Kệ truyền đăng năm 2004

Kệ Truyền Đăng Đại Giới Đàn Lâm Tế

Thượng tọa Thích Phước Tịnh

Phước duyên lòng đất nở hoa
Bước trong cõi tịnh, ngồi tòa chân như
Cánh đồng sao mọc vô dư
Đỉnh Xuân hằng hữu bây giờ trăng lên.

 

Ni Sư Thích Nữ Chân Như Vân

Tâm bi như sấm động
Lòng từ giống bạch vân
Suối cam lồ nuôi dưỡng
Khuyan sớm mãi tinh cần.

 

Sư cô Thích Nữ Chân Hạnh Nhu

Hạnh xưa nhu thuận ánh trăng rằm
Lỗi cũ tìm về thấy Phật tâm
Đại địa muôn đời xinh đẹp mãi
Họp ngàn chim én tạo mùa xuân.

 

Sư cô Thích Nữ Chân Hằng Nghiêm

Bi quán dòng khơi biển tịnh hằng
Ngôn hành từ ái lộ nghiêm thân
Hoàng oanh trong liễu vừa lên tiếng

Ưu đàm hé cánh hiện toàn chân.

Thầy Thích Chân Pháp Lạc

Cam lộ vừa dâng nguồn pháp lạc
Núi tuyết trời in một dáng cao
Thông reo ca ngợi bình minh thắm
Một dải quê hương nhuộm nắng đào.

Thầy Thích Đồng Đạo

Đồng bang đồng đạo lại đồng tâm
Ngàn miệng muôn lời xướng Phạm âm
Đường vui sương tuyết không ngần ngại
Trái đất cùng ca khúc đại đồng.

Ni Sư Thích Nữ Chân Minh Tánh

Minh tâm kiến tánh quyết lên đường
Tám vạn trần lao nguyện thả buông
Cơ nghiệp tổ tiên gầy dựng lại
Xuân về đâu chẳng một mùa xuân.

Ni Sư Thích Nữ Chân Như Minh

Chân như hiển lộ nét uyên minh
Thơ đọng mầu sương ánh kiếm linh
Mưa tạnh mây tan trăng đã hiện
Đôi ta rõ mặt hiện chân hình.

Thượng tọa Thích Thông Hội

Đường sáng thơ về mở lục thông
Suối khe tụ hội chảy chung dòng
Tuổi thơ ghi dấu bàn tay mẹ
Cao vút đường bay tiếng hạc trong.

Thượng tọa Thích Quảng Thuận

Pháp môn mầu nhiệm quảng khai
Trí bi tùy thuận độ đời trầm luân
Nước non trình báo tin mừng
Hoa đào vẫn thắm, sóng tùng vẫn xao.

Sư cô Thích Nữ Chân Hiếu Nghiêm

HIếu trung vốn hạnh trang nghiêm
Hướng về bến cũ đầy thuyền chở trăng
Nô đùa bãi cát ven sông
Trông ra chói rạng phương đông nhiệm mầu.


Sư cô Thích Nữ Chân Vị

Chân như thiền vị nhiệm mầu
Mùa xuân trên đỉnh non cao đã về
Tìm đâu cho thỏa tình quê?
Vầng trăng trước ngõ chưa hề diệt sinh.

Thượng tọa Thích Quảng Độ

Quảng văn bác lãm hạ công phu
Độ thoát quần mê chí đại từ
Quê hương tháp cổ hồ sen thắm
Nhiệm mầu khúc hát nối lời thơ.

Thầy Thích Viên Dung

Ngắm nhìn sự lý viên dung
Ba ngàn thế giới trong lòng nắm tay
Nẻo xưa lá đỏ rụng đầy

Bước chân tịnh độ hôm nay tỏ tường.

Thượng tọa Thích Nguyên Thông

Ngọc trắng tâm lành nguyên vẹn
Cảm thông muôn nẻo nhiệm mầu
Mạch nước từ bi phát hiện

Đẹp lòng hai ngả xưa sau.

Sư cô Thích Nữ Chân Thanh Ý

Thơ nơi từng giọt tâm thanh
Thơ nơi từng hạt ý lành đơm hoa
Núi vàng vang tiếng chim ca
Biển xanh sóng hát thái hòa muôn nơi.

Anh Chân Hộ Tăng (Pritam Signh)

Nguyền xưa bảo hộ Tăng thân
Trời xưa đã sáng hương trầm nhẹ bay
Biển xưa chẳng có vơi đầy
Vườn xưa xanh tốt hạt cây nẩy mầm.

Chị Chân Hương Sơn (Ann Johnston)

Vầng trăng trên biển bạc
Đã về ngự hương sơn
Sóng không sinh chẳng diệt
Mưa biển lại về nguồn.

Anh Chân Hiện Quán (Nguyễn Trung Quân)

Phút giây hiện tại vừa tham quán
Trăng thu đã dọi sáng bên thềm
Bài hát bản môn tuôn bất tuyệt
Vườn xưa đào lý nở trang nghiêm.

Anh Chân Quang Đạo (John Barclays)

Hào quang sáng tỏ ngời chân đạo
Hàng vạn bông hoa ngoảnh mặt nhìn
Từng bước thảnh thơi trên cõi Tịnh
Từng hơi thở nhẹ chở niềm tin.

Chị Chân Bảo Địa (Shalom)

Hạt giống gieo trồng nơi bảo địa
Đây rồi cơ hội thấm mưa xuân
Ngày đêm an trú trong địa xúc
Khắp miền hoa nở thắm sáng chân tâm.

Anh Chân Quang Lâm (Tony Mills)

Quang minh vầng nguyệt chiếu lâm tuyền
Lặng lẽ tinh cầu quán đại thiên
Cát tường nở trắng bông tinh khiết
Thế giới ba ngàn đứng lặng yên.


 

Kệ Truyền Đăng Đại Giới Đàn Đoàn Tụ

Thượng tọa Thích Chí Mậu

Công phu chí cả nuôi từ quán
Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân
Quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ
Đất thiêng rạng rỡ bước siêu trần.

Thượng tọa Thích Chân Giác Không

Bến giác cây lành và suối ngọt
Bờ không tràn ngập ánh Dương Xuân
Then cửa nhiệm mầu trao pháp ấn
Chuông khuya vỗ thức đám mây hồng.

Sư cô Thích Nữ Chân Tịnh Minh

Định tuệ tịnh tam nghiệp
Giới đức chiếu quang minh
Ruộng mía, vườn dâu, sông núi cũ
Ngàn năm hào khí tỏa anh linh.

Thầy Thích Chân Pháp Khâm

Pháp bảo trao truyền trên thánh địa
Khâm thừa một dạ chở niềm tin
Hoa vàng trúc biếc nào xa cách
Trăng xưa vằng vặc chiếu bên thềm.

Thầy Thích Chân Pháp Dung

Nghe núi cao thuyết pháp
Thấy hai đế dung thông
Mùa xuân thay áo mới

Mây tuyết cũng một dòng.

Sư cô Thích Nữ Chân Đồng Phúc

Bên nhau hát khúc đồng tâm
Chồi non lộc mới phúc phần tổ tiên
Đồi xuân nắng gọi chân truyền
Một nhà xum họp Tịnh – Thiền không hai.

Thầy Thích Chân Pháp Nguyên

Thân pháp thường xuyên tỏa sáng
Khe tào tìm lại chân nguyên
Vằng vặc trăng sao lối cũ
Quê xưa vẫn đó hồn nhiên.

Sư cô Chân Linh Nghiêm

Đất linh nở đóa chân thiền
Trên lưng bạch tượng trang nghiêm lối về
Mùa thu lá đỏ sơn khê
Diễn dương pháp tạng, tràn trề niềm tin.

Sư cô Thích Nữ Chân Huyền Nghiêm

Pháp Hoa trình huyền chỉ
Đại địa hiện trang nghiêm
Bồ Tát tùng địa xuất
Giáo diễn đắc chân truyền.

Chị Chân Giác Thọ (Bettina Romhardt)

Giác thọ dâng hoa trái
Gốc rễ càng vững bền
Dòng thiêng còn nối tiếp
Khí hùng lực vô biên.

Anh Chân Đại Đồng (Manfred Folkers)

Đại địa trình kiến giải
Đồng tâm mạch sống dâng
Bảo tháp Như Lai hiện
Năm sắc chói tường vân.

Chị Chân Giác Hoa (Jane Coates Worth)

Giác hoa nở khắp mọi miền
Thêng thang gió đẩy hương thiền xa bay
Tăng thân tụ hội đông đầy
Phật tâm Nam Bắc xưa nay vẫn đồng.

Anh Chân Đại Tập (Murray Corke)

Đại hành vừa chuyển pháp luân
Năm châu vân tập xa gần gợi khen
Thiền ca một khúc tấu lên
Địa cầu chấn động, chư thiên chúc mừng.

Chị Chân An Quang (Rochelle Griffin)

An trú nơi hiện pháp

Quang minh chiếu đại thiên
Lắng nghe đời than thở
Từ ái tỏa chân thiền.

Anh Chân An Thừa (Jan Boswijk)

Bước đi từng bước chân an lạc
Thượng thừa mở lối tới đài sen
Khúc hát mùa xuân vang bất tuyệt
Hào quang đại địa chiếu Tam Thiên.

Chị Chân Giới Hương (Annabelle Zinser)

Thiền duyệt tâm thành đốt giới hương
Lửa hồng bếp cũ ấm hơi sương
Hồng chung ngân rã trần gian mộng
Muôn hướng về chung một nẻo đường.

Anh Chân Pháp Lực (Rowan Conrad)

Tương thử sơ tâm chân pháp lực
Tiếp độ lục đạo chư quần mê
Chưởng thượng minh châu thường quảng nhiếp
Năng linh u xứ hướng bồ đề.

Chị Chân Bảo Thể (Ilona Schmied)

Lên chơi ngọn bảo sơn
Tìm ra nguồn chân thể
Hai tay ôm mây hồng
Hát ca mừng nhân thế.

Chị Chân Tuệ Tu (Adriana Rocco)

Sự nghiệp duy hướng tuệ
Mây tuyết thuận đường tu
Tịnh độ trong từng bước
Sen nở ngát xuân thu.


Kệ truyền đăng năm 2003

 

Thượng tọa Thích Chân Thông Tạng
(Nguyễn Văn Ðược)

Ba tạng vào ra vạn nẻo thông
Ðã soi núi biếc áng mây hồng
Chở che sương tuyết cành vươn rộng
Hội ngộ bên trời giọt sắc không.

Thượng tọa Thích Chân Thanh Huân
(Phan Nhật Huân)

Ngàn xưa thanh khí vẫn tương tầm
Huân nghiệp viên thành nối tổ phong
Chí trai vượt thoát miền dâu biển
Nước non ghi khắc nét đồng tâm.

Thượng Tọa Thích Chân Chủng Thiện:

Chủng đức trên đường về chí thiện
Gió quang mây tạnh ánh trăng hiền
Châu về hợp phố an lòng đất
Non sông bình trị hãy ngồi yên.

Sư cô Thích Nữ Chân Tịnh Nghiêm
(Lý Nguyệt Ảnh)

Tịnh tâm sen nở bốn mùa
Trang nghiêm cõi Bụt vân du tháng ngày
Cánh bằng rộng mở đường mây
Sao về trước ngõ, trăng đầy lối xưa.

Sư cô Thích Nữ Chân Trí Duyên
(Lê Thị Mỹ Hạnh)

Trí sáng lên đường gặp phúc duyên
Ðài sen nối sáp đạt chân truyền
Tuyết sương che chở trời phương ngoại
Hoa nở bên thềm, nguyệt dọi hi.

 

Sư cô Thích Nữ Chân Thắng Nghiêm
(Phan Thị Lan Chi)

Thắng giải tâm về chuyên một niệm
Sen hồng ngàn cánh nở trang nghiêm
Ngọn đèn khêu nguyệt chiên đàn tỏa
Ðầu ngõ tan sương sáng nẻo thiền.

 

Sư cô Thích Nữ Chân Tường Nghiêm
(Võ Huỳnh Kim Mỹ)

Cát tường năm sắc tỏa uy nghiêm
Mây phủ non xưa chốn tọa thiền
Dưới ngọn đèn xanh, tâm lĩnh ý
Trăng vàng vừa chiếu rạng tây hiên.

 

Thầy Chân Pháp Sơn
(John Michael Schwammberger)

Một hướng trông về đỉnh pháp sơn
Năm mây thoáng hiện bóng ưu đàm
Bình minh cười nhẹ trên hoa nắng
Chiếu rạng gần xa cảnh nước non.

Thầy Chân Pháp Hải
(David Andrew Cox)

Nhiệm mầu pháp hải rộng mênh mông
Thuyền nhẹ ta về chở ánh trăng
Mặt trời Châu Á ngời non nước
Long lanh mắt Bụt chiếu mây hồng.

 

Thầy Chân Pháp Hội
(Ngô Tiến Dũng)

Pháp hữu muôn phương về tụ hội
Nước trong khe tĩnh, cá nghe kinh
Thói nhà băng tuyết còn nguyên vẹn
Triều dâng hôm sớm tiếng uy linh.

 

Thầy Ananda Maitri
(Chân Khánh Hỷ)

Nhịp chân khánh hỷ vui từng bước
Tịnh độ trần gian tự hiển bày
Sen vàng phơi cánh trong hồ biếc
Bụi hồng rừng tía cũng nơi đây.

 

Tiếp hiện Chân Nghĩa
pháp danh Tâm Khai Ngộ
(Lê Văn Ðán)


Chân nghĩa
thượng thừa mong liễu ngộ
Thiền trà nên cạn chén hồng mai
Long lanh đáy nước trăng vàng chiếu
Một thiên tuyệt bút để dành ai.

 

Tiếp hiện Chân Kính
(David Dimack)

Chân như trúc tím hoa vàng
Thủy chung một niệm muôn vàn kính thương
Sao mai vừa hiện tỏ tường
Ý đầu tâm hợp muôn phương thái hòa

Tiếp hiện Chân Văn
(Ðỗ Quý Toàn)

Chân văn
huyền ý cao sâu
Về đây khai hội ném châu gieo vàng
Ngại gì bèo hợp mây tan
Một trời phong nguyệt rõ ràng đôi ta.

 

Tiếp hiện Chân Huyền
(Hà Dương Ðỗ Quyên)

Chân pháp vang rền tiếng diệu âm
Huyền cơ soi thấu khối sơ tâm
Một buông pháp giới bừng hương sắc
Linh Thứu tuy xa cũng thật gần.

