Thời thơ ấu

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh, tên khai sinh là Nguyễn Đình Lang, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1926 trong một đại gia đình tại cố đô Huế, miền Trung Việt Nam[i]. Cha của Thầy là Nguyễn Đình Phúc, người làng Thành Trung (nay thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Ông làm quan trong triều đình nhà Nguyễn thời Pháp thuộc, đảm trách công việc di dân lập ấp. Mẹ là bà Trần Thị Dĩ, người làng Hà Trung, tỉnh Quảng Trị[ii]. Thầy là con áp út trong số sáu người con. Thầy có ba người anh lớn, một người chị và một em trai út sinh sau Thầy không lâu. Cho đến khi lên năm tuổi, Thầy sống trong nhà của ông bà nội cùng với đại gia đình gồm các chú bác và anh em họ. Đó là một ngôi nhà lớn có sân, vườn trong thành nội.

Năm Thầy lên bốn tuổi, cha của Thầy được phái đến vùng miền núi ở phía Bắc tỉnh Thanh Hóa, cách nhà khoảng 500 cây số, để giám sát việc khai phá rừng làm đất canh tác cho nông dân nghèo. Một năm sau đó, cả gia đình Thầy chuyển về huyện Nông Cống, Thanh Hóa để sống cùng với cha. Thầy học tiểu học ở đó và khi nghỉ hè thì đi học thêm ở các lớp dạy tư tại nhà. Thầy được ghi danh đi học với tên mà cha mẹ đặt cho là Nguyễn Đình Lang. Vốn hiếu học, ngoài giờ ở trường, Thầy còn dành thời gian rảnh để trau dồi thêm quốc ngữ, tiếng Pháp và tiếng Hán cổ. Thầy thích thú đọc những cuốn sách hay những tờ báo Phật giáo mà anh Nho, anh trai của Thầy, đem về nhà. Đây là người anh mà Thầy rất thương kính và ngưỡng mộ. Anh Nho cũng dạy Thầy cách vẽ truyền thần, thậm chí còn dạy Thầy cả cách chụp và rửa ảnh từ một cái máy do anh tự chế.

Trong nhiều bài pháp thoại sau này, Thầy thường nhớ lại một khoảnh khắc vô cùng quan trọng, có lẽ vào năm Thầy lên chín tuổi, đó là khi Thầy tình cờ nhìn thấy hình Bụt trên bìa của một tạp chí Phật giáo mà anh Nho mang về. Hình ảnh Bụt ngồi thật an nhiên trên bãi cỏ với nụ cười từ bi đã chiếm lấy tâm trí của cậu bé và để lại trong cậu một dấu ấn sâu đậm về sự bình an và tĩnh lặng. Hình ảnh ấy thật tương phản với những khổ đau và bất công mà cậu nhìn thấy xung quanh mình, trong bối cảnh đất nước nằm dưới sự đô hộ của người Pháp. Bức hình đã đánh thức ước muốn rất rõ ràng và mãnh liệt trong lòng cậu bé, ước muốn được giống như Bụt – hiện thân của sự tĩnh lặng, bình an, thảnh thơi – và có thể giúp những người xung quanh cũng làm được như vậy[iii]. Năm Thầy khoảng mười một tuổi, vào một buổi tối sau khi ăn cơm xong, Thầy cùng các anh trai và hai người bạn ngồi chơi, trò chuyện với nhau về ước muốn mình sẽ làm gì khi lớn lên. Có người muốn làm bác sĩ, có người muốn làm luật sư. Anh Nho của Thầy là người đầu tiên trong nhóm muốn trở thành một người tu. Ban đầu, ý tưởng đi tu thật là mới mẻ với những người còn lại trong nhóm, nhưng sau một hồi nói chuyện với nhau thì cả nhóm đều đồng ý là sẽ đi tu hết. Sau này Thầy có nói: “Trong buổi nói chuyện đó, có một ước muốn đi lên trong thầy rất rõ ràng. Thầy biết là tận sâu trong lòng mình, thầy muốn làm một người tu”[iv].

Khoảng sáu tháng sau đó, trong một chuyến đi dã ngoại do trường tổ chức tới một ngọn núi thiêng trong vùng, cậu bé đã có được sự trải nghiệm tâm linh đầu tiên, theo như Thầy diễn tả sau này[v]. Khi các bạn cùng lớp ngồi ăn trưa, cậu đã háo hức một mình đi khám phá ngọn núi này, vì nghe nói có một ông đạo sống trên núi[vi]. Cậu không tìm được ông đạo nhưng, vừa khát vừa mệt, cậu tình cờ thấy một cái giếng thiên nhiên có nước rất mát và tinh khiết. Cậu bé vốc nước uống rồi nằm xuống tảng đá cạnh bên ngủ một giấc ngon lành. Trải nghiệm đó đem đến cho cậu một cảm giác mãn ý vô cùng sâu sắc. Cậu có cảm tưởng mình đã gặp được ông đạo dưới hình thức cái giếng và đã tìm được một thứ nước ngon nhất trên đời để thỏa mãn cơn khát[vii]. Trong đầu cậu bé đi lên một câu tiếng Pháp: J’ai gouté l’eau la plus délicieuse du monde (tôi đã nếm được thứ nước ngon nhất trên đời). Từ ngày ấy trở đi, cậu nuôi ước muốn xuất gia.

