Bài tụng mẫu mực về tám thức

1.    Bài tụng về năm thức đầu

Tánh cảnh, hiện lượng, thông ba tánh
Địa hai có nhãn, nhĩ và thân
Biến hành, biệt cảnh, mười một thiện
Trung hai, đại tám, si, tham, sân.

Chín, tám, bảy duyên cùng phối hợp
Năm thức đều nương tịnh sắc căn
Hai lìa, ba hợp ngắm trần thế
Kẻ dại hay lầm thức với căn.

Biến tướng, quán Không nhờ hậu đắc
Chứng rồi chưa hẳn đã như chân
Đại viên vừa hiện thành vô lậu
Vòng khổ dứt rồi chia ba thân.

2.    Bài tụng về thức thứ sáu

Ba tánh, ba lượng, thông ba cảnh
Ba cõi đi vòng dễ biết nhau
Tâm sở tương ứng năm mươi mốt
Thiện ác tùy thời phối hợp mau.

Tánh, giới, thọ kia thường biến đổi
Căn, tùy, tín… vẫn nối theo sau
Động thân, phát ngữ là chủ lực
Kéo về dẫn, mãn nghiệp mai sau.

Phát được sơ tâm địa Hoan hỷ
Câu sinh ngã chấp vẫn nằm sâu
Sau địa Viễn hành thành vô lậu
Quán sát tam thiên chiếu nhiệm mầu.

3.    Bài tụng về thức thứ bảy

Đới chất, hữu phú, thông tình, bản
Nương theo chấp ngã, lượng là phi
Biến hành, đại tám, tuệ biệt cảnh
Tham, si, ngã, mạn cứ tương tùy.

Tư lương, hằng, thẩm, đi theo ngã
Ngày đêm bằn bặt giấc hôn mê
Bốn hoặc, tám đại, cùng tương ứng
Sáu chuyển nương làm nhiễm tịnh y.

Trí Bình Đẳng sinh địa Hoan hỷ
Tới Vô Công Dụng ngã liền đi
Đến lúc hiện thân tha thọ dụng
Mười địa muôn phương độ khó gì?

4.    Bài tụng về thức thứ tám

Tánh kia vô phú, năm biến hành
Giới, Địa tùy theo nghiệp lực sinh
Nhị thừa chưa hiểu nên còn kẹt
Nên mãi còn đang bận luận tranh.

Mênh mông ba Tàng thật không cùng
Sông sâu gió cảnh sóng trào dâng
Nhận huân, giữ chủng, căn, thân, khí
Tới trước đi sau vai chủ nhân.

Địa tám từ đây rời bỏ Tạng
Tới Kim cương đạo Thục là không
Đại Viên Vô Cấu đồng thời hiện
Muôn cõi mười phương chiếu tận cùng.

八識規矩頌 玄奘大師造

前五識

性境現量通三性 
眼耳身三二地居 
徧行別境善十一 
中二大八貪瞋癡

五識同依淨色根 
九緣七八好相鄰 
合三離二觀塵世 
愚者難分識與根

變相觀空唯後得 
果中猶自不詮真 
圓明初發成無漏 
三類分身息苦輪

第六識

三性三量通三境
三界輪時易可知
相應心所五十一
善惡臨時別配之

性界受三恆轉易
根隨信等總相連
動身發語獨為最
引滿能招業力牽

發起初心歡喜地
俱生猶自現纏眠
遠行地後純無漏
觀察圓明照大千

第七識

帶質有覆通情本
隨緣執我量為非
八大徧行別境慧
貪癡我見慢相隨

恆審思量我相隨
有情日夜鎮昏迷
四惑八大相應起
六轉呼為染淨依

極喜初心平等性
無功用行我恆摧
如來現起他受用
十地菩薩所被機

第八識

性唯無覆五遍行
界地隨他業力生
二乘不了因迷執
由此能興論主諍

浩浩三藏不可窮
淵深七浪境為風
受薰持種根身器
去後來先作主公

不動地前纔捨藏
金剛道後異熟空
大圓無垢同時發
普照十方塵剎中

50 Bài tụng Duy Biểu

Tàng thức
1. Đất tâm
Tâm là đất gieo hạt
Mọi hạt giống chứa đầy
Tâm địa cũng chính là
Toàn thể hạt giống ấy
2. Các loại hạt giống
Hạt giống có nhiều loại
Sinh tử và Niết bàn
Mê ngộ và khổ vui
Danh xưng và tướng trạng
3. Không có gì mất đi
Hạt giống của thân tâm
Giới, địa và thế gian
Tất cả được cất chứa
Nên thức gọi là tàng
4. Trao truyền
Có hạt giống sẵn có
Có hạt giống trao truyền
Huân tập thời thơ ấu
Cả thời gian thai nghén
5. Hạt giống riêng và chung
Từ gia đình, bè bạn
Nơi xã hội học đường
Hạt giống nào cũng có
Tính cách riêng và chung
6. Phẩm chất của hạt giống
Giá trị một đời người
Tùy thuộc vào phẩm chất
Mọi hạt giống đang nằm
Trong chiều sâu tâm thức
7. Tập khí
Tác dụng A-lại-gia
Là tiếp nhận duy trì
Và làm biểu hiện ra
Hạt giống cùng tập khí
8. Các lĩnh vực nhận thức
Biểu biệt A-lại-gia
Là thế giới tánh cảnh
Độc ảnh và đới chất
Mười tám giới hình thành
9. Dị thục và giải thoát
Tất cả mọi hiện hành
Đều tự biểu cộng biểu
Dị thục khi dự vào
Giới và địa cũng thế
10. Năm tâm sở biến hành
Là vô phú vô ký
Vừa chuyển lại vừa hằng
Tàng thức luôn tương ưng
Năm tâm sở biến hành
11. Hữu lậu và vô lậu
Tuy vô thường vô ngã
Tàng thức vẫn gồm thu
Mọi pháp trong thế gian
Hữu lậu và vô lậu
12. Hạt giống và hiện hành
Hạt giống sanh hạt giống
Hạt giống sanh hiện hành
Hiện hành sanh hiện hành
Hiện hành sanh hạt giống
13. Tương tức tương nhập
Hạt giống hay hiện hành
Đều tương tức tương nhập
Một do tất cả thành
Tất cả đều do một
14. Vượt thoát ý niệm
Tàng không một không khác
Không chung cũng không riêng
Một và khác nương nhau
Chung và riêng triển chuyển.
15. Gương trí tuệ
Vô minh diệt minh sanh
Tàng chuyển thành vô lậu
Gương trí soi mười phương
Bạch tịnh và vô cấu
Mạt na thức
16. Vọng thức
Hạt giống của vô minh
Của triền sử ái nhiễm
Quấy động thành vọng thức
Khi danh sắc hiện hành
17. Tư lương
Nương vào A-lại-gia
Phát hiện thức Mạt-na
Tác dụng là tư lương
Níu lấy tàng làm ngã
18. Ngã tướng
Đối tượng của Mạt-na
Là ngã tướng đới chất
Phát sinh từ giao thoa
Giữa Ý và Tàng thức
19. Nhiễm tịnh y
Vì sáu chuyển thức khác
Đóng vai nhiễm tịnh y
Vừa thẩm lại vừa hằng
Hữu phú mà vô ký
20. Các tâm sở tương ưng
Tương ưng năm biến hành
Bốn phiền não và tuệ
Cùng tám thứ đại tùy
Đều hữu phú vô ký
21. Bóng theo hình
Cũng như bóng theo hình
Mạt-na theo tàng mãi
Là cơ chế tự tồn
Là bản năng dục ái
22. Phiền não đoạn
Sơ địa khi đạt tới
Dứt phiền não, sở tri
Bát địa hết câu sinh
A-lại-gia phóng khí
Ý thức
23. Căn và trần
Nương vào ý làm căn
Pháp trần làm đối tượng
Ý thức được phát sinh
Phạm vi nhận thức rộng
24. Phạm vi nhận thức
Thông ba tánh ba lượng
Tiếp thu cả ba cảnh
Đủ thiện, ác, bất định
Biệt cảnh và biến hành
25. Người làm vườn
Là gốc của thân khẩu
Có thẩm mà không hằng
Tạo tác nghiệp dẫn mãn
Đóng vai kẻ gieo trồng
26. Ý thức vắng mặt
Ý thức thường hiện hành
Trừ trong trời vô tưởng
Trong hai định vô tâm
Ngủ say và bất tỉnh
27. Trạng thái ý thức
Năm trạng thái ý thức
Là tán vị, độc đầu
Trong định hoặc điên loạn
Cùng trường hợp ngũ câu
Các thức cảm giác
28. Sóng trên nước
Năm thức cảm giác sinh
Dựa trên dòng ý thức
Phát hiện riêng hoặc chung
Như sóng nương trên nước
29. Nhận thức trực tiếp
Tánh cảnh và hiện lượng
Có ba tánh đầy đủ
Nhờ vào tịnh sắc căn
Và cảm giác trung khu
30. Tâm sở trong các thức cảm giác
Tâm sở là biến hành
Biệt cảnh, thiện, đại tùy
Trung tùy hai phiền não
Và cả tham, sân, si
Bản chất thực tại
31. Chủ thể và đối tượng
Thức luôn luôn bao hàm
Chủ thể và đối tượng
Tự, tha, trong và ngoài
Đều chỉ là ý niệm
32. Kiến phần, tướng phần và tự thể phần
Thức gồm có ba phần
Kiến, tướng và tự thể
Chủng tử và tâm hành
Tất cả đều như thế
33. Thức là biểu biệt
Sinh diệt tùy nhân duyên
Thức vốn là biểu biệt
Kiến và tướng nương nhau
Năng biệt và sở biệt
34. Luân hồi
Nơi tự biểu, cộng biểu
Ngã, vô ngã không hai
Luân hồi mỗi sát na
Bập bềnh sinh tử hải
35. Tương tức tương nhập
Thời, không và bốn đại
Đều do thức hiện bày
Tương tức và tương nhập
Dị thục từng phút giây
36. Không đến không đi
Nhân duyên đủ biểu hiện
Nhân duyên khuyết ẩn tàng
Không đi cũng không đến
Không có cũng không không
37. Nhân duyên
Hạt giống sinh hiện hành
Đó gọi là nhân duyên
Chủ thể nương đối tượng
Ta gọi sở duyên duyên
38. Các duyên khác
Điều kiện thuận hay nghịch
Đều là tăng thượng duyên
Vô gián duyên thứ tư
Là liên tục chuyển biến
39. Vọng thức và chân tâm
Nhân duyên có hai mặt
Vọng thức và Chân tâm
Vọng thức vì biến kế
Chân tâm do viên thành
40. Chân như
Biến kế huân vô minh
Kéo theo luân hồi, khổ
Viên thành mở tuệ giác
Hiển lộ cảnh Chân như
Con đường tu tập
41. Phương pháp thực tập
Quán chiếu tính Y tha
Vô minh thành tuệ giác
Luân hồi và Chân như
Tuy hai mà thành một
42. Hoa và rác
Trong rác sẵn có hoa
Trong hoa sẵn có rác
Hoa và rác không hai
Giác và mê tương tức
43. Chứng nhập tương tức
Không trốn chạy tử sinh
Quán chiếu cần niệm lực
Thấy được tính Y tha
Là chứng nhập tương tức
44. Đóa hoa chánh kiến
Nương hơi thở Chánh niệm
Tưới hạt giống Bồ đề
Chánh kiến là đóa hoa
Nở trên vùng ý thức
45. Mặt trời chánh niệm
Như ánh sáng mặt trời
Chiếu soi loài cây cảnh
Chánh niệm khi thắp lên
Chuyển hóa mọi tâm hành
46. Chuyển hóa gốc rễ
Nhận diện để chuyển hóa
Nội kết và tùy miên
Khi tập khí không còn
Quả chuyển y hiển hiện
47. Giây phút hiện tại
Phút hiện tại thu nhiếp
Quá khứ và vị lai
Bí quyết của chuyển y
Nằm trong giây hiện tại
48. Nương tựa tăng thân
Tu tập và chuyển hóa
Trong đời sống hàng ngày
Nương tựa vào tăng đoàn
Công phu mau nhìn thấy
49. Vô đắc
Không sinh cũng không diệt
Sinh tử là Niết bàn
Sở đắc là vô đắc
Không nắm cũng không buông
50. Vô úy
Lướt trên sóng sinh tử
Thuyền từ dạo biển mê
Nụ cười vô úy nở
Phiền não tức Bồ đề.