 

Tiếp hiện Chân Hữu
(Nguyễn Gia Nam)

Chân hữu là đây một cánh tay
Tình sông nghĩa biển lượng đong đầy
Dậu thu vừa nảy dò sương ấy
Thiền trà hương ngát chén hồng mai.

 

Tiếp hiện Chân An Nguyên
(Marjolijn Van Lêuwen)

An vui tìm lại uyên nguyên
Trăng treo lối cũ về miền thảnh thơi
Ngựa ăn cỏ tuyết trên đồi
Mài gươm bên suối, tiếng cười âm vang.

 

Tiếp hiện Chân An Hành
(Sue Bridge)

An nhiên trên nẻo thiền hành
Mây hồng mời gọi, trời xanh đón chào
Ðêm nay mở hội ngàn sao
Trăng đi theo nước cùng vào đại dương.

 

Tiếp hiện Chân An Niệm
(Ernestine Enomoto)

Bước chân thuần nhất trong an niệm
Ðầu ngõ tan sương nguyệt sáng lòa
Túc trái tiền oan rơi rụng hết
Một vùng mây nước đẹp bao la.

Tiếp hiện Chân Bảo Tích
pháp danh Tâm Cao Phong
(Thân Trọng Nguyên)

Mỗi bước đưa về kho bảo tích
Nương hơi thở nhẹ tới Lam điền
Sáng nay nghe tiếng hoàng oanh gọi
Thông rung trống kệ, hải triều lên.

 

Tiếp hiện Chân Ðịnh Trú
(Joseph Emet)

Về đây ổn định tâm ta
Về đây an trú một nhà tăng thân
Ðếm chi số cát sông Hằng
Triều âm đã động, chim bằng tung mây.

Tiếp hiện Chân Viên Dung
(Nguyễn Văn Tuyến)

Lắng lòng nghe thấu viên âm
Ấn thiêng tam muội dung thông nhiệm mầu
Ðường về quê cũ xưa sau
Trí bi nguyện mãn bắc cầu độ sinh.

 

Tiếp hiện Chân Hành Trì
(Travis Masch)

Vững tin nơi pháp hành trì
Nước non đá tạc vàng ghi có ngày
Hỏi thăm những nước cùng mây
Lời lời châu ngọc giải bày thế gian.

Tiếp hiện Chân Tuệ Uyển
(Võ Thị Minh Tri)

Tài bồi tuệ uyển trăm hoa
Minh tri hạnh ấy cũng là tương tri
Nước non lắng tiếng Chung Kỳ
Bè từ vượt khỏi sông mê khó gì?

 

Tiếp hiện Chân Tuệ Ngạn
(William Manza)

Trí tuệ đưa về nơi bỉ ngạn
Ðất thiêng vọng tiếng hải triều lên
Tốt tươi hồng lục xuân thường tại
Mỗi bước chân ngời đóa thủy tiên.

 

Tiếp hiện Chân Tuệ Thân
(Ian Prattis)

Ðuốc tuệ bừng lên rạng pháp thân
Trong mây xa có hạt mưa gần
Vòng tay nhận thức ôm năng sở
Một đóa trà mi nở trước sân.

Tiếp hiện Chân Tuệ Lưu
(Odette Bauweleers)

Nhiệm mầu dòng tuệ luân lưu
Trăng vàng đã hiện trên đầu núi xanh
Sẵn gươm tuệ giác bên mình
Thảnh thơi hạc trắng, mặc tình rong chơi.

 

Tiếp hiện Chân Tuệ Hương
(Hoàng Dung)

Giới định hương và trí tuệ hương
Quê xưa giáp mặt lộ chân thường
Tình sông nghĩa biển sâu dài lắm
Dậu thu vừa mới nảy giò sương.

Tiếp hiện Nguyệt Tâm
(Terry Barber)

Lung linh bóng nguyệt soi thềm
Cõi tâm mở sáng đêm đêm ngân hà
Nhiệm mầu tiếng hạc bay qua
Vén mây trông rõ pháp tòa nguyên sơ.

Tiếp hiện Chân Thắng Giải
(Patrick Lacoste)

Phúc duyên thù thắng nơi đây
Lòng riêng một tấc giải bày núi sông
Mới hay thanh khí tương tầm
Vàng gieo đáy nước cây lồng bóng sân.

 

Tiếp hiện Chân Thiện Sinh
(Elisabeth Ann Wood)

Nga mi sương giải niềm chân thiện
Mỹ diệu trăng lồng ý độ sinh
Ðốt cháy thành sầu đây đuốc tuệ
Một trời mây nước chiếu quang minh.

Tiếp hiện Chân Tính Không
(Vũ Thị Dung)

Chân kinh thường trì tụng
Tính không trăng hiện tiền
Tai ương rơi rụng hết
Bến giác cùng bước lên.

 

Tiếp hiện Chân Từ Hạnh
(Gioacchino Difeo)

Sen quê nở ngát hương từ
Trăng vàng hạnh nguyện năm xưa sáng đầy
Lời nguyền đỉnh báu hương bay
Cho thân ngữ ý diễn bày Phật tâm.

Tiếp hiện Chân Tự Tại
(Ðặng Phước Nhường)

Liễu biếc oanh vàng chân tự tại
Gió quang mây tạnh đã an bài
Châu về hợp phố trong thanh khí
Sân ngoài tuyết điểm một cành mai.

 

Tiếp hiện Chân Ðạo Hành
(Hoàng Khôi)

Ðạo xưa tìm thấy nẻo vô hành
Thanh khí tương tầm dặm liễu xanh
Hoa đào suối cũ còn nguyên đó
Ngửng đầu bắt gặp ánh trăng thanh.

 

Tiếp hiện Chân Viên Minh
(Jacques Gaudin) và
Tiếp hiện Chân Viên Giác
(Jacqueline Gaudin)

Viên minh tỏa chiếu nguyệt trời cao
Tuệ giác xua tan bóng khổ sầu
Cùng đến cùng đi trên đất tịnh
Ðá mòn sông cạn vẫn còn nhau.

 

Tiếp hiện Chân Lạc
(Thi Joanne Friday)

Hương quốc đi về an lạc
Thi ân chẳng bận lòng ai
Huệ lan một nhà sực nức
Từ bi tiếp xử muôn loài.

Tiếp hiện Chân Ðức Từ
(Brendan Sillifant)

Non cao lập đức càng cao
Biển sâu từ ái không đào cũng sâu
Phút giây hiện tại nhiệm mầu
Uổng công tìm kiếm nơi đâu nhọc lòng?

 

Tiếp hiện Chân Ðức Nhãn
(Chung Ming Fei)

Ðức hậu đương xuân phương thảo thịnh
Nhãn minh vô xứ bất tri huyền
Dạ quang nguyệt sắc vô nhân tảo
Nhất kiến đào hoa sự lý thuyên.

 

Tiếp hiện Chân Ðức Âm
(Lê Phương Chi)

Hãy lắng lòng nghe khúc đức âm
Hải triều xô vỡ khối trần tâm
Bụi hồng khép lại sau khung cửa
Rừng tía đây rồi hiện pháp thân.

 

Tiếp hiện Chân Thâm Tuệ
(Châu Yoder)

Một đi về hướng cao thâm
Vun bồi tuệ giác, chuyên cần sớm trưa
Ra công học đạo chân thừa
Vườn tâm xanh tốt bốn mùa nở hoa.

 

Tiếp hiện Chân Thâm Hạnh
(Marc Puissant)

Chân kinh hàm chứa nghĩa cao thâm
Hạnh giải vang lừng khúc phạm âm
Biển khổ thuyền từ dong một lá
Nhờ tay tế độ vớt trầm luân

Kệ truyền đăng năm 2001

Thượng Tọa Thích Nguyên Chơn
(Phạm Xuân Dục)

Châu về hợp phố nhập nguyên lưu
Chơn nghĩa viên dung ý thượng thừa
Non xưa trăng sáng soi lòng tháp
Ngày về một gọi có ngàn thưa.

Ni Trưởng Thích Nữ Tịnh Thường
(Nguyễn Thị Thường)

Tịnh tâm sen nở đóa chân thường
Năm sắc mây lành chiếu một phương
Trái tim Thích nữ ngời hoa tạng
Tông phong một nếp khéo thừa đương.

Sư Cô Thích Nữ Trung Ý
(Trịnh Thị Lập)

Trung thực xưa nay vẫn một lòng
Ý thơ về ấm ngọn đông phong
Một cây sinh biết bao cành lá
Tuệ nghiệp viên thành rạng tổ tông.

Sư Cô Chân Thuần Tiến
(Lê Khuyên Thi)

Nước đi thuần nhất một dòng trong
Tinh tiến công phu hãy một lòng
Chúm chím sen cười trang ngoại sử
Sáng ngời ánh mắt ngộ chân không.

Sư cô Chân Bích Nghiêm
(Trần Thị Thu Trang)

Bích nham sóng vỗ tiếng âu bay
Nghiêm hộ tương lai chính phút này
Sông mở lòng ra, về với biển
Biển sông ôm trọn cả trời mây.

Thầy Chân Pháp Trí
(Ivar Shuholm)

Pháp môn vừa hé, hạnh môn theo
Trí giác lên cao ngọt cánh diều
Người ở trong ta, luôn vững chãi
Mắt thần soi thấu vượt cao siêu.

Thầy Chân Pháp Ðộ:
(Nguyễn Thanh Hiếu)

Pháp
ấy ngày đêm thường rạng rỡ
Ðộ người khéo vượt biển trầm luân
Bến xưa đã mấy thu chờ đợi
Sáu chiếc tay chèo hãy nhất tâm.

Sư cô Chân Thiều Nghiêm
(Lê Thị Thùy Linh)

Trời xuân rực rỡ ánh thiều quang
Nghiêm hộ mây cao cánh phượng hoàng
Trăm sông rồi cũng về biển lớn
Ðường về hoa trái ngọt trời thương.

Sư cô Chân Phúc Nghiêm
(Nguyễn Thị Lê)

Ðất tổ từng năm vun cội phúc
Ngày về hoa hạnh nở nghiêm trang
Bản môn xuân ấy còn nguyên vẹn
Gót nhỏ gieo vui vạn nẻo đường.

 

Sư cô Chân Giới Nghiêm
(Huyền Tôn Nữ Thanh Châu)

Hoa nở đồi cao ngát giới hương
Trang nghiêm đất Bụt nét chân thường
Cát bụi đường xa không để vướng
Quê nhà từng bước ngọt yêu thương.

Sư cô Chân Thục Nghiêm
(Susan Swan)

Một trái trăng tròn gương thục nữ
Rừng thu đứng lặng vẻ nghiêm trang
Cười dấu chân ai trên bến đục
Thuyền từ phút chốc đã sang ngang.

Sư cô Chân Hà Nghiêm
(Fern Dorresteyn)

Mỗi bước hoa nở gót chân
Uy nghiêm năm sắc áng mây hồng
Nụ cười trên mắt Quan âm nữ
Pháp giới phơi bày thể tính không.

Thầy Chân Pháp Hiền
(Michael Ciborski)

Pháp của hiền nhân tự thuở xưa
Hải triều cao vút vạn lời thơ
Là huynh là đệ trong bao kiếp
Hành môn nắm vững cỗ chân thừa.

Sư cô Chân Hỷ Nghiêm
(Phan Thị Minh Tâm)

Ngàn tay công đức nâng tùy hỷ
Giọt nước cành dương cõi tịnh nghiêm
Liễu lục hoa hồng lên tiếng gọi
Tan sương đầu ngõ bước chân hiền.

 

Tiếp hiện Chân Bản Nguyên
(Peggy Rowe)

Bản môn nở giữa lòng sen thắm
Nguyên vẹn trăng thề trải mấy thu
Tuyết chở sương che tường giới định
Hoa đào năm ngoái thắm như xưa.

Tiếp hiện Chân Ðại Âm
(Larry Ward)

Ðại cổ vừa rung, tiếng sấm ran
Âm thanh chấn động ánh trăng vàng
Bốn phương chiếu dụng tâm thuần nhất
Tiếng cầm tiếng sắt vẫn hiên ngang.

Tiếp hiện Chân Ðại Kiều
(Lisi Hà Vĩnh)

Ðại nghĩa xưa nay vững một lòng
Vượt muôn kiều lộ bước thong dong
Hành vân lưu thủy chân thường tại
Hát khúc vô sinh mỗi sáng hồng.

 

Tiếp hiện Chân Ðại Tuệ
(Hà Vĩnh Thọ)

Chí lớn nam nhi hướng đại đồng
Tài bồi tuệ nghiệp rạng tông phong
Lòng đất hạt thương lên tiếng gọi
Rực rỡ hoa đào đón gió đông.

Tiếp hiện Chân Ðại Ứng
(Jerry Brazza)

Ðại bi suối ấy đã lên đường
Ứng hiện muôn ngàn ức hóa thân
Dạt dào thấm nhuận cơn mưa pháp
Ðất lành gieo mãi hạt yêu thương.

Tiếp hiện Chân Khai
(Laurie Lawlor)

Chân tình tô thắm nước cùng mây
Khai bút trời xuân hương thắm bay
Tuổi ngọc thấm nhuần ơn giáo dưỡng
Pháp thân tỏa chiếu nước non này.

Tiếp hiện Chân Minh Ðăng
(Nguyễn Hữu Xương)

Minh châu vạt áo đẹp tinh khôi
Ðăng hỏa mười năm đã sáng trời
Cơ nghiệp tổ tiên cùng dựng lại
Vườn xưa đào lý vẫn xinh tươi.

Tiếp hiện Chân Minh Ðức
(Trần Kim Quế)

Minh thấy vô minh chúm chím cười
Ðức nhà phân phát đủ muôn nơi
Huệ lan sực nức vườn xuân mới
Bước chân đem tới một trời vui.

Tiếp hiện Chân Minh Trí
(Hồ Văn Quyền)

Ðông sơn vừa lộ ánh quang minh
Trí đã bừng câu tráng sĩ hành
Khánh bạc chuông vàng phương tiện cũ
Ðường mây cao vút cánh chim xanh.

Tiếp hiện Chân Minh Tuệ
(Nguyễn Viên)

Quang minh vầng nhật chiếu trời sương
Trí tuệ bừng lên tỏ ngọn nguồn
Diệu khúc muôn đời nên cử xướng
Ðường về quê cũ rạng yêu thương.

Tiếp hiện Chân Mỹ
(Nguyễn Thị Tuyết Mai)

Chân như cười nhẹ khung trời nắng
Mỹ diệu trăng lồng một biển thu
Mây trắng đường xưa luôn biểu hiện
Lối về quê cũ đẹp như thơ.

