm 70, anh rất nhớ em, rất mong em. Sao em đểnh đoảng thế? – Viết thư ngay và viết nhiều để thêm sức cho anh nhé. Anh gửi em một bài thơ là bài thơ đánh dấu sự hồi sinh của anh.

Bài “Mưa Thuận Thành” mà anh cũng lấy làm tên cho cả tập thơ mới viết.

Tin thêm em biết: Anh đã cho in tập thơ “Men Đá Vàng”. Có người đi công tác ở nước ngoài, anh sẽ nhờ gửi đến tặng em, tặng Thầy Nhất Hạnh.

Em cho phép anh kính thăm sức khoẻ Thầy. Anh cầu Trời Phật ban cho anh được phúc đức thế nào để anh có dịp gặp Thầy và gặp em.

Hà Nội tháng 8.1989 ngày 15

Anh HC”

Nguyên do Hoàng Cầm bị bắt

Tôi được biết, một thời gian sau khi bị bắt, Hoàng Cầm đã bắt đầu đi vào tình trạng tâm lý hỗn loạn, bế tắc, nói năng không còn kiểm soát được. Trước tình trạng của anh như vậy, Nhà nước thấy cũng khó trả lời với những thăm hỏi của Amnesty International (qua anh Mac Aree, chuyên viên đặc trách về Á châu lúc đó) và những bức thư dễ thương ân cần như bức thư của Giáo sư Laurent Schwartz và của các bạn của giáo sư. Thành ra sau thời gian dài rất lâu, không tìm ra được chứng cứ nào chứng minh Hoàng Cầm cũng như bác sĩ Cần Thơ đã làm hại chính quyền hay là hại đất nước để trả lời cho Ông hội trưởng Hội Pháp Việt Laurent Schwartz, cuối cùng Nhà nước đã quyết định trả tự do cho Hoàng Cầm cuối năm 1984.

Sau này, quán chiếu sâu hơn tôi biết chắc Hoàng Cầm bị bắt hoàn toàn không phải vì tôi. Vì có khi nào tôi công bố một bài thơ nào của anh ấy đâu? Dù Nhà xuất bản Lá Bối hải ngoại của thầy trò Phương Vân Am có ấn hành văn tập Tắm mát ngọn sông đào, bao gồm các tác phẩm của văn nghệ sĩ trong nước mà không ghi tên thật, chỉ lấy bút danh, thì cũng không có bài thơ nào của Hoàng Cầm, dù dưới tên giả.

Nhưng nhìn kỹ lại tình hình lúc đó, tôi thấy vào khoảng tháng 3 năm 1982 nhạc sĩ Phạm Duy đã cho ra đời hai băng cassettes: 1. Ngục ca, phổ biến 10 bài thơ của Nguyễn Chí Thiện do Phạm Duy phổ nhạc, những bài như: Từ vượn lên người, Từ người xuống vượn, Cái lầm to thế kỷ… 2, (Hoàng) Cầm ca, trong đó có bốn bài thơ của Hoàng Cầm là Lá Diêu Bông, Qua vườn ổi, Cỗ bài tam cúc, Đôi cá đòng đong. Trong băng nhạc này, trước khi Thái Hiền hát, Phạm Duy đã nói tới các bài thơ này như những lời buộc tội chế độ Cộng sản của thi sĩ. Theo Phạm Duy, thi sĩ Hoàng Cầm đã ví Cộng sản như một người chị, một người đàn bà rất xấu mà muốn cho mình có một bộ mặt xinh đẹp nên đã dỗ dành bao nhiêu người em đi tìm cho mình những chiếc lá tô son điểm phấn cho chế độ và hứa hẹn sẽ thưởng khi tìm ra lá Diêu Bông, và dù cho có em nào đã tìm ra lá, cô chị vẫn xoè tay phủ mặt không nhìn. Phạm Duy lại viết trong tác phẩm Ngàn lời ca rằng Lá Diêu Bông là một loại lá đặc biệt ở làng Đình Bảng Bắc Ninh, phụ nữ Việt Nam thời xưa đã vắt nước lá này để bôi lên mặt cho da thịt thêm hồng hào tươi đẹp. Theo Phạm Duy, nhà thơ Hoàng Cầm đã cho rằng không ai có thể làm cho chế độ Cộng sản Việt Nam này tốt đẹp được. Trong khi đó, lời chú giải về Lá Diêu Bông của chính Hoàng Cầm viết cho tôi là: “Còn lá Diêu Bông không thể ai tìm thấy tên trong bất cứ một sách vở tài liệu nào về khoa học tự nhiên. Tự người đọc, nếu yêu thơ sẽ hình dung ra cái lá ấy. Một cái lá anh đặt tên để làm symbole (biểu tượng) thế thôi. Symbole của những mối tình cao đẹp, của những lý tưởng trong sáng, của những gì là Thật, là Lành, là Đẹp vốn có trong mỗi con người. Nhưng rồi cuộc sống lắm khi tàn nhẫn vì xâu xé vật lộn, vì ngu si tham lam nên lắm khi cái lá ấy ở ngay trong mình mà mình không thấy, và đến khi nhận ra thì cuộc đời đã tàn!

Khi Phạm Duy vừa phổ biến Ngục ca Cầm ca ở nhiều thành phố hải ngoại vào tháng 3, tháng 4 thì ở trong nước Hoàng Cầm lãnh đủ. Nhà thơ bị bắt vào ngày 20 tháng 8 năm 1982. Viết điều này tôi cũng không có ý chê Ngục ca của Nguyễn Chí Thiện. Tôi đã khóc khi đọc những bài thơ đau khổ cùng cực của Nguyễn Chí Thiện và rất cảm động với một bài thơ có câu “Thương ánh mắt không dám nhìn cái đẹp”, có lẽ là anh tả ánh mắt của một người thiếu nữ anh gặp trong tù. Tôi chỉ nói Phạm Duy tung ra hai băng nhạc này CHUNG với nhau là không đúng thời. Hai người nghệ sĩ này khác nhau tuy cùng là nạn nhân của thời cuộc.

Than ôi, Hoàng Cầm đâu có biết địa chỉ Phạm Duy ở Hoa Kỳ nên làm sao mà gửi những bài thơ đó cho Phạm Duy được? Tuy hai người có quen nhau hồi 1945 cho đến 1954, nhưng giờ Phạm Duy đang xa tít mù khơi bên Hoa Kỳ. Chỉ có việc Hoàng Cầm liên lạc với tôi là có bằng chứng! Và anh bị bắt vì tội liên lạc cấu kết phản động với người nước ngoài. Tôi bị oan và Hoàng Cầm cũng oan.

Cho tới bây giờ tôi cũng chưa biết ai đã gửi những bài thơ của Hoàng Cầm đến cho Phạm Duy?

Anh được trả về vào khoảng cuối năm 1984 nhưng không dám viết thư cho tôi dù thời gian đó tôi vẫn tìm cách gửi quà về cho chị. Nhiều bạn bè rất sợ, chỉ có em Phan Đạm Hiệp là gan dạ và chịu khó nhất. Tôi thật tri ân Phan Đạm Hiệp đã hết lòng làm những việc rất khó. Anh Hoàng Cầm về nhà thì bị trầm cảm nặng, đã muốn tự tử nhiều lần.

Tháng 8 năm 1985 thì chị Lê Hoàng Yến vợ của Hoàng Cầm lên áp huyết cao và mất.

Đây là bài thơ anh làm tưởng nhớ người vợ mới mất:

XA

I

Nắng động bên giường bừng tỉnh giấc,

Lại rơi vào quạnh quẽ đêm qua.

Hình như vừa chợp mê gì đó…

Xa rồi… hôm nay em rất xa…

Mạng nhện đung đưa bên cửa sổ

Tiếng chim lảnh lót dãy tường rêu

Bao nhiêu lá úa rơi ngơ ngác

Cũng nói rằng em xa bấy nhiêu

Sợi tóc ngủ lâu trên gối lạnh

Đến hôm nay như muốn cựa mình

Phải chăng thấp thoáng em về đấy?

Sợi tóc lìa xa… gối lặng thinh

Thế nghĩa là em thực hoá mơ

Tưởng như em chẳng sống bao giờ

Em ơi! Ai xé hồn anh vậy?

– Tiếng mối tường bên chen tiếng mưa

II

Em đi rồi để lại ngày đêm

Chớp mắt nhìn đâu cũng thấy em

Bóng tối thầm thì trong đất lạnh

Rợn người, anh lại thắp hương thêm.

Em đi rồi để lại bóng ma

Theo anh đằng đẵng những ngày qua

Nặng như đá tảng nghiền giun dế

Cứ khóc triền miên ở góc nhà

Em đi rồi, để lại hư vô

Đau xót âm thầm anh lửng lơ

Như chiếc lá tre rơi mặt sóng

Giạt mãi về đâu chẳng bến bờ

III

Đêm đêm hương khói, ngày hương khói

Toả ngát về đâu bóng dáng em?

Anh biết khấn gì ngoài tiếng gọi:

– Xa rồi! Em hỡi! – Gọi gì thêm?

Bong bóng xà phòng thuở bé chơi

Sắc màu rực rỡ phút giây thôi!

Em đi là tắt bao nhiêu nắng,

Tắt hết trăng sao, hết miệng cười!

Hết cả, chỉ còn cơn giãy giụa

Làm sao thoát được nợ nào xưa

Anh không hiểu nữa! Em nào biết!

– Một sợi tơ trời thoảng giấc mơ…

Tháng 9.85 tặng vợ Lê Hoàng Yến (mất tháng 8.1985)

Hoàng Cầm bị bắt

Sau một thời gian rất lâu vắng thư Hoàng Cầm, tôi bỗng nhận được thư của chị Lê Hoàng Yến, thấy dòng chữ nghệch ngoạc: “Xin cô đừng liên lạc với chồng tôi nữa, anh ấy mới bị đi tù. Anh bị bắt vào tháng 8 năm 1982.” Sau đó tôi có gửi 100 dollar cho chị qua em Phan Đạm Hiệp, một người em cùng Thầy, từ miền Nam đem tiền ra Bắc. Hiệp tìm cách ra tận nơi mang tiền đến cho chị.

Chị bèn viết vài dòng nhờ Hiệp gửi: “Thưa cô, cô ở xa không biết tình hình hiện nay. Hôm 20.8.1982 thì nhà tôi đã bị nhà nước bắt giam vì tội quan hệ với người nước ngoài về văn hoá vì như thế là trái pháp luật, hiện nay nhà tôi đã bị tù. Anh bị giam ở nhà tù Hoả Lò ở Hà Nội, vậy mong rằng cô dù rất quý chồng tôi chăng nữa thì xin đừng thư từ gì, nó phiền cho cô, nhưng cô ở nước ngoài chẳng có gì phiền đâu. Phiền là cho người trong nước. Vậy mong cô thông cảm cho, đừng viết thư nữa, còn tôi là vợ anh ấy, tôi luôn luôn rất cảm ơn cô đã có lòng tốt, đã quan tâm đến chồng tôi và gia đình chúng tôi”.

Ban đầu khi biết tin anh bị tù qua chị Yến, tôi chưa biết chế độ đối xử với dư luận quốc tế như thế nào, nên nghĩ đơn giản nếu Amnesty International (tổ chức Ân xá Quốc tế) gửi thư xin, chắc họ cũng thả thôi. Anh gửi thư và tặng thơ cho tôi, nghe lời anh tôi chỉ lưu giữ chúng mà đâu có phát hành xuất bản những bài thơ của anh như lúc trước trao đổi. Nếu vì thư từ qua lại với chúng tôi mà anh phải đi tù thì oan cho anh quá, mình nên làm gì giúp anh đây? Trong giờ thiền quán chiều hôm đó tôi chợt nhớ là tôi đã từng làm quen được với một nhà toán học, giáo sư Laurent Schwartz, chủ tịch Hội Pháp – Việt, cũng là một thành viên của viện Hàn Lâm Pháp về Toán. Ông này quen với cụ Hồ nên khi được mời làm chủ tịch Hội Pháp – Việt – nhóm này rất thân với chính quyền Hà Nội – ông nhận lời ngay. Hồi đó, không ai trong số các bạn tôi muốn chơi với những người theo chính quyền. Dù là người Việt hay là người nước ngoài, hễ thân với chính quyền thì bạn bè tôi đều tránh liên lạc. Nhưng tôi lại nghĩ khác về giáo sư Laurent Schwartz. Chắc chắn ông là người có lòng mến mộ Việt Nam. Tại ông chưa có dịp tiếp xúc với việc mình làm đó thôi. Mình đâu có làm chính trị, mình đâu mong chờ danh lợi quyền bính gì, mình phải làm quen với những người tốt này mới được. Tôi mở niên giám điện thoại và tìm ra được ba người tên Schwartz ở Paris. Tôi chọn ông Schwartz có tên đầu là Laurent. Cuối cùng tôi liên lạc được với ông. Tôi tự giới thiệu về mình. Tôi kể những chuyện tôi đã làm và đang làm, và xin phép gửi bản tin Le Lotus cũ của Phái đoàn Phật giáo Việt Nam tại Paris, ghi những công tác trước 1975 cho ông bà ấy xem. Đây là tờ bản tin mỏng xuất bản trước 1975 của Phái đoàn Hoà bình của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất về những công việc cứu trợ của chúng tôi cho hằng nghìn đồng bào sống nheo nhóc tại các vùng vừa bị bom đạn cày nát. Tôi cũng kể lại là thời đó chúng tôi đã tìm ra người bảo trợ cho hơn 8.900 cô nhi nạn nhân của chiến tranh đang được nuôi trong bầu không khí gia đình. Các em có thể sống với ông nội, bà nội, bà ngoại hay một người cô, một người dì. Tôi cho biết tôi đã gửi tiền cho từng em qua các gia đình nuôi em với sự giám sát của các sư cô chăm lo các ký nhi viện Phật giáo. Tuy bây giờ chúng tôi không còn được công khai làm việc từ thiện này nhưng chúng tôi vẫn thường xuyên gửi quà dưới hình thức những gói thuốc nhỏ của Pháp cho các cháu đói. Ông trả lời tôi rằng ông rất cảm động với những việc tôi làm và ký cho tôi một cái ngân phiếu 500 quan Pháp. Hồi đó số tiền này rất lớn, vì những người khác thường chỉ cho chúng tôi 25 quan thôi. Ông quả là người tốt, vì tuy là thành viên của Hàn lâm Viện nhưng ông không phải là người giàu có. Sau đó, tôi viết thư cám ơn. Ông bà dễ thương lắm và rất quý mến tôi.

Tôi nghĩ: “Người này mà viết thư xin thả cho Hoàng Cầm thì chính quyền khó mà bảo là Mỹ nguỵ chen vào”. Tôi điện thoại xin đến thăm và được ông bà mời uống trà. Tôi chỉ nhờ ông viết thư riêng can thiệp cho Hoàng Cầm – một nhà thơ rất liêm trực – thôi, không làm kiến nghị gì hết. Tôi tặng ông bài thơ Em bé lên sáu của Hoàng Cầm (do tôi tự tay dịch nghĩa ra tiếng Pháp). Thấy ông quá ưu tư thương cảm và sốt sắng giúp, tôi hồ hởi viết thư cho chị Yến nhắn rằng: “Chị đừng lo, em đã nhờ vài người bạn của em, là những vị có uy tín, là bạn của cụ Hồ, có thể xin được cho anh ra, chị yên tâm.”