Tải về:

50 bài tụng Duy Biểu.PDF .DOC
50 Verses on the Consciousness.PDF.DOC
50 verses in chinese (唯表五十頌) .PDF.DOC

 

30 Bài tụng duy thức

The Thirty Verses of Vasubandhu (Triṁśikāvijñaptikārikāḥ)
 

Bản Việt dịch Duy thức tam thập tụng của thầy Nhất Hạnh

1.
Những biểu tượng ngã, pháp
Tuy hiện hành nhiều cách
Đều do thức chuyển hiện
Chuyển hiện nầy có ba:

2.
Là dị thục, tư lương
Rồi đến biểu biệt cảnh
Trước là A lại da
Dị thục, nhất thiết chủng

3.
Không biết được biểu biệt
Của chấp thọ và xứ
Thường tương ưng với xúc
Tác ý, thọ, tưởng, tư

4.
Và thọ là xả thọ
Lại vô phú vô ký
Xúc, vân vân cũng vậy
Lưu chuyển như dòng nước

5.
Tới La hán thì ngưng.
Nương nó khởi duyên nó
Là thức tên Mạt na
Tính chất là tư lượng

6.
Cùng với bốn phiền não
Đều hữu phú, vô ký:
Là ngã kiến, ngã si
Ngã mạn và ngã ái

7.
Sinh ở đâu theo đó
Xúc, vân vân cũng vậy
La hán, diệt tận định
Xuất thế đạo không còn

8.
Đó là thức thứ hai.
Thứ ba gồm sáu loại
Tức là biểu biệt cảnh
Đủ thiện, ác, vô ký

9.
Tương ưng các tâm sở
Biến hành, biệt cảnh, thiện,
Phiền não, tùy phiền não
Và ba loại cảm thọ.

10.
Đầu là xúc, vân vân
Rồi biệt cảnh là dục,
Thắng giải, niệm, định, tuệ
Thiện là tín, tàm, quý,

11.
Vô tham, hai thứ nữa,
Cần, an, bất phóng dật,
Hành xả cùng bất hại.
Phiền não: tham, sân, si,

12.
Lại có mạn, kiến, nghi
Rồi đến tùy phiền não
Là phẫn, hận và phú,
Não, tật, xan, rồi siểm

13.
Cuống, kiêu, hại, vô tàm
Vô quý rồi hôn trầm
Trạo cử và bất tín,
Giải đãi, dật, thất niệm,

14.
Tán loạn, bất chánh tri
Hối, miên và tầm, từ
Hai thứ, mỗi thứ hai
Đó là tùy phiền não.

15.
Nương vào thức căn bản
Năm thức tùy duyên hiện
Hoặc cùng hoặc không cùng
Như sóng nương vào nước

16.
Ý thức thường hiện khởi
Trừ ở cõi vô tưởng
Trong hai định vô tâm
Ngủ say và bất tỉnh

17.
Thức chuyển hiện làm nên
Phân biệt, bị phân biệt
Do đó đều là không
Tất cả chỉ là thức

18.
Vì thức đủ hạt giống
Nên chuyển hiện mọi cách
Nhờ sức triển chuyển ấy
Mọi thứ phân biệt sinh

19.
Vì tập khí của nghiệp
Và tập khí nhị thủ
Khi dị thục trước hết
Các dị thục sau sinh.

20.
Do chủ thể biến kế
Có đối tượng biến kế
Tự tính biến kế chấp
Vốn là không thật có.

21.
Tự tính y tha khởi
Do phân biệt duyên sinh
Tự tính viên thành thật
Là lìa hẳn tính trước

22.
Nên nó cùng y tha
Không khác, không không khác
Như các tính vô thường
Không này cũng không kia.

23.
Từ ba tự tính này
Lập nên ba vô tính
Vì thế mật ý nói
Mọi pháp đều vô tính

24.
Cái đầu là vô tính
Vì tự thân là không
Cái nhì là vô tính
Vì không tự có được

25.
Cái ba là vô tính
Vì thắng nghĩa các pháp
Vẫn là tính chân như
Và thật tính duy biểu

26.
Khi còn chưa an trú
Trong thể tính duy biểu
Thì tùy miên nhị thủ
Vẫn chưa thể phục diệt.

27.
Dù bảo trú thức tính
Nhưng nếu còn đối tượng
Thì vẫn chưa thật trú
Vì còn có sở đắc.

28.
Nhưng khi nơi đối tượng
Trí không thấy sở đắc
Thì thật trú thức tính
Vì nhị thủ đã lìa.

29.
Là vô tâm, vô đắc
Nên là trí xuất thế
Chuyển đổi được sở y
Nhờ lìa hai thô trọng.

30.
Là cảnh giới vô lậu
Bất tư nghì, thiện, thường
An lạc, giải thoát thân
Ấy pháp Mâu Ni lớn.

 

 唯識三十頌Duy thức tam thập tụng

1

由假說我法,  
有種種相轉。
彼依識所變,  
此能變唯三:

Do giả thuyết ngã pháp
Hữu chủng chủng tướng chuyển
Bỉ y thức sở biến
Thử năng biến duy tam

2

謂異熟、思量,
及了別境識。
初阿賴耶識,
異熟一切種

Vị Dị thục, Tư lương
Cập Liễu biệt cảnh thức
Sơ A lại da thức
Dị thục, Nhất thiết chủng

3

不可知執受,  
處了常與觸、
作、受、想、思,  
相應唯捨受。

Bất khả tri chấp, thọ
Xứ, liễu. Thường dữ xúc
Tác ý, thọ, tưởng, tư
Tương ưng duy xả thọ

4

是無覆無記,  
觸等亦如是,
恒轉如瀑流, 
阿羅漢位捨。

Thị vô phú vô ký
Xúc đẳng diệc như thị
Hằng chuyển như bộc lưu
A la hán vị xả

5

次第二能變,  
是識名末那,
依彼轉緣彼, 
思量為性相。

Thứ đệ nhị năng biến
Thị thức danh Mạt na
Y bỉ chuyển duyên bỉ
Tư lương vi tính tướng

6

四煩惱常俱,  
謂我癡、我見、
并我慢、我愛,  
及餘觸等俱。

Tứ phiền não thường câu
Vị: ngã si, ngã kiến
Tịnh ngã mạn, ngã ái
Cập dư xúc đẳng câu

7

有覆無記攝,  
隨所生所繫,
阿羅漢滅定, 
出世道無有。

Hữu phú vô ký nhiếp
Tùy sở sinh sở hệ
A la hán, Diệt định
Xuất thế đạo vô hữu

8

次第三能變,  
差別有六種,
了境為性相, 
善不善俱非。

Thứ đệ tam năng biến
Sai biệt hữu lục chủng
Liễu cảnh vi tính tướng
Thiện, bất thiện câu phi

9

此心所遍行、  
別境、善、煩惱、
隨煩惱、不定,  
皆三受相應。

Thử tâm sở biến hành
Biệt cảnh, thiện, phiền não
Tùy phiền não, bất định
Giai tam thọ tương ưng

10

初遍行觸等,  
次別境謂欲、
勝解、念、定、慧,  
所緣事不同。

Sơ biến hành xúc đẳng
Thứ biệt cảnh vị: dục
Thắng giải, niệm, định, tuệ
Sở duyên sự bất đồng

11

善謂信、慚、愧、  
無貪等三根,
勤、安、不放逸、  
行捨及不害。

Thiện vị: tín, tàm, quý
Vô tham đẳng tam căn
Cần, an, bất phóng dật
Hành xả cập bất hại

12

煩惱謂貪、瞋、  
癡、慢、疑、惡見。
隨煩惱謂忿、  
恨、覆、惱、嫉、慳、

Phiền não vị: tham, sân
Si, mạn, nghi, ác kiến
Tùy phiền não vị: phẫn
Hận, phú, não, tật, xan

13

誑、諂與害、憍、  
無慚及無愧、
掉舉與惛沈、  
不信并懈怠、

Cuống, siểm dữ hại, kiêu
Vô tàm cập vô quý
Trạo cử dữ hôn trầm
Bất tín tịnh giải đãi