 

Tiếp hiện Chân Thật Ðạo
pháp danh Tâm Hiền
(Shantum Seth)

Quán tâm thật tướng tợ trăng rằm
Ðạo cũng tâm mà cảnh cũng tâm
Sông Hằng cát trắng ai ngồi đếm?
Môi bé thơ cười giữa Trúc Lâm.

Tiếp hiện Chân Thuyên
(Ðỗ Trọng Lễ)

Tình sông nghĩa núi, khối chân tâm
Thuyên giải thiền cơ xướng phạm âm
Nắng lên soi thấu trời phương ngoại
Trăng thề còn đó, ngọc thành văn.

Tiếp hiện Chân Trí Cảnh
(Mitchell Ratner)

Tỉnh giấc kê vàng chân trí sinh
Muôn ngàn cảnh giới sáng lung linh
Rừng tía thảnh thơi ngồi tĩnh lự
Thanh sơn nhẹ bước thỏa chân tình.

 

Tiếp hiện Chân Pháp Kiều
(Richard Brady)

Mưa pháp thấm nhuần cõi đất tâm
Ðại kiều mong nối lại tình thâm
Một sân hòe quế ngày chăm bón
Sạch hết bao nhiêu lớp cát lầm.

Kệ truyền đăng năm 2000

Sư cô Chân Bảo Nghiêm
pháp tự Tâm Thiện  Nhân
(Nguyễn Thị Chinh)

Chân kinh bảo tạng rất trang nghiêm
Tổ đạo ngàn xưa đã đắc truyền
Một sáng trời mây bừng chuyển hóa
Bàn tay từ mẫu nở hoa sen.

Sư cô Chân Giải Nghiêm
pháp tự Tâm Chúc Quảng
(Nguyễn Quỳnh Phương)

Chân tâm kiến giải vốn siêu trần
Tịnh độ trang nghiêm ở tự thân
Trúc tím hoa vàng luôn biểu hiện
Trăng soi sông lặng bóng trong ngần.

Sư Cô Thích Nữ Chân Như Quang

Chân như tâm thể phóng hào quang
Ước nguyện muôn xưa đã vẹn toàn
Sự nghiệp truyền trao nguồn tịnh lạc
Rực trời phượng nở chốn quê hương.

Thầy Chân Pháp Dụng
pháp tự Tâm Tam Quy
(Lữ Thế Cường)

Chân nguyên pháp khí là công dụng
Gốc rễ vun bồi cũng tại ta
Có sẵn yên cương cùng tuấn mã
Ngại gì muôn dặm chốn đường xa.

Thầy Chân Pháp Niệm
pháp tự Tâm Minh Trung
(Nguyễn Văn Cường)

Chân pháp lòng kia hằng tín mộ
Niệm lành sưởi ấm chốn quê hương
Lắng nghe mầu nhiệm chim oanh hót
Diện mục xưa nay lộ tỏ tường.

Thầy Chân Pháp Thành
pháp tự Tâm Minh Thịnh
(Nguyễn Năng Trường)

Chân tâm ngời sáng kho châu báu
Pháp thành xây dựng cảnh trang nghiêm
Đã tan sương tuyết mùa đông giá
Nắng ấm về đây vẹn ước nguyền.

Thầy Chân Pháp Trú
pháp tự Tâm Thiện Tâm
(Trương Công Chánh)

Chân pháp là nơi ta ẩn náu
Trú nơi vô trú, trú muôn đời
Thả buông tự tại khung trời mở
Nẻo lại đường qua sẽ thảnh thơi.

Sư cô Chân Viên Nghiệp
pháp tự  Hải Nghiêm
(Nguyễn Thị Bích Hiền)

Chân trí viên minh là sự nghiệp
Tài trai hiển lộ chí anh hùng
Gươm báu một khi đà khỏi vỏ
Vạn dây ràng buộc cũng là không.

Kệ phú pháp truyền đăng của Thiền sư Trừng Quang Nhất Hạnh (1990-1999)

V

Đây là bài kệ phó pháp của thiền sư Trừng Quang Nhất Hạnh
trao cho Thượng Tọa Trừng Tuệ Chí Mậu
(giám tự Tổ đình Từ Hiếu)

Công phu chí cả nuôi từ quán
Nẻo về thịnh mậu núi Dương Xuân
Quyết tâm nuôi lớn tình huynh đệ
Đất thiêng rạng rỡ bước siêu trần

Các Bài Kệ Phú Pháp Truyền Ðăng Của
Thiền Sư Trừng Quang Nhất Hạnh Trao Truyền
Tại Ðạo Tràng Mai Thôn (Làng Mai, Pháp Quốc)

Năm 1990

Sư cô Chân Không Nghiêm
pháp tự Tâm Diệu Không

(Cao Ngọc Phượng)

Chân thân vượt thoát sắc cùng hình
Không tánh từ xưa vẫn tịnh minh
Ứng hiện trần gian trăm vạn lối
Từ bi phương tiện độ quần sinh.

Sư cô Chân Đức Nghiêm
pháp tự Tâm An

(Annabel Laity)

Chân như vằng vặc ánh trăng rằm
Đức độ cao dày nối tổ đăng
Chuyển hóa công phu trình thật tướng
Pháp mầu liên tục mãi tuyên dương.

Tiếp hiện Chân Cơ
(Trịnh Đình Tấn)

Chân lý ngàn đời vẫn sáng trong
duyên đốn ngộ ở ngay lòng
Một thấy trời cao lồng lộng sáng
Tha hồ mây bạc cứ thong dong.

Tiếp hiện Chân Đắc
(Kotler Arnold)

Chân tông không Bắc cũng không Nam
Đắc pháp truyền tâm thánh chuyển phàm
Thông điệp từ bi về vạn nẻo
Nối liền Tịnh độ với nhân gian

Tiếp hiện Chân Đăng
(Kiera Eileen)

Chân tính nào đâu có bớt thêm
Đăng tâm nối sáng lửa chân truyền
Biển đông một sáng bừng trang sử
Mặt trời trí tuệ chiếu tam thiên.

Tiếp hiện Chân Hội
(Nguyễn Tấn Hồng)

Chân lý trao truyền qua ngõ tâm
Hội giải siêu nhiên vượt dị đồng
Hạt giống bồ đề gieo rải khắp
Ngại gì hai nẻo sắc và không.

Tiếp hiện Chân Sắc
(Bossert Judith)

Chân nguyên nước tĩnh tưới trần gian
Sắc khác gì không, pháp bảo đàn
Gió sớm mây hồng tuyên Bát nhã
Hoa cười ngọc thốt vẫn đoan trang.

Tiếp hiện Chân Tiếp
(Halifax Joan)

Chân quả hình thành tự thưở xưa
Tiếp độ công phu của thượng thừa
Trí sáng xoay về soi bản thể
Sẵn thuyền Bát nhã đón rồi đưa.

Tiếp hiện Chân Tuệ
(Nguyễn Hữu Lợi)

Chân trí soi vào cõi huyễn mê
Tuệ giác bừng lên tỏ lối về
Giây phút đại bàng vừa vỗ cánh
Sá gì mấy vạn dặm sơn khê.


Năm 1992

Thầy Giác Thanh
pháp tự Tâm Tông
(Lê Văn Hiếu)Giác tánh nguyên thường tánh
Thanh âm diễn diệu âm
Biển Tỳ Lô trăng sáng
Sóng nhạc vẫn trầm hùng.

Sư cô Chân Diệu Nghiêm
pháp tự Tâm Trực Đạo

(Georgina van Hengel)

Diệu pháp không ngoài thế pháp
Nghiêm thân tức đạt chân thân
Một sáng tinh cầu tỉnh thức
Sương rơi sạch hết cát lầm.

Sư cô Như Phước
pháp tự Ðàm Nhật

(Lê Thị Thanh Trước)

Như Lai vừa cười nhẹ
Phước trí đã song nghiêm
Giới định vừa chiếu sáng
Hoa tuệ nở bên thềm.

Tiếp hiện Chân Ý
(Nguyễn Anh Hương)
Chân tâm ươm hạt quý.
Ý vun bón vườn nhà.
Thanh thản cùng năm tháng.
Lòng đất tự đơm hoa.
Tiếp hiện Chân Trí
(Nguyễn Bá Thư)
Chân nguyệt thường lặng chiếu.
Trí cảnh vẫn dung thông.
Lối về soi chánh niệm.
Thắp sáng một mai hồng.
Tiếp hiện Chân Bảo
(Reed Caitriona)
Chân tăng ở khắp chốn.
Bảo sát tại trong lòng.
Nụ cười vừa nhẹ chớm.
Thanh thoát khoảng trời trong.
Tiếp hiện Chân Bi Nghiêm
(Johnson Wendy)
Chân tính luôn từ ái.
Bi Nghiêm hạnh nguyện đầu.
Chốn kỳ viên chăm sóc.
Xanh tốt vạn đời sau.
Tiếp hiện Chân Giải Thoát
(Schaibly Robert)
Chân đạo từ tâm tỏ.
Giải thoát cảnh hiện tiền.
Sóng sinh tử vừa lặn.
Trăng sáng rọi ngoài hiên.
Tiếp hiện Chân Hướng
(Lawler John Joseph)
Chân nhân thường đối diện.
Một hướng nẻo đại đồng.
Nắm tay nhau cùng bước.
Khúc hát trời rạng đông.
Tiếp hiện Chân Pháp
(Peen Kristen)
Chân tính không sinh diệt.
Pháp giới vẫn hiện tiền.
Nước cam lồ một giọt.
Rửa sạch mọi tiền khiên.
Tiếp hiện Chân Quả
(Nora Houtmann De Graaf)
Chân tính không sinh diệt.
Quả báu trong lòng tay.
Không đi cũng không tới.
Cõi tâm trăng sáng đầy.
Tiếp hiện Chân Thừa
(Harrison Hoblitezelle)
Chân nguyên duy có một.
Thừa đâu phải là ba?
Một bước vào pháp giới.
Soi rạng cõi ta bà.
Tiếp hiện Chân Thiện Căn
(Đỗ Văn Hòa)
Chân tính vốn nguồn gia bảo.
Thiện căn ở tại trong lòng.
Tam bảo thuyền từ bảo hộ.
Mặt trời rạng rỡ phương đông.
Tiếp hiện Chân Tịnh
(Larry Rosenberg)
Chân không là chân sắc.
Tịnh ý tức tịnh thân.
Siêu việt được năng sở.
Chi sá đám bụi hồng.
Tiếp hiện Chân Truyền
pháp danh Tâm Điểm
(Đinh Thị Vân Khanh)
Chân tính là cam lộ.
Truyền đạt vốn từ nguồn.
Một lòng chuyên hướng thượng.
Niềm an lạc trào tuôn.
Tiếp hiện Chân Từ Ý
(Diana Petech)
Từ ý mây lành dâng bốn hướng.
Dòng mưa cam lộ rưới tình thương.
Năm tháng công phu nuôi giới định.
Tăng thân bảo hộ, nguyện lên đường.

Năm 1994:

Thượng Tọa Thích Từ Lực
(Nguyễn Ðức Long)

Từ vân  đương hiện thụy
Lực đại bản do tâm
Đối cảnh tâm bất động
Chân giác bất ly trần.

Sư Thầy Đàm Nguyện
Pháp danh Tâm Quảng Kiến
pháp tự Chân Bảo Lâm,

(Hoàng Thị Hiển)
Đàm hoa thường nhuận sắc
Nguyện hải cánh do thâm
Giác tâm hương diệu khiết
Vạn đại khả truyền đăng.

Tiếp hiện Chân Cảm Ứng
(Karl Riedl)

Chân tu tạo chân lực
Cảm ứng xuất vạn năng
Trí bi tráp lưỡng dực
Bằng trình siêu vạn tầm.

Tiếp hiện Chân Đạo
(Jean-Pierre Maradan)

Chân tướng vốn là vô tướng
Đạo mầu trăng dạo thái không
Chim hót vọng từ đỉnh núi
Thông reo pháp diễn diệu âm.

Tiếp hiện Chân Đạt
(Nguyễn Hữu Chí)

Chân tính luôn có mặt
Đạt ngộ trong tầm tay
Ngồi yên vững như núi
Ngoài kia trăng sáng đầy.

Tiếp hiện Chân Diệu Từ
(Helga Riedl)

Chân niệm thường an trú
Diệu từ là nguồn vui
Hạt xuân gieo bất tận
Hoa nở độ muôn người.

Tiếp hiện Chân Hảo
(Nguyễn Đào Như Tuyền)

Chân và tục hai đế
Hảo tướng thường viên dung
Từng bước trên đất thật
Pháp giới sáng vô cùng.

Tiếp hiện Chân Hòa
(Eveline Beumkes)

Chân tăng là vùng nương náu
Hòa bình tỏa rạng mai sau
Đại bàng xòe hai cánh rộng
Bóng che mát quả địa cầu.

Tiếp hiện Chân Học
(Martin Pitt)

Chân pháp duy thân chứng
Học đạo cần nhất tâm
Rừng thiền muôn chim hót
Hoa nở hiện chân nhân.

Tiếp hiện Chân Huy
(Trần Minh Dũng)

Chân tâm một biểu lộ
Pháp giới sẽ quang huy
Tuệ nhật chiếu thật địa
Thong dong từng bước đi.

Tiếp hiện Chân Lượng
(Fred Eppsteiner)

Chân quán luyện thành ngọc báu
Lượng từ che chở cho nhau
Cánh cửa vô sinh đã hé
Nhất tâm thành tựu đạo mầu.

Tiếp hiện Chân Lương
pháp danh Tâm Chất

(Nguyễn Bạch Mai)

Chân pháp một lần khám phá
Lương y sẵn có trong nhà
Đạt tới mùa xuân chuyển hóa
Công phu chỉ tại lòng ta.

Tiếp hiện Chân Môn
(Svein Myreng)

Chân nghĩa hùng lực lớn
Môn lưu ngàn thuở truyền
Thân và tâm nhất quán
Diệu pháp thường có duyên.

Tiếp hiện Chân Ngộ
(Nguyễn Duy Vinh)

Chân nhân trước mặt cười không nói
Ngộ đạo ngồi nhìn mây trắng bay
Trúc tím hoa vàng bày diệu hữu
Trăng trong mây bạc vẫn còn đây.

Tiếp hiện Chân Nguyện
(Công Huyền Tôn Nữ Huyền Châu)

Chân giải ý thâm diệu
Nguyện phát túc siêu phương
Cước lập bản môn địa
Ưng liễu thế vô thường.