Sau này, trong ba chuyến về Việt Nam, lần nào tôi cũng ghé thăm Hoàng Cầm và nghe anh kể lại chuyện những ngày bị giam cầm.

Hoàng Cầm sống trong nhà giam Hoả Lò khoảng 12 tháng kể từ 20.8.1982. Anh kể trước khi gặp tôi có nhiều khi anh chán đời quá phải ngậm thuốc phiện. Nhờ có thuốc phiện nên mới sống nổi.

Khi vô tù thì không có thuốc phiện nữa, mấy tuần đầu cũng chán đời dữ lắm. Nhưng khi ở trong tù đã tạm quen, bạn bè, độc giả cũng thương và được nói chuyện cũng còn vui, bữa nào có người bạn tù mới cho rít một điếu thuốc lào thì rất sướng. Lâu lâu bị mời lên thẩm vấn, nếu họ lịch sự thì cho một điếu thuốc lào cũng làm anh cảm thấy sung sướng lắm. Thẩm vấn và bị giam ở nhà tù Hoả Lò suốt một năm, khai đi khai lại cũng chỉ có từng ấy chuyện: Cô bác sĩ trẻ yêu thơ Hoàng Cầm, gửi thuốc men chăm sóc sức khoẻ cho cả gia đình thi sĩ. Nói tới nói lui cũng chẳng có gì khác hơn: “Cô này là bác sĩ trẻ, mới ra trường, xa nước lâu, nhớ nước, đọc thơ tôi rất thích nên gửi thư, lâu lâu mỗi ba tháng cô có gửi một gói thuốc.” Rồi anh kể tên những loại thuốc được tôi gửi.

Một ngày cuối năm 1983, anh được gọi lên thẩm vấn lần chót, cũng không có gì hết, cũng đi tới đi lui như mọi lần. Bởi vì nếu thẩm vấn nhiều lần mà lần nào mình cũng nói đi nói lại những điều giống nhau như vậy thì họ biết mình nói thật. Chính anh đặc trách thẩm vấn cũng có cảm tình với Hoàng Cầm, kể lại cho anh rằng: Trong một buổi họp có vị lãnh đạo đã hỏi: “Mình có bắt thi sĩ Hoàng Cầm thật không? Vì sao Hoàng Cầm bị bắt? Vụ Nhân văn Giai phẩm đã qua rồi mà? Quốc tế họ có hỏi thăm đó, nếu không có tội gì quan trọng thì thả đi cho rồi, để quốc tế biết, kỳ lắm”. Điều này chứng tỏ giáo sư Laurent Schwartz đã viết thư can thiệp cho Hoàng Cầm. Nếu “Quốc tế” là những người khác thì sẽ bị kêu là Mỹ nguỵ, nhưng giáo sư Laurent Schwartz là bạn thân với cụ Hồ. Một lãnh đạo có nói nếu chỉ quen một vài người ngoại quốc, không có gì thì thả cho người ta đi.

Nhưng trong buổi họp đó lại có vị lãnh đạo khác ngồi kế bên đã nói một câu: “Quốc tế hả? Muốn can thiệp hả? Cho ở tù thêm”. Và buổi họp còn kéo dài để bàn bạc về những việc khác. Thế là cấp dưới y theo biên bản cuộc họp. Tôi viết điều này ra không phải để trách lãnh đạo nọ. Tôi chỉ muốn tự nhắc mình và nhắc những bạn đọc của tôi là ta phải nên rất thận trọng trong lời nói, nhất là khi phê phán một câu với ai, dù trước mặt mọi người hay với chính mình, cũng nên thận trọng, nhìn sâu hơn để không nói một câu như vị lãnh đạo nọ đã nói đối với một nhà văn đang ở tù.

Hoàng Cầm được mời lên văn phòng, tưởng mình sắp được thả thì mừng quá, nhưng họ nói anh ngồi chờ đó. Sau khi nghe điện thoại của cấp trên, anh công an đưa Hoàng Cầm đến một khu biệt thự thật sang trọng của Pháp ngày xưa. Hoàng Cầm trong lòng vui lắm, thầm nghĩ chắc mình sắp được tha rồi. Nhưng không! Anh được đưa vào một căn phòng, đến giờ cơm thì họ đem đến phần cơm thôi, ngoài ra chờ hoài không thấy gì cả, chung quanh không có một ai. Mọi thứ xung quanh im lặng rợn người. Sợ quá. Một tuần, rồi hai tuần, rồi ba tuần. Ngày xưa tuy cũng trong tù nhưng có đông người, còn vui, bỗng dưng bây giờ được chuyển sang một chỗ vắng lặng quá, thỉnh thoảng chỉ có tiếng kêu của con tắc kè, anh thấy cô đơn vô cùng. Ngày này qua ngày khác, anh có cảm tưởng như đang ở trong một cái nhà ma.

“Em biết không,” Hoàng Cầm kể khi tôi tới thăm anh tại Hà Nội trong lần được về nước năm 2005, “anh buồn quá. Nhưng một ngày, ô kìa, nghe như văng vẳng bên kia tiếng ai ru con, anh mới gõ vô tường ba tiếng, nghe bên kia gõ lại cũng ba tiếng, anh mừng quá, vậy là có người. Anh gõ năm tiếng, bên kia gõ lại năm tiếng. Có tiếng hát ru em giọng Nam, rồi ru em giọng Bắc, xong rồi còn nhái giọng của vợ anh “anh ơi, anh bỏ em, nghe lời họ làm chi… có gì anh nói thật hết đi, đi theo bọn thực dân làm chi, bọn tình báo nguỵ nó lợi dụng anh đó, anh có chi cứ nói hết đi…”, lại khóc, lại ca hát. Anh bên này cũng xúc động hết khóc lại cười, thương quá Yến ơi. Đến giờ cơm thì có cơm, rồi im lặng hoàn toàn, từ sáng tới khuya. Có bữa anh nghe như có tiếng họp chợ bên ngoài, vui lắm, cũng có tiếng người đi qua, đi lại, nhưng không thấy ai hết. Anh cô đơn cùng cực, cứ như vậy thì anh điên mất thôi.”

Hình như anh mất trí khá lâu, mất trí hẳn. Sau đó gần cả năm, anh được báo tin Tết này được về thăm gia đình, có gì thì khai hết đi. Chị được tin anh về nên chuẩn bị những món ngon cho anh ăn Tết. Bữa đó anh thấy đúng là nhà của mình, có vợ, có con. Người con trai đem ra một tô phở nóng cho bố ăn, nhưng không biết sao, anh ăn được hai muỗng thì nôn ra hết, chắc do cảm xúc mạnh quá. Công an lại đùa: Thôi bà âu yếm ông chút đi. Chị tới xoa vai anh, anh lại khóc nức nở. Anh chỉ ngồi khóc từ đầu đến cuối trong cái buổi gặp gỡ gia đình. Rồi anh bị đưa vô tù trở lại. Khi được đưa về nhà giam thì lại nghe cái giọng của cán bộ “tại vì tôi thương chị Yến, vì tôi nể tình chị Yến nên tôi mới thả anh”. Vài năm sau anh được thả.

Khi nghe những điều anh nói, tôi thấy đau lòng quá. Nếu không nghe trực tiếp từ miệng anh kể thì chắc tôi không thể nào tin được những chuyện như thế. Mình chỉ gửi thư khen thơ của anh ấy, có in ấn phổ biến gì đâu mà họ coi anh là phản động, là gián điệp quốc tế! Cái chuyện nhờ giáo sư Laurent Schwartz can thiệp lặng lẽ, không ồn ào rùm beng gì hết mà cũng đủ để anh mang tội. Trong thời gian Hoàng Cầm ở tù, tôi vẫn đều đặn gửi quà và tiền về cho chị Yến. Nhưng tôi không còn dám gửi quà qua đường bưu điện mà chỉ tìm mọi cách gửi qua người thân, đem từ Sài Gòn ra đến Hà Nội giao tận tay cho chị Yến.

Vài nét chính trong các tác phẩm thơ của Hoàng Cầm

Trước khi nhận được trọn bài thơ Hương xa ấy, vào ngày 05.05.1981, tôi đã viết cho anh một lá thư, trong đó tôi kể cho anh nghe về môi trường sinh hoạt của chúng tôi ở Phương Vân Am, mà trong thư viết cho anh tôi gọi là Ngọc Lan Thảo Trang. Cái tên Ngọc Lan Thảo Trang lấy từ tên ngôi nhà của một người bạn ở gần Phương Vân Am, vì tôi có lấy thêm địa chỉ của cô để gửi thư, mà cô đặt tên cho ngôi nhà của cô là Les Magnolias (Ngọc Lan) – Chennegy, 10190 Estissac. Chúng tôi nghĩ có càng nhiều địa chỉ càng tốt.

Còn Hoàng Cầm thì bắt đầu kể cho tôi nghe về những tác phẩm của anh, trong đó có tập thơ Về Kinh Bắc, sáng tác từ 1960 đến 1975 và anh ao ước tôi có được một bản của tập thơ mà anh rất ưng ý này. Anh nói anh sẽ chép từ từ tập thơ ấy và gửi cho tôi. Hồi ấy thư từ qua lại còn rất khó. Có ai đi Tiệp Khắc thì gửi, để từ Praha gửi về Pháp thì mau chóng hơn.

Anh viết:

Em Cần Thơ quý mến,

Ngày 26-6 vừa qua, anh nhận được thư Em. Hơi ngỡ ngàng về địa chỉ, nhưng khi tra từ điển, thì cũng vẫn là địa phương ấy, và đọc thư xong thì anh tưởng tượng ra Em ngay. Em chưa đến 30 tuổi, hồn nhiên, mắt em tinh nghịch và mê say, đôi lúc chợt có mélancolie, ta gọi là sầu xứ. Thường ngày Em thích chạy nhảy, đùa nghịch, chuyện với bạn Em hay bông đùa, để chợt có đêm nào, không ngủ, em chìm sâu vào tâm tư người con gái đất Việt, hiền dịu và sâu sắc, với một chút buồn thăm thẳm như giếng. Em là một tâm hồn nghệ sĩ, hồn Thơ Em có lẽ cũng chan chứa như (và có khi hơn vì em đang xuân) Anh.

Ôi! Yêu Em và quý Em biết mấy, ơi người Em gái rất trong sáng của Anh. Anh khoe thư Em với vài bạn thân, ai cũng có thể hình dung ra em rồi đó. Đêm không ngủ (hoặc là đêm mơ) anh tưởng tượng đột nhiên Anh xuất hiện ở Ngọc Lan thảo trang.

– Tôi hỏi thăm – đây có phải nơi cô Cần Thơ?

– Ông là ai?

– Nhìn tôi thì khắc biết!

– Tôi không biết ông là ai!

– Giá như cô Cần Thơ ở đây, thì cô ấy nhận ra ngay và gọi đúng tên tôi!

Rồi Em và Anh đi dạo những đồi mơ, đồi mận, mùa xuân ra hoa trắng, tối về hoà nhạc, ngâm thơ. Anh sẽ ngâm những bài thơ về quê hương Anh, và mắt Em long lanh màu xanh Cần Thơ, màu xanh Bến Tre, màu xanh Kinh Bắc, quê anh, nơi sinh ra “Tiếng hát Quan họ”, nơi quê mẹ Nguyễn Du, nơi sinh Cao Bá Quát, nơi sinh truyền thuyết Thánh Gióng và là cái nôi của những thiên tình sử huyền thoại (Trọng Thuỷ – Mỵ Châu, Mỵ Nương – Trương Chi).

Vâng theo trái tim Em, anh chép ra đây một vài bài thơ. Còn toàn bộ tác phẩm của Anh thì có lẽ phải gửi tới trăm lần thư chưa hết. Ngày còn đang học tú tài, anh viết tác phẩm đầu tay “Hận Nam Quan”, kịch thơ về Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Khanh, với niềm tự hào dân tộc rất trong sáng và khí phách – Một épopée mang nhiều fraicheur của tuổi trẻ Việt Nam khi đất nước còn bị đô hộ. Rồi đến vở kịch thơ “Kiều Loan”, một bản tình ca bi hùng tráng, diễn ở Hà Nội năm 1946 suốt ba tiếng đồng hồ. Tiếp đó mới đến những kịch thơ “Lên đường”, “Cô gái nước Tần”, rồi anh đi vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, gần 10 năm, dấu ấn đậm nhất là tập thơ “Bên kia sông Đuống”. Rồi hiệp nghị Geneve, miền Bắc cắt với miền Nam thành hai thế giới, anh viết “Tiếng hát Quan họ” và nhiều bài thơ rải rác, tiếp đến kịch thơ “Tiếng hát Trương Chi”, “Cái gậy thần” rồi đến một chef d’oeuvre nữa là tập thơ “VỀ KINH BẮC” gồm 40 bài về quê hương xưa (dĩ nhiên là có nay). Tâm hồn Việt Nam chưa bao giờ – từ ngòi bút Anh – lại xuất hiện đậm đà, uyển chuyển, sâu sắc, tế nhị đến như vậy. Anh cũng không ngờ. Khi tập thơ ấy đã hoàn thành, các bạn trẻ tuổi đều hâm mộ đến mức anh cũng ngạc nhiên không hiểu sao nó lại chiếm được những tâm hồn lứa trẻ, kể cả những bạn quê ở miền Nam hoặc các vùng khác ngoài Kinh Bắc đến vậy! Tập thơ “Về Kinh Bắc” (1959-1960) đến nay vẫn là bạn tâm tình của nhiều người Hà Nội – Huế – Sài Gòn (mặc dầu nó vẫn inédit) bằng truyền khẩu hoặc sao chép vội vàng đến mức nhiều khi “tam sao thất bản”.

Rồi lại đến bản trường ca “Men Đá Vàng” (1972) viết về nguồn gốc và tâm tư của những nghệ sĩ làm gốm Bát Tràng – một épopée (thiên anh hùng ca) nữa của Đất – Đá và Tình Yêu – Con Người Kinh Bắc. Ngoài ra, còn những bài thơ lẻ tẻ, nếu sưu tập lại thì có thể lấy tên đề cả tập là “Tình sử” – (Inédit tất cả).