Năm Thầy lên 12 tuổi, anh Nho quyết định xuất gia. Con đường mà anh Nho – người anh mà thầy vô cùng quý kính – chọn để bước đi đã gây cảm hứng cho Thầy. Anh Nho xuất gia tại chùa Đại Bi ở Thanh Hóa, cách nhà khoảng 15km[viii]. Thời gian đó, rất khó để cha mẹ chấp nhận chọn lựa này của anh Nho, bởi vì cha mẹ biết rằng cuộc sống của một người xuất gia có thể rất khó khăn. Dù vậy Thầy vẫn muốn xuất gia cùng với anh, nhưng Thầy đã chờ cho đến khi được cha mẹ cho phép. Mặc dù tuổi còn nhỏ nhưng những bài viết và các câu chuyện Phật giáo mà Thầy được đọc đã gây cảm hứng và cho Thầy ý tưởng là đạo Bụt có thể giúp mang lại nhiều công bằng, tự do và thịnh vượng hơn cho xã hội Việt Nam[ix]. Không lâu sau đó, anh Nho đã được Ôn Trú trì chùa Đại Bi, Thiền sư Trừng Pháp Chân Không gửi đi Huế để tiếp tục tu học tại chùa Từ Hiếu. Thầy rất háo hức muốn được đi cùng. Cuối cùng thì cha mẹ đã đồng ý cho Thầy thực hiện ước mơ xuất gia, Thầy theo anh Nho vượt 500 cây số đường dài ngược về phía Nam.

Năm 1942, lúc 16 tuổi, Thầy được xuất gia với thầy bổn sư là thiền sư Chân Thật (1884-1968), thuộc dòng thiền Lâm Tế chánh tông và phái Liễu Quán[x]. Lúc mới vào chùa, Thầy được gọi là Điệu Sung. Ba năm sau, vào sáng sớm ngày rằm tháng 9 (âm lịch) năm 1945, Thầy chính thức được thọ giới sa di. Khi thọ Năm giới, Thầy được nhận pháp danh là Trừng Quang, nghĩa là ánh sáng tịch tĩnh. Khi thọ giới sa di, Thầy được bổn sư đặt pháp tự là Phùng Xuân 逢春, có nghĩa là “đi gặp mùa xuân“. Đây là tên mà Thầy được gọi trong chùa.

 

 

 

[i] Thầy thuộc thế hệ thứ 15 của dòng họ Nguyễn Đình. Trong dòng họ của Thầy có nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu – một danh nhân của Việt Nam – thuộc thế hệ thứ 9 của dòng họ Nguyễn Đình.

[ii]Bà có pháp danh là Trừng Thính. Cha mẹ của Thầy đã thọ Năm Giới khi lên thăm Thầy tại chùa Từ Hiếu vào dịp Tết Nguyên đán năm 1947.

[iii] Tờ báo đó là tờ Đuốc Tuệ. Câu chuyện này đã được ghi lại trong cuốn sách A Pebble for Your Pocket (2001).

[iv] Pháp thoại của Thầy, ngày 8.6.1992

[v] Thầy đã kể câu chuyện này trong buổi vấn đáp tại trường đại học Brock, Toronto, Canada vào ngày 15.8.2013; cũng như trong buổi vấn đáp ngày 19.7.2009 tại Làng Mai, Pháp.

[vi] Ngọn núi đó có tên là Núi Na, ở Thanh Hóa. Câu chuyện về ông đạo ở Núi Na đã từng xuất hiện trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ – một danh sĩ ở thế kỷ 16. Có thể nó dựa trên một câu chuyện có thật về một vị quan đời Trần lui về ẩn cư trên núi vào thế kỷ 14. Để tìm hiểu thêm, xin xem tại đây.

[vii] Câu chuyện này đã được kể lại trong tác phẩm The Hermit and the Well (2001).

[viii] Anh Nho xuất gia với Thiền sư Trừng Pháp Chân Không tại chùa Đại Bi ở Thanh Hóa, với pháp danh là Thích Giải Thích. Nhiều thập kỷ sau, vào năm 2010, Thầy đã lấy tên Chùa Đại Bi để đặt cho nơi ở của quý sư cô ở Viện Phật học Ứng dụng châu Âu (EIAB) tại Đức.

[ix] Một trong những tạp chí Phật học mà Thầy được đọc lúc khoảng 9 tuổi là tờ Đuốc Tuệ, trong đó có những bài viết về Nhân gian Phật giáo, tức là đề tài Phật giáo đi vào cuộc đời. Trong bài pháp thoại được đăng trên Mindfulness Bell #08, mùa xuân 1993, với tựa đề “Cultivating our Deepest Desire”, Thầy chia sẻ: “Tôi nhớ trong tờ báo đó có một loạt bài viết về chủ đề đạo Bụt đi vào cuộc đời – một đạo Bụt được thực tập trong gia đình và xã hội mà không chỉ trong chùa mà thôi. Những bài viết ấy đã thắp lên trong tôi ước muốn tỉnh thức, giác ngộ.”

[x] Thiền sư Chân Thật thuộc thế hệ 41 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 7 của phái Liễu Quán. Thiền sư có pháp danh là Thanh Quý 清季, pháp tự là Cứu Cánh 究竟 và pháp hiệu là Chân Thật 真寔.