Tiếp hiện Chân Nguyên
(Cynthia Jurs)

Chân giác không ngoài cõi diệu tâm
Nguyên lưu vằng vặc ánh trăng rằm
Lắng nghe được tiếng hoa đào nở
Sẽ thấy trần gian Bụt giáng lâm.

Tiếp hiện Chân Nguyệt Quang
(Claudia Wieland)

Chân nhật phá mây sầu ám
Nguyệt quang tiếp xúc địa cầu
Tăng thân bước về một hướng
Ngàn đời ta vẫn còn nhau.

Tiếp hiện Chân Pháp Nhãn
(Karl Schmied)

Chân quán vừa tùy thuận
Pháp nhãn đã trao truyền
Trên đường về tự tại
Cười dứt vạn trần duyên.

Tiếp hiện Chân Quang
(Therese Fitzgerald)

Chân tính vốn là ánh sáng
Quang minh soi chiếu tỏ tường
Đất tâm gieo hạt giống qúi
Hoa đàm nở ngát mười phương.

Tiếp hiện Chân Sinh
(Hoàng Phúc)

Chân như là bản môn
Sinh diệt nào động tới?
Thức dậy sớm mai hồng
An nhiên không chờ đợi.

Tiếp hiện Chân Thành Tựu
(Marcel Geisser)

Chân pháp chỉ là một
Thành tựu có muôn đường
Tâm từ trùm pháp giới
Gia nghiệp khéo thừa đương.

Tiếp hiện Chân Thiện
(Lyn Fine)

Chân ý không nề biên giới
Thiện căn ở tại lòng ta
Tình nghĩa hai bờ trọn vẹn
Chiếu soi đuốc sáng Phật đà.

Tiếp hiện Chân Thiện Căn
(Đỗ Văn Hòa)

Chân tính vốn nguồn gia bảo
Thiện căn ở tại trong lòng
Tam bảo thuyền từ bảo hộ
Mặt trời rạng rỡ phương đông.

Tiếp hiện Chân Tịnh Giới
(Nguyễn Trọng Phu)

Chân tâm là ánh sáng
Tịnh giới cõi trang nghiêm
Pháp đăng soi nhật dụng
Ấn Bụt mãi lưu truyền.

Tiếp hiện Chân Tịnh Nhãn
(Nguyễn Văn Kỳ Cương)

Chân thân là Phật độ
Tịnh nhãn chuyển ta bà
Trên bùn sen ngọc nở
Bến giác chở người qua.

Tiếp hiện Chân Từ Nhãn
(Jorgen Hannibal)

Chân quán thanh tịnh quán
Từ nhãn nhìn chúng sanh
Thầy hay có linh dược
Không bệnh nào không lành.

Tiếp hiện Chân Y
(Barry Roth)

Chân nguyện là chân đạo
Y vương tức Pháp vương
Dưới cội bồ đề mát
Có pháp tọa kim cương


Năm 1996:

Thầy Thích Quảng Hòa
(Nguyễn Duy Thuần)

Quảng đại thần thông trong nếp áo
Hòa quang tiếp độ có cơ thần
Thu phóng một khi đà nắm vững
Ngồi trong tự tại dứt trầm luân.

Thượng Tọa Thích Chân Minh Tánh
(Lương Thanh Quy)

Minh thấy vô minh nở nụ cười
Tánh soi vô tánh sạch trần ai
Trượng phu một quyết lên đường lớn
Gươm báu trao truyền hãy vững tay

Thầy Thích Từ  Nghiêm

Từ bi bóng rợp che im mát
Nghiêm túc thân ngồi đại địa an
Không gian mở rộng về vô tận
Nguyện lớn tung lên cánh đại bàng.

Thầy Thích Minh Đức
(Nguyễn Thành)

Minh nguyệt sơ đăng truyền pháp nhũ
Ðức sơn bất động phá trần tâm
Thụy khởi thanh thiên vân tận khứ
Ðương chiêm tuệ nhật nhất phương hồng.

(Trăng sáng vừa lên cho sữa pháp
Núi cao ngồi vững phá tâm trần
Thức dậy trời xanh mây quét sạch
Hồng hào tuệ nhật chiếu phương Ðông).

Thầy Chân Pháp Đăng
pháp tự Tâm Quang Hồng

(Nguyễn Văn Hiền)

Pháp môn tìm thấy trên non cũ
Đăng hỏa mười năm rạng cự môn
Cung kiếm truyền trao trong nhật dụng
Hoa đào nở sáng chốn cô thôn.

Thầy Thích Đức Niệm

Đức sáng nằm ngay trong đất tâm
Niệm lành vun tưới đã lên mầm
Bồ đề cây ấy sum xuê lắm
Một sáng trần gian dậy tiếng tăm.

Thầy Thích Chân Nhuận Hải

Nhuận thấm mười phương nếp học phong
Hải triều vang dội đức khiêm cung
Hoa kia nở đẹp trên cành ấy
Tay nắm tay làm rạng tổ tông.

Sư cô Từ Nghiêm Tâm Thọ
pháp tự Tâm Thọ

(Eleni Sarant)

Chân ý đã là châu báu sẵn
Từ nghiêm muôn hạnh cũng dung thông
Ta người một thể không hư vọng
Hồi hướng tùy duyên hạnh giải đồng

Sư cô Chân Giới Minh
pháp tự Nguyên Hòa

(Cao Thị Thuận)

Giới đức kia là ngọc sáng trong
Minh minh chiếu diệu tỏa mười phương
Tay lành nắm được cành dương liễu
Đại địa hồi sinh mỗi bước đường.

Sư cô Chân Đoan Nghiêm
pháp tự Tâm Hy Hữu

(Lư Thị Hồng)

Chân giác vun trồng miền tuệ uyển
Đoan nghiêm thuyền cập bến thong dong
Công phu nở đóa sen ngàn cánh
Quê cũ vui chơi thỏa nguyện lòng.


Năm 1998:

Sư Cô Trung Chính
pháp tự Thiên Chơn

(Bạch Thị Thu Nguyệt)

Trung kiên lòng dạ tựa trăng rằm
Chính đạo muôn đời nối tổ tông
Đạo ý vườn xưa vừa khởi sắc
Một sân hòe quế đã đơm bông.


Năm 1999:

Sư cô Chân Hiếu Nghiêm

Hiếu hạnh gương xưa là mật hạnh
Nghiêm thân thường trú giữa tăng thân
Quê hương sự nghiệp còn trông đợi

Tây vức tuy xa vẫn thật gần.

Sư cô Chân Vị Nghiêm
Chân thực lòng ta ta tự thấy
Vị luôn thuần nhất, vị muôn đời
Lồng lộng dòng sông in bóng nguyệt
Dứt hết trông cầu đạt thảnh thơi.

Thầy Pháp Hòa
pháp tự Lệ Quang

Pháp đã trao lòng từ vạn thuở
Hòa quang tiếp độ khắp quần sinh
Sen nở rạng ngời trần chẳng nhiễm
Độ hết muôn phương chúng hữu tình

Thầy Chân Vô Ngại
pháp tự Tâm Minh Định

(Trầm Kim Hải)

khứ vô lai thường tự tại
Ngại gì gươm báu đã trao tay
Cười lớn tung lên trang hiển hách
Trăng nước ngoài kia vẫn sáng đầy

Thầy Chân Pháp Ấn
pháp tự Tâm Hương Sơn

(Phạm Thu)

Pháp trao giữa lúc hoa đào nở
Ấn lòng muôn kiếp vẫn y nguyên
Bồ đề bóng rợp luôn che chở
Vạn lý sông xa đã có thuyền

Thầy Tịnh Mãn
pháp tự Tâm Trí

(Phan Lỵ Antonio)

Tịnh độ bày ra trong mỗi bước
Mãn điều nguyện ước cả xưa sau
Chí trai lấp biển dời non được
Quét sạch nhân gian mọi hận sầu

Sư cô Chân Hoa Nghiêm
pháp tự Tâm Uyên

(Lư Thị Bé)

Hoa trái thương yêu nguyền hiến tặng
Nghiêm hành tam học, rạng uy nghi
Đào lý vườn tâm bừng sắc thắm
Sân ngoài tùng bách nét phương phi

Sư cô Chân Thoại Nghiêm
pháp tự Tâm Diệu Thiện

(Nguyễn Xuân Mộng Liên)

Thoại ứng sao mai vừa xuất hiện
Nghiêm trang ngự giữa đỉnh trời cao
Trái tim bồ tát ngời muôn nến
Ôm hết trần gian ánh nhiệm mầu

Thầy Chân Pháp Ứng
pháp tự Tâm Minh Tâm

(Bùi Thế Hùng Lân)

Pháp bảo trao truyền trong nhật dụng
Ứng hợp căn cơ hãy độ người
Sáng lại mây mù tan sạch hết
Ánh hồng bừng chiếu khắp muôn nơi.

Sư cô Chân Định Nghiêm
pháp tự Tâm DiệuThu

(Nguyễn Thị Diễm Xuân)

Định hướng thuyền đi trong vững chãi
Nghiêm trang lòng đất nở hoa trời
Đường xưa mây trắng còn nguyên vẹn
Âm điệu hòa chung khúc thảnh thơi.

Sư cô Chân Tuệ Nghiêm
pháp tự Tâm Nghiêm Đức

(Nguyễn Thị Hạnh)

Tuệ giác đã nguyền nên sự nghiệp
Nghiêm hành giới định tháng ngày vui
Cánh tay bồ tát không ngừng nghỉ
Biển khổ thuyền dong cứu độ người.

Sư cô Chân Hương Nghiêm
pháp tự Tâm Diệu Hương

(Ðoàn Hà Ấu-Hà)

Hương sắc vườn xưa nguyện vẹn mãi
Nghiêm uy non cũ vẫn anh linh
Xuân sang mở sáng chân trời rộng
Tay nắm tay ca giữa thái bình

Kệ phó pháp của Hòa thượng Thanh Quý Chân Thật trao cho thiền sư Trừng Quang Nhất Hạnh

IV
Đây là bài kệ phó pháp của Hòa thượng Thanh Quý Chân Thật
trao cho thiền sư Trừng Quang Nhất Hạnh

(trú trì Chùa Từ Hiếu, Khai sơn am Phương Vân, Chùa Pháp Vân, các đạo tràng Mai thôn, Bích Nham, và Lộc Uyển)

Nhất hướng phùng xuân đắc kiện hành
Hành đương vô niệm diệc vô tranh
Tâm đăng nhược chiếu kỳ nguyên thể
Diệu pháp Đông Tây khả tự thành.

Bài kệ tiếng Việt do Thầy Làng Mai dịch:

Đi gặp mùa xuân, bước kiện hành
Đi trong vô niệm với vô tranh
Đèn tâm soi chiếu vào nguyên thể
Diệu pháp Đông Tây ắt tự thành.


Bị chú:
Hoà thượng Chân Thật có 8 vị đệ tử xuất gia, trong đó có:

Đại Sư Chí Niệm (Trừng Trì) giám tự tổ đình Từ Hiếu (Huế)
Đại Sư Nhất Hạnh (Trừng Quang) trú trì tổ đình Từ Hiếu (Huế)
Đại sư Chí Mậu (Trừng Tuệ), giám tự tổ đình Từ Hiếu (Huế)
Đại sư Chí Thắng (Trừng Sơn) trú trì Chùa Phước Thành (Huế)
Đại sư Chí Mãn (Trừng Viên) trú trì Chùa Pháp Vân (Đà Nẵng)
Đại sư Chí Viên (Trừng Dũng) trú trì Chùa Linh Phong (Nha Trang)
Ni sư Lưu Phương (Trừng An) trú trì Chùa Liên Hoa (Nha Trang)
Ni sư Lưu Phong (Trừng Hạnh) trú trì Chùa Kiều Đàm (Thành phố Hồ Chí Minh)

 

真寔和尚法嗣
付澄光字逢春號一行
(慈孝寺住持;芳雲庵,法雲寺開山,梅村道場,清山道場,鹿菀道場禪主)

一向逢春得健行
行當無念亦無諍
心燈若照其原体
妙法東西可自成

被註:
真寔祖師八位剃度弟子:
澄慧大師字志茂 (慈孝祖庭監寺)
澄山大師字志勝 (福成寺住持)
澄圓大師字志滿 (法雲寺住持)
澄勇大師字志圓 (靈峰寺住持)
澄安尼師字流芳 (蓮華寺住持)
澄行尼師字流豊 (喬曇寺住持)

Kệ phó pháp của sư tổ Thanh Thái Huệ Minh trao cho các vị đắc pháp với Ngài

III
Sau đây những bài kệ phó pháp của sư tổ Thanh Thái Huệ Minh
trao cho các vị đại sư đắc pháp với Ngài

1. Trao cho đại sư Trừng Ngoạn,
pháp tự Quang Hưng, pháp hiệu Chân Nguyên:
(trú trì Chùa Thiên Hòa)

Chân nguyên trạm trạm thể quang hàm
Bản tự viên thành mạc yếu tham
Lịch tổ tổ thừa vô biệt sự
Phân minh thật tế vật không đàm

付清玩字光興號真源大師 (天和寺住持)
真源湛湛体光含, 本自圓成莫要參,
歷祖祖承無別事,分明寔際芴空談.

2. Trao cho đại sư Trừng Nguyên,
pháp tự Quang Hợp, pháp hiệu Chân Như:
(trú trì Chùa Báo Ân)

Chân như thật tướng bản như như
Thể dụng toàn chương nhất phái chư
Phóng khứ thu lai vô biệt vật
Tùng tri xúc xứ tự phi cừ

付澄光字光合號真如大師 (報恩寺住持)
真如寔相本如如, 体用全彰一派諸,
放去收來無別物, 從知觸處自非渠.


3. Trao cho đại sư Trừng Pháp,
pháp tự Quang Bảo, pháp hiệu Chân Không:

Chân không diệu hữu bản phi không
Sinh Phật tùng lai thể tự đồng
Nhất khỏa minh chân thân tồn thủ
Tương thừa tổ đạo trấn huyền phong

付澄法字光寶號真空大師
真空妙有本非空, 生佛從來体自同,
一顆明珠親荐取, 相承祖道振玄風.