Em Cần Thơ quý mến,

Trước hết, anh cảm ơn Em và các bạn Em đã quan tâm đến sự nghiệp thi ca của anh. Anh gửi lời Em nói giúp anh rằng: Những luồng ánh sáng trong trẻo khi giao nhau, thường tạo nên những cầu vồng lồng lộng và những cánh thiên thần múa nhịp nhàng theo bản hợp tấu mênh mông của Thượng Đế – của Trời Đất – Ông Giời! – Định mệnh, khi đã định như thế – thì cứ thế – Anh không thể không chấp nhận và cũng không thể “kiện” ai cả. Anh đã nhiều năm chấp nhận sự hắt hủi của Số Mệnh, nên hiện nay anh không có tham vọng, hy vọng cũng ít, hoài vọng càng ít nữa. Cuộc sống trần luỵ đã bắt anh sống sát mặt đất, cái quotidien terre à terre (cái hằng ngày sát mặt đất), cái “làm người có thân” ấy nên chi “thân làm tội cái đời” là lôgich lắm vậy! Anh chỉ còn một cách cố gắng giữ cho mình chí ít cũng có một con ngươi không bị bùn đất chôn vùi, cố nghểnh lên ngó một mảng trời xanh, và bàn tay dù lấm bùn tanh cũng cố cầm bút, chụm ngón lại thành một bông sen toả ngát, trước hết để cho mình đừng khinh rẻ mình, cho mình sớm tối được thoảng qua mặt một chút hương thơm. Điều đó, em ơi! thật vô cùng nặng nhọc cho anh từ hơn 20 năm rồi. Và những thi phẩm VỀ KINH BẮC, Men Đá Vàng hoặc TÌNH SỬ – đều thoát thai từ cái drame (thảm kịch) khổng lồ ấy – cho nên, anh phải cảm ơn sự đau khổ, cảm ơn Bùn Đen.

Anh hiểu Em: Một tâm hồn mang nhiều nợ với Dân Tộc và Đất Nước, cho nên em trồng tía tô, rau mùi, rau húng là phải lẽ – Em yêu thơ anh là phải lẽ… Vì thơ anh là tâm hồn Việt Nam hiện hình thành màu sắc, và âm thanh. Và đã là con người Việt Nam, mang dòng máu Việt Nam, thì bất kỳ ở phương trời nào, đều hoài niệm mùi vị tía tô kinh giới, và gặp thơ anh thì xúc động, thổn thức, hoặc lâng lâng bay bổng với mây xứ sở, với chim bướm xứ sở và tâm hồn đất nước tự nghìn xưa!

Ơi Em Cần Thơ – người Con Gái Việt Nam, Anh cảm ơn Em.

Trong lá thư viết ngày 09.07.1981, Hoàng Cầm viết cho chúng tôi chi tiết hơn về những giai đoạn sáng tác và về những tác phẩm chính của anh.

Hà Nội 9.7.81

… Em,

Để đáp lại từng điểm trong thư em, anh nói:

1. Anh không phản đối việc tìm kiếm, bảo tồn những tác phẩm của anh, việc làm rất đáng yêu của em và các bạn em. Phương cách nào cũng tốt, miễn là đừng làm rùm beng, đừng phổ biến một cách thiếu cân nhắc hoặc “dễ tính” quá. Phải luôn luôn lấy hoàn cảnh anh, tình thế của anh hiện nay làm quả cân cho mỗi suy nghĩ và hành động. Anh, một người Thơ, dĩ nhiên bao giờ cũng tự hào (đôi khi có cái nết xấu là tự kiêu nữa kia!) nhưng thực tình anh luôn khiêm tốn, vì anh gốc là con nhà nho học, bản thân thêm được chút trí thức phương Tây (cũng chả là bao, so với yêu cầu của trí tuệ con người hiện đại) nên anh thành thực hiểu rằng toàn bộ tác phẩm của mình cũng chưa đóng góp được gì lớn lắm cho nền văn học của dân tộc. Chỉ biết mình xúc cảm và suy tưởng được gì, viết ra thế, còn phải chờ vị trọng tài Suprème phán xét, đó là thời gian và lịch sử. Lịch sử thơ ca thế giới và trong nước đã chứng minh: Có những nhà thơ tồn tại hàng nghìn năm, có người hàng trăm năm, có người mười năm, và có những bài thơ vừa mới chào đời đã tắt thở. Em cũng hiểu như thế, nhưng em là người đọc, thì điều em nói về thơ anh, anh xin thu nhận và cảm ơn em.

2. Toàn bộ tác phẩm (thơ) của anh, nếu như anh có cái cassette thu lại thì phải 10 cuộn băng (60 phút) mới thu hết được những tác phẩm chính. Vậy làm sao, đến bao giờ, anh gửi hết cho em được, nếu như mỗi lần chỉ vài ba trang giấy nhỏ?

Những tác phẩm inédits thì lại nhiều hơn những cái đã xuất bản, và những bài mới gần đây cũng không ít. Tiện đây, anh “Kê Khai” theo trình tự thời gian, những tác phẩm chính, để em tiện tìm kiếm và sắp xếp.

Hồi còn đi học Trung học, anh viết vở kịch thơ đầu tiên “Hận Nam Quan”, một épopée về lòng yêu nước và chí quật cường của dân tộc chống giặc phương Bắc. “Hận Nam Quan” đã xuất bản (1943) và đã diễn nhiều lần. Sau đó đến tập thơ đầu tiên, dĩ nhiên là thơ tình yêu như mọi bước đầu của hầu hết các thi sĩ đông tây kim cổ. Tập ấy “Mắt thiên thu” gồm chừng 60 bài, đã mất bản thảo, mất tăm mất tích, vì những biến cố trong đời sống gia đình và xã hội. Và vở kịch thơ (riêng anh cho là chef-d’oeuvre của giai đoạn ấy) “Kiều Loan”, diễn được dăm buổi ở Hà Nội và một vài địa phương, viết năm 1942 đến 1944 mới hoàn thành, in được màn đầu (prologue) năm 1946 với nhan đề “Người điên”, còn cả vở thì đang in bị bỏ dở vì Pháp gây chiến tranh ở Hải Phòng, Hà Nội. Kịch bản, suýt nữa cũng bị mất tích, mãi đến 1955, sau khi hoà bình được lập lại trên miền Bắc, anh mới tìm kiếm được, mỗi nơi một mảnh, rồi “lắp ghép” lại được như texte original. May thế!

Anh tham gia cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, đã đi vào chiến dịch Điện Biên Phủ rồi trở về Hà Nội năm 1954, làm một người chiến thắng hào hùng. Suốt 8 năm kháng chiến ấy, anh viết khá nhiều kịch nói, kịch thơ, và thơ. Riêng vở kịch thơ “Lên đường” thì viết năm 1944 lấy đề tài yêu nước của các nho sĩ Việt Nam, nghĩa là của những trí thức cũ đất Việt (như Phan Bội Châu – Huỳnh Thúc Kháng – Lương Văn Can). Chắc em chỉ mới đọc qua, rồi người ta dọn nhà đi, em tức lắm phải không?

Giai đoạn kháng chiến ấy, chef-d’oeuvre của anh là bài thơ “Bên kia sông Đuống – Au delà du Canal des Rapides”. Những nỗi đau của quê hương trong chiến tranh. Cái đẹp của dân tộc, cái mất, cái còn, những tấm lòng, những con người của xứ sở, người mất người còn. Không rõ em đã có trong tay bài thơ khá nổi tiếng ấy chưa? Nếu chưa có, hoặc em chưa tìm được ra (bài ấy in rồi) thì rồi anh sẽ chép gửi em.

Từ tháng 10.54, hoà bình được lập lại, cho đến năm 1959, anh đã viết trường ca “Tiếng hát Quan họ” (em có rồi đấy), kịch thơ “Tiếng hát Trương Chi” (2 hồi 4 cảnh), chỉ mới đăng báo “Văn nghệ” (số tháng 5.1957) có hai Scènes ở Hồi I. Còn toàn vở vẫn Inédit. Kịch thơ “Cái gậy thần” (4 hồi) inedit. Và một số bài thơ rải rác. Giai đoạn này, thì chef-d’oeuvre (theo ý anh và một số bạn thân) là “Tiếng hát Quan họ” và “Tiếng hát Trương Chi”.

Sang đến giai đoạn 4: Từ năm 1960 tới 1975 – anh viết tập thơ “Về Kinh Bắc”, về quê hương anh là vùng Bắc Ninh, Bắc Giang trước kia, nay là tỉnh Hà Bắc. Từ đời Lê, đấy là một trấn phên dậu của triều đình, và theo các nhà sử học Việt Nam, thì Trấn Kinh Bắc là cái nôi của dân tộc Việt Nam, cái nôi của văn hoá dân tộc, chí ít là 1000 năm (từ đời Lý). Đấy là nơi sinh ra bà mẹ thi hào Nguyễn Du, nơi sinh Cao Bá Quát, nơi sinh ra thần thoại Thánh Gióng, và những thiên tình sử huyền thoại Trọng Thuỷ – Mỵ Châu, Trương Chi – Mỵ Nương, nơi sinh ra nhiều nhân vật lịch sử (Ỷ Lan phu nhân, một nữ nhiếp chính có tài đời Lý Thánh Tôn) và trai Cầu Vồng Yên Thế (Hoàng Hoa Thám tức Đề Thám), gái Nội Duệ Cầu Lim (bà Đặng Thị Huệ, vợ Trịnh Sâm, đã từng cầm quyền và làm mất cơ nghiệp chúa Trịnh).

Đó sơ lược vùng Kinh Bắc để em biết qua loa. Tập thơ mang nặng hồn dân tộc xưa và tất nhiên cả nay, tâm hồn Việt Nam qua nhiều thế kỷ, tình yêu và ước vọng, những đau thương và hy vọng của con người vùng quê anh, con người thật sự Việt Nam, và sợi chỉ đỏ xuyên từ đầu đến cuối tập thơ là hai nhân vật CHỊ và EM, hai nhân vật của Tình Sử đi song song với Sử Thi một vùng, là đôi tình nhân ngàn đời với bao nhiêu say mê, nhớ tiếc, hờn giận và vui buồn, bâng khuâng và ngậm ngùi, nao nức và chua chát, cay đắng và ngọt bùi. Tâm hồn Kinh Bắc là một đại dương đầy bí ẩn, anh đã lặn xuống đại dương ấy, mò được đôi ba cái lấp lánh kỳ diệu đem lên khoe với các bạn, vì anh tài ít, sức có hạn, nên chung quy cũng chỉ được đôi chút lấp lánh tâm hồn Kinh Bắc ấy thôi, anh nắm trong đôi tay yếu ớt, chỉ sợ nó bay đi mất, nên phải viết ra nhanh (trong 2 năm) từ cuối 1959 đến cuối 1961, được 40 bài.

Nhiều bạn anh, nhất là các bạn trẻ, các sinh viên Hà Nội, đều “bầu” tập thơ ấy là chef-d’oeuvre của toàn bộ thi ca của anh từ trước đến nay. Dĩ nhiên là inédit, và các bạn ở miền Bắc có sao chép được ít nhiều, đôi khi cũng tam sao thất bản và có những dị bản rất buồn cười nữa kia. Ôi! Giá như em có tập thơ ấy!

Kể ra ai cũng“bằng lòng” với tác phẩm của mình, nói như Lỗ Tấn, “văn mình vợ người”- bao giờ mà chả hay, bao giờ mà chả đẹp. Anh thú thật cũng khó mà ra ngoài được định luật ấy của con người, vốn là tham lam và chủ quan. Anh tự nói về thơ anh, bao giờ mà chả hay! Cho nên, nếu anh có khoe khoang đôi chút, mong em cũng lượng thứ cho cái faiblesse humaine (yếu kém con người) ấy nhé.

Ngoài những bài thơ lặt vặt, không đáng kể, thì giai đoạn này còn có tập thơ “Cót thóc và Con đường”, tập thơ “Chống Mỹ cứu nước” có nhiều tìm tòi về forme.

Cuối giai đoạn này, anh viết trường ca “Men Đá Vàng” – épopée của Đất, Đá và Tình Người – Tình Dân Tộc. Lấy trường ca ấy làm nền, anh viết thành vở kịch thơ “Men Đá Vàng”, 3 hồi, truyện cổ tích về gốm Bát Tràng (1972) “Ước gì anh lấy được nàng! Để anh mua gạch Bát Tràng về xây…” (ca dao cũ).

Từ sau 1975 đến nay, có một số bài thơ tình rải rác, gộp lại thành tập “Tình sử”.

Chiếc nôi văn hoá Việt Nam cổ truyền

Trong một thư khác Hoàng Cầm viết:

Từ năm 1960 tới 1975 – Anh sáng tác những bài thơ sau này được gom lại thành tập thơ “Về Kinh Bắc”, một tập thơ nói lên được bản chất văn hoá kỳ diệu của vùng được xem là cái nôi văn hoá cổ truyền của đất nước. Theo anh tâm hồn Kinh Bắc là một đại dương đầy bí ẩn và người thi sĩ là anh đã lặn xuống đáy biển mò tìm và đem lên được một số ngọc châu lấp lánh và đem khoe với các bạn. Và khi đem tập “Về Kinh Bắc” khoe với các bạn, thì các bạn, nhất là giới sinh viên trẻ, đều ưa thích và cho rằng chính “Về Kinh Bắc” mới là đỉnh cao tuyệt tác của anh, chứ không phải “Tiếng hát Quan họ” hay “Tiếng hát Trương Chi”.”

Qua anh Hoàng Cầm tôi lại biết thêm về vùng Kinh Bắc của Việt Nam, vùng đất của trung tâm Luy Lâu, một trong ba trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo mà Thầy đã nhắc đến trong tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận (hai trung tâm kia là Bành Thành và Lạc Dương). Hồi đó tôi đang đánh máy cuốn sách này trên máy varityper. Thế là tôi học thêm được những nét đẹp của nền văn hoá cổ Việt Nam ở trung tâm Luy Lâu qua thi sĩ. Càng liên lạc với Hoàng Cầm tôi càng hiểu thêm Thầy chúng tôi, tại sao Thầy yêu thơ Hoàng Cầm và tại sao thầy trò chúng tôi yêu miền Bắc của đất nước. Đến năm 2005 khi Nhà nước mời Thầy chúng tôi về thăm quê hương, và khi 100 anh chị em xuất sĩ chúng tôi đứng lên niệm danh hiệu Bồ tát Quan Âm, thì trước mặt chúng tôi, bao nhiêu gương mặt các ông cha bà mẹ miền Bắc Việt Nam nhìn lên với những cặp mắt sáng lên tha thiết, tin tưởng và hy vọng, tôi bỗng thấy quá xúc động và nước mắt tôi giàn giụa. Nếu không có tầng tầng lớp lớp những ông cha bà mẹ này thì mảnh đất này đâu còn được gọi là Việt Nam nữa và những gia tài tâm linh Bụt, Tổ trao truyền sẽ mất hết. Ôi, những ông cha bà mẹ Việt Nam, từ ải Nam Quan đến tận mũi Cà Mau, tình thương con cháu thì bao la mà tình thương đất nước quê hương còn lớn hơn, sẵn sàng hy sinh để giữ gìn bờ cõi, che chở dân lành. Tình yêu đạo và lòng tin Phật của các vị cũng rất lớn. Ôi! Tôi muốn quỳ xuống sụp lạy trước tầng tầng lớp lớp những ông cha bà mẹ Việt Nam trước mặt tôi đây. Con cám ơn Thầy, con cám ơn quê hương Việt Nam, con cám ơn trung tâm Luy Lâu, chiếc nôi Phật giáo đã hình thành từ gần 20 thế kỷ trước.