14

放逸及失念、  
散亂、不正知。
不定謂悔、眠,  
尋、伺二各二。

Phóng dật cập thất niệm
Tán loạn, bất chánh tri
Bất định vị: hối, miên
Tầm, từ, nhị các nhị

15

依止根本識,  
五識隨緣現,
或俱或不俱,  
如濤波依水。

Y chỉ căn bản thức
Ngũ thức tùy duyên hiện
Hoặc câu hoặc bất câu
Như đào ba y thủy

16

意識常現起,  
除生無想天,
及無心二定,  
睡眠與悶絕。

Ý thức thường hiện khởi
Trừ sinh vô tưởng thiên
Cập vô tâm nhị định
Thùy miên dữ muộn tuyệt

17

是諸識轉變,  
分別、所分別,
由此彼皆無,  
故一切唯識。

Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt, sở phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Cố nhất thiết duy thức

18

由一切種識,  
如是如是變,
以展轉力故,  
彼彼分別生。

Do nhất thiết chủng thức
Như thị như thị biến
Dĩ triển chuyển lực cố
Bỉ bỉ phân biệt sinh

19

由諸業習氣、  
二取習氣俱,
前異熟既盡,  
復生餘異熟。

Do chư nghiệp tập khí
Nhị thủ tập khí câu
Tiền dị thục ký tận
Phục sinh dư dị thục

20

由彼彼遍計,  
遍計種種物,
此遍計所執,  
自性無所有。

Do bỉ bỉ biến kế
Biến kế chủng chủng vật
Thử biến kế sở chấp
Tự tính vô sở hữu

21

依他起自性,  
分別緣所生。
圓成實於彼,  
常遠離前性。

Y tha khởi tự tính
Phân biệt duyên sở sinh
Viên thành thật ư bỉ
Thường viễn ly tiền tính

22

故此與依他,  
非異非不異,
如無常等性,  
非不見此彼。

Cố thử dữ y tha
Phi dị phi bất dị
Như vô thường đẳng tính
Phi bất kiến thử bỉ

23

即依此三性,  
立彼三無性,
故佛密意說,  
一切法無性。

Tức y thử tam tính
Lập bỉ tam vô tính
Cố Phật mật ý thuyết
Nhất thiết pháp vô tính

24

初即相無性,  
次無自然性,
後由遠離前,  
所執我、法性。

Sơ tức tướng vô tính
Thứ vô tự nhiên tính
Hậu do viễn ly tiền
Sở chấp ngã pháp tính

25

此諸法勝義,  
亦即是真如,
常如其性故,  
即唯識實性。

Thử chư pháp thắng nghĩa
Diệc tức thị Chân như
Thường như kỳ tính cố
Tức Duy thức thật tánh

26

乃至未起識,  
求住唯識性,
於二取隨眠,  
猶未能伏滅。

Nãi chí vị khởi thức
Cầu trụ duy thức tính
Ư nhị thủ tùy miên
Do vị năng phục diệt

27

現前立少物,  
謂是唯識性,
以有所得故,  
非實住唯識。

Hiện tiền lập thiểu vật
Vị thị duy thức tánh
Dĩ hữu sở đắc cố
Phi thật trụ duy thức

28

若時於所緣,  
智都無所得,
爾時住唯識,  
離二取相故。

Nhược thời ư sở duyên
Trí đô vô sở đắc
Nhĩ thời trụ duy thức
Ly nhị thủ tương cố

29

無得不思議,  
是出世間智,
捨二麁重故,  
便證得轉依。

Vô đắc bất tư nghì
Thị xuất thế gian trí
Xả nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y

30

此即無漏界,  
不思議善常,
安樂解脫身,  
大牟尼名法。

Thử tức vô lậu giới
Bất tư nghì, thiện, thường
An lạc giải thoát thân
Đại Mâu Ni danh pháp.

 

51 tâm sở hữu pháp

Tiếng ViệtSanskritEnglishFrançais
 
徧行五5 tâm sở biến hànhSarvatraga5 Universals5 Universelles
xúcsparśacontactle contact
作意tác ýmanaskāraattentionl’attention
thọvedanāfeelingla sensation
tưởngsaṃjñāperceptionla perception
cetanāvolitionla volition
別境五5 tâm sở biệt cảnh
Viniyata5 Particulars5 Particulières
dụcchandaintentionl’intention
勝解thắng giảiadhimokadeterminationla détermination
niệmsmtimindfulnessla pleine conscience
địnhsamādhiconcentrationla concentration
tuệprajñā (mati)insightla compréhension
善十一11 tâm sở thiệnKuśala11 Wholesome11 Bénéfiques
tínśrāddhafaithla foi
tàmhrīinner shamela honte envers soi-même
quýapatrāpyashame before othersla honte vis-à-vis des autres
無貪vô thamalobhaabsence of cravingl’absence d’avidité
無瞋vô sânadveaabsence of hatredl’absence de colère
無癡vô siamohaabsence of ignorancel’absence d’ignorance
精進cầnvīryadiligence, energyle zèle, l’énergie
輕安khinh anpraśrabdhitranquility, easel’aisance
不放逸bất phóng dậtapramādavigilance, energyla vigilance
行捨hành xảupekṣāequanimityl’équanimité
不害bất hạiahiṃsānon harmingla non violence

一行
禪師添加

Thầy Nhất Hạnh
thêm
Wholesome M.F.
added by Thầy
Autres bénéfiques
ajoutées par Thầy
無畏vô úyabhayanon fearl’absence de peur
無憂vô ưuaśokaabsence of anxietyl’absence d’anxiété
kiênsthirastability, solidityla stabilité
từmaitrīloving kindnessla bonté aimante
bikaruṇācompassionla compassion
hỷmuditājoyla joie
khiêmsagauravatāhumilityl’humilité
lạcsukhahappinessle bonheur
清涼thanh lươngnirjvarafeverlessnessl’absence de fièvre
自在tự tạivāśikafreedom/sovereigntyla liberté
根本煩惱六6 căn bản
phiền não
Kleśa6 Primary
Unwholesome
6 Principales
Non Bénéfiques
thamrāgacraving, covetousnessl’avidité
sânpratighahatredla haine
simūḍhiignorance, confusionl’ignorance,la confusion
mạnmānaarrogancel’arrogance
nghivicikitsādoubt, suspicionle doute
惡見kiếndṛṣṭiwrong viewla vue fausse
隨煩惱二十20 tùy phiền não
được chia làm 3 phần
Upakleśa20 Secondary
Unwholesome
20 Secondaires
Non Bénéfiques
小隨煩惱十tiểu tùy: 1010 Minor Secondary
Unwholesome
10 Secondaires Mineures
Non Bénéfiques
忿phẫnkrodhaangerla colère
hậnupanāharesentment, enmityle ressentiment
phúmrakṣaconcealmentla dissimulation
nãopradāśamaliciousnessla malveillance
tậtīrṣyājealousyla jalousie
xanmātsaryaselfishness, parsimonyl’égoïsme
cuốngmāyādeceitfulness, fraudla tromperie
siểmśāṭhyaguilela duplicité
hạivihiṃsādesire to harmle désir de nuire
kiêumadapridela fierté
中隨煩惱二trung tùy: 22 Middle Secondary
Unwholesome
2 Secondaires Moyennes
Non Bénéfiques
無慚vô tàmāhrīkyalack of inner shamel’absence de honte envers soi-même
無愧vô quýanapatrāpyalack of shame before othersl’absence de honte vis-à-vis des autres
大隨煩惱八đại tùy: 88 Greater Secondary
Unwholesome
8 Secondaires Majeures
Non Bénéfiques
掉擧trạo cửauddhatyarestlessnessl’agitation
惛沉hôn trầmstyānadrowsinessla somnolence
不信bất tínāśraddhyālack of faith, unbeliefle manque de foi
懈怠giải đãipramādalazinessla paresse
放逸phóng dậtkausidyanegligencela négligence
失念thất niệmmuṣitasmṛtitāforgetfulnessl’oubli
散亂tán loạnvikṣepadistractionla distraction
不正知bất chánh triasaṃprajanyalack of discernmentle manque de discernement
一行禪師添加Thầy Nhất Hạnh
thêm
Unwholesome M.F.
added by Thầy
Autres non bénéfiques
ajoutées par Thầy
恐懼sợ hãibhayafearla peur
lo lắng (hồi hộp)śokaanxietyl’anxiété
絕望tuyệt vọngviṣādadespairle désespoir
不定四4 tâm sở bất địnhAniyata4 IndeterminateIndéterminées
hốikaukṛtyaregret, repentancele regret
miênmiddhasleepinessla torpeur
tầmvitarkainitial thoughtpensée initiale
từvicārasustained thoughtpensée d’investigation

Tài liệu

Trời Phương Ngoại

(Trích từ chương 3, tác phẩm “Thả một bè lau” – Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán; tác giả: Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

Bối cảnh: Khi nghe Kiều kể những chuyện oan ức mình đã trải qua, Từ Hải nổi giận cho hai đạo binh đi bắt hết cả những kẻ đã làm khổ Kiều, và cũng để mời luôn những người ơn của Kiều như bà quản gia, ni sư Giác Duyên và chàng Thúc Sinh về để Kiều được tạ ơn. Cuộc hành quân này thành công. Kiều đã báo ơn và trả thù bằng những phương tiện quyền lực của Từ Hải. Kiều muốn mời ni sư Giác Duyên ở lại chơi lâu hơn, nhưng ni sư không muốn. Và khi ni sư nói lời từ giã, ni sư bảo là theo lời tiên đoán của đạo cô Tam Hợp, năm năm nữa thì hai chị em sẽ lại được gặp nhau.

Việc nàng báo phục vừa rồi,
Giác Duyên vội đã gởi lời từ quy.

Sư chị ngán quá! Muốn về liền lập tức, không muốn ở thêm một giờ nào nữa trong chốn quân sự hãi hùng này. Chúng ta phải đi vào trong da thịt của sư chị để thấy. Sư chị bây giờ e ngại lắm, tuy rất thương sư em; không biết sư em sẽ đi về đâu nếu sư chị cứ tiếp tục như vậy. Nó đã rất đau khổ trong quá khứ, bây giờ báo thù được thì nó thấy nhẹ trong lòng. Đó là cái thấy của người đời. Nhưng người tu thì phải khác. Bây giờ sư chị đi, phải khiêng theo một ngàn lạng vàng và tất cả những tâm tư nặng nề tạo ra vì khung cảnh vừa rồi. Sư chị là người tu, dùng vàng để làm gì? Tu chỉnh Chiêu Ẩn Am? Một ngàn lạng vàng nặng lắm! Rồi thì ăn cướp, ăn trộm, làm sao? Khiêng một ngàn lạng vàng đi cũng khổ lắm! Không biết mình sẽ làm chuyện gì với số vàng này, và sư chị cảm thấy mất hết tất cả những an ninh của mình. Và nhất là lại mang theo niềm hoảng sợ và xót thương cho đứa em đồng đạo ngày xưa. Hãy để cho trí tưởng tượng của chúng ta đi theo để thấy sư chị rời khỏi trung tâm quân sự đó với tâm trạng nào.