4. Trao cho đại sư Thanh Quý,
pháp tự Cứu Cánh, pháp hiệu Chân Thật:
(trú trì Chùa Từ Hiếu và Diệu Nghiêm)

Chân thật duy tùng thể tính không
Thâm cùng vọng thức bản lai không
Thỉ tri thị vật nguyên phi vật
Diệu dụng vô khuy chỉ tự công

Bản tiếng Việt do Thầy Làng Mai dịch:

Chân lý nằm trong thể tính không
Trước sau vọng thức vẫn là không
Vật kia như thật mà không thật
Diệu dụng công phu hãy một lòng.

Bản tiếng Hán:

付倩季字究竟號真寔大師 (慈孝寺,妙嚴寺住持)
真寔惟從体性中, 深窮妄識本來空,
始知是物原非物, 妙用無虧只自功.


5. Bài kệ này được trao cho tất cả bảy vị đại sư có tên sau đây:

Đại sư:

Trừng Châu (Quang Lưu, Chân Thuyên)
Trừng Tiến (Quang Nghiêm, Chân Thường)
Thanh Nhuận (Linh Miêu, Chân Tế)
Thanh Tịnh (Tín Hướng, Chân Phúc)
Thanh Trung (Quảng Diễn, Chân Thành)
Thanh Cát (An Tường, Chân Thể)
Trừng Liên (Quang Diệp, Chân Tính)

Tâm không hà tằng pháp
Pháp thể bản phi không
Vô vi pháp liễu đắc
Pháp pháp chủ nhân ông

法名澄珠字光琉號真詮大師
法名澄進字光嚴號真常大師
法名清潤字靈苗號真際大師
法名清淨字信向號真福大師
法名清忠字廣演號真成大師
法名清吉字安詳號真体大師
法名澄蓮字光葉號真性大師

七位次上付法總一偈
心空曾何法, 法体本非空,
無為法了得, 法法主人翁.

Bị chú: Hoà thượng Tuệ Minh có 32 vị đệ tử xuất gia trong đó có:

-Đại sư Quang Diệp (Trừng Liên) trú trì Chùa Từ Phong Lan Nhã
-Đại sư Quang Bảo (Trừng Pháp) trú trì Chùa Đại Bi
-Ni sư Hướng Đạo (Trừng Thành) trú trì Chùa Diệu Viên
-Ni sư Diệu Trí (Trừng Khương) trú trì Chùa Diệu Nghiêm

慧明和尚有三十二位弟子剃度其中:

澄蓮大師字光葉 (慈風欄若住持)
澄法大師字光寶 (大悲寺住持)
澄成尼師字向道 (妙圓寺住持)
澄姜尼師字妙智 (妙嚴寺住持)

Kệ phó pháp của sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ trao cho các vị đại sư được đắc pháp

II
Đây là những bài kệ phó pháp của sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ
trao cho các vị đại sư được đắc pháp với ngài

1. Trao cho đại sư Thanh Phúc,
pháp tự Chính Lương:

Kỷ niên cổ kính cửu mai trần
Kim nhật trùng ma khí tượng tân
Liễu ngộ phiến thời tâm tức pháp
Pháp cầu ký đắc yếu tinh cần

付法名清福字正良大師偈曰
幾年古鏡久埋塵, 今日重磨氣象新,
了悟片辰心即法, 法求既得要精勤.

2. Trao cho đại sư Thanh Quang,
pháp tự Tuệ Đăng:

Tuệ đăng chiếu triệt mãn hư không
Pháp lực cao đăng hướng thượng tôn
Chân tu nhật dạ thường tinh tiến
Tương thừa tục diệm vĩnh xương long

付清光字慧燈大師偈曰
慧燈炤徹滿虛空, 法力高登向上尊
真修日夜常精進, 相承續焰永昌隆.

3. Trao cho đại sư Thanh Mỹ
pháp tự Dụ Côn, pháp hiệu Tuệ Hương:

Thế thế lưu truyền đức dụ côn
Quang dương tổ ấn vĩnh trường tồn
Tăng tiến bồ đề vô thoái chuyển
Trấn tiếp hậu lai kế pháp môn

付清美字裕昆號慧香大師偈曰
世世流傳德裕昆, 光揚祖印永長存,
增進菩提無退轉, 振接後來繼法門.

4. Trao cho đại sư Thanh Đức,
pháp tự Tuệ Nghiêm:

Diệu pháp quảng vô biên
Chiêu chương vạn cổ truyền
Hà đảm chư Phật tổ
Kế thế vĩnh miên miên

付清德字慧嚴大師偈曰
妙法廣無邊, 昭彰萬古傳,
荷擔諸佛祖, 繼世永綿綿.

5. Trao cho đại sư Thanh Lợi,
pháp tự Hiền Lương:

Tầm chân đáo bảo sơn
Quân tu tử tế khan
Vạn phản quy không thủ
Lâm thời hậu hải nan

付清利字賢良大師偈曰
尋真到寶山, 君須仔細看,
萬返歸空手, 臨辰後海難.

6. Trao cho đại sư Thanh Xán,
pháp tự Tuệ Khánh:

Cổ cảnh cửu mai trần
Kim lai tượng vi tân
Tương ma ngân cấu tịnh
Hạo khiết quýnh thủy luân

付清燦字慧慶大師偈曰
古鏡久埋塵, 今來象為新,
將磨痕垢淨, 皓潔炯水輪.

7. Trao cho đại sư Thanh Hy,
pháp tự Nguyên Cát:
(trú trì Chùa Quốc Ân)

Vạn linh chỉ tại nhất tâm thành
Giải thoát trần căn pháp tánh không
Tảo giác mê vân lung hạo nguyệt
Tuệ phong xuy tán kiến quang minh

付清熙字元吉大師偈曰
(國恩寺住持)

萬靈只在一心誠, 解脫塵根法性空,
早覺迷雲籠皓月, 慧風吹散見光明.

8. Trao cho đại sư Thanh Chân,
pháp tự Viên Giác:

Sơn hoa chính phát sắc phương hưng
Dụng lực tài bồi nhật nhật tân
Tăng tiến bồ đề vô thoái chuyển
Xuân lai kết quả khí phương phân

付清真圓覺大師偈曰
山花正發色方興, 用力栽掊日日新,
增進菩提無退轉, 春來結果氣芳芬.

9. Trao cho đại sư Thanh Hợp,
pháp tự Tuệ Vân:

Xiển đạt thiền quan đại đạo hành
Cần tu tiến bộ thượng vân trình
Siêu nhiên vật ngoại hồn nhàn sự
Liễu đắc tâm không pháp diệc không

付清合字慧雲大師偈曰
闡達禪關大道行, 勤修進步上雲程,
超然物外渾閑事, 了得心空法亦空.

10. Trao cho đại sư Thanh Trường,
pháp tự Minh Chí:

Quang hưng tổ đạo chấn gia phong
Bộ bộ cao đăng hướng thượng thằng
Liễu ngộ tức tâm, tâm tức Phật
Tương thừa tục diệm vĩnh xương long

付清長銘誌大師偈曰
光興祖道振家風, 步步高登向上承,
了悟印心心印佛, 相承續焰永昌隆.

11. Trao cho đại sư Thanh Minh,
pháp tự Đức Nhuận:

Thanh minh trạm trạm tịch hư linh
Đạo pháp hà tằng hữu tượng hình
Tổ thọ tôn thừa truyền thế thế
Bồ đề lộ thượng bộ khinh khinh

付清明德潤大師偈曰
清明湛湛寂虛靈, 道法何曾有像形,
祖授孫承傳世世, 菩提路上步輕輕.

12. Trao cho đại sư Thanh Bạch,
pháp tự Châu Lâm:

Trang nghiêm học địa tịnh đồng băng
Tham cứu thiền cơ liễu thượng thằng
Kiên cố tín tâm vô dị biệt
Nhất đăng truyền điểm bách thiên đăng

付清白珠林大師偈曰
莊嚴覺地淨同冰, 參究禪機了上乘,
堅固信心無異別, 一燈傳點百千燈.

Bị chú: Bài này gần giống bài kệ của tổ Nhất Định trao cho tổ Hải Chiếu, cần khảo sát lại

13. Trao cho đại sư Thanh Tường,
pháp tự Tuệ Chiếu:

Pháp lực phá hồng trần
Quang minh khí tượng tân
Tục diệm truyền phú chúc
Chân thị báo Phật ân

付清祥慧炤大師偈曰
法力破紅塵, 光明氣象新,
續爓傳付囑, 真是報佛恩.

14. Trao cho đại sư Thanh Thái,
pháp tự Chính Sắc, pháp hiệu Huệ Minh

Chính sắc thể viên minh
Tâm pháp bổn tự nhiên
Hư không thu nhất điểm
Kế tổ vĩnh lưu truyền

付清泰字正色慧明大師偈曰
正色体圓明, 心法本自然,
虛空忮一點, 繼祖永留傳.

15. Trao cho đại sư Thanh Đăng,
pháp tự Tự Toản, hiệu Tuệ Đạt:

Tự toản vạn pháp thông
Tâm pháp như hư không
Quang minh Phật phú chúc
Truyền đăng phụng tổ tông

付清燈字緒纂慧達大師偈曰
(南山寺住持)

緒纂萬法通, 心法如虛空
光明佛付囑, 傳燈奉祖尊.

16. Trao cho đại sư Thanh Giáo,
pháp tự Từ Hàng, hiệu Tuệ Quang:

Từ hàng độ vô biên
Diệu dụng chiếu mãn thiên
Viên minh hồi quang chiếu
Kế tổ vĩnh lưu truyền

付清教字慈航慧光大師偈曰
慈航度無籩, 妙用炤滿天,
圓明回光炤, 繼祖永流傳.

17. Trao cho đại sư Thanh Kỳ,
pháp tự Duy Trì, hiệu Tuệ Khai:

Duy trì đạo lý toàn
Trùng ma khí tượng tân
Hà đảm chư Phật tổ
Kế thế vĩnh miên miên

付清淇字維持慧開大師偈曰
維持道理全, 重磨氣象新,
荷擔諸佛祖, 繼世永綿綿.

18. Trao cho đại sư Thanh Tâm,
pháp tự Duy Chân, hiệu Tuệ Lãng:

Duy chân mật ý thông
Chư pháp đức giai không
Phó nhữ an tâm pháp
Kế diệm điểm đăng tông (tôn)

付清心惟真慧朗大師偈曰
惟真密意通, 諸法德皆空,
付汝安心法, 繼焰點燈尊.

19. Trao cho đại sư Thanh Tú,
pháp tự Phong Nhiêu, pháp hiệu Tuệ Pháp:
(tăng cang Chùa Diệu Đế)

Phong nhiêu thọ pháp truyền
Nội ngoại bản tri nhiên
Phù trì chư Phật tổ
Kế thế vĩnh miên miên

付清秀字豊饒慧法大師偈曰 (妙帝寺僧綱)
豊饒授法傳, 內外本知然,
扶持諸佛祖, 繼世永綿綿.


20. Trao cho đại sư Thanh Đảm,
pháp tự Chân Chất, pháp hiệu Tuệ Nhật:

Chân chất pháp tính không
Tâm pháp bản lai đồng
Chân không giai thị Phật
Kế thế phụng tổ tông

付清膽字真質慧日大師偈曰
真質法性空, 心法本來同,
真空皆是佛, 繼世奉祖尊.


21. Trao cho đại sư Thanh Tánh,
pháp tự Lý Chiêm, pháp hiệu Tuệ Điểm:

Lý chiêm khí tượng tân
Tâm nguyệt chiếu bạch vân
Tục diệm truyền phú chúc
Minh đăng phụng tổ tông

付清性字理瞻慧點大師偈曰
理瞻氣象新, 心月炤白雲,
續焰傳付囑, 明燈奉祖尊.

22. Trao cho đại sư Thanh Bổn,
pháp tự Long Thi, pháp hiệu Tuệ Lăng:

Long thi tâm tự tại
Bổn tính tịch thường minh
Chân đăng kim phú nhữ
Hồi quang vạn pháp linh

付清本字隆詩慧崚大師偈曰
隆詩心自在, 本性寂常明,
真燈今付汝, 回光萬法靈.

23. Trao cho đại sư Thanh Lý,
pháp tự Chính Tâm, pháp hiệu Tuệ Nguyên:

Chính tâm pháp quang minh
Trần tảo cảnh trùng viên
Tục diệm truyền phú chúc
Như nguyệt ấn giang thiên

付清理字正心慧源大師偈曰
正心法光明, 塵掃境重圓
續焰傳付囑, 如月印江天.


24. Trao cho đại sư Thanh Nghiệm,
pháp tự Duy Cần, pháp hiệu Tuệ Lực:

Chúng sinh Phật tính cổ kim đồng
Phàm thánh đồng cư thế giới trung
Chỉ tại nhất tâm sinh vạn pháp
Duy nhân không pháp giả hà không?

付清驗字維勤慧力大師偈曰
眾生佛性古今仝, 凡聖同居世界中,
止在一心生萬法, 唯人空法者何空.


25. Trao cho đại sư Thanh Phúc,
pháp tự Vĩnh Gia, pháp hiệu Tuệ Khai:

Vĩnh gia cần giới pháp
Tảo tận trần lao tâm
Quang minh chiếu Phật tính
Diệu cổ cập đằng câm (kim)

付清福字永嘉慧開大師偈曰
永嘉勤戒法, 埽盡塵勞心,
光明炤佛性, 耀古及騰今.

26. Trao cho đại sư Thanh Phúc (?)
pháp tự Hưng Long, pháp hiệu Tuệ Thành:

Hữu tình lai hạ chủng
Xúc địa quả hoàn sinh
Đản yếu tài bồi lực
Chi diệp tự phu vinh

付清福字興隆慧誠大師偈曰
有情來下種, 觸地果還生,
但要栽培了, 枝葉自敷榮.

27. Trao cho đại sư Thanh Kiệm,
pháp tự Huy Tuân, pháp hiệu Tuệ Thông:

Thanh kiệm phá hồng trần
Huy tuân khí tượng tân
Pháp đăng kim phú nhữ
Thường nhiên báo Phật ân

付清儉輝詢慧通大師偈曰
倩儉破紅塵, 輝詢氣象新,
法燈今付汝, 常燃報佛恩.

28. Trao cho đại sư Thanh Trí,
pháp tự Hải Luận, pháp hiệu Tuệ Giác:

Tầm đắc chủ nhân ông
Thỉ tri bản lai đồng
Nhất chân giai thị Phật
Kế thế phụng tổ tông

付清智字海論慧覺大師偈曰 (靈姥寺僧綱)
尋得主人翁, 始知本來仝,
一真皆是佛, 繼世奉祖尊

29. Trao cho đại sư Thanh Bình,
pháp tự Chính Chất, pháp hiệu Tuệ Linh:

Căn trần tu đoạn tuyệt
Chính niệm bản như nhiên
Cần cầu kim phú nhữ
Kế thế vĩnh lưu truyền

付清平字正質慧靈大師偈曰
根塵鬚斷絕, 正念本如然,
勤求今付汝, 繼世永留傳.