Việc thư từ và chuyển quà cho anh Hoàng Cầm diễn ra êm đẹp từ cuối 1980, trọn năm 1981 và 6 tháng đầu năm 1982. Hoàng Cầm vốn là một con ngưới rất hào phóng, chân thật, có gì cũng đem ra nói, không giấu bạn bè điều chi. Anh nghĩ chuyện cũng đơn giản thôi, tôi chỉ là một cô bác sĩ ở Pháp, hâm mộ thơ anh và gửi thư gửi quà cho anh là một chuyện bình thường, nên anh đi khoe khắp nơi.

Anh cũng nghĩ rằng liên lạc với bên Pháp thì không nguy hiểm như với bên Mỹ. Thường thì người ta nghĩ ở Mỹ có nhiều nhóm người Việt chống Cộng dữ dằn, nhưng ở Pháp thì rất đông đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và có nhiều bạn bè thuộc Đảng Cộng sản Pháp.

Trong lá thư đề ngày 16.9.1981, sau khi đọc thư tôi, trong đó tôi ghi ra một đoạn thơ trong bài Bên kia sông Đuống và chép trật chữ dựng trăng thành đỉnh trăng, anh viết:

Đó em xem, mới có một đoạn ngắn mà đã sai đi như thế, còn cả bài thơ, cả tập thơ thì sao? Có một số bạn anh, ở ngay trong nước, có một bài thơ đăng báo thôi, thấy in sai vài chữ đã vò đầu bứt tai, khổ sở hết chỗ nói! Rất mong em thận trọng, đừng để anh phải khổ sở khi thấy bài thơ in sai dù chỉ một chữ! Khó vậy thay! Em làm thế nào? In typo, ronéo, hay photocopie, anh chỉ yêu cầu in đẹp, trang rộng, để nhiều khoảng trắng, đừng in quá nhiều dòng vào một trang. Anh ưa nhất khổ sách 24×18, mỗi trang in lọt vào giữa, nhiều nhất là 16 dòng, chữ in vừa cỡ Corps 11 hoặc 12 thôi, mỗi đầu câu, đầu bài có một Lettrine (chữ cái đầu) thật xinh, anh thích màu tím ở các dòng thơ, còn lettrine màu lam.

Vậy nếu soạn thơ từ những bản đã in rồi (như “Tiếng hát Quan họ” và “Bên kia sông Đuống”) thì đỡ lo sai và dĩ nhiên những bài anh chép tay là đỡ lo nhất. Còn những bài truyền khẩu hoặc nhớ mang máng thì attention! (coi chừng)

Việc xếp thành từng tập thì cũng đừng nên lẫn lộn. “TÌNH SỬ” là tên tập thơ gần đây nhất, gồm chừng 30 bài rải rác. Còn “Tam cúc”, “Diêu Bông”, “Vườn ổi” là 3 bài (gần như một thứ Trilogie) trích trong tập “VỀ KINH BẮC”. Bài “Bên kia sông Đuống” là bài đầu của tập “QUÊ HƯƠNG” viết hồi Kháng chiến chống Pháp 1947-1954)… “Men Đá Vàng” là tập trường ca về gốm Bát Tràng. Mới viết hồi 1972, inédit, lại là một tập riêng cũng như “Tiếng hát Quan họ” cũng là một tập riêng về tiếng hát dân gian. Tập này em có bản in hay chép tay của ai?

Trình bày với hình thức nào?

Vì vậy nên khi soạn lại để in, chưa đủ tên từng tập thì em phải để dưới bài: (Trích trong tập gì…?). Còn ngoài bìa chỉ lấy một cái tên chung THƠ là đủ. Dĩ nhiên phải có một vài lời giới thiệu. Tuyệt đối tránh phê bình, nhận xét, cảm nghĩ về một số bài đem in. Khi in xong, phân phối như em nói là được.” (trong thư đầu tôi có nói tôi muốn in một số thơ của anh và gửi tặng các trường đại học ở Âu châu và Mỹ châu một bản để làm tài liệu. Biết đâu thế hệ sau có nhiều em được hứng khởi từ những vần thơ Hoàng Cầm và trở thành những tâm hồn tri kỷ có thể đánh giá cao và phổ biến cho những thế hệ tiếp theo một gia tài đặc thù tâm linh của đất nước). “Cần tránh cho anh việc này: Giới thiệu và phê bình trên báo chí (dù là tiếng Việt hay tiếng Pháp). Tuyệt đối không cho ai in lại, đọc hoặc ngâm vào băng đĩa… Kể cả kịch cũng không nên, trong lúc này. Anh biết hình như ở Pháp có một vài tờ báo hay tạp chí gì đó xuất bản bằng tiếng Việt và do người Việt chủ trương. Chắc em cũng rõ báo chí thường hay dính dáng đến phe phái chính trị và liên quan đến nhiều vấn đề chính trị. Mà anh muốn tuyệt đối tránh, không muốn để tác phẩm thơ của anh biến thành tư liệu, tài liệu hoặc minh chứng cho một vấn đề chính trị nào đó, làm vẩn đục cái trong sáng của thơ anh. Em hết sức giữ gìn cho anh về chuyện này. Còn tên người xuất bản em để như em ngỏ ý với anh trong thư vừa rồi là được. Cũng chả còn cách nào hoặc formule (công thức) nào discret (kín đáo) hơn. Cần tránh cả việc thi ca trở thành món hàng buôn bán của kẻ đầu cơ theo chủ nghĩa cơ hội.

Tóm lại, trong tay em đã có những gì thì em cứ đưa in, bài báo nào thấy còn ngờ ngợ, chưa chuẩn xác thì hãy tạm gác lại, rồi viết thư về cho anh để tham khảo và bổ cứu. Dần dần khi đã có nhiều thêm, sẽ lại in tiếp tập thứ hai, rồi thứ ba, thứ tư, thứ… nième.

Đương nhiên vì lẽ thư đi thư về chậm nên việc lớn em gánh vác phải lâu dài, cả em và anh đều phải kiên nhẫn. Tuổi em đương giữa xuân, tuổi anh đã sang thu, tuổi của Thơ ca chắc còn trẻ mãi, vì vậy việc em lo giữ sức khoẻ cho anh là đẹp nhất, cần nhất. Anh đồng ý thế.

Lệnh phổ biến thơ do Hoàng Cầm yêu cầu

Rốt cuộc, một phần vì ngại cho tình trạng an ninh của mình bên ấy, một phần vì cẩn thận cho nên anh Hoàng Cầm đã khuyên tôi đừng nên vội vàng trong công việc xuất bản thơ anh. Trong lá thư đề ngày 30.7.1982, anh viết:

“Còn việc xuất bản, anh yêu cầu em hãy đừng nên vội vàng. Còn đèn đỏ, xe chưa qua được ngã tư. Vả lại một khi em đã có trong tay một số lớn những tác phẩm của anh rồi thì phải coi như em đã đạt mục đích là bảo tồn chúng. Tôt ou Tard, se donnera le feu vert! et bien dûment! (Sớm hay muộn đèn xanh sẽ tự bật và đúng mức!)”

Rõ ràng là Hoàng Cầm đã nhìn xa thấy trước điều ấy, điều mà anh nói tránh việc thi ca trở thành món hàng buôn bán của những người đầu cơ theo chủ nghĩa cơ hội. Và khi anh Phạm Duy phổ nhạc ba bài Lá Diêu Bông – Cỗ bài tam cúc – Vườn ổi để thành băng nhạc (Hoàng) Cầm ca, nhạc sĩ Phạm Duy đã vụng về tung cuộn băng Cầm ca cùng chung với băng nhạc Ngục ca có những bài thơ như Từ người xuống vượn, Cái lầm to thế kỷ… thì tôi thấy đây không phải là điều mà anh Hoàng Cầm muốn. Đúng như Hoàng Cầm tiên đoán trước trong bức thư gửi cho tôi ngày 16.9.1981, tôi đau lòng thấy thơ anh đang bị sử dụng quá thiếu chánh niệm, thiếu sự nhìn sâu để hiểu những khó khăn của người nghệ sĩ đang ở trong nước. Các bài Cầm ca phổ biến chung với Ngục ca đã góp phần đưa anh vào tù ngày 20.8.1982.

Trong một lá thư gửi cho Hoàng Cầm, tôi có hỏi anh bưởi Nga Mi là bưởi gì? Và lá Diêu Bông là lá gì? Trước đó anh đã gửi cho tôi một số bài thơ, trong đó có các bài Cỗ bài tam cúc, Lá Diêu Bông Qua vườn ổi. Bài Lá Diêu Bông ở bên này chúng tôi ai cũng thích. Trong chúng tôi có người nghĩ rằng người Chị trong Lá Diêu Bông chắc là hình ảnh của chính quyền thời ấy với những lời hứa hẹn hạnh phúc, và nhân vật Em là những người đã từng đem hết trái tim mình ra phụng sự đất nước và cách mạng nhưng chưa bao giờ được đền bù. Nghĩ như thế nhưng không ai trong chúng tôi có ý phê bình như trong Cầm ca.

Ngày 5.6.1982, anh viết cho tôi và báo tin cô con gái yêu của anh là Bùi Hoàng Yến đã từng là diễn viên kịch nói của nhà hát quốc gia đã qua đời vì bệnh tim đột ngột và anh đã trả lời câu hỏi của tôi về bưởi Nga Mi và lá Diêu Bông. Anh cũng tỏ ý buồn là người trẻ ở Hà Nội bây giờ ít người hiểu được thơ anh và biết quý thơ anh. Họ có khuynh hướng cho thơ anh là lạc hậu, là cổ hủ và anh có xuống tinh thần vì thái độ ấy.

Anh viết:

Dẫu sao, rất thành thực, anh nói với em: Thơ của anh có lẽ đã cũ kỹ mất rồi… Trong nước thì còn một ít người yêu, ngoài nước còn một số rất ít nữa biết yêu thơ anh. Còn thì giữa cái cuộc sống chen chúc vật lộn này, thơ anh lạc lõng quá. Nhiều bọn trẻ bây giờ chẳng thể nào yêu thích (chưa nói đến say mê) thơ anh. Họ còn cho là lạc hậu, cổ hủ nữa kia, về mặt nào đó anh rất thành thật điều ấy… Chợt nhớ em hỏi bưởi Nga My là gì ?Nga My là tên một làng vùng Kinh Bắc có bưởi ngon, thơm có tiếng, câu thơ ấy, em chú ý Bưởi và Bòng – Bòng là một thứ quả giống hệt Bưởi, nhưng to xác, ăn rất nhạt như ăn cơm nguội, ngoài chợ bán rất rẻ tiền.

Còn lá Diêu Bông không thể ai tìm thấy tên trong bất cứ một sách vở tài liệu nào về khoa học tự nhiên. Tự người đọc, nếu yêu thơ sẽ hình dung ra cái lá ấy. Một cái lá anh đặt tên để làm symbole (biểu tượng) thế thôi. Symbole của những mối tình cao đẹp, của những lý tưởng trong sáng, của những gì là Thật, là Lành, là Đẹp vốn có trong mỗi con người. Nhưng rồi cuộc sống lắm khi tàn nhẫn vì xâu xé vật lộn, vì ngu si tham lam nên lắm khi cái lá ấy ở ngay trong mình mà mình không thấy, và đến khi nhận ra thì cuộc đời đã tàn!”

Chính tác giả đã chân thật nói rõ rằng lá Diêu Bông chỉ là một chiếc lá biểu tượng. Theo cái cách anh tả thì đó là Phật tánh, là tính Bụt trong mỗi chúng ta, nhưng nhạc sĩ Phạm Duy lại giới thiệu Lá Diêu Bông trong cái băng cassette, trước khi ca sĩ Thái Hiền trình bày bài hát, bằng một giọng nặng nề nhức óc. Bởi cách giới thiệu ấy làm mất vẻ đẹp của các bài thơ Lá Diêu Bông Con cá đòng đong, nên tôi phải lấy một cái cassette thứ hai thu lại các bản nhạc phổ từ thơ Hoàng Cầm mà hoàn toàn không có một lời phê phán nào để có thể thưởng thức giá trị của thơ và của nhạc. Cám ơn thi sĩ và nhạc sĩ. Thơ và nhạc làm tăng giá trị của nghệ thuật.

Ngày 30.1.1982, anh kể cho tôi nghe về một người bạn trẻ đã từ Canada về thăm anh và ở lại Việt Nam 3 tháng. Trong lá thư ấy, anh không nói tên người kia, chỉ nói rằng anh ấy cũng là một người rất hâm mộ thơ anh. Và anh cho biết là đầu tháng Tư năm ấy, bạn trẻ này trên đường về Canada sẽ ghé qua Paris và sẽ mang cho tôi một món quà của anh gửi. Sau này tôi biết được anh này tên là Nguyễn Mạnh Hùng. Hồi đó tôi có thành kiến cho rằng những người về Việt Nam dễ dàng như thế chắc phải là người thân chính quyền nên không mấy tin tưởng ở những người như vậy và không muốn nói thật với họ những việc chúng tôi đang làm, sợ nói thì công việc giúp đỡ bên nhà sẽ gặp trắc trở. Món quà mà anh hứa sẽ gửi là một cuốn băng thu thanh toàn tập tác phẩm Men Đá Vàng để tôi nghe và ghi ra giấy. Anh hứa là trong tương lai nếu có dịp anh sẽ gửi bản thảo.

Gặp anh Nguyễn Mạnh Hùng, Hoàng Cầm đã cho anh ấy đọc thư tôi viết cho anh tháng 3.1981 và tháng 5.1981. Đọc xong anh Hùng khẳng định với Hoàng Cầm: “Đây là thư của một người con trai giả tên con gái.” Nhưng Hoàng Cầm vẫn một mực không tin và nói chừng nào anh Hùng qua Paris để trao cuốn băng nhựa thâu toàn bộ tác phẩm Men Đá Vàng thì anh ấy sẽ biết được thực sự tôi là con trai hay con gái.

Đến Paris, anh Hùng viết thư ngay cho Bùi Thị Cần Thơ. Anh ấy cho tôi số điện thoại và muốn xin hẹn gặp tôi. Anh ấy nói có thư của Hoàng Cầm gửi cho tôi và muốn đến trao tận tay tôi tại Les Magnolias, 10190 Chennegy – Aube, là địa chỉ trên bì thư tôi gửi Hoàng Cầm. Tôi dịu dàng nói tôi làm việc xa, phòng nhỏ không tiện tiếp khách, để tôi đích thân lên Paris nhận quà từ tay anh ấy. Trong câu chuyện với anh Hùng tôi cũng thẳng thắn nói với Hùng rằng tôi thật tình không tin anh ấy. “Trong khi sinh viên Việt Nam muốn xin về thăm nhà (vào thời điểm ấy – 1981) thì xin thị thực đi Việt Nam rất khó. Có người xin bảy tám tháng vẫn chưa được. Thế mà tại sao anh lại được đi về dễ dàng vậy? Chắc là anh phải thân nhà nước lắm.” Đúng là cái giọng nói thẳng của con gái miền Nam. Nhưng vì có quà của Hoàng Cầm thì tôi sẽ lên Paris lấy quà, vậy thôi. Nhưng vào giờ chót, tôi nhờ anh Sáu tôi là anh Cao Thái lên nhận quà thay tôi và tôi đã viết: “Vào giờ chót, vì không thu xếp công việc được nên Cần Thơ đành nhờ người anh đi Paris nhận quà thay, xin lỗi anh và rất tiếc!”