Nàng rằng: ‘Thiên tải nhất thì,
‘Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
“Rồi đây bèo hợp mây tan,
‘Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!

Đây là những câu thơ rất hay. Bèo hợp mây tan là lý vô thường. Ngày hôm nay mình sống chung với nhạu là ‘bèo hợp’, biết đâu mai này mỗi người đi một ngã là ‘mây tan’. Vì vậy phải biết trân trọng những giờ phút của ngày hôm nay, phải có hạnh phúc trong giờ phút này. Hai chị em gặp được nhau là điều hiếm có, xa nhau rồi thì không biết bao giờ mới được gặp lại, ngồi chung, uống trà đàm đạo với nhau. Thúy Kiều thấy được điều đó.

Sư rằng: ‘Cũng chẳng mấy lâu,
‘Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.

– ‘Không lâu đâu! Trong năm năm nữa chị em mình sẽ được gặp nhau lại.’ Giống như là sư chị đã biết trước. Biết trước, không phải là do sư chị có tài bấm quẻ mà vì sư chị có quen với một đạo cô tu theo đạo Lão tiên đoán sự hội ngộ của hai chị em trong năm nay và trong năm năm nữa. Và vì đã gặp Thúy Kiều lần này đúng theo tiên đoán của đạo cô Tam Hợp nên sư chị tin rằng tiên đoán về lần hội ngộ thứ hai cũng sẽ đúng.

‘Nhớ ngày hành cước phương xa,
‘Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri.
‘Bảo cho hội ngộ chi kỳ,
‘Năm nay là một nữa thì năm năm.
‘Mới hay tiền định chẳng lầm.
‘Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
‘Còn nhìều ân ái với nhau,
‘Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?’

‘Hành cước’ (đi bộ) là sự thực tập của nhà tu. Nếu cái học của mình chưa tới, thì mình phải tìm thầy học đạo. Hành cước có khi gọi là đi vân thủy. Vân là mây, thủy là nước. Mây, nước luôn luôn đi. Người tu hành nếu chưa tìm được thầy, được pháp môn thì phải làm phận sự của mây và nước. Phải đi và đi bằng hai chân (hành cước) của mình chứ không đi ngựa, đi xe.

Những câu thơ này chứng tỏ sư chị Giác Duyên thương sư em Trạc Tuyền rất sâu sắc. Không biết có hiểu nhiều không nhưng có thương và muốn thương. Tình thương cao nhất là tình thương làm bằng cái hiểu. Biết sư em cần gì thì dạy sư em cái đó. Sư chị không biết sư em cần học kinh An Ban Thủ Ý, ru và chuyển hóa nội kết, nên đã không dạy. Sư chị chưa hiểu sư em bao nhiêu.

Nàng rằng: ‘Tiền định tiên tri,
‘Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
‘Họa bao giờ có gặp người,
‘Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân.’

– ‘Nếu sư chị có gặp lại đạo cô thì xin hỏi dùm về tương lai của em. Em không biết mình sẽ đi về đâu.’ “Tiền lộ mang mang bất tri hà vãng” là một câu trong Cảnh Sách. Bốn cuốn Luật Tiểu (luật nhỏ) của người tập sự đi tu gồm có: Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu, Mười Giới Sa Di và Sa Di Ni, Uy Nghi và Cảnh Sách. Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu là năm sáu chục bài thi kệ thực tập chánh niệm trong mọi động tác hàng ngày. Bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi, rửa tay, đi cầu, giặt áo… làm gì cũng có một bài kệ để thực tập thở ra, thở vào trong khi làm việc đó. Tỳ Ni Nhật Dụng thiết Yếu bản in mới có tên là Từng Bước Nở Hoa Sen. Mười Giới của Sa Di và Sa Di Ni bắt đầu bằng giới không sát sanh. Uy Nghi là phong thái của một nhà tu trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, hành xử. Ví dụ sử dụng phòng tắm, lên chánh điện, vào nhà bếp, đến nhà cư sĩ… phải làm như thế nào cho đúng phong thái một nhà tu. Sách xưa có 24 thiên uy nghi. Sách mới (Bước Tới Thảnh Thơi) có tới 39 chương, vì điều kiện sống và tiếp xúc có khác (ví dụ nghe điện thoại, vào siêu thị…) Cảnh Sách là những lời nhắc nhở của thiền sư Quy Sơn. Bài văn rất hay. Tất cả các sư cô, sư chú ngày xưa đều học thuộc lòng bằng chữ Nho.

“Tiền lộ mang mang bất tri hà vãng” là một câu trong Cảnh Sách, có nghĩa là: đường trước mờ mờ, không biết sẽ đi về đâu. Thúy Kiều cảm biết rằng cuộc đời mình còn nhiều sóng gió lắm, sau này không biết sẽ đi về đâu, vì vậy muốn nhờ sư chị Giác Duyên hỏi đạo cô Tam Hợp giúp mình. Muốn có một cái nhìn tổng quát về tương lai. Đó là nhu yếu của Thúy Kiều và cũng là nhu yếu của tất cả chúng ta. Ai cũng muốn biết tương lai cả cho nên mấy ông thầy chấm số tử vi túi mới có tiền. Nhưng mấy ông liệu có giỏi bằng đạo cô Tam Hợp không? Hay là tiền mất mà mình vẫn không có được cái nhìn rõ ràng nào về tương lai!

Trong đạo Bụt, có những điều mình biết nhờ tu học có chánh niệm. Nếu nắm được thân tâm mình thì đi về đâu mình cũng làm chủ được thân tâm, không đánh mất mình và mình không cần đến đạo cô Tam Hợp hay mấy ông thầy chấm số tử vi nữa. Vừa đỡ tốn tiền, vừa khỏi bị mang tiếng mê tín. Chỉ những người yếu bóng vía mới cần tới đạo cô và mấy ông thầy tướng số mà thôi.

Giác Duyên vâng dặn ân cần,
Tạ từ thoát đã dời chân cõi ngoài.

Sư chị Giác Duyên nhận lời Kiều và đi. Càng đi càng mau ra khỏi cõi này càng tốt. Cõi ngoài không phải cõi này. Có lẽ cụ Nguyễn Du đã dịch từ chữ phương ngoại: một không gian ở ngoài. Đọc thơ Nguyễn Du mà không biết về Phật học thì đôi khi cũng thiếu. Phương ngoại phương (space outside of space), trời phương ngoại. Đó là không gian nhưng cũng là loại không gian nằm ngoài không gian, vượt ra khỏi không gian thường của người đời. Chúng ta tìm tới cái không gian nằm ngoài không gian, thực tập tiếp xúc được với Tích Môn (historical dimension.) Người tu phải tiếp xúc với Bản Môn (utimate dimension.) ‘Cõi ngoài’ ở đây có nghĩa là phương ngoại phương, một phương trời không có những chuyện lên-xuống, ra-vào, ân-oán, tử-sinh, trong-ngoài, nhiều-một,… Sư chị biết chỉ ở trong cái khung trời phương ngoại đó, sư chị mới thật sự thoải mái mà thôi.

‘Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương’ là một câu thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ; có nghĩa là: ta chống gậy đi chơi ở trong khung trời phương ngoại chứ không đi chơi trong khung trời của thế gian. Tuệ Trung Thượng Sĩ, anh ruột của đại tướng Trần Hưng Đạo, là một thiền sư rất nổi tiếng của đời Trần. Trong khi Trần Hưng Đạo thành công về quân sự thì Tuệ Trung Thượng Sĩ thành công về thiền tập. Ngài có một thiền phong rất hùng vĩ. Khí văn, khí thơ và đạo lực của Tuệ Trung tương đương với thiền sư Lâm Tế bên Tàu. ‘Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương.’ Khung trời phương ngoại là cái chúng ta có thể bước vào bất cứ lúc nào chúng ta muốn. Đó là khung trời thoải mái của giải thoát, của niết bàn. Phải đi trong không gian của phương ngoại thì mới thật sự có hạnh phúc. Còn nếu tu mà vẫn đi ở phương nội thì chưa có hạnh phúc.

Giác Duyên vâng dặn ân cần,
Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài.

Rất hay! Mà đâu có cần chữ nghĩa nhiều! ‘Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài.’ Chỉ cần đưa tay nói ‘goodbye’ một cái là tự nhiên từ cõi của sầu đau và tranh chấp ta đi ngay được vào cõi của thênh thang, nhẹ nhàng, giải thoát. Câu này là một câu chúng ta có thể viết treo ở thiền viện. Tạ từ: thôi, không ăn thua nữa trong cuộc đời! Thoắt đã dời chân cõi ngoài: giải thoát có thể thực hiện được trong một cái búng tay. Giã biệt tất cả những phiền não, tranh chấp trong cuộc đời để được có tự do. Và chỉ khi nào mình giải thoát tự do mình mới giúp được người mà thôi.

Tháng 1974, trong khi làm việc cho hòa bình và gây quỹ giúp các cô nhi ở Việt Nam, tôi có bài thơ Trời Phương Ngoại:

Người đi trên đất mắt nhìn trời
Chim liệng từng không mây trắng bay
Một bàn tay đưa cho nắng ngọt
Một bàn tay giữ con đường mây
Lá xanh tháng tư mặt trời lọc
Đi qua rừng cây mà không hay
Búp tay hoa sen vừa hé mở
Vũ trụ sáng nay đã ngất ngây
Trà khuya bay khói thơ không chữ
Thơ chở trà lên tận đỉnh mây
Núi cao mưa lạnh vùng biên ải
Vi vút sau đèo gió gọi cây
Đỉnh tuyết trời quang bừng cảnh mộng
Giác ngộ tung về đóa mãn khai,
Đất xa mầu nhiệm thơm tình mẹ
Hoa nở tràn gian ước kịp ngày.
Thương bé bơ vơ mùa loạn lạc
Sen vàng bướm gửi khắp trời Tây
Tờ hoa nhạc hội bừng chiêng trống
Xóm dưới thôn trên dán chặt đầy
Mắc nối đường dây trăm xứ lạ
Ân nghĩa bên trời mãi dựng xây
Ngục thất ba trăm còn tuyệt thực
Mòn chân du thuyết hết đêm ngày.
Tháng Tư đồng nội trăm hoa nở
Mong ước ôm đầy hai cánh tay
Sắc xuân rực rỡ trời phương ngoại
Thơ hát yêu thương rộng tháng ngày
Gối mộng mây xa về lối cũ
Ngược dòng sông lạ đến tìm ai.