30. Trao cho đại sư Thanh Nguyên,
pháp tự Phổ Hiệp, pháp hiệu Tuệ Sinh:

Kinh niên bạo lộ nhã phong trần
Thử nhật tẩy trừ cải hoán tân
Tăng tiến bồ đề vô thoái chuyển
An tường từ bộ thượng cao đăng

付清源字溥洽慧生大師偈曰
經年暴露若風塵, 此日洗除改換新,
增進菩提無退轉, 安詳徐步上高登.

Bị chú: Đệ tử quy y thọ ký của Tổ tổng số là 637 vị. Trong đó có 45 vị trong viện Cung Giám, đệ tử quy y 186 người, đệ tử xuất gia 45 vị, tín nữ quy y 338 vị, tín nữ thọ ký 63 vị, và đệ tử đắc pháp 30 vị.

Các bài kệ phú pháp truyền đăng của Tổ đình Từ Hiếu qua nhiều thế hệ

Tổ Sư Nhất Định, khai sơn Tổ đình Từ Hiếu, đã phú pháp cho mười lăm vị đệ tử xuất gia của Ngài. Vị Đại sư được phú pháp đầu tiên là Tổ Hải Chiếu, pháp tự là Đoan Trang. Trong bài kệ phú pháp này, Tổ Nhất Định có sử dụng danh từ truyền đăng. Câu thứ tư của bài kệ là “nhất đăng truyền chiếu bách thiên đăng” có nghĩa là một cây đèn truyền xuống sẽ trở thành trăm ngàn cây đèn. Vì vậy, phú pháp (trao gửi pháp) cũng là truyền đăng (trao truyền đèn). Và người nhận pháp được gọi là đắc pháp, hoặc người nối pháp (pháp tự).

Sau Tổ Nhất Định, các Tổ khác cũng sử dụng danh từ truyền đăng. Tổ Hải Thiệu trong bài kệ phú pháp trao cho Tổ Thanh Đăng cũng nói “truyền đăng phụng tổ tông” nghĩa là trao truyền ngọn đèn chánh pháp là để phụng sự tổ tiên và tông phái. Trong bài kệ phú pháp trao cho Tổ Thanh Tịnh cũng có câu “tục diệm truyền phú chúc, minh đăng phụng tổ tông” nghĩa là “ngọn lửa được trao gửi lại, làm cho cây đèn sáng lên mà phụng sự chư tổ và tông môn” . Trong bài kệ phú pháp trao cho Tổ Thanh Bản, cũng có câu “chân đăng kim phú nhữ, hồi quang vạn pháp linh”, nghĩa là “ngọn đèn chân lý bây giờ trao lại cho thầy, đem ánh sáng soi trở lại sẽ thấy vạn pháp đều linh ứng”. Tổ Hải Thiệu đã truyền đăng cho 30 vị. Tổ Tuệ Minh đã truyền đăng cho 11 vị, trong đó có Tổ Thanh Quý. Trong bài phú pháp mà Tổ Thanh Quý trao cho Thiền sư Nhất Hạnh cũng có câu “tâm đăng nhược chiếu kỳ nguyên thể, diệu pháp đông tây khả tự thành” có nghĩa là “nếu đem được ánh sáng của ngọn đèn tâm mà chiếu vào bản tính uyên nguyên, thì sự trao truyền giáo pháp mầu nhiệm sẽ được thành tựu ở cả đông phương và tây phương”.

Tại Mai Thôn Đạo Tràng, phó pháp truyền đăng là một, và để cho cụ thể, các vị giáo thọ đắc pháp đều được nhận một cây đèn trong lễ đắc pháp. Vì vậy ta đã quen nghe danh từ “truyền đăng đắc pháp”.

I

Đây là những bài kệ phú pháp của Sư tổ Tánh Thiên Nhất Định
trao cho các vị Đại sư được đắc pháp với Ngài

 

1. Trao cho Đại sư Hải Chiếu, pháp tự Đoan Trang:

Đoan trang học địa tịnh đồng băng
Tham cứu thiền cơ liễu thượng thằng
Kiên cố tín tâm vô dị biệt
Nhất đăng truyền chiếu bách thiên đăng.

Bản tiếng Việt do Thầy Làng Mai dịch:

Đoan trang giới hạnh sạch làu làu
Tham cứu thiền cơ thấy thật sâu
Niềm tin vững chãi không phân biệt
Đèn nay truyền lại vạn đèn sau.

Bản tiếng Hán:

付海炤字端莊偈曰
端莊學地淨同冰, 參究禪機了上乘,
堅固信心無異別, 一燈傳照百千燈.

2. Trao cho Đại sư Hải Trạch, pháp tự Thiều Hoa:

Thiều hoa chính phát sắc phương hưng
Dụng lực tài bồi nhật nhật tân
Tăng tiến bồ đề vô thoái chuyển
Xuân lai kết quả khí phương phân.

付海擇字韶華偈曰
韶華正發色方興, 用力栽培日日新,
增進菩提無退轉, 春來結果氣芳芬.

3. Trao cho Đại sư Hải Thuận, pháp tự Lương Duyên:
(Trú trì chùa Báo Quốc)

Lương duyên hội ngộ giới châm đầu
Đạo hợp tâm truyền xứng sở cầu
Phúc tuệ song tu vô gián đoạn
Quang dương tổ ấn vĩnh trường lưu.

付海順字良緣偈曰(報國寺住持)
良緣會遇芥針投, 道合心傳稱所求,
福慧雙修無間斷, 光揚祖印永長流.

4. Trao cho Đại sư Hải Phong, pháp tự Vĩnh Mậu:

Vĩnh mậu sum la vạn cổ hằng
Như như bản tính đoạn trần căn
Duy vân cựu các nhàn điền địa
Nhất độ dinh lai đạo nhật tăng.

付海豐字永茂偈曰
永茂森羅萬古恆, 如如本性斷塵根,
雖云舊閣閑田地, 一度營來道日增.

5. Trao cho Đại sư Hải Trường, pháp tự Pháp Lữ:

Pháp lữ đồng vi xứ xứ hoan
Vô tâm vật lũy tiện khinh an
Chân tu nhật dạ thường tinh tiến
Bảo sở cao đăng dã bất nan.

付海長字法侶偈曰 (聖緣寺住持)
法侶同為處處歡, 無心物累便輕安,
真修日夜常精進, 寶所高登也不難.

6. Trao cho Đại sư Hải Hồng, pháp tự Giác Mãn:

Giác mãn công viên đức hạnh toàn
Hứa đa trần sự khởi tương can?
Tâm không cập đệ chân thường lạc
Nhất đạo thần quang vạn cảnh nhàn

付海洪字覺滿偈曰
覺滿功圓德行全, 許多塵事豈相干,
心空及第真常樂, 一道神光萬境閑.

7. Trao cho Đại sư Hải Trạm, pháp tự Diên Miên:

Diên miên tổ đạo trấn gia phong
Bộ bộ cao đăng hướng thượng tông
Liễu ngộ tức tâm, tâm thị Phật
Tương thừa tục diệm vĩnh xương long

付海湛字延綿偈曰 (靈佑寺住持)
延綿祖道振家風, 步步高登向上尊,
了悟即心心是佛, 相承續燄永昌隆.

8. Trao cho Đại sư Hải Tuệ, pháp tự Phúc Ẩn: (Trú trì chùa Linh Hựu)

Phúc ẩn do như ngọc uẩn vi
Y trung hệ bảo kỷ thùy tri
Thân nhân chỉ thị thiêm điêu trác
Kế thế phong lưu dã bất khuy

付海慧字福隱偈曰 (靈佑寺住持)
福隱猶如玊蘊微, 衣中繫寶幾誰知,
親人指示添琱琢, 繼世風流也不虧.

9. Trao cho Đại sư Hải Hoạt, pháp tự Trừng Thanh:

Trừng thanh tính hải khí an nhiên
Xử thế tùy cơ liễu mục tiền
Đạo niệm tinh tu, tình niệm đoạn
Như kim phú pháp vĩnh lưu truyền

付海活字澄清偈曰
澄清性海氣安然, 處世隨機了目前,
道念精修情念斷, 如今付法永流傳.

10. Trao cho Đại sư Hải Hoa, pháp tự Phát Đạt:

Phát đạt thiền cơ đại đạo hành
Cần tu tiến bộ thượng vân trình
Siêu nhiên vật ngoại hồn nhàn tịnh
Liễu đắc tâm không pháp bất sinh

付海華字發達偈曰
發達禪關大道行, 勤修進步上雲程,
超然物外渾閑淨, 了得心空法不空(生).

11. Trao cho Đại sư Hải Ngộ, pháp tự Tâm Thành:

Vạn linh chỉ tại nhất tâm thành
Giải thoát trần căn pháp tánh sinh
Tảo giác mê vân lung hạo nguyệt
Tuệ phong xuy tán kiến quang minh

付海悟字心誠偈曰
萬靈只在一心誠, 解脫塵根法性生,
早覺迷雲籠皓月, 慧風吹散見光明.

12. Trao cho Đại sư Hải Nhu, pháp tự Tín Nhiệm:
(Tăng cang chùa Linh Mụ)

Tín nhiệm vô nghi pháp tự thành
Trần căn tịch tịnh thiện căn sinh
Hoa tâm khai phát phong tư mỵ
Xuy lãnh tai phong giải uẩn tình

付海儒字信任偈曰 (靈姥寺僧綱)
信任無疑法自成, 塵根寂淨善根生,
花心開發丰姿媚, 吹領在風解慍情.

13. Trao cho Đại sư Hải Bạch, pháp tự Thanh Huyền:

Thanh huyền trạm trạm tịch hư linh
Đạo pháp hà tằng hữu tượng hình
Tổ thọ tôn thừa truyền thế thế
Bồ đề lộ thượng bộ khinh khinh

付海白字清玄偈曰
清玄湛湛寂虛靈, 道法何曾有像形,
祖授孫承傳世世, 菩提路上步輕輕.

14. Trao cho Đại sư Hải Nguyệt, pháp tự Trí Viên:

Trí viên nguyệt mãn lưỡng đồng viên
Yên tán vân phi nhất sắc thiên
Phật pháp bất ly ư thế pháp
Hòa quang vô nhiễm tính vi nhiên

付海月字智圓偈曰
智圓月滿兩同圓, 煙散雲飛一色天,
佛法不離於世法, 和光無染性為然.

15. Trao cho Đại sư Hải Thiệu, pháp tự Cương Kỷ:
(Trú trì chùa Từ Hiếu)

Cương kỷ kinh quyền bất chấp phương
Tùy cơ ứng dụng thiện tư lương
Triêu triêu tương thức nan tầm tích
Nhật nhật xuyên y nghiết phạn thường

Bản tiếng Việt do Thầy Làng Mai dịch:

Cương kỷ biết thời không cố chấp
Cơ duyên ứng dụng khéo tư lường
Sáng sáng tìm nhau không dấu vết
Mặc áo ăn cơm giữ chuyện thường.

Bản tiếng Hán:

付海紹字綱紀偈曰 (慈孝寺住持)
綱紀經權不執方, 隨機應用善思量,
朝朝相識難尋跡, 日日穿衣契飯常.

 

Bị chú:
Sư tổ Nhất Định có 41 vị đệ tử xuất gia, vị thứ hai pháp danh Hải Đức, pháp tự Trinh Tường, sau này được đắc pháp truyền đăng với Tổ Bản Giác, chùa Linh Mụ với pháp danh mới là Liễu Tâm và pháp tự mới Viên Cơ. Đây là bài kệ phó pháp do Tổ Bản Giác trao cho Tổ Hải Đức:

Pháp pháp chân như pháp
Tâm tâm cơ dạng thì
Liễu tâm phi nội ngoại
Hướng thượng thị viên ky

法法真如法, 心心機 時,
了心非內外, 向上是圓機.

Khuôn mặt

Trên nguyên hai trang 66 – 67 của tạp chí, ta thấy hình Thiền Sư Nhất Hạnh đang dẫn đoàn người đi thiền hành với những dòng như sau:

Định cư từ ba mươi năm trên nước Pháp, một người Việt tên Thích Nhất Hạnh đã biến cái ngôi làng Loubès Bernac này thành ra một trong những trung tâm Phật Giáo lớn nhất hoàn cầu. Những lời dạy về hòa bình của người đã âm vang tận nước Mỹ sau ngày 11 tháng 9.

Vị Thiền sư vùng Bordeaux

Rạng ngày 22 tháng 11 năm 2001, trời vẫn còn chưa sáng. Ban đầu ta chỉ thấy những luồng ánh sáng rọi từ các xe hơi đến từ khắp hướng, và đều đặn từng loạt người cả nam lẫn nữ đổ ra khỏi xe giữa cảnh đồng quê làng Loubès. Từng nhóm, từng nhóm, họ im lặng đi, hướng về một ngôi nhà trệt bằng đá, xinh xắn và thanh bạch. Một số người mặc áo dài nâu, đầu không tóc; một số khác thì y phục bình thường của khách đến từ xa, y phục của thời đại: giày baskets, quần Jean và áo mùa đông Anorak dày. Trong những ngày đầu này của mùa đông, thính chúng gồm khoảng 250 thiền sinh khách. Họ ngồi thành vòng cung, hướng về một bục gỗ cao, vuông vức, trên đó có một chiếc bình cắm những đóa hoa thanh tú. Bình hoa làm dịu xuống khung cảnh trang nghiêm của thiền đường. Mỗi người ngồi xuống trên gối ngồi thiền của mình và đeo vào tai ống nghe để nghe thứ tiếng mà mình muốn nghe. Đối với “những người đi hành hương’’ đến từ bốn góc của Âu Châu và Mỹ Châu, làng Loubès – Bernac, nằm vùng biên giới ba tỉnh Dordogne, Lot & Garonne và Gironde đã trở thành vùng cao điểm của đạo Bụt. Những vị đi hành hương này, cả nam lẫn nữ, đã từ nhiều phương xa đến tận đây để nghe lời dạy của thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Cánh cửa bên hông thiền đường mở ra, Thiền sư bước vào, theo sau là một thị giả giúp thầy cởi bỏ áo khoác ngoài. Một ông thầy tu nhỏ bé, đầu không tóc, bước vào thiền đường bằng những bước chân nhẹ nhàng của một chú mèo. Ông mặc một chiếc áo màu nâu khiêm tốn, đi về hướng chiếc bục gỗ và ngồi xuống trong tư thế kiết già. Người bắt đầu giảng dạy bằng giong nói thật nhẹ khiến mọi người phải cố gắng lắng nghe. Thỉnh thoảng Người nâng chén trà lên bằng hai tay và uống từng ngụm nhỏ: “Lúc này đây – thiền sư chợt nói – bản năng của chúng ta đang đẩy chúng ta đi về hướng muốn tiêu diệt quân khủng bố. Nhưng chúng ta làm sao tiêu diệt được khủng bố bằng phi cơ? Bóng tối không thể bị phá tan bằng bóng tối, nó chỉ làm cho bóng tối dày đặc hơn. Chỉ có sự hiểu biết và lòng từ bi mới có thể phá tan bạo động và hận thù. Sự khủng bố nằm trong trái tim của con người. Chúng ta phải loài trừ chất liệu khủng bố ra khỏi những trái tim thù hận kia. Nếu không, chúng ta sẽ càng ngày càng tạo thêm nhiều quân khủng bố nữa.