Khi gặp anh Cao Thái, anh Hùng không chịu đưa cuốn băng thâu Men Đá Vàng, nói rằng anh đã quên đem theo. Sau đó anh ấy viết cho Hoàng Cầm và nói về tới Canada anh sẽ sao ra một bản rồi mới gửi cho tôi bản chính sau. Còn tác phẩm Về Kinh Bắc anh sẽ để ra bốn ngày để chép và gửi cho tôi sau đó.

Ngày 18.4.1982, tôi viết cho anh:

Anh chị Hoàng Cầm kính mến của em.

Cần Thơ nhận được cassette anh gửi cho em rồi, giọng anh chị trẻ ghê, trẻ hơn em tưởng tượng. Em ngồi lắng nghe giọng nói anh chị mà cảm động quá. Anh ngâm thơ hay quá đi. Giọng chị cũng rất ngọt và trẻ. Sao chị không ngâm vài bài tặng em? Đây là lần đầu tiên em nghe giọng ngâm thơ rất hay và lạ. Có nhiều air (hơi hướm) phảng phất như sa mạc, như biển rộng, như sông dài. Thỉnh thoảng anh lại xuống một note (dấu) rất ngọt. Tuy nhiên em phải xin anh biên tay xuống giấy trắng mực đen mới được vì có nhiều lời, nhiều âm em nghe không hiểu hết. Em thích nhất là bài Lá Diêu Bông. Nay thì em hiểu lá này là lá gì rồi. Có lẽ em thích vì em có sẵn lời anh đã chép cho. Nghe thật thương chú bé mười hai tuổi. Em cứ tiếc là anh không ngâm hết băng cho em, hoặc chị không ngâm thơ anh cho em. Các bản nhạc đó bên này em có đủ. Anh Hùng còn cả một cuộn băng “Men Đá Vàng” anh ngâm mà anh ấy không mang đi. Anh ấy chính trị quá, rất khó thông cảm với em. Anh đã nói chuyện với em nhiều lần rồi vậy mà khi người thân của em tới lấy cassette anh còn bảo chắc em không phải họ Bùi mà tên cũng không là Cần Thơ. Anh ấy đặt giả thuyết v.v… làm em tổn thương lắm. Họ dùng con mắt ấy mà soi vào tình cảm một nghệ sĩ như anh chị và như em thì buồn lắm. Em xin anh cũng đừng báo tin em sẽ lĩnh“gia tài” của anh cho bất cứ ai. Chưa chi mà anh Hùng đã ngăn em. Trong tờ “Đất Việt” chỉ có đăng thơ của Nguyễn Đình Thi mà sao không đăng thơ anh. Nếu anh ấy yêu thơ anh thật thì thế nào cũng có đăng chớ! Anh Hùng bảo anh ấy trách nhiệm tờ đó mà.

Tháng 7 anh Hùng lại về Hà Nội nữa. Em xin anh chị đừng gửi cho em qua ngả anh Hùng và các bạn anh. Ngả Hiệp ở TP. Hồ Chí Minh là tốt nhất. Ngoài “Men Đá Vàng” và “Về Kinh Bắc” anh còn sáng tác những bài lẻ tẻ nào cũng cho em hết nghe anh.

Thư ngày 3 tháng 4 năm 82, em có nói tới thùng quà F tức là danh từ chỉ số tiền 500 quan, em gửi về anh chị hồi đầu tháng Tư đó. Gửi bằng điện phiếu nên tốn thêm 76 quan nữa. Hôm tháng 2 em có nhờ chị Phan Thị Tô gửi 100 quan cho em chị ấy là Hiệp ở TP.HCM và nhờ Hiệp chuyển cho anh. Nhưng vì Hiệp đi Huế trọn ba tháng nên chị Tô mới chỉ gửi đầu tháng 4.1982 này thôi. Vậy có thể tháng 5 anh sẽ nhận vừa 100 quan em gửi qua Hiệp và 576 quan em gửi qua ngân hàng nhà nước. Cách gửi và nhận nào tiện xin cho em biết.

Em rất mong thư anh chị và xin anh vui lòng viết cho em mỗi tháng 2 lần, mỗi lần anh cho em vài bài.

Em cám ơn anh chị nhiều lắm. Thơ.

Hoàng Cầm biết là tôi không vui khi anh Hùng có ý nghi ngờ tôi là trai giả gái, và đã không chịu trao ngay cuốn băng thâu Men Đá Vàng cho tôi qua anh Cao Thái. Anh nghĩ là tôi giận, nên trong lá thư ngày 5.6.1982 anh có ý muốn hoà giải hai người. Anh viết:

Nguyễn Mạnh Hùng đã về Hà Nội giữa tháng 7. Hùng đã thuật lại một số việc liên quan đến em. Anh rất cảm ơn Hùng đã làm giúp anh một việc lớn. Hùng cũng tự nhận thấy là em giận Hùng về nỗi ngờ vực này kia. Hùng có nói chuyện lại với anh, sở dĩ Hùng khiến em không được vui lòng, chỉ là vì Hùng không thể ngờ rằng một cô gái còn rất trẻ, gốc miền Nam, xa quê từ bé, ngôn ngữ hình ảnh miền Bắc chưa hề được thấm, vậy mà lại cảm thụ thơ anh một cách sâu sắc, tế nhị đến như vậy. Đó là điều khiến Hùng rất ngạc nhiên, và từ chỗ không tin ấy dẫn đến một thái độ đã khiến em tổn thương, Hùng nói: Cô Thơ càng giận Hùng thì Hùng càng kính trọng Thơ vì Hùng đã ghi nhận em là một tâm hồn rất đẹp, phong phú, rất Việt Nam, một người không chạy theo những cái cuốn hút phức tạp của cuộc sống hiện nay. Có một đời sống nội tâm rất sâu. Vậy anh yêu cầu em hãy xoá bỏ một incident (va chạm) không nghiêm trọng gì, để sau này hai người ở xa quê cùng yêu thơ anh, có thể nói chuyện cởi mở với nhau hơn. Nếu có préjugé (định kiến trước) gì với Hùng, anh cũng thành thật mong em xoá bỏ. Vì Hùng rất thành thực yêu anh, yêu thơ anh, còn dĩ nhiên trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, còn nhiều điều phải cần có dè dặt, còn nhiều vấn đề phải tạm gác lại. Theo anh nghĩ có thể giữa em và Hùng, có một vài cái hiểu lầm nhỏ thôi, có thể bỏ qua được. Sau này nếu hiểu nhau hơn, có lẽ em sẽ quý Hùng hơn. Hùng đã nói thật với anh là hồi qua Pháp, Hùng không mang theo băng cassette “Men Đá Vàng”. Hùng có hứa với anh là khi về Canada Hùng sẽ sao ra một băng khác và sẽ gửi làm quà cho em (anh biết trong thâm tâm, Hùng rất quý trọng em) vì ít thì giờ quá, nên anh chưa thể gửi nhờ Hùng chuyển cho em toàn bộ tập thơ “Về Kinh Bắc”, anh sẽ gửi dần vậy, vì bây giờ muốn chép lại cả tập thơ ấy thì phải mất 4 ngày liền. Hùng vội phải đi mà anh thì bận việc kiếm ăn hằng ngày, rất ít thì giờ rảnh rỗi.

30/7 – Nhưng thôi, anh cứ phải làm một việc hoà giải giữa hai người em trẻ tuổi, cùng biết yêu thơ và yêu thơ Hoàng Cầm. Nghĩa là mặc dầu em đã nghĩ vậy, anh hôm nay cứ gửi em toàn tập “Về Kinh Bắc” qua Hùng và Hùng sẽ gửi cuộn băng toàn bộ trường ca “Men Đá Vàng” để em nghe rồi em sẽ ghi ra giấy. Hoặc sau này anh sẽ gửi bản thảo.

Trong thơ anh, ít nhiều có một số điển tích, một số ẩn dụ, một số hình tượng đặc trưng của vùng quê miền Bắc. Em đọc thì có thể tìm hiểu dễ hơn, nhưng chỉ nghe không thôi thì sẽ có nhiều chỗ em không hiểu. Vì cách xa nên không thể bình giảng để em thấu được Anh xin lỗi em. Dần dà thời gian sẽ giúp em thêm… Và rồi anh sẽ gửi dần cho em những bài lẻ tẻ, gộp lại thì gọi là tập “Tình sử”. Ví dụ bài “Chùa Hương” thì không nằm trong tập “Về Kinh Bắc” mà sẽ là một thành viên của tập “Tình sử” ấy.

Bài thơ Bên kia sông Đuống

Hoàng Cầm viết:

Nhân đây anh chép gửi em bài thơ “BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG” (1948) mà có một thời anh nghe tin rằng một nhóm sinh viên Việt Nam ở Paris có đem in ra ở Pháp (việc ấy chả biết có đúng thế không?) Đâu như vào những năm 60. Anh cũng hồ nghi, có lẽ chỉ là một tin đồn vô căn cứ. Bài này là đỉnh cao của thơ anh trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Quê anh ở ngay bên bờ nam Sông Đuống, làng Đông Hồ, nơi sinh ra những bức tranh dân gian từ đời Lý đến Lê – Nguyễn (Tranh gà lợn – Hứng dừa – Đánh ghen – Đám cưới chuột – Thày đồ ếch…) Nếu em có học về mỹ thuật cổ Việt Nam, chắc em biết. Sông Đuống cắt đôi tỉnh Bắc Ninh từ Tây sang Đông. Cuối năm 1947, đầu 1948, giặc Pháp xâm lược chiếm hết nam phần. Lúc đó, con sông Đuống là ranh giới giữa vùng địch chiếm và vùng tự do. Anh phải xa rời làng quê, đi chiến đấu ở phía Bắc. Đứng ở bờ bắc, nhìn về vùng quê mình là nam phần Bắc Ninh đang nằm dưới gót giầy đinh giặc Pháp, nên bài thơ lấy tên là “Bên kia sông Đuống.”

BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG

(Đã đăng trên báo Cứu Quốc năm 1948, xuất bản năm 1955, tái bản 1956) Nhà xuất bản Văn Nghệ Hà Nội.

Em ơi! Buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô – nhà ta cháy – chó ngộ từng đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa trăm ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống

Cho ta gửi tấm the đen

Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên

Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai

Trong chùa Bút Tháp

Giữa huyện Lang Tài

Gửi về may áo cho ai

Chuông Chùa văng vẳng nay người ở đâu?

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em xột xoạt quần nâu

Bây giờ đi đâu về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu toả nắng

Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen

Bãi Tràm Chỉ người dăng tơ nghẹn lối

Những nàng dệt sợi

Đi bán lụa màu

Những người thợ nhuộm

Đồng Tỉnh Huê Cầu

Bây giờ đi đâu về đâu?

Bên kia sông Đuống

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong

Dăm miếng cau khô

Mấy lọ phẩm hồng

Vài thếp giấy đầm hoen sương buổi sớm

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn

Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo

Xì xồ cướp bóc

Tan phiên chợ nghèo

Lá đa lác đác trước lều

Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng

Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong

Bước cao thấp bên bờ tre hun hút

Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?

Mẹ ta lòng đói dạ sầu

Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống

Ta có đàn con thơ

Ngày tranh nhau cơm trộn bắp ngô

Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn

Lấy mẹt quây tròn

Tưởng làm tổ ấm

Trong giấc thơ ngây tiếng súng rồn tựa sấm

Ú ớ cơn mê, thon thót giật mình

Bóng giặc đi về trên nét môi xinh

Đã có đất này chép tội

Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống dòng sông Đuống

“Con đấy ư? Con ở đâu về?”

Hé một cánh liếp

“Con vào đây, bốn mảng tường che.”

Lửa đèn leo lét soi tình mẹ

Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng

Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể

Những chuyện muôn đời không nói năng

Đêm đi sâu quá dòng sông Đuống

Bộ đội như tre đã kéo về

Con bắt đầu xuất kích

Trại giặc bắt đầu run trong sương

Dao loé giữa chợ

Gậy lùa cuối thôn

Lúa chín vàng hoe, giặc mất hồn

Ăn không ngon

Ngủ không yên

Đứng không vững

Chúng mày phát điên

Quay cuồng như xéo trên đống lửa

Mà cánh đồng ta còn chan chứa

Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân

Gió đưa tiếng hát về gần

Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa

Tiếng bà ru cháu buổi trưa

Trang trang nắng hạ võng đưa rầu rầu

“À ơi! cha con chết trận từ lâu

Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”

Tiếng em cắt cỏ hôm xưa

Căm căm gió rét mịt mù mưa bay

“Thân ta hoen ố vì mày

Hờn ta cùng với đất này dài lâu…”

“Em ơi! đừng hát nữa! Lòng anh đau,

Mẹ ơi! đừng khóc nữa! Dạ con sầu.”

Cánh đồng im phăng phắc

Để con đi giết giặc

Lấy máu nó rửa thù này

Lấy súng nó cầm trong tay

Mỗi đêm một lần mở hội

Trong lòng con chim múa hoa cười

Vì nắng sắp lên rồi

Chân trời đã đỏ

Sông Đuống cuồn cuộn trôi

Để nó cuốn phăng ra bể

Bao nhiêu xương thịt tơi bời

Bao nhiêu nước mắt

Bao nhiêu mồ hôi

Bao nhiêu bóng tối

Bao nhiêu cuộc đời

Bao giờ về bên kia sông Đuống

Anh lại tìm em

Em mặc yếm thắm

Em thắt lụa hồng

Em đi trảy hội Non Sông

Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

1948 – Hết

Trong thơ, mà in sai (có khi chỉ một dấu hỏi, dấu ngã) là đã đủ để đưa câu thơ ấy hoặc bài thơ ấy đến chỗ dở… Ngay mấy câu em thuộc ở bài “Bên kia sông Đuống” đã có tới ba, bốn chữ sai. Ví dụ: “Khuôn mặt bừng lên như đỉnh trăng,” đúng ra là “dựng trăng”… Ở nông thôn miền Bắc, vào những đêm cuối tháng từ 18, 19 âm trở đi, chập tối trời rất tối. Đến lúc trăng mọc, nếu như ngồi trong nhà mà nhìn ra vườn, ra sân, chợt thấy sáng lên, không tỏ lắm, nhưng đủ sáng để phân biệt được từ nóc nhà, vòm lá cây cau hoặc thấy cả hình con mèo nằm trên đỉnh bức tường hoa, một thứ ánh sáng rất mơ, rất dịu và ấm áp, nhân dân ta đã gọi thời điểm ấy là “dựng trăng” Nghĩa là lúc trăng hạ tuần mọc, vừa nhô ra khỏi chân trời, đã toả cái thứ ánh sáng Hằng Nga ấy trên cánh đồng, vào các ngõ xóm…

Trong một lá thư đề ngày 30.1.82, Hoàng Cầm gửi thêm cho tôi một số bài thơ trích trong tập thơ Về Kinh Bắc. Ở đây tôi chỉ trích ra bài Theo đuổi.