Đọc thêm sách “Thả một bè lau”

Trả về cho non sông

Ngày 18 tháng 07 năm 1974,
Các em tác viên Thanh niên Phụng sự xã hội,

Hồi sáng tôi có đọc một lá thư từ nhà gửi qua, tỏ vẻ lo lắng về “cuộc đất” của trường. Mỗi lần có tai nạn xảy ra cho trường là những lo lắng về địa lý lại có dịp sống lại. Không phải là tôi không tin nơi địa lý, nhưng tôi thấy “tâm lý” quan trọng hơn “địa lý” nhiều. Chùa Pháp Vân ngảnh mặt về hướng nào mới đúng? Cố nhiên là ngảnh mặt về phía quần chúng. Ngảnh lưng về phía quần chúng thì buồn cười quá đi, phải không các em?

Đất nước mình bị tai họa liên miên trong mấy chục năm nay có phải vì địa lý xấu không? Điện Thái Hòa, phủ Chủ Tịch và phủ Tổng Thống đã đặt hướng sai phải không? Theo mấy ông thầy địa lý, có lẽ ta phải thay hướng tất cả mọi tòa nhà hành chánh từ cấp trung ương đến cấp xã ấp. Nhưng chúng ta biết rằng tâm lý quan trọng hơn địa lý: chiến tranh và tai nạn phát xuất từ lòng người. Tâm bình thì thế giới bình, ai cũng biết điều đó, nhưng không mấy ai chịu bình tâm trước khi bình thiên hạ. Câu “nồi da xáo thịt” và câu “gà một nhà bôi mặt đá nhau” đứa bé nào cũng học thuộc nhưng không mấy ai khôn lớn mà lại biết thực hành nguyên tắc khôn ngoan kia để tránh cái cảnh tương tàn, tương sát. Trường TNPSXH từ ngày thành lập, đã gánh chịu nhiều tổn thất. Bao nhiêu người chết, bao nhiêu người bị thương tích. Mỗi lần có tai nạn xảy đến như thế, mỗi người trong chúng ta đều thấy chết trong lòng một phần, và bị thương tích trong trái tim một ít. Hiện Hương và Vinh đang ở bên cạnh tôi, cả hai người đều mang thương tích nhưng thương tích mà tôi mang trong lòng không phải là không đớn đau bằng. Liên, Vui, Hy, Tuấn, Thơ, Lành, chú Trí và bảy người đồng tán toán công tác, chị Nhất Chi Mai, thầy Thanh Văn, thầy Châu Toàn… và Diệu, Xuân, Kê, Út, Lành, ngọc, Nguyện, Triều, Kỷ. Chúng ta là ai mà có thể tránh được thiệt hại, trong lúc toàn dân đang gánh chịu khổ đau? Chúng ta chia xẻ đau xót với dân tộc, chúng ta nhận phần đau thương của chúng ta. Bao nhiêu người đã chết vì bom đạn và hận thù. Những người đang mang thương tích và những người ra đã ra đi, trong chúng ta, là những người chưa hề đem hận thù gieo rắc. Hồi tháng bảy năm 1967 khi nghe tin Hy, Tuấn, Thơ và Lành bị giết, tôi viết:

Có mặt đồng bào
Có mặt các chị, các anh
Máu của các em, tôi xin trả về cho non sông
Xương của các em, tôi xin trả về cho non sông
Máu xương đó trinh nguyên
Chưa bao giờ làm hoen ố giống Lạc Hồng
Còn những bàn tay các em
Tôi xin trả về cho nhân loại
Những bàn tay kia
Chưa bao giờ gây tàn hại
Những trái tim kia
Từ thời thơ ấu
Chưa bao giờ nhận gửi máu hờn căm

Và còn da các em đây, xin gửi trả về cho đồng bào
Các em chưa bao giờ chấp nhận cảnh nồi da xáo thịt
Xin hãy dùng những mảnh da các em đây
Mà vá lại
Những đường rạch
Những vết cắt rướm máu
Trên thân hình dân tộc thương đau”.

Tất cả chúng ta, những người đã bị thương tích hay đã ra đi đều đã chấp nhận sự hy sinh và những đớn đau với tâm niệm không oán thù. Tay chúng ta, may mắn thay, chưa từng dính máu đồng bào. Công lao chúng ta không có bao lắm, không đáng kể gì, nhưng chúng ta đã biết từ chối bạo lực. Tôi biết thế nên khuyên các em đừng nên đau xót lắm. Tôi khuyên các em, nhưng cũng là để khuyên tôi. Thương những người đã ra đi, ta biết thương những người còn ở lại. Ta phải sống với nhau cho xứng đáng. Đừng để khi mất đi người đồng sự ta mới biết tiếc nuối. Sống thì bắt nhịn đói nhịn khát. Chết đi mới làm cỗ bàn linh đình để hiến cho những con ruồi. Chúng ta hay lãng quên. Vì những tị hiềm phân bì nho nhỏ, chúng ta không cho nhau những ngọt ngào thương mến. Ta làm việc để thỏa mãn ước vọng thương yêu, đâu phải để kể công hay tích tụ phước đức. Người đồng sự của ta không làm được như ta, điều đó đâu có thể là nguyên nhân khiến ta ngưng bớt công việc của ta. Tôi nghe người ta nói các em làm việc giỏi. Điều đó chưa đủ cho chúng ta mừng. Điều quan trọng nhất chưa phải là làm việc giỏi. Điều quan trọng nhất là thương yêu nhau, và biết sống hạnh phúc bên nhau. Chúng ta làm việc cho hòa bình, thì chúng ta xây dựng hòa bình trong lòng ta và trong gia đình ta, có phải không?

Tại vì tôi nghĩ TNPSXH là một gia đình, nên tôi mới gọi các em là em. Nếu không tôi đã viết: các anh, các chị tác viên. Không phải tôi thân cận với các em khóa một hơn các em khóa hai và khóa ba. Có em tôi chưa được gặp, nhưng không phải vì thế mà tôi có cảm tưởng xa lạ khi nghĩ đến các em. Tôi nghĩ có thể rằng các em khóa ba mà ít chấp chặt và ít thành kiến hơn một vài em khóa một. Khóa nào thì cũng là TNPSXH. Khóa nào cũng chấp nhận đường lối xây dựng bất bạo động, từ bỏ bạo lực, phá trừ hận thù, xây dựng hòa giải. TNPSXH là một cái bè đưa ta tới bờ phụng sự, không phải là một gia tài để nâng niu, không phải một tượng thần để thờ cúng, không phải một cái Ngã để tô điểm. Các em đừng sợ mất TNPSXH, mà chỉ nên sợ mất tình thương và ý chí phụng sự. Khi nào thấy không khí TNPSXH khó thở quá thì bỏ mà đi quách; ra ngoài mà thực hiện lý tưởng thương yêu. Có biết bao người không còn trong TNPSXH nhưng đời sống của họ vẫn là một sự tiếp nối của lý tưởng phụng sự bất bạo động.

Em, tôi buồn lắm. Thầy Châu Toàn có hứa với tôi là sẽ tìm đất làm một làng TNPSXH, trong đó mỗi chúng ta có một lô đất để làm nhà và làm vườn. Đi đâu thì chúng ta cũng có một cái nhà và một cái vườn để tìm về, để nhớ, để thương. Tôi định gặp thầy Châu Toàn để nói: cho tôi một lô đất không xa lô đất của em để làm nhà và làm vườn (hồi sinh tiền thầy, tôi luôn gọi thầy là em). Và tôi xin thầy duy trì tất cả những cây lớn nhỏ mà có giá trị nghệ thuật trong khu đất làng. Tôi còn mơ ước có nhiều tảng đá lớn, và một con suối chảy qua làng. Em cũng có một lô đất, tôi cũng có một lô đất, Vinh cũng có một lô đất, Hương cũng có một lô đất, thầy Châu Toàn cũng có một lô đất… Chúng ta sẽ làm nhiều công viên nho nhỏ. Làng chúng ta sẽ mát dịu sáng trong như tình thương. Tôi tin thầy Châu Toàn có thể cộng tác với các em để tạo ra một khu làng đẹp đẽ như thể, bởi tôi biết thầy Châu Toàn là một chân nghệ sĩ. Thầy là vị tăng sĩ cắm hoa đẹp nhất mà tôi quen biết. Tôi biết nếu giao thầy việc làm làng cho chúng ta thì ta sẽ có làng rất đẹp, bởi vì tôi tin ở khả năng thẩm mỹ của thầy.

Ngày xưa chúng ta có Phương Bối, cũng là một nơi nương tựa của trường. Khi Phương Bối mất an ninh, ta có Trúc Lâm. Chắc chắn các em đã được hưởng những giờ phút an lạc ở trong lòng chiếc nôi tâm linh đó. Nhưng nay thầy Châu Toàn không còn nữa, một cây cổ thụ đã bị đổ ngã rồi. Làng TNPSXH, mà tôi muốn đặt tên là làng Hồng nếu ở đó ta trồng nhiều cây hồng ăn trái hoặc là làng Mai nếu ở đó ta trồng nhiều hoa mai, chưa thành hình thì thầy đã ra đi. Tôi mắc kẹt bên này chưa về được, vừa xót xa vừa trống lạnh. Tôi chẳng giúp gì cho các em được cả, nội một chuyện viết thư cho các em mà cũng chẳng viết được thường xuyên.