Định cư ở Pháp từ ba mươi năm nay, vị thiền sư Việt Nam mà mọi người đang lắng nghe lời dạy dỗ với một niềm chiêm ngưỡng là một trong những ngọn đèn pha tâm linh của thiền ở Tây Phương. “Đây đúng là một vị đạo sư thực thụ, với những pháp môn tu tập tâm linh rất thâm sâu”. Ông Mathieu Ricard, đồng tác giả với thân phụ của ông là một nhân vật của Hàn Lâm Viện Pháp Jean Francois Revel trong cuốn sách: “ Thầy tu và triết gia” (Nhà xuất bản Pocket) đã xác định như thế. Ở bên Mỹ, Thiền sư Thích Nhất Hạnh được xem là một minh tinh (star) thực sự. Bên ấy, thầy có hơn một trăm nghìn đệ tử. “Đây là người phật tử quan trọng nhất ở Phương tây, cùng với đức Đạt Lai Lạt Ma’’, giáo sư về tôn giáo học Cương T.Nguyễn của trường đại học George Mason ở tiểu bang Virginia đã nói thế. Ông này có biết đến Thầy trong những thập niên 1960 khi Thầy còn ở Sài Gòn.

Ngày 10 tháng 9, chưa đầy 24 giờ trước khi cuộc khủng bố xảy ra ở trung tâm thương mại thế giới  tại Nữu Ước, cuốn sách mới nhất của thiền sư Thích Nhất Hạnh vừa xuất bản, với cái tựa như tiên đoán trước thời cuộc: “Lửa Giận” (Anger). Nhà xuất bản như đã thấy trước rằng cuốn sách này sẽ bán rất chạy. Đây là một tổng hợp giữa tâm lý học và tâm linh học. Cuốn Living Buddha, Living Christ (Bụt ngàn đời, Ky Tô ngàn đời) ra đời năm 1995 của thiền sư đã bán được hơn 200.000 bản và quyển An Lạc Từng Bước Chân (ra đời từ năm 1991) đã có hơn một triệu độc giả. Nhưng nhà xuất bản tiếng Anh không ngờ quyển Anger (Lửa Giận) cũng bán chạy không thua gì sách của Stephen King. Ngay sau ngày có cuộc khủng bố, quyển sách này đã trở thành một hiện tượng thời đại. Đợt in đầu 37.000 cuốn đã hết sạch trong vòng 8 ngày. Và sách này cứ tiếp tục được bán với tốc độ 50.000 cuốn mỗi tuần. “Chúng tôi không ngờ sự việc xảy ra nhanh chóng như thế! – bà Amy Hertz, người của nhà xuất bản đã in sách của thiền sư Thích Nhất Hạnh, bày tỏ sự ngạc nhiên. Thường thì ta phải chờ khoảng hai hay ba tuần lễ thì mới biết được quyển sách có được quần chúng ham chuộng hay không”. Đằng này, cuốn sách Anger (sẽ xuất bản bằng tiếng Pháp vào tháng 2 năm 2002, nhà xuất bản Hachette Lattès), vừa mới xuất hiện tuần đầu mà đã nằm trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất in trên Nữu Ước Thời Báo (New York Times), chỉ tiêu của sự thành công trên nước Mỹ.

Sào huyệt của khủng bố nằm trong trái tim con người.

Ngày 13.9.2001, do những lời truyền miệng, hơn 3.000 người đã chen lấn nhau để vào nghe thiền sư nói chuyện ở rạp hát thành phố Berkeley. Sau thời thuyết pháp, quần chúng đã đứng dậy và nói vọng lên: “We love you! We love you!”. Ngày 25 tháng chín, lại cũng gần 3.000 người tại nhà thờ Riverside Church, Nữu Ước vào nghe thầy giảng và 1.500 người phải đứng chờ ngoài cửa, không được vào vì hết chỗ. Rõ ràng là trong khi số đông quần chúng Hoa Kỳ ngồi dán mắt vào màn ảnh truyền hình để nghe lời hăm dọa trả thù quân khủng bố của Tổng Thống họ thì thông điệp của vị Thiền sư Việt Nam khiến một số không ít người nghe bỗng sững sờ chợt hiểu.

Thầy nói với thính chúng Hoa Kỳ: “Trong chiến tranh Việt Nam, hàng ngàn người bị chết trong đó có bạn bè tôi và các đệ tử tôi. Tôi phẫn nộ, nhưng tôi đã biết chế trị cơn giận. Tôi đã quán chiếu và thấy rằng hành động hay nói năng trong khi căm giận chỉ có thể tạo thêm tan vỡ. Tôi đã hiểu rằng không phải chỉ những người Việt Nam mới đau khổ mà cả những người lính Hoa Kỳ được gửi sang Việt Nam để giết và để bị giết cũng rất khổ đau. Vì thế tôi đã không còn căm giận người Mỹ nữa. Ngày hôm nay tôi cảm thấy tôi cũng là người dân Nữu Ước. Chúng ta phải phục hồi cho được sự bình tĩnh và sáng suốt của chúng ta”.

Sau đó Thiền sư đã nói thêm: “Sào huyệt của khủng bố nằm trong trái tim con người. Càng giết, ta càng tạo thêm nhiều cảm tử quân khủng bố. Cơn bệnh khủng bố đã do những con vi khuẩn có tên là căm thù và cái thấy sai lệch gây ra. Chúng ta cần giết con vi khuẩn và trị bệnh chứ không nên giết người bệnh”. Nhà văn Daniel Odier, tác giả quyển tiểu thuyết Diva, với bút hiệu là Delacorta, được biết Thầy từ năm 1967, đã nói: “Thầy (thiền sư) đã nói rằng chúng ta phải tập nhìn thế giới như là một tấm gương phản chiếu sự bạo động nằm sâu trong tâm thức chúng ta”.

Trong thời gian xảy ra nhiều cuộc khủng bố, giáo sư Jack Weller của viện đại học California đã giảng dạy một khóa về đề tài: “Thiền sư Thích Nhất Hạnh và óc sáng tạo”. Giảng khóa này có quá nhiều sinh viên đăng ký cho đến nỗi Giáo Sư Weller phải giảng dạy lại trong lục cá nguyệt thứ hai cùng một đề tài này. Giáo sư giải thích: “Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã dạy chúng ta chăm sóc cơn giận một cách rất cá nhân đối diện với những biến cố trọng đại của thời cuộc chứ không như một khối tâm vô phân biệt (pas une masse indistincte)”.

Đối với số đông người Hoa Kỳ, những biến cố ngày 11 tháng 9 đánh động đến một giai đoạn đau thương  khác của lịch sử nước họ: chiến tranh Việt Nam. Thật là một cuộc chấn động khủng khiếp, thêm một khám phá phũ phàng nữa, sau ba mươi năm, rằng là Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ không phải là nước không thể bị đánh bại. Khi thiền sư nói với người Hoa Kỳ rằng sự tức giận của họ là hợp lý và họ cần phải sử dụng năng lượng giận dữ ấy để mỗi người tự chuyển hóa và tự biến mình  thành một sứ giả của hòa bình, thành người có khả năng đi gỡ mìn trong trái tim của những kẻ khủng bố. Khi thiền sư nói như thế thì lời của ông lại đáng tin gấp hai lần. Bởi vì Thầy khuyến khích họ cố tìm bình an trong tâm hồn mình – cho dù trong thực tế, họ có cách gì làm khác hơn đâu – bởi vì Thầy cho rằng cơn giận của họ là hợp lý. Thầy Thích Nhất Hạnh – tên Hạnh có nghĩa là hạnh động – đã dạy một loại đạo Bụt dấn thân vừa làm thỏa mãn đầu óc thực dụng của người Hoa Kỳ, vừa nuôi dưỡng được nhu yếu khát khao tâm linh của họ. Đạo Bụt dấn thân này, đó là hình ảnh rất đặc thù (I’originalité), khuôn mặt không thể nhầm lẫn (I’image de marque) và ‘tính ăn khách’ (atout commercial) của thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Ngay trong những thập niên 1960, trên sân trường Đại Học Columbia ở Manhattan Nữu Ước, ông thầy tu trẻ Thích Nhất Hạnh, lúc đó đang nghiên cứu về môn tôn giáo tỷ giáo, đã bắt đầu tổ chức những cuộc diễn hành cho hòa bình rồi. “Hồi đó rất ít người nghe nói đến ông thầy tu trẻ này, nhưng đây là một ông thầy khá đặc biệt đã khiến chúng tôi chú ý vì ông chủ trương và kêu gọi miền Nam và miền Bắc Việt Nam hòa giải với nhau và với Hoa Kỳ. Ông không theo miền Bắc cũng như không theo miền Nam vì ông rất ngán chiến tranh”. Nhà văn và nhà nhân chủng học Joan  Halifax đã nhớ rõ như thế. Hiện giờ Halifax cũng đang ủng hộ những người bị kết án tử hình trong các nhà tù ở Hoa Kỳ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã gây được sự cảm phục của người thắng giải Nobel hòa bình năm 1964 là mục sư Martin Luther King. Ông này đã viết thư cho Ủy ban Nobel Hòa Bình ở Stockholm đã đề cử Thầy cho giải Hòa Bình sau đó. Nhưng thái độ độc lập phóng khoáng của thiền sư đã gây cho ông khá nhiều kẻ thù. Nhất là trong chính đất nước của ông mà đã có một thời ông đã bị đài phát thanh của ông Nguyễn Cao Kỳ cũng như của Hà Nội tố cáo ông. Một phần cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng có một cái nhìn không rõ rệt về ông. Có hơn một người Việt Nam ở hải ngoại đã xem ông như là người thân cộng vì những hoạt động hòa bình của ông.

“Đạo Bụt là đạo giúp người quay về nội tâm thiền quán. Trường hợp của thiền sư Thích Nhất Hạnh là ngoại lệ. Trong khi các tín hữu Phật Giáo, nhất là tín hữu của những thập niên 60 đã xem tôn giáo này như là nơi trú ẩn những xáo trộn của xã hội, thì thầy Thích Nhất Hạnh đã chứng minh bằng cuộc đời của Thầy, sự cần thiết dấn thân của đạo Bụt vào đời sống hằng ngày, ví dụ như là dấn thân cho hòa bình”. Giáo sư xã hội học Frédéric Lenoir, tác giả quyển sách La Rencontre du Bouddhisme et de l’Occident (Sự gặp gỡ giữa Phật Giáo và Tây Phương) đã giải thích như thế.

Ở Hoa Kỳ, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã hướng dẫn thực tập kỹ càng cho những cựu chiến binh Hoa Kỳ. Trong thời chiến, anh Lee Thorn  làm công tác tải bom lên các phi cơ đi oanh tạc các thôn Việt Nam và Lào. Bây giờ thì anh làm việc trong Hội Jhai chuyên bảo trợ những dự án hòa giải giữa những cựu chiến binh trong cuộc chiến tranh thảm khốc với người dân nạn nhân của những cuộc oanh tạc đó, như xây cất trường học, bệnh xá v.v.. “Tôi bắt đầu được nghe nói về thiền sư Thích Nhất Hạnh khi tôi trở về Hoa Kỳ và tôi cũng bắt đầu chống chiến tranh Việt Nam’’, anh Lee Thorn thuật như thế này. “Thầy thì yêu tất cả mọi người, còn chúng tôi thì không yêu ai hết. Tôi bắt đầu đọc sách của Thầy mỗi ngày và bắt đầu tu tập theo lời Thầy dạy. Điều mà tôi hiểu được nơi lời dạy của Thầy là tình thương quả là cần thiết cho thế giới chúng ta. Đấy, vì thế mà tôi bắt đầu làm dự án này để giúp đỡ nước Lào”.

Giáo sư Joan Halifax giải thích: “Thầy đã quán sát tâm lý người Tây Phương và đã làm cho đạo Bụt trở nên rất dễ hiểu cho họ. Đạo Bụt của Thầy thật đẹp, đơn giản và đi thẳng vào lòng người”. Sử dụng những phương tiện quảng bá cổ điển, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã sử dụng sách của Thầy như những ống loa để chuyền đi những thông điệp của Thầy. Một trong những đệ tử của Thầy, Arnold Kotler, đã lập một nhà xuất bản chỉ để in sách của Thầy. “Sách của tôi cũng giúp tôi nhiều lắm – Thầy cũng công nhận như thế”. Sách đó giúp độc giả nhận diện những khổ đau của họ qua những khổ đau mà tôi chia sẻ với họ và từ đó biết cách tu tập chuyển hóa như tôi đã đề nghị”.

“Tuy nhiên, nước Pháp đã chần chừ khá lâu mới chịu chấp nhận ảnh hưởng của ông thầy này, chần chừ trong suốt ba mươi năm qua, học giả Fréderic Lenoir nhận xét như thế”.

Nước ta (Pháp), ngay từ lúc đầu đã có sự say mê đạo Bụt Tây Tạng. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một người có phong thái thanh bạch và giản dị; ông đã không đến với nước Pháp như Phật Giáo Tây Tạng với nhiều hào quang bùa phép. Không có những nghi lễ kèn trống ầm ĩ, không y áo vàng nghệ, không cờ xí màu mè sặc sỡ, không chuông khánh, không bồ tát mặt xanh chuyên trừ ngạ quỷ. Đất nước Việt Nam cũng không gieo được trên tâm trí người Pháp, giữa Hergé và Alexandra David Noel, những ảnh hưởng kỳ bí như đất nước Tây Tạng.

Tuy nhiên, sách của Thầy giờ đây đang bán rất chạy trên nước Pháp. Trung bình là 30.000 cuốn mỗi lần xuất bản – có thể xem như là loại sách bán chạy nhất (best sellers) trong loại sách chuyên về tâm linh. Thiền sư nhờ vào sự mến mộ đạo Bụt hiện tại của người Pháp. Theo thống kê của bộ nội vụ là có khoảng 600.000 người tu tập đạo Bụt với ít nhiều tinh chuyên. Năm 1994, một cuộc thăm dò của hãng Sofres – Le Figaro cho biết hiện giờ đạo Bụt là đạo ưa thích nhất của hai triệu người Pháp. Ngày nay, theo sự điều tra của Psychologies – BVA, số người yêu thích đạo Bụt đã lên đến con số năm triệu.

Theo một số người, đạo Bụt là con đường có thể tạo lại được hứng khởi về sự diệu kỳ của thế giới mà rất đông người Âu Châu thao thức. “Tôn giáo này có cách đưa ta đi vào bằng con đường tuy duy lý mà không hề khô cứng, học giả Fréderic Lenoir giải thích như thế. Nó thu hút những người mệt mỏi vì tâm tư ưa phân tích, họ được lôi kéo bởi một hệ thống tâm linh vi tế hơn, không nhị nguyên và có đủ không gian cho trực giác”. Đạo Bụt đã dạo đúng cung đàn thời đại: chủ trương mỗi cá nhân phải tự lo lấy cho mình, mỗi người phải tự thắp đuốc lên mà đi, tự quán chiếu và tự chuyển hóa cho chính mình. Tôi phải lo giải thích cho tôi trước nhất.

 

“Tôi như một miếng sắt được rèn luyện trong ngọn lửa chiến tranh”.

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sinh trưởng tại Trung phần Việt Nam năm 1926, đã đi tu từ khi 16 tuổi. Thân phụ của Thầy làm việc trong chính phủ Nam Triều của vua Bảo Đại tương lai. “Tôi đã nghĩ rằng đạo Bụt có thể là một giải pháp giúp Việt Nam vượt thoát thể chế đô hộ của người Pháp, như là thánh Gandhi đã thành công bên Ấn độ”. Thầy nói như vậy. Sau khi tốt nghiệp cử nhân văn chương, ông viết sách dưới nhiều bút hiệu khác nhau và tu học với một thiền sư của thời đại của Thầy, thuộc dòng thiền Lâm Tế (một thiền sư vào thế kỷ thứ 9). Năm 1954, vào năm 24 tuổi, Thầy thành lập Phật Học Viện Ấn Quang mà sau đó đã trở thành chiếc nôi của những cuộc đấu tranh bất bạo động của người Phật tử chống chiến tranh Việt Nam từ 1963 đến 1975. Những vị xuất gia đã tự thiêu để chống chiến tranh đều là những người quen biết của Thầy.

Năm 1961, ông thầy tu trẻ này đi Hoa Kỳ để học hỏi thêm, ban đầu tại đại học Princeton, New Jersey và sau đó tại Đại học Columbia, New York. Trở về Sài Gòn, Thầy thành lập Viện Đại Học Vạn Hạnh, viện Đại Học Phật Giáo đầu tiên tại Việt Nam, rất khác với những Phật Học Viện dành cho các thầy tu theo truyền thống xưa. “Theo mẫu mực những trường đại học ở Hoa Kỳ – Giáo Sư Cường T Nguyễn đã giải thích như thế – ngoài những chứng chỉ về tôn giáo còn có những chứng chỉ về khoa học, chính trị hay kinh tế”. “Thầy Thích Nhất Hạnh muốn thành lập một trường dạy loại đạo Bụt rất thực tiễn hơn là lý thuyết – sư cô Chân Không đã giải thích như vậy. Đạo Bụt không dạy ta chỉ ngồi thiền dưới gốc cây mà thôi. Khi bom đạn rơi xuống tơi bời thì không thể nào ta ngồi yên dưới gốc cây để thiền quán mà phải đi băng bó người bị thương và cho các cháu đói ăn cơm”.

Thầy Thích Nhất Hạnh đã bắt đầu nổi tiếng vào thời đó. “Thầy rất được hâm mộ bởi hàng trí thức Phật Giáo. Giáo sư Cương T Nguyễn nhớ rõ như thế. Thầy cuốn hút tuổi trẻ vì Thầy là hiện thân của những giấc mơ của họ: Thầy có đi học bên Tây. Hơn nữa, những điều Thầy dạy rất tâm đắc với người trẻ”. Trong một đất nước chiến tranh, những thập niên đã làm nền tảng cho sự dấn thân của Thầy Thích Nhất Hạnh. “Tôi như một miếng sắt được rèn luyện trong ngọn lửa chiến tranh” – Thầy bảo. Thầy đã thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội một cách nhanh chóng, một tổ chức mà sau mười năm hoạt động đã có đến hàng ngàn người tự nguyện làm việc không lương trước khi bị cấm đoán bởi chính quyền cộng sản năm 1975, sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ. Hoạt động cứu khổ này vẫn còn được tiếp tục cho đến ngày nay. Sư cô Chân Không báo cáo là Thầy và học trò của Thầy đã gửi khoảng 50.000 Mỹ Kim mỗi tháng để giúp gần 1.100 lớp học mẫu giáo ở những làng nghèo khổ xa trong các miền kinh tế mới hay các miền núi chưa có trường học. “Đó là sứ mạng của một vị Bồ Tát đã khước từ Niết Bàn để ở lại độ người”. Ông Nguyễn Hữu Khoa, chủ tịch Portail Internet Buddha Line (Cửa vào đường dây của Bụt) đã phát biểu như vậy.

Năm 1996 thầy Nhất Hạnh bắt đầu lên tiếng kêu gọi chấm dứt chiến tranh Việt Nam và đi một vòng rất nhiều nước Âu Châu và Mỹ Châu. Thầy không ngờ là từ đó Thầy không còn được thấy lại quê hương Việt Nam của Thầy nữa. Vào năm 40 tuổi Thầy bị lưu đày. Thầy bị cấm đoán về nước. Chính quyền Sài Gòn cấm mà chính quyền Hà Nội cũng cấm. Những lời kêu gọi hòa bình của Thầy đã khiến cho cả hai bên bực bội và những công tác xã hội của Thầy cũng chỉ làm cho họ bực thêm. “Tôi là ông thầy tu đầu tiên dám đi xe đạp và cũng là người dám tổ chức thiền tọa trên bãi biển. Đó là cuộc cách mạng lớn của tôi”. Thầy vừa nói diễu vừa mỉm cười hóm hỉnh.

Năm 1968, thầy Thích Nhất Hạnh bước chân đến nước Pháp và đã không thành công lắm trong sự tham gia và ảnh hưởng vào những cuộc đàm phán của hội nghị Paris về Việt Nam. Thầy mở một trung tâm tu học ở Troyes cho một số người tị nạn đến tu tập từng đợt. Năm 1982, vì con số người đến tu học tăng vọt quá nhanh, thầy Nhất Hạnh mở một nơi tu học mới, đặt tên là Làng Mai (Village des Pruniers). Nông trại đầu tiên mua ở Loubès Bernac (tỉnh Lot & Garonne). Với 200.000 Mỹ kim tiền bản quyền của một cuốn sách của Thầy, Thầy đã mua trung tâm thứ ba ở Dieulivol (tỉnh Gionrde). Ngày nay Làng Mai có bảy cơ sở gọi là bảy “Xóm” hay là bảy nhóm nhà, nằm rải rác trên ba ngôi làng thuộc ba tỉnh miền tây nam nước Pháp.

Khi vừa tới Loubès Bernac, Thầy ra lệnh cho nhổ bỏ gần 2 mẫu nho làm rượu và cho trồng 1.250 cây mai (mận) ăn quả – 250 cây mỗi mẫu tây. Chuyện ngẫu nhiên nhưng Thầy cũng hay nhắc nhở là 1.250 cây mai này như là một nháy mắt ra hiệu của Bụt. Con số 1.250 là con số khá linh thiêng thường được nhắc đến trong các kinh: “Bụt thuyết pháp trước 1.250 vị đệ tử”. Sư cô Chân Không lại giải thích rất thực tế là: “Chúng tôi cũng muốn trồng những cây gì có thể đem lại ít tiền cho trung tâm tu học”. Mỗi năm trái mai (mận) sấy khô mang đến khoảng 20.000 quan để nuôi 130 người xuất gia tu học tại Làng Mai. Nhưng phần lớn nhờ vào tiền bản quyền sách của Thầy. Thầy Nhất Hạnh viết hơn 50 quyển sách, ngoài những cuốn đã in trong nhà xuất bản còn có những cuốn truyện dài, những tập thơ và nhất là những cuốn sách dạy nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Sách của Thầy bán rất chạy: nhà xuất bản ở Hoa Kỳ vừa trả 600.000 Mỹ kim cho cuốn sách sắp tới của Thầy. Những khách thập phương đến tu học cũng là một nguồn tài chánh đáng kể. Mỗi năm hơn 4.000 người đã từ xa tới nơi này tu học, một nơi được xem như là vùng đất cao điểm của đạo Bụt khiến cho dân địa phương cũng rất ngạc nhiên. “Mùa hè chúng tôi có gần 700 người tu tập mỗi tuần. Không đủ chỗ trong nhà, các bạn cắm lều cùng khắp. Trong mùa hè, chúng tôi phải đi mướn nhiều gites (nhà của dân địa phương cho mướn) quanh vùng cho những thiền sinh khách cần tiện nghi”.

Cuộc sống ở Làng Mai không nhàn hạ lắm đâu. Tiếng chuông thanh thoát vẫn không làm cho ta quên được rằng ta phải thức dậy lúc 5 giờ sáng. Trước khi ăn sáng, mọi người có hai giờ thiền tập. Khi không đi dạy xa, Thầy thường cho hai pháp thoại khá dài mỗi tuần: ngày thứ năm và ngày chủ nhật. Tất cả sự tu tập đều dựa trên hơi thở để giúp ta đạt tới trạng thái “chánh niệm” (Pleine Conscience). Trước khi ăn trưa, có một giờ tập đi trong chánh niệm gọi là đi thiền hành. Khi đi ta để cho bước chân với hơi thở quyện một cách hài hòa vào nhau, đi như thế về chắc ăn cơm ngon lắm. Sau giờ làm việc nhà trong chánh niệm (chấp tác) các thiền sinh còn theo học những môn khác (Phật giáo căn bản, thiền lạy, thiền buông thư, làm mới, uy nghi, giới luật …) và ngồi thiền một tiếng rưỡi trước khi đi ngủ. Sự “Im Lặng Hùng Tráng” về đêm rất cần thiết. Một ngày làm biếng mỗi tuần đã được ghi trong đời sống tu tập nghiêm mật của Làng Mai. Đôi khi thiền sư cũng biết đùa giỡn. Ngày 22 tháng 11 vừa qua, trong lúc đi thiền hành ngang một cây đầy lá vàng, Thầy bỗng dừng lại và rung cây để cho lá vàng rơi lả tả trên đầu các đệ tử. Cả đoàn người đều phá ra cười.

“Tôi hơi lo là người ta sẽ lý tưởng hóa Thầy thái quá, nhà nhân chủng học Joan Halifax cũng đã từng là học trò của Thầy. Một số đệ tử của Thầy than phiền là họ ít được dịp gần gũi Thầy”. “Có lẽ vì Thầy quá nổi tiếng, người thán phục thì nhiều mà sức khỏe Thầy thì mong manh nên Thầy ít có thì giờ trực tiếp với đệ tử. Đó là một vấn đề, bởi vì nếu mình muốn tu tập, sự liên hệ trực tiếp với Thầy mình quả thật là cần thiết. Chỉ có cách ấy Thầy mới trao truyền được nhiều cho mình”. Thầy Nhất Hạnh đi dạy các khóa tu ở khắp nơi mỗi năm nhiều tháng. Thầy đã mở hai tu viện ở Hoa Kỳ, một ở tiểu bang ở Vermont, miền Đông và một ở gần San Diego California, miền Tây. Từ sau ngày 11 tháng 9, Thầy khuyến khích chánh quyền Hoa Kỳ nên thành lập một hội đồng Nhân Sĩ mà vai trò chỉ là “ngồi lắng nghe nỗi khổ của người dân Hoa Kỳ trước tiên để có thể hiểu thêm nỗi khổ của kẻ mà ta thù hận. “Cũng như những hội đồng hòa giải ở Nam Phi, những buổi lắng nghe này có thể cho truyền thanh, truyền hình rộng rãi cho dân chúng theo dõi”. Thầy xác nhận như thế.

Năm 1995, Thầy bắt đầu đi Trung Quốc như một du khách, nhưng dần dà người ta đồn là có một vị đại sư đang du hành trong đất nước này – sư cô Chân Không nhắc lại – và khóa tu đã chấm dứt bằng một khóa tu ba ngày liên tục cho 600 ông thầy tu Trung Quốc. “Đi du lịch mà cũng dạy đạo được, thấy không?”, thầy Nhất Hạnh nhắc lại một cách hóm hỉnh. Sau chuyến đó Thầy đã được Hội Phật Giáo Trung Quốc mời trở lại trong Trung Hoa Lục Địa hai lần với sự đồng ý của nhà nước. Nhiều vị xuất gia tại Trung Hoa ngày nay đang hướng về và mong mỏi được tu tập với Thầy, học hỏi cái giáo pháp mà họ không được học dưới thời Mao Trạch Đông, – ông Nguyễn Hữu Khoa đã giải thích như thế – ảnh hưởng của Thầy về đạo Bụt trong một nước lớn nhất thế giới sẽ vô cùng lớn lao: rồi đây trong thế hệ tới, Thầy sẽ có nhiều đứa con tinh thần người Trung Quốc”. Trong khi đó thì, bản thân Thầy cũng như sách của Thầy, băng giảng của Thầy – băng hình cũng như băng nghe – vẫn còn bị cấm đoán trong nước của chính Thầy, nước Việt Nam. “Tôi không hiểu tại sao người ta đi sợ hãi một ông thầy tu tầm thường như tôi”. Thầy Nhất Hạnh đã than thở như thế. Một ông thầy tu tầm thường. Nhưng ông thầy này, với tất cả sự thong thả, và với cách làm việc rất có phương pháp của ông, ông đã quyết định giúp đạo Bụt chinh phục Tây phương về cho đạo Bụt.