Hôm nay anh lại gửi em thêm vài bài trích trong “Về Kinh Bắc” nhé.

Đây là bài THEO ĐUỔI

(đã thu băng và vẫn nằm im trong ngăn kéo của anh)

Em ơi! thử đếm mấy nguyên tiêu

Đêm hội Lim về… đê quai rảo bước

Đuổi tà lụa nhạt ánh trăng đầm thấm đường sương…

Ấy bởi thương Em vườn không bỏ ngỏ

Gió vào ra bưởi trụi hồng thui

Ấy bởi thương Em mái nhà um cỏ

Chim vào ra vách đứng cột ngồi.

Em về đồng chiêm đất rạn chân chim

Em đi mưa ngâu nước ngập đồi chè

Hồ nghe đêm hội ới a…

Lại xót mắt Em mi trường khép bóng

Lòng tay êm mát rừng tơ xa

Lại xót tay Em đêm trường ru võng

Rừng chân mây chưa động sấm quê nhà

Chân Em dài đi không biết mỏi

Má hồng Em lại nổi đồng mùa nước lụt mông mênh

Lưng thon thon cắm sào em đợi

Đào giếng sâu rồi đừng lấp vội đầu xanh

Lý Lý ơi! Khát khô cả giọng

Tình Tình ơi! chớ động mành thưa

Chìa vôi quệt gió hững hờ

Bờ ao sáo tắm bao giờ hở Em.

1960

Trích “Về Kinh Bắc”

Hoàng Cầm viết tại Hà Nội 30.1.82.”

Bức thư đầu

Đây là nguyên văn bức thư đầu anh viết cho tôi:

Hà Nội, ngày 9.3.1981

Gửi em Cần Thơ phương xa,

Trước trang giấy trắng, gần một tháng nay, anh không biết nên gọi em thế nào, và viết thế nào. Một lời cảm tạ khách sáo và nhạt nhẽo ư? Một lời bỡ ngỡ vô duyên ư? Điều gì đã chao động trong tâm trí anh, từ một chiều tháng giêng, nhận được chút hương lạ và xa xôi của em gửi đến. Anh chỉ có thể diễn tả được vài phần bằng thơ mà thôi. Còn như viết thư… anh rất vụng về, lúng túng đôi khi ngớ ngẩn nữa… Ấy thế mà rồi vẫn phải viết một câu mà anh cứ e là khách sáo: “Anh chị rất cảm tạ tấm lòng em từ phương xa đã mở cho anh một mùa xuân thơ, khoẻ và trẻ lại.”

Và xin kể đầu đuôi:

Đúng ngày mùng 10 tháng Giêng Tân Dậu anh được mời ra bưu điện (bên bờ Hồ Gươm) nhận… không biết ai gửi, ai gửi không biết tên. Và đã phải “tranh luận” với cô nhân viên bưu điện về chuyện ai gửi? Tên gì? Địa chỉ? Sao bác lại không biết? Không biết, không quen, không phải bạn, không phải họ hàng sao lại gửi đúng địa chỉ và tên bác? Vô lý.” Rầy rà một chút thôi, và rồi cô bưu điện (cũng có thuộc tên anh) đành phải vào mở sổ xem tên người gửi và đọc to một cái tên để anh tự viết vào tờ khai nhận hàng. Anh đã viết tên em lên trang giấy hành chính ấy, xúc động như viết câu thơ đầu tiên của một bản trường ca…

Chiều ấy, Hồ Gươm đẹp hơn xa những bức tranh cổ điển của Trung Quốc thời xưa – Mưa như phấn thoa lên mặt hồ – và anh hình dung ra em – Nếu anh là hoạ sĩ, anh có thể vẽ ngay chân dung em lên lụa, và chắc chắn là giống như tạc, như đúc! Portrait de ton Intérieur – de ton Cœur (bức hoạ chân dung tâm linh bên trong trái tim em).

… Anh biết trái tim em chứa một trời xanh màu xanh Cần Thơ, mắt em chứa chan cái nắng Cần Thơ và tóc em chảy dòng những dòng mưa ở một ngàn xanh nào của Đất Mẹ hiền. Em yêu thơ Việt, yêu thơ anh đằng đẵng và thấm đọng đến mức tìm được địa chỉ anh sau bao lần dò hỏi, điều đó chứng tỏ tình yêu quê hương trong em rất sâu, bắt nguồn từ máu. Mặc dầu em xa quê hương từ tấm bé, mà tâm hồn em là một hồn thơ, là tâm hồn Việt Nam ngàn năm. – Ton âme, c’est la Muse Vietnamienne elle-même (Linh hồn em đích thực là hồn thơ của đất Việt).

Thêm vào đó, em còn là từ mẫu lương y – lòng em rung động mãi trước cái đau của con người trong khi còn rung động mãi vì quê Việt và thơ Việt.

Em,

Ngày nhận được tấm lòng em, kỳ lạ thay là trước ngày kỷ niệm sinh nhật anh đúng một vòng quay của hành tinh chúng ta.

Đêm kỷ niệm sinh nhật, anh thao thức vì tấm lòng em, trắng đêm nở ra một bài thơ 11 Strophes (sinh nhật 11 tháng Giêng rạng ngày 12). Anh chỉ đọc em nghe đoạn đầu tiên, còn cả bài, sau này có dịp nào đó, như một cơn gió thoảng bất chợt, em sẽ nhận, cũng như anh đã nhận tấm lòng em – bất chợt!

Một áng hương Em gói lẵng xuân

Từ đâu? Bỡ ngỡ cánh thiên thần?

Hương xa… lạ thế… mà thân thế

Quấn nửa tinh cầu nửa bước chân…

Em Thơ,

Bây giờ nói qua về cuộc sống thực tại anh tự kể trước khi cần hỏi thêm về cuộc sống của em. Anh và chị… và các em ở Hà Nội, sống bình thường giản dị, thanh bần lắm nhưng cuộc sống Việt Nam thật là đáng sống… và niềm vui hằng ngày của anh là bạn hữu và thi ca. Cũng vẫn kiếm được một vài ly rượu quê để phấn chấn vào những chiều xuân Hà Nội, hơi lạnh, mát, thoảng chút mưa bụi như sương nhẹ.

Sức khoẻ của anh, thực tế là hơi kém nhưng anh vẫn tự sáng chế cho mình một thứ thuốc an thần gồm mấy thành phần: Một là “tri túc” (biết thế nào là đủ). Hai là “an bần lạc đạo” (yên tâm với cái nghèo để mà vui cái đạo làm người). Giờ phút nào anh cũng uống một viên thuốc ấy. Em là bác sĩ, thử tìm ở các hiệu thuốc bên ấy xem họ có bán không nhé! Còn mấy thứ thuốc rất quý (vì tình của em) gửi tặng anh thì may quá, rất cần cho chị. (Chị bị huyết áp cao, nhiều lần lên tới 220/140, lại cũng hay đau xương mỏi khớp). Chị gửi lời Anh vào thư cảm ơn em vô hạn. Tình tình hình sức khoẻ của cả gia quyến – như sự quan tâm của em – thì anh xin báo cáo với bác sĩ là cần rất nhiều thuốc kháng sinh, nào đường hô hấp (riêng anh đã có bước đầu của bệnh hen suyễn) rồi đường ruột, các thứ bệnh viêm ở một xứ nhiệt đới, ẩm thấp, luôn luôn các em các cháu cứ hết viêm họng lại viêm phế quản, viêm ruột, viêm xoang, nhiều loại viêm quá, em thấy có ghê không?

Đọc đến đây, nghe thi sĩ tả nếp sống an bần lạc đạo, tôi rất thích. Hiện tại Thầy và chúng tôi cũng đang sống rất thanh bần tri túc ở Phương Vân Am y như nếp sống của Hoàng Cầm và gia đình anh kể trong thư. Chỉ khác là không có “vài ly rượu quê để phấn chấn vào những chiều xuân Hà Nội”, dù rằng nơi thầy trò Phương Vân Am chúng tôi đang ở là vùng sản xuất rượu Champagne, thứ rượu vang trắng thượng hạng của Pháp. Đến khi chúng tôi có Làng Hồng, thì Làng Hồng cũng toạ lạc tại một vùng sản xuất rất nhiều thứ rượu vang nổi tiếng của nước Pháp. Nhưng Thầy và chúng tôi nhất định khuyên thiền sinh bốn phương về tu học là khi đã phát nguyện giữ giới thứ năm thì dù chỉ một hớp rượu hay một ly bia cũng không nên để dính môi. Thầy nói ly thứ nhất thường thường đưa tới ly thứ hai.

Hoàng Cầm viết tiếp:

Nói vậy, nhưng trong đáy lòng, anh không muốn làm phiền em, mất thì giờ của em vì không biết bài thơ nào, câu thơ nào của anh từ lâu đã làm phiền tâm trí em rồi? Anh không muốn hỏi ở Em một thứ gì hết, em hiểu cho anh, chỉ khao khát những gì là Đẹp, là Trong Sáng. Còn anh vẫn phải để quyền cho em quan tâm đến anh. Anh không mảy may dám phạm đến quyền ấy.

Ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều nơi khác khắp đất nước, anh có diễm phúc là được nhiều bạn hữu nam, nữ, già, trẻ. Chỉ tiếc là năm 1976, anh ở Sài Gòn sáu tháng mà không đặt chân lên đất Cần Thơ (chắc là nơi em ra đời, nên hai người thân sinh đã lấy đất ấy mà đặt tên Em. Anh hơi tò mò, em thứ lỗi nhé!) Nhưng bây giờ qua em, anh biết Cần Thơ rồi đấy.

Cảm ơn em và lại phải đọc cái quatrain thứ hai của bài thơ mà anh tạm lấy tên là:

HƯƠNG XA

Bài thơ nào vỗ cánh trong Em?

Để mỗi mười năm một trắng đêm

Là đêm thao thức mơ về Nước

Thon dáng người Thơ, gió động rèm.

Thế nhé! còn chín đoạn nữa em hãy chờ, và bao giờ thì những cơn gió đẹp lành cũng sẽ bay khắp hành tinh.

Bây giờ, xin phép Em cho anh được hiểu thêm:

– Bài thơ nào vỗ cánh trong em từ dạo ấy?

– Cho anh biết thêm về gia đình em và cho phép anh, qua em gửi lời kính chào, lời chúc mừng tốt đẹp đến những người thân của em.

Và nếu em cho phép anh biết thêm gì nữa, anh sẽ rất trân trọng và cảm ơn em nhiều lắm.

Còn anh, dẫu là 30 năm về trước phải viết ra những dòng thơ như phải sống, phải thở trong bầu không khí của dân tộc và đất nước Việt Nam mình.

Tác phẩm thơ của Anh trong khoảng trên 2/3 thế kỷ qua cũng đáng để anh yên tâm rằng mình không đến nỗi như là hạt cát ở bến sông đời, ít nhất cũng có được đôi ba Chung Tử Kỳ, trong đó có em. Anh mong thư của em hơn là mong bất cứ một thứ gì khác.

Chúc em khoẻ mạnh, vui, yêu Thơ, xin được em cho phép là Anh của Em

Tạm dừng nhé!

P/s: tên khai sinh Bố Mẹ đặt cho anh là Bùi Bằng Việt (Vượt chim bằng). Khi bắt đầu có thơ anh mới lấy bút danh như mọi người biết (tức là Bùi Hoàng Cầm).

Khôi phục niềm hứng khởi sáng tác

Đó là cuối năm 1981. Sau khi nhận được hai bức thư đầu tiên và những hộp quà thuốc, Hoàng Cầm đã rất cảm động và bắt đầu sáng tác trở lại. Đọc những bức thư của anh, tôi thấy niềm tin đã sống lại trong anh, nguồn hứng khởi và nàng thơ lại dào dạt trong thi sĩ.

Thầy và anh chị em chúng tôi thấy thế thì mừng vô cùng. Đó là món quà lớn nhất mà bao nhiêu tiền cũng không mua được. Mục đích của Thầy và anh chị em chúng tôi là giúp một phần làm sống dậy nguồn cảm hứng của các thi sĩ, hoạ sĩ và nghệ sĩ. Những đoá hoa kỳ diệu của đất nước cần phải tiếp tục toả hương, không thể để cho những tài năng đó tàn lụi. Trong giai đoạn đó của đất nước, có một nhà thơ rất đậm chất văn hoá Kinh Bắc, chiếc nôi văn hoá của dân tộc, ngay tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu: Đó là nhà thơ Hoàng Cầm.

Bài thơ đầu mà anh sáng tác trở lại là bài Hương Xa mà anh đã làm tặng tôi. Trong lá thư đề ngày 09.03.1981, anh chỉ mới chép cho tôi hai đoạn đầu của bài thơ ấy thôi. Tôi ngạc nhiên quá chừng! Mình là ai mà được một thi sĩ tài ba nổi tiếng như thế tặng thơ? Tôi thở sâu vài hơi và thấy được rằng: “Ôi, bài thơ này anh ấy nói là tặng cho Cần Thơ, mà Cần Thơ là tăng thân Phương Vân Am. Dễ thương quá! Tôi chỉ là một giọt nước nhỏ trong tăng thân”. Nhưng giọt nước này đã có một hình dáng thật đẹp trong lòng người thi sĩ đã quá khô cằn vì thời cuộc. Óc tưởng tượng của anh thật phong phú.

Anh viết:

Chiều ấy, Hồ Gươm đẹp hơn xa những bức tranh cổ điển của Trung Quốc thời xưa – Mưa như phấn thoa lên mặt hồ – và anh hình dung ra em – Nếu anh là hoạ sĩ, anh có thể vẽ ngay chân dung em lên lụa, và chắc chắn là giống như tạc, như đúc! Portrait de ton Intérieur – de ton Cœur (bức hoạ chân dung tâm linh bên trong trái tim em).

… Anh biết trái tim em chứa một trời xanh màu xanh Cần Thơ, mắt em chứa chan cái nắng Cần Thơ và tóc em chảy dòng những dòng mưa ở một ngàn xanh nào của Đất Mẹ hiền. Em yêu thơ Việt, yêu thơ anh đằng đẵng và thấm đọng đến mức tìm được địa chỉ anh sau bao lần dò hỏi, điều đó chứng tỏ tình yêu quê hương trong em rất sâu, bắt nguồn từ máu. Mặc dầu em xa quê hương từ tấm bé, mà tâm hồn em là một hồn thơ, là tâm hồn Việt Nam ngàn năm. Ton âme, c’est la Muse Vietnamienne elle-même (Linh hồn em đích thực là hồn thơ của đất Việt).