Thế nào các em cũng làm cho được làng Hồng, các em nhé. Tôi sẽ viết thư cho anh Thiều, cho thầy giám đốc mới. Chúng ta sẽ để dành nơi làm một công viên kỷ niệm chị Nhất Chi Mai, thầy Thanh Văn, thầy Châu Toàn và những anh em khác. Các em tìm cho ra một nơi có đất tốt, cây xanh, có đá, có nước. Tôi mê những thứ đó. Cây đá và nước là những thứ đẹp nhất: những thứ đó chữa lành thương tích của chúng ta. Và các em hãy cho tôi một lô đất trong làng ấy nhé. Tôi sẽ làm nhà, và xung quanh tôi sẽ trồng rau và rất nhiều rau thơm như ngò, tía tô, kinh giới, bạc hà, tần ô, lá lốt, thì là, vân vân. Khi em đến chơi thế nào tôi cũng đãi em một bát canh có rau thơm rắc lên trên mặt bát.

Mỗi năm, ta có ít nhất một tháng tĩnh tu tại làng, không hoạt động gì hết. Cả ngày ta đối diện với đá, với nước, với cây; cả ngày ta đối diện với chính ta. Trồng rau, tỉa đậu, chơi với các cháu nhà bên, ta tìm lại ta, chữa lành thương tích, trang bị thương yêu để sẵn sàng trở lại môi trường phụng sự. Tôi về thì tôi sẽ ở giữ làng cho các em. Tôi sẽ ra cổng làng đón từng em, tôi sẽ ngồi lắng nghe các em than thở, phân trần. Rồi tôi sẽ đưa các em về nhà em. Và chiều hôm đó tôi sẽ mở hội mừng em, mời trẻ em trong xóm đến ca hát. Tôi sẽ đọc cho em những bài thơ mà tôi viết để ca tụng tình thương và những bàn tay cần mẫn của các em, cùng những hoa lá các em làm xanh tốt trên mọi nẻo đường. Tôi thấy một làng và đem về làng cho các em những người anh những người chị những người mẹ để săn sóc cho em khi em cần đến sự săn sóc.

Thầy Châu Toàn tôi quen từ hồi thầy còn tám tuổi. Thầy đến tu viện của tôi trên núi Dương Xuân để hái hoa về trang trí cho ngày giỗ tổ tại chùa Trà Am. Thầy lúc ấy là chú điệu Hòa. Hòa leo lên cây hoa đại (tức là hoa sứ) hái từng giỏ hoa trắng muốt. Nhưng một cành hoa đại gảy, Hòa té xuống đất, gảy xương ống chân. Thầy Mật Thể (tác giả sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược) bổn sư của Hòa phải đưa Hòa vào bệnh viện, thầy ngồi hàng giờ trong bệnh viện với Hòa.

Rồi Hòa được gửi vào học Phật học đường Báo Quốc Huế, sau này mới có tên Hoàng Minh và pháp danh Châu Toàn. Năm 1952, tôi mời thầy Châu Toàn vào Nam, vừa để học thêm sinh ngữ, vừa để sống chung với nhau. Thầy Châu Toàn có viết vài truyện ngắn. Có một lần tôi nghe thầy kể về cốt chuyện của truyện “lỡ hẹn” mà thầy định viết (hoặc đã viết mà bản thảo không còn). Cốt chuyện ấy như sau. Một em bé nhà nghèo phải xa mẹ đi làm ăn chốn xa. Một hôm được biết trong tháng tới em sẽ phải đi tới một làng xa để nhận việc, và sẽ đi xe lửa ngang qua làng mình, em mới viết thư cho mẹ: “Mẹ ơi, ngày thứ hai tuần tới con sẽ đi xe lửa ghé qua làng mình năm phút. Xin mẹ ra ga cho con thăm, kẻo con nhớ mẹ quá. Và mẹ đem cho con vài cái bánh ít của mẹ làm, kẻo lâu nay con không được ăn bánh ít ngon của mẹ. Xe lửa sẽ đổ lại chừng năm phút”. Cậu bé trông mãi đến ngày khởi hành. Còn mười lăm phút nữa xe lửa sẽ ghé làng. Cậu nóng ruột. Cậu nhìn ra ngoài. Rồi cậu ra đứng sát cửa toa xe. Xe lửa hét lên một tiếng. Rồi từ từ ngừng lại. Cậu bé nhìn xớn xác. Không thấy hình bóng mẹ. Một phút, hai phút. Rồi ba phút, bốn phút. Cậu nhìn ra con đường đất từ xóm ra ga: không có một bóng người. Năm phút. Xe lửa lại mở còi, bánh xe từ từ lăn trên đường sắt. Mắt cậu bé vẫn dán vào con đường làng. Không có bóng người. Xe bắt đầu lăn tốc độ rằm rập. Cậu bé khóc nước mặt nhòe cả lũy tre và con đường làng. Bỗng cậu gạt nước mắt, trố mắt nhìn. Trên con đường làng đất đỏ, bóng một thiếu phụ, đầu đội một chiếc rổ con. Đúng là bà mẹ của cậu bé. Thấy xe đã chạy rồi, bà đứng dừng lại. Bà nhìn theo con tàu. Cậu bé đưa tay vẫy mẹ, nhưng tàu đã chạy khuất. Cậu trông thấy mẹ, nhưng mẹ không thấy cậu, cậu đứng trên xe, khóc như mưa. Một người hành khách nắm cánh tay cậu đưa vào trong toa.

Trong một khóa tu cách đây chừng hai tháng, thầy Châu Toàn viết cho tôi: “Em mong có hòa bình để ra Quảng Bình tìm lại mẹ, mong rằng bà còn sống”. Không biết mẹ thầy còn sống hay không nhưng thầy không còn có dịp gặp mẹ nữa. Lời ước hẹn đã không được thành tựu. Ngày thầy mất 24.6.74, là ngày tôi ước hẹn gặp thầy ở Vạn Tường để bàn chuyện làm làng Hồng. Nhưng tôi đã không được gặp thầy. Nhận được tin dữ, tôi đóng cửa phòng một ngày. Tôi như một gốc cây bị đốn ngã. Tôi đánh điện về an ủi các em  nhưng tôi thì không an ủi được, sao trên đời có những chuyện “lỡ hẹn” đớn đau đến thế, hả em?

Tôi đọc kinh cầu nguyện cho thầy, cho tôi, và cho các em. Tôi viết những dòng này cho các em trong khi bên ngoài gió thổi rất mạnh. Tôi xin các em tạm nghỉ công việc một vài ngày. Chúng ta hãy nhìn lại nhau, để biết thương nhau hơn. Tôi gửi em tất cả niềm tin cậy của tôi.

Lời chúc đầu năm của Sư Ông Làng Mai

Tôi xin chúc đại chúng một Năm Mới có nhiều tiến bộ trong sự tu tập và đạt được nhiều năng lượng an lạc, hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và đoàn thể của mình.

Tôi thấy rằng chúng ta là những người rất may mắn, tại vì chúng ta có một gia đình tâm linh, chúng ta có một tăng thân. Ngày xưa Đức Thế Tôn cũng có một tăng thân, và tăng thân của Đức Thế Tôn là sự nghiệp của Ngài. Ngài đã để hết tâm lực để xây dựng một tăng thân có thể đại diện cho Ngài và tiếp nối sự nghiệp của Ngài.

Chúng ta biết rằng tăng thân là đoàn thể của những người cùng một lý tưởng; trong tăng thân có tình huynh đệ và có hạnh phúc. Nếu mình đích thực là một tế bào trong cơ thể của tăng thân thì mỗi ngày mình đều có thể chế tác được năng lượng của niệm, định, tuệ, của bình an và hạnh phúc. Và chế tác ra như vậy là để mình tự nuôi mình, và để nuôi tất cả những thành phần khác của tăng thân.

Là một tế bào trong tăng thân là một vinh dự lớn. Nếu tế bào đó bị đẩy ra khỏi tăng thân thì đó là một sự mất mát rất lớn, cho nên nếu mình còn là một tế bào trong tăng thân thì mình có rất nhiều hạnh phúc. Có những người trong chúng ta không đủ phước cho nên đã bị cắt ly tăng thân. Không có tăng thân là một niềm đau rất lớn.

Những người trong chúng ta đang còn là những tế bào trong tăng thân, chúng ta phải thấy rằng chúng ta còn hạnh phúc, tại vì trong Tăng thân có Phật thân. Nếu mình là một tế bào trong tăng thân thì đồng thời mình cũng là một tế bào trong Phật thân. Vinh dự biết bao nhiêu khi được là một tế bào trong hình hài của Bụt, để nối tiếp sự nghiệp của Đức Thế Tôn.

Ngày xưa sau khi thành đạo, Đức Thế Tôn biết rõ là nếu không có tăng thân thì Ngài không làm được sự nghiệp của Ngài, cho nên ngay sau khi thành đạo, Ngài đã đi tìm những người cùng chí hướng để thành lập tăng thân. Và tăng thân của Ngài rất hùng hậu. Chúng ta biết rằng mỗi người trong chúng ta đều có một ước mơ. Và ước mơ đó không thể nào thực hiện được nếu không có tăng thân.

Tăng thân là một hình hài trong đó có nhiều tế bào, và tất cả tế bào đó đều cùng chung một lý tưởng, một ước mơ. Ước mơ đó là làm thế nào để cho cuộc đời này bớt khổ và có hạnh phúc thêm. Ước mơ đơn giản nhưng rất sâu sắc. Và chúng ta biết rằng dù có tài ba cách mấy mà không có tăng thân thì chúng ta cũng không thể nào thực hiện được ước mơ đó. Còn ở trong tăng thân như một tế bào của tăng thân, chúng ta đồng thời là một tế bào trong Phật thân và chúng ta đang tiếp nối sự nghiệp của Đức Thế Tôn. Chỉ cần nhắc nhở mình chuyện đó thôi, chúng ta đã tràn đầy hạnh phúc rồi. Chúng ta không cần đi kiếm một hạnh phúc nào khác nữa.

Trong tăng thân chúng ta đã có những người chứng được quả gọi là “đã về đã tới”, nghĩa là cảm thấy hạnh phúc khi sống trong tăng thân, không muốn đi tìm điều gì nữa, thấy mình mỗi ngày đang cùng với Tăng thân thực hiện được chí nguyện độ đời giúp người. Chúng ta tổ chức những ngày tu, những khóa tu, giúp cho người lớn, trẻ em, những người thuộc các tôn giáo khác có thể chuyển hóa để có thể hòa giải được với nhau. Đó là chuyện chúng ta được làm mỗi ngày.

Chúng ta thấy kết quả của sự tu học cũng như công trình phụng sự của chúng ta đang xảy ra mỗi ngày và cái đó nuôi dưỡng chúng ta. Vì thấy được điều đó cho nên chúng ta cảm thấy thoải mái trong Tăng thân, cảm thấy mình rất bình an ở trong Tăng thân và không muốn đi đâu nữa. Chúng ta chứng được quả mà Làng Mai gọi là “đã về đã tới”, không cần đi đâu nữa hết, không cần mong ước gì nữa vì những mong ước của mình đang từ từ được thực hiện mỗi ngày.

Thành ra hôm nay là ngày Tết, điều quan trọng nhất mà mình cần nhắc nhau là: chúng ta đang có rất nhiều may mắn; mỗi ngày chúng ta đang chế tác thêm bình an, hạnh phúc, tình huynh đệ, niệm, định và tuệ; và nhờ sự có mặt của Tăng thân mà chúng ta tiếp nối được sự nghiệp của Đức Thế Tôn. Thầy xin kính chúc tất cả đại chúng, xuất gia cũng như tại gia, suốt năm nay nên nhớ tới điều đó và chứng được quả “đã về đã tới” – điều này không khó mấy, nếu chứng được quả đó thì có hạnh phúc liền lập tức và mình có thể duy trì được hạnh phúc đó trong suốt cả năm. Nên nhớ cuộc đời vô thường.

Chúng ta biết rằng nhu yếu tu học trên thế giới rất lớn, mà Tăng đoàn của chúng ta – những người xuất gia và tại gia làm công việc tổ chức tu học – vẫn còn thiếu người. Chúng ta cần hàng ngàn vị giáo thọ nữa, cả xuất gia và tại gia, để có thể thỏa mãn nhu yếu tu học rất lớn trên thế giới. Do đó Thầy xin chúc quý vị một năm mới có thêm nhiều sư em, nhiều giáo thọ cư sĩ để chúng ta có thể thỏa mãn nhiều hơn nhu yếu tu học trên thế giới.

Chúng ta nên nhớ rằng: nếu chúng ta có tình huynh đệ, nếu chúng ta có hạnh phúc trong đời sống hàng ngày thì thế nào lý tưởng của chúng ta cũng sẽ được thành tựu viên mãn.

Lá cũng là mẹ của cây

Một ngày mùa thu, khi đi dạo chơi trong một công viên, tôi bắt gặp một chiếc lá đỏ rất đẹp hình trái tim đang đong đưa trên cành. Tôi đứng nhìn và nói chuyện với chiếc lá rất lâu. Tôi chợt khám phá ra rằng chiếc lá là mẹ của cây.

Bình thường ta nghĩ rằng cây là mẹ của lá, nhưng sau một hồi ngắm nhìn chiếc lá, tôi thấy rằng lá cũng là mẹ của cây. Rễ cây hút nhựa từ nước và khoáng chất nhưng thứ nhựa nguyên nầy không đủ để nuôi sống cây nên cây phải phân phát nhựa nầy cho các lá, và với sự hợp tác của ánh sáng mặt trời và không khí, lá biến chế nhựa nguyên thành một thứ nhựa gọi là nhựa luyện có khả năng nuôi sống cây. Vì vậy mà tôi thấy lá cũng là mẹ của cây. Chiếc lá được gắn vào cây bởi một cái cuống, cho nên mình thấy được dễ dàng sự liên lạc của hai bên.

Còn ta thì đã có cái cuống nhau ở bụng mẹ khi ta còn là một bào thai. Chính nhờ cái cuống nhau đó mà thức ăn và dưỡng khí được đưa vào bào thai. Khi ta sinh ra, người ta cắt mất cái cuống đó, và điều này cho ta cái ảo tưởng là ta được độc lập tự do, không còn bị lệ thuộc vào mẹ nữa. Thật ra ta vẫn là con của mẹ, và không những ta chỉ có một người mẹ, mà ta có rất nhiều mẹ. Trái đất cũng là mẹ của ta. Ta được gắn liền vào trái đất bởi rất nhiều cái cuống. Ta cũng có một cái cuống gắn ta vào với mây. Bởi nếu không có mây, làm sao có nước cho ta uống. Ta được tạo thành bởi bảy mươi phần trăm nước, vì vậy ta và mây cũng được gắn vào nhau. Ta còn được gắn vào với rất nhiều thứ khác, với dòng sông, với rừng xanh, với bác tiều phu, với bác nông dân, đủ cả không thiếu gì hết. Cả vũ trụ dang tay nuôi nấng ta, bảo bọc ta. Bạn có thấy tôi là bạn và bạn là tôi không? Nếu bạn không có mặt thì tôi cũng không có mặt. Điều đó quá hiển nhiên. Nếu bạn chưa thấy được như vậy, bạn cứ nhìn sâu thêm, bạn sẽ thấy.

Tôi hỏi chiếc lá: "Em có sợ mùa thu không, vì tới mùa thu, em sẽ phải rời cây?" Chiếc lá đáp: "Dạ không. Suốt mùa xuân và mùa hạ em đã sống rất đầy đủ. Em đã giúp cây hết lòng để cây được sống. Em thấy mình trong cây. Em thấy mình là cây, em không phải chỉ là một chiếc lá. Khi em trở về đất, em sẽ tiếp tục nuôi dưỡng cây. Em chẳng có gì phải lo sợ cả. Khi em rời cành bay bổng trên không, em sẽ vẫy tay chào cây: Ta sẽ gặp lại nhau một ngày rất gần."  Chiếc lá vừa nói xong thì một ngọn gió thoáng qua. Chiếc lá bay lượn nhẹ nhàng trước khi rơi xuống đất. Lá rất sung sướng khi thấy được lá là cây. Tôi cúi đầu chào lá, cảm ơn lá đã cho tôi một bài học quý giá.

Bồ tát vô úy

Có lần trong tù, đói quá, Thầy Quảng Độ nằm mơ thấy được nhà bếp cho một cái bánh bao.  Ăn xong thấy bụng căng thẳng, no nê, rất hạnh phúc. Sự thật là đêm ấy, trước khi đi ngủ, vì đói quá nên thấy uống nước cho đầy bụng dễ ngủ. Và Thầy đã đái dầm ra quần. Sáng hôm đó Thầy có làm một bài thơ.  Bài thơ như sau:

Cái bánh bao

Không có cái gì quý hơn cái bánh bao
Ăn ngon miệng, trông đẹp mắt làm sao!
Đang cơn đói ruột như cào
Bếp cho một cái, xực vào sướng ghê.
Bây giờ cái bụng căng thẳng  no nê
Lim dim cặp mắt đi vào cõi mê

Nhưng lạ thay
Tỉnh dậy nghe mùi khê khê
Và băng-ta-lông thấy dầm dề
Đúng rồi!
Thì ra tôi đã tê rê ra quần
Táo quân ơi hỡi táo quân
Tự do hạnh phút có ngần ấy thôi!

Thầy Quảng Độ trong khi ở tù và chịu đói vẫn còn đầy đủ tinh thần hài hước và trong cái hài hước đó còn có cái gan dạ tầy trời.  �Tự do hạnh phút có ngần ấy thôi!�. Thầy đã dám động đến chế độ. Thầy đã dám động đến chế độ. Tự do và hạnh phúc hứa hẹn chỉ là một cái bánh bao trong giấc mơ. Thầy chẳng biết sợ là gì. Cả với thần chết Thầy cũng không sợ. Có một lần nằm trong xà lim quán chiếu về cái chết của chính mình, thầy đã cười lớn. Thấy Thầy ngồi nói chuyện với tử thần một cách thanh thản, và còn nhận xét rằng thần chết cũng không dữ dằn gì mấy, trái lại còn có vẻ hiền hiền, so với những người trần gian mà tâm trạng đầy dẫy tham sân si. Tử thần trước khi rời Thầy đã hôn Thầy âu yếm trước khi từ biệt. Ta đã đọc bài thơ Nói chuyện với tử thần sau đây:

Nói chuyện với tử thần

Xà lim trong hệt cái nhà mồ
Mỗi lần mở cửa tôi ra vô
Thấy như chôn rồi mà vẫn sống
Tử thần, tôi sợ con cóc khô

Tử thần nghe vậy bèn sửng cồ
Nửa đêm đập cửa tôi mời “dô”
Sẵn có thuốc lào phèo mấy khói
Tử thần khoái trá cười hô hô

Trong khi vui vẻ tôi trò chuyện
Tử thần đắc ý nói huyên thuyên
Trần gian địa ngục ham chi nữa
Thôi hãy bay mau vào cõi tiên

Tớ xem tướng cậu cũng hiền hiền
Mà sao thiên hạ sợ như điên
Mỗi lần thấy cậu lò dò tới
Chúng nó hè nhau bỏ tổ tiên

Ấy cũng bởi vì chúng nó điên
Chớ anh coi tướng ta rất hiền
Đứa nào hết số ta mới rớ
Bảo chúng làm ăn đừng có phiền.

Tớ đây tuy có chút lo phiền
Nhưng mà cũng chẳng ham cõi tiên
Trần gian địa ngục tớ cứ ở
Mê loạn cuồng say với lũ điên

Trần gian ta thấy bết hơn tiên
Thân bị gông cùm tâm chẳng yên
Sống trong hồi hộp trong lo sợ
Dẫu phải thánh hiền cũng phải điên

Trần gian tớ thấy béo hơn tiên
Ấy cũng bỡi chúng có giấy tiền
Kim cỗ ngàn đời người vẫn thế
Có tiền đầy túi nó mua tiên

Mọi người còn đắm mộng triền miên

Hạ tuần trăng đã dọi vào hiên
Tử thần âu yếm hôn tôi biệt
Phóng ngựa ma trơi về hoàng tuyền

Còn một mình tôi vào cõi thiền
Lâng lâng tự tại cảnh vô biên
Bồ Đề phiền não đều không tịch
Niết Bàn sinh tử vốn vô biên

Thầy Quảng Độ không sợ thần chết, không phải vì thấy mình mạnh hơn thần chết. Các vô úy của Thầy do thiền quán mà có. Thầy đã nhiều lần thực tập quán chiếu bản chất của cái sống và cái chết. Thầy đã thấy sống và chết tương tức, nương nhau mà biểu hiện, không có cái này thì không có cái kia. Trong một giây phút quán chiếu, Thầy thấy đang sống cũng là đang chết và trong tự thân Thầy cái chết và cái sống đang đồng thời có mặt. Ta hãy đọc bài hát nói Sống Chết sau đây để có một ý niệm về cái chết và cái thấy của Thầy.

Sống chết

Mưỡu: Đời người như một giấc mơ
Tỉnh ra mái tóc bạc phơ trên đầu
Tuyệt mù xanh thẵm ngàn dâu
Gió tung các bụi tìm đâu lối về

Nói: Sống là thực hay là ảo mộng
Chết đau buồn nhưng chính thực yên vui
Cứ hàng đêm tôi nghĩ mãi không thôi
Chẵng biết nữa mình đang sống hay là chết

Hoàng lương nhất mộng phù du kiếp
Sinh tử bi hoan thục giác tri

Sống với chết là cái chi chi
Lý huyền nhiệm ngàn xưa mấy ai từng biết
Có lẽ sống cũng là đang chết
Bởi sống cũng trong tôi mà chết cũng trong tôi
Chết đeo mang từ lúc thai phôi
Nào đâu phải đến nấm mồ mới chết
Vì lẽ ấy sống: tôi không sợ chết
Vẫn thung dung sống chết từng giây
Nhìn cuộc sương, tuyết, khói mây

Lòng thanh thản như chim hoa người gỗ
Giữa biển trầm luân gió đồi sóng vỗ
Thân tùng kia xanh ngắt từng cao
Sống với chết nào khác chiêm bao
Lý nhất dị là hào quang bất diệt
Cũng có lẽ chết hẵn rồi mới biết
Sống đau buồn mà chết thật yên vui
Xin đừng sợ chết ai ơi!

Đã không sợ chết, đã thấy được tính tương duyên của sanh tử, thầy Quảng Độ có lý nào còn sợ và sợ ai, kể cả tù đầy, gông cùm và sự dọa nạt. Có một số vị xuất gia không có được đức vô úy của thầy lại cho thầy là dại, tại sao cứ lớn tiếng đòi nhân quyền, tại sao cứ lên tiếng chống độc tài áp bức, tại sao cứ phải đấu tranh cho sự tồn tại của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để rồi chuốc họa vào thân? Phải chăng thầy lên tiếng bởi thầy sân si? Họ nói: tu hành thì phải nhẫn nhục, lấy trứng mà chọi đá ít gì? Tại sao không thấy mũ ni che tai cho khỏe? Thầy Quảng Độ trả lời họ trong bài thơ Sân Si như sau:

Sân Si

Có một số tăng ni
Bảo là tôi sân si
Tu hành chẳng nhẫn nhục
Không hỉ xả từ bi
Luật vô thường là thế
Có thịnh thì có suy
Nay gặp thời mạt pháp
Đạo tất phải suy vi
Đó chính là chân lý
Buồn phiền mà làm chi
Chùa tượng thuộc hình tướng
Phật Pháp vốn vô vi
Ai phá mặt họ phá
Phật Pháp có hề gì
Tu hành nên nhẫn nhục
Trứng chọi đá ích chi?
Không gì hơn sự sống
Hãy sống với mũ ni
Xin cúi đầu phục mệnh
Lạy Đức Phật từ bi
Sự sống quý như thế
Mà sao con vô tri
Từ nay con vui sống
Dù sống chẳng ra gì
Miễn như mọi người khác
Khỏi mang tiếng sân si

Một số lớn trong chúng ta là người hèn nhát. Chúng ta không có được cái tuệ giác và cái vô úy của thầy Quảng Độ.  Lịch sử sẽ phê phán chúng ta như thế nào? Bằng đức vô úy lớn lao của thầy, thầy Quảng Độ đã cứu chuộc được cho tất cả chúng ta. Có thầy Quảng Độ ta mới dám ngửa mặt lên nhìn người  và mới dám nhìn thẳng vào con mắt của con cháu chúng ta.  Thầy Quảng Độ là vị Bồ Tát có khả năng cứu chuộc  được cho tất cả chúng ta, là redempteur, gột sạch được cho thế hệ ta cái tội hèn nhát không dám lên tiếng trước bạo lực, áp bức và độc tài. Tôi không bao giờ dám nghĩ là thầy Quảng Độ sân si.  Tôi nghiêng mình trước tuệ giác và đức vô úy của thầy. Cũng may là lịch sử hiện đại còn có thầy Quảng Độ và một số các thầy và các đạo hữu khác, hữu danh hay vô danh, có tầm vóc của những vị Bồ Tát. Tôi rất hãnh diện vì sự có mặt của họ. Tôi không nghĩ rằng thầy Quảng Độ là trứng chọi với đá. Tôi thấy thầy là kim cương. Đá không thể nào làm tổn hại được kim cương. Thầy là kim cương bất hoại dù hình hài thầy còn hay không còn hiển hiện. Tôi rất đồng ý với thầy là không có một chế độ độc tài cảnh sát nào có thể tồn tại lâu dài. Sự sụp đổ của một chế độ như thế chỉ là vấn đề thời gian.

Trong thời gian thầy Quảng Độ ở tù, tôi và các bạn bên này chỉ có thể một năm một lần vận động các giới nhân bản, tôn giáo và nhân quyền gửi một vài chục ngàn cho nhà nước Việt Nam để nhắc nhở rằng dư luận quốc tế rất ý thức rằng thầy và nhiều vị khác bị giam giữ, và nhà nước chịu hoàn toàn trách nhiệm về sự sống chết của thầy trong tù. Đó là phương tiện bảo vệ duy nhất để bảo vệ cho thầy và những vị Bồ Tát khác.

Thầy Quảng Độ là một trong những vị cao tăng của thời đại chúng ta. Năm nay thầy đã 72 tuổi, và thầy đang đứng ở một địa vị một bậc tôn túc. Thầy là một vị chân tu, thẳng thắn, chân thật không màng danh lợi, học và hạnh kiêm toàn. Tôi nghĩ các vị có trách vụ trong tổ chức Phật Giáo Việt Nam phải tới tham vấn thầy về đường lối Phật Giáo hiện đại. Tôi nghĩ các ông chủ tịch nhà nước, thủ tướng chánh phủ và chủ tịch quốc hội nên tới xin yết kiến thầy để tiếp nhận những lời chỉ dạy của thầy về sự phục hưng của nền đạo đức dân tộc và về hướng xây dựng tương lai của đất nước.

Hiện thời những giá trị tinh thần của chúng ta đã đổ nát, người dân không có chỗ nương dựa tâm linh. Niềm tin ở xã hội chủ nghĩa đã thật sự mất trong lòng người và cả trong lòng những vị trong ban lãnh đạo trung ương đảng. Có một khoảng trống lớn trong đời sống tâm linh.  Quốc dân không thể  một ngày không có niềm tin.  Mà niềm tin phải là chánh tín chứ không phải là mê tín dị đoan, dù là mê tính thần quyền hay ở tính vạn năng của một chủ thuyết.  Một số đông chỉ biết bám víu lấy sự lễ bái thờ phụng và tình trạng xã hội hiện thời đã trở nên thật hỗn tạp với bao nhiêu thối nát, hư hỏng mê tín.

Nhà nước chỉ cho cúng kiến lễ bái mà không cho phép hồi phục và xây dựng một nếp sống tâm linh có thể làm nền tản cho sự trị liệu và đi tới của dân tộc. Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng sau bao nhiêu ngày thao thức và dằn vặt cũng đã phải tìm đến chùa quy y với hòa thượng Đức Nhuận. Các vị lãnh đạo trong chánh quyền hiện tại cũng là con cháu của gia đình tin Phật.  Tôi nghĩ quý vị đó không nên đợi tới lúc về già mới nghĩ tới chuyện quy y Tam Bảo và hành trì Phật Pháp. Đạo Bụt rất có tinh thần khoa học. Nếu được phép làm mới đạo Bụt có thể trở nên một nguồn năng lượng vĩ đại đưa quốc gia dân tộc đi vào con đường thông cảm, thương yêu, lớn mạnh và hạnh phúc. Chúng ta phải thực tập đạo Bụt ngay từ bây giờ.

Tôi biết quý vị ấy cũng có những hạt giống tốt của Phật Pháp trong tự tâm. Nếu những hạt giống này được tưới tẩm và chăm sóc chúng sẽ trở nên một nguồn năng lượng của niềm tin và của tuệ giác có thể giúp quý vị lèo lái con thuyền quốc gia dân tộc đến bến bờ của an vui và hạnh phúc. Tuy bề ngoài các vị ấy đã lên án và xét xử thầy Quảng Độ như một tội phạm đã làm những điều có hại cho an ninh quốc gia, nhưng trong thâm tâm của các vị, tôi biết quý vị vẫn tôn kính thầy Quảng Độ như một bậc cao nhân có đạo hạnh và khí phách có thể làm gương mẫu cho người đồng thời và quý vị cũng ước ao có được tầm vóc đạo hạnh và khí phách như thầy. Vậy thì sao quý vị không làm như vua Quang Trung đã khẩn thiết đến cầu hiền với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp? Tâm trạng sợ hãi, nghi kị không cho phép đi tới một chánh sách thông minh và hữu hiệu.

Theo cái thấy của tôi, tới với thầy Quảng Độ với đầy đủ lễ nghi của những bậc cầu hiền, quý vị không làm mất thể diện của chánh quyền mà trái lại khiến cho cả quốc dân thấy được khả năng giác ngộ và cầu hiền của nhà nước và bắt đầu có niềm tin nơi sự lãnh đạo của các cơ quan lập pháp và hành pháp quốc gia.

Tôi không dám lên mặt dạy dỗ ai. Tôi chỉ muốn thỉnh lên một tiếng chuông chánh niệm.  Thức tỉnh kịp thời và đi vào con đường vương đạo thì các vị ấy sẽ đạt được sự thành công của bản thân, quốc gia và dân tộc. Nếu không thì lịch sử chỉ ghi lại được những lầm lỡ, gian trá, tham nhũng, tranh chấp và hận thù của một giai đoạn mà thôi.

Thầy Quảng Độ ơi, có thầy cho nên chúng tôi và con cháu của thầy sẽ không còn để cho sự hèn nhát kéo lôi và làm tê liệt.  Con cháu của thầy sẽ tiếp nối được tinh thần đạo đức và vô úy của thầy. Xin thầy cứ yên tâm.