Thêm vào đó, em còn là từ mẫu lương y – lòng em rung động mãi trước cái đau của con người trong khi còn rung động mãi vì quê Việt và thơ Việt.

Thường ta hay nghĩ mình là người cho quà và lấy làm hãnh diện. Thật ra tôi đã thực tập để thấy mình chỉ là một điểm tựa, may mắn có đủ phương tiện và hoàn cảnh để yểm trợ một chút nào đó cho những viên ngọc quý của đất nước, và tôi cảm thấy khá bối rối khi anh Hoàng Cầm quá lời khen ngợi. Thầy tôi an ủi, bảo tôi đừng ngại. Ước mơ của mình là tạo niềm hứng khởi sáng tác cho các văn nghệ sĩ. Đó là nhiệm vụ của chư tổ tiên Việt Nam giao cho mình. Có chút kết quả nào thì ta nên vui mừng mới đúng.

Bắc một chiếc cầu

Tôi nhớ tới người em kết nghĩa Hồ Hải Trân. Gia đình em từ miền Bắc di cư vô Nam những năm 1954 – 1956, lúc đất nước chia hai. Trân là em của người bạn thân của tôi ở trường Marie Curie. Em nhỏ hơn tôi hai tuổi nên đã xin làm em kết nghĩa. Hai chị em tập viết văn. Lúc đó tôi cũng tập viết văn và đọc những bài báo tiếng Việt. Qua ngòi bút, em hay thuật cho tôi nghe vô số chuyện dễ thương về miền Bắc như có con sông Thương nước chảy hai dòng, có những thi sĩ tuyệt vời như Hoàng Cầm viết bài thơ Bên kia sông Đuống và kịch thơ Kiều Loan mà mẹ của Trân đã từng là kịch sĩ diễn trong vở kịch đó.

Đọc xong bài thơ Em bé lên sáu, tôi liên lạc với Hồ Hải Trân để nhờ em tìm cách xin địa chỉ thi sĩ Hoàng Cầm. Hồ Hải Trân không trả lời được vì chính em mới vượt biên vừa tới Hoa Kỳ, đang gặp khó khăn trong đời sống, lại thêm khó khăn liên lạc với mẹ em ở Việt Nam. Nhờ Trân tìm địa chỉ của Hoàng Cầm như thế, nhưng cả năm cũng chưa có tin tức gì.

Thật ra lúc ấy, tôi cũng có quá nhiều việc lo cho giới thuyền nhân. Cuối năm 1977, tôi mới từ Thái Lan về lại Phương Vân Am sau chuyến đi cứu trợ thuyền nhân lần chót, suýt chết vì hải tặc định chận đường chiếc ghe “giả vờ đánh cá” của tôi tại Trad (xin xem Tập 2). Tôi nhờ em Hồ Hải Trân tìm địa chỉ nhà thơ nhưng phải chờ Trân gửi thư về hỏi mẹ Trân ở Việt Nam. Mẹ Trân phải tìm một người bạn cũ của Hoàng Cầm cùng di cư vào Nam sau 1954 như bà. Ông ấy lại đi dò hỏi nhiều người, khoảng một năm và sáu tháng sau Trân mới cho tôi địa chỉ: Thi sĩ Hoàng Cầm 43 đường Lý Quốc Sư, Hà Nội. Đó là vào khoảng tháng 10 năm 1980.

Trong khi Hồ Hải Trân tìm địa chỉ thi sĩ Hoàng Cầm, tôi vẫn tiếp tục chương trình giúp đỡ các văn nghệ sĩ khác. Bắt đầu từ năm 1977 trở đi chúng tôi đã có dịp giúp nhiều văn nghệ sĩ khác rồi, như nhà văn Doãn Quốc Sĩ và nhạc sĩ Lê Thương. Qua Lê Thương tôi lại biết tới nhà văn Hoàng Hải Thuỷ, hoạ sĩ Minh Đăng Khánh, nhạc sĩ Vĩnh Phan, nghệ sĩ hài Khả Năng, nhà văn Duyên Anh… Gửi quà cho văn nghệ sĩ chúng tôi không thể để tên thật người gửi, vì sau mấy lần họp báo gửi tin cho các hãng thông tấn trên thế giới: tên tôi đã bị ghi vào sổ đen rồi. Nếu nhân danh tôi gửi thuốc, gửi quà thì ngay cả các cháu cô nhi cũng chắc chắn không lãnh quà được. Vì thế nên tôi phải ẩn tàng và biểu hiện thành bác sĩ Ngô Thị Phương Hương, bác sĩ Bùi Thị Cần Thơ, cô Nguyễn Thị Thiều Chi, em Lê Thị Chín, cháu Đào Thị Mây, em Mai Thị Ngọc…

Trong tinh thần đó, tôi đã viết một lá thư cho Hoàng Cầm vào cuối năm 1980, nói rằng tôi lớn lên bên Pháp, tên là Bùi Thị Cần Thơ, rất mến mộ thơ của thi sĩ. Hiện tôi mới ra trường, đang là bác sĩ làm việc tại một bệnh viện nhỏ ở miền Đông Nam nước Pháp, nhưng không thích kiếm tiền nhiều, chỉ muốn làm đủ sống thôi và muốn có thời gian học hỏi về văn hoá và thi ca Việt Nam. Viết đến đây, tôi nhờ Thầy viết thêm cho mấy đoạn khen vở kịch thơ Lên đường rồi chép lại gửi cho Hoàng Cầm. Thành ra, cái phần tươi mát của người trẻ là của tôi, rồi thêm cái phần tri kỷ hiểu và bình thơ Hoàng Cầm là của Thầy chúng tôi. Phần trị bệnh là của anh Năm tôi, vốn là bác sĩ y khoa tốt nghiệp tại Paris và đã hành nghề hơn 20 năm ở Việt Nam, mới trở qua Pháp. Rồi sau cuối là phần thăm hỏi và khen ngợi từng người thân trong gia đình, trong đó có chị Yến vợ của người nghệ sĩ nhận quà, lại do tôi viết. Tóm lại, đó là một bức thư rất đầy đủ chân tình của nhiều trái tim biết trân quý những viên ngọc của đất nước.

Sau này Hoàng Cầm kể lại rằng, khi nghe một người bạn trong Nam bảo với Hoàng Cầm có một cô bác sĩ trẻ đang ở Pháp rất yêu thơ của anh, muốn liên lạc với anh, thì Hoàng Cầm đã sẵn sàng và đồng ý.

Ba tháng sau, Hoàng Cầm nhận được một giấy báo tin có một bưu phẩm từ bên Pháp về đề đúng tên ông. Ban đầu Hoàng Cầm cũng đã nghi bưu phẩm ấy là của ai gửi rồi. Cô nhân viên bưu điện hỏi ai gửi, Hoàng Cầm chưa biết tên tôi nên chỉ nói: “Tôi biết có một cô bác sĩ ở Pháp rất mến mộ thơ của tôi, muốn tặng tôi một ít thuốc để trị bệnh”. Cô nhân viên bưu điện hình như cũng đã có nghe tên Hoàng Cầm, nên đã tử tế đọc tên người gửi để anh điền vào giấy, rồi mới được lãnh quà. Trong gói quà, bác sĩ Cần Thơ đã căn dặn rõ ràng thuốc này dùng cho bệnh gì, thuốc kia dùng ra sao.

Ban đầu tôi chỉ gửi một gói nhỏ thôi, để xem quà có tới được không. Đến khi biết quà tới được rồi, tôi mới gửi gói to hơn, vì nghe nói đồng bào trong nước bị giới hạn “một năm chỉ được nhận hai hoặc ba lần quà thôi”. Mỗi lần chỉ được gửi nhiều nhất là 5kg, gồm vải, bút mực, giấy, giấy carbon, thuốc trụ sinh và thuốc bổ. Theo như Hoàng Cầm kể lại thì trong thời gian đầu liên lạc với tôi, gia đình anh cũng sống tạm ổn nhờ vào những hộp thuốc chúng tôi gửi tặng – họ đã không sử dụng mà chỉ đem đi đổi thành những thứ cần dùng khác.

Trong lá thư trả lời cho tôi ngày 9.3.1981, anh viết rất cảm động. Mỗi khi nhận được thư anh, tôi thường gửi bưu thiếp trở lại báo tin đã nhận được thư, vì gửi như vậy “người ta” đọc liền được nội dung và thấy không có gì bí mật thì mới dễ dàng cho bưu thiếp đi qua. Tôi hay gửi những bưu thiếp ngắn thôi. Khi nào có Thầy viết giùm thì tôi mới biên thư dài cho anh. Khi nhận được thư tôi, Hoàng Cầm mừng lắm. Bức thư quá dễ thương, có ý tứ và lại sâu sắc khiến anh rất lên tinh thần (có Thầy “cầm tay” mà!). Thuốc tôi gửi toàn là thuốc rất cần thiết cho sức khoẻ của anh và của cả gia đình. Sau đó con trai của anh đem một số thuốc đi bán để đổi thực phẩm cho cả nhà. Trong mỗi bức thư gửi cho anh, tôi đều có hỏi thăm chị Hoàng Yến (là vợ của Hoàng Cầm) và các con anh. Thành ra mọi người rất thương tôi và xem như một người thân trong gia đình.

Qua bạn bè, tôi nghe anh Hoàng Cầm đã nói: “Cô này rất đàng hoàng. Cô này con nhà nề nếp gia giáo, biết trên biết dưới, mỗi lần viết thư đều hỏi thăm chị Yến của em, tự xem như một người em, rất lễ độ, viết thư rất có văn hoá chớ không phải những bức thư tình lăng nhăng. Cô cũng nói rõ ràng là cô yêu thơ của anh, cô xa nước từ năm lên sáu tuổi, nhưng vẫn luôn luôn nhớ về quê hương Việt Nam”.

Tôi có giải thích cái tên Cần Thơ của tôi để trả lời một câu hỏi của anh về cái tên ấy. Tôi “tạm” nói vì ba mẹ tôi gặp nhau ở Cần Thơ nên khi sinh ra tôi, tôi được đặt tên là Cần Thơ. Và tôi có tả phong cảnh sinh hoạt của Ngọc Lan Thảo Trang (tức Phương Vân Am) hồi đó cho anh nghe. Phương Vân Am thật ra đã có mặt trong thời Việt Nam còn đang chiến tranh, khi thầy trò chúng tôi làm việc cho Phái đoàn Hoà bình của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở Paris. Lúc đó Thầy chúng tôi dạy ở trường Ecole Pratique des Hautes Etudes của Viện Đại Học Paris, Section IV Sciences Historiques et Philologiques (nằm trong toà nhà Sorbonne). Có chút tiền dạy học nên đầu năm 1971, Thầy mua một thảo am nhỏ không xa Paris lắm (cách 150 km) và Thầy đặt tên là Phương Vân Am để mỗi cuối tuần thầy trò đi về vùng quê này mà quên đi cát bụi Paris và được gần gũi với thiên nhiên, để trồng rau húng, rau ngò, để gieo tần ô và cấy mấy luống cải làm dưa ăn Tết Việt Nam cho đỡ nhớ quê hương. Nói là “thảo am” cho có vẻ thi ca nhưng thật ra chỉ là một cái nhà bằng đá đã hoang tàn với 3.000 mét vuông đất chung quanh. Ông chủ thảo am (chắc gọi là thạch am mới đúng) dự định xây thêm một phòng dựa vào vách đá, nhưng công trình xây cất còn lỡ dở thì chẳng may ông bị bệnh và qua đời, nên bà vợ ông đã đăng báo bán giá khá rẻ. Cứ mỗi cuối tuần, thầy trò có dịp về Phương Vân Am, chia nhau ra thành nhiều nhóm để làm việc. Nhóm thợ hồ thợ mộc như Gilles và Jean Marie làm việc dưới sự chỉ dẫn của bác thợ hồ chuyên nghiệp Dolat; chú Hương, chú Thiện Thắng và bọn con gái thì ra làm nông dân trồng trọt dưới sự chỉ dẫn của Thầy. Sáng sớm thứ Hai, Thầy ở lại với vài người bạn như Gilles, Raymond và chú Thiện Thắng. Còn tôi, chú Hương, bà Best và Laura thì về trực văn phòng ở Paris để thông dịch tin tức bên nhà gửi qua. Đến thứ Tư, Thầy mới đi xe lửa lên Paris để kịp dạy học vào ngày thứ Năm. Mãi đến gần cuối năm 1975, khi không liên lạc được với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và các bạn Thanh niên phụng sự xã hội bên nhà, Thầy mới quyết định nghỉ dạy học ở Sorbonne và đóng cửa văn phòng Paris của Phái đoàn Hoà bình rồi về ẩn cư luôn ở Phương Vân Am.

Trong lá thư ngày 05.05.1981, tôi viết cho anh Hoàng Cầm:

Thưa anh, thư của anh rất chân thành vì vậy cho nên anh là một chân thi sĩ. Ngày trước em có thu thập được một ít thơ của anh, kể cả tập kịch thơ “Lên đường”. Nhưng em mất dấu của người bạn cho em xem tập thơ ấy, khi em chưa kịp chép lại hay photocopier lại. Bây giờ thì em không còn gì mấy về thơ anh. May mắn thay em mua được ở hiệu sách Việt Nam tại Pháp năm 1975 bản “Tiếng hát Quan họ”. Theo em đây là một thi phẩm rất độc đáo. Một “master piece” (tuyệt tác) sẽ sống hoài với thời gian. Hình ảnh trong thơ rất dồi dào và lồng lộng một khung trời âm thanh và màu sắc. Ôi, quê hương miền Bắc! Và hai con mắt của anh quả thực là hai con mắt của một thi sĩ. Tác phẩm này viết trên hai mươi năm và nay vẫn còn mới về hình thức cũng như nội dung. Các bạn em sợ rằng nó bị mai một nên chúng em bàn nhau định in nó lại và giữ ở tại các thư viện đại học bên này. Anh không cần phải chấp nhận việc đó, cứ để tụi nó tự tiện làm, miễn là anh đừng “kiện” tụi nó là được rồi.

Em sẽ rất vui sướng nếu anh gửi cho em toàn bộ tác phẩm của anh, gửi từ từ mỗi lần vài bài chép trên giấy mỏng viết thư là không lạc bao giờ, mà lại tiện. Chúng em sẽ nâng niu giữ gìn thơ anh như bảo vệ gia tài của quê hương và nếu cần thì tìm cách bảo vệ như Tiếng hát Quan họ. Chúng em lại cũng sẽ “mừng hết lớn” nếu anh gửi cho chúng em những tác phẩm Inédits (chưa nhuận và chưa in) của anh và những bài thơ mới làm. Em sẽ vâng lời anh tuyệt đối về những điều anh căn dặn về thể thức và phương cách bảo tồn, tàng trữ hoặc phổ biến thơ anh. Anh có thể đặt niềm tin trọn vẹn nơi em về việc bảo tồn sự nghiệp thi ca của anh.

Em đã gửi một colis dược phẩm cách đây một tuần, để trị các bệnh cần thiết. Em cũng có ghi cách sử dụng trên nắp hộp.

Bây giờ em xin nói qua về “gia thế” của em. Thưa anh, đúng là ba má em gặp nhau tại Cần Thơ nhưng ba em đã mất năm 61, hiện em đang ở với mẹ và một người chị goá chồng và các cháu, thành ra em làm “cha” cho các cháu luôn. Nhà em, xa Paris lắm, giữa những đồi mận đồi mơ (pruniers), em có rất nhiều bạn trẻ Việt, Pháp, Thuỵ Sĩ, Hà Lan, Anh… đến chơi hoặc ở vài tháng như một đại gia đình. Mỗi đứa đều có nghề riêng nhưng chỉ làm việc bán thời gian để đủ sống. Còn thừa thì giờ chúng em làm vườn, tự trồng rau cải để ăn, ca hát, ngâm thơ, trao đổi văn hoá, tìm đến những cái hay cái đẹp nghệ thuật của mỗi nước. Vì thế Cần Thơ chỉ đi làm cho bệnh viện mỗi ngày một buổi thôi. Không mở phòng khám bệnh tư vì còn để thì giờ “chơi”. Chúng em không muốn đánh mất mình đi vì tiền bạc và công việc. Vì vậy mà chắc em có thể có đủ thì giờ “lãnh gia tài”của anh được. Các bạn trẻ Việt Nam ở Paris mỗi lần về Ngọc Lan Thảo Trang thì giống như về Cần Thơ hay Bến Tre vậy. Em có mắc võng bên bờ suối, có rau húng rau ngò, cải cúc. Các bạn trẻ ngoại quốc ăn được cả nước tương, và chao nữa…

Em kính lời thăm chị và rất cám ơn chị đã nuôi dưỡng và giữ gìn anh để anh sáng tác cho bao nhiêu thế hệ Việt Nam và trong đó có em được thừa hưởng. Em trông tin anh lắm.

Cần Thơ.”

Khi nhận được thư tôi lần đầu Hoàng Cầm cảm động quá, anh làm bài thơ Hương xa dài 11 đoạn để tặng tôi. Hoàng Cầm cũng gửi cho anh Chấn một bản sao của bài thơ đó và bị anh Chấn la cho một mạch, bảo anh Hoàng Cầm đừng có mơ mộng viển vông, chỉ nên viết thư cảm ơn đã gửi quà là đủ. Anh Chấn, người bạn giới thiệu địa chỉ của Hoàng Cầm cho bà Hồ Sĩ Lạng, mẹ của Hồ Hải Trân (rồi Hồ Hải Trân đưa cho tôi), có cho thi sĩ biết tên Cần Thơ có thể không phải là tên thật – “người ta giấu tên vì một lý do nào đó”! Hoàng Cầm “không muốn” tin anh Chấn. Trái tim người nghệ sĩ như quá khô cằn vì thời cuộc, bỗng nhiên có giọt nước cành dương tươi mát rơi vào mảnh đất tâm khô khát, tuyệt vọng này. Tại sao lại đa nghi? Anh Hoàng Cầm nhất định không tin anh Chấn và đã gửi nguyên bức thư của anh Chấn cho tôi xem và xin tôi cho ý kiến.

Tiếng gọi của thơ

Tôi biết được Hoàng Cầm là một nhà thơ lớn là nhờ Thầy cho chúng tôi đọc và giảng cho chúng tôi về tập thơ Tiếng hát Quan họ của thi sĩ.

Hôm đó tại Bruxelles, thủ đô nước Bỉ, thầy trò đi mua được một số sách của các nhà văn và học giả miền Nam và một tập thơ của Hoàng Cầm, tập Tiếng hát Quan họ. Cùng với tập thơ Tiếng hát Quan họ, chúng tôi còn mua được một tập Tranh Đông Hồ với những bức tranh dân gian truyền thống như Hái dừa, Đánh ghen, Đám cưới vhuột. Qua tranh Đông Hồ, tôi thoáng thấy được nụ cười sống động của người dân quê miền Bắc đất nước. Nhưng phải nhờ đọc Tiếng hát Quan họ, xem Tranh Đông Hồ và nghe Thầy giảng thơ, bình ca dao Việt Nam thì tôi mới thấy được giá trị của nền văn học dân gian qua ca dao, dân ca và tranh dân gian thân thương gần gũi.

Tập thơ quá hay, độc giả đọc qua sẽ thấy ngay ngụ ý của thi sĩ: Dù thời nào – thời phong kiến hay thời đại mới – thì cũng có những người khắt khe, bắt bẻ những trái tim thơ ngây, ép buộc những tâm hồn phong phú nghệ thuật vào khung giáo điều, đạo đức. Khuôn phép càng nhiều càng giết chết sự sống thơ ngây phong phú của thi ca và nghệ thuật. Nếu cụ lý trưởng thời phong kiến cấm trai gái yêu đương thì cụ “lý trưởng” đời nay cũng giết chết nghệ thuật văn chương thi ca bằng những giáo điều như vậy.

Sau đó tôi được đọc bài thơ Em bé lên sáu của Hoàng Cầm. Bài thơ kể về một chị cán bộ đang nấu cơm chiều trong nhà thì thấy một đứa bé lên sáu đói khát, ỏng eo, quá tội nghiệp. Bố nó là địa chủ, mẹ nó thì đã di tản vào Nam. Chị thấy nó ốm xanh và đói rét, nhớ lại khi còn nhỏ, chị cũng đã từng trải qua cảnh ngộ này, đã từng đứng liếm lá ngoài chợ, liếm những tấm lá còn sót chút chất ngọt béo của thức ăn khi người ta ăn xong vứt đi. Chị cán bộ liền đem chút cơm nguội cho nó ăn. Nhưng sau đó chị bị cấp trên bắt viết bài tự phê bình kiểm điểm vì đã nuôi một thằng bé con địa chủ. Chị chong đèn nhưng tìm hoài vẫn không thấy bóng dáng người địa chủ gian ác nào trong em bé gầy còm đói khát đó. Chị chỉ thấy thằng bé bị bỏ lại một mình, bơ vơ và đói. Bắt chị làm kiểm điểm, chị không biết kiểm điểm cái gì. Bài thơ Em bé lên sáu đó đã đánh động niềm thương xót trong tôi.

EM BÉ LÊN SÁU

I

Lủi thủi tìm miếng ăn

Bố: cường hào nợ máu

Mẹ bỏ con lay lắt

Đi tuột vào trong Nam

Từ khi lọt lòng mẹ

Ăn sữa, ngủ giường êm

Áo hoa lót áo mềm

Nào biết mình sung sướng

Ngọn sóng đang trào lên

Ai nghĩ thân bèo bọt

Nhưng người với con người

Vẫn sẵn lòng thương xót

Có cụ già đói khổ

Lập cập đi mò cua:

Bố mẹ nó không còn

Đứa trẻ nay gầy còm

Bỗng thương tình côi cút

Cụ nhường cho miếng cơm

Chân tay như cái que

Bụng phình lại ngẳng cổ

Mắt tròn đỏ hoe hoe

Đo nhìn đời bỡ ngỡ:

“Lạy bà xin bát cháo

Cháu miếng cơm, thầy ơi!”

II

Có một chị cán bộ

Đang phát động thôn ngoài

Chợt nhìn ra phía ngõ

Nghe tiếng kêu lạc loài.

Chị rùng mình nhớ lại

Năm đói kém từ lâu

Chị mới năm tuổi đầu

Liếm lá khoai giữa chợ

Chạy vùng ra phía ngõ

Dắt em bé vào nhà

Nắm cơm dành chiều qua

Bẻ cho em một nửa.

Chị bần nông cốt cán

Ứa nước mắt quay đi:

“Nó là con địa chủ

Bé bỏng đã biết gì

Hôm em cho bát cháo

Chịu ba ngày hỏi truy.”

Chị đội bỗng lùi lại

Nhìn đứa bé mồ côi

Cố tìm vết thù địch

Chỉ thấy một con người

Em bé đã ăn no

Nằm lăn ra đất ngủ

Chị nghĩ: “Sau lấy chồng

Sinh con hồng bụ sữa.”

III

Chị phải đình công tác

Vì câu chuyện trên kia

Buồng tối lạnh đêm khuya

Thắp đèn lên kiểm thảo

Do cái lưỡi không xương

Nên nhiều đường lắt léo

Do con mắt bé tẻo

Chẳng nhìn xa chân trời

Do bộ óc chây lười

Chỉ một màu sắt rỉ,

Đã lâu năm ngủ kỹ

Trên trang sách im lìm

Do mấy con người máy

Đầy gân thiếu trái tim

IV

Nào “liên quan phản động”

“Mất cảnh giác lập trường”

Mấy đêm khóc ròng rã

Ngọn đèn soi tù mù

Lòng vặn lòng câu hỏi:

“Sao thương con kẻ thù?

Giá ghét được đứa bé

Lòng thảnh thơi bao nhiêu!”

Tôi rất biết ơn thi sĩ đã dám nói lên điều mình nghĩ và có cảm tình đặc biệt với ông ngay từ đó.

Tôi lại nhớ những điều thầy chúng tôi từng chia sẻ về những năm kháng chiến chống Pháp từ 1947 đến 1954. Khi đó Thầy đã yêu kịch thơ Lên đường, bài thơ Bên kia sông Đuống và kịch thơ Kiều Loan của Hoàng Cầm. Những tác phẩm ấy làm tinh thần kháng chiến lên rất cao. Thanh niên trai trẻ sẵn sàng bỏ nhà cửa lên đường đi chiến đấu. Chúng tôi cũng được Thầy dạy là một số văn nghệ sĩ và những học giả tham gia viết bài cho tập Nhân Văn (chỉ ra được 5 số báo trong thời gian vỏn vẹn chưa đến ba tháng) và các ấn bản Giai phẩm Mùa Xuân, Mùa Thu (ấn hành đầu năm và bị chấm dứt cùng Nhân Văn vào cuối năm 1956) đã bị đưa đi học tập cải tạo vì đã viết những bài phê bình thẳng thắn cách hành xử của những cán bộ lạm quyền đưa cách mạng xuống dốc quá đà. Sau khi viết Em bé lên sáu, Hoàng Cầm cũng bị kiểm thảo, đi học tập cải tạo trong rừng sâu. Văn nghệ sĩ thời đó vì dám nói thật những gì trong trái tim mình mà bị lưu đày, lao động cải tạo, sống rất gian khổ.

Lời giới thiệu

Tôi thường học hỏi được rất nhiều từ những học trò của tôi. Với tôi, học trò cũng là thầy. Sư cô Chân Không là một trong những người ưu tú nhất trong số những học trò như vậy. Để tôi kể cho quý vị nghe một trong những bài học quan trọng mà tôi đã học được từ Sư cô. Đó là vào năm 1966. Cuộc chiến tại Việt Nam đang càng ngày càng khốc liệt. Tôi mải miết nghĩ cách để vận động nhiều vị tôn đức trong Giáo hội chịu cùng đứng ra kêu gọi chấm dứt chiến tranh, và nhiều khi không thể nuốt trôi miếng cơm nào mỗi khi nghe tin một trận chiến khốc liệt vừa xảy ra. Bữa đó, tại chùa Pháp Vân ở Phú Thọ Hoà, Sư cô Chân Không, đang chuẩn bị một dĩa rau thơm cho món phở, Sư cô quay qua hỏi tôi: “Bạch Thầy, Thầy có thể cho con biết những loại rau thơm này ở miền Bắc gọi là gì không?” Nhìn Sư cô đang cẩn trọng đặt những nhánh rau vào chiếc dĩa lớn với tất cả sự chú tâm, tôi bỗng bừng tỉnh. Sư cô có khả năng duy trì sự chú tâm vào những cọng rau thơm. Và tôi nhận ra rằng tôi cũng nên học để tâm tới những nhánh rau, chứ không phải chỉ nghĩ về chiến tranh mà thôi. Thầy trò chúng tôi trao đổi với nhau mười phút về những loại rau thơm ở miền Nam, Trung và Bắc. Tâm trí tôi thoát khỏi những suy nghĩ về cuộc chiến trong khoảng thời gian đó đủ giúp tôi lấy lại được sự cân bằng mà tôi đang rất cần. Năm 1968, khi sống ở miền Nam nước Pháp, tôi đã phát hiện ra những loại rau thơm của vùng Provence với tất cả sự chú tâm và thích thú.

Nhiều năm sau, một người bạn Hoa Kỳ hỏi tôi: “Thưa Thầy! Thầy trồng rau xà lách làm gì cho mất thời gian. Thầy dành thời gian đó để làm thơ có hơn không? Ai mà không trồng được rau xà lách, nhưng ít ai có thể sáng tác những bài thơ sâu sắc như thơ của Thầy.” Tôi mỉm cười đáp: “Bạn ơi! Nếu tôi không trồng những cây xà lách thật chánh niệm như vậy thì tôi không làm ra những bài thơ như vậy được.” Tôi đã không tiết lộ rằng câu trả lời của tôi có xuất xứ từ bài học với Sư cô Chân Không mười hai năm trước. Cho đến hôm nay, tôi vẫn tiếp tục học từ Sư cô. Một vị thầy luôn nên có khả năng làm học trò và một đệ tử cũng luôn phải cùng lúc làm thầy. Nhớ được điều này, cả thầy và trò sẽ cùng lợi lạc.

Điều khiến tôi khâm phục nhất ở Sư cô là khả năng sống an lạc và hạnh phúc. Niềm tin vững chắc của Sư cô đối với Giáo pháp ngày càng được củng cố khi sự tu tập không ngừng mang lại cho Sư cô hoa trái của chuyển hoá, chữa trị và niềm vui. Sự vững chãi, an lạc và hạnh phúc của Sư cô là nguồn động viên nhiệm màu cho rất nhiều các bạn ở Làng Mai cũng như trong đại gia đình Tăng thân. Nguồn vui của Sư cô là làm việc giúp người và giúp chuyển hoá xã hội. Nằm sâu bên trong những công tác của Sư cô là một tình thương lớn và sự quan tâm sâu sắc. Chân Không cũng có nghĩa là tình thương đích thực. Câu chuyện cuộc đời Sư cô vượt xa những gì ngôn từ có thể diễn tả, đó là cả một bài Pháp sống.

Thật tiếc là cuốn sách này còn quá ngắn, không chuyển tải hết sự sâu sắc và sống động những gì Sư cô đã đi qua. Sư cô còn rất nhiều chuyện để kể cho chúng ta, có thể dài gấp mười lần cuốn sách này. Nhưng Sư cô là một nhà hoạt động xã hội hơn là một nhà văn, và hiện tại chúng ta phải bằng lòng với tác phẩm này thôi. Nếu có cơ hội tiếp xúc với Sư cô, quý vị đừng quên xin Sư cô chia sẻ cho nghe những kinh nghiệm của Sư cô. Quý vị sẽ học hỏi được rất nhiều. Sư cô đích thực là một vị Bồ tát.

Thích Nhất Hạnh

Làng Mai, Pháp quốc – Tháng 5 năm